Thứ Ba, 12 tháng 2, 2013

DANH TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM

Tướng NGUYỄN KHOA NAM: Cuộc Đời Đã Thành Huyền Thoại! 
Phạm Văn Thanh

Nguyên là Hải Quân Trung Úy thuộc QLVNCH vào năm 1975, được giao trách nhiệm nhuận bút và hoàn thành tác phẩm “Nguyễn Khoa Nam” ấn bản đầu tiên 2001. 

Từ ngày nhập ngũ cho đến khi tuẫn tiết, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã dâng trọn cuộc đời cho quân đội, chiến đấu bên cạnh các chiến hữu của ông trên khắp mọi miền đất nước từ Bắc vào Nam. Chín năm sau, hài cốt ông đã được bà Nguyễn Khoa Phước (em dâu ông) cải táng, hỏa thiêu và trong cuộc hành trình về lại Sài Gòn, rải tro cốt xuống giòng sông Hậu, sông Tiền, nơi mà Tướng Nam đã sống và chết bảo vệ an ninh lãnh thổ cho vùng Đồng Bằng Cửu Long. Xác thân ông đã hoà vào giòng nước đục phù sa, linh hồn ông đã nhập cùng hồn thiêng sông núi! Tướng Nam không bỏ người chiến hữu nào mà đã vĩnh viễn ở lại cùng họ, những người lính chiến VNCH đã hi sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ nền tự do, dân chủ non trẻ của miền Nam suốt 20 năm dài. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông bình thản chu toàn trách vụ của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV tới phút cuối cùng xong mới thanh thản trở về với lòng đất mẹ. Tướng Nam đã không đành đoạn bỏ nước và dân chúng ra đi hay chịu yên vui sống tiếp quãng đời còn lại trên xứ người, nhìn đất nước bị Cộng Sản nhuộm đỏ và đồng bào ông sống trong cảnh tủi nhục đọa đày.
Dù không bắt buộc, theo quan niệm về nhân đức truyền thống Việt Nam, 5 vị tướng cùng nhiều vị quân cán chính VNCH đã tự nguyện trói buộc sinh mạng mình với nỗi thăng trầm của vận nước. Như Tướng Nam, cả đời xả thân phuc vụ dân tộc, đã đứng chiêm ngưỡng non sông, khóc cho vận nước lần cuối trước khi tuẫn tiết để bảo toàn danh dự. Như Tướng Hưng, từng hứng chịu hàng vạn quả đạn pháo sấm sét trên công sự phòng thủ An Lộc chẳng hề nao núng mà ‘không thể sống nhục.” Như Tướng Hai, khi tuẫn tiết vẫn mang trong lòng niềm tin son sắt: “Sớm muộn gì đất nước ta cũng có ngày sáng sủa.” Như Tướng Phú, Tướng Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và hàng ngàn chiến sĩ anh hùng khác đã hiên ngang tìm cái chết để “trả nợ núi sông” chứ không chịu hàng giặc.

Trong thời gian làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4, Tướng Nam không những chưa để mất một tấc đất nào mà trong cơn dầu sôi lửa bỏng nhất, ông vẫn sát cánh chiến đấu và chăm lo cho đời sống quân dân. Tinh thần trách nhiệm, khả năng và đức độ của ông đều được quân dân biết tiếng: là một vị tướng nhân hậu, tận tụy với công việc, giỏi điều quân, trăm trận trăm thắng mà số binh sĩ thương vong rất thấp. Tài đức đó đã trở thành mẫu mực, gương sáng được thuộc cấp tâm phục, noi theo. Thế nên, thật dễ hiểu khi một số tướng lãnh, sĩ quan và binh sĩ dưới quyền cũng đã chọn lối xử sự tương tự như ông và quân nhân các cấp thuộc Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 ở lại chịu cảnh tù đày cải tạo đông nhất. Dù chưa phải là một vị tướng chiến lược như Alexander Đại Đế mở rộng Đế Quốc Hi Lạp thành rộng lớn nhất thời cổ, Tướng Subodai “bất bại” của Mông Cổ giúp Hốt Tất Liệt san thành bình địa bao quốc gia từ Á sang Âu hay Mac Arthur, chỉ huy toàn bộ chiến trường Á Châu thời Đệ II Thế Chiến nhưng Tướng Nam với những cá tính và khả năng đặc biệt, trong ý niệm so sánh chừng mực, cũng đã trở thành vị tướng VNCH mà cuộc đời đượm màu huyền thoại (legendary) như các tướng nói trên. Cái chết của ông cùng các anh hùng liệt sĩ khác để lại trong lòng người bao nhiêu thương tiếc, ngưỡng mộ lẫn ngậm ngùi!


Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam
 Tướng Nam Là Hiện Thân Của Danh Tướng Nguyễn Khoa Kiên?

Chiến thắng Đồi Ngok Van đã nâng tên tuổi Tướng Nam lên ngang tầm với các vị tướng giỏi của VNCH mà thuật dụng mưu của ông trong nhiều trận chiến quan trọng đã được các “Thiên Thần Mũ Đỏ” ưu ái đặt cho ông biệt danh “Hành Khất Đại Hiệp,” nhân vật bất hủ trong truyện kiếm hiệp Kim Dung. Khả năng điều quân của Tướng Nam được một số thân nhân, bằng hữu tin rằng ông thừa hưởng từ nhiều danh tướng thuộc dòng họ Nguyễn Khoa; đặc biệt, có người đã coi ông là hiện thân của Tướng Nguyễn Khoa Kiên vì nhiều điểm trùng hợp.

Dưới đời Huệ Vương (1765-1777), Tướng Nguyễn Khoa Kiên giữ chức Khâm Sai Đốc Chiến Triệu Thành Hầu. Ông có sức mạnh hơn người, được vua phái đi đánh dẹp loạn Tây Sơn. Ông đánh đâu thắng đó, nên được ví như Triệu Tử Long, một danh tướng nhà Hán, thời Tam Quốc bên Tàu. Trong một trận thủy chiến ngoài khơi Phú Yên, chiến thuyền ông gặp bão, phải tấp vào đảo Tam Sơn và bị địch bắt sống. Nhà Tây Sơn dùng kế “ly gián,” phong cho ông Kiên chức Đại Tướng, sai cầm quân đánh lại quân nhà Nguyễn do Tướng Quyên và Tướng Xuân chỉ huy đang chống cự Tây Sơn ở Quảng Nam. Ông Kiên hiểu rõ mưu kế của địch nên nhất định từ chối, xỉ vả sứ thần rồi rút kiếm tự vận lúc mới 22 tuổi.

Ngày 28 tháng 4 năm 1915, vị cố đạo Pièrre Cardière nghiên cứu về tộc Nguyễn Khoa đã viết: “... Tôi tìm được bia mộ ghi tên một vị tướng trong tộc Nguyễn Khoa là Nguyễn Khoa Kiên. Trong Đại Nam Chánh Biên Liệt Truyện sơ tập, và Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên cũng đã viết về một danh tướng tên là Nguyễn Khoa Kiên. Nguyễn Khoa Kiên thuộc đời thứ bảy dòng họ Nguyễn Khoa, sanh năm Giáp Tuất 1754 và mất năm Ất Vị 1775.”

Như vậy, Tướng Nguyễn Khoa Kiên tự vẫn đúng 200 năm trước ngày Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết. Cả hai Tướng Kiên và Tướng Nam đều nổi danh, cùng tự vẫn ở tuổi còn rất trẻ. Người tin vào thuyết Luân Hồi của Phật Giáo có lẽ sẽ tự hỏi: “Phải chăng Tướng Nguyễn Khoa Nam là hiện thân của danh tướng Nguyễn Khoa Kiên, 200 năm về trước?”

Kế Hoạch Hành Quân Mật

Quân Đoàn IV vào khoảng đầu tháng 4 năm 1975 vẫn giữ vững được hoàn toàn lãnh thổ và còn nguyên vẹn 3 Sư Đoàn Bộ Binh 7, 9 và 21 cùng các lực lượng Không Quân và Hải Quân yểm trợ. Nhiên liệu dự trữ còn đầy đủ với vũ khí và đạn dược, tuy thiếu thốn vẫn đủ khả năng chống cự với đại quân CSBV trong ít nhất là nửa năm trời mà có thể kéo dài lâu hơn nếu nhận thêm tiếp vận. Trong giờ phút sinh tử của Quân Đoàn IV-Quân Khu 4, Tướng Nam vẫn theo đuổi một kế hoạch, gọi là “Hành Quân Mật” với hi vọng lật ngược thế cờ. Kế hoạch này đã soạn thảo từ khi Tướng Nam nhận được lệnh chuẩn bị căn cứ cho Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cùng Bộ Tư Lệnh các quân chủng di tản chiến thuật về Quân Đoàn IV chỉnh đốn lại lực lượng. Cuộc hành quân mật nhằm mục đích triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân Đoàn IV cùng các đơn vị di tản về một vị trí hiểm yếu hầu tiếp tục chiến đấu để chuyển bại thành thắng hay kéo dài thời gian tìm một giải pháp chính trị thuận lợi hơn cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Thế nhưng, “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên,” khoảng 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Minh, vị Tổng Thống cuối cùng của miền Nam ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng chờ đợi bàn giao cho CSBV. Trưa hôm đó, tại văn phòng làm việc dưới hầm của Tướng Nam, một quyết định nghiêm trọng cho đất nước đã được thi hành: Thay vì ban lệnh Hành Quân Mật, Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam đã ra lệnh hủy bỏ kế hoạch này.

Tướng Nam quyết định hủy bỏ Kế Hoạch Hành Quân Mật, có lẽ dựa vào nhiều dữ kiện:

Ngay từ đầu, lệnh hành quân mật không được thi hành đúng như kế hoạch chiến lược đã được hai Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam và Tư Lệnh Phó Lê Văn Hưng soạn thảo. Ví dụ, vào khoảng 5 giờ chiều ngày 29 tháng 4, Tướng Nam đã viết nhật lệnh trấn an quân dân Vùng 4, kêu gọi đồng bào bình tĩnh và ra lệnh các đơn vị quân đội tử thủ. Bản nhật lệnh được Thiếu Tá Đức, chánh-văn-phòng chuyển đến phòng CTCT để đọc trên Đài Phát Thanh Cần Thơ. Nhưng nội dung bản nhật lệnh này đã bị “ai đó” sửa đổi và thay vì “BTL ra lệnh tử thủ thì lại kêu gọi buông súng và trấn an dân chúng.” (1)

Vào khoảng nửa đêm ngày 29 tháng 4, Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Sông Ngòi đã di tản một số đơn vị tại Cần Thơ khi nhận được lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Phải chăng sự ra đi của Lực Lượng Hải Quân mang theo một số dân chúng đã làm nản lòng phần nào binh sĩ Vùng 4? Lực lượng Hải Quân rất cần thiết cho các cuộc chuyển quân, hành quân trong vùng sông rạch chằng chịt thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Do đó, cuộc ra đi của Hải Quân Vùng IV đã làm hỏng một phần quan trọng của Kế Hoạch Hành Quân Mật chăng?

Là Tư Lệnh Quân Đoàn, Tướng Nam chắc chắn phải suy nghĩ nhiều về hai cuộc triệt thoái đầy bí ẩn của Quân Đoàn I và Quân Đoàn II. Ban Mê Thuột thất thủ vào giữa tháng 3, nhưng đó không phải là lý do “sống còn” để Tổng Thống Thiệu ra một lệnh rất khó hiểu mà đối với vị tướng cầm quân, đó là lệnh “tự sát” khi quyết định bỏ vùng Cao Nguyên. Cuộc di tản từ Cao Nguyên, bỏ trống phần đất phía Nam Quân Đoàn I-Quân Khu 1 đã gây hoang mang tinh thần khi quân dân Quân Đoàn I cảm thấy bị cô lập giữa hai gọng kềm CS từ Bắc địa đầu đang áp lực nặng xuống và từ Cao Nguyên lên. Sau đó, lệnh bất nhất, truyền thông đưa tin thất thiệt, cuộc di tản hỗn loạn đã gây tác dụng bi thảm “giây chuyền” kéo tới sự tan rã nhanh chóng của hai quân đoàn và rồi sự sụp đổ của miền Nam. Tuy thế, sáng sớm ngày 30 tháng 4, Tướng Nam vẫn bay xuống họp ở Tiểu Khu Định Tường. Cuộc họp chấm dứt và ông bay trở về Cần Thơ ngay để họp hành quân tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4. Bề ngoài, Quân Đoàn IV cho đến lúc này vẫn trong tình trạng chiến đấu.


Không ảnh VN và Quân Đoàn IV-Quân Khu 4
 
Như vậy, lý do tối hậu khiến ông bãi bỏ kế hoạch chính là lệnh buông súng do Tổng Thống Dương Văn Minh đọc trên đài phát thanh khoảng 10:30 sáng ngày 30 đã làm “bể quân” khiến ông, dù có muốn, cũng khó thể thi hành kế hoạch Hành Quân Mật được nữa. Biết rằng, “không thể cãi mệnh Trời,” phần vì đức hiếu sinh, lòng thương quân dân vô tội, ông đành tuân lệnh vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội hủy bỏ kế hoạch. Do đó, ông không cho phá sập cầu Long An để chận bước tiến của quân CS. Cũng vì thế, sau bữa ăn trưa ở Câu Lạc Bộ Cửu Long về, Tướng Nam mới ra lệnh cho Trung Úy Danh tháo gỡ những dấu chỉ ranh giới, mũi tên tượng trưng kế hoạch điều quân giữa lực lượng ta và địch trên bản đồ Hành Quân Mật. Đây cũng là chỉ dấu cho biết căn cứ mật thuộc Quân Khu 4, có thể là vùng Thất Sơn (2) như phu nhân cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng là Phạm Thị Kim Hoàng sau này đã tiết lộ về kế hoạch Hành Quân Mật có tên “Nối Bàn Tay” trong bài Hồi Ký của bà.

Bảo Vệ An Ninh Và Sinh Mạng Quân Dân Trong Giờ Thứ 25

Đã quyết định dứt khoát, nhưng khi cuộc chiến đến hồi tàn, lúc tinh thần con người hỗn loạn và khi kẻ thắng, lòng vẫn còn ngun ngút hận thù thì bất cứ chuyện bất trắc nào cũng có thể xảy ra gây phương hại đến tình trạng an ninh của dân chúng. Tướng Nam đã cố gắng giữ yên tĩnh cho Quân Đoàn IV, bảo toàn sinh mạng, tài sản của binh sĩ thuộc cấp và của dân chúng tối đa. Thực hiện điều này, vào trưa ngày 30, Tướng Nam chỉ định Đại Tá Thiện vào chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh thay Đại Tá Tỉnh Trưởng Phong Dinh đã ra đi. Đến 4 giờ chiều ông vẫn bình thản tiếp hai VC vào Dinh, chỉ uống trà nói chuyện chứ không bàn giao sổ sách, giấy tờ gì cả; có lẽ, ông thuyết phục CS đừng giết hại quân dân vô tội; đổi lại, sẽ để họ “tiếp thu” một cách êm thắm chăng?

Khoảng 6:30 chiều, Tướng Nam đi thăm viếng các thương bệnh binh tại Bệnh Viện Phan Thanh Giản, an uỉ từng người, một thương binh chợt níu tay ông nói:

“Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em, nhé Thiếu Tướng?”

“Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em!”

Tôi tưởng tượng ra hình ảnh đầy xúc động này:

“Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi (Trung Uý Danh) thấy Tư Lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào: “Em cố gắng điều trị... có Qua ở đây!”

Trở về Quân Đoàn IV, Tướng Nam đứng trên ban-công lầu hai của Bộ Tư Lệnh nhìn lại giang sơn lần cuối với hai Trung Úy Tùy Viên Lê Ngọc Danh và Trung Úy Việt, cả ba cùng khóc nức cho cảnh “vật đổi sao dời” đang thật sự xảy ra trước mắt. Sau đó, Tướng Nam chắc hẳn thức suốt đêm 30, suy ngẫm về thế cuộc, vận nước nổi trôi của một dân tộc hiền hòa và cầu nguyện trước khi tuẫn tiết trước bàn thờ Phật vào khoảng 7 giờ 30 phút sáng ngày 1 tháng 5, 1975.

Nghĩ đến việc Tướng Nam lo lắng cho sinh mạng dân chúng, vào thăm viếng uỷ lạo thương bệnh binh khi cuộc chiến đã tàn, khi mà nhiều đồng đội chẳng qui hàng, bỏ nước tìm tự do đã yên lành trên các chiến hạm Đệ Thất Hạm Đội hay một quốc gia đệ tam nào đó mà lòng tôi thương cảm, kính phục ông hơn. Là một vị tướng liêm khiết, yêu nước, thương dân, hết lòng lo lắng cho chiến sĩ thuộc cấp, Tướng Nam đã chọn cách tuẫn tiết để “ở lại với thuộc cấp đúng như lời hứa,” ở lại với đồng bào, quê hương và để giữ tròn tiết tháo của một tướng lãnh trách nhiệm an ninh lãnh thổ cho một Quân Khu đông dân và trù phú nhất miền Nam.

Điều Lạ Lùng Xảy Ra

Có một điều khác thường đã xảy ra trong buổi lễ Kỷ Niệm Ngày Quốc Hận và ra mắt sách “Nguyễn Khoa Nam” tổ chức vào 1:30 trưa ngày Chủ Nhật 29 tháng 4 năm 2001 tại Trung Tâm Công Giáo, Nam California.


Các niên trưởng đang dâng hương trước Bàn Thờ Tổ Quốc (4)
 Trong lúc các niên trưởng đại diện quân, cán, chính dâng hương lên Bàn Thờ Tổ Quốc thì thấy một con chim sẻ bay quanh Bàn Thờ, lởn vởn trong Hội Trường một lát rồi bay đi mất. Sáng hôm sau, trên đường đưa tôi ra phi trường trở về Michigan, anh Nguyễn Mạnh Thông có đề cập đến chuyện con chim sẻ và anh cũng thắc mắc về sự kiện xảy ra _ biết đâu chẳng liên hệ đến tính siêu hình? Chị Nhã Ca suy diễn sự kiện xảy ra một cách rất lạc quan rằng: “con chim sẻ tượng trưng cho anh linh các vị anh hùng liệt sĩ hiển hiện để chia sẻ niềm đau buồn trong ngày tủi nhục của cả dân tộc.” Tôi chợt nhớ đến một đoạn trong Thánh Kinh về việc Chúa Thánh Thần hiện ra dưới dạng con chim bồ câu khi Thánh John Baptist rửa tội cho Chúa Giê Su dưới sông Jordan. Mỗi lần nghĩ đến điều đó, tôi tự nhiên cảm thấy lòng ấm áp và phấn khởi vô cùng.

Cho đến nay, tôi vẫn thắc mắc về thân thế và sự nghiệp của Tướng Nam _ phải chăng Tướng Nam là hiện thân của Tướng Kiên? Tôi vẫn thắc mắc về Kế Hoạch Hành Quân Mật _ phải chi kế hoạch đó được thực hiện tới cùng thì chưa biết dân tộc ta ngày nay sẽ ra sao và đời sống của 3 triêụ người Việt tại hải ngoại chắc chắn đã đổi khác? Tôi vẫn thắc mắc về con chim sẻ bay quanh Bàn Thờ Tổ Quốc mà cánh chim quạt mẩu tàn nhang rơi vào tay tôi một cách lạ lùng. Tôi vẫn nghĩ mãi: “Phải chăng hồn thiêng sông núi và anh linh tiền nhân cùng các tướng sĩ tuẫn tiết “vị quốc vong thân” vẫn hiện diện khắp nơi trên núi sông đất nước để quan phòng và phù trợ cho dân tộc Việt Nam?” Điều này ngoài sức hiểu biết của tôi, nhưng có một điều tôi có thể khẳng định mà không sợ lầm là: Cuộc đời và sự nghiệp của Tướng Nguyễn Khoa Nam đã trở thành huyền thoại!

--------------------------------------------------------------------------------------------------------

Chú Thích:

(1) “Nguyễn Khoa Nam,” Hội Phát Huy Văn Hóa Việt Nam, 2001.

(3) Đây chỉ là điều suy đoán của tác giả bài viết:

“Vùng Thất Sơn giáp biên giới Việt Miên, có nhiều hang động, thuận tiện cho việc ẩn nấp, tàng trữ vũ khí, tránh được thiệt hại do các cuộc tấn công hoặc không tập, pháo kích bằng đại pháo của quân CS. Cứ địa hoạt động phải gần hậu cần có đông dân chúng hậu thuẫn, yểm trợ lâu dài về mọi mặt như nhân lực, vũ khí, lương thực, tin tức tình báo, v.v. Hơn nữa, thành phần dân chúng theo đạo Hoà Hảo sống chung quanh vùng này đều căm thù Cộng Sản đã sát hại Đức Huỳnh Giáo Chủ nên lực lượng quốc gia dễ được cảm tình của dân chúng. Do đó, địa điểm Thất Sơn là một chọn lựa tốt nhất vì địa thế hiểm yếu, có nhiều ưu thế về chiến lược, chiến thuật vì quân đội quốc gia có thể cầm cự lâu dài trong các hang động ngõ ngách của vùng thâm sơn cùng cốc Thất Sơn huyền bí. Trong trường hợp gặp áp lực địch quá mạnh, muốn bảo toàn lực lượng hoặc cần thời gian dưỡng quân, quân đội quốc gia sẽ rút tạm qua bên kia biên giới.” 

(3) Hồi Ký “Ngày Cuối Cùng Trong Cuộc Đời Của Chồng Tôi, 30-4-1954” của bà Phạm Thị Kim Hoàng, phu nhân cố Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV-Quân Khu 4.

(4) Trích trong “Nguyễn Khoa Nam,” Vân Lộc Foundation, 2007, pg 578. 

Giỗ đầu Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam



Nguyễn Ðạt Thịnh

 Dĩ nhiên thiếu tướng Nam không tuẫn tiết năm ngoái, nhưng tôi vẫn dùng hai chữ “giỗ đầu”,vì năm nay là năm đầu tiên đám giỗ vị danh tướng này được tổ chức ngoài khuôn khổ gia đình.

Mô tả đám giỗ, tôi phải nói là vô cùng xúc động, vô cùng thành công, không chỉ riêng cho gia đình và ban tổ chức, mà sự thành công vượt trên mọi ước vọng lạc quan nhất của mọi người.
  
Hai vị danh tướng không có nhà riêng, xe riêng,

và không có đến cả tấm ảnh mang đúng cấp bực của mình

Nét đầu tiên tôi ghi nhận được là sự hãnh diện của tất cả mọi quân nhân tham dự, họ hãnh diện đã được biết tướng Nam, hãnh diện được phục vụ tổ quốc dưới quyền chỉ huy của ông.

Trung tá y sĩ Trần Văn Tính, người theo sát thiếu tướng Nam từ khi ông còn là đại tá tư lệnh Lữ Ðoàn 3 Nhẩy Dù mô tả tướng Nam là một vị chỉ huy thận trọng, dè xẻn từng giọt máu của binh sĩ. Ông không để một sơ xẩy nào gây tổn thất cho người lính tác chiến dưới quyền ông.

Ông nghiên cứu du kích chiến để biết địch, biết lối giao tranh của chúng hầu giới hạn tối đa xương máu của quân nhân thuộc cấp.

Chuẩn tướng Mạch Văn Trường, vị tư lệnh cuối cùng của Sư Ðoàn 21 bộ binh, cũng xác nhận đặc tính nhân từ của tướng Nam qua câu chuyện những ngày cuối cùng của Quân Khu 4. Ông kể lại là sau khi 2 quân khu 1 và 2 thất thủ, tướng Nam ra lệnh cho ông đem toàn bộ lực lượng Sư Ðoàn 21 về phòng thủ Cần Thơ vì đó sẽ là chiến trường giao tranh quyết định vận mệnh của Quân Khu 4. Sư Ðoàn 21 có nhiệm vụ yểm trợ quân sự cho 6 tỉnh Hậu Giang, nhưng tướng Nam ra lệnh cho quý vị tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng của 5 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mâu, Chương Thiện, và Rạch Giá phải tự đảm trách việc phòng thủ bằng lực lượng cơ hữu địa phương quân, nghĩa quân.

Chuẩn tướng Trường ca tụng cái nhìn chiến lược của tướng Nam: Quân khu 9 Việt Cộng dồn toàn lực vào tấn công Cần Thơ, và đụng vào 16,000 quân tinh nhuệ của Sư Ðoàn 21 tại những yếu điểm chúng muốn tấn công. Chỉ riêng ngày 29 tháng Tư, cộng quân tổn thất khoảng 500 quân trước họng súng của chiến sĩ VNCH, vũ khí của chúng rơi rớt bên cạnh những xác chết nằm phơi dài trên bờ ruộng vùng sông Hậu.
Tướng Trường hãnh diện nói, “cho đến phút chót, chúng không chiếm được một xã, một ấp nào của vùng Hậu Giang cả.

Ngày 30 tháng Tư, ông đang bay trực thăng trên vùng giao tranh thì nhận được lệnh trở về Quân Khu để gặp tướng Nam.

Trực thăng vừa đáp, một quân nhân đưa cho ông một máy thu thanh cầm tay để nghe lệnh buông súng của “tổng thống” Dương Văn Minh.

“Quanh tôi, mọi người oà khóc,” tướng Trường nói.

Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam bảo tướng Trường, “Chúng ta tuân lệnh trung ương.”

“Nhưng chúng ta đang thắng,” tướng Trường nói.

“Ðồng minh đã tháo chạy, chúng ta không còn bao nhiêu đạn dược, tiếp liệu; dù có cố gắng cũng không được bao lâu.”

“Trình Thiếu Tướng, binh sĩ vô cùng hăng hái và kỷ luật,” tướng Trường cố biện minh cho giải pháp tiếp tục chiến đấu.

“Tôi biết rất rõ tình hình. Tôi còn biết là chúng ta có trách nhiệm với 16,000 quân sĩ, 16,000 gia đình của họ,” rồi gằn từng tiếng ông bảo tướng Trường, “Tôi ra lệnh cho anh buông súng.”

Tướng Lê Văn Hưng, vị anh hùng An Lộc, lúc đó là tư lệnh phó Quân Khu 4, cũng bảo tướng Trường phải tuân lệnh buông súng. Trường ngạc nhiên với mệnh lệnh này, vì ông đã chứng kiến tác phong “can đảm lạnh” của tướng Hưng trong những tháng tử thủ An Lộc.

“Thiếu tướng chịu để địch bắt?” ông hỏi tướng Hưng.

“Không bao giờ chúng bắt được tôi.”

Một quân nhân Sài Gòn, người đã hiến kế “Cửu Long một giải, vạn đại dung thân” cho tướng Hưng, và được ông mời xuống Cần Thơ để trình bầy việc đánh xập 2 cây cầu Long An và Bến Lức để ngăn không cho pháo và chiến xa Bắc Việt xuống chiến trường Cửu Long, vẫn không đồng ý với cái chết vô cùng oai dũng của hai vị danh tướng.

Anh nói, “Nếu hai vị tướng tiền phương chống lệnh của ông tổng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng địch, thì Quân Khu 4 không chỉ có 3 sư đoàn để phòng vệ lãnh thổ, mà sẽ là nơi tập họp của nhiều mảng quân lực bị xé nát trước sức tấn công của địch và sự phản bội của đồng minh. Quân Khu 4 vẫn còn, quân lực VNCH vẫn còn, và không có trại cải tạo, không có nền cai trị tàn bạo hiện nay.”
  
Gia tộc Nguyễn Khoa xứng đáng với lòng tôn kính của người Việt Nam; và mọi quân nhân VNCH hãnh diện có được những tướng lãnh thao lược, trong sạch và thương yêu lính như hai vị tướng vị quốc vong thân Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng.


Nguyễn Ðạt Thịnh
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam

Là người Việt Nam hải ngoại, chắc có ít ai chưa nghe đến tên Nguyễn Khoa Nam. Nếu bạn là một người quân nhân cũ, hẳn đã nghe nhiều về người anh hùng đã hiến dâng cuộc đời cho Tổ Quốc. Nếu bạn chưa từng nghe, nhất là các bạn trẻ, thì tôi hy vọng bạn sẽ dừng lại đây trong giây lát để chúng ta có thể tìm hiểu thêm về thân thế và sự nghiệp của người dũng tướng nàỵ

Nói về Nguyễn Khoa Nam, chúng ta không thể không nhắc đến sự khác biệt giữa ông và những kẻ cùng thờị Binh sĩ kính trọng ông, đồng bào quý mến ông, và ngay cả báo chí thiên tả thời bấy giờ cũng phải công nhận Nguyễn Khoa Nam là một vị tướng thanh liêm, có đức có tài .Sống được như vậy không phải là dễ trong cái thời mua quan bán tước của chính quyền Thiệu - Khiêm. Theo các anh em của Gia Đình Mũ Đỏ, ông là người rất điềm đạm, ít nóị Ông không có gia đình; tình cảm của ông là tình cảm đã dành cho quê hương, quân đội và anh em chiến sĩ. Đó là một người quân nhân thuần túỵ

Tôi sẽ không nhắc đến các chiến công của Nguyễn Khoa Nam ở đây, vì trong gần 20 năm dài, chiến trường nào mà không có hình dáng người lính nhảy dù Việt Nam.

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, sinh tại thành phố Đà Nẵng, ngày 23 tháng 9 năm 1927.

Thân sinh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là Thanh Tra Học Chánh Đà Nẵng Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941, và bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương. Nội tổ của ông là Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng, người đã có công mở mang bờ cõi cho chúa Nguyễn trong những ngày Nam Tiến.

Ông học Tiểu Học tại trường Ecole des Garcons Đà Nẵng (1933 - 1939), sau ra Huế tiếp tục học ở Lycee Khải Đi.nh. Ông đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Đến năm 1947, Nguyễn Khoa Nam tiếp tục học lớp Đệ Nhị Toán, rồi theo học lớp Hành Chánh tại Huế. Vốn dòng võ tướng nhưng ông không tình nguyện theo con đường quân bi..

Đến năm 1953, ông nhập ngũ theo lệnh động viên, vào Khóa III tại Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Tháng 10 năm 1953, Nguyễn Khoa Nam ra trường và tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù rồi được điều động ra Bắc.

Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Geneve, Trung Úy Nguyễn Khoa Nam theo đơn vị trở về Saigon.

Năm 1955, Trung Úy Nguyễn Khoa Nam làm Đại Đội Trưởng, thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù trong cuộc hành quân đánh Bình Xuyên tại Saigon. Sau đó ông được thăng Đại Úy và được cử đi học kỹ thuật ở Pháp trong 8 tháng.

Năm 1956, Đại Úy Nguyễn Khoa Nam ở Pháp về làm Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù tại trại Hoàng Hoa Thám.

Tháng 1 năm 1957, sau một khóa tu nghiệp ở Hoa Kỳ, ông trở về phục vụ tại Phòng 3 (Kế Hoạch Hành Quân) Lữ Đoàn Nhảy Dù.

Năm 1960, ông được chuyển về làm Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.

Năm 1963, ông được bổ nhiệm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.

Năm 1964, Thiếu Tá Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.

Năm 1965, ông được bổ nhiệm Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Đến cuối năm này, vì nhu cầu chiến trường, Lũ Đoàn Nhảy Dù được tổ chức lại thành Sư Đoàn Nhảy Dù.

Năm 1967, Trung Tá Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, nổi danh với trận đánh tại đồi 1418, Kontum. Đến cuối năm 1967, ông được thăng cấp Đại Tá và trao tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương (VNCH) và Silver Star (chính phủ Hoa Kỳ trao tặng).

Năm 1969, Đại Tá Nguyễn Khoa Nam được Bộ Quốc Phòng thuyên chuyển ra khỏi Sư Đoàn Nhảy Dù, để giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận.

Đến tháng 10 năm 1971, Đại Tá Nguyễn Khoa Nam được thăng hàm Chuẩn Tướng.

Tháng 10 năm 1973, ông được thăng cấp Thiếu Tướng.

Tháng 11 năm 1974, là một vị sĩ quan có khả năng và uy tín hàng đầu trong quân lực, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV Vùng IV Chiến Thuật.


Tháng 4 năm 1975, khi miền Nam đang trong cơn rối loạn trước đà tiến công ồ ạt của Cộng Sản, các đại đơn vị truyến trước bị tan hàng hay trở nên vô hiệụ Các tướng lãnh thì lo chạy giữ thân, bỏ mặc binh sĩ và đồng bào mà họ có trách nhiệm bảo vê.. Trong khi đó tất cả các lực lượng Cộng quân tại vùng IV đều bị chống chế không giở trò gì được. Tình hình ở miền Tây thật yên tĩnh, như không có chuyện gì xảy ra trong khi Vùng I, II, III đều bị xích xe tăng Cộng Sản tràn ngập.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền Saigon đầu hàng quân Cộng Sản Bắc Việt. Sau khi để cho các sĩ quan và binh sĩ thuộc quyền giải tán theo lệnh của chính phủ, khoảng nửa đêm 30 tháng 4 rạng ngày 1 tháng 5 năm 1975, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam dùng súng tự sát. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như
Tùng và một số chiến hữu đã tẩm liệm và đưa di hài Thiếu Tướng ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.

Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước đến Cần Thơ mang di hài Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam về hỏa táng. Hiện nay tro cốt của Thiếu Tướng dược lưu tại chùa Già Lam, đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp .




Hồi ký của một Tùy Viên:

Những Giờ Sau Cùng Của Tướng Nguyễn Khoa Nam

Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH

(Trích sách "Nguyễn Khoa Nam")



Cuốn sách Nguyễn Khoa Nam là một tài liệu lịch sử rất giá trị, dầy gần 600 trang, gồm trên 60 bài viết của các tướng lãnh, chiến hữu cũng như thân nhân Tướng Nam. Ðặc biệt có bài cảm nghĩ của cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và nhiều hình ảnh, tài liệu chưa từng công bố.Muốn mua sách, xin liên lạc với Tòa Soạn Nguyệt San Ðoàn Kết. 
Email: doanket@yahoo.com
Ðiện thoại: (512) 346-5810
Gía bán $20 Mỹ Kim


Ông Lê Ngọc Danh, cựu Trung úy QLVNCH, là Tùy viên Tư lệnh QÐIV-QK4 cho đến ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ông là người đã trực tiếp chứng kiến cảnh cả hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng, Tư lệnh và Tư lệnh phó tự sát. Sau đây là chuyện ông kể trong "Hồi Ký Của Một Tuỳ Viên", trích từ sách "Nguyễn Khoa Nam". Sách được ra mắt vào lúc 1 giờ chiều thứ bẩy 28 tháng Tư 2001 tại Hội Quán Little Saigon Radio.Tháng 4 năm 1975Tình hình chung vào tháng 3 năm 1975 rất căng thẳng. Vùng 1, vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư lệnh đi họp liên tục ở Tổng Tham Mưu, ở dinh Ðộc Lập gặp Tổng thống, lúc ở dinh phó Tổng thống. Thời gian còn lại, Tư lệnh thường đến các Tiểu khu và Sư đoàn nhưng đến nhiều nhất là tiểu khu Long An, Ðịnh Tường, Kiến Tường và Châu Ðốc. Vào đầu tháng 4, VC tấn công mạnh, nhằm vào quốc lộ 4 thuộc hai tiểu khu Ðịnh Tường và Long An. Sư Ðoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Ðịnh Tường còn Sư Ðoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực tiểu khu Long An. Vào buổi trưa Tư lệnh đến tiểu khu Long An để biết tình hình địch, VC đã pháo rớt một quả hỏa tiển 122 ly trên giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Ðịch càng ngày càng tấn công mạnh vào quốc lộ 4, Tư lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu, không để mất vị trí hay bỏ chạy nên VC không chiếm được một vị trí nào cả.

Có một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiển 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và tư dinh Tư lệnh. Vị trí pháo hướng đông chi khu Bình Minh thuộc tiểu khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.

Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Ðéc. Trong lúc này, Tư lệnh rối bời lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản từ vùng ngoại ô. Thiếu tướng ra lệnh các Tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân đoàn IV và nhất là giữ quốc lộ 4 đừng dd" VC cắt đứt. Tư lệnh đặc biệt đến thăm tiểu khu Châu Ðốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu. Những ngày kế tiếp họp liên tục với các Tiểu khu và Sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lược bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.

Sáng ngày 24 tháng 4, Tư lệnh đi họp ở bộ Tổng Tham Mưu, nội dung tôi không rõ. Sáng 25 tháng 4, họp ở tiểu khu Ðịnh Tường, có tướng Trường tham dự. Ngày 27 tháng 4, Tư lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí. Sáng 28 tháng 4, cố vấn Mỹ có đến văn phòng Tư lệnh để nói chuyện, nội dung tôi không rõ. Ngày 29, Tư lệnh vẫn đi bay, buổi chiều 29 về họp với tướng Mạch Văn Trường ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ở gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao sao, nhớn nhác chạy lung tung đi lượm đồ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy liệng đầy mặt đại lộ Hòa Bình, quần áo, lon, ly, đồ hộp lon bia vất tứ tung.

Áp lực địch vẫn nặng ở quốc lộ 4, Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp Tư lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư lệnh viết Nhật Lệnh đưa thiếu tá Ðức, Chánh văn phòng chuyển đến phòng Chiến tranh Chính trị để đọc trên đài Phát thanh và Truyền hình để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ. Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư lệnh và kèm theo là Nhật lệnh, nội dung ngắn gọn trấn an dân chúng không được bạo động còn việc tử thủ không được đọc trên đài truyền hình. Sau khi thấy đọc, Tư lệnh buồn buồn chấp tay về phía sau đi tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư lệnh phó vào gặp Tư lệnh (Nội dung cuộc nói chuyện tôi không rỏ). Về sau, tôi được biết nội dung bản Thông cáo đã bị sửa lại, không chính xác như lời Tư lệnh đã viết.

Ðêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc tiểu khu Vỉnh Bình. Ðịch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, tiểu khu trưởng tiểu khu Vỉnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.

Sáng sớm 30 tháng 4, Tư lệnh bay xuống họp ở tiểu khu Ðịnh Tường. Cuộc họp nhanh và xong bay về Cần Thơ. Trở lại Quân đoàn, nói rõ về phòng làm việc của Tư lệnh, phòng làm việc chia hai tầng. Tầng trên có sẵn từ trước, thêm tầng dưới là hầm dưới chân phòng làm việc chính thức. Ở hầm này, rộng và cao, thiết trí giống như phòng làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phòng Tư lệnh. Hầm làm việc này mới được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn.
Tình hình sáng 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng thưa thớt đi lại, xe cộ hạn chế. Về tinh thần binh sĩ vẫn hăng say chiến đấu, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh.

Vào 10 giờ sáng, tôi được báo cáo là Thiếu tá Chánh văn phòng rời văn phòng bỏ đi cùng với đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan, lộ trình sông Hậu ra biển. Tôi vội xuống hầm, nơi làm việc mới của Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh đang ngồi và viết ở bàn làm việc. Tư lệnh thấy tôi theo thường lệ kéo lệch cặp mắt kiếng xuống và hỏi:
- Có gì không?
-Trình Thiếu tướng, thiếu tá Chánh văn phòng và đại tá Tỉnh trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu."
Tư lệnh điềm nhiên không giậnvà nói:
- Ði hả! Ði làm chi vậy.
Nói xong, Tư lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tỉnh không la không buồn. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở radio 24/24 đi theo dõi tình hình ở Sài Gòn.
Tư lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
- Gọi đại tá Thiên gặp tôi.
- Dạ.
Ðại tá Thiên mới nhận chức vụ Tiểu khu trưởng Tiểu khu Phong Dinh kể từ sáng ngày 30 tháng 4.
Bất chợt, tiếng của tổng thống Dương Văn Minh vang lên trên đài phát thanh. Ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với VC và nói:
- Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh và nói:
- Tổng thống Dương Văn Minh đã .....
Tôi nói chưa hết câu, Tư lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
- Qua đã nghe rồi.

Tôi lặng người chầm chậm bước ra. Trong lúc này, nhiều lần Tư lệnh phó liên tục đi vào cửa chánh gặp Tư lệnh. Qua điện thoại, Ðại tá Tiểu khu trưởng Tiểu khu Long An xin gặp gấp Tư lệnh, lần thứ hai, Ðại tá xin giật sập cầu Long An để cắt đường VC chuyển về Vùng 4. Tư lệnh bảo tôi chuyển lời, cầu để yên không được phá sập.

Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở câu lạc bộ Cửu Long về, Tư lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư lệnh nhìn từ trang một, rồi từ từ xé bỏ vào sọt rác. Khoảng 2 giờ chiều, Tư lệnh xuống phòng làm việc dưới hầm. Tôi không biết Tư lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này không có nơi nhìn thấy Tư lệnh được. Tư lệnh bấm loa gọi tôi:
- Danh xuống đây tôi bảo.
Tôi vào phòng trên đi theo cầu thang xuống gặp Tư lệnh. Ông đang ngồi ở sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi đến Tư lệnh nói:
- Danh tháo bỏ những ranh giới, những mủi tên trên bản đồ ." (Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ). Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mủi tên đỏ chĩa vào (Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật theo như tin đồn). Tôi tháo gỡ tất cả những băng keo bỏ vào sọt rát, tháo xong tôi nói:
- Trình Thiếu tướng, em đã tháo xong.
- Ðược rồi.
Tư lệnh buồn buồn theo cầu thang lên phòng làm việc tầng trên, tôi chầm chậm bước theo Tư lệnh và ra phòng làm việc của tôi. Ðộ 10 phút sau, Tư lệnh bấm loa gọi tiếp:
- Danh vào tôi bảo.
- Dạ.
Tôi xô cửa đi nhanh vào, Tư lệnh nhìn tôi nói:
- Tháo bỏ những vị trí trên bản đồ này.
- Dạ.
Tôi đang lúi húi tháo và liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh chấp tay về phía sau chầm chậm đi tới, đi lui. Tôi tháo xong:
- Trình Thiếu tướng, em đãtháo xong.

Nói về phòng làm việc của Tư lệnh, trước khi vào phải qua ba vọng gác: Từ ngoài vào, vọng gác 1 ngoài đầu đường trước khi vào phòng chờ đợi. Vọng gác 2 ngay phòng chờ đợi sát cổng Bộ Tư lệnh. Vọng gác 3 lên tam cấp trước cửa vào phòng làm việc của Tư lệnh.
Vào khoảng 4 giờ chiều, Quân cảnh ở phòng chờ đợi (Vọng gác 2) lên gặp tôi nói:
- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư lệnh. Tôi nói:
- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư lệnh."
Tôi gõ cửa vào gặp Tư lệnh và nói:
- Trình Thiếu tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu tướng.
- Ðược, mời họ vào.

Tôi xuống phòng khách gặp hai VC, tôi thấy hai người đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo, một người hơi thấp, nước da ngâm đen cũng mặc thường phục, họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí. Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tư lệnh chào hỏi và mời ngồi sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng colt và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này với tư thế sẵn sàng cách khoảng 4 thước, tôi sợ hai ông này ám sát Tư lệnh, tay súng sẵn sàng nếu hai ông này có hành vi lạ là tôi nổ súng bắn liền. Tư lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợt Tư lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
- Danh đi ra ngoài đi tôi nói chuyện.
Tôi ấp úng trả lời:
- Dạ ... em ở đây với Thiếu tướng.
- Ðược rồi không sao đâu! Em ra ngoài đi.
- Dạ

Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn thế thủ, mắt nhìn về hướng theo kẻ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Hai người đứng dậy giả từ. Tư lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về.

Tư lệnh ngồi buồn, kế đứng dậy đi tới đi lui như lúc trước, thời gian này rất căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung, nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra, bây giờ còn đi ngoại quốc được không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã vây chặt trong tôi.

Bất chợt tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Ðoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, chạy dài xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam, tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ra ngoài đường, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xếch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.

Khoảng 6 giờ chiều, điện thoại có tiếng lạ. Thông thường khi có chuông reo, tôi thường nói: Tôi trung úy Danh, tùy viên Tư lệnh, xin lổi ai đầu dây? Ở đầu dây xưng cấp bậc tên họ chức vụ rồi nói nhu cầu. Ðàng này sau khi tôi nói, bên kia đầu dây đáp:
- A lô ai đó? A lô ai đó?
Và tiếng lạ tôi không quen thuộc, tôi gác máy không trả lời. Còn đường dây Hotline trực tiếp của Tư lệnh tôi không rõ. Như vậy VC đã vào đường dây điện thoại. Trong lúc rối rắm, tôi qua phòng Tư lệnh phó gặp trung úy Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó. Lúc gặp anh Nghĩa, tôi nói tình trạng điện thoại đã bị VC chiếm và tôi đã nghe có tiếng lạ. Tôi đề nghị, nếu Tư lệnh và Tư lệnh phó muốn nói chuyện với nhau mình phải dùng máy PRC25, đồng thời tôi viết một loạt tần số để xử dụng máy PRC25 và đánh số thứ tự A, B, C, D ... để Tư lệnh nói chuyện kín hơn.

Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư lệnh sữa soạn về tư dinh, Thiếu tướng nói với tôi:
- Danh chuẩn bị xe đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
- Dạ.
Xe chở Tư lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư lệnh đến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư lệnh đến bên thương binh này hỏi:
- Em tên gì?
- Dạ em tên ...
- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
- Dạ khỏe, em là Ðịa phương quân ở tiểu khu Vỉnh Bình.
Tư lệnh nói tiếp:
- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.

Tư lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ buồn tẻ và nặng nề chầm chậm trôi quạ Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lóm đóm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư lệnh đứng sát bên và hỏi:
- Vết thương của em đã lành chưa?
- Thưa Thiếu tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư lệnh chưa kịp nói, anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư lệnh mếu máo:
- Thiếu tướng đừng bỏ tụi em nhe Thiếu tướng.
- Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em.

Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư lệnh đưa tay nâng sửa cặp mắt kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương. Tư lệnh nén đau thương, người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
- Em cố gắng điều trị .... có qua ở đây.
Tư lệnh bước hơi nhanh ra cửa bệnh viện, ra sân Tư lệnh dừng lại quay mắt nhìn lại bệnh viện. Tư lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì cả, sự im lặng quá nặng nề, suốt trên đường về tư dinh, Tư lệnh không nói một lời nào.
Về đến tư dinh, tôi thấy Quân cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẻ họ đã bỏ đi bớt. Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp trung sĩ Ngộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Ngộ, tôi nói:
- Anh Ngộ bắt một con gà làm và luộc để Thiếu tướng dùng."
- Dạ con gà nào Trung úy?
- Ðàn gà nòi Thiếu tướng nuôi anh chọn một con.

Lúc này trên 8 giờ tối, phía Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen ngịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Ngộ làm và nấu xong, đích thân tôi ra sau trailer mời Thiếu tướng vào ăn cơm. Tư lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
- Danh ngồi ăn cơm cho vui.
Ði các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư lệnh, còn ở dinh Tư lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư lệnh gọi tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư lệnh hỏi:
- Thịt gà đâu vậy?
Tôi gượng cười nói:
- Dạ mấy con gà Thiếu tướng nuôi ở sau, em bảo anh Ngộ làm một con đểThiếu tướng dùng.
- Làm thịt chi vậy, ăn như vậy được rồi. Thôi ăn để nguội.
Tư lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng vội buông đũa và nói:
- Dạ em ăn xong, Thiếu tướng dùng tiếp.
Thiếu tướng nói:
- Ăn tiếp, sao Danh ăn ít vậy, thịt còn nhiều.

Vừa nói, Tư lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi, bình thường ăn thấy ngon bây giờ ăn thịt gà cũng như ăn cây mục, miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu tướng ra phòng làm việc. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, chắc có lẻ anh đã bỏ đi (nhà trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn trung úy Việt cùng vợ 2 con vẫn còn ở lại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
- Có liên lạc với tướng Hưng không hè?
- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi. Tôi nói tiếp:
- Dạ, Thiếu tướng muốn nói chuyện với Tư lệnh phó?
- Qua muốn nói chuyện.
Tôi nói với Tư lệnh:
- Vào lúc 5 giờ chiều, hệ thống điện thoại có tiếng lạ, em có cho anh Nghĩa, tùy viên Tư lệnh phó một số tần số PRC25 để lúc cần Thiếu tướng nói chuyện, nhưng bây giờ em không liên lạc được.
Tôi nói tiếp:
- Ðể em đi lại dinh Tư lệnh phó nói mở máy PRC25 để Thiếu tướng nói chuyện.
Tư lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe jeep chở đi từ tư dinh đến dinh Tư lệnh phó đối diện dinh Tỉnh trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽphải vào dinh Tư lệnh phó thì thấy phía bên trái trước dinh tỉnh trưởng có một VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mủi súng chỉa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
- VC đã vô tới rồi.
Tôi bảo tài xế:
- Quay trở lại đi không ổn rồi.
Tài xế lái nhanh về dinh Tư lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em còn lại kéo khoảng 4-5 vòng kẻm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ, rào xong tôi vào trailer báo Tư lệnh:
- Trình Tư lệnh, VC đã vào đến dinh Tỉnh trưởng. Em thấy có một VC cầm súng AK ở trước dinh Tỉnh trưởng.
Tư lệnh làm thinh không nói gì cả, khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu tướng:
- Em đi lần nữa, đểThiếu tướng nói chuyện với Tư lệnh phó. Tư lệnh nhỏ nhẹ nói:
- Thôi đừng đi coi chừng nó bắt.
- Dạ không sao!
Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế:
- Anh Thông đâu đến tôi nhờ một chút.
Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Ngộ quản gia nói:
- Em vừa thấy anh Thông ra cổng. Anh đã bỏ đi rồi.
Bất chợt có một anh (tôi quên cấp bậc và tên):
- Trung úy cần gì em giúp.
- Anh muốn đến dinh Tư lệnh phó.
- Ðược rồi để em đưa ông thầy đi.
Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
- Ði Honda tiện hơn Trung úy.

Rồi anh chở tôi về hướng dinh Tư lệnh phó, rẻ vào dinh anh đậu cách đây khoảng 10 mét bên lề đường.
Dinh Tư lệnh phó, trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với dinh Tỉnh trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòe nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn thấy im lặng không có tiếng trả lời.
Tôi linh cảm không ổn, tôi gọi tiếp và quay lại định trở về, tôi thầm nói không lẻ mình bỏ cuộc. Tôi nói qua với anh lính đậu bên kia đường:
- Anh ráng chờ tôi một chút.
Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào, tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn:
- Tôi trung úy Danh đừng bắn, tôi trung úy Danh đừng bắn. Miệng la tay níu kéo leo vào, tôi lên được đỉnh tường theo đà cây ổi tuột xuống đất. Gặp tôi, anh Nghĩa vừa nói vừa khóc:
- Chuẩn tướng tự sát chết rồi Danh.
- Lúc nào?
- Mới đây, chắc có lẽ hồi nảy Danh nghe tiếng súng nổ.
Anh nói tiếp:
- Chuẩn tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư lệnh phó vào đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.
Tôi đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, tôi thấy tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư lệnh phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
- Thôi Danh đi về.

Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 gì nữa, chuẩn tướng đã chết rồi. Tôi tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ mở cửa, tôi trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: Tại sao Tư lệnh phó tự sát? Nếu Tư lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn tướng tự sát hay là ... tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước đi đến anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! xe và người biến đâu mất, tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy, chắc anh bỏ đi rồi, tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo lộ Hòa Bình đi thẳng về dinh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bải đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió (giấy tờ của tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ dân hôi của vất ra đường từ hôm trước).

Tôi đi bộ mất trên 15 phút về đến dinh, anh lính vẹt từng vòng kẽm gai tôi đi vào rồi kéo lại vị trí củ. Tôi đi nhanh về phía sau vào trailer để trình Tư lệnh sự việc đã xảy ra, vừa thấy Tư lệnh tôi vội vả nói:
- Trình Thiếu tướng em đến dinh Tư lệnh phó, đến nơi ông vừa tự sát chết, Tư lệnh phó đã bắn vào ngực.
- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
Tư lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc, ngồi trên sofa suy nghĩ liên miên. Tư lệnh phó đã tự sát, chắc Tư lệnh sẽ tự sát theo.Tôi xuống nhà gặp trung úy Việt và nói Tư lệnh phó đã tự sát còn Thiếu tướng không biết thế nào? Hai đứa tôi không tìm ra câu trả lời.
Lúc này khoảng 11 giờ đêm, cứ khoảng 15 hay 20 phút tôi vào trailer một lần. Mổi lần vào liếc nhìn, tôi thấy Tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang. Lần khác vào, Tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
- Có gì không?
- Em vào xem Thiếu tướng có sai bảo gì không?
Tư lệnh nói:
- Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
Tôi nhỏ nhẹ nói:
- Trình Thiếu tướng, nếu VC vào dinh tụi em đánh không Thiếu tướng?
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.

Tôi rời trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư lệnh ra phòng làm việc tôi đưa một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
- Danh cất tiền này dành để xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu tướng không dùng đểdành).
Xong Tư lệnh đi vào trailer, tôi hé mở gói này, bên trong toàn bạc 500, tôi đoán chừng trên 400 ngàn đồng và tôi để vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào trailer để quan sát, tôi sợ Tư lệnh tự sát.
Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư lệnh ra gặp tôi nói:
- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à?
- Dạ em ngủ không được.
Tư lệnh móc từ trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:
- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nảy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Ngộ, Thiếu tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư lệnh có ý định gì?

Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
- VC tự động mở cửa vào dinh.
- Anh bảo họ chờ tôi một chút.
Tôi vội vả vào trailer để gặp Tư lệnh, tôi thấy Tư lệnh nằm nghĩ. Tôi trình:
- Trình Thiếu tướng, bọn VC đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố 6, 7 người đang vẹt kẻm gai đi vào hướng cửa dinh. Ðến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ có vấn đầu tóc lũng lẵng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40, đến vòng kẻm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng nửa từ cửa dinh ra, tôi vẹt kẻm gai và gặp họ tại đây.ột người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
- Anh làm gì ở đây?
Tôi nói:
- Tôi làm quản gia.
Tôi nói trớ, không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn. Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
- Anh cấp bậc gì?
- Tôi Trung sĩ.
Bất chợt người mang AK lên đạn đưa mủi súng vào phía sườn tôi và nói:
- Ði.
Tôi lúc bấy giờ hồn phi phách tán, chết là cái chắc. Trong nhóm có người nói:
- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi.

Bọn chúng từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
Súng ngộ và đẹp quá.
Chị bới tóc tiếp theo:
- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
Tôi nghe và thấy những việc trên cỏi lòng xe lại. Bất chợt, nhóm người này dừng lại, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi, chắc bọn chúng bắn mình ở đây, tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại cửa vô dinh. Tôi thấy Tư lệnh bước ra, đẩy nhẹ cánh cửa (cửa luới chắn ruồi trước khi vào phòng làm việc). Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu P-38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi.

Khoảnh khắc, trung sĩ Ngộ từ phòng Thiếu tướng đang nói chuyện với VC chạy đến tôi nói:
- Thiếu tướng bảo Trung úy lấy thuốc lá hút.
Có cớ vào gặp Tư lệnh, người mang AK bỏ thỏng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng sợ hãi nó đàng sau bắn tới. Vô sự thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu tướng một điếu, 3 người mổi người một điếu (Tư lệnh hút thuốc 3 số 555 nhưng thỉnh thoảng hút thuốc Capstan đầu lọc). Tôi thấy Tư lệnh ngồi trên sofa băng dài, người tay không ngồi trên ghế nhỏ đối diện Tư lệnh, người mang khẩu P-38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mủi súng hướng về phía Tư lệnh, còn người mang khẩu carbin đứng ngay cửa phòng tư thế tác chiến.

Xong nhiệm vụ tôi bước ra ngoài, người mang AK vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Trên dưới mười phút nói chuyện, nhóm người này rời dinh ra về, tôi vào phòng thấy Tư lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt buồn buồn, nhìn trên sofa tôi thấy điếu thuốc của Thiếu tướng còn cháy dở dang, mới 1/3 điếu nằm trên sofa bốc khói làm lủng một lổ nhỏ, tôi lấy vất đi. Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư lệnh vào trailer nằm nghĩ, tôi vào lần nữa thấy Tư lệnh nằm yên, chắc Tư lệnh đã mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi rón rén vào phòng Tư lệnh lần nữa, thấy Tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghĩ vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngã lưng trên sofa một chút, vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.

Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông "boong, boong, boong", tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ, qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang Tư lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh mặc quân phục hẳn hoi đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu tướng. Thiếu tướng đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
- Ðêm qua, Danh ngủ được không?
- Mệt quá em nằm nghỉ một chút.
Tư lệnh vẫn ngồi trên sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang qua phòng làm việc. Một lúc sau, Tư lệnh đến bên tôi hỏi:
- Gặp tướng Trường được không hè?
Lúc này khoảng 6 giờ 30 sáng.
- Dạ ... dạ. Tôi ấp úng trả lời. Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy tướng Trường chạy xe jeep ngang qua dinh.
Tư lệnh hỏi tiếp:
- Có phải Trường không?
- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống tướng Trường.
- Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
- Dạ.

Rồi Tư lệnh đi ra sau vào trailer, một lát sau Tư lệnh đi ra hai tay xách hai vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư lệnh đưa cho tôi một cái màu cam, còn trung úy Việt một cái màu đen hay nâu tôi không nhớ rỏ. Tư lệnh buồn buồn nói:
- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
Tư lệnh chỉ nói ngắn gọn không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư lệnh vội bước đi, cách vài bước Tư lệnh quay lại nói tiếp:
- À, quên chìa khóa. Rồi Tư lệnh đi thẳng về sau vào trailer, một lúc sau trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói:
- Cái này của Danh, cái này của Việt.

Tôi linh tính sắp có điều gì sẽ xảy ra. Tư lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra lộ Hòa Bình trước cửa dinh, tôi đứng bên tay phải Tư lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trước lộ vài xe qua lại, người thưa thớt vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu tướng bật khóc. Tướng cố nén tiếng khóc không bật thành tiếng, những giọt nước mắt cuộn tròn chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy, ba người đứng ở đây mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi nghĩ Tư lệnh đi ngoại quốc hết kịp rồi, tới đây VC có bắt Tư lệnh không? Có làm hỗn bắn Tư lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao?Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
Tư lệnh sắp tự sát
Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư lệnh ngồi trên ghế sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về thăm thăm vợ con, còn trung sĩ Ngộ đang thập thò trước cửa. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông "boong, boong, boong" xong xá 3 xá tiếp, xong Tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra. Bất chợt , Tư lệnh xoay qua bảo tôi:
- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
- Dạ.
Tôi tôi thầm nghĩ Tư lệnh và tôi độc thân chắc Tư lệnh nghĩ cách khác.

Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ "đùng" phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi xoay người trở lại chưa kịp bước trung sĩ Ngộ thất thanh chạy la lên:
- Ðại úy ơi! Ðại úy ơi! Thiếu tướng tự sát chết rồi.
Trong lúc sợ hãi, anh Nghộ gọi tôi là Ðại úy. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hải hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thỏng xuống lòng Tư lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng "khọc, khọc, khọc" từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Ngộ thấy vậy vội nói:
- Thôi mình chở Thiếu tướng đi bệnh viện.
Tôi và anh Ngộ ôm chầm lấy Thiếu tướng vừa khóc vừa nói:
- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu tướng đi thăm anh em thương binh ở bệnh viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh qua ở lại với các em.
Anh Ngộ nói tiếp:
- Em đâu dám đến gần Thiếu tướng. Ðứng ở ngoài cửa em chỉ thấy lưng Thiếu tướng. Em thấy Thiếu tướng móc từ trong túi ra, em tưởng Thiếu tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu tướng nổ súng liền em chạy lại đâu kịp.
Vừa nói anh Ngộ khóc nức nở, chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư lệnh khóc. Trong lúc bối rối và hết hồn, tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Lê Ngọc Danh


Thương Tiếc Viết Về  Tướng Nguyễn Khoa Nam Nguyễn Khoa Phước
Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời, cựu SVSQ khóa III Thủ Ðức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khóa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đã yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam, người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Ðức, tôi không thể từ chối được vì các anh là bạn của anh tôi. Ðến giờ phút này, các anh đã ngoài 70, còn ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm tình, những kinh nghiệm. Ðó là điều đáng quý. Tôi kính trọng các anh là ở chỗ đó. Những gì tôi viết ở đây về Thiếu Tướng Nguyễn Văn Nam là của chính tôi biết, những gì do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng Sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết vì anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lãnh vực, mỗi người một hoàn cảnh.

1. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Ðà Nẵng) ngày 23 tháng 9 năm 1927.

Gia đình chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi còn một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sài Gòn, anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Ðà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lúy Vương.

2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường École des Garcons thành phố Ðà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Ðịnh và ở nội trú. Anh đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Ðến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đình chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đã 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Ðệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế. Năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 thì được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Ðức. Lúc đó tôi có giấy gọi vì đã đủ 18 tuổi được miễn vì còn vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.

3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sài Gòn theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) thì gặp anh Nam. Chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau. Chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Ðức.

Tháng 10 năm 1953, anh ra trường tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết gì cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ý thích của mình). Mãi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó. Tôi không có ý kiến gì vì biết tính anh tôi khi quyết định rồi thì không thay đổi được.

Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sài Gòn, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Úy, tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, hòa bình rồi, có tính chuyện vợ con không. Anh cười và nói: "Mình nhảy dù, lấy ai thì người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm." Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.

Năm 1955, anh làm Ðại Ðội Trưởng thuộc TÐ7ND và hành quân đánh Bình Xuyên tại Sài Gòn. Sau đó anh được thăng Ðại Úy và Sư Ðoàn cử anh đi học kỹ thuật ở Pau (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Ðua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-1975. Thật ra thì ít khi về đây, phần lớn thời gian ở trong đơn vị, vả lại về nhà một mình cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này, nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.

Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Ðại Ðội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang lon Ðại Úy từ 1955-1964. Qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá. Từ lúc nắm TÐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TÐ5ND tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Ðoàn 22 BB tổ chức, anh có về thăm gia đình tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có thì giờ rảnh là về nhà tôi tắm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Ðệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngãi.

Ðây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tròn, bên đơn vị mình có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá. Vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đình tử sĩ." Lần đó, anh được ân thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Sau đó tháng 5 năm 1966, TÐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.

Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Ðoàn Trưởng LÐ3ND. Lữ Ðoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Ðại Tá với Ðệ Tam Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Năm 1968, LÐ3ND về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Ðô Thành Sài Gòn Chợ Lớn.

Năm 1969, được cử giữ chức Tư Lệnh SÐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Ðến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng Thực Thụ.

Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức. Tháng 10 năm 1973, được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.

Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Ðoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh, Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sài Gòn tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nửa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngã sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000 đồng tiền Việt Nam. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến Hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Ðội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.

Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.

Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sài Còn về Cần Thơ xin hốt cốt, lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy còn nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng còn rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning. Bộ xương đã được thiêu liền khi đó. Khi thiêu xong tro hài cốt được gia đình đựng trong bình xứ, đem về Sài Gòn ngay hôm đó.

Vài ngày sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lâm với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lâm, đường Lê Quang Ðịnh, quận Gò Vấp, Tỉnh Gia Ðịnh.

Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó vì anh em tôi tuổi cách xa nhau.

Trong gia đình, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một mình, nhiều lúc có tâm sự gì cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.

Thời kỳ còn làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đã chê trách khi cần nhờ vả việc gì.

Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có tình cảm, nhưng tình cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đình binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc gì, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi còn làm Tư Lệnh SÐ7BB, có một lần một vị Thượng Tọa đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp. Các Cha, các Thày cũng vậy thôi.

Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ. Hồi nhỏ, lúc còn học ở bậc trung học, đã là một họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đã được trưng bày ở triển lãm. Trong các năm tản cư 1946-1947, suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại: sơn dầu, sơn bột, chì. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có trình độ ký âm khá.

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo. Ông luôn luôn lẩm bẩm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.







Rạng Danh Anh Hùng - 

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc về một dòng họ danh gia vọng tộc ở đất Thần Kinh Huế. Một trong những vị tổ của họ Nguyễn Khoa là ngài Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng trí dũng song toàn làm quan dưới triều Chúa Nguyễn. Ông nổi tiếng vừa là một võ tướng tài ba, vừa là một văn quan chính trực nổi tiếng xử án như thần. Một trong những công nghiệp lớn lưu truyền trong sử sách của ngài là việc dẹp tan giặc cướp ở Truông Nhà Hồ, mở đường cho dân chúng qua lại buôn bán, thăm viếng.

Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ Truông Nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang.

Lời tự tình nhớ thương của người con trai Đàng Ngoài đã được người con gái Đàng Trong tha thiết nhắn gửi ra:

Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ Nội Tán cấm nghiêm.

Ngài Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng còn được người đương thời sùng bái vì đức độ thanh liêm và phép xử án công minh. Như một câu chuyện cảm động sau về nỗi oan tình của một người vợ trẻ bị buộc tội đầu độc mẹ chồng, chờ ngày bị xử chém. Ngài Nội Tán vâng lệnh Chúa Nguyễn đi tra xét dân tình đã ghé qua làng và giở lại vụ án bí ẩn. Nhìn nét mặt tiều tụy và thân thể còm cõi bỏ ăn uống vì nhớ thương chồng con nằm co người như một cái xác chết trong khám lạnh của người thiếu phụ, ngài Nội Tán tin chắc nàng bị hàm oan. Nhưng làm cách nào để minh oan cho nàng? Thiếu phụ bị làng nước buộc tội là đã tẩm độc trên lá trầu têm cho mẹ chồng, người mẹ chồng ăn xong ngã ra chết. Ngài Nội Tán thẫn thờ đi giữa những hàng trầu bóp trán suy nghĩ. Chợt ngài trông thấy một con rắn độc trườn mình trong những dây trầu, thỉnh thoảng nó thè lưỡi liếm những giọt sương đọng trên cuống lá trầu. Thì ra con rắn mới chính là thủ phạm làm chia rẽ phượng loan và suýt làm rơi một cái đầu. Người mẹ chồng bị chết vì ăn phải nọc độc của rắn dính trên cuống lá. Vụ án được sáng tỏ, thiếu phụ được minh oan, vợ chồng đoàn viên hạnh phúc. Từ đó về sau người Việt mỗi khi ăn trầu thường hay ngắt bỏ cuống lá để ngừa trường hợp trúng độc.

Những cụ tổ dòng họ Nguyễn Khoa từ đời này sang đời khác đều có công nghiệp giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc Nam tiến, đánh dẹp loạn lạc, đem lại thanh bình cho dân chúng.

Được hun đúc từ truyền thống bảo quốc an dân của tiền nhân, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nổi danh là một trong những tướng lãnh tài năng và có đức độ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nguyên quán tổ tiên là ở làng An Cựu Tây, thuộc huyện Hương Thủy, nhưng Thiếu Tướng Nam lại được sinh ra ở Đà Nẵng ngày 23.9.1927. Ông có một người chị là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm và một người em trai là ông Nguyễn Khoa Phước.

Ông cụ thân sinh của Thiếu Tướng Nam là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Giáo Dục Đà Nẵng, cụ nghỉ hưu năm 1941 và trở về Huế. Bà cụ thân sinh của Thiếu Tướng Nam họ Công Tôn Nữ thuộc dòng dõi Tuy Lý Vương, vị vương gia nổi tiếng hay thơ hay chữ đời vua Tự Đức. Văn như Siêu Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường. Thiếu Tướng Nam lớn lên là một người con hiếu thảo, đạo đức và là một học sinh hiền lành chăm học. Trong khoảng năm 1933 đến 1939 cậu bé Nam được gửi theo học Trường Ecole des Garcons Đà Nẵng, tốt nghiệp lên học nội trú Trường Lycée Khải Định Huế. Trong tuổi học sinh đầy hoa mộng, chàng thanh niên có vóc dáng cao to cân đối ấy đã hướng niềm vui thanh cao vào nghệ thuật hội họa và có lần đã trưng bày nhiều tác phẩm của mình trong một cuộc triển lãm.

Trong khoảng thời gian hai năm 1946 - 1947 chiến tranh nổ lớn sau khi quân đội Pháp trở lại Việt Nam, gia đình của chàng thanh niên Nguyễn Khoa Nam theo làn sóng tản cư ra khỏi thành phố. Ở độ tuổi 19 tràn đầy nhiệt huyết và lòng yêu nước ông xin phép gia đình gia nhập tổ chức Thanh Niên Tiền Phong, nhưng bà cụ thân sinh đã khuyên nhủ ông thong thả chờ đợi một thời gian nữa. Là người con chí hiếu ông tuân lời cha mẹ, trong lúc chờ đợi ông tiếp tục phát triển tài năng hội họa của mình, tập vẽ tranh sơn dầu, bột phấn và màu chì, cùng tự làm những khung tranh cho mình.

Chàng thanh niên tài hoa ấy còn nhận ra rằng mình có năng khiếu về âm nhạc và có một kiến thức rất vững chắc về nhạc lý. Tinh thần của ông còn tiến đến một mức cao hơn, khi ông an lạc thụ nhận những lời dạy và giáo lý nhiệm mầu trong kinh sách của Phật giáo, đọc nhiều sách triết học và Nho giáo, theo đuổi một cuộc sống thanh cao và đầy tính nhân bản, ngay cả khi đã khoác áo nhà binh và chìm đắm trôi nổi trong những cơn bão lửa chiến tranh. Cùng với vị tướng tư lệnh đức độ như cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân.

Cả hai vị tướng đều ăn chay trường, cùng được quân dân miền Tây hết mực kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu hay đơn vị chiến trường nào người đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưa, hay bao giờ ông cũng xuống câu lạc bộ cùng dùng cơm với mọi sĩ quan khác, có gì ăn nấy. Bà con thân quyến hay thân hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá dung dị, không vợ con, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành những huyền thoại.

Năm 1947 gia đình Thiếu Tướng Nam trở về lại Huế, ông tiếp tục hoàn tất chương trình trung học đệ nhị cấp và được cho theo học khóa học về hành chánh sau đó. Đến năm 1953 ông được bổ làm Chủ Sự , nhưng chưa được bao lâu thì nhận được lệnh nhập ngũ bảo vệ tổ quốc. Đến đây cuộc đời của viên Chủ Sự trẻ tuổi mở ra một khúc quanh quan trọng, quân đội quốc gia non trẻ Việt Nam đón nhận một tài năng, quân sử ghi lại những trang chiến đấu hào hùng của một tướng lãnh xuất sắc. Sinh viên sĩ quan Nguyễn Khoa Nam theo học Khóa 3 Sĩ Quan Bộ Binh tại Trường Bộ Binh Thủ Đức.

Tháng 10.1953, tân Thiếu Úy Nguyễn Khoa Nam tốt nghiệp và quyết định tình nguyện về binh chủng Nhảy Dù lúc ấy đang trên đà lớn mạnh. Hai cụ thân sinh của người đã qua đời, cho nên người quyết định dâng hiến cuộc đời cho quân đội và binh chủng Nhảy Dù. Sau một khóa học đặc biệt về nhảy dù, Thiếu Úy Nam cùng đơn vị được điều động ra Bắc. Trong vòng một năm, sự chiến đấu quả cảm và tài năng Thiếu Úy Nam đã được xác định bằng chiếc lon mới Trung Úy năm 1954.

Trung Úy Nam cùng toàn bộ các đơn vị Nhảy Dù trở vào Nam, sau khi Hiệp Định Geneva chia đôi đất nước đã ký ngày 20.7.1954. Trung Úy Nam gặp lại người em là ông Nguyễn Khoa Phước sau nhiều năm xa cách, ông Phước lúc ấy chỉ mới 20 tuổi có lần hỏi khi nào thì anh mình mới lập gia đình. Trung Úy Nam mỉm cười hiền lành và từ tốn trả lời: "Anh là lính Nhảy Dù, nếu anh kết hôn sẽ làm cho người ta trở thành góa bụa tội nghiệp lắm". Trong thân quyến họ hàng nhiều người cố giới thiệu nhiều cô gái xinh đẹp, đức hạnh nhưng Trung Úy Nam đều nhẹ nhàng từ chối.

Năm 1955 Trung Úy Nam được đề bạt lên nắm một đại đội thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, tham dự chiến dịch tảo trừ lực lượng Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn. Lữ Đoàn Dù lúc ấy đang đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Đỗ Cao Trí mà sau này nổi danh là viên đại tướng kiệt xuất nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đánh thắng được quân Bình Xuyên và truy quét tàn quân đến mãi tận vùng Rừng Sát, các lực lượng võ trang khác của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo chịu về hợp tác và hợp nhất với Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, chuẩn bị trận chiến đấu sinh tử chống lại cuộc chiến tranh do Hà Nội phát động, dùng con tốt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mở đường xâm chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ.

Sau chiến thắng Bình Xuyên, Đại Úy tân thăng Nguyễn Khoa Nam được gửi đi học một khóa kỹ thuật đặc biệt 8 tháng tại quân trường PAU bên Pháp. Năm sau Đại Úy Nam trở về nước và nhận một chức vụ khiêm nhường là Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Nhảy Dù, đại đội đồn trú trong khuôn viên Trại Hoàng Hoa Thám, Sài Gòn.

Cuộc đời binh nghiệp của Đại Úy Nam vụt chói sáng sau chín năm làm việc ở hậu cứ, được vinh thăng Thiếu Tá và được đề bạt làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Làm Tiểu Đoàn Trưởng của một tiểu đoàn với những vị chỉ huy đầy huyền thoại trước và sau ông như Phạm Văn Phú, Trương Quang Ân, Ngô Quang Trưởng, Lê Quang Lưõng,...Thiếu Tá Nam cùng tiểu đoàn miệt mài hành quân trên khắp bốn vùng chiến thuật, rồi năm 1967 vinh thăng Trung Tá lên nắm Lữ Đoàn 3 Dù và được tưởng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Là con người đạo đức, giàu lòng nhân ái khi ngày ngày phải đối diện với mọi nỗi mọi hình thái kinh khiếp của chiến tranh, Trung Tá Nam từng u sầu nói với ông Phước: "Chiến tranh mang đến chết chóc và tang thương. Lính Việt Cộng mười lăm mười sáu tuổi nằm chết đầy trên núi, đơn vị anh cũng có hàng tá chiến sĩ bị thương, thật là đau xót. Chắc chắn là vợ con họ sẽ đau khổ biết dường nào. Khi trở về hậu cứ anh sẽ tìm cách giúp đỡ những gia đình ấy". Từ khi còn là Thiếu Úy cho đến sau này lên đến Thiếu Tướng, người hết sức yêu thương và chăm lo cho đời sống của binh sĩ thuộc cấp.

Người là một Phật tử, phát nguyện ăn chay 15 ngày trong một tháng, cố gắng tôn trọng những giới răn, tránh sát giới nhưng vẫn làm tròn bổn phận của một người lính bảo vệ đất nước. Vì vậy dưới sự chỉ huy hiệu quả của Trung Tá Nam, Lữ Đoàn 3 Dù đã đánh thắng một trận vang dội trên đồi Ngok Van, được vinh thăng Đại Tá cùng với chiếc huân chương Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc. Đại Tá Nguyễn Khoa Nam đã dẫn dắt Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù về Sài Gòn trong những ngày Mậu Thân binh lửa năm 1968, góp phần vào chiến thắng chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên toàn lãnh thổ, tiêu diệt hầu như toàn bộ lực luợng võ trang của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Quãng đường chông gai chiến đấu cho nền tự do của tổ quốc đối với Đại Tá Nam vẫn còn dài thăm thẳm, khi binh đội miền Bắc ngày càng ồ ạt và công khai theo đường mòn Hồ Chí Minh tràn xuống chiếm lấy miền Nam. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tín nhiệm tài năng của vị Đại Tá Dù, ông quyết định bổ nhiệm Đại Tá Nam về miền Tây làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong năm 1969 và một thời gian ngắn sau vinh thăng lên Chuẩn Tướng. Định mệnh đã đưa người hùng quân lực về Sư Đoàn 7 Bộ Binh và để chuẩn bị đưa người lên một vị trí cao hơn, lừng lẫy hơn rồi đi vào lịch sử ngàn đời. Làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 hay Sư Đoàn 21 Bộ Binh có nghĩa là đang ở trong vị thế sẽ được đề bạt lên chức vụ Tư Lệnh Quân Khu bất cứ lúc nào, như trường hợp Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.

Năm 1972, Chuẩn Tướng Nam vinh thăng Thiếu Tướng, ông nhận trách nhiệm nặng nề bảo vệ các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang, trong khi Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 Bộ Binh hành quân lên Bình Long tăng viện Sư Đoàn 5 Bộ Binh và giải tỏa An Lộc. Tướng hùng thì phải có binh mạnh, có anh hùng thì cũng có hào kiệt, các vị Trung Đoàn Trưởng của SĐ7BB đều là những sĩ quan xuất sắc, trong đó có Đại Tá trẻ tuổi Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 12 đã lập nhiều chiến công cho quân đội. Đại Tá Thành đã đánh thắng lớn trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn giặc trong tháng 4.1975, giữ vững Quốc Lộ 4. Khi Đại Tá Thành đi tù cộng sản ngoài Bắc, nhân khi ông vượt ngục bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục treo Đại Tá Thành lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết.

Trong tháng 11.1974 Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đề bạt lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV & Quân Khu IV thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Thiếu Tướng Nam vô cùng an tâm và hài lòng khi biết vị Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh thay thế ông là Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, một con người kiệt xuất và nhiều huyền thoại. Chắc là ông có được kể cho nghe câu chuyện Chuẩn Tướng Hai cùng hai vị sĩ quan Biệt Động Quân đã đáp máy bay C123 và nhảy xuống chiến trường Khe Sanh đầu năm 1969 ra tận chiến hào tiền tuyến để thăm nom và khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân trấn thủ. Một tin vui khác cũng đến với vị tân tư lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, người hùng An Lộc nhận lệnh về trình diện ông với chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Khu IV. Thiếu Tướng Nam cũng đặt hết tin tưởng vào Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, nguyên Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, trung đoàn mà đã đương đầu trực tiếp với chiến xa T54 địch, bắn cháy 4 và bắt sống 1 chiếc trong ngày đầu tiên đỏ lửa trên các đường phố An Lộc tháng 4.1972. Và Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, trấn thủ vững vàng khu vực trách nhiệm. Năm vị tư lệnh cùng với ban tham mưu mạnh và đầy tài năng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV đã tạo nên một bức tường thép vững chãi bảo vệ quân khu IV. Cho nên trong lúc tình hình các quân khu I, II và III nguy ngậpthì tại quân khu IV quân địch bực tức bó tay không cách nào có thể làm xoay chuyển thếtrận để chiếm lấy miền Tây.

Tướng Dương Văn Minh trong ngày 30.4.1975 ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng và bàn giao các vị trí cho giặc, trang sử chiến đấu oanh liệt và hào hùng cho nền tự do của tổ quốc của quân dân Việt Nam Cộng Hòa bị lật sang trang một cách tức uất. Trong lúc những chiếc khăn rằn và những chiếc áo xanh màu rêu mốc của cộng quân tràn ngập khắp phố phường thủ đô Sài Gòn sau 10 giờ sáng ngày 30.4.1975, thì dưới Quân Khu IV, các vị tướng lãnh vẫn còn chưa chịu đầu hàng dễ dàng như vậy. Vài ngàytrước đó Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng đã cùng soạn kế hoạch phòng thủ Quân Khu IV, chỉnh đốn binh lực, tu sửa doanh trại, công sở tại Cần Thơ để làm thủ đô phòng thủ và đón chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ Sài Gòn di tản về tiếp tục chiến đấu. Bản kế hoạch điều động và phối trí các đơn vị được giao cho một đại tá trong ban tham mưu quân đoàn để liên lạc với các đơn vị đã không đến tay cácđơn vị trưởng để được thi hành. Người đại tá này đã bỏ ngũ và biến mất, có lẽ ông ta đã di tản được ra khỏi Việt Nam. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng chỉ có thể lắc đầu, thời gian và tình thế không còn thuộc về phía Việt Nam Cộng Hòa, nói chính xác hơn Miền Tây trong ngày 30.4.1975.

Vận nước đã đến lúc tang thương như thế này, thành mất thì tướng phải mất theo thành, cho tròn tiết tháo và dũng khí người làm tướng. Hai vị Tướng đứng dưới cột cờ trong sân Bộ Tư Lệnh, thần thái vẫn ung dung và từ giã nhau sau cái bắt tay vĩnh biệt. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của ông lần cuối cùng.

Những ánh mắt u sầu của những chiến sĩ bất hạnh nhìn vị Tư Lệnh, hy vọng người sẽ bảo bọc chở che cho trong những giây phút thê thảm ấy. Thiếu Tướng Nam mắt đẫm lệ nhìn những người chiến sĩ thân thương của ông, người rùng mình không dám nghĩ đến những chuyện ghê rợn mà quân cộng sẽ đối xử với những người thất trận thương phế này, sau khi ông đã vĩnh viễn đi thật xa sang một thế giới khác. Có một lần khi người xem cuộn phim Đường 9 Nam Lào tịch thu được trong một cuộc hành quân, với cảnh Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị cũ của ông, bị sa vào tay giặc, Thiếu Tướng Nam thở dàinói với một sĩ quan ngồi gần bên: "Nếu rơi vào hoàn cảnh như vậy, chắc mình phải tự sát". Giờ đây cái ý tưởng không chịu cúi đầu sống nhục trong cùm xích cộng sản và lấy cái chết để báo ơn Tổ Quốc trở lại và hiện rõ hơn bao giờ hết. Mối thương cảm vận nước, chiến hữu và thương binh đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên.

Khi Thiếu Tướng Nam trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế buổi tối cùng ngày, ông nhận được tin Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tự kết liễu tại văn phòng Tư Lệnh Phó, ông điện sang bà quả phụ Thiếu Tướng Hưng an ủi. Người tự biết giờ ra đi của mình cũng chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi nữa thôi. Có một viên thiếu tá địch xin vào gặp Thiếu Tướng để tiến hành việc bàn giao, vẫn giữ uy phong của một vị Tư Lệnh, người đã dõng dạc trả lời: "Chúng tôi sẽ thu xếp, nhưng các anh không được phép bạo động. Nếu trái lại, tôi sẽ không bảo đảm ngay chính mạng sống của anh". Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ quân phục tác chiến màu xanh ô liu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trong chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa súng lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái. Trên bàn có một chiếc cặp đựng một ít giấy tờ cá nhân cùng 40.000 đồng, số tiền lương khiêm nhường của một vị Tướng. Ngoài ra trong túi áo người còn có một quyển kinh Phật gói trong bao plastic.

Ngày hôm sau một vài sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn vào chào kính vị chỉ huy anh dũng và tìm cách mai táng thi thể Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Trung Tá Bác Sĩ quân đội Hoàng Như Tùng, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản cùng một số chiến sĩ làm lễ hạ huyệt và mai táng Thiếu Tướng Nam trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1.5.1975. Ngày 2.5.1975 cụ bà Diệu Khâm cùng người con gái xuống Cần Thơ và dựng mộ bia cho người. Cho đến tháng 3.1994 bà hiền nội ông Nguyễn Khoa Phước, trong lúc ông Phước còn trong nhà tù miền Bắc, đã xuống Cần Thơ bốc mộ và hỏa thiêu hài cốt Thiếu Tướng Nam đựng trong hũ đem về thờ trong chùa Gia Lâm nằm trên đường Lê Quang Định, Gò Vấp, tỉnh Gia Định cho mãi đến ngày nay.

Lịch sử rốt cuộc đã trả lại công lý và sự thật cho những oan khuất mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã ngậm đắng nuốt cay mang mễn từ một phần tư thế kỷ qua. Các nhà viết quân sử thế giới, kể cả ông Henry Kissinger trong thời điểm hiện nay đều cùng thừa nhận Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu rất anh dũng và là một nhân tố tích cực chống giữ an toàn cho vùng Đông Nam Á, để những nước này có những cơ hội trở thành những con rồng con hổ ở Á Châu. Những vị thần tướng nước Nam Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, v.v..là những ánh sao chói chang của lịch sử, là niềm tự hào của đất nước chúng ta và những thế hệ con cháu Việt Nam cho đến ngàn đời sau.


Phạm Phong Dinh

Tiểu Sử Tướng NGUYỄN-KHOA-NAM

Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình văn học, tôn sùng đạo Phật.
Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.
Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài Gòn và đã hồi hưu. Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Ông tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951.
Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên, gia nhập Khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953. Mãn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt.
Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật. Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy. Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm sau, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.
Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc Hành Quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư Đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi Ngok Van 1416 ở Kontum, tiêu diệt một trung đoàn chủ lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn mang cấp bậc trung tá.
Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của tổng thống Hoa Kỳ.
Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này.

Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 thì được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ.
Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách là Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi.
THẮP NÉN HƯƠNG TƯỞNG NIỆM
TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM

Đức độ tài năng đã rõ ràng
Báo đền nợ nước, NGUYỄN KHOA NAM
Núi sông bức tử vào tay giặc
Thà chết vinh danh, chẳng nhục hàng!


Ngô Minh Hằng
1975 - Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam

Chiều chiều ra đứng ngã sau;
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét