Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc
đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn
thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ.
Sơn thích thơ
của tôi và đã phổ bài "Cuối cùng cho một tình yêu" năm đó. Trước đó,
Trịnh Công Sơn đã viết "Ướt Mi", "Thương một người" và
"Nhìn những mùa Thu đi". Ngôn ngữ của "Ướt Mi",
"Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi" còn nhẹ
nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Ðặng Thế Phong trong "Giọt Mưa
Thu" hoặc "Buồn Tàn Thu" của Văn Cao – nhưng đến khi Sơn phổ
nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài
thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói", "mỏi"
trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó.
Tuy nhiên theo
tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một Trịnh Công Sơn hoàn toàn mới lạ và cực kỳ
hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó.
Cuộc đời của
Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat - một
trường dạy chương trình Pháp - và đang chuẩn bị thi bac thì Sơn phải bỏ học để
về chịu tang ba.
Sơn rất giỏi
thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về
NhuÐạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà - anh đã bị
một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm
dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi
học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư ... chớ không phải
là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi cho biến
cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi
guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc "Ướt
Mi", "Nhìn Những Mùa Thu Ði".
Khi tôi gặp
Sơn, thì anh đã bình phục - Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp
ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản.
Sau đó - để
tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô
Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn.
Ca khúc Biển
Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời gian này. Và nhân vật để
Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu
"Ngày mai nối bước Sơn Khê."
Sau đó Sơn lên
B'Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ
khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và
đưa Sơn raÐà Lạt để chơi cuối tuần - một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy
chim và bao thuốc lá Bastos - ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với
những bài nhưÐàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ
Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình
khúc.Ðó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc
nhỏ ở Ðà Lạt.
Thật ra, người
hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết
đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài
Thương Một Người để tặng cho chị với câu: "thương ai về ngõ tối, sương rơi
ướt đôi vai..."
Tuy nhiên,
theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của TCS trên dòng sông của đất nước
chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ
trông rất là nhếch nhác ở Ðà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca
sĩ trẻ - hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của người ấy với sự tập
luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng
của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc
đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly
đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao.
Chúng tôi
khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và không
xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ
Ðà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương
Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo.
Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Ðinh
Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó.Ðôi
khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng
tiền dạy học của tôi.
Từ đó Sơn gặp
anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Ðại Học Văn
Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là
trụ sở của CPS nơi mà Ðỗ Ngọc Yến, TrầnÐại Lộc, Hà Tường Cát... đã hoạt động
chương trình mùa hè ở đó.
Tại sân cỏ
này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên
nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới
mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm
nhạc ngay lúc đó.
Phong trào du
ca, của anh Nguyễn Ðức Quang,... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một
thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng
tôi - hội họa sĩ trẻ Việt Nam.
Chính thời đại
đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy và Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã là những khuôn
mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ.
Trịnh Công Sơn
- nối tiếp cao trào đo ù- đã dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc
của mình gần gũi với xã hội, và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng,
rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này. .
Người ta gọi
nhạc Trịnh Công Sơn - ở một số ca khúc - là nhạc phản chiến . Tôi đồng ý với
anh Phạm Duy, chữ "phản chiến" không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì
chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự
thất bại của Miền Nam . Tôi cho là chữ "thân phận" của người Việt thì
khái quát hơn.
Một thanh niên
Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương
thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu ,
cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu ... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và
có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Ðại Học ... nhưng tuổi trẻ không bao
giờ lường trước được những âm mưu của chính trị - cho nên sự hồn nhiên đó phải
trả giá.
Trịnh Công Sơn
viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa ...Ðể
làm gì? Ðể ước mơ đất nước hòa bình thống nhất - để ước mơ anh em bắt tay nhau
khi mà người di cư đã viết về "Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng
không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp
lại người thân ... thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó
với bao nhiêu bi kịch sau đó.
Tôi và Sơn là
hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam
Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Ðức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi
là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó
có thối nát, có gì đi nữa - tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi
lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận
chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình.
Bởi vì chúng
ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ
khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm
của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ.
Đến ngày 30
tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Ðỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một
nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn
đi Hoa Kỳ nhưng mà Ðỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở
lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm.
Còn Sơn cũng
không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các
bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được
đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và
tính chất hai mặt của Sơn trong cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật
cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về
cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày,
thì điều đó người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong
khu người ta lên án Trịnh Công Sơn.
Chúng ta không
biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải
về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là
họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh võ dưa gặp võ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn
nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài
truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất
khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc
Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa?
Người ta quyết
liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng
Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết
người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải
rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn
khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp.
Bởi vì tài
năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước
đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách
bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa
Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống
ở Sài Gòn.
Rất nhiều
người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên
cộng sản, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của
đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó - hiển nhiên âm nhạc hải
ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời
gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch
đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên
Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ
chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn.
Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã về đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho
Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối.
Trong thời
gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại - tôi đã chơi với Sơn, và
tôi đã không làm gì được cho Sơn - để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả
tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử
dụng thời gian để làm gì ... vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề -
như bài "Em ra đi nơi này vẫn thế ..." ở bên này cũng kết án bài đó -
ở bên kia lại kết án là "Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại
viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?" Người nghệ sĩ
luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào!
Và trong nhiều
sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS
sau ngày mất nước. Sơn đã viết "Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới
..." Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của
mình.Ðó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca
khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta
không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng
lẽ âm thầm.
Ngay cả bài
Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm - chỉ vì câu - chỉ vì câu gì các bạn
biết không? Mùa Thu - chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa
Thu - thì TCS đã viết "Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta ... đi giữa
mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi Người ..."
Người ta đặt
câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả
lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho
ai? Trả lời cái gì? Ðó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về ... Với
sự suy diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó đã bị cấm hai năm. Các bạn có
biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào?
Và chúng ta sai
hay đúng, hãy tự soi lấy mình - khoan kết án người khác sai hay đúng - bởi vì
trong chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta đã trưởng thành chưa sau nhiều
lần bị lừa dối về chính trị - thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng
trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người.
Tôi xin kết
thúc ở đây - để dành thời gian cho các bạn khác - tôi là một người bạn - là một
nhân chứng sống trong nhiêu năm với TCS. Những ngày tháng cuối cùng của anh,
tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh
dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài
thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên gác nhà anh, có một
cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy ... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ
của Sơn và tôi đã nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc
cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng
có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn
đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua
bên kia khách sạn Continental để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt
Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám , để nhìn vài
cánh én ... Rồi Ði Về.
Sơn thèm đi ra
phố - Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó
với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên "Chiều một mình qua phố ..." hay
"Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu ..."Ðó là đời sống
của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi
được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho
tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến
hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh
đã chết vì cơn bịnh này.
Trịnh Cung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét