SƯ SÃI HỔ PHẬT GIÁO
ẤN QUANG "TAY SAI VC" THA HỒ LÀM LỌAN MỖI NGÀY Để PHÁ HOẠI MIỀN NAM
… Nhưng đến khi
phật tử PGAQ ( Dương Văn Minh) vâng lời các thầy hổ mang giao miền Nam cho VC
thì cũng là đến giờ tàn hung hăng của PGAQ; Thích Thiện Minh bị "quả
báo" trước tiên...Không biết khi bị VC trả ơn ông đã giúp VC cướp được
miền Nam bằng cách tống ông vào tù, tra tấn, rồi treo cổ...trước khi chết, ông
có nhớ đến những năm tháng "Huy hoàng" của PGAQ là đã tha hồ âm mưu,
vu khống, làm hại Quốc Gia VNCH, xách động Phật tử làm lọan, phá rối nền an
ninh của quốc gia, làm tay sai cho cộng sản, giết hại dân lành, nuôi VC trong
chùa, cạo đầu VC cho chúng đội lốt sư sãi, ép buộc sư sãi "tự thiêu,"
đưa bàn thờ ra để ngoài đường, lăn mình vào bánh xe để chận đường không cho
lính đi đánh VC, không cho xe cứu thương, cứu hỏa đi cứu sư "tự
thiêu."
Tội ác của sư sải hổ mang Phật Giáo Ấn Quang không kể xiết. Từ chuyện âm mưu
những trò "tự thiêu" để sát hại TT Diệm cũng là do thầy trò Phật Giáo Ấn Quang, dùng
nhà chùa làm căn cứ cho VC tấn công miền Nam cũng là do Phật Giáo Ấn Quang. Nếu không có sự
góp tay của Sư Sãi Phật Giáo Ấn Quang một số Bắc kỳ Phật tử di cư 54 vô ơn thì QG Miền Nam
đã không xảy ra mất nước vào tay CS.
Những sư sãi hổ
mang này "chẳng dám" giết đến 1 con "muỗi" nhưng lại chuyên
"Giết hại người lành" và làm viêc độc ác cho quỉ Satan và quỉ Đỏ Cộng
Sản...
Vụ án Thầy Thích Thiện Minh chết trong ngục tù CS 1
Năm 1972 Thích Thiện Minh và Thích Trí Thủ cùng nhau đến nhà một phật tử và gặp
một cụ thầy tướng, tác giả Bách Linh cũng có mặt nơi đây kể lại cuộc đối thoại
như sau : sau khi được giới thiệu với cụ thầy tướng số, Thích Thiện Minh hỏi
ngay:
-“ Ông coi liệu tôi có làm tổng thống được không ? Liệu chừng nào tôi có thể ta
làm tổng thống”?
Tác giả Bách Linh:
-"Mấy thầy đi tu rồi, thì ham công danh, làm tổng thống làm cái gì?”
Thích Thiện Minh trả lời:
-“Thì sấm Trạng Trình nói: thầy tăng ra mở nước. Thì đó là nói sư tăng chúng
tôi ra làm việc nước, lãnh đạo, làm tổng thống chứ gì nữa?”
Lúc đó thì Thích Trí Thủ kéo Thích Thiện Minh qua hỏi chuyện với thầy tướng số.
Vài năm trước đó, xe của Thích Thiện Minh bị đặt chất nổ và bị ám sát hụt nên
di khập kiểng.
Thích Thiện Minh bị Thích Trí Quang ra lệnh cho công an giết năm 1978 vì chính trịi tham vọng muốn làm tăng thống GHPGVNTN rồi trở thành tổng thống.
Thích Thiện Minh bị Thích Trí Quang ra lệnh cho công an giết năm 1978 vì chính trịi tham vọng muốn làm tăng thống GHPGVNTN rồi trở thành tổng thống.
Thích Trí Thủ bị phe Ấn Quang giết chết bằng độc dược năm 1984.
[Tóm tắt trong Thế Chiến Lược Việt Nam năm 2006- Kế Hoạch Xâm Lăng và Diệt
Chủng Việt Nam của Bắc Kinh- Tác giả Bách Linh –chương 23 trang 242]
Nhà sư Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng) chết trong ngục tù cộng sản, 30 năm trôi
qua (1978-2008) mà vụ án vẫn còn chìm trong bóng tối. Đến nay hệ quả chung
quanh vấn nạn còn ảnh hưởng đến nhiều người; nó chính là luận đề luôn mời gọi
nghiên cứu sinh tiến sĩ, học giả tham gia góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch sử
Việt nam và Phật giáo Việt nam; nó cũng là biến cố cuốn hút với nhiều người
theo nhiều cách nhìn khác nhau. Từ lãnh tụ tôn giáo đến Tăng, ni, Phật giáo đồ
bởi nhiều lý do mà trên hết chân dung vấn nạn nầy gợi lên gam màu rõ nét về
cách hành xử bạo ác của chế độ XHCN với nhà lãnh đạo tôn giáo – Phật giáo; cách
“xuống tay” bất nhân vì nó đơn thuần chỉ là một vụ “bị tình nghi về chính trị”.
Cho nên, với nhà nước XHCN, vụ án Thích Thiện Minh là một vấn nạn cần phải được
che lấp, xóa nhòa; Với các đảng phái chính trị, các đoàn thể dân sự, nói chung
là các tổ chức quần chúng đối kháng XHCN thì vụ án Thầy Thích Thiện Minh (1978)
cũng như vụ án Linh Mục Nguyễn Kim Điền (1988) là ngọn cờ khơi dậy lòng yêu quê
hương dân tộc và tôn giáo trước bảo vũ quốc nạn với pháp nạn Việt nam. Hơn ai
hết, với Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN), cái chết của nhà Sư
Thích Thiện Minh ngày 18 tháng 10 năm 1978 là vụ án oan khuất, thương tâm cần
phải được giải bày để làm rõ tính công minh pháp luật, trả lại sự công minh cho
Phật giáo; trên hết phải nói rằng đây là một Đại biến cố với Giáo hội Phật giáo
Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN).
Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN
(1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973). Cố vấn Ban chỉ đạo VHĐ
(22-01-1977). “Thượng Tọa đã bị tra tấn cho đến chết ngay ở Sàigòn, tại Trại X4
(ở đường Nguyễn Trãi, SG) là trại thẩm vấn (hiểu là tra tấn) và tạm giam trước
khi phân phối qua các nhà tù hay trại tập trung. [Sau đó] cộng sản đã chở xác
Thượng Tọa [đến khám Chí Hòa, Sài Gòn, nhưng khi xe chở xác Thầy vừa đến cỗng
khám Chí Hòa thì “có lệnh trên” phải tức tốc chuyển ngay] ra Hàm Tân [Phan
Thiết] để đánh lạc hướng biểu tình của Phật tử ở Sàigòn đang sôi động sau những
ngày Thượng Tọa bị bắt. [ * ]
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn
mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích
Thiện Minh, Thích Minh Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện hòa
quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nhìn: Thích Trí Quang (phụ
trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích
Minh Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ
tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam. Thực tế thì GHPGVNTN bấy giờ
không phải là một khối. Chính Thầy Thích Tâm Châu đã xé nát GHPGVNTN ra làm hai
mảnh mà hệ quả điêu linh không phải là nhỏ và di chứng nó, đến nay chưa dứt.
Theo Ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa XHCN Việt nam thì có 2 Phật
giáo: “Thống nhất với Phật giáo cách mạng chứ thống nhất làm gì với bọn Phật
giáo phản động. Như vậy, “Phật giáo phản động” mà Cộng sản kết án thông qua
miệng Nguyễn Văn Hiếu, chính là GHPGVNTN Huyền Quang – Quảng Độ, Thầy Thích
Thiện Minh thuộc Giáo Hội nầy và là Thánh tử đạo thời pháp nạn XHCN. Hơn 30 năm
trôi qua (1978-2008) đến nay, chung quanh vụ án còn nhiều ẩn số mà những kẻ
“dấy máu ăn phần” trong vụ án nầy còn đang dấu mặt, họ tiếp tục gây phân hóa
GHPGVNTN trong và ngoài nước mà chùa Phật giáo Việt nam, Houston, Tesax, Hoa kỳ
của Thầy Thích Nguyên Hạnh, là một trong những “bãi đáp” được đặc tình Thích
Thông Kinh bao thầu kinh tài “trọn gói”. Xin hỏi “Bát đại Huề thượng” xã nghĩa:
họ là ai? [ * ]
1. Bối cảnh pháp nạn chung quanh cái chết Thầy Thích Thiện Minh
Sau 1975 cộng sản vào thành, lúc XHCN “cờ thắng trong tay” cũng là lúc GHPGVNTN
(Phật giáo Ấn Quang, nhóm theo lập trường dân tộc) bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật. Điều nầy cũng có nghĩa là ngay cái ngày 30-04-75 nhà nước XHCN đã không
nhìn nhận sự có mặt của GHPGVNTN rồi. Khơi nguồn pháp nạn XHCN cũng bắt đầu từ
đó nỗ ra và lan rộng toàn quốc từ Quảng Trị đến Cà Mau rồi đưa đến cái chết của
nhà sư Thích Thiện Minh là một điển hình.
Nhà tù XHCN với GHPGVNTN mở ra mô thức ngục tù mới gọi là “Nhà tù 4 phòng”: 1.
“Sống không nhà; 2. Chết không mồ; 3. Đi không đường; 4. Tù không tội; Ngoài ra
còn có “nhà tù di động” (lúc nào công an cũng bám theo thành viên GHPGVNTN);
Rồi “nhà tù bay” là loại đã áp tải Thượng tọa Thích Không Tánh từ Hà Nội về Sài
gòn (2007); là loại nhà nước dự kiến áp tải Ngài Thích Huyền Quang, Tăng thống
GHPGVNTN ra Hà Nội để đưa lên ngôi Pháp chủ năm 2007. XHCN cướp giựt toàn bộ
giáo sản Giáo Hội nầy từ tỉnh Quảng Trị đến Cà Mau. Các cơ sở Từ thiện (như Cô
nhi viện Quách Thị Trang), Cơ sở giáo dục (như Viện Đại học Vạn Hạnh, hệ thống
Trung tiểu học Bồ Đề), Cơ sở xã hội (như lớp học Tình thương) v.v… Pháp nạn
diễn ra thật kinh hoàng, khủng khiếp. Chỉ trong vòng 22 tháng (từ tháng 05-1975
đến tháng 03-1977), Viện Hóa Đạo đã có đến 85 (tám mươi lăm) Kháng Thư gởi đến
nhà nước CHXHCNVN, thế nhưng không có vụ án nào được xét xử cả. Tiếp sau đó,
Nhà nước tiến hành Thống nhất Phật giáo theo mô hình đưa chính trị vào tôn
giáo, áp lực Phật giáo nằm trong Mặt trận tổ quốc, Quí Thầy Thích Đôn Hậu, Thầy
Thích Thiện Minh, Thầy Thích Huyền Quang, Thầy Thích Quảng Độ, phản kháng quyết
liệt, biến cố đã đặt GHPGVNTN trước cơn bảo lũ pháp nạn thảm khốc. Tiếp đến,
1975-05. Liên hiệp thanh niên, sinh viên Sàigòn Gia Ðịnh chiếm cứ Văn phòng
Tổng vụ Thanh niên (Trung Tâm Quảng Ðức ở số 294 Công Lý Sàigòn) của Thầy Thích
Thiện Minh.
1976-07-22 Thủ Tướng Phạm văn Đồng ban hành Quyết định QĐ 310/TT.G theo đó Tu
sĩ các tôn giáo tuổi từ 18 đến 25 phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Kết quả là
hàng ngàn Tăng sĩ trẻ Phật giáo trên khắp đất nước đặc biệt là miền Trung và
Nam Việt Nam phải lên đường tòng quân, một số không muốn cởi áo ca sa trở về
thế tục đã phải sống trốn tránh ở các địa phương khác trong tình trạng không có
giấy tờ tuỳ thân, không nơi cư trú. Thậm chí nhà sư phải lang thang hè phố,
sống vô gia cư, hiện trạng bấy giờ đã gợi lên chân dung tôn giáo XHCN thật thảm
não.
1977, Thầy Thích Thiện Minh cố vấn Viện Hóa Đạo (VHĐ) ra thông cáo phản đối
việc nhà nước buộc Tăng sĩ trẻ đi nghĩa vụ quân sự.
1977-01-21. Đại hội 7, GHPGVNTN, Thầy Thích Thiện Minh giữ chức Cố vấn VHĐ,
GHPGVNTN
1977-03-11 Nhà nước chiếm dụng toàn bộ trụ sở (05-1975 chỉ chiếm có 1 phần)
Tổng Vụ Thanh niên (đường Công Lý), tống xuất Thầy Thích Thiện Minh, Tổng vụ
trưởng Tổng vụ Thanh niên ra khỏi trụ sở và xóa bỏ quyền cư trú của ngài (xóa
tên trong sổ gia đình cũ, không cho lập sổ hộ khẩu mới), Thầy Thích Thiện Minh
đã phải lang thang rày đây mai đó, từ chùa viện đến niệm Phật đường. Thế nhưng
đến đâu Thầy cũng bị công an xua đuổi bằng cách gây khó khăn với các vị trú trì
chủ hộ nơi mà Thầy dừng chân, tạm nghĩ.
1977-04-09. Thông cáo VHĐ/TC/VP
Thầy Thích Thiện Minh phát “Lời kêu gọi 6 điểm bảo vệ Nhân Quyền tại nước
CHXHCNVN” gởi đến nhà cầm quyền CSVN đòi hỏi:
1. Thả tù nhân chính trị, tôn giáo và hàng trăm ngàn người khác đang ở trong
các trại cải tạo.
2. Thi hành nghiêm chỉnh chính sách tự do
tín ngưỡng.
3. Chấm dứt tình trạng tham nhũng của nhân viên chính quyền các cấp.
4. Cho phép những người có khả năng, những người không phải đảng viên của Cộng
sản được phép tham gia vào công cuộc xây dựng xứ sở theo khả năng chuyên môn.
5. Yêu cầu cho phép các tu sĩ và tín đồ thuộc các tôn giáo được tiếp tục làm
các công tác xã hội mà không phải từ bỏ tôn giáo tín ngưỡng của mình.
6. Phá bỏ mọi bất công, kỳ thị giữa các đảng viên cộng sản và nhân dân. Mọi
người đều có quyền công dân.
1977. Thầy Thích Trí Thủ cho biết là “Mặt trận mời tôi với tư cách Viện trưởng
Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN” tham gia Thống nhất Phật giáo, Hòa thượng đưa việc đó ra
hỏi ý kiến Hội Ðồng Viện Hóa Đạo, Thầy Thiện Minh nhân đó xin phát biểu:
“Xin Hòa thượng Viện Trưởng đừng đưa việc đó ra đây làm khó chúng tôi ”
Hòa thượng Trí Thủ hỏi lại: "Làm khó cái gì?"
Hòa thượng Thiện Minh thưa: " Nếu Hội Ðồng nầy đồng ý để Hòa thượng làm
việc đó với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, tức là đồng ý dẹp bỏ Giáo Hội này
sau khi Giáo Hội mới thành lập. Còn nếu không đồng ý, thì có sự khó khăn đến
với các vị trong Hội Ðồng và cả Giáo Hội ta nữa. Vậy Hòa thượng nên tự ý lựa
chọn và làm với tư cách cá nhân của Hòa thượng mà thôi. Chúng tôi không thể nói
nên hay không nên trong việc nầy".
Lúc bấy giờ trong cuộc họp không ai có ý kiến gì khác, coi như mặc nhiên đồng ý
với Thầy Thiện Minh đã nói. [ * ]
1977? Mai Chí Thọ Giám đốc công an Thành Phố HCM, trong cuộc họp với Phật Giáo,
ông Thọ đã tuyên bố:
“Có thể quý thầy nói hàng ngàn người nghe, chúng tôi nói không ai nghe, nhưng
chúng tôi có súng, có nhà lao, có quân đội. Tất cả chúng tôi có trong tay. Liệu
các thầy có chống đối được không và chống đối đến bao giờ?”
Thầy Thích Thiện Minh trả lời:
“Tôi nghĩ rằng có lẽ ông đã nói sai. Hơn ai hết ông biết rằng trong suốt thời
gian đương đầu với Pháp và với Mỹ, kẻ khác chứ không phải là ông đã nói ra
những câu tương tự như vậy. Lịch sử đã chứng minh rằng súng đạn và nhà tù không
phải là tất cả, lại càng không phải là yếu tố tất thắng. Một Ngô Ðình Diệm với
9 năm cai trị bằng mật vụ; một Tần Thủy Hoàng với chính sách bạo ngược đốt
sách, chôn học trò. Kết quả như thế nào? Ðúng, chúng tôi, một tất sắt cũng
không có trong tay và các ông thì có tất cả. Nhưng chúng tôi biết bài học lịch
sử".
Cùng với Viện Hóa Đạo, Thầy Thiện Minh đã phản kháng mạnh mẽ trước những áp lực
nặng nề của nhà nước XHCN giáng xuống GHPGVNTN. Những biến cố như thế đặt Thầy
Thích Thiện Minh trước vô vàn nguy hiểm! Rồi Thầy bị bắt ngày 13-04-1978, bị
giam giử, tra tấn và …
2. Thầy Thích Thiện Minh, Những năm tháng cuối đời.
Thầy Thích Thiện Minh bị bắt ngày 13 tháng 4 năm 1978. Bị giam giữ, tra tấn dã
man ròng rã suốt 6 tháng trường, Thầy mất ngày 18-10-1978. Cộng sản buộc Thầy 3
việc:
1. Âm mưu đứng ra tổ chức chống phá cách mạng? và
2. Ký giấy giải tán Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất.
3. Thầy phải giao nộp con dấu Viện Hóa Đạo cho họ. Nhưng Thầy đã cương quyết
không chấp thuận.
Chúng hỏi Thầy tại sao không chấp nhận. Thầy Thích Thiện Minh đã trả lời “Giáo
Hội là Giáo hội của Phật tử. Các ông bảo chúng tôi ký giấy giãi tán Giáo Hội
thì làm sao chúng tôi dám ký. Phật tử đã bầu chúng tôi làm Quyền Viện Trưởng
Viện Hoá Đạo nhưng Giáo Hội không phải của riêng tôi. Nếu các ông muốn chúng
tôi ký giãi tán Giáo Hội thì các ông hãy thả tôi ra, cho tôi triệu tập Phật tử
để hỏi họ có bằng lòng giải tán Giáo Hội không?”
Thầy Thích Thiện Minh vừa nói xong tức tốc bọn công an Việt cộng đánh bể hai
hàm răng, đập đầu Thầy vào tường hết sức tàn bạo và Thầy đã ngất đi. Sau đó
chúng đổ nước cho tỉnh lại rồi tra tấn tiếp.
Tên công an gằn giọng:
- Tôi hỏi lần cuối cùng: Ông có chịu ký vào biên bản nhận mình có âm mưu đứng
ra tổ chức chống phá cách mạng không? Thượng Tọa Thiện Minh lắc đầu: Không.
Tên công an đập bàn quát:
- Đụ Mẹ mày ngoan cố hả?
Thượng Tọa Thiện Minh vẫn điềm đạm:
- Tôi không ngoan cố. Tôi chỉ đòi hỏi ông nêu ra những bằng cớ chính xác chứng
minh là tôi đứng ra âm mưu tổ chức chống phá cách mạng. Thế thôi.
Tên công an gừ gừ mấy tiếng trong cổ họng nhưng cuối cùng hắn vẫn nín khe. Hắn
guờm gườm nhìn vị Thượng Tọa ốm yếu đang ngồi xiêu vẹo trước mặt. Đôi long mày
sâu róm của hắn cau lại, đôi môi giật giật liên hồi, mắt hắn long lên như đổ
lửa. Rồi hắn đúng dậy, rít lên trong kẻ răng:
- Được, mày muốn, ông sẽ chứng minh cho mày thấy.
Hắn quay ra ngoài, gọi lớn:
- Đính đâu?
Một tên công an mặt mũi non choẹt nhưng hung ác te tái chạy vào:
- Thưa thiếu tá, có em.
Tên thiếu tá công an nhìn Thượng Tọa Thiện Minh, hất hàm:
- Đánh.
Không cần lời ra lệnh thứ hai, Đính hiểu ngay. Hắn bước từng bước chậm chạp lại
gần thầy Thiện Minh. Thầy cố trấn tỉnh chờ đợi. Thầy nghe tiếng chân hắn khua
trên nền gạch. Thầy nhìn bàn tay hắn co lại. Và thầy thấy hình như cánh tay hắn
vung lên. Thầy bật người ra sau, ngã sóng soài dưới đất. Mắt hoa lên thấy cả
một trời sao lấp lánh. Hai vệt máu từ từ lăn ra hai bên khoé miệng. Thầy rán
lồm cồm bò dậy. Đính lặng yên đứng ngó: hắn đang chờ lệnh tiếp. Tên thiếu tá
công an hất hàm:
- Tiếp.[hết trích]
(Bảo Trâm, [Lê Xuân Thuấn Kể], Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh, đd, tạp chí
Quê Mẹ số 90 & 91, Paris, 1988)
Thầy bị đánh đập dập nát mặt mày, vỡ đầu, bị hành hạ đến sa sút, tiều tụy. Sau
đó bị biệt giam trong phòng tối tăm, lột bỏ quần áo mà Thầy vẫn kiên cường đối
kháng cho đến chết.
Dính dự trực tiếp đến cái chết của Thầy Thiện Minh là công an thành phố, trại
X4 Sài gòn. Chính tên Đính công an chấp pháp, ra tay đánh chết Thầy Thiện Minh
và 1 tên Thiếu tá truyền lệnh và chứng kiến cho tên Đính hành sự; tên Thiếu tá
nầy lại nhận lệnh từ cấp trên là Lê Thanh Vân (Ba Vân?, con của sư Thích Thiện
Hào, chùa Xá Lợi, TP thành Hồ, Phật giáo quốc doanh). Thảm sát cố Hoà Thượng
xong bọn công an Việt công chuyển xác Thầy từ trại tạm giam X4 (số 258 đường
Nguyễn Trãi) quận 1, công an thành phố về khám Chí Hòa. Thế nhưng khi xe chuyển
xác vào đến sân khám Chí Hòa thì có “lệnh trên” bảo phải tức tốc chuyển ra Hàm
Tân, Phan Thiết. (Bảo Trâm, [Lê Xuân Thuấn kể], Câu chuyện Thầy Thích Thiện
Minh (xem phụ lục cuối bài). Nhân đây cũng nên tra cứu xem, trưởng phòng chấp pháp
trại X4, công an TP vào năm 1978 là ai? Lật lại hồ sơ công tác chuyển tử tội Đỗ
Xuân Hàng (Thích Thiện Minh) từ khám Chí Hòa – Hàm Tân tháng 10-1978 là gồm
những ai?
Hai hôm sau, Thầy Thích Trí Thủ, chùa Già Lam, Gò Vấp, Viện trưởng VHĐ nhận
được Giấy báo tử của phường, giấy chỉ có mấy dòng chữ:
“Ông Đỗ Xuân Hàng, tên đạo là Thích Thiện Minh, sinh năm 1921 tại Quảng Trị,
chết tại trại giam Hàm Tân thuộc huyện Hàm Tân tỉnh Thuận Hải vào ngày
18.10.1978. Lý do: bệnh” (câu chuyện Thầy Thiện Minh đd). “Trước sân chùa Quảng
Hương Già lam ở Gò Vấp, Hòa Thượng Thích Trí Thủ cầm tờ giấy báo tử mà cứ ngơ
ngẩn như xuất thần. Ông đọc đi đọc lại tờ giấy mỏng dính, vàng khè ấy không
biết bao nhiêu lần. Vẫn có chừng ấy chữ. Nội dung thật vô cùng đơn giản. Thế mà
nỗi thương tâm đau tận ngút ngàn”.
Thầy Thích Trí Thủ cùng với vài vị Tăng trong Giáo hội cùng đi theo đoàn ra Hàm
Tân nhận xác Thầy Thiện Minh. Theo người biết chuyện, Thượng tọa Thích TS (nghe
nói cũng từng du học Ấn Độ, hiện nay định cư Hoa Kỳ) người đã từng thăm nuôi
trường kỳ Thầy Lê Mạnh Thát lúc Thầy Thát còn trong nhà tù (Lê Mạnh Thát bị đi
tù năm 1984) thì trong chuyến đi ra Hàm Tân bấy giờ có tiến sĩ Lê Mạnh Thát và
người tiếp theo trong danh sách được nhận diện là Thượng tọa Thích Trí Quảng,
chùa Ấn Quang, người đại diện cho Phật giáo Ấn Quang). Lúc bấy giờ nhà nước
phân công tác cho Thầy Trí Quảng đại diện Phật giáo Ấn Quang. Thầy Trí Quảng
cũng có mặt trong chuyến đi Cần Thơ trong âm mưu “hợp thức hóa” vụ án 12 vị
Tăng ni Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ tự thiêu cùng lúc vào tháng 11-1975.
Thầy Thích Trí Thủ với công an Hàm Tân, Phan Thiết:
Hòa thượng: xin được vuốt mặt người quá cố. Công an Hàm Tân không cho; Xin mang
thi hài người đã mất về mai táng, cũng không cho; xin tham dự buổi lễ mai táng,
cũng không cho; xin tụng 1 thời kinh ngắn cho người mất, cũng không cho. Tất
cả, công an đều không cho với lý do: “Cho dù đã chết, ông Đỗ Xuân Hàng vẫn là 1
tội nhân”, mà tội nhân thì Nội qui trại không cho những yêu cầu như thế. Sau
đó, thi thể của Thầy Thiện Minh bị chôn nhanh tại trại tù Hàm Tân, Phan Thiết
và mọi dấu vết đã được xóa sạch. Đã thế, cộng sản cũng chưa “an lòng”. Về sau,
họ xúi Thầy Thích Minh Nghị, công an nằm vùng Viện hóa Đạo, cải táng Thầy Thiện
Minh đem đi thiêu lại, để sau nầy không còn có thể khám nghiệm tử thi được nữa
(Thích Minh Nghị xem ở phần sau). Thế để biết, bàn tay bọn giáo gian góp phần
không nhỏ kéo dài pháp nạn XHCN là như thế. Còn nỗi đau nào hơn! GHPGVNTN mất
đi “con chiến mã” ngã quỵ sa trường. Chỉ vì kiên trì không cho bọn cộng sản
chiếm đoạt GHPGVNTN mà Thầy đã phải vong thân. Quí Thầy trong Viện Hóa Đạo đã
có phản ứng gay gắt vụ nầy như Thầy Thích Đôn Hậu, Thầy Thích Huyền Quang v.v…
“Mới đây, ông Lê Xuân Thuấn, nguyên là một cán bộ công an làm việc tại Viện
Khoa học hình sự thuộc Bộ Nội vụ của cộng sản VN, không chịu đựng nổi sự thống
trị nghiệt ngã dã man và vô cùng sảo quyệt của cộng sản, đã vượt biên tìm tự
do. Trong thời gian công tác, ông Thuấn đã chứng kiến những sự kiện liên quan
đến cái chết của T. T. Thích Thiện Minh từ đầu đến cuối thật khá rõ ràng. Nên
từ trại tạm cư ở Thái Lan ông biên thư đã kế lại chi tiết gửi đến tạp chí Quê
Mẹ ở Paris (Bảo Trâm, Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh) [ * ].
Được hỏi thăm từ Paris, cố Hoà thượng Thích Trí Thủ viết thư đề ngày 7.11.1978
cho đạo hữu Võ Văn Ái, Chủ nhiệm tạp chí Quê Mẹ và Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền
làm Người Việt Nam, có mấy dòng xác nhận như sau : “... Thầy Thiện Minh đã qua
đời một cách hắc ám tối tăm trong cơ cực, tin cho bà con biết. Khi Thầy nằm
xuống, không một thân nhân ở đó. Khi được tin thì tôi cũng chỉ được quyền ngó
mặt rồi họ giục về cho họ đi chôn. Muốn ở lại thêm họ cũng không cho (...)”.
(Xem tư liệu trong tạp chí Quê Mẹ số 90 & 91, Paris 1988)
Vì sao nhà nước XHCN lại ngụy trang, chuyển xác Thầy Thích Thiện Minh ra Hàm
Tân, Phan Thiết trong khi sự thật thì Thầy chết trong trại tra tấn X4 ở Sài
gòn. Cũng dễ hiểu thôi, bởi lúc bấy giờ, tin Thầy Thích Thiện Minh vừa mất thì
sáng hôm sau đài BBC đã đưa tin nóng nầy: “Hòa thượng Thích Thiện Minh thuộc
GHPGVNTN đã chết trong nhà tù cộng sản” loan ra khắp thế giới. Dư luận Phật
giáo thành phố lúc bấy giờ vô cùng câm phẩn, có thể bùng lên cao trào phản
kháng nhà nước mạnh mẻ. Cho nên nhà nước đưa xác Thầy Thiện Minh ra Hàm Tân,
Phan Thiết cách xa thành phố, đường đi, giao thông tồi tệ của những năm 1978 sẽ
hạn chế được những điều bất trắc cho Xã nghĩa.
3. Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ với cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong
cách nhìn tham chiếu.
Nói thẳng vấn đề, một người tù chết trong nhà giam thì trách nhiệm đương nhiên
thuộc về nhà nước. Ở đây hãy tìm hiểu cụ thể xem vai trò Thầy Trí Quang, Thầy
Trí Thủ ra sao đối với cái chết của Thầy Thiện Minh và ai là người “dấy máu ăn
phần” hoặc trực tiếp hay gián tiếp đến vụ án cũng như diễn biến chung quanh vụ
án ra sao?
Thông thường, Nhà nước XHCN xử dụng giáo gian nhằm vào nhiều việc như: Một là
tham khảo nội tình Phật giáo; hai là tham vấn [giáo gian] với tư cách là tổ
chức vòng ngoài (những vị Sư quốc doanh, Linh mục quốc doanh) của họ trước khi
nhà nước hành xử vụ việc, nhất là đối với những vụ “nghiêm trọng”; và ba là núp
sau hậu trường, đẩy sư quốc doanh ra lãnh trách nhiệm trong thanh trừng, xóa sổ
thành viên tôn giáo chống đối. Biến cố đưa đến cái chết của sư Thích Thiện Minh
cũng không ngoài thông lệ như thế, nghĩa là có sự “gật đầu” của đám giáo gian
chóp bu: Trí Quang, Trí Tịnh, Trí Thủ, Minh Châu, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm,
Hoàng Văn Giàu … Nhà nước đề xuất, giáo gian “gật đầu”; Mai Chí Thọ, Bộ trưởng
Bộ nội vụ xuống lệnh, công an thành Hồ thi hành. Chung quanh cái chết của Nhà
sư Thích Thiện Minh, có bàn tay giáo gian dính dự, giáo gian kia là những ai?
Vai trò Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ là thế nào.
Bấy giờ 1978 chiến dịch đánh phân hóa GHPGVNTN lên cao, nhà nước áp lực Viện
Hóa đạo phải hợp thức hóa việc họ cướp giáo sản Giáo hội. Hoà thượng Thích HK
phụ tá Tổng vụ Tăng sự GHPGVNTN (nhân chứng hiện còn sống tại TP HCM), người
làm việc nhiều năm trong văn phòng Viện Hóa Đạo cho rằng Nhà nước xuống lệnh
cho Hoà thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN phải làm văn
bản hiến cúng toàn bộ cơ sở Giáo sản GH cho nhà nước. Sư Thích Trí Thủ vốn là
nhà sư Thân cộng ngay từ thời còn ở Ba La Mật, Huế. Nay trước áp lực XHCN nên
đã dễ dàng làn văn bản giao hiến toàn bộ giáo sản GHPGVNTN từ Quảng Trị đến Cà
Mau cho nhà nước. Văn bản sọan xong (có 3 người trong danh sách tình nghi dính
dự đến soạn ra văn bản nầy là Lê Mạnh Thát, Thích Minh Châu và Thích Tuệ Sỹ),
Hòa thượng Thích Trí Thủ trình cho Thầy Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng), cố vấn
VHĐ xem và “xin thỉnh ý”. Xem qua văn thư, Thầy Thích Thiện Minh bất bình quát
lên: “bộ không sợ mất đầu à! Giáo sản là của Giáo Hội [của toàn thể Tăng ni,
Phật giáo đồ] chứ là của mình đâu mà giao hiến”. Thầy Thiện Minh rất giận dữ
nói tiếp: “việc lớn lao trọng đại như ri, sao không bàn trước, nay Thượng tọa
đã ký [tên vào văn bản] rồi, thì còn ý kiến chi nữa! Liền sau đó, Thầy Thích
Thiện Minh xé nát văn bản đang cầm trên tay. Việc nầy Thầy Thích Trí Thủ đem
trình lên Sư Thích Trí Quang, Trí Quang phản ứng bằng sự “im lặng khó hiểu”.
Sau vụ đó (vụ phản đối Sư Trí Thủ bàn giao Giáo sản GH cho nhà nước) không lâu
sư Thích Thiện Minh bị bắt để đưa đến cái chết. Cho nên người biết chuyện cho
rằng Thầy Thiện Minh bị bắt là có dự phần của Thầy Trí Thủ cũng như sự “gật
đầu” của Thầy Thích Trí Quang. Trí Quang với Trí Thủ luôn “chung vai gánh vác
việc Thống nhất Phật giáo, việc nầy Đỗ Trung Hiếu, Thống nhất Phật giáo đã xác
định như thế.
31. Vai trò Thầy Thích Trí Thủ.
11- 03-1977, Trung tâm Quảng Đức, Trụ sở Tổng vụ Thanh niên (xưa là đường Công
lý, nay là 294 Nam kỳ khởi nghĩa, đối diện chùa Vĩnh Nghiêm, Q3, Sài Gòn) bị
khám xét, Thầy Thích Thiện Minh bị thâu thẻ cư trú, bị trục xuất khỏi nơi cư
trú Trung tâm Quảng Đức. Thầy lang thang đó đây, bị khủng bố cao độ, không một
chùa nào trong thành phố thành Hồ cho Thầy tạm trú bởi áp lực của công an. Cho
nên Thầy về chùa Già Lam, Gò Vấp, Gia Định, tạm nương náu nơi đây. Nhà nước lại
đến chùa Già Lam hỏi giấy tờ, Thầy không còn giấy tờ (giấy tờ đã bị họ đã giữ
lấy) nên họ trục xuất Thầy khỏi chùa Già Lam. Do đó, Thầy về Lái Thiêu (Thủ
Đức) tìm kế sinh sống. Ngày nọ Thầy ngồi ô tô trên đường từ Sài Gòn qua Gia
định về Lái thiêu thì bị chận bắt với lý do vượt biên! Từ Sài gòn đi Lái Thiêu
mà vượt biên ư? “Như thế thì mỗi ngày có hằng triệu người vượt biên đó, sao nhà
nước không bắt mà chỉ bắt có Thiện Minh?” (Lời Thầy Thích Đôn Hậu chất vấn nhà
nước).
Thầy Trí Thủ, Viện trưởng VHĐ với Thầy Thiện Minh, Phó Viện trưởng, VHĐ, cả 2
đã từng kề vai chung gánh việc Phật, việc Giáo hội qua bao cơn bảo dữ. Thế tại
sao Thích Trí Thủ chùa Già Lam mà không giữ nỗi Thầy Thiện Minh nơi Mái chùa
Già Lam, được sự bao bọc trong khuôn viên nhà chùa thì có an toàn hơn không,
hơn là để Thầy phải lang thang rày đây mai đó bởi không một chùa nào lúc bấy
giờ dám chứa Thầy cả. Dù rằng nhà nước áp lực không cho Thầy Thiện Minh ở chùa
Già Lam là một lẽ. Thế nhưng hơn ai hết, Thầy Trí Thủ vốn biết rằng để Thầy
Thiện Minh ra khỏi chùa Già Lam, lang bạt trên hè phố của những năm 1978, là
lúc giai kỳ pháp nạn lên cao như thế thì cũng đồng nghĩa với Thầy “gật đầu” đưa
đến cái chết cho Thầy Thiện Minh rồi. Chờ người ra khỏi nhà rồi tạo tai nạn
giao thông như cái chết của nhà văn Lưu Quang Vũ [ * ] hay cộng sản âm mưu hại
Thầy Thích Chánh Lạc, Hoa Kỳ qua Văn Thư Mật số 023/MV của CSVN vào năm 1999 ”
[ * ]. Theo chỉ thị mật “Hãy triệt hạ bọn chống đảng và nhà nước ở Hải Ngoại và
kế hoạch“Bằng mọi cách phải đuổi tên Chánh Lạc ra khỏi chùa Như Lai thì chúng
ta mới có cơ hội diệt trừ nó”. Việc nầy cũng như tai nạn giao thông về cái chết
của Ni sư Thích nữ Trí Hải 2003 đến nay vẫn còn trong nghi vấn bởi bàn tay cộng
sản dự vào. Cho nên ngoảnh mặt để Thầy Thiện Minh ra đi khỏi chùa Già Lam, Thầy
Trí Thủ xử sự như thế, mà Thích Trí Quang thì lặng thinh, sự im lặng khó hiểu
của trí Quang trong trường hợp đó cũng có nghĩa là đồng tình rồi.
32. Vai trò Thầy Thích Trí Quang.
Nghi vấn Thích Trí Quang “gật đầu” đưa đến cái chết của Thích Thiện Minh càng
rõ hơn nữa đó là. Sau khi vừa ra tù 14-01-1993 Thầy Thích Đức Nhuận, Cố vấn Ban
chỉ Đạo Viện Hoá Đạo [ * ] đã đến thăm Sư Thích Trí Quang. Trong câu chuyện hàn
huyên, Thầy Thích Đức Nhuận tỏ ý rằng việc Ngài được ra tù là do Quốc tế Nhân
quyền can thiệp .v.v... Thích Trí Quang lại lên giọng kẻ cả: “đừng có mà hí
hửng!
Việc nầy làm cho mọi người nhớ lại việc Thầy Thích Trí Tịnh “mách nước” với nhà
nước (khi được nhà nước hỏi. Mà có lẽ nhà nước cũng chẳng cần hỏi, bởi biết Trí
Tịnh là loại nhiệt tình có dư trong việc triệt hạ người cùng sắc áo kia mà)
rằng “muốn giết rắn phải đập đầu nó” đã đưa đến việc nhà bắt Thầy Quảng Độ lần
I và kết án 5 năm tù năm 1995, hay năm 1982 lưu đày về quê quán hai Thầy Huyền
Quang và Quảng Độ cũng tương tợ như thế. Thích Quảng Độ, Nhận định về những sai
lầm tai hại … [ * ]. Cũng như việc Sư Thích Minh Châu chụp mũ Thầy Thích Quảng
Độ là: “Thượng Tọa Quảng Ðộ [lược] triệt hạ uy tín toàn Ban Vận Ðộng Thống Nhất
Phật Giáo Việt Nam phá hoại công cuộc thống nhất Phật Giáo, phản lại nguyện
vọng tha thiết của tuyệt đại đa số Tăng Ni và đồng bào Phật tử cả nước, ngang
nhiên thách thức với chánh phủ và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. (Biên bản Ban vận
động Thống nhất Phật giáo [ * ].
Những điển hình trên cho thấy Ba lãnh tụ GH Phật giáo quốc doanh (Thích Trí
Quang, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu) đang tâm triệt hạ Ba nhà lãnh đạo
GHPGVNTN (Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ) là như thế đó.
Cho nên Thành viên VHĐ, giới biết chuyện lúc bấy giờ chuyền tai nhau rằng “đưa
đến cái chết của sư Thích Thiện Minh có sự “gật đầu” của sư Trí Quang là có cơ
sở chứ không là nhận thức tùy tiện.
23-02-1969 Thầy Thích Thiện Minh bị chính quyền ông Thiệu bắt giữ, sau đó Thầy
bị truy tố ra tòa với những tội danh: “phản nghịch, chứa chấp vũ khí bất hợp
pháp và chưá chấp du đãng trốn quân dịch”. “TT Thích Thiện Minh bị mang ra xét
xử trước toà án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật trong ba ngày, 12, 14,15 tháng
3/1969, và bị lên án 15 năm khổ sai. Thượng toạ được chính quyền miền Nam ân xá
ngày 30/10/1969, nhờ sự can thiệp của Ân Xá Quốc Tế và phái đoàn Hoa Kỳ trong
đó có dân biểu John Conyers.”
Ngay Luật sư Nguyễn Văn Chức, một Thượng Nghị sĩ Công giáo, vốn không ưa Phật
giáo cũng đã nhận định rằng : “Riêng TT Thích Thiện Minh vẫn một lòng với đạo
pháp và dân tộc, vì vậy đã bị Việt cộng tống giam, rồi chết trong tù. Phải
chăng cái chết cuả Thượng Toạ Thích Thiện Minh đã khẳng định một sự thật? Sự
thật đó, là: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thời Việt Nam Cộng Hòa
không phải là Phật Giáo Ấn Quang của nhà sư Trí Quang thời đó, cũng không phải là
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh hôm nay của Việt cộng. (Nguyễn Văn Chức,
Thích Trí Quang và tôi) [ * ]
Như vậy, ngay từ những năm 1969, cách nay đã 40 năm mà Luật sư Nguyễn Văn Chức
đã thẳng thắng vạch mặt “những kẻ núp sau tấm áo cà sa để tranh đấu gian lận,
một chiều, phá họai chính quyền Quốc Gia, đâm sau lưng các chiến sĩ Quốc Gia,
trói tay Quân Đội VNCH, và tiếp tay cho cộng sản thôn tính miền Nam.”của Thích
Trí Quang rồi.
Vài điển hình như trên cho thấy Thích Trí Quang tìm luật sư biện hộ cho Thầy
Thiện Minh là vì nếu để mất một Thiện Minh thao lược về tổ chức GH thì lấy ai
làm “tướng quân mười đạo” bôn ba xông xáo cho ván bài mượn GHPGVNTN “làm bệ
phóng” của Trí Quang. 10 năm sau (1969-1978), đến 1978 khi Thầy Thiện Minh chết
trong ngục tù cộng sản, bấy giờ với Thầy Trí Quang, “giải phóng xong rồi” và
Thầy Thiện Minh còn đó thì biết đâu, một Thiện Minh chống cộng lại là một
“chướng ngại” với Nhóm Già Lam thân cộng nữa là. Cho nên không hề nghe, thấy
Thầy Trí Quang bôn ba tìm Luật sư chống án cho Thầy Thiện Minh trong chế độ
XHCN như Trí Quang đã từng làm thuở 1969 mà chỉ thấy đơn độc một mình Thầy
Thích Đôn Hậu gào thét lên án bọn ác ôn cộng sản, chia sẻ chút tình thâm pháp
lữ với bạn đồng liêu qua Đơn từ chức Đại biểu Quốc hội khóa 6 (1978) nhà nước
XHCN (Hòa thượng bị áp chế ghi tên ứng cử Quốc Hội) như đã biết. Bấy giờ Thầy
Trí Quang ở ngỏ ngách mô? sao lại ngậm câm như hến vậy. Thầy Thiện Minh từ bị
bắt cho đến lúc mất là ròng rã hơn 6 tháng trường (04-1978 đến 10-1978) trong
ngục tối, thế mà Thầy Trí Quang bình chân như vại, gặp chuyện quay lưng vào
vách (xúc sự diện tường) như thế thì có đáng bậc trượng phu chăng? Với những ai
đã từng tâng bốc ông ta: lên hàng “Trí Quang thượng nhân” thì qua cách ứng xử
của Thái Thượng Hoàng Phạm Văn Bông trước cái chết của Thầy Thích Thiện Minh
xin kẻ đó hãy cáo khắp với mọi người mà rút lời vàng tâng bốc hố kia lại và trả
“nhà sư có tham vọng chính trị” trở về nguyên chất của ông ta đi.
Cho nên, Người biết chuyện cho rằng cái “gật đầu” của Thích Trí Quang như là
“giọt nước tràn ly” đưa đến cái chết của Thầy Thích Thiện Minh. Như vậy, trước
cái chết của Thầy Thích Thiện Minh, Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ, kể cả Thầy
Minh Châu, Hoàng Nguyên Nhuận tức tên Hoàng Văn Giàu Phật tử giả hiệu nằm vùng
cùng nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế, và Thích Minh Nghị có góp phần “chấm -
mút” ít nhiều. Việc nầy hãy để lịch sử chấp bút. Có điều là 3 năm sau, đến 1981
Thầy Thích Minh Châu “muốn mượn chiếc búa tạ để đập nát hạt đậu nhỏ” qua việc
“gật đầu”, xuống tay, hạ bút đưa đi đày hai Thầy Huyền Quang với Quảng Độ, bằng
chứng Văn bản còn rõ ràng ra đó.[ * ]. Thì nay 1978 Thầy Thích Minh Châu góp
phần đưa đến cái chết của Thầy Thiện Minh, đó là “chuyện thường ngày ở huyện”
nhà mà thôi. Điều cần nên biết thêm là mọi việc diễn ra tại chùa Già lam có
liên quan đến Phật giáo hay của Thân hữu Già Lam đều phải thông qua “kiểm soát”
của Thái Thượng Hoàng Trí Quang cả. Trí Quang, một con người lặng lẽ nhưng
không phải là không nói, bởi sau Thầy Trí Thủ mất (1988) thì còn có Thích Tuệ
Sĩ, Lê Mạnh Thát, Nhất Hạnh, vốn là học trò cũ đã thay Thầy mình nói hết cả
rồi.
33. Ông Lê Xuân Thuấn (người cán bộ cộng sản cảnh tỉnh) nói về chết của Hòa
thượng Thích Thiện Minh.
“Thượng Tọa đã bị tra tấn cho đến chết ngay ở Sàigòn, tại Trại X4 (ở đường
Nguyễn Trãi, SG) là trại thẩm vấn (hiểu là tra tấn) và tạm giam trước khi phân
phối qua các nhà tù hay trại tập trung. Cộng sản đã chở xác Thượng Tọa ra Hàm
Tân để đánh lạc hướng biểu tình của Phật tử ở Sàigòn đang sôi động sau những
ngày Thượng Tọa bị bắt”. (câu chuyện Thầy Thiện Minh đd).
4. Giáo gian – đặc tình cấu kết với cộng sản đánh phá GHPGVNTN trong cách nhìn
tham chiếu.
Những kẻ “dấy máu ăn phần” trong cái chết của sư Thích Thiện Minh đó là: Mai
Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ; Hoàng Văn Giàu; Công an Lê Thanh Vân; Công an
chấp pháp tên Đính và đặc biệt là Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
4-1. Vai trò Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ.
Mai Chí Thọ, người gây nhiều oan trái với GHPGVNTN trong suốt mùa pháp nạn. Câu
chuyện Mai Chí Thọ với GHPGVNTN sẽ nói vào một dịp khác.
42. Vai trò Hoàng văn Giàu.
Trong “chiếc áo” Trưởng ban chấp hành Đoàn sinh viên Phật tử Sài gòn 1967 (Quán
Như, Mối tình đoàn hữu hơn ba mươi năm) [ * ], Hoàng Văn Giàu (còn có tên nặc
danh Hoàng Nguyên Nhuận, Giới Tử, v.v... khi viết lách) “lặn sâu” vào tổ chức
Thanh niên Phật tử Sài gòn, trước theo phò Hòa thượng Thích Trí Quang, sau do
theo chiến lược mới, được “trên giao” nhiệm vụ mới nên chạy sang ôm chân Hòa
thượng Thích Thiện Minh, (Đỗ Xuân Hàng), Cố vấn Ban chỉ đạo, Viện Hoá Đạo
(1977). Nằm trong nhóm đặt tình phản gián cao cấp của cộng sản, Theo Quán Như
(đd), Hoàng văn Giàu có nhiều tên, hiệu: Hoạt động trong Gia Đình Phật tử Việt
nam thì có tên là Anh Giàu; ở báo Lập Trường thì có tên là Hoàng Nguyễn Tùy
Anh, Chung Hoàng, Ngô Chu Hà; ở báo Vấn Đề và Hải Triều Âm Phật Giáo thì có tên
là Tùy Anh; trong những bài đánh phá GHPGVNTN có tên là Huỳnh Công Hòe; Hoàng
Nguyên Nhuận. Ở lò Giáo Điểm thì có tên là Giới Tử. Do đó Hoàng Nguyên Nhuận có
cùng “nhóm máu” với Nhóm Phật Giáo vì dân tộc… Xô Viết, Nhóm Tăng Ni Hải ngoại
của Thích Nguyên Siêu – Bùi Ngọc Đường điều nầy đã quá rõ rồi.
Đồng hội đồng thuyền” với Hoàng văn Giàu còn có: Nguyễn Long, Đoàn Viết Hoạt,
Quán Như (bộ ba nầy do Thích Minh Châu biệt phái từ Bộ Giáo Dục (thời Thiệu Kỳ)
sang làm việc cho Viện Đại học Vạn Hạnh. Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh,
Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm, … Sau biến động miền trung 1967 cơ sở cộng sản
nằm vùng tại Huế của họ bị đánh tan tát, bọn nầy chạy bán mạng vào Sài gòn. Bản
doanh vun thân của nhóm nầy là: Chùa Pháp Hội (chợ Bàn cờ), Trung tâm Quảng
Đức, trụ sở Tổng vụ Thanh niên (hiện nay GHPG quốc doanh chiếm đoạt làm VP2),
cư xá Viện Đại học Vạn Hạnh. Quán Như, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm, Ông Như đã
ca Hoàng Nguyên Nhuận lên mây xanh. Thế nhưng bài ca “mẹ hát con vỗ tay” kia
quá dở khiến người đọc thấy rõ bộ mặt đặc tình tôn giáo Hoàng Nguyên Nhuận. Tự
choàng cho mình “chiếc áo Thanh niên Phật tử”, thế nhưng Nhuận thuộc loại xấc
láo, cao ngạo với lãnh đạo GHPGVNTN, điều nầy càng lộ rõ qua bài: Hoàng Nguyên
Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư [ * ]. Theo đó cho thấy Hoàng Nguyên Nhuận
vốn từ lò Giao Điểm với bút hiệu Giới Tử. Đọc Giao Điểm, Chuyển Luân, Đông
Dương Thời báo rồi quay sang đọc Hoàng Nguyên Nhuận thì người đọc sẽ dễ dàng để
thấy Nhuận cũng lập lại chiêu thức y chang đặc tình Tôn giáo vận cộng sản khi
đánh phá GHPGVNTN.
Đọc Hoàng Nguyên Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư để thấy cái cao ngạo của
Nhuận đến độ nào: “Xa cách sơn môn tổ đình, xa cách những tôn đức trưởng
thượng, số Tăng Ni này hành xử như gà bươi bếp, tranh nhau lên chức như một đám
kiêu binh ô hợp. Phật tử hải ngoại mấy ai khỏi thống tâm khi nghe đến chuyện
Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn ở Melbourne ra thông bạch, chuyện ĐĐ Quảng
Ba ở Sydney đã bay qua New Zealand phong cho một ĐĐ trú trì bên đó lên TT,
chuyện HT Thượng Thủ Tâm Châu, bỏ áo nâu áo lam đắp y Tiểu Thừa, chuyện Tỳ kheo
Tiểu Thừa Hộ Giác nhảy lên làm HT là một chức tước của Đại Thừa quy định trong
Kinh Phạm Võng về Bồ Tát giới, cũng như Tỳ kheo Hộ Giác đã trịnh trọng ban đạo
từ về Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm là vị Bồ Tát mà Tiểu Thừa không hề biết đến”.
“Trước khi Thiền sư Nhất Hạnh về, đám tàn quân “Thống Nhất” đã được Võ văn Ái
kích động tột độ. Và không chỉ một mình Võ văn Ái mà thôi. Trước đó, một trong
những thành phần kỵ chuyền về của Nhất Hạnh đã phong tặng cho HT Quảng Độ tước
hiệu Đạo Pháp Trung Thần, không biết có phải với dụng ý mong HT tự thiêu? Chưa
kể đám CCCB (Chống Cộng chết bỏ), CCCĐ ba mươi năm nay ra rả đòi bóng ma cộng
sản phải giải thể tức khắc”.
“Ba mươi năm nay những tẩu tướng hàng thần chạy lọt ra ngoại quốc đã ê tay rã
họng ra tuyên ngôn tuyên cáo đòi đủ thứ và đã được gì? Không lý giờ đây Nhất
Hạnh lại phải hợp ca với Phở Việt Tân, Nguyễn hữu Chánh, Nguyễn Khánh, Lê Minh
Đảo, Nguyễn xuân Vinh, Nguyễn hữu Luyện, Võ văn Ái bài ca con cá sống vì nước,
tôi đây sống nhờ tranh đấu nhân quyền và đòi cộng sản giải thể tức khắc? Và tức
khắc mấy chục năm rồi?”
Đọc Giao Điểm:
Đọc các bài viết của Giới Tử (tức Hoàng Văn Giàu), Sư tử trùng tại sao?[ * ];
Giới Tử, Giáo Hội và Giáo Hội; Giới Tử, thượng thủ pháp sư bội chủ để thấy tính
xấc lao, ngạo mạn đến độ nào của một Hoàng Nguyên Nhuận (bút hiệu của Giới Tử),
người được Quán Như, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm ca tụng là hoạt động lâu năm
trong Đoàn thanh niên Phật tử Sài gòn, từng kề bên hàng lãnh đạo GHPGVNTN hay
Nhuận chạy gạo, kiếm cơn, bằng ngòi bút ca tụng cộng sản; tiếp tay với tội ác,
nhắm mắt trước bao đau thương của dân tộc mình. Tổng quan từ danh mục Hoàng Văn
Giàu cho thấy, ngòi bút của Nhuận chỉ là loại “bút máu” theo như điều mà Vũ
Hạnh, bút máu đã từng nói vậy.
Cho dù núp dưới chiếc áo nào đi nữa thì chân tướng Hoàng Nguyên Nhuận, Giới Tử
cũng đã được Nguyễn Sĩ Tiến, Nghè Trần Chung Ngọc: một tâm địa xỏ lá, một kiến
thức sơ sài về Nhân quyền (2001); và Nguyễn Sĩ Tiến, Theo lệnh ai Tổng Đàn,
Giới Tử, Hồng Quang từ lò Giao Điểm... ba mặt một lời đánh phá Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất (2003) cũng như Tâm Thông, Lê Minh Tuấn, Vạch trần mặt
thật của nhóm Giao Điểm trước ánh sáng sự thật từ lâu rồi.
Cho nên không còn lạ gì khi trước Hoàng Nguyên Nhuận ai điếu Thích Mãn Giác
theo điệu hò: đưa con sáo qua sông rồi đến Chuyến về Việt Nam của Nhất Hạnh
2005, Hoàng Nguyên Nhuận lại “sáu câu vọng cổ” mà ca Nhất Hạnh theo bài Hạnh
nguyện của một nhà sư; rồi tiếp đó Nhuận cũng không quên đánh phèng la kêu gọi
nhóm người: trước kia ủng hộ Hoà thượng Thích Mãn Giác thì nay hãy ủng hộ Nhất
Hạnh. Trong khi đó Hạnh-Phượng hoạt động đặc tình Tôn giáo vận cộng sản như thế
nào, điều nầy Quách Thị Tam Thê, Nhất Hạnh một dòng sông đã chết đã nói [ * ]
(cũng như Quách Thị Hương Giang, Nhất Hạnh âm mưu đảo chánh GHPGVNTN không
thành [ * ] cũng đã nói rồi. Mới đây ngày 20-12-2007 Đại tá Lê Công Hoàng, Phó
cục trưởng, Cục Hải quan thành phố ký công văn “về việc hỗ trợ ông Bùi Hồng
Quang được mang “khỏang 420 quyển tạp chí “Giao Điểm số 65 để xuất cảnh ra nước
ngoài”. Với chừng ấy chứng cứ để biết nhóm Giao Điểm là ai? Từ đó cũng sẽ biết
luôn Tiến sĩ Thích Nhật Từ (cán bộ trí vận) là ai, số đảng tịch Nhật Từ còn
đang giải mả, ai biết xin báo khắp mọi người cùng biết thì thật là phúc đẳng hà
sa còn hơn xây chín bậc phù đồ nữa đó.
Từ đó dòng chãy đặc tình Tôn giáo vận cộng sản đã lộ ra những Nhất Hạnh + Thích
Mãn Giác + Hoàng Nguyên Nhuận (Giới Tử); Trần Chung Ngọc, Thích Nhật Từ. Hay có
kẻ đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản rồi đánh phá như kiểu Tú Gàn, Chu Sa, Tâm
Đạt, Bạch Linh, Kim Nguyên, v.v … của bọn Cần Lao phục thù thì đó là loại văn
nô múa bút … kiếm cơm, chạy gạo thật đáng thương sót vô bờ.
Một mặt Hoàng Nguyên Nhuận ca ngợi Thầy Thích Mãn Giác, là ông tổ thân cộng qua
vụ tổ chức “mừng lễ chiến thắng 15-05-75” và “mừng sinh nhật Hồ Chí Minh
19-05-75”, rồi đến 2007 con bài Thích Mãn Giác trong vai trò Tổng Giáo Hội sắp
được Đảng đưa lên sân khấu “chào hàng” trong ngoài nước theo chiến lược xoá sổ
GHPGVNTN bổng đâu Thích Mãn Giác lăn đùng ra chết tốc hành không kịp trăn trối!
(Thích Thông Kinh – Thích Đồng Điển, đặc tình Xã nghĩa cũng đang hấp hối, nay
mai Xa nghĩa sẽ có Cáo phó đó các bạn ạ) Sau đó Hoàng Nguyên Nhuận trở cờ kêu
gọi mọi người quay sang ủng hộ “gánh xiếc” làng Mai về Việt Nam 2007 của Nhất
Hạnh. Mà con người thật của Nhất Hạnh là gì? Điều nầy không còn xa lạ nữa. Cứ
hể nơi mô mà có đoàn hát bội: “võng anh đi trước, võng nàng kề bên” là đích thị
giáo chủ Mai thôn Hắn Ta Đấy. Hai lần về Việt Nam 2005 rồi 2007 Tăng thân mở
rộng đâu thì chưa thấy mà ngay cả “căn cứ địa cuối cùng của làng Mai tại Huế
cũng đã mất” (Quách thị Song Phu, Hiện tượng Nhất Hạnh). Đến nay, trong lòng
Tăng ni Việt nam, đoàn múa rối Làng Mai chỉ còn là xác chết mượn hồn biết đi
theo vỡ tuồng “hồn Trương ba, da hàng thịt” mà thôi.
Hoàng Nguyên Nhuận nói: “PG nhờ dân tộc mà có cơ hội thi hành công quả, dân tộc
nhờ có PG mà thăng tiến, không đọa lạc. Chính là vì vậy mà có thể nói phục vụ
dân tộc là phục vụ PG, và phục vụ PG là phục vụ dân tộc” (Hoàng Nguyên Nhuận,
Ngày kỵ Thầy) [ * ]. Úi chà! Hơi hám câu nói trên quả là Y Chag giọng điệu của
Nhóm Phật giáo Vì dân tộc ... Xô Viết quá hè. Xin hỏi Phật giáo vì dân tộc mà
dân tộc nào vậy? Dân tộc cũng có “năm ba bảy đường” như Nàng Kiều nói đó; hay
Phật giáo Vì dân tộc Mác – Lê- Hồ [ * ], nếu thế thì sao ông Nhuận không quịt
tẹt mẹ nó ra quần cho mọi người biết mặt luôn đi. Làm vậy mới ngon, thiên hạ
mới phục theo cái kiểu “dám làm dám chịu” chứ cứ thụt ló, ló thụt như phường
buôn hương bán phấn chốn “Giấc mộng lầu Hồng” như rứa thì kẻo thiên hạ lầm cái
đám “đánh phá Nhà thờ cầm cờ Phật giáo” như bao năm qua mà tụi nghiệp quá quá
hè!
43. Vai trò Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
Thích Minh Nghị gốc chùa Long Vĩnh, Sài gòn, là cộng sản nằm vùng trong Viện
Hóa Đạo. Do luồng lách vào làm đệ tử “ngang hông” Thầy Thiện Minh. 1978 giữ
chức vụ Phụ tá Thư ký (Thích Minh Kiến phó Tổng thư ký VHĐ) kiêm Chánh văn phòng
Viện Hóa Đạo. Quá trình công tác tốt, đến 30-04-75 đeo quân hàm cấp Thượng tá,
có mang colt trong người, việc nầy nhiều người rõ biết. Minh Nghị thường với
Thích Pháp Châu là cặp bài trung trong công tác kinh tài hải ngoại dưới quyền
điều hợp của Thích Đồng Điển (Thích Thông Kinh,) chùa Đông Hưng, Sài gòn. Nhóm
kinh tài – Trí vận nầy: Thích Thông Kinh, Pháp Châu, Minh Nghị, Nhật Từ, Bùi
Hồng Quang, họ đi về Hoa Kỳ - Việt nam như đi siêu thị bởi khi qua cửa hải quan
đều có “bùa hộ mệnh” đi kèm (xem giấy công tác của Bùi Hồng Quang, phụ lục cuối
bài) . Do tánh khi hung bạo, Minh Nghị đã đánh chết một chú tiểu trong chùa nên
bị thất sủng.
5. Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến những biến động phân hóa GHPGVNTN hải
ngoại ngày nay (2008) đến “những con bạch tuộc săn mồi dấu mặt”.
Tập san Chuyển Luân, Hoàng Nguyên Nhuận tự ví đời mình gói gọn trong “ba giải”:
Đối với tư tưởng ông kêu gọi giải hoặc; đối với lịch sử ông theo hướng giải
thực; và đối với tôn giáo ông biểu tỏ giải nghiệp (Hoàng Nguyên Nhuận, Phồn hoa
kinh, đd)
Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến “Phật giáo thời Cộng sản và những liên hệ
gây động loạn và mâu thuẫn” (xem http://www.queme.net/vie) [
* ] đến những biến động GHPGVNTN hải ngoại hôm nay trong cách nhìn tham chiếu
để xem Hoàng Nguyên Nhuận (Hoàng Văn Giàu, điệp viên tôn giáo dưới quyền Tướng
tình báo cộng sản Ba Quốc, bí danh của Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Thức nằm
vùng ở Saigon trước 1975) [ * ] trong quan hệ với Sư Thích Mãn Giác, với Châu
Văn Thọ (Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Phật giáo Việt nam); với Nhất Hạnh, Thích
Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận cộng hợp điều phối cùng
Bát đại Huề thượng (nhóm Về Nguồn); với Bùi Hồng Quang, Trần Chung Ngọc, Thích
Nhật Từ (nhóm Giao Điểm); với Thích Thông Kinh, Thích Hạnh Đạo (nhóm đặc tình),
họ đã và đang giải hoặc, giải thực và giải nghiệp kiểu nào đây?
Chùa Phật giáo Việt nam, Los Angeles, California, Hoa Kỳ của Thầy Thích Mãn
Giác (1922-2006), rồi Thích Nguyên Hạnh, rồi Thích Nguyên Đạt, nói đây là Bản
doanh, là Tổng hành dinh giải hoặc của nhóm Hoàng Nguyên Nhuận. Thế nhưng, chùa
Phật giáo Việt nam, lúc Thích Mãn Giác chưa về châu “tổ Mác” thì những năm
2003, nơi đây thả dàn cho Châu Văn Thọ cùng với lão Tướng Đỗ Mậu và bọn Hồng
Quang, Hồng Phấn, Lê Hậu (tức Thích Nguyên Hạnh), Bùi Ngọc Đường, Trần Quang
Thuận, cả đồng bọn cùng đối ẩm những chiêu “đâm sau lưng” chiến sĩ người Việt
tỵ nạn cộng sản. Lúc bấy giờ Giới Tử, Cơn bảo trong tách trà [ * ] cũng “đánh
hôi” ăn bả, to mồm bênh vực cho Thích Mãn Giác, con ngáo ộp cũa XHCN. Rồi năm
1989, nhóm Giao Điểm (theo tôn chỉ: “đánh phá nhà thờ cầm cờ Phật giáo”) đả
kích Luật sư Nguyễn Văn Chức theo kiểu “chó vua Thuấn sủa vua Nghiêu” khi Ông
Chức “giải mã’ Thích Trí Quang qua bài Nguyễn Văn Chức, Thích Trí Quang và tôi [
* ]. Đến khi nhà nước Xã nghĩa sắp sửa “ra trình làng” vào năm 2007 qua ván bài
“Tổng Giáo Hội” Phật giáo Việt nam thì bổng hoạnh tai chi hoạnh tử, Huề thượng
thi sĩ Huyền Không bổng “đứt dây chuông” mà về chầu “Tiên – Sư – Cha – Bác”,
khiến cho ông Nhuận hụt hẩng “cuộc chơi” nên bèn phải “bóp bụng” đổi tông mà
múa bút hô hào người người: “trước kia ủng hộ Thầy Mãn Giác thì nay hãy quay
hướng con tàu sang ủng hộ Nhất Hạnh về Việt nam 2007. Quái chiêu chưa? Từ Chùa
Phật giáo Việt nam , Huê Kỳ mà lại LINK sang tận làng Mai, Pháp quốc, cái “cáp
ngầm liên lục địa” kia được nối kết từ hồi nào rồi vậy ta? Trong khi Hoàng
Nguyên Nhuận nói:“PG nhờ dân tộc mà có cơ hội thi hành công quả”. Nói thế mà
nghe được ư?
Ở đây cũng nên nói tới việc trở cờ của Thích Mãn Giác, một tu sĩ kiêm thi sĩ
hiền lành nhưng háo danh và mê đắm phụ nữ, từng có vợ Nhật thời du học Nhật
trước 75. Ai cũng biết Thích Mãn Giác tranh chấp và thù ghét Thích Minh Châu
thời Đại học Vạn Hạnh. Sau này vượt biển sang Mỹ nối gót Thầy Thiên Ân làm chủ
chùa Việt Nam vùng Los Angeles, California. Cộng sản cử người tới bắn tiếng là
sẽ giao trả Đại học Vạn Hạnh lại cho Phật giáo và sẽ mời Mãn Giác về làm Viện
trưởng. Cơ hội cho Mãn Giác rửa thù Minh Châu. Thế là Mãn Giác híp mắt « giả từ
chống Cộng », ngồi chờ Cộng sản rước về làm Viện trưởng. « Trả Đại học Vạn Hạnh
» lại cho Phật giáo là miếng mỡ treo trước miệng mèo Thích Mãn Giác, và nay là
trước miệng mèo Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ ! Than ôi, món mồi danh lợi không
chỉ thu hút người đời thường mà ngay cả giới Hoà thượng, Thượng toạ như Thích
Mãn Giác, Lê Mạnh Thát, Thích Tuệ Sỹ cũng đua đòi, giành giựt.
Trong nhà Phật chỉ có vun bồi công quả hay tu tạo phước điền hay tu tập thiện
duyên, phước duyên, thắng duyên chứ kho tàng Ba tạng thánh giáo nhà Phật không
hề có cái cụm từ “nửa nạc nửa mỡ” thật vô duyên như cụm từ thi hành công quả
cả. Công quả mắc gì lại thi hành? Thì cứ tẹt ra quần mẹ nó là thi hành “chỉ thị
trên giao” cho nó oai hay cứ “lời chào cộng sản” như [2 bức] Thư Hồ Chí Minh
gởi Stalin [ * ] cho nó thuần hóa luôn thể. Còn như ông Nhuận nói: “dân tộc nhờ
có PG mà thăng tiến, không đọa lạc”. Đây lại là cái kiểu ngoại lai, vong bản
mất gốc nữa rùi. Khi Phật giáo chưa gieo hạt trên vùng đất Giao Chỉ - Giao Châu
thì dân tộc nầy cũng đã thăng tiến và “ăn nên - làm ra” những chiến công lẫy
lừng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” mà không bị đồng hóa bởi Hán tộc phương Bắc,
Tuy có chậm tiến, thăng tiến chứ chưa bao giờ dân tộc Việt do vì không có Phật
giáo mà trở nên đọa lạc như ông Nhuận nói cả. Có đọa lạc chăng là kể từ khi chủ
nghĩa Mác- Lê do tên tội đồ Hồ Chí Minh áp đặt cho dân tộc Việt nầy. Từ đó, xã
hội phân hóa, lòng người ly tán, con trai Việt phải nô lệ vạn dậm cõi ngoài
theo cái gọi là “xuất khẩu lao động”; con gái Việt bị đem trưng bày ở chợ ngưởi
quốc tế cho cái gọi là xuất khẩu hôn nhân; Rồi cột mốc đất liền biên giới Việt
– Trung “biết đi”, lãnh hải trên biển Việt - Trung “biết trôi”, lần mất về tay
Tàu cộng. Nhuận ơi! Chưa nghe một lần ông hỏi: chừng nào bầu trời không phận
Việt nam xuất khẩu cho Tàu nữa đây. Cái đọa lạc mất nước như thế 80 triệu đồng
bào ai cũng thấy, cũng biết cũng nghe mà sao nhóm Giáo Điểm - Chuyển Luân, Đông
Dương thời báo của ông không nói ? Hay ông muốn nói phục vụ dân tộc [XHCN] là
phục vụ PG, và phục vụ PG là phục vụ dân tộc [XHCN]. Nếu thế thì ông cũng nên
nói rõ luôn cho người người cùng biết, cho cả Sư Thích Tín Nghĩa, Hoa kỳ cùng
biết là: Cái chết của Thầy Thiện Minh là do cộng sản giết; mà do cộng sản giết
là gây ra cái chết của Thầy Thiện Minh. Quá đúng 100% luôn, cho đi thẳng vào
Lăng Ba Đình bưng ... bô Bắc bộ phủ mà khỏi thông qua tuyển chọn, hay lựa lọc
gì ráo. “Cung kính bất như phụng mệnh”, là Truyền thống tổ đạo 2000 năm đó. Chỉ
cần Sư Thích Tín Nghĩa cũng như Ông Nguyên Nhuận Hoàng Văn Giàu mà cùng cất cao
tiếng nói trên trang nhà www.phatgiaovietnam.net :
Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù
Cộng Sản. Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Chỉ chừng ấy thôi thì mỗi
năm Sư Tín Nghĩa khỏi cần phải “Ngày kỵ Thầy” hay “Ngày giỗ Thầy” hay Ông Nhuận
củng khỏi phải ca bài “Hạnh nguyện của một nhà sư” rùm beng để hòng lừa dối
thiên hạ nữa, làm thế thì tội nọ bằng non, chín sông khôn rữa sạch sạch. Mà
thiên hạ thì không thể bị lừa dối mãi được đâu. Thích Tánh Hải, Tôn giáo hoà
hợp XHCNVN, bài học tang thương máu - lệ suốt 70 năm (1930-2007) mà nay vẫn
chưa phai [ * ] là công án cho chúng ta tư duy trên đường giải trừ pháp nạn
XHCN. Cám ơn Thầy Thích Tánh Hải thật là nhiều. Mô Phật.
Rồi nay lại có con nhạn lạt đàn Sư Thích Giác Nhôm [Giác Nhiên], giáo chủ đạo
chàng hảng (chẳng Nam tông, cũng không Bắc tông mà lại nằm giữa “ngã ba Bà
Điểm, Hóc Môn”), chẳng lo giác ngộ, giác chiếu, giác giường, giác chổng mà lại
đi giác tào lao, bá láp đứng đầu danh sách Cộng đồng Giáo hội Phật giáo Việt
nam hải ngoại trông dáng vẻ Thích Giác Nhôm nầy, nó hợm hỉnh khác nào cái Mồng
gà trên cổ vịt vậy hỉ. Thượng thủ Thích Tâm Châu bởi sa chân theo đám Về Nguồn
Xã nghĩa nên đã cháy rụi sự nghiệp xế chiều để nhập bọn cùng với đám “đâm trâu
thất nghiệp”: Thân hữu già Lam. Nay Sư Giác Nhôm [Thích Giác Nhiên] lại đi “rao
bán thuốc dạo Sơn Đông” ra Tâm Thư phóng xạ ô nhiểm gì nữa đây.
---------------------------
Thích Trí Quang - Võ Đình Cường - Giao Diểm - Trần Quang Thuận - Thân Hữu Già
Lam : Nên hợp tác với CS vì kẻ thù của Phật giáo là Thiên Chúa giáo.
Những bí ẩn đàng sau
Lữ Giang, 13.3.08
Gần đây, sau khi "Nhóm Thân Hữu Già Lam" xuất hiện với chủ trương đưa
Giáo hội Phật Giáo VN Thống Nhất (GHPGVNTN), thường được gọi là Giáo hội Ấn
Quang, về "hợp tác" với Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước, một số tác giả
đã viết bài nói đến trách nhiệm của Hòa Thượng Thích Trí Quang trong việc đưa
GHPGVNTN vào các cơn khủng hoảng liên tục, kể cả ngày hôm naỵ Những phê phán về
Hòa Thượng Thích Trí Quang đã tăng lên kể từ khi Tập San Biệt Động Quân số 19,
Xuân Đinh Hợi 2007, cho đăng bài "Biến động Miền Trung, những chuyện chưa
ai nói" của ông Liên Thành, Cựu Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên - Huế và
giới thiệu ông như là môt Phật tử thần thành. Bài này đã kể lại các biến cố
Phật Giáo tại Huế và Thừa Thiên từ 1963 đến 1966 mà ông đã chứng kiến. Trong
bài đó, ở đoạn nói về Hòa Thượng Trí Quang, ông có viết như sau: "Theo hồ
sơ của Sở Liêm Phóng tức Mật Thám Pháp còn lưu tại ban Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát
Quốc Gia Thừa Thiên, Huế và sau này tin tức thẩm vấn cán bộ VC được cập nhật
thêm, thì Thích Trí Quang là đảng viên CS. Thích Trí Quang gia nhập đảng CSVN
vào năm 1949 tại mật khu Long Miêu, Dương Hòa, là một làng nhỏ nằm phía tây
lăng vua Gia Long cách làng Đình Môn khoảng 30 cây số đường bô.. Người kết nạp
và chủ tọa buổi lễ gia nhập cho Thích Trí Quang là Tố Hữu, đảng viên cao cấp
của đảng CSVN." (tr. 203 - 204).
Cùng có nhận định tương tự, bà Tôn Nữ Hoàng Hoa ở Texas đã cho phổ biến trên
các diễn đàn Internet hôm 11.2.2008 bài "Sự thật về Thích Trí Quang qua
biến động Miền Trung và Pháp Nạn của Giáo hội Phật Giáo VN Thống Nhất hôm
nay", với câu hỏi của nhiều người: "Tại sao Phật Giáo mình lung tung
vậỷ" Trước hết, bà đưa ra một nhận định tổng quát:
"Cho đến nay trước những mưu toan xâm chiếm GHPGVNTN bắt nguồn từ những vị
Sư Quốc Doanh đã trà trộn trong Phật Giáo VN đã từ từ lộ diện. Tuy những tổ
chức trá hình Thân Hữu Già Lam, Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại đi từ Giao Điểm, Giao
Điểm về Nguồn đã cho thấy lực lượng Sư Quốc Doanh trong GHPGVNTN đã lặn sâu để
hôm nay nhất định phải trèo cao hầu thực hiện giai đoạn chót của những kẻ đạo
tặc trong GHPGVNTN đang biến Đạo vào Đảng hôm naỵ"
Bà viết tiếp:
"Cho dù đứng dưới lăng kính nào, cho dù bất cứ một suy nghĩ nào dù cho các
vị cao tăng trong GHPGVNTN cũng phải đồng ý ngầm một điều rằng bất cứ những
biến cố nào đang xảy ra hôm nay cũng đều được điều hướng bởi "Thái Thượng
Hoàng". Một Thái Thượng Hoàng mà trong bức tâm thư cùa TT Thich Chơn Tâm
đã gởi ra cách đây không lâu đã có nhắc đến trước âm mưu soán ngôi của Đại Lão
Hoà Thương Thích Quãng Độ của nhà thơ, nhà tu, nhà ước mơ Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây ca khúc khải hoàn Thích Tuệ Sĩ.
"Thái Thượng Hoàng đó mà Thích Chơn Tâm ám chỉ là aỉ Xin thưa cùng qúi vị
đó chính là Thích Trí Quang. Một thời đã "chống Mỹ cứu nước lẫy lừng
" qua biến cố Miền Trung 1963-1966.
"Thích Trí Quang hiện đang cư ngụ tại Chùa Già Lam của Thích Trí Thủ, ở
VN."
Trong phần chính của bài, bà kể lại những gì mà Hòa Thượng Trí Quang đã gây ra
cho Phật Giáo và đất nước trước 30.4.1975.
* Tại sao có sự liên kết nàỷ
Chuyện Hòa Thượng Trí Quang đã gây khủng hoảng nghiêm trọng cho Phật Giáo VN và
Miền Nam VN, ai cũng biết. Nhưng sở dĩ một số người tin rằng hiện nay Hòa
Thượng Trí Quang đang đóng một vài trò nào đó trong chủ trương của Nhóm Thân
Hữu Già Lam vì ông đang cư ngụ tại chùa Già Lam và có ảnh hưởng rất lớn đối với
hai thành phần chủ chốt của nhóm này là TT Thích Tuệ Sĩ và TT Thích Pháp Siêu,
tức Giáo Sư Lê Mạnh Thát, hai nhân vật đang chủ trương "hợp tác" với
Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước để xây dựng Phật Giáọ
Chúng tôi xin nhắc lại hôm 14.9.2007, TT Thích Không Tánh ở trong nước, đã gởi
lên các diễn đàn Internet một văn thư nói về những chuyện gây lủng củng trong
nội bộ Giáo hội Ấn Quang, trong đó có đoạn như sau:
"Những năm 1977, 78 vì VC họ nắm được và điều khiển được HT Trí Quang,
Minh Châu, Trí Tịnh (Ghi chú của TG: và luôn cả HT Trí Thủ. Viện Trưởng VHD Ấn
Quang)... cho nên VC mới bắt và giam cầm nhị vị HT Huyền Quang, HT Quảng Đô....
Nếu Quý HT theo VC mà có tinh thần Pháp Lữ thì VC không thế nào lập được GHPG
Quốc doanh như ngày hôm nay được!
"Thầy Trí Siêu LmT (Lê Mạnh Thát) và Thầy Tuệ Sĩ là học trò, là cháu của
HT Trí Quang và HT Minh Châu cho nên cũng đang đi theo con đường của Chú và
Thầy mình, nhưng ngại dư luận lên án, nên phải nói là "Trá hàng VC để làm
Văn Hóa, Hoằng Pháp..."!
1. Vài nét về Tuệ Sĩ và Trí Siêu
Như chúng ta đã biết, TT Tuệ Sĩ tên thật Phạm Văn Thương, sinh năm 1943 tại
Thahine, Pakse, Lào, vì thân phụ ông đến lập nghiệp tại Lào từ thập niên 30,
nhưng ông quê ở Đức Phổ, Quảng Bình, một làng chỉ ở cách làng Diêm Điền của Hòa
Thượng Trí Quang khoảng 2 cây số. Đa số dân hai làng này đều theo CS và năm
1954 chúng tôi không thấy dân hai làng này có ai di cư vào Nam, mặc dầu họ có
thể ra đi một cách dễ dàng.
Năm 12 tuổi, cậu Phạm Văn Thường về thọ giới Sa Di tại chùa Từ Đàm, Huế. Sau
đó, ông được thầy Trí Quang gởi vào học Phật Pháp ở Học Viện Hải Đức, Nha
Trang, rồi về thiền viện Quảng Hương Già Lam ở Gò Vấp. Giáo Sư Lê Mạnh Thát
sinh năm 1943 tại Quảng Trị, xuất gia năm 1955 và theo học Phật học tại Chùa
Bảo Quốc Huế. Từ năm 1964 đến 1974, ông được đi du học tại viện đại học
Wisconsin - Madison (Hoa Kỳ), tốt nghiệp tiến sĩ triết học Ấn Đô.. Sau đó ông
về nước, dạy học tại Viện Đại Học Vạn Ha.nh.
Sau vụ chống đối việc thành lập Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước, cả TT Tuệ Sĩ lẫn
TT Trí Siêu đều bị bắt giam và bị tuyên án tử hình vào tháng 10 năm 1988. Nhưng
đến tháng 9 năm 1998, hai TT này đã được phóng thích cùng với Hòa Thượng Quảng
Độ và một số tù nhân lương tâm khác.
2. Con đường "hợp tác" của Trí Siêu
Sau khi được phóng thích, cả TT Tuệ Sĩ lẫn Trí Siêu đều về sống tại Chùa Già
Lam. TT Tuệ Sĩ còn tiếp tục chống đối nhà cầm quyền một thời gian dài, nhưng TT
Trí Siêu chủ trương "hợp tác" với Giáo hội Nhà Nước để làm văn hóạ Vì
thế, "con đường danh vọng" của ông ở trong nước ngày càng đi lên.
Ngày 10.11.2007 vừa qua, ông được Nhà Nước chọn làm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Tế
(IOC) đồng thời là Tổng Thư Ký Ủy Ban Điều Phối Quốc Gia Đại Lễ Phật Đản Liên
Hiệp Quốc (VESAK) và Đại Hội Phật Giáo Quốc Tế Lần Thứ 5 từ ngày 13 đến
17.5.2008 tại Hà Nội, với dự tính sẽ có khoảng 4.000 người tới tham dự, trong
đó có đại diện của 70 quốc gia trên thế giớị Thiền Sư Nhất Ha.nhcũng đã được
mờị Nhưng nhóm GHPGVNTN không được dư..
3. Vài nét về lễ Vesak LHQ
Để độc giả có thể nắm vững vấn đề hơn, chúng tôi xin trình bày qua vài nét về
lễ Vesak LHQ: VESAK là tên gọi tháng thứ 4 của năm theo lịch Ấn Đô.. Người Ấn
Độ có tín ngưỡng Phật giáo xem tháng Vesak là tháng linh thiêng vì theo truyền
thuyết, vào ngày trăng tròn của tháng này đã diễn ra 3 sự kiện quan trọng gắn
với thân thế và sự nghiệp đức Phật: Phật đản sinh, Phật thành Đạo và Phật nhập
Niết bàn. Ngày 15.12.1999, tại phiên hợp thứ 54, theo đề nghị của 34 nước, Đại
Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận lễ Vesak là một lễ hội văn hóa,
tôn giáo quốc tế của Liên Hợp Quốc. Từ đó, lễ Vesak bắt đầu được tổ chức tại
các nơi khác nhau trên thế giới: Lễ Vesak LHQ đầu tiên được tổ chức tại trụ sở
LHQ ở New York năm 2001. Lễ Vesak lần 2 được tổ chức tại Mumbai, Ấn Độ vào năm
2005. Hai lễ Vesak tiếp theo được tổ chức tại Thái Lan: năm 2006 tại Trung tâm
Phật giáo Quốc gia Buđhamonthon và năm 2007 tại Trường Đại học
Mahachulalongkom. Năm 2008 lễ Vesak được tổ chức tại Hà NộịVào tháng 5 năm 2006, Giáo sư Lê Mạnh Thát cũng đã được chọn làm thành phần
trong phái đoàn Phật Giáo Nhà Nước đi dự Đại Hội Phật Giáo ở Thái Lan. Một vài
sự kiện nói trên cho thấy Giáo Sư Lê Mạnh Thát đang trở thành con bài lớn của
Mặt Trận Tổ Quốc và Ban Tôn Giáo Chính Phủ. Do đó, việc ông chủ trương đưa
GHPGVNTN về "hợp tác" với Giáo hội Nhà Nước là chuyện không có gì
đáng ngạc nhiên.
Hiện nay, báo chí trong và ngoài nước đang viết bài ca tụng ông như là một siêu
nhân của Phật Giáo, nhất là "những phát hiện lịch sử chấn động" của
ông. Nhưng chúng tôi đã đọc một số tác phẩm của ông và nhận thấy ông cũng như
các thiền sư VN khác, chỉ chú tâm đến những huyền thoại về Phật Giáo và
"bỏ quên" tất cả các "Pháp nạn" đau xót của Phật Giáo trong
lịch sử. Vấn đề được đặt ra là những quyết định của hai TT Tuệ Sĩ, Trí Siêu và
Nhóm Thân Hữu Già Lam có chịu ảnh hưởng của TT Trí Quang như nhiều người đã nói
không?
* Thử tìm câu trả lời
1. Mục tiêu gióng nhau
Mọi người đều biết, tham vọng của Hòa Thượng Trí Quang cũng như nhóm trí thức
Phật Giáo trong Nhóm Thân Hữu Già Lam là muốn thống lãnh Phật Giáo để từ đó
tiến tới thống lãnh đất nước, nhưng khó tin được chính Hòa Thượng Trí Quang đã
hướng dẫn Nhóm Thân Hữu Già Lam tham gia vào Giáo hội Nhà Nước để xâm chiếm dần
giáo hội này và đợi khi chế độ CS sụp đổ, sẽ thống lãnh Phật Giáo VN và từ đó
thống lãnh đất nước, vì Hòa Thượng Trí Quan không bao giờ có những "cao
kiến" như thế.
2. Con người thật của Trí Quang
Theo bản chất và qua quá trình hoạt động của Thích Trí Quang, chúng ta thấy ông
là người có nhiều tham vọng, cuồng tín, cực đoan và bốc đồng, nhưng ông lại là
người không có mưu lược, miệng hùm gan sứa, khi gặp thời thì hống hách, kiêu
căng, phách lối, nhưng khi thất thế lại tìm cách chạy trốn, để mặc hậu quả cho
những kẻ theo ông gánh chịu...
Cuốn Bạch Thư của Hòa Thượng Thích Tâm Châu công bố ngày 31.12.1993 có trích
dẫn lá thư viết tay của Đại Đức Thích Quảng Thành ở Huế, dài 10 trang đề ngày
31.12.1973, gởi cho TT Trí Quang lên án một cách nặng nề thái độ hèn nhát của
TT nàỵ Đại Đức viết:
"Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chính phủ Nguyễn
Khánh, TT đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao Miên.
Nữa đường, nghe tình thế biến chuyển, TT mới trở về. Trong những cuộc đấu
tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, TT đều dùng hình thức tuyệt thực, để
giao trách nhiệm và công việc cho các TT khác".
Các báo cáo còn để lại, cũng những các cuộc phỏng vấn Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó
Tỉnh Trưỡng Nội An ở Huế và ông Lê Văn Dư, Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia ở Huế
thời đó đều cho biết người hoạch định kế hoạch tổ chức Lễ Phật Đản ở Huế năm
1963 một cách rầm rộ khác thường để khiêu khích chính quyền theo kế hoạch của
CIA là TT Thích Thiện Minh chứ không phải TT Thích Trí Quang. Mặc dầu đã có
những lời lẽ hằn học và kích động trong bài thuyết pháp vào sáng 8.5.1963 tại
chùa Từ Đàm, sau khi biến cố xẩy ra ở đài phát thanh Huế, Thích Trí Quang đã
chấp nhận giải pháp hòa giải của ông Ngô Đình Cẩn. Đại Đức Thích Quảng Thành
cho biết như sau:
"... Nhưng chưa ai biết, sau buổi lễ này (lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm năm
1963), TT lại gửi thơ cho ông Cẩn, nhân danh Hội Trưởng Hội Phật Giáo Trung
Phần VN, qua trung gian của ông Nguyễn Văn Đẳng, Thị Trưởng Huế lúc bấy giờ, để
xin cam đoan không có chuyện gì sẽ xẩy ra nữa, sẽ chấm dứt mọi chuyện, nếu ông
Cẩn cho tổ chức một lễ cầu siêụ Sau khi gửi thư, TT gặp ông Cẩn và sau đó, TT
giao hết mọi chuyện cho các TT khác, TT chỉ còn gặp ông Woulf. Nếu các TT khác
cũng làm như TT thì liệu có hay không cuộc cách mạng 1963?" Đại Đức Thích
Quảng Thành còn trách TT Trí Quang: "Đem con bỏ chơ.. Đầu hàng nữa chừng.
Trốn tránh trách nhiệm. Không xứng đáng làm gương cho Tăng, Ni noi theo".
3. Một con người nguy hiểm
Người ngăn cản mọi giải pháp hòa giải và tìm cách làm cho tình hình ngày càng
nghiêm trọng hơn để cướp chính quyền là TT Thích Thiện Minh.
Một báo cáo mật đề ngày 17.8.1963 của cơ quan CIA ở Saigon (mới được giải mã),
cho biết trong khi đang thương lượng với chính phủ, Thích Thiện Minh, Phó Chủ
Tịch Tổng Hội Phật Giáo VN (GAVB) tại Trung Phần, và Thích Trí Quang "đã
soạn thảo một danh sách sơ khỏi những người họ muốn thấy có mặt trong chính phủ
nếu ông Diệm bị lật đổ, trong đó có cả Phan Khắc Sửu..." Mặc dầu Tướng Đỗ
Mậu đã ra lệnh đốt bỏ tất cả các tờ khai của các cao tăng trong vụ Phật Giáo để
phi tang và tự do viết phịa sử, người ta còn tìm thấy được một tờ khai của TT
Thích Tâm Châu ở Bộ Nội Vụ, trong đó TT nói rõ người ngăn chận mọi cuộc hòa
giải chính là Thích Thiện Minh.
Như vậy, người điều khiển kế hoạch của Phật Giáo lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm
và chiếm chính quyền là Thích Thiện Minh chứ không phải Thích Trí Quang. Vì
biết Thích Thiện Minh là người nguy hiểm nên dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, để ngăn
chận các kế hoạch phá hoại của Thích Thiện Minh, ngày 25.2.1969, cơ quan an
ninh đã lục soát Trung Tâm Phật Giáo Quảng Đức ở số 294 đường Công Lý, Saigon,
nơi Thích Thiện Minh đang cư trú và hoạt động, tịch thu một số tài liệu và võ
khí, và truy tố Thích Thiện Minh ra Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng III, tuyên
phạt 10 năm khổ sai và 5 năm cấm cố. Sau khi được ân xá, ông đã lập ngay Lực
Lượng Hòa Giải Dân Tộc và giao cho Luật Sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ Tịch để yểm trợ
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mặc dầu "có công với cách mạng", VC cũng
tin rằng Thích Thiện Minh là thành phần nguy hiểm, nên tìm cách loại trừ:
Đêm 6.4.1977, công an lục soát chùa Ấn Quang, bắt ông và một số tăng sĩ khác.
Đầu tiên ông bị giam ở công an, sau được đưa vào khám Chí Hòa, rồi chuyển ra
trại Hàm Tân ở Bình Tuy và ông đã chết rủ tù tại đây vào ngày 17.10.1978, hưởng
dương 57 tuổị Trong khi đó, TT Thích Trí Quang, tuy rất hung hăng con bọ xít,
nhưng hữu dỏng vô mưu, nên cả chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa lẫn VC không nghĩ rằng
phải loại ông, do đó ông vẫn còn tồn tại đến ngày hôm naỵ
4. Một cú chơi xỏ đau hơn hoạn
Sau khi khai thác TT Thích Trí Quang để lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, ông đã
bị CIA bỏ rơi vì tính ngông cuồng của ông. Ông lại trở thành con bài của VC để
đánh bại Miền Nam. Nhưng sau khi chiếm xong Miền Nam, VC chẳng những không xài
ông mà còn chơi ông một vố khá nặng:
Năm 1981, khi thành lập Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước, VC đã dùng tên cán bộ tôn
giáo vận Đổ Trung Hiếu để dánh lừa ông, giả vờ mời ông làm Chủ Tịch Hội Đồng
Trị Sự Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước để ông không đứng về phe chống đối hay quậy
phá. Ông tưởng thật, đã phập phồng chờ đợi... Nhưng trong đại hội Phật Giáo
ngày 4.11.1981 tại Chùa Quán Sứ ở Hà Nội, người được bầu làn Chủ Tịch Hội Đồng
Trị Sự (bù nhìn) không phải là ông mà là Hòa Thượng Thích Trí Thủ, nguyên Viện
Trưởng Viện Hòa Đạo của GHPGVNTN! Sau khi bị chơi một vố đau hơn hoạn, ông còn
bị mời ra khỏi Chùa Ấn Quang. Ông phải về cư ngụ tại Chùa Quảng Hương Già Lam
của Hòa Thượng Trí Thủ. Chùa này ở số 498/11 Lê Quang Định, Gò Vấp, hiện do TT
quốc doanh Thích Đức Chơn trụ trì.
Tuy bị đá đau, nhưng ông không bao giờ dám đưa ra một lời tuyên bố công khai
nào chống lại sự đàn áp Phật Giáo của chính quyền như đa số các chư tằng trong
ban lãnh đạo GHPGVNTN. Thỉnh thoảng có người quen đến thăm, ông chỉ thốt ra đôi
lời bất mãn về chế độ mà thôị
* Người cầm tinh Thích Trí Quang
Vì ông Liên Thành xác quyết Hòa Thượng Thích Trí Quang là một đảng viên Đảng
CSVN, nên chúng tôi thấy cần nói thêm một số hoạt động cho CS của Thích Trí
Quang để giúp làm sáng tỏ vấn đề. Làng Diêm Diền (thường được gọi là làng Kẻ
Nại) ở cách làng tôi chưa đến hai cây số. Tôi biết rất nhiều chuyện đã xẩy ra
tại đây trước 1954, kể cả gia đình ông, nơi ông thọ giới sa di..., nhưng khi
đọc "Tiểu truyện tự ghi" do chính ông viết nói về thời thơ ấu của
ông, làng ông... và nhất là vụ trốn vào Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở đường Hàm Nghi,
Saigon, tôi thất vọng vô cùng. Tôi không ngờ một Hòa Thượng mà có thể viết tự
truyện một cách bố láo và khôi hài như vậy! Nói một cách vắn tắt, năm 1945, khi
Việt Minh cướp chính quyền, cả 4 anh em ông là Phạm Quang, Phạm Minh, Phạm
Chính và Phạm Đại đều đi theo Việt Minh. Phạm Chánh đi bộ đội có cấp bậc Trung
Sĩ, chỉ huy một tiểu đội du kích của VC, đã bị Pháp bắn chết ở Đức Phổ, phía
Tây thành phố Đồng Hới vào ngày 4.6.1947 khi mới 21 tuổị Phạm Minh làm giấy tờ
văn phòng còn Phạm Đại làm y tá. Riêng Phạm Quang (trước gọi là Phạm Văn Bồng),
tức Thích Trí Quang, giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Quảng Bình. Ủy
Ban này do Hòa Thượng Thích Quảng Độ, một đảng viên Đảng CSVN làm Chủ Ti.ch.
Khi Pháp chiếm Đồng Hới, ông cũng bị bắt, nhưng nhờ sự bảo lãnh của một viên
chức làm việc cho Pháp ở Huế, ông được trả tự do và trở vào Huế.
Sau khi Hiệp Đình Genève được ký kết vào ngày 20.7.1954, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
thành lập Phong Trào Hòa Bình để yểm trợ cho Việt Minh đòi quân đội Pháp rút
khỏi miền Nam và tổ chức tổng tuyển cử.
Tại Huế, Thích Trí Quang đang giữ chức Hội Trưởng Hội VN Phật Học, đứng ra phát
động phong trào này, nên đã thu hút được một số trí thức Phật Giáo thời đó tại
Huế như Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, Dược Sĩ Nguyễn Cao
Thăng, ông Nguyễn Văn Đảng, Giáo Sư Tôn Thất Dương Ky....
Trước tình thế này, ngày 7.11.1954 chính phủ Ngô Đình Diệm đã ra lệnh bắt tất
cả những người liên hệ đến Phong Trào Hòa Bình thân Cô.ng.
Vì Thích Trí Quang đang là Hội Trưởng Hội Phật Học ở Huế nên công an trình nội
vụ cho ông Ngô Đình Cẩn giải quyết. Sau khi xem hồ sơ của Thích Trí Quang, ông
Ngô Đình Cẩn thấy Thích Trí Quang là người đồng hương nên quyết định chiêu hồi
cả nhóm nàỵ
Trước cái thế chẳng đặng đừng, TT Thích Trí Quang đã chấp nhận hợp tác và ông
Cẩn đã dùng TT Trí Quang và nhóm của ông để nắm khối Phật Giáo ở Huế. Nhiều
người đã ngăn cản ông Cẩn về chuyện này, nhưng ông tin rằng ông có thể nắm
Thích Trí Quang dược. Nhóm của Thích Trí Quang đều được trọng dụng:
- Bác sĩ Lê Khắc Quyến được cử giữ chức Giám Đốc Bệnh Viện Trung Ương Huế và
khi trường Đại Học Y Khoa Huế được thành lập, ông được cử giữ chức Khoa Trưởng
của trường nàỵ
- Ông Nguyễn Văn Đảng thuộc ngạch Thừa Phái của Tây được chuyển qua ngạch Đốc
Phủ Sứ và được bổ làm Tỉnh Trưởng Bình Định, sau đó ra làm Tổng Thư Ký Tòa Thị
Chính Đà Nẵng từ năm 1955 đến năm 1962, rồi được đưa ra làm Tỉnh Trưởng tỉnh
Thừa Thiên kiêm Thị Trưởng thành phố Huế.
- Nguyễn Cao Thăng được giao cho đứng tên sang lại hảng được phẩm OPV của Pháp
và làm chủ hảng nàỵ Đây là một cơ sở kinh tài quan trọng của Đảng Cần Laọ
- Riêng Bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến đã được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cử làm Tổng
Ủy Phụ Trách Đồng Bào Tỵ Nạn.
Ông Vĩnh Phúc, một người thân tín của Bác sĩ Trần Kim Tuyến, có kể lại: Nhân có
đại hội Phật Giáo tại Tích Lan, Phật Giáo VN đã cử hai TT Thích Thiện Minh và
Thích Trí Quang đi tham dư.. Vì hai vị sư này rất thân với ông Cẩn, nên ông Cẩn
đã viết cho Bác sĩ Trần Kim Tuyến một tấm thiệp nhỏ, vỏn vẹn ghi mấy chữ:
"Giới thiệu hai đồng chí TT Thích Trí Quang và TT Thích Thiện Minh."
Điều này cho thấy hai TT này rất được ông Cẩn tin cậỵ
Tôi biết chắc trong hồ sơ tình báo của VNCH do Pháp để lại có ghi Đại Đức Thích
Minh Châu và Võ Đình Cường (Huynh Trưởng Gia Đình Phật tử ở Huế - vừa qua đời
ngày 6.3.2008 tại Saigon) đã gia nhập đảng CSVN năm 1943. Thích Minh Châu phụ
trách về văn hóa và giáo dục, còn Võ Đình Cường trở thành Ủy Viên Dân Vận của
Tỉnh Ủy Thừa Thiên. Nhưng tôi không tìm thấy một dấu vết nào cho thấy Thích Trí
Quang có gia nhập đảng CSVN.
Năm 1955, qua một cuộc lục xét, đoàn công tác đặc biệt của Dương Văn Hiếu đã
bắt được một cán bộ CS là Lê Thị Chanh (tên thật là Phan Thị Chanh), cháu của
cụ Phan Bội Châụ Qua khai thác, đoàn đã bắt được gần như toàn bộ các thành viên
của Tỉnh Ủy Thừa Thiên, trừ viên Bí Thư Tỉnh Ủy chạy thoát được. Nguyễn Văn
Đạt, Phó Bí Thư, và Võ Đình Cường cũng bị bắt luôn. Nhưng Thích Trí Quang đã
can thiệp nên ông Cẩn đã ra lệnh thả Võ Đình Cường rạ
Tôi đồng ý với ông Liên Thành, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Tình Ủy
Thừa Thiên đã được tái lập và nấp dưới các cơ sở Phật Giáo ở Huế để hoạt đô.ng.
Hoàng Kim Loan, người thay Nguyễn Văn Đạt làm Phó Bí Thư Tỉnh Ủy Thừa Thiên đã
nấp sau lưng Hòa Thượng Đôn Hậu để hoạt động và dùng Chùa Từ Đàm làm nơi liên
lạc. Lúc đó chùa này do TT Thích Thiện Siêu trụ trì. Tuy nhiên, mọi kế hoạch
vận động Phật Giáo do Khu Ủy Trị Thiên - Huế hay Tỉnh Ủy Thừa Thiên hoạch định
đều được giao cho Võ Đình Cường thi hành.
Võ Đình Cường đã xử dụng Thích Trí Quang để gây ra các biến đô.ng. Võ Đình
Cường đã bị bắt rất nhiều lần, nhưng lần nào cũng được Thích Trí Quang can thiệp
xin thả rạ
Có thể nói, từ năm 1964 đến năm 1975, Võ Đình Cường là người "cầm
tinh" Thích Trí Quang.
Chúng tôi nhớ lại, vào đầu tháng 4 năm 1975, khi Đà Nẵng vừa bị mất, nhóm Trần
Kim Tuyến và Nguyễn Cao Kỳ đã họp với các nhóm khác tổ chức lật đổ Tổng Thống
Thiệu và thành lập một chính phủ "ba thành phần". TT Thích Trí Quang
đã đồng ý. Nhưng khi Võ Đình Cường đại diện Thích Trí Quang đến họp, đã đòi
phải tuyên bố trung lập và Mỹ phải rút quân khỏi VN ngay, Ông Trần Kim tuyến
nói Thầy Trí Quang đã đồng ý thành lập chính phủ "ba thành phần", Võ
Đình Cường trả lời ngay: "Tôi là người quyết định chứ không phải Thích Trí
Quang."
Chúng tôi tin rằng Đảng CSVN không bao giờ chấp nhận một người háu thắng, bốc
đồng và vô kỷ luật như Hòa Thượng Trí Quang vào Đảng CS. Ông chỉ được CS xử
dụng như một còn bài, xài xong thì bỏ. Chúng ta chỉ biết hiện nay có những tăng
sĩ Phật Giáo cao cấp sau đây là đảng viên đảng CSVN, đó là Hòa Thượng Thích
Thanh Tứ ở Hà Nội, Hòa Thương Thích Minh Châu và Hòa Thượng Thích Trí Quảng ở Saigon.
* Con tẩy đã bị lật lên
Sau 33 năm "chống cộng cứu Phật Giáo", nhóm Thân Hữu Nhà Lam thấy
rằng con đường này chẳng những không tạo cho GHPGVNTN được một chỗ đứng nào ở
VN mà còn làm cho giáo hội này ngày càng hao mòn đi, nên đã thay đổi chiến thuật:
"Hợp tác" với Giáo hội Nhà Nước để dần dần xâm nhập vào các cơ quan
lãnh đạo của giáo hội này, với hy vọng sau khi chế độ CS sụp đổ, sẽ thống lãnh
Phật Giáo và tiến lên thống lãnh đất nước, thành lập một chính quyền Phật Giáo
do họ điều khiển.
Nhận định này được thu gọn trong lời tuyên bố của Trần Quang Thuận, nguyên Vụ
Trưởng Vụ Giao Tế của Giáo hội Ấn Quang, trong cuộc hội thảo về "Nhân
Quyền Cho VN" tại tại thành phố Westminster vào chiều 8.1.1995. Trần Quang
Thuận bảo có người từ VN mới về đã đưa ra một nhận định "rất độc đáo"
như thế này:
"Cái hiểm họa mà Phật Giáo mắc phải trước đây và có thể cả sau này, thật
sự không phải là CS mà là Thiên Chúa Giáọ Ông nói Phật Giáo với bản chất hiền
lành như thế đó không làm sao có thể ngăn chận được cái sự xâm nhập của Thiên
Chúa Giáọ Chỉ có CS làm được việc đó không mà thôị Như vậy đó, tại sao các ông
lại chống chính quyền, chống CS ở bên đó. Chính CS đã tiếp tay cho các ông làm
những chuyện như vậỵ"
Nhưng tham vọng của Nhóm Thân Hữu Già Lam khó thực hiện được vì các lý do sau
đây:
Lý do thứ nhất: Khi con bài tẩy đã bị lật lên rồi thì không còn xài được nửạ Cả
hai bên sẽ tìm cách khai thác: Trong khi Đảng CSVN tiếp đón nhóm này một cách
niềm nở, trao cho một số chức vụ ở mặt nổi để chiêu dụ rồi dùng nhóm để làm
biến mất dần GHPGVNTN, CIA lại tìm cách ngăn chận hay phá vỡ. Điều chắc chắn là
nhóm Thân Hữu Già Lam không có khả năng để qua mặt được VC và CIẠ Họ sẽ bị biến
thành công cụ của CS.
Lý do thứ hai: Tham vọng đưa ra quá lớn và phiêu lưu, nhóm Thân Hữu Già Lam
không đủ uy tính và kinh nghiệm để thực hiện.
Lý do thứ ba: Kinh nghiệm lịch sử cho thấy không một chế độ nào, dù CS hay
không CS, có thể chấp nhận chủ trương cửa Nhóm Thân Hữu Nhà Lam vì chủ trương
này nếu được đem thực hiện chắc chắn sẽ gây ra những biến loạn như năm 1966 tại
Miền Trung. Cuối cùng, chủ trương này sẽ bị các thế lực chính trị vô hiệu hóa
bằng những biện pháp khác nhaụ
Trong bài "Buđhism and Politics", Hòa Thượng Sri Dhammananda có nhận
định như sau:
"Khi tôn giáo bị sử dụng để thỏa mãn các ý đồ chính trị thì tôn giáo sẽ
phải hi sinh các lý tưởng đạo đức cao quí của mình và trở nên bị hạ thấp giá
trị do những nhu cầu chính trị trần tục."
(When religion is used to pander to political whims, it has to forego its high
moral ideals and become debased by worldly political demands.)
Post by Hồ Tặc
Bọn "cách mạng" và bọn sư sải hổ mang PGAQ có phải đồng hội đồng
thuyền với bọn vẹm VC hay không?
Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên thuộc Cục TBCL Cộng Sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại
Sàigòn. Sau đó bị Đại Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh
Cảnh Sát Quốc Gia và bộ phận Đặc Biệt của ông gồm những người cũ trong Đoàn
Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung của Ông Dương Văn Hiếu bắt lần thứ 2, và triệt
tiêu Cụm A 22 TBCL khi y xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH.
Trước đó, hầu hết những cán bộ Cộng Sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo
Chiến Lươc Cộng Sản bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao
Thừa Phủ (Mặt sau tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xã Huế) hoặc Chín Hầm.
Những ngày đầu của cuộc Cách Mạng 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo, và Cục Tình Báo
Chiến Lược Cộng Sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển Tình
Báo, Điệp viên Hoàng Kim Loan đã giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm.
Số còn lại cách đó không lâu, đã được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa vào
SàiGòn, và Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh,
và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đã trân trọng trả
tự do cho bọn Cộng Sản này vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động
mạnh hơn, tinh vi hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi
đoàn thể chính trị, đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong Quân
Đội mà không một ai dám đụng đến bọn chúng kể cả các Tướng Lãnh trong Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng, đến các chỉ Huy trưởng mọi cơ quan Tình Báo Dân Sự cũng
như Tình Báo Quân Đội, và ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân Khu, có gan to
bằng trời cũng không dám đụng đến bọn cán bộ Cộng Sản thứ thiệt và đám Việt
Cộng đội lốt Thầy Tu này, vì đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ: Tàn dư chế độ
Nhu, Diệm, dư Đảng Cần Lao, đàn áp Quí Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu
tình đả đảo và bay chức ngay.
Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là Đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không
một Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàigòn có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi
lệch hướng chỉ đạo của ông ta. Tướng lãnh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu
thanh toán nhau tranh dành Ngôi Báu. Tướng lãnh lợi dụng Trí Quang để có được
hậu thuẫn quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lãnh cho mưu đồ và tham
vọng của hắn.
Các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại
Saigòn, nay đảo chánh mai chỉnh lý, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965.
Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo
chánh.
Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lý của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn
Bảo Kiếm do bàn tay của Cục TBCL Cộng Sản đạo diễn.
Ngày 19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân Lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Công Hòa. Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn Mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng Cộng Sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa. Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được Trung Ương Đảng Công Sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên nầy là điệp viên của Tổng Cục 2 TBCL Cộng Sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt Cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố.
Ngày 19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân Lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Công Hòa. Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn Mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng Cộng Sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa. Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được Trung Ương Đảng Công Sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên nầy là điệp viên của Tổng Cục 2 TBCL Cộng Sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt Cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét