Thứ Ba, 12 tháng 2, 2013

DANH TƯỚNG NGUYỄN VĂN HIẾU

Danh Tướng Nguyễn Văn Hiếu
Nguyễn Văn Hiếu

23 tháng 6, 1929 - 8 tháng 4, 1975(45 tuổi)



Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu
Tiểu sử
Nơi sinhThiên Tân, Trung Quốc
Binh nghiệp
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1951-1975
Cấp bậc Thiếu tướng
Chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam
 Quân lực Việt Nam Cộng hòa



Nguyễn Văn Hiếu (1929 – 1975) là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông được nhiều người đánh giá là một vị tướng liêm khiết, từng được cử giữ chức Phụ tá Đặc trách trong Ủy ban Chống Tham nhũng thuộc Phủ Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Ở vị trí công tác này, ông đã làm mất lòng nhiều đồng nghiệp mà họ vốn có nhiều tai tiếng tham nhũng. Nhiều người cũng cho rằng đây là lý do dẫn đến cái chết bí ẩn của ông trong văn phòng tại bản doanh Quân đoàn III tại Biên Hòa ngày 8 tháng 4 năm 1975, khi đang giữ chức Tư lệnh phó Hành quân Quân đoàn.

Tiểu sử


Nguyễn Văn Hiếu sinh ngày 23 tháng 6 năm 1929 tại Thiên Tân, Trung Quốc. Đầu năm 1933, gia đình[1] dọn về sinh sống trong phần tô giới Phápcủa thành phố Thượng Hải. Năm 1949, trong khi học tại Đại học Aurore thì Đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, ông theo gia đình trở về Sài Gòn. Vào đầu năm 1950, gia đình ông chuyển ra Hà Nội. Đầu năm 1951, ông theo học binh nghiệp tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt.



Ông tốt nghiệp Khóa 3 Trường Võ bị ngày 1 tháng 7 năm 1951. Sau khi tốt nghiệp, ông được bổ nhiệm vào làm sĩ quan của quân đội Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, cấp bậc Thiếu úy. Năm 1953, do sức khỏe kém, ông được phái vào Nam, phục vụ tại phòng 3 (Hành quân) Bộ Tham mưu Quân đội Quốc gia, dưới quyền Đại tá Trần Văn Đôn. Đây là nguồn gốc của mối quan hệ thân tình giữa ông và tướng Trần Văn Đôn sau này.



Sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông vẫn tiếp tục phục vụ thêm một thời gian ở Ban tham mưu Bộ Tổng tham mưu. Năm 1957, tướng Trần Văn Đôn rút ông về phục vụ tại Phòng 3 của Bộ tư lệnh Quân đoàn 1, cấp bậc Thiếu tá. Cuối năm 1962, ông được cử đi học khóa Chỉ huy và Tham mưu tại học viện US Army Command and General Staff College, Fort Leavenworth, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ và tốt nghiệp ngày 10 tháng 5 năm 1963.



Sau khi về nước, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 bộ binh.



Sau cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963, ông được thăng Đại tá, là quyền tư lệnh Sư đoàn 1 trong thời gian ngắn, thay cho tướng Đỗ Cao Trí (kiêm nhiệm).



Cuối năm 1963, ông được đưa về làm Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, cũng dưới quyền tướng Đỗ Cao Trí. Ông cũng được bổ nhiệm hai lần giữ chức Tư lệnh sư đoàn 22; lần thứ nhất từ 7 tháng 9 đến 24 tháng 10 năm 1964[2]; lần thứ nhì từ 23 tháng 6 năm 1966 đến 14 tháng 8 năm 1969.



Ông được thăng cấp Chuẩn tướng (1 tháng 11 năm 1967), rồi Thiếu tướng (1 tháng 11 năm 1968), khi đang giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 22.



Từ 14 tháng 8 năm 1969 đến 9 tháng 6 năm 1971, ông lần lượt giữ các chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 rồi Tư lệnh phó Quân đoàn 1.



Ngày 10 tháng 2 năm 1972, ông được Phó tổng thống Trần Văn Hương đề cử giữ chức Phụ tá Đặc trách trong Ủy ban Bài trừ Tham nhũng, cấp bậc tương đương Thứ trưởng.



Tháng 10 năm 1973, ông được bổ nhiệm về làm Tư lệnh phó Quân đoàn 3, đặc trách hành quân, dưới quyền Trung tướng Phạm Quốc Thuần, kế sau dưới quyền Trung tướng Dư Quốc Đống (23 tháng 10 năm 1974), và tiếp sau dưới quyền Trung tướng Nguyễn Văn Toàn (1 tháng 2 năm 1975).



Tuy nhiên, đến ngày 8 tháng 4 năm 1975, ông bị phát hiện chết trong văn phòng riêng tại bản doanh Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 bởi một viên đạn bắn vào cằm. Theo công bố ban đầu của chính quyền thì nguyên nhân cái chết là do tự sát, sau đó đã được cải thành ngộ sát: bị cướp cò khi chùi súng. Ngày 10 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu công bố quyết định truy phong cho Nguyễn Văn Hiếu quân hàm Trung tướng.



Các trận đánh và hành quân tiêu biểu



Quyết Thắng 202 (Đỗ Xá), 1964



Đại tá Hiếu, Tham mưu trưởng Quân đoàn II, được ủy thác điều nghiên và thi hành Hành quân Quyết Thắng 202[4] đánh thẳng vào mật khu bất khả xâm phạm Đỗ Xá của Việt Cộng, nằm sâu trong dãy Trường Sơn tại giáp giới ba tỉnh Kontum, Quảng Ngãi và Quảng Tín, từ 27 tháng 4 đến 27 tháng 5 năm 1964.



Tham dự cuộc hành quân này gồm có các đơn vị của Trung đoàn 50 thuộc Sư đoàn 25 dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Phan Trọng Trinh, bốn tiểu đoàn Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Sơn Thương và một tiểu đoàn Dù dưới quyền chỉ huy của Đại úy Ngô Quang Trưởng.



Các toán quân được trực thăng vận tới hai địa điểm đổ bộ do ba phi đội trực thăng yểm trợ: phi đội HMM-364 của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, phi đội 117 và phi đội 119 thuộc Phi đoàn 52 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ.



Diễn tiến và kết quả trận đánh theo nguồn tin của Quân lực Việt Nam Cộng hoà thì phe Cộng sản tấn công mãnh liệt các phi vụ đổ bộ trong hai ngày đầu, sau đó đào thoát để tránh né đụng độ. Cuộc Hành quân Đỗ Xá đã phá hủy hệ thống truyền tin của bộ chỉ huy Việt Cộng gồm năm trạm phát thanh, một trạm dùng để liên lạc với Bắc Việt và bốn trạm dùng để liên lạc với các đơn vị Việt Cộng hoạt động tại các tỉnh lỵ; phe Việt Cộng bị tổn thất với 62 chết, 17 bị bắt, mất 2 súng phòng không 52 ly, 1 súng liên thanh 30 ly, 69 súng cá nhân và một số lượng lớn mìn và lựu đạn, các dụng cụ công binh, chất nổ, thuốc men và tài liệu; phá hủy 185 căn nhà, 17 tấn lương thực và 292 mẫu mùa màng.



Pleime, 1965



Theo nguồn tin của quân báo của Việt Nam Cộng hòa thì sau khi thất bại không đánh chiếm được trại Lực lượng Đặc biệt Đức Cơ vào tháng 8 năm 1965, vào tháng 10 cùng năm tướng Võ Nguyên Giáp phát động Chiến dịch Đông Xuân nhằm cắt Nam Việt Nam làm đôi, từ Pleiku thuộc vùng cao nguyên xuống đến Qui Nhơn thuộc vùng duyên hải. Kế hoạch của tướng mặt trận của Việt Cộng, Chu Huy Mân, như sau:



Trung đoàn 33 Bắc Việt vây hãm tiền đồn Pleime để nhử Quân đoàn 2 đem viện binh từ Pleiku kéo xuống;
Trung đoàn 32 Bắc Việt nằm phục kích đón chờ quân viện binh (một con mồi ngon khi không được yểm trợ bởi hỏa lực của các căn cứ pháo binh đặt gần bên);
Sau khi triệt hạ viện binh, Trung đoàn 32 Bắc Việt trở đầu tiếp sức Trung đoàn 33 Bắc Việt thanh toán trại Pleime;
Đồng thời một khi tuyến phòng thủ của tỉnh Pleiku bị suy yếu vì phải đưa quân tiếp cứu trại Pleime, Trung đoàn 66 Bắc Việt sẽ khởi sự tấn kích cầm chừng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, chờ cho Trung đoàn 32 và 33 Bắc Việt thanh toán xong trại Pleime lên tiếp sức tấn chiếm tỉnh Pleiku.



Để hóa giải kế hoạch của tướng Chu Huy Mân, ông bàn định kế hoạch với Sư đoàn 1 Kỵ binh Mỹ như sau:



Quân đoàn II làm bộ mắc mưu địch phái một đơn vị Biệt kích hỗn hợp Mỹ và Việt tới trại Pleime trước để tiếp sức với quân đồn trú bảo vệ trại;
Gửi một Chiến đoàn từ Pleiku xuống tiếp cứu trại Pleime;
Sư đoàn 1 Kỵ binh Mỹ sẽ gửi một Lữ đoàn thay thế số quân đi tiếp ứng bảo vệ tỉnh Pleiku;
Đồng thời Sư đoàn 1 Không kỵ sẽ trực thăng vận nhiều pháo đội rải rác tại các vị trí gần địa điểm phục kích dùng thế "tiền pháo hậu xe" yểm trợ cho Chiến đoàn tiếp cứu khi hữu sự.



Kết quả của trận đánh theo nguồn tin của Quân lực Việt Nam Cộng hòa là: Kế hoạch thắng lợi do đó Trung đoàn 66 Bắc Việt bị vô hiệu hóa nằm bất động ở rặng núi Chu Prong, Trung đoàn 33 Bắc Việt bị đánh tan tành ở điểm phục kích, và Trung đoàn 32 Bắc Việt phải bỏ vây hãm căn cứ Pleime và tháo lui vào rừng rậm.



Theo báo cáo của Mặt trận Tây nguyên của quân Giải phóng thì mục tiêu của "Chiến dịch Plây Me" của quân Giải phóng là dùng chiến thuật đánh diện (đồn) đả điểm (phục kích quân tiếp cứu) để dụ quân ngụy đưa quân tiếp cứu đồn Pleime với mục đích triệt hạ đoàn quân tiếp cứu. Việc này để dụ lính Mỹ thuộc Sư đoàn 1 Kỵ binh Hoa Kỳ nhảy vào ổ phục kích giăng sẵn tại thung lũng Ia drang trong rặng núi Chu Prong:



"Về kế hoạch, dự kiến chiến dịch chia làm 3 đợt: Đợt 1, vây đồn Plây Me, diệt quân ngụy đi ứng viện; đợt 2, tiếp tục vây đồn Plây Me buộc quân Mỹ vào tham chiến; đợt 3, tập trung lực lượng nhằm vào một cánh quân Mỹ để tiêu diệt và kết thúc chiến dịch."



Thần Phong II



Về cuộc Hành quân Thần Phong II, theo đánh giá của Bộ Tham mưu Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa, thì tình hình quân sự như sau:



Trong năm 1965, phe Việt Cộng tấn công ồ ạt khắp vùng Cao Nguyên thuộc Quân khu II. Vào đầu tháng 7 năm 1965, ba trung đoàn Bắc Việt (trong số đó chắc chắn có trung đoàn 32) đã hoàn toàn cô lập hóa vùng Cao Nguyên. Các đơn vị bạn không còn sử dụng được các Quốc lộ 1, 11, 14, 19 và 21, và mọi tiếp tế cho vùng Cao Nguyên chỉ có thể thực hiện qua đường hàng không.



Vì vậy ngày 8 tháng 7 năm 1965, tướng Vĩnh Lộc ủy thác cho ông điều nghiên kế hoạch khai thông Quốc lộ 19.



Trái ngược với thông lệ khi hành quân khai lộ là tập trung một lực lượng quân lính to lớn để tuần tự dẹp các ổ phục kích và nút chận của địch quân dọc trên quốc lộ, ông đã nghĩ ra kế cấm cản địch quân thiết lập các ổ phục kích và nút chận bằng cách dùng chiến thuật dương đông kích tây. Từ ngày N-6 đến N+2, ông cho Sư đoàn 22 và Thiết vận 3 đánh thốc từ Qui Nhơn xuống Tuy Hòa trên Quốc lộ 1; cho Chiến đoàn 2 Dù cùng Địa phương quân và Nhóm Dân sự Chiến đấu tấn công tái chiếm quận Lệ Thanh; cho Chiến đoàn Alpha thủy quân lục chiến và Trung đoàn 42 đánh từ Pleiku lên Bắc Dak Sut trên Quốc lộ 14; và cho Tiểu đoàn Công binh Chiến đấu đánh từ Phú Bổn đến Tuy Hòa để sửa chữa Liên tỉnh lộ 7.



Sau khi gây hoang mang cho phe Việt Cộng với đồng loạt các cuộc hành quân qui mô đó, ông "dồn ép Việt Cộng từ ba hướng với các cuộc tiến quân phát xuất từ Pleiku và Qui Nhơn và một bủa vây thẳng góc từ bắc An Khê tung xuống. Những động tác này được thi hành bởi một chiến đoàn của tiểu khu Pleiku phát xuất từ Pleiku, hai chiến đoàn của Sư đoàn 22 Bộ binh phát xuất từ Qui Nhơn, và một chiến đoàn của hai tiểu đoàn Dù được trực thăng vận vào mạn bắc An Khê và tấn công xuống hướng nam với Chiến đoàn Alpha của Lữ đoàn TQLC thực hiện việc kết nối," đồng thời "đặt để một lực lượng trừ bị lớn mạnh gồm ba tiểu đoàn (một biệt động quân, một thủy quân lục chiến và một dù) và hai đơn vị thiết giáp tại các địa điểm chiến thuật: Pleiku, Suối Đồi, An Khê và Đèo Mang." Nhờ vậy, các đoàn xe vận tải có hộ tống có thể di chuyển ngày đêm trên Quốc lộ 19 trong 5 ngày từ N+3 đến N+7, "gầy dựng được một tồn trữ tiên khởi tiếp tế lên tới 5.365 tấn tại Pleiku". Tiếp đó các đơn vị hành quân rút về các căn cứ trong hai ngày N+8 và N+9.



Kết quả của Hành quân Thần Phong là "các đoàn xe được hộ tống tạo một sinh khí mới trên vùng Cao Nguyên. Vật giá thực phẩm và hành hóa thuyên giảm từ 25 đến 30 phần trăm, đồng thời dân chúng hồi phục cảm nghiệm an ninh, tin tưởng và hy vọng. Các học sinh tại Pleiku tình nguyện giúp quân lính gỡ hàng xuống, và dân chúng trước đây di tản nay trở về làng xã."



Liên Kết 66



Phan Nhật Nam, một lính Dù tham dự Hành quân Liên Kết 66[8], kể lại trận đánh như sau:



"Trung đoàn 42 thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh, với sự trợ lực của đơn vị tăng phái Chiến đoàn 3 Nhảy Dù làm thành phần chận địch đóng trên núi, hợp cùng chi đoàn thiết vận xa M113 lùa địch từ Quốc lộ 1 vào núi tại Đèo Phù Cũ trong tỉnh Bình Định. Các chiến sĩ bộ binh tùng thiết với thiết vận xa M113 theo đội hình hàng ngang, ào ạt tiến tới sau một đợt tác xạ mạnh mẽ. Chiến đoàn trưởng Nhảy Dù, Trung tá Nguyễn Khoa Nam, đứng trên sườn núi chong ống nhòm quan sát trận địa, đã nói: Đại tá Hiếu điều quân như một 'ông thiết giáp' nhà nghề, và lính Sư đoàn 22 đánh đẹp đâu thua lính mình."



Đại Bàng 800



Đầu tháng 2 năm 1967, Đại tá Hiếu, Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh, phát động Hành quân Đại Bàng 800[9]. Trước đó ròng rã ba ngày, các đơn vị của Sư đoàn 1 Kỵ binh Hoa Kỳ, ráo riết truy lùng địch quân, nhưng thất bại không phát hiện được một mống du kích quân nào. Thay vì đi lùng kiếm địch, ông xoay qua kế dụ địch bằng cách phái một trung đoàn trừ vào vùng Phù Mỹ đóng quân qua đêm, biết chắc là các điệp viên của Việt Cộng trà trộn trong dân chúng sẽ báo cáo quân số yếu kém của đơn vị bạn. Trong khi đó, ông ếm sẵn một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và một thiết đoàn kỵ binh cách địa điểm đóng quân 10 cây số, ngoài mọi tầm quan sát của địch. Phe Việt Cộng đã nghĩ là có một con mồi ngon, tung ra một trung đoàn thuộc Sư đoàn 3 Sao Vàng BV, định xơi tái trung đoàn trừ vào lúc 2 giờ sáng. Được báo động, ông ra lệnh cho đơn vị trừ bị phóng tới cắt đường tháo lui của địch và đồng thời hợp lực với quân trú phòng tạo thế gọng kìm làm thịt địch quân. Kết quả là sau ba tiếng đồng hồ giao tranh, phe Việt Cộng bỏ lại hơn 300 xác chết và nhiều súng ống ngổn ngang trên bãi chiến trường.



Toàn Thắng 46



Ban cố vấn Mỹ của Sư đoàn 5 Bộ binh VNCH phúc trình[10] Hành quân Toàn Thắng 46 như sau:



Bối cảnh: Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1970, Sư đoàn 5 tham dự vào cuộc xua quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa qua lãnh thổ Campuchia, với Hành quân Toàn Thắng 46 vào vùng Lưỡi Câu ở phía Bắc Lộc Ninh.



Hậu cứ của quân Việt Cộng trong vùng này gồm có bản doanh Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bắc Việt (SĐ5BV), trung tâm huấn luyện và bệnh xá của Nhóm Dịch vụ Hậu cần 70 và 80. Hai Trung đoàn 174 và 275 thuộc SĐ5BV hoạt động trong vùng này.



Mục tiêu: Tấn công và triệt phá Nhóm Dịch vụ Hậu cần 70 và 80, trung tâm huấn luyện và bệnh xá. Đồng thời truy lùng và triệt phá các kho tàng lương thực, đạn dược, vũ khí và dược phẩm trong vùng hành quân.



Thiết kế: Trước tiên hai Tư lệnh Sư đoàn 5 và Tư lệnh Sư đoàn 1 Kỵ binh Mỹ, tướng Hiếu và tướng Casey, cùng hai ban tham mưu Việt-Mỹ điều nghiên sơ khởi phối trí hành quân. Sau đó Tư lệnh phó Sư đoàn 5, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 11 Thiết kỵ Mỹ điều nghiên chi tiết phối hợp hành quân. Hai trung đoàn Việt Mỹ được quyền sử dụng căn cứ Yểm trợ Hỏa lực GONDER để phối hợp yểm trợ không lực và phi pháo.



Thực hiện: Hành quân Toàn Thắng 46 gồm năm giai đoạn. Giai đoạn I là giai đoạn tấn công; Giai đoạn II, III và IV là giai đoạn lùng và diệt địch; Giai đoạn V là giai đoạn triệt thoái.



Toàn Thắng 8/B/5



Ban cố vấn Mỹ của Sư đoàn 5 Bộ binh VNCH phúc trình Hành quân Toàn Thắng 8/B/5 như sau:



Bối cảnh: Ngày 14 tháng 10 năm 1970, Bộ Tư lệnh Quân đoàn III chỉ thị cho Sư đoàn 5 hành quân cường thám sang lãnh thổ Campuchia vào mật khu của quân Việt Cộng đóng quanh vùngSnoul. Cuộc hành quân Toàn Thắng 8/B/9 kéo dài từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 10 tháng 11 năm 1970.



Lực lượng phe Việt Cộng:



Trung đoàn 174, Trung đoàn 275 và Tiểu đoàn Z27 Viễn thám thuộc SĐ5BV;
Nhóm Dịch vụ Hậu cần 86, C11 (Y tế);
Du kích quân C1/K2 tại Tây-Bắc Snoul;
Du kích quân tại Chợ thị chấn Snoul;
Du kích quân tại K'bai Trach, Tây-Nam Snoul.



Mục tiêu: Phá hủy lực lượng địch, căn cứ địch, và thâu thập tin tức địch quanh vùng Snoul.



Thiết kế:



Tư lệnh Sư đoàn 5, tướng Hiếu, cùng ban tham mưu đảm nhiệm thiết kế hành quân.
Lực lượng hành quân gồm 3 chiến đoàn: CĐ1 (Thiết đoàn 1 chủ lực), CĐ9 (Trung đoàn 9 chủ lực) và CĐ333 tăng phái (Chi đoàn 18 Thiết kỵ và bốn Tiểu đoàn Biệt Động Quân). CĐ333 có trách nhiệm bảo vệ và duy trì an ninh trục lộ tiếp tế.



Kế hoạch hành quân được Quân đoàn III phê chuẩn ngày 21 tháng 10 năm 1970. Buổi họp phối trí chung kết diễn ra ngày 22 tháng 10 năm 1970 tại Lai Khê, giữa tướng Tư lệnh Sư đoàn 5 với các cấp chỉ huy liên hệ.



Thực hiện: Hành quân Toàn Thắng 8/B/5 gồm 3 giai đoạn. Giai đoạn I: tiến quân giao tranh với địch; Giai đoạn II: giao tranh với địch tại vùng Bắc thị trấn Snoul; Giai đoạn III là giai đoạn triệt thoái.



Toàn Thắng TT02 (Snoul 1971)



Cuối năm 1970, ông dụ địch bằng cách đặt một trung đoàn ở Snoul sâu trong lãnh thổ Campuchia, phía bắc Lộc Ninh trên Quốc lộ 13. Phe Việt Cộng có 3 sư đoàn (5, 7 và 9) hoạt động quanh vùng đó. Quân đoàn III sẵn sàng dốc toàn bộ 3 sư đoàn 5, 18 và 25 nếu phe Việt Cộng dám tung quân vào trận chiến một, hai hay cả ba sư đoàn. Rủi ro thay, tướng Trí bị tử nạn trực thăng cuối tháng 2 năm 1971, và tướng Minh, người thay thế tướng Trí, không chịu thi hành đến cùng kế hoạch dụ địch vào phút chót, khi Chiến đoàn 8 thành công dụ địch bu quanh Snoul với hai Sư đoàn 5 và 7 Bắc Việt. Quân lính phòng thủ của Chiến đoàn 8, khi không thấy viện binh tới mà cũng không có B-52 đến yểm trợ, sắp phải toan phất cờ trắng đầu hàng. Tuy nhiên, tướng Hiếu đã trở tay kịp đế rút quân an toàn về tới Lộc Ninh. Cuộc lui binh được thực hiện cách trật tự qua ba giai đoạn:



Ngày 29 tháng 5 năm 1971, Tiểu đoàn 1/8 phá vỡ vòng vây rút từ tiền đồn nằm ở phía bắc Snoul về chợ Snoul, nơi đóng quân của Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 8;
Ngày 30 tháng 5 năm 1971, Chiến đoàn 8 dùng Tiểu đoàn 1/8 làm mũi giáo chọc thủng vòng vây địch, kéo theo các Tiểu đoàn 2/8, Bộ Chỉ huy Chiến đoàn, Thiết đoàn 1 với Tiểu đoàn 2/7 bọc hậu, rút từ Snoul tới địa điểm đóng quân của Tiểu đoàn 3/8, cách Snoul 3 cây số trên Quốc lộ 13;
Ngày 31 tháng 5 năm 1971, Tiểu đoàn 3/8 thay Tiểu đoàn 1/8 làm mũi giáo chọc thủng vòng vây, kéo theo sau Tiểu đoàn 3/9, Tiểu đoàn 2/7, Bộ Chỉ huy Chiến đoàn, Thiết đoàn 1 với Tiểu đoàn 1/8 bọc hậu, rút từ địa điểm 3 cây số cách biên giới Việt-Miên này về tới Lộc Ninh.



Theo quan điểm của Quân đội Nhân dân Việt Nam ghi trong Trận đánh ba mươi năm - ký sự lịch sử 2 về chiến dịch này như sau:



"Ngày 25 tháng 5 năm 1971, bộ đội chủ lực ta do sư đoàn 5 và sư đoàn 7 phối hợp với quân và dân Cam-pu-chia tổ chức bao vây và đánh mạnh vào quân địch ở Xnun. Trưa ngày 30 tháng 5, quân địch ở đây tháo chạy bất chấp lệnh của Sài Gòn là chúng phải cố giữ Xnun. Buổi chiều cùng ngày, trên con đường rút chạy, chúng bị bộ đội ta phục kích và loại khỏi vòng chiến đấu chiến đoàn bộ binh địch cùng trung đoàn thiết giáp đặc nhiệm và tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch."



Svay Riêng, 1974



Năm 1974, trong tư cách Tư lệnh phó Hành quân Quân đoàn III, phụ tá cho tướng Phạm Quốc Thuần, ông đã áp dụng chiến thuật Blitzkrieg (chiến trận thần tốc) để giải tỏa áp lực của Sư đoàn 5 Bắc Việt từ tỉnh lỵ Svay Riêng trong vùng Mỏ Vẹt thuộc lãnh thổ Campuchia[14] nhằm vào căn cứ Đức Huệ. Trước hết, ông dùng 20 tiểu đoàn di động bao quanh vùng Mỏ Vẹt. Tiếp đến, ngày 27 tháng 4 năm 1974, ông tung Trung đoàn 49 Bộ binh và Liên đoàn 7 Biệt Động Quân qua vùng đồng lầy quanh Đức Huệ tiến tới biên giới Campuchia, và cho không quân bắn phá dội bom các vị trí đóng quân của SĐ5BV. Đồng thời, ông cậy nhờ hai tiểu đoàn ĐPQ của Quân đoàn IV từ Mộc Hóa tấn lên phía Bắc, thiết lập những nút chận mạn Đông Nam của vùng tập trung quân và khu tiếp vận của SĐ5BV.



Vào ngày 28 tháng 4, ông tung 11 tiểu đoàn vào trận địa để thực hiện những cuộc hành quân tiên khởi chuẩn bị cho cuộc tấn công chính.



Vào sáng ngày 29 tháng 4, 3 chi đoàn thiết giáp của Lực lượng Xung kích Quân đoàn III chọc thủng qua biên giới Campuchia từ phía Tây Gò Dầu Hạ, nhắm hướng bản doanh bộ tư lệnh của SĐ5BV mà xông tới.



Trong khi đó, Chiến đoàn Bộ binh và Thiết giáp của Quân đoàn IV được điều động xuất phát từ Mộc Hóa tiến qua biên giới đi vào vùng Cẳng Chân Voi, đe dọa đường rút lui của Trung đoàn 275 Bắc Việt. Trong khi các chi đoàn thiết giáp tiếp tục xông tới, tiến sâu đến 16 cây số vào lãnh thổ Campuchia trước khi chuyển bánh lái về phía Nam hướng về tỉnh lỵ Hậu Nghĩa, và trong khi các trực thăng đổ quân bất ngờ xuống các vị trí địch quân, các đơn vị khác của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phát động những cuộc hành quân đánh chớp nhoáng vào vùng giữa Đức Huệ và Gò Dầu Hạ.



Ngày 10 tháng 5, khi đơn vị cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa trở về căn cứ, các hệ thống truyền tin và tiếp vận của phe Việt Cộng trong vùng bị phá vỡ trầm trọng. Phe Việt Cộng thiệt hại với hơn 1.200 chết, 65 bị bắt và hàng trăm khí giới bị tịch thu. Mặt khác, nhờ vào các yếu tố vận tốc, bí mật và phối trí của một hành quân đa diện, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ bị chết có dưới 100 quân lính.



Phụ tá đặc trách ủy ban chống tham nhũng



Theo sự đề nghị của Phó tổng thống Trần Văn Hương, tướng Hiếu đã can đảm nhận chức Phụ tá Đặc trách của Ủy ban Chống tham nhũng của Phủ Phó tổng thống, với quyền hạn Thứ trưởng, từ ngày 10 tháng 2 năm 1972. Ông nhận lãnh trách nhiệm này vì ý thức được sở dĩ Quân đội Trung hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch thua Hồng quân Trung Quốc của Mao Trạch Đông vì nạn tham nhũng hoành hành trong giới lãnh đạo quân đội - tỉ như buôn súng cho địch quân; và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cũng sẽ chịu chung số phận đó nếu không trừ khử được nạn này, tỉ như bán xăng qua bên Campuchia cho phe địch. Ông giữ chức vụ này đến ngày 29 tháng 10 năm 1973. Đây là giai đoạn mà nạn tham những hoành hành trong giới lãnh đạo quân đội Việt Nam Cộng hòa với những tai tiếng về buôn lậu, ăn cắp quân nhu và tiền viện trợ quân sự.



Đánh giá nạn tham nhũng trong quân đội sẽ làm tổn hại uy tín quân đội, làm giảm sức chiến đấu của binh sĩ, ông được giao quyền hành tương đối tự do để có thể hành động làm trong sạch hóa đội ngũ lãnh đạo quân sự. Trước tình trạng tham nhũng lan tràn khắp mọi lãnh vực: quân đội, cảnh sát, tư pháp, hành chánh, công ty điện lực, Air Vietnam, thương cảng, phi cảng, hối đoái, v.v. ông đã tiến hành hàng loạt các cuộc điều tra về tham nhũng, mà đặc biệt là cuộc điều tra về vụ tham nhũng trong Quỹ tiết kiệm Quân đội. Đây là vụ án tham nhũng lớn nhất được ông tiến hành, thực hiện trong 5 tháng và được ông công bố đầy đủ chi tiết và bằng chứng buộc tội trên màn truyền hình toàn quốc ngày 14 tháng 7 năm 1972. Chính kết quả của cuộc điều tra này đã buộc hàng loạt sĩ quan, trong đó có 2 tướng lĩnh là Tổng trưởng Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, Trung tướng Lê Văn Kim và 7 đại tá bị cách chức. Quỹ tiết kiệm Quân đội bị buộc phải giải tán.



Tuy nhiên, chính do những cuộc điều tra tham nhũng của ông đã gây đụng chạm đến quyền lợi của giới lãnh đạo quân sự biến chất, thậm chí ở cấp cao nhất. Sau vụ án Quỹ tiết kiệm Quân đội, Tổng thống Thiệu đã thu hẹp quyền hạn điều tra tham nhũng của tướng Hiếu ở cấp quận trưởng, và cần có sự chấp thuận tiên quyết trước khi khởi công điều tra ở cấp tỉnh trưởng. Điều này khiến ông nản lòng và ông đã xin trở về phục vụ trong quân đội và tuyên bố: "Nếu mình không chịu tự sửa sai thì Cộng sản sẽ buộc mình sửa lỗi lầm".



Những nghi vấn về cái chết



Chiều ngày 8 tháng 4 năm 1975 có tin loan báo ra từ Bộ Tư lệnh Quân đoàn III ở Biên Hòa là ông đã chết ngay tại trong văn phòng làm việc. Giới quân sự nghi ngay tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh QĐ III, vì ông Toàn mang tiếng tham nhũng hạng gộc, trong khi đó ông Hiếu rất thanh liêm và hơn nữa, đã từng giữ chức Đặc trách chống tham nhũng thuộc phủ Phó Tổng thống Trần Văn Hương.



Ngày hôm sau, sau khi tham dự buổi họp báo của phát ngôn viên quân sự, phóng viên thông tấn xã UPI loan tin như sau:



SAIGON (UPI) - Tư Lệnh Phó QLVNCH bảo vệ vùng Sài-Gòn được khám phá bị bắn tối thứ ba sau một cuộc cãi vã về chiến thuật với cấp trên của mình. Các nguồn tin quân sự nói là có vẻ ông ta tự vận. Các nguồn tin đó nói Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu chết với một vết thương do một viên đạn gây nên ở miệng tại văn phòng ở Bộ Tư lệnh Quân đoàn III nằm ven biên phi trường quân sự Biên Hòa, cách Sài-Gòn 14 miles. Không biết sự kiện tướng Hiếu chết có liên quan gì với vụ oanh tạc Dinh Độc Lập của ông Nguyễn Văn Thiệu xảy ra sáng thứ ba cùng ngày không?



Nguồn tin này nêu lên ba nghi vấn:



một là phải chăng tướng Toàn bắn ông vì bất đồng về chiến thuật;
hai là vết đạn vào "cằm" sao nói trại qua vào "miệng" để "có vẻ ông ta tự vận";
ba là phải chăng Tổng thống Thiệu, sau khi Dinh Độc Lập bị oanh tạc buổi sáng, nghi ông âm mưu đảo chánh lật đổ Tổng thống, nên sai tướng Toàn giết ông.



Mấy ngày sau đó, Bộ Tư lệnh QĐ III tung ra một tin đồn khác, viện cớ ông là một tay thiện xạ súng lục thích tự tay chùi súng nên sơ ý lỡ tay bị cướp cò. Nghi vấn được nêu lên là lỡ tay bị cướp cò làm sao có thể gây thương tích ở cằm, nhất là cằm bên trái, trong khi ông lại thuận tay phải.



Theo đường đạn, phát ngôn nhân quân sự, khi bị nhà báo hỏi bắn vào đâu, đã trả lời vào "miệng" cho hợp lý hơn - mà cũng không thể ngộ sát như vừa nêu trên, cộng thêm những luận điệu úp mở và chối quanh của giới chức thẩm quyền khiến dân chúng càng đặt thêm nhiều nghi vấn và đi đến kết luận cái chết của ông có thể là kết quả của một vụ âm mưu do cấp trên trực tiếp của tướng Toàn ra lệnh và tướng Toàn cùng đàn em thân cận đã thi hành lệnh ngay tại bản doanh QĐ III.



Sự thật về cái chết của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu




Nhận định: “Tài liệu nầy do ông Nguyễn văn Tín (bào đệ của Tướng Nguyễn văn Hiếu) biên sọan từ năm 1999. Từ 10 năm nay ông Tín không tìm ra sự thật.



http://www.genralhieu.com



Ông Tín gặp phải 2 nguồn tin khác nhau về giờ giấc mà Tướng Hiếu bị bắn chết:



1) một số người nói rõ là Tướng Hiếu bị bắn ngay sau trưa, chưa kịp đi ăn trưa



2) một số người khác nói Tướng Hiếu bi bắn vào ban chiều độ 5 giờ 30



Do sự sai biệt về lời xác nhận giờ Tướng Hiếu bị chết mà chúng ta xác quyết có sự gian trá và mưu cơ dàn dựng ra để hòng chạy tội cho hung thủ.



Chúng ta biết rằng đích xác rằng tên giám đốc CIA là Thomas Polgar đã



- bưng bít tin Bắc Việt xin đầu hàng vô diều kiện năm 1973 North Vietnam surrender



- lừa gạt Tướng Phạm văn Phú là VC sẽ tấn công Pleiku chứ không Ban Mê Thuột



thì việc hạ sát các tướng lãnh tài ba VNCH là một việc mà CIA phải làm để bán Miền Nam cho Cộng sản trót lọt.



Bổn phận chúng ta là phải giúp ông Tín tìm ra giờ mà Tướng Hiếu bị giết thì ông Tín sẽ suy ra bọn hung thủ là ai.



Hào Kiệt Nước Nam Không Đời Nào Thiếu
Tướng Quân Nguyễn Văn HiếuChúng ta bắt đầu chạm tới một mối uất hận không nguôi – Mối thống hận khởi tự những ngày tháng Ba, tháng Tư, 1975 – Uất hận nước mất, nhà tan, đọa đày, khổ nhục không cơ hội phục hồi, không khả năng giải thích… Bởi từ đâu? Và do những ai?! Để sau đó, mỗi người tự hoàn cảnh riêng rẽ, phải tìm cách biện minh với bản thân trước những câu hỏi khắc nghiệt: Tại sao xẩy đến nông nỗi nầy? Tại sao đã phải chịu đựng tình thế bi thảm ấy? Và đồng lúc hiểu ra như một cách an ủi, cùng đành: Nỗi Đau nầy là Nỗi Đau Chung-.Nỗi Đau toàn Dân Việt phải đồng lần gánh chịu. Nhưng trong cơn đau thương buổi quê nhà tàn cuộc hấp hối, có một người, cả một gia đình phải chịu tình huống oán hờn sắc đậm hơn, sớm sủa hơn trước khi Miền Nam đổ sụp: Gia đình của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu – Vị Tướng Quân bị bức tử cùng lúc đất nước lâm hồi cùng kiệt.



Chúng ta sống lại cảnh huống của phận Người oan nghiệt và vận mệnh Nước điêu linh – Một ngày 8 tháng 4, năm 1975 – Ba mươi năm kỳ sụp vỡ Miền Nam, cũng là ngày Người Lính Trung Hiếu Dũng Lược bị oan hờn bách hại.



I. Buổi đầu khởi cuộc



Năm 1949, sau khi Hồng Quân Trung Cộng tóm thâu Hoa Lục, người thanh niên Nguyễn Văn Hiếu vừa đúng hai-mươi tuổi cùng gia đình rời Thượng Hải, từ một tô giới thuộc Pháp trở lại quê nhà, bến Sài Gòn. Tiếp theo, anh di chuyển ra Hà Nội vì thân phụ, ông Nguyễn Văn Hướng, một nhân vật cao cấp của ngành an ninh, tình báo quốc gia khi chế độ vừa thành hình đầu những năm 50, được chỉ định giữ chức vụ Phó Giám Đốc Công An Bắc Phần. Với ảnh hưởng giao thiệp rộng, quyền chức của người cha trong chính giới; thêm trình độ học vấn cao (sinh viên đại học kỹ thuật Aurore, hệ thống đại học tự do các linh mục Dòng Tên điều hành), và khả năng Anh, Pháp, Hoa thông thạo, người sinh viên Nguyễn Văn Hiếu ắt hẳn quá dễ dàng, thuận lợi để theo học ngành, nghề kỹ thuật cao cấp nơi những trường cao đẳng Âu, Mỹ, vốn đang là một phong trào nở rộ khi bắt đầu giữa Thế Kỷ 20 (sau Thế Chiến thứ Hai); hơn nữa số lượng sinh viên dự thi, du học lại quá ít ỏi. Nhưng anh chọn hướng đi khác, con đường bất trắc, nguy biến hơn – Đời sống quân ngũ với nhiệm vụ Người Lính Chiến Đấu. Năm 1950, anh nhập học Khóa 3 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, một trong những khóa đầu tiên sau khi trường chuyển từ Đập Đá (Huế) lên Đà Lạt trong kế hoạch đào tạo cấp chỉ huy cho Quân Đội Quốc Gia. Đấy sẽ là một quân đội với thành phần sĩ quan cán bộ hứng chịu toàn bộ gánh nặng cuộc chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài theo ba thập niên với kết thúc bi thảm oan nghiệt ngày 30 tháng 4, 1975. Người thanh niên tên gọi Nguyễn Văn Hiếu – Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu quả tình đã đi suốt những tháng ngày bão lửa quê hương không hề đứt đoạn, và kết thúc cùng lần với vận nước điêu linh. Chúng ta có bổn phận phải nhắc toàn bộ hành trình chiến đấu của Người – Vị Tướng Quân sống-chiến đấu-chết theo cùng Mệnh Nước – để nhiên hậu lịch sử dân tộc phải xác chứng một điều cao cả: Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa quả là chủ thể đã thực hiện nhiệm vụ Bảo Quốc – An Dân, cho dù vận nước gặp phải thời suy mạt, với phận người chiến sĩ bị bức hại oan uổng qua thất trận ngày 30 tháng 4, 1975.



Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu là một điển hình về tinh thần hy sinh khắc kỷ của Người Lính Cộng Hòa. Cái chết của Người dẫu là một kết liễu bi thảm nhưng đồng thời cũng rọi sáng thêm lòng trung liệt vô hạn thanh cao.



Đoạn đường binh nghiệp của Người Lính Nguyễn Văn Hiếu khởi đầu với những bước bất trắc không xuông xẻ, dẫu người Sinh Viên Sĩ Quan Khóa III Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt ấy hội đủ tất cả những khả năng tối ưu để hoàn tất chương trình khóa học với chỉ số điểm cao nhất. Anh là sinh viên sĩ quan có điểm văn hóa cao nhất, điểm quân sự cao nhất, cũng cao nhất về điểm hạnh kiểm (côte d’amour) do tánh tình khoan hòa, khiêm tốn, luôn giúp đỡ đồng bạn, mực thước, và trọng nguyên tắc – Mẫu người bẩm sinh thích hợp với đời sống quân ngũ – Nói rõ hơn, những người tuổi trẻ được sắp sẵn tinh thần, trí tuệ, cá tính, ngoại hình, thể chất để trở nên hàng Tướng Soái thống lĩnh ba quân nơi trận địa. Những De Gaulle, De Lattre, Bigeard của Quân Lực Pháp; Montgomery của Kỵ Binh Hoàng Gia Anh; Rommel, Con Sói Sa Mạc của Quân Đoàn Bắc Phi Quốc Xã Đức; hay Người Lính Lớn của Quân Lực Mỹ, McArthur. Thiếu Úy Nguyễn Văn Hiếu tốt nghiệp với thứ hạng Á Khoa, nhường vinh dự Thủ Khoa cho Thiếu Úy Bùi Dzinh, bởi lẽ Quốc Trưởng Bảo Đại có chỉ dụ, muốn thấy một người Miền Trung giữ vị trí danh dự kia. Thiếu Úy Nguyễn Văn Hiếu không chút tỵ hiềm – Ông vững tin vào bản lãnh, năng lực riêng- Sức tự tin cao độ của Người Chiến Đấu với Tinh Thần Kẻ Sĩ Đông Phương. Cuộc đời ngoại hạng tiếp theo chứng nhận tính chính xác về những phẩm chất cao quý của bước khởi đầu nầy.



Tai họa kế tiếp do bịnh lao phổi gây nên từ lần trúng mưa, nhiễm lạnh nơi trường Đà Lạt trong một buổi huấn luyện thể chất (cũng có nguyên nhân ẩn tàng vì thân mẫu đã qua đời bởi chứng lao phổi). Và có thể đây là cớ sự đã gây nên lần tinh thần bị giao động của viên trung úy trẻ tuổi khi nghe người bạn cùng khóa, Đại Úy Lữ Lan kể về những chiến công tại mặt trận Quảng Trị (thành tích đã đưa người bạn đồng khóa nầy sớm thăng cấp đại úy). “Moa bây giờ đã là một phế nhân, không biết cuộc đời mình sau nầy sẽ ra sao?” (NVT sđd trg 31). Nhưng lời nói có tính cách ngã lòng trên giường bệnh ở Bệnh Viện Lanessan (Hà Nội) nầy chỉ là dấu hiệu tạm thời, và Trung Úy Hiếu đã không như phần đông quân nhân mắc phải căn bệnh nguy nan nầy (đối với đời sống quân ngũ luôn cần thể lực tốt; lại ở buổi đầu hậu bán Thế Kỷ 20, thuốc chữa trị bệnh lao phổi vốn hiếm, quý), thường lấy cớ để rời bỏ ngũ. Thế nên, sau khi chữa lành bệnh ông về Nam, tiếp tục đời sống quân ngũ với một tư thế, tinh thần mới với chức vụ sĩ quan tham mưu hành quân nơi văn phòng Tham Mưu Trưởng Đại Tá Trần Văn Đôn. Với nhiệm vụ sĩ quan Phòng Ba (Phòng Hành Quân, Huấn Luyện – Bộ phận quan trọng hàng đầu thuộc tổ chức tham mưu của tất cả quân đội hiện đại) năng lực Đại Úy Nguyễn Văn Hiếu được phát triển toàn diện, chuẩn bị cho những chức vụ tham mưu, tư lệnh sau nầy. Vì lẽ nầy, khi Đại Tá Trần Văn Đôn thăng cấp thiếu tướng, lãnh nhiệm vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I (Vùng I Chiến Thuật, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi) đã mang theo viên sĩ quan tham mưu ưu tú nầy ra Đà Nẵng. Năm 1971, khi người sĩ quan tham mưu ngày trước nay đã là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh phải ra điều trần trước quốc hội về vụ thất bại trong lần rút quân khỏi Thị Trấn Snoul (Campuchia), Nghị Sĩ Trần Văn Đôn, Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện đã có lời bảo chứng xác đáng: “Nếu QLVNCH có được nhiều tướng tài giỏi như Tướng Hiếu thì Việt Nam đã không mất” (NVT sđd trg57). Chắc rằng lời nhận xét nầy không là tiếng nói do ân huệ chủ quan mà xuất phát từ một thực tế đã được chứng nghiệm. Chúng ta hãy xét tới những chiến trận điển hình để minh xác lời đánh giá vừa kể ra.



II. Giữa Chiến Địa



Cho dẫu những người viết quân sử có những ý kiến khác nhau bao nhiêu (ngay đến giới chức, học giả người Mỹ vốn có thiên kiến bất công đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa), nhưng tất cả hẳn phải đồng ý một điều: Tướng Đỗ Cao Trí là tướng lãnh thao lược nhất của quân đội Miền Nam; của cả Việt Nam (nếu so với hàng tướng lãnh Miền Bắc); cũng không kém sút đối với các danh tướng đồng minh. Nhưng chắc rằng, phần lớn số đông kia hẳn đã thiếu phần xác chứng do họ đã không tìm hiểu ra một trong những nguyên nhân cấu tạo nên những chiến thắng của danh tướng Đỗ Cao Trí. Nguyên nhân ấy đã có từ lúc nắm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh (trước đảo chính 11/11/1963), Đại Tá Đỗ Cao Trí đã giao nhiệm vụ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn vào tay Trung Tá Nguyễn Văn Hiếu. Sự gắn bó chặt chẽ giữa hai con người chiến đấu kéo dài qua suốt một thập niên (60-70), chỉ thật đứt đoạn khi Tướng Trí bị tử nạn trực thăng trong ngày 23 tháng 2, 1971, trước khi sắp rời chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III (Biên Hòa) để ra Đà Nẵng thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm lúc chiến trận Hạ Lào (Hành Quân Lam Sơn 719) đang hồi nguy kịch. Tướng Đỗ Cao Trí cũng đã chỉ thuận nhận chức vụ Tư Lệnh Vùng I nếu người thay thế ông giữ chức Tư Lệnh Vùng III không phải ai khác mà chính là (và chỉ là): Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh (Bình Dương) – Mũi nhọn xung kích đã cùng ông tạo nên Chiến Thắng Bình Tây – Chiến dịch đánh vỡ Trung ương cục Miền Nam khởi sự từ cuối năm 1969. Phải có một điều gì sâu xa hơn ngoài nhiệm vụ quân sự đã làm mối nối liên kết giữa hai con người kỳ tài kia. Những chiến công lẫm liệt sau sẽ là lời giải thích tường tận về cuộc phối hợp toàn hảo giữa một viên tư lệnh dũng cảm và một tham mưu trưởng ngoại hạng. Điều nầy cũng là một đính chính xét ra cần thiết nêu lên: Tướng Đỗ Cao Trí không hề là một người “kỳ thị Nam-Bắc” như tin đồn đãi mà trái lại, chính ông là người “bảo vệ” Tướng Hiếu đến kỳ cùng – Tương tự như thế, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu chỉ có thế hoàn tất được nhiệm vụ gai góc trong “Ủy Ban Bài Trừ Tham Những” nếu không được một người Miền Nam – Kẻ Sĩ sáng ngời danh tiết thuần túy Nam Bộ rất mực thương yêu, quý trọng, gìn giữ: Cụ Trần Văn Hương.



1964. Đỗ Xá



Mật Khu Đỗ Xá của lực lượng cộng sản vốn nằm trong vùng miền núi ranh giới hai Tỉnh Kontum, Quảng Ngãi theo chia vùng lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa; hoặc thuộc khu vực họat động của hai mặt trận B3, và B5 cộng sản. Đây là vùng hiểm trở nhất của dãy Trường Sơn với đỉnh Ngọc Lĩnh cao 8524 bộ, trấn giữ toàn vùng Hạ Lào, đổ xuống đồng bằng duyên hải miền Trung thuộc hai tỉnh Quảng Nam-Quảng Ngãi, cũng là đường thông về Kontum, Pleiku của Tây Nguyên. Mật khu được đặt dưới quyền của Tướng Nguyễn Đôn, vốn là một vùng bất khả xâm phạm từ chiến tranh Pháp-Việt, giai đoạn 1945-1954. Vào buổi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), từ lúc giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I (Đà Nẵng), Tướng Trí đã muốn “hỏi thăm” vùng cấm địa nầy, nhưng do không đủ lực lượng để mở cuộc hành quân lớn (nhất là không quân chiến thuật yểm trợ, và trực thăng đổ quân); thêm nữa những biến động chính trị, xã hội suốt năm 1963 khiến ông phải bỏ qua dự định dọn sạch Mật Khu Đỗ Xá. Tháng 1/1964, Tướng Trí đổi lên trấn thủ Vùng II, “cục xương” Đỗ Xá trở lại như một thách thức, và lần nầy ông quyết ra tay, dẫu vùng hành quân dự trù phần lớn nằm trong địa vực Tỉnh Quảng Ngãi (thuộc Vùng I Chiến Thuật). Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II được trao nhiệm vụ thiết lập, điều động kế hoạch hành quân dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Quân Đoàn, Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí và Tư Lệnh Phó Hành Quân, Thiếu Tướng Lữ Lan. Lực Lượng hành quân chia làm hai cánh: Cánh A gồm ba tiểu đoàn Biệt Động Quân dưới quyền của Thiếu Tá Sơn Thương; Cánh B do Thiếu Tá Phan Trọng Chinh chỉ huy Trung Đoàn 50 Bộ Binh làm nỗ lực chính; cánh quân nầy được tăng phái Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù của Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng. Với khả năng giao thiệp rộng rãi từ lúc còn là phụ tá hành quân Quân Đoàn I, Đại Tá Hiếu đã có liên hệ mật thiết với Thiếu Tá Wagner, cố vấn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bên cạnh bộ tư lệnh quân đoàn, nên hôm nay hai người là nhân tố chính để phối hợp soạn thảo kế hoạch trực thăng vận Phi Đoàn HMM-364 TQLC Mỹ với số lượng 16 trực thăng H34 chuyển quân, đồng đổ bộ một lúc xuống bãi đáp, được hai trực thăng H34 của Không Quân Việt Nam từ Đà Nẵng vào tăng cường. Đoàn trực thăng chuyển quân có năm chiếc UH-1B võ trang thuộc Tiểu Đoàn 52 Không Quân “Dragon Flight” của Lục Quân Mỹ yểm trợ bảo vệ suốt lộ trình tới mục tiêu và tại bãi đáp (LZ) Đỗ Xá. Vùng hành quân được phi cơ quan sát L19 “Bird Dog” Hoa Kỳ bao vùng, chỉ điểm, ngoài ra còn có máy bay Helio Courier STOL của Đại Tá Merchant, văn phòng CIA và Đại Tá Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn I bay trên cao độ 5000 bộ để thanh sát tổng quát (chủ yếu đối với cuộc không vận bằng trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ – TQLC gọi cuộc hành quân với chỉ danh Sure Win 202). Từ thực tế vừa trình bày, Hành Quân Quyết Thắng 202 không chỉ là một hoạt động quân sự thuần túy, nhưng đã là cuộc trắc nghiệm khả năng quân lực cộng hòa sau những biến động chính trị 1963, và cụ thể lượng giá khả năng của chính những sĩ quan cao cấp đang chỉ huy, điều động cuộc hành quân.



Ngày 27 tháng 4, 1964 chiến dịch tấn công Đỗ Xá bắt đầu. Từ phi trường Quảng Ngãi, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân, 18 trực thăng H34 đợt xung kích đầu tiên đồng loạt đưa toàn bộ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù vào trận địa. Súng cao xạ của cộng sản không chỉ bố trí chung quanh bãi đáp, nhưng dài theo thung lũng dọc đường bay của trực thăng chuyển quân. Chúng ta nghe lại lời kể của Đại Úy “Woody” Woodmansee, trưởng toán trực thăng võ trang (nay là Trung Tướng Lục Quân hồi hưu). “Trong đợt đầu trực thăng đầu bay thấp khoảng 100 bộ, tất cả bốn trực thăng Dragon đều thả khói hai bên trực thăng (để ngụy trang). Tôi có thể thấy các lằn đạn xoẹt ngang dọc từ cả hai bên (lộ trình bay) Trong một vòng bay từ tây sang đông, tôi bị một súng phòng không 50 ly nhắm bắn từ phía nam, một lằn đạn xoẹt qua dưới bụng trực thăng.” (NVT sđd trg 351) Đấy là cảnh tượng trên không. Dưới mặt đất, Tiểu Đoàn 5 Nhảy dù bị tấn công ngay tại bãi đáp, Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng dàn hết bốn đại đội tác chiến lẫn đại đội chỉ huy để cự địch. Đại Đội Trưởng Trần Đại Tân Âu tử thương ngay từ khi xuống bãi đáp; khẩu súng 57 không giật của đại đội chỉ huy công vụ (vốn là súng phá công sự, chống chiến xa) nay biến thành vũ khí bắn thẳng để bảo vệ cận phòng bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tướng Đỗ Cao Trí đích thân chỉ huy trận địa từ trên không, trực thăng chở ông và các Tướng Lữ Lan, Tướng Minh (Tư lệnh không quân sau nầy) phải bay sát ngọn cây để tránh phòng không; nhưng về đến phi trường Quảng Ngãi, kiểm soát lại, lưng và bụng trực thăng đều bị trúng đạn lỗ chỗ. Không núng thế, Tướng Trí thả nốt biệt động quân vào trận, tiếp sức nhảy dù cày sạch vùng bất khả xâm phạm gọi là Đỗ Xá. Chỉ riêng ngày thứ hai của cuộc hành quân, chỉ riêng phía biệt động quân đã tịch thu được một đại liên 30ly, một trung liên, sáu tiểu liên, và 144 súng cá nhân, một ngàn bịch chất nổ, một số lượng lớn quân trang, lựu đạn, mìn và tài liệu quan trọng. Cuối trận, tổng số vũ khí có thêm hai phòng không 52 ly, một đại liên 30 ly và 69 súng cá nhân với 62 xác đếm tại hiện trường; 17 tù binh bị bắt. (NVT sđd trg347-348). Cuộc hành quân chấm dứt đúng một tháng sau, 27 tháng 5 do Trung Đoàn 50 Bộ Binh của Thiếu Tá Phan Trọng Chinh hoàn tất quét sạch toàn vùng Đỗ Xá khi Nhảy Dù và Biệt Động Quân đã kết thành vòng đai chận bít không để lực lượng cộng sản chạy lẩn vào vùng núi phía tây, hoặc về phía nam Tây Nguyên.



Số lượng vũ khí và nhân mạng phía cộng sản bị thiệt hại như kể trên không phải là một thắng lợi quân sự quá to lớn, nhưng đứng về mặt chính trị đã chứng minh điều quan trọng: Sau những xáo trộn chính trị (1963-64) mà tập thể người lính bị cuốn hút vào do những quân nhân chỉ huy muốn tranh đoạt quyền lực lãnh đạo quốc gia theo một phong trào “Quân nhân cầm quyền với sức mạnh nòng súng” đang diễn ra trên toàn thế giới (Nasser ở Ai Cập; Phác Chánh Hy, Đại Hàn; Fidel Castro, Cuba; gần gũi, trong khu vực Đông Dương với Đại úy Kông Le ở Lào.. v.v ) Quân Lực VNCH đã lấy lại sức mạnh chiến đấu cơ hữu; có khả năng thực hiện những cuộc hành quân lớn cấp trung đoàn, sư đoàn nếu như những sĩ quan tham mưu, chỉ huy được yểm trợ xác đáng, và nhất là để họ toàn quyền điều động đơn vị quân binh theo thực tế chiến trường chứ không là một biểu diễn bề mặt chính trị. Chứng minh điển hình đối với luận cứ nầy là Hành Quân Phi Hỏa với hằng trăm trực thăng chuyển quân (Hành quân trực thăng vận lớn nhất, huy động trực thăng toàn vùng Đông-Nam Á) với lần tham dự của bốn tiểu đoàn nhảy dù đồng đổ bộ xuống vùng mật khu Hố Bò (Bình Dương) vào cuối tháng 8 tiếp theo trong năm 1964 đã không đưa lại kết quả mong muốn. Hoặc tại chính chiến trường Đỗ Xá nầy, Tướng Nguyễn Khánh và Tham Mưu Trưởng Ngô Dzu đã một lần thất bại trước khi hoán đổi vùng trách nhiệm đến Tư Lệnh Đỗ Cao Trí với Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu.



Cuối cùng, tất cả đã chứng minh: Hành Quân 202 của Quân Đoàn II vào Đỗ Xá là một kế hoạch hành quân chính xác, đáp ứng đúng điều kiện, yêu cầu của chiến trường, được chỉ huy, điều động bởi những con người thao lược nơi trận tiền với quyết tâm: Đánh tất thắng chứ không là cuộc diễn binh cầu may với mạng sống của quân sĩ. Ngoài ra, có một chi tiết nhỏ nhưng cần phải nêu rõ: Những đơn vị nhảy dù, biệt động, bộ binh nơi mặt trận Đỗ Xá đồng được chỉ huy bởi những sĩ quan vốn xuất thân binh chủng nhảy dù: Tướng Đỗ Cao Trí, các Thiếu Tá Phan Trọng Chinh, Ngô Quang Trưởng, Sơn Thương – Nhưng tất cả đã được Đại Tá Bộ Binh Nguyễn Văn Hiếu lập kế hoạch và điều hành tham mưu – Đây cũng là mục đích của công việc muộn màn nhưng cần thiết của chúng ta hôm nay đối với Người Lính đã Vị Quốc Vong Thân qua cách vô ân của một chế độ với những người cầm đầu bất nhân nghĩa, tham nhũng, xây công danh, tài lợi trên xương máu chiến sĩ, đồng bào, đồng đội. Những phần tiếp theo sẽ minh chứng Nỗi Đau Chung nầy dẫn đến lần đau tàn cuộc Ngày 30 tháng Tư, 1975.



1965. Quốc Lộ 19, Đèo An Khê – Quốc Lộ 14, Đức Cơ; Pleime



1900 giờ chiều ngày 24 tháng Sáu, 1954, mà chỉ không đầy một tháng sau (20 tháng 7, 1954) Hiệp Định Genève sẽ ký kết, chấm dứt chiến tranh Đông Dương lần thứ Nhất. Nhưng trên đèo Mang Yang, nơi Cây Số 15, Quốc Lộ 19 nối Pleiku (Thủ phủ quân sự Tây Nguyên) với Quy Nhơn (Hải cảng quan trọng của duyên hải Trung Việt) đang diễn ra cảnh tượng địa ngục. Trung Đoàn 803 Cộng Sản cố tâm diệt gọn Trung Đoàn Triều Tiên của Quân Đoàn Viễn Chinh Pháp, đơn vị lập kỳ tích chận đứng làn sóng người của Hồng Quân Trung Cộng nơi mặt trận Triều Tiên năm 1953 bên cạnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh Mỹ, nên bây giờ binh sĩ của trung đoàn nầy vẫn mang nơi vai áo huy hiệu Ngôi Sao Trắng với hình tượng Đầu Người Da Đỏ của sư đoàn chiến thắng vinh dự kia. Nhưng nay, năm 1954 với Đèo An Khê của chiến tranh Việt Nam chứ không là bán đảo Triều Tiên của năm 1953, nên những thành phần sống sót của Chiến Đoàn Lưu Động Số 100 (mà Trung Đoàn Triều Tiên là thành phần xung kích điển hình, mối kiêu hãnh của chiến đoàn) đang cố gắng tập họp lực lượng lại sau lần bị nghiền nát bởi sáu giờ kịch chiến với bộ đội cộng sản. Thật sự ra họ đã chịu đựng sáu tháng tan nát từ khi đến tham chiến nơi mặt trận Tây Nguyên nầy. Đêm xuống mau dẫu trời miền núi tháng Sáu soi rọi những ánh chớp chói lòa khi binh sĩ ném lựu đạn lân tinh phá nòng súng đại bác; đốt cháy quân trang cụ; bắn hết đạn các súng cộng đồng, vũ khí nặng trước khi phá hủy để chuẩn bị cho vụ rút chạy khỏi vùng tập kích của Trung Đoàn 803. (Bernard B. Fall, Street Without Joy. Schoken Books – New York, 1972 pp 214-220). Phải nói nói rõ hơn, trận chiến đèo An Khê trên Quốc Lộ 19 với lần tiêu diệt toàn bộ chiến Đoàn Lưu Động Số 100 (G.M.100) chỉ là diện chiến thuật của một kế sách chiến lược lớn: Cô lập Tây Nguyên, chiếm giữ đường di chuyển Bắc-Nam mặt Tây Trường Sơn, theo Đường 14 xuống Ban-Mê-Thuộc, vào vùng thượng nguồn Sông Đồng Nai, tiếp đến miền Đông Nam Bộ. Cô lập Tây Nguyên cũng có nghĩa, củng cố khu vực Hạ Lào – Vùng Ba Biên Giới Việt-Miên-Lào. Thế trận của năm 1954 sau nầy được lập lại trong những năm 1974-1975 trước khi mất miền Nam với lãnh thổ Tây Nguyên bị bỏ trống do cuộc di tản tai họa theo Tỉnh Lộ 7 từ Pleiku về Tuy Hòa của Quân Đoàn II với toàn thể lực lượng diện địa thuộc quân khu. Nhưng năm 1965 ở Tây Nguyên không phải là như vậy. Chúng ta hãy xem Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II đã sống – chiến đấu như thế nào với Tây Nguyên.



Năm 1965, cộng sản Bắc Việt phát động một chiến dịch nhằm cắt đôi Việt Nam, từ cao nguyên xuống đồng bằng theo Đường 19 bằng cách đánh bại Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong một trận chiến quy ước. Đến giai đoạn nầy, chúng ta phải dùng đến cụm từ “Cộng sản Bắc Việt” vì những lực lượng tham chiến thuần là những đơn vị chính quy thuộc mặt trận B3 và B5 được chỉ huy, điều động bởi Bộ Tổng Quân Ủy Miền Bắc với sao chép nguyên bản của chiến dịch Đông-Xuân 1954 như trên vừa kể ra. Quốc Lộ 19, Đèo Mang Yang thêm một lần sôi máu lửa.



Ngày 20 tháng 2, 1965 Căn Cứ Tiền Phương Số I của một Đại Đội Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ) dọc Đường 19, tây Đèo Mang bị tấn công sau lần một đại đội Địa Phương Quân bị phục kích khi di chuyển từ Pleiku về một căn cứ trên Đèo Mang. Đại đội Địa Phương Quân lẫn Trại DSCĐ không thể là những đối thủ với lực lượng cộng sản chính quy, bởi đơn vị nầy đã được trang bị những vũ khí hiện đại nhất do Liên Sô chế tạo, cung cấp: Súng tiểu liên AK, súng phóng lựu RPD, bản sao cải tiến của súng chống chiến xa RPG2. Trái lại phía DSCĐ, Địa Phương Quân, hoặc các đơn vị chủ lực của VNCH như Nhảy Dù, Biệt Động, Thủy Quân Lục Chiến, (trong những năm 1965, 66, 67…) nầy vẫn còn dùng những vũ khí cổ điển từ Đệ Nhị Thế Chiến để lại như Garant; Carbin M1.v.v Trận chiến dọc Đường 19, hai bên đông-tây Đèo Yang lập lại chiến thuật cổ điển phía cộng sản thường áp dụng (và áp dụng hữu hiệu) – Chiến thuật “Công Đồn Đả Viện” – Nhưng sau hai ngày giao tranh khốc liệt, các trại DSCĐ Số1 (Tây Đèo Mang); Số 2 (Đông Đèo Mang) vẫn giữ vững được nhờ yểm trợ liên hoàn, và được một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân đóng tại An Khê (Đông Đèo Mang khoảng hơn 50 cây số) làm thành phần trừ bị, tiếp ứng. Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt đóng tại Pleiku còn thành lập sẵn những trung đội DSCĐ chuyên nhảy trực thăng vận theo Chiến Thuật Diều Hâu để tiếp cứu chiến trường khi hữu sự. Tuy bị bất ngờ bởi chiến thuật trực thăng vận, cùng yểm trợ hỏa lực cận phòng mạnh mẽ của trực thăng võ trang Hoa Kỳ, khu trực Skyraider, B57 của Không Quân VN, nhưng với hệ thống phòng không tinh vi, hữu hiệu, phía cộng sản cũng gây thiệt hại lớn đối với DSCĐ, Biệt Động Quân, các toán nhảy Diều Hâu tiếp ứng. Tính đến ngày 24 tháng 2, tình hình ngưng lại ở điểm bế tắc: Căn Cứ Tiền Phương Số 2 của DSCĐ (bao gồm thêm một thành phần Biệt Động Quân bị kẹt lại) cần phải di tản vì không thể chịu đựng áp lực pháo kích liên tục do một hệ thống súng cối 82 ly đặt dày chung quanh căn cứ. Trong số 220 quân nhân cần di tản có một cháu nhỏ (bị thương) mới chín tháng – Đây là hành khách độc nhất được sống sót của chuyến xe đò dân sự đi từ Quy Nhơn lên Pleiku bị tàn sát ngày hôm trước khi chiếc xe rơi vào bãi pháo cộng sản.



Đại Tá Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu và Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn sau hai ngày thám sát, nghiên cứu chiến trường đồng có chung kết luận: Lực lượng cộng sản thuần là những tiểu đoàn chủ lực của Mặt Trận B3 với vũ khí hiện đại, có khả năng cao độ về chiến thuật di động hỏa lực, tập trung phòng không – Đạo quân nầy rõ ràng có ý định biến thung lũng An Khê (Đông Đèo Mang, dọc Đường 19) thành một chiến trường lớn hợp cùng đạo quân ở đồng bằng (Vùng Bình Định – Liên Khu 5 cộng sản) cắt đôi miền Nam như đã thực hiện một lần trong chiến tranh 1945-1954. Và biện pháp cấp thời là phải bốc ngay toán quân đang bị cầm giữ của Căn Cứ 2 trước khi trại bị tràn ngập. Tướng Nguyễn Hữu Có, tân tư lệnh đồng ý trên nguyên tắc nhưng đồng thời nêu lên một khó khăn: Không đủ hỏa lực để bao vùng yểm trợ cuộc hành quân trực thăng vận vào bốc toán quân ở Căn Cứ 2; hơn nữa hệ thống súng cối 82 ly cộng sản chung quan căn cứ sẽ tạo một vũng lửa tại bãi đáp trực thăng (trong căn cứ) – Và nếu tình hình như thế ắt sẽ xẩy ra, cuộc hành quân trực thăng vận nhằm giải cứu lực lượng bạn sẽ biến thành một cuộc hành quân tự sát. Cuối cùng, quân đoàn phải cậy đến một biện pháp do chính Tướng Westmoreland quyết định: Dùng phản lực cơ chiến đấu F100 Hoa Kỳ hiệp đồng với A-1E, B57 VNCH đánh tiếp cận hai bên sườn thung lũng, trong khi trực thăng võ trang xạ kích vào các vị trí cối sát trại, để trực thăng chuyển quân vào bãi đáp cứu bạn. Cuộc hành quân trực thăng vận được thiết kế và hoàn tất như một phép lạ: Không một người bị nạn trong ba đợt bốc đầu tiên, chỉ một trực thăng và một người bị thương trong chuyến bốc cuối cùng. Đại Tá Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu hoàn tất một cuộc hành quân giải cứu do ông lập kế hoạch và phối hợp tuyệt hảo (với liên quân Việt-Mỹ) mà đến hôm nay mấy người đã hay.



Giải tỏa được căn cứ DSCĐ, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cậy tiếp đến quân trừ bị: Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù gồm hai Tiểu Đoàn 7 và 8 Dù được không vận từ Sài Gòn xuống phi trường An Khê, xong từ đây xuất quân quét sạch toàn diện đoạn đường gai góc từ Quận An Túc đến Đèo Mang. Quân cộng sản núng thế, chuyển hướng lên phía Bắc vây đánh Trại Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) K’nack (Bắc Đường 19 để giải tỏa áp lực của nhảy dù nơi thung lũng An Khê) với cách đánh biển người (như Hồng Quân Trung Cộng đã áp dụng ở các cao điểm Pock Chop, T- Bone, và Old Baldy ở mặt trận Triều Tiên năm 1953): Hai tiểu đoàn xung phong vào những tiền đồn chỉ do quân số một trung đội DSCĐ chiếm giữ. Một tiền đồn bị tràn ngập, nhưng sau đó, DSCĐ phản công chiếm lại do trợ lực của nhảy dù từ phía Nam đánh lên, giải tỏa lực lượng cộng sản bao vây quanh Trại LLĐB. Cuối trận, quân cộng sản rút lui để lại 126 xác chết với đại bác không giật 57 ly, súng cối 82 ly cùng rất nhiều lựu đạn, chất nổ. Nhưng thành quả lớn nhất của cuộc hành quân là: Các đoàn xe được hộ tống lên Pleiku tạo nên một sinh khí mới trên vùng cao nguyên. Vật giá thực phẩm, và hàng hóa giảm từ 25 đến 30 phần trăm, đồng thời dân chúng hồi phục cảm nghiệm an ninh, tin tưởng và hy vọng. Học sinh tại Pleiku tình nguyện giúp quân lính gỡ hàng xuống, và dân chúng trước đây di tản nay trở lần lượt về. (Trung tướng Vĩnh Lộc, Military Review, April 1966- NVT sđd p378) Nhưng mấy ai trong những người dân của thành phố Pleiku ngày ấy hiểu ra rằng đời sống họ tìm lại được là do từ máu xương, sinh mạng của trăm, ngàn người lính – Trong đó có Người Lính Lớn vô cùng khiêm cung tận tụy với quân đội và quê hương – Đại Tá Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu. Người dân Pleiku nào ai biết, nghe đến tên Người, ngay cả bản thân kẻ viết đoạn ký sự nầy: Gã thiếu úy trẻ tuổi thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, đơn vị giải tỏa đoạn An Khê-Đèo Mang, tháng 3, năm 1965.



Thất bại ở mặt trận Đường 19, tiếp theo chiến dịch tái chiếm Bồng Sơn, Tam Quan (tháng 4, 1965) với Sư Đoàn 22 Bộ Binh được tăng phái một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bẻ gẩy kế hoạch cắt Quốc Lộ I tại khu vực chiến lược Quảng Ngãi-Bình Định (thuộc Mặt Trận B5 cộng sản) buộc phía chỉ huy cộng sản tại Vùng II (của VNCH) phải rà soát lại kế hoạch. Và một lần nữa, những người cầm đầu ở Hà Nội lại chuyển chiến trường trở lại dọc Quốc Lộ 14 (Đường nối Pleiku với Ban Mê Thuộc (phía Nam); với Komtum (Phía Bắc) từ mùa mưa đến khi mùa khô bắt đầu nơi cao nguyên (từ tháng 4 đến hết cuối năm 1965) với những sư đoàn thiện chiến nhất Mặt Trận B3: Sư Đoàn 325, F10, 2 Sao Vàng, những đơn vị chủ lực tinh nhuệ của quân đội Miền Bắc do các kiện tướng Vũ Lăng, Hoàng Minh Thảo, Chu Huy Mân, chỉ huy (sau nầy, vào giai đoạn chót của chiến trận, tháng 2/1975, đích thân Tổng Tham Mưu Trưởng Văn Tiến Dũng chỉ huy chiến dịch đánh chiếm Tây Nguyên theo chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng Quân Ủy Hà Nội). Trong cùng lúc, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II lần lượt thay đổi người chỉ huy: Các Tướng Đỗ Cao Trí, Nguyễn Hữu Có, Vĩnh Lộc liên tiếp thay thế giữ chức tư lệnh – Nhưng chỉ riêng viên Tham Mưu Trưởng vẫn giữ nguyên vị trí – Thế nên, chúng ta có thể xác định về một thực tế mà không sợ sai lầm, chủ quan: Chính Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II là người đã đối đầu liên tục, trực tiếp với bộ chỉ huy quân sự miền Bắc nơi chiến trường Tây Nguyên trong suốt năm 1965.



Bắt đầu mùa mưa 1965, dọc theo Quốc Lộ 14, lực lượng cộng sản liên tục mở ra những hoạt động tấn công lấn chiếm có hệ thống như sau: Ngày 16 tháng 5, Quận Phú Túc và Buôn Mroc thuộc tỉnh Phú Bổn (Hay Hậu Bổn, tên cũ Cheo Reo), cách Pleiku khoảng 70 cây số đường thẳng về phía Tây- Nam bị tấn công, địa phương quân kêu cứu với Trại Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) đóng gần đấy để xin yểm trợ nhưng không được vì đơn vị LLĐB cũng bị tấn công, cả toán tiếp ứng, lẫn căn cứ trại. Tình hình Phú Bổn suy sụp nhanh chóng, quân đoàn phải không vận một tiểu đoàn của Trung Đoàn 40/ Sư Đoàn 23 Bộ Binh để tiếp cứu. Tỉnh lỵ Phú Bổn chỉ liên lạc, tiếp tế với bên ngoài bằng đường hàng không bởi cầu Lệ Bắc trên Tỉnh Lộ 7 bị giật sập. Ngày 20 tháng 5, quân cộng sản tấn công đơn vị địa phương giữ cầu Pokala, và phá hũy cây cầu quan trọng nầy khiến tất cả hệ thống đồn bót, trại LLĐB, phía Tây-Bắc Kontum đồng bị cắt đứt. Tình hình càng tồi tệ hơn vào ngày 1 tháng 6, khi một phái đoàn của Tỉnh Pleiku do tỉnh trưởng dẫn đầu vào thanh tra thăm viếng Quận Lệ Thanh (30 cây số phía Tây Pleiku, bên trái Đường 14) bị phục ích và quận bị tràn ngập từ sáng sớm cùng ngày. Quân đoàn phải cho đổ bộ các toán Diều Hâu (Eagle Flight) để giải cứu phái đoàn, đồng thời điều động chiến đoàn nhảy dù đang sẵn có mặt trong vùng vào giải tỏa Quận Lệ Thanh. Tình hình đến đây chưa hẳn hết, thành phần đi đón đoàn xe của tỉnh gặp nhau tại một điểm trên Quốc Lộ 19 (đoạn đường tây Pleiku đến biên giới Việt-Campuchia) – Đây cũng chính là điểm phục kích của bộ đội cộng sản, trực thăng võ trang của Tiểu Đoàn 52 Không Quân Mỹ từ trại Holloway phải liên tục vào vùng để yểm trợ cho đoàn quân xa của tỉnh trưởng trở về, hai chiếc trực thăng bị bắn rơi; đoàn người và xe của tỉnh (đoàn của tỉnh trưởng lẫn đoàn đi đón) đồng bị tiêu hủy nặng nề, người sống sót phân tán tìm đường chạy về Pleiku. Tư lệnh vùng tướng Vĩnh Lộc cuối cùng phải hủy bỏ quận đường Lệ Thanh cũ để đưa về một vị trí gần Quốc Lộ 14 (gần Pleiku) để dễ yểm trợ hơn, tuy nhiên phải giữ tiền đồn Đức Cơ, điểm xa nhất của lực lượng chính phủ nằm trên nhánh tây Đường 19, đối mặt với biên giới Campuchia.



Tình hình ở phía nam, nơi Tỉnh Phú Bổn cũng không khá hơn, một tiểu đoàn của Trung Đoàn 40/SĐ23BB trên đường tiến tới cầu Lệ Bắc cốt để tái lập an ninh và sửa chửa cây cầu lại rơi vào một ổ phục kích, rút cuộc phải rút về lại Quận Phú Túc để chịu chung số phận của toàn tỉnh bị bao vây. Tiếp đến quận Thuận Mẫn, tây-nam của tỉnh lại bị tấn công và đe dọa bị tràn ngập, chiến đoàn nhảy dù lại được điều động đến hợp cùng tiểu đoàn của Trung Đoàn 40 cố mở đường tiếp cứu quận. Quân cộng sản tấn cộng vào giữa đội hình của dù và bộ binh, tràn ngập các vị trí pháo và đốt cháy đoàn xe chở đạn đến Thuận Mẫn. Các tiểu đoàn của Dù phải co cụm lại tự bảo vệ để đợi tải thương và tiếp tế đạn dược. Tư lệnh quân đoàn đối mặt với một tình hình càng ngày càng đen tối bởi ý đồ của phía cộng sản quyết đánh chiếm Tây Nguyên trong mùa mưa càng lộ rõ, nên phải xin tiếp viện từ Sài Gòn – Một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) và một chiến đoàn Dù được điều động đến Phú Bổn trong tình trạng khẩn cấp. Phi trường Cheo Reo trong chốc lát trở nên thành một phi trường bận rộn nhất của chiến tranh Việt Nam – Các phi cơ vận tải Hoa Kỳ do điều động của ban tham mưu quân đoàn đã bay liên tục trong vòng 24 giờ để chuyển quân. Chiến đoàn nhảy dù thứ hai vừa tới nơi đã vội vào vùng để giải tỏa áp lực cho chiến đoàn đang bị vây khổn ở Thuận Mẫn.



Về mặt bắc Pleiku, Quận Toumorong cực bắc của Kontum bị tràn ngập từ đầu tháng 7, vì đây là một nơi quá xa, lại không phải là một vị trí quan yếu nên quân đoàn ra lệnh cho triệt thoái về Quận Dakto, (Tân Cảnh) nơi đặt bản doanh của Trung Đoàn 42. Đến lượt quận đường Dakto bị tấn công (7 tháng 7); Trung Đoàn Trưởng 42, Trung Tá Lại Văn Chữ bị tử thương, cố vấn trưởng, Thiếu Tá John R. Black bi thương nặng khi điều quân lên giải cứu quận. Tình hình trung đoàn suy sụp sau cái chết củaTrung Tá Chữ, quân đoàn vội điều Đại Tá Đàm Văn Quý đến chỉ huy Trung Đoàn 42; viên Trung Tá Cố Vấn Thomas Perkins (trước đây làm việc chung với Đại Tá Quý) cũng vội lên Kontum để tăng cường hệ thống cố vấn. Một tiểu đoàn Biệt Động và chiến đoàn TQLC vừa vào vùng được không vận lên Tân Cảnh phối hợp với Trung Đoàn 42 để chặn địch mạn phía Bắc Kontum.



Cùng thời điểm tình hình quân sự sôi bỏng bùng vỡ mỗi ngày nơi Tây Nguyên thì ở Sài Gòn những vụ biến động chính trị cũng thường trực xẩy ra với tốc độ chóng mặt. Biểu dương lực lượng, 12 tháng 9, 1964; Đảo chính hụt, 19 tháng 2, 1965; tiếp đến Phản đảo chính, 20 tháng 5. Các nội các đua nhau thay đổi vói Phan Huy Quát, Trần Văn Hương; đồng bào Công Giáo, Phật Giáo thay nhau xuống đường, lâm chiến, biến Sài Gòn thành một chiến địa hung hãn không kém mặt trận súng đạn nơi cao nguyên. Trận chiến tại các Trại Lực lượng Đặc Biệt Đức Cơ, Pleime như giọt nước tràn qua chiếc ly đã nứt vỡ đồng lúc các tư lệnh quân đoàn thay đổi nhau theo tình hình chính trị của Sài Gòn. Riêng chỉ Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu vẫn giữa chắc chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn với những người lính giữa vũng lửa ở núi rừng Tây Nguyên.



Trại Đức Cơ nằm cuối nhánh tây Đường 19, đối mặt biên giới Việt-Campuchia, bị toàn thể áp lực của lực lượng quân đội cộng sản Mặt Trận B3 đè nặng lên sau khi Quận Lệ Thanh bị lấn chiếm (như trên vừa trình bày). Vào giữa tháng 7, trại hoàn toàn bị bao vây và các cuộc tuần tiễu ra bên ngoài đều bị đánh bật vào lại bên trong. Và dù đã có hằng trăm phi vụ oanh tạc chung quanh trại, nhưng bộ đội cộng sản vốn thiện nghệ trong nghệ thuật công kiên chiến, địa đạo chiến, nên đã bố trí một hệ thống hỏa lực cối chung quanh trại, đe dọa bãi đáp trực thăng của trại cũng không thể xử dụng được. Một kế hoạch hành quân táo bạo nhưng vô cùng tinh vi và chính xác được Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu thiết lập, trình lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II: Xử dụng Chiến Đoàn I Dù gồm ba Tiểu Đoàn 1, 3, và 5 – Những đơn vị xung kích hàng đầu của Lữ Đoàn Dù (trước 12/1965 phiên hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù chưa thành lập) – trong một thời hạn ngắn nhất phải chiếm cho được phi đạo (dành cho máy bay C123; Caribou) sau khi phi cơ chiến thuật dọi bom cách vị trí pháo cối chung quanh trại. Sau khi xuống được phi đạo theo như dự trù, Chiến Đoàn I Dù cố mở rộng vòng đai kiểm soát nhưng bất thành, họ phải rút lại trở về phi đạo. Vấn đề sinh tử của chiến trận đối với ban tham mưu quân đoàn là, quân số tham chiến của phía cộng sản quả thật đã hơn hẳn bên lực lượng Dù (chỉ một chiến đoàn gồm ba tiểu đoàn đã bị tổn thất từ những trận ở vùng Phú Bổn, Cheo Reo từ tháng 4); trong khi lực lượng cộng sản bao vây trại là một trung đoàn- Có nghĩa, phía đối phương đã ném hẳn một sư đoàn vào trận địa. Vấn đề không còn là những trận đánh cấp tiểu, trung đoàn với đối tượng là một trại LLĐB nữa mà là ý đố chiến lược của tất cả trận chiến năm 1965 tại vùng cao nguyên bây giờ hẳn hiện rõ: Quân đội Hà Nội dưới quyền Thượng Tướng Hoàng Minh Thảo quyết tâm tấn chiếm Tây Nguyên để từ đây đổ xuống đồng bằng duyên hải – Cắt đôi Miền Nam theo trục Pleiku-Bình Định (Chiến trận tháng 3, 1975 chỉ là biến cải, điều chỉnh những khuyết điểm của năm 1965 nầy). Đại Tá Hiếu đề nghị lên Bộ Tổng Tham Mưu một kế hoạch lớn: Yêu cầu người Mỹ thế chân cho những đơn vị VNCH làm thành phần trừ bị, giữ an ninh lãnh thổ để quân lực cộng hòa tập trung thành một đơn vị xung kích cấp sư đoàn mới có khả năng giải quyết mặt trận Đức Cơ (Theo binh thư: Bên tấn công không thể ít hơn 1/3 quân số so với lực lượng cố thủ được. Kế hoạch được Tướng Westmoreland thêm một lần chấp thuận với quyết định: Điều động Lữ Đoàn Nhảy Dù 173 do Tướng Stanley R. Larsen làm Tư Lệnh Lực Lượng Dã Chiến Hoa Kỳ tại Pleiku thay thế quân đội Việt Nam nhiệm vụ tiếp ứng và an ninh lãnh thổ. Được rảnh tay, Ban Tham Mưu Quân Đoàn II thực hiện kế hoạch: Thành lập Chiến Đoàn Đặc Nhiệm gồm Thiết Đoàn Kỵ Binh (chiến xa M41; M48; Thiết Vận Xa M113); một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân; Chiến Đoàn TQLC (có pháo binh cơ hũu) và pháo binh diện địa yểm trợ tổng quát – Lực lượng giải tỏa Đức Cơ đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Cao Hảo Hớn, Tư Lệnh Biệt Khu 24 (Bắc Kontum).



Ngày 8 tháng 8, lực lượng đặc nhiệm vào vùng, thành phần tiền phong gặp ngay sự kháng cự của địch, bị bắn cháy một chiến xa bởi súng không giật khi vừa từ ngã ba Đường 14 rẽ vào Đường 19. Quân cộng sản áp dụng chiến thuật bám chặt đoàn quân tiếp ứng để tránh phi pháo, đánh vào trung tâm để chia cắt chiến đoàn ra làm những thành phần mất không liên kết được. Sau một đêm dừng quân tái phối trí thế trận dù Bắc quân áp đảo bằng một loạt tấn kích và pháo kích để đánh vỡ thế trận của đoàn tiếp ứng. Rạng ngày 9, Chiến Đoàn I dù từ phi đạo trại Đức Cơ đánh bung về phía Đông kềm chặt lực lượng cộng sản giữa hai gọng kìm. Sợ bị kẹp giữa hai lực lượng tấn công, địch chém vè và tháo lui chỉ để lại các lực lượng ngăn chận nhỏ, các toán núp bắn sẻ và mìn, bẫy dọc đường lộ. Trận chiến Đức Cơ chấm dứt với sự thảm bại nặng nề của Việt Cộng. Các đơn vị chính phủ đã làm chủ chiến trường, chiến thắng đã nâng tinh thần của chiến binh QLVNCH. Họ đã nhận những điều tệ hại nhất mà cộng sản đã áp đặt nên, và không những đã đứng vững mà họ còn làm cho địch ngưng chiến và tháo lui, để lại nhiều vũ khí, xác chết trên chiến trường. (Đại Tá Theodore Mataxis – VC Summer Monsoon Offensive (5/1966) NVT sđd trg 381). Tướng Westmoreland cùng Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã đến Đức Cơ để xác nhận tính chất quan yếu của chiến thắng. Nhưng Đại Tá Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu chưa có dịp nghỉ ngơi, ông xử dụng căn cứ mới được giải tỏa nầy làm bộ chỉ huy để điều quân thanh toán nốt mục tiêu thứ hai: Trại Lực Lượng Đặc biệt Pleime. Ông thức trắng đêm cùng với lần giải tỏa Pleime (NVT sđd trg 385)



Trước tháng 10, 1965 quả thật không mấy ai biết đến tên Pleime, một trại lực lượng đặc biệt nằm về phía Tây Quốc Lộ 14, cách Pleiku khoảng 40 cây số đường thẳng về hướng Tây-Nam. Nhưng bỗng nhiên Pleime trở thành một danh hiệu của chiến sử miền Nam bởi sau thất bại của lần đánh chiếm Đức Cơ, phía bộ đội miền Bắc đã “biến chuyển thực tế – một diễn tiến sinh hoạt ắt phải có sau mỗi lần thực hiện một kế hoạch tác chiến, một phương án chính trị dẫu thất bại hay thành công” và rút kinh nghiệm còn nóng của Đức Cơ nên thành một kế hoạch: 1/Bao vây Pleime. 2/Tiêu diệt thành phần tiếp viện. Sau khi thu hút về điểm Pleime để biến nơi đây nên thành một diện tác chiến làm suy yếu lực lượng phòng thủ Pleiku của Quân Đoàn II để cuối cùng: 3/ Dùng một trung đoàn còn nguyên sức tấn công Pleiku với ba mũi giáp công (Từ phía Bắc, theo Đường 14; từ phía Đông theo Đường 19; và từ phía Tây- Nam, cửa ngỏ của Đức Cơ, Pleime). Tất cả diễn tiến chiến thuật nầy được giao phó cho Tướng Chu Huy Mân với Sư Đoàn 320 (Sư Đoàn Điện Biên) gồm ba Trung Đoàn 32, 33, và 66 đã từ lâu là chủ lực của vùng Tây Nguyên. Để phá vỡ mưu định của phía cộng sản, ban tham mưu quân đoàn thiết lập một kế hoạch phản công trên những chọn lựa: 1/Nếu giải cứu Pleime thì lực lượng tiếp cứu sẽ rơi vào bẫy phục kích ắt sẽ phải xẩy ra trên lộ trình dẫn đến trại (như đã xẩy ra khi giải cứu Phú Túc, Thuần Mẫn, và mới mẻ của Đức Cơ, v..v); phòng thủ Pleiku sẽ suy yếu, 2/ Nếu bỏ mặc Pleime thì sẽ gây nên một tác động tâm ích rất xấu đối với tinh thần chiến đấu của cả Vùng II. Thêm một lần, Tướng Westmoreland lại có quyết định hữu hiệu, sáng suốt, đưa một Lữ Đoàn Không Kỵ từ An Khê lên Pleiku, đặt dưới quyền của Tướng Stanley R. Larsen làm thành phần bảo vệ Pleiku, và trừ bị cho cuộc hành quân; Lữ Đoàn nầy cũng bố trí những pháo đội 155, 105 cơ hữu yểm trợ trực tiếp cho chiến đoàn đặc nhiệm giải tỏa Pleime. Chiến đoàn đặc nhiệm nầy gồm 1200 binh sĩ đặt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Thiết Giáp Nguyễn Trọng Luật gồm Thiết Đoàn 3 Thiết Kỵ, Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 42 BB; hai Tiểu Đoàn 21 và 22 BĐQ, chiến đoàn đặc nhiệm nầy có những đơn vị công binh, pháo binh thống thuộc hành quân. Ngoài ra còn có hai đại đội LLĐB thuộc Tiểu Đoàn 91 Biệt Kích Dù (Tiền thân của Liên Đoàn 81 BK) phối hợp với Toán Projet Delta của Thiếu Tá Charlie A. Beckwith (LLĐB Mỹ) trưa ngày 20 tháng 10 nhảy vào khu vực tiếp cận trại Pleime, để trở thành lực lượng xung kích từ trong trại đánh ra bắt tay lực lượng tiếp cứu của Trung Tá Luật như kế hoạch dự trù từ Đường 14 tiến vào trại theo ngã rẽ của Hương Lộ 6C. Nhưng kế hoạch tiếp cứu không giản lược như những điều tổng quát vừa kể ra, ban tham mưu quân đoàn đã tinh tế rút kinh nghiệm của Đức Cơ trong tháng 8, nên ngày 23/10 thay vì dùng Tiểu Đoàn 22 BĐQ làm thành phần tùng thiết với chiến xa của Trung Tá Luật, lại đổ đơn vị vị nầy xuống phía Nam vị trí phục kích của Trung Đoàn 32/SĐ 320 toàn thành thế liên hoàn hai mặt Nam-Bắc kẹp chặt thế trận của quân Bắc Việt. Chiến trận hai ngày 23, 24 tuy đã chuẩn bị kỹ (của cả hai bên tham chiến), nhưng tình hình chiến trận vẫn thay đổi vào những lúc bất ngờ nhất. Các Tiểu Đoàn 635, 344 thuộc Trung Đoàn 32 Bắc Việt dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Hữu An từ những vị trí được chuẩn bị, ngụy trang kỹ bám sát bộ phận tiếp ứng của Trung Tá Luật, gây thiệt hại trầm trọng đối với đơn vị hậu vệ, và chận đứng thành phần tiền đạo ở cây số 5 cách trại Pleime. Quân đoàn tăng viện một toán tiền sát pháo binh của lữ đoàn không kỵ cho đoàn tiếp ứng – Những tiền sát viên này điều chỉnh tác xạ cận phòng (từ những đại bác cơ hữu của chính Không Kỵ) trải thảm trước mặt từng bước giúp đoàn chiến xa. Ngoài ra những phi cơ F100; trực thăng võ trang Hoa Kỳ, và AD1 của VNCH bằng kỹ thuật tác xạ chính xác đã lập nên hàng rào lửa bảo vệ cạnh sườn cho đoàn quân tiếp ứng. Phối hợp tuyệt hảo giữa thế trận phản phục kích hợp cùng sức chiến đấu ngoan cường của chiến sĩ nơi trận địa, như hành vi dũng cảm của các chiến sĩ LLĐB Mỹ –Việt từ trong trại phản kích, xung phong ra với súng phun lửa đã tạo nên chiến thắng kiên cường: Tối 25 tháng 10, 1965 đoàn tiếp ứng bắt tay được với lực lượng phòng thủ trại, chấm dứt sự bao vây Pleime mà bộ tư lệnh Mặt Trận B3 đã mưu định từ mùa Xuân 1965. “… Vị tư lệnh chiến trường có thể đi ngủ để đợi tin chiến thắng khi chiến dịch bắt đầu!!”Thống Tướng Montgomery của Thiết Giáp Hoàng Gia Anh Quốc đã nói lên điều kiện định nầy để nhấn mạnh vai trò quyết định của tổ chức, tham mưu trong những chiến dịch lớn. Trận Đức Cơ, và Pleime đã xác chứng về ý nghĩa, vai trò quyết định của công tác chuẩn bị, điều hành, tổ chức, tham mưu (lẽ tất nhiên thực tế chiến trường, với sức chiến đấu của người lính trên trận địa là những yếu tố quan yếu khác nữa) – Chiến thắng Pleime được Tướng Vĩnh Lộc khai triển nên thành một biểu tượng chiến đấu và chiến thắng của Quân Đoàn II – Đại bản doanh của quân đoàn được đặt tên là Thành Pleime – Nhưng hầu như không mấy ai (trong và ngoài quân đội) biết rằng: Đại Tá Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu hầu như đã thức suốt ngày, đêm trong những ngày 20, 22… 25 nơi chiếc hầm chỉ huy Trại Đức Cơ, để xử dụng hệ thống truyền tin âm thoại (có công suất mạnh) của đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ mới có thể liên lạc, phối hợp với những tư lệnh người Mỹ thuộc nhiều binh chủng. Không quân, lực lượng đặc biệt, bộ binh, không kỵ trong suốt cuộc hành quân (NVT sđd trg 385).



Áp dụng trọn vẹn nguyên tắc của của binh thư, Bộ Tham Mưu Quân Đoàn hợp cùng Sư Đoàn I Không Kỵ (Ist Air Cavalary Div) – Cũng có nghĩa khai triển thành quả mối giao hảo tốt đẹp giữa hai cá nhân, Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu và Tư Lệnh Kinnard của Không Kỵ qua chiến thắng hai lần lẫm liệt Đức Cơ, và Pleime – Hai bên cùng hợp soạn một kế hoạch hành quân truy kích tàn quân của các Trung Đoàn 32, 33, và 66 Bắc Việt để không cho đối phương dịp nghỉ ngơi như phía cộng sản từ bao lâu vẫn giữ ưu thế quyết định chiến trường. Với khả năng không vận trực thăng tưởng như vô hạn (Sư Đoàn Không Kỵ với hơn 600 trực thăng cơ hữu là đơn vị số một và độc nhất có khả năng tác chiến di động lớn nhất so với tất cả các đơn vị hoạt động biệt lập trên toàn thế giới), Sư Đoàn1Không Kỵ (SĐ1KK) yểm trợ phối hợp hành quân đưa các Tiểu Đoàn 1, và 2/Lữ Đoàn7/SĐ1KK, và bốn tiểu đoàn nhảy dù vào trận địa – Thung lũng Ia Drang sát biên giới Campuchia – Hậu cần bất khả xâm phạm từ trước tới nay của Mặt Trận B3. Cánh quân nhảy dù đích thân Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù chỉ huy: Trung Tá Ngô Quang Trưởng với tham dự cố vấn của viên sĩ quan tên gọi: Thiếu Tá Norman Schwarzkopf. Với kế hoạch hành quân tinh tế, cẩn mật, tiên kiến mọi tình huống; với quân binh nhảy dù tinh nhuệ dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan kiệt liệt; phối hợp với đơn vị không kỵ có di động tính cao, tổ chức hiện đại, hỏa lực hùng hậu, và yễm trợ trực thăng tối đa của SĐ1KK, cuộc Hành Quân Truy Kích binh đoàn cộng sản Bắc Việt vào đầu Sông Ia Drang, sát biên giới Campuchia tháng 11,1965 là một trong những cuộc hành quân thế công thành công hiếm hoi nhất của quân lực Miền Nam và Đồng Minh trong suốt cuộc chiến khởi đi từ 1960.



1966. Bình Định; 1970. Snoul



Nhưng, Tướng Nguyễn Văn Hiếu không chỉ là một vị tướng tài giỏi chuyên về tham mưu, tổ chức mà còn là một Tướng Quân trí dũng nơi trận địa. Những chiến trận sau đây sẽ chứng minh về khả năng thao lược của người.



Tỉnh Bình Định là một trong những tỉnh lớn nhất của miền Trung, cũng của cả Miền Nam với mười-hai quận, và dân số đông nhất (gần một triệu), nhưng cũng là tỉnh có số lượng nhân sự cộng sản đông nhất. Trong chiến tranh 1945-1954, tỉnh là thủ phủ của Liên Khu 5 Cộng Sản (LK5), quân đội Liên Hiệp Pháp không hề đặt chân đến được, chỉ thuộc quyền của chính quyền quốc gia sau 20 tháng 7/1954. Tại lãnh thổ nầy, lực lượng cộng sản có Sư Đoàn 3 SaoVàng (SĐ3SV), hệ thống tỉnh ủy, bộ chỉ huy tỉnh đội gồm nhiều tiểu đoàn địa phương, và cơ sở du kích vững chắc qua cuộc chiến tranh của thập niên 50 được gài lại sau 1954. Theo chiến lược “Lùng và Diệt” thành hình giữa Tướng Westmoreland và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, tỉnh được chia làm ba vùng: Khu vực phía Nam của tỉnh (giáp ranh với Tuy Hòa/Phú Yên) gồm ngoại vi Thị Xã Quy Nhơn, các Quận Phú Phong, Tuy Phước, Văn Canh thuộc trách nhiệm của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Khu vực rừng núi phía Tây (giáp ranh Pleiku, Kontum) gồm các quận An Khê, Vĩnh Thạnh, An Lão, và Hoài Ân thuộc vùng trách nhiệm của Sư Đoàn1 Không Kỵ (SĐ1KK), với Mật Khu An Lão (nằm dọc theo sông An Lão, nhánh phía Bắc của Sông Lại Giang chảy ra biển tại Bồng Sơn/Hoài Nhơn, vùng châu thổ trù phú nhất của Miền Trung), hậu cần quan trọng của toàn Liên Khu 5. Vùng phía Bắc và Đông (dọc bờ biển, và giáp tỉnh Quảng Ngãi) là khu vực đông dân của các Quận Hoài Ân (Bồng Sơn), Tam Quan, Phù Mỹ, Phù Cát thuộc trách nhiệm hành quân của Sư Đoàn 22 Bộ Binh, Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu giữ chức Tư Lệnh – Không thể ai sánh được với ông trong chức vụ chỉ huy đơn vị nầy ở Vùng II – Nhưng ông vẫn chỉ là một vị tư lệnh sư đoàn với cấp bậc đại tá dù đã là người thiết kế nên những chiến thắng lẫm liệt trong suốt năm 1965 vừa kể ra trên. Ông mang cấp đại tá từ tháng 11, 1963.



Nắm quyền tư lệnh sư đoàn từ giữa năm (tháng 6, 1966), cuối năm (tháng 11), vị tân tư lệnh đã tạo dựng ngay một chiến thắng vẻ vang dưới chân Đèo Phù Cũ (Quận Phù Mỹ). Lúc ấy, chúng tôi, đơn vị tăng phái (Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù – Pnn) làm thành phần chận địch đóng trên núi, chứng kiến đơn vị bạn (Trung Đoàn 42/ Sư Đoàn22Bộ Binh) hợp cùng chi đoàn thiết vận xa M113 lùa địch từ Quốc Lộ I vào núi. Trận chiến hào hùng như một đoạn phim tài liệu lịch sử kỳ Đệ Nhị Thế Chiến – Các chiến sĩ bộ binh tùng thiết với thiết vận xa M113 theo đội hình hàng ngang, ào ạt tiến tới sau một đợt tác xạ, mạnh mẽ uy vũ như những hiệp sĩ thời trung cổ xung trận. Chiến Đoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Nguyễn Khoa Nam đứng trên sườn núi chong ống nhòm quan sát trận địa dẫu là người kín đáo, phải nói nên lời thán phục: “Đại Tá Hiếu điều quân như một “ông thiết giáp” nhà nghề, và lính Sư Đoàn 22 đánh đẹp đâu thua lính mình”- Lời ngợi ca chân thật giữa những người chiến đấu nơi trận tiền. Không để địch nghỉ ngơi (như sau chiến thắng Pleime, Đức Cơ), nay với khả năng quyết định rộng rãi của quyền tư lệnh, Đại Tá Hiếu hạ lệnh tiếp tục truy kích, diệt gọn các đơn vị của Sư Đoàn 3 Sao Vàng, cũng để chứng tỏ “Ai Thắng Ai” nơi mặt trận Liên Khu 5 nầy – Vùng “Năm Eo”, bí danh bộ đội cộng sản thường gọi với lòng kiêu hãnh – Khu vực bất khả xâm phạm mà chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải mất hai năm (1955-1957) mới bình định được.



Chiến dịch tấn công của liên quân bắt đầu Ngày N (Ngày Khởi Sự) với lực lượng SĐ1KK đổ quân xuống vùng hai quân Hoài Ân và Vĩnh Thạnh, đơn vị không kỵ khám phá ra nhiều kho tàng, quân nhu, quân dụng được cất giữ trong những khu vực kín đáo, an toàn (Hậu cần LK5/ SĐ3SV). Nhưng các đơn vị chính quy cộng sản hoàn toàn tránh né, bởi họ đã hiểu ra hỏa lực quá hùng hậu của không kỵ. Nên vào lúc 11 giờ đêm Ngày N+3, Thiếu Tướng Tư Lệnh/ SĐ1KK vào Bộ Tư Lệnh/SĐ22 gặp Tướng Hiếu (vinh thăng Chuẩn Tướng tháng 11/1966) với yêu cầu: Sư Đoàn 22 hủy bỏ kế hoạch tấn công vào hướng tây Quận Phù Mỹ theo như dự trù, để phối hợp với SĐ1KK tiến chiếm An Lão mà ông tin chắc là nơi SĐ3SV đang tập trung. Tư Lệnh Kinnard nêu luận cứ: “Hôm nay, tôi đã cho một Đại Đội Biệt Động/SĐ1KK trực thăng vận vào khu vực đó (Vùng quận Phù Mỹ của SĐ22- Pnn) để tìm và diệt nhưng không thấy đụng độ. Biết vậy là sai nguyên tắc (đã phân chia vùng trách nhiệm), nhưng bởi nóng lòng tiêu diệt địch nên đã làm như thế”. Tướng Hiếu nại đến lời khẳng định của sĩ quan Trưởng Phòng 2 (Phòng Quân Báo), Thiếu Tá Trịnh Tiếu: “Thưa Thiếu Tướng, cộng sản rất né đụng độ với quân đội Hoa Kỳ vì họ sợ hỏa lực của các ông. Tôi tin Sư Đoàn 22 sẽ đụng độ với Sư Đoàn 3 SaoVàng tại mục tiêu nầy…” Thiếu Tá Trịnh Tiếu giải thích thêm: “Tôi đã gặp một du kích Việt cộng sống ở vùng đồi núi phía tây quận Phù Mỹ. Tôi đã tốn rất nhiều tiến bạc nuôi gia đình tên du kích nầy. Cách đây vài ngày, tên du kích đã báo cho tôi biết có nhiều đơn vị của Sư Đoàn Sao Vàng trú quân tại ranh giới hai quận Phù Mỹ và Hoài Ân”. Từ xác định của Thiếu Tá Trịnh Tiếu, Tướng Hiếu có kết luận với Tướng Kinnard: “Sư đoàn chúng tôi sẽ vào vùng hành quân ngày mai, không nên thay đổi kế hoạch quá sớm.” (Đại Tá Trịnh Tiếu, NVT sđd, trg 393-394)



Dựa theo tin tức của Thiếu Tá Tiếu/Phòng 2, Tướng Hiếu chỉ thị cho Trung Tá Bùi Trạch Dzần, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 41 chỉ xử dụng hai tiểu đoàn bộ binh, cùng với bộ chỉ huy trung đoàn vào vùng thật sớm để khoảng ba giờ chiều hãy đóng quân, đào hầm hố, lập công sự phòng thủ thật kỹ càng – Dân chúng nằm vùng nơi vùng xôi đậu đang hành quân tất thế nào cũng báo cáo cho bộ chỉ huy cộng sản biết tình hình quân số của lực lượng quân đội cộng hòa. Sư đoàn cộng sản sẽ điều quân đền đánh theo như tin tức nầy – Tướng Hiếu ém quân thật kín đáo nơi xa một tiểu đoàn trừ bị và chi đoàn thiết vận xa, và sẽ dùng lực lượng nầy để phản công. Quả nhiên đến hai giờ sáng, Trung Tá Dzần báo cáo trung đoàn cộng sản bắt đầu tấn công vị trí của ông. Tướng Hiếu ra lệnh chi đoàn chiến xa và tiểu đoàn trừ bị thần tốc tiến quân vào mục tiêu, bao vây, tiêu diệt không cho địch rút lui. Sư Đoàn Không Kỵ được tin bộ binh Sư Đoàn 22 đụng trận theo kế hoạch trù liệu, yểm trợ hỏa lực với tất cả pháo binh đã bố trí sẵn, dựng nên vũng rào lửa giữa đội hình của đối phương bị phơi bày dưới ánh sáng hỏa châu rọi liên tục – Biến đêm tối nên thành ngày rạng. Và khi ngày thật sự đến các chiến sĩ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh đếm đủ hơn 300 xác chết nơi trận địa. Theo thống kê của chuyên viên quân sự: Khi có một xác chết để lại trận địa thì đơn vị ấy phải bị thiệt hại quân số đến ba lần hơn – Chiến tích của Hành Quân Đại Bàng 800 và những hành quân cấp tiểu đoàn của sư đoàn nầy kể từ khi Tướng Nguyễn Văn Hiếu giữ chức tư lệnh (6/1966) đã đưa Sư Đoàn 22 Bộ Binh từ một đơn vị bình thường trong vòng sáu tháng nên thành:



1/ Sư Đoàn 22 xử dụng nhiều thì giờ hành quân tác chiến cao hơn hết so với bất cứ một sư đoàn nào khác trong nước trong thời gian nầy (1966-1967). 2/Thời giờ dùng vào công tác bình định chỉ chiếm khoảng 10% tổng số ngày cơ hữu. 3/So với toàn quốc, Sư Đoàn 22 dùng ít thời lượng nhất trong công tác an ninh. 4/Số lượng đụng độ địch trên đơn vị cấp tiểu đoàn của sư đoàn nầy cao nhất trong quân đoàn. (Toán Cố Vấn Vùng II Chiến Thuật – NVT sđd trg 209) Bản lượng giá còn nhiều ưu điểm khác được nêu lên. Chúng tôi tóm lược với ý nghĩ: Nếu tất cả Sư Đoàn Bộ Binh QLVNCH đồng có những Tư Lệnh Sư Đoàn như các Tướng Quân: Nguyễn Viết Thanh, Trương Quang Ân, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Nguyễn Văn Hiếu, sớm hơn một thập niên. Và các Liệt Vị Nguyễn Viết Cần, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Hữu Thông, Đặng Phương Thành, Nguyễn Xuân Phúc, Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long… mau chóng nên thành Tướng Lãnh Huân Công Giữ Nước thì chắc hẳn không có ngày uất hận 30 tháng Tư, 1975. Nỗi Đau nầy không chỉ riêng một người. Không phải của một người.



Khả năng thao lược của Tướng Nguyễn Văn Hiếu không ngừng ở cấp sư đoàn với những đơn vị bộ binh cơ hũu, người chứng tỏ năng lực chỉ huy, điều động trận địa ở mức độ cao hơn với quan niệm hành quân liên binh chủng, cấp quân đoàn. Hành Quân Toàn Thắng 46 đánh vào Trung ương Cục R với mục tiêu vùng Lưỡi Câu, Tây-Bắc Lộc Ninh, bên kia biên giới VNCH-Campuchia. Vùng Lưỡi Câu là bản doanh của Sư Đoàn 5 Cộng Sản, trên danh nghĩa, đơn vị nầy thuộc Lực Lượng Vũ Trang Giải Phóng Miền Nam, nhưng hầu hết cán bộ khung là người miền Bắc với Ủy viên chính trị thuần là người của Hà Nội, từ cấp cơ sở. Điều nầy được hiện thực toàn diện từ khi Ba Cấp (không rõ tên, thay thế Chín Chiến, người Nam) nhận lệnh từ Lê Duẫn trực tiếp điều hành Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Tranh Thủ Hòa Bình từ đầu thập niên 70 (Trương Như Tảng, Journal of A Vietcong; Johanathan Cape, London, England 1986, p197) trong đó Mặt trận giải phóng Miền Nam và lực lượng vũ trang là những bộ phận thống thuộc. Vùng nầy cũng là cơ sở hậu cần của hai Đoàn 70, 80 yểm trợ không riêng cho Sư Đoàn 5, mà cho toàn vùng Lưỡi Câu nầy, bao gồm mặt trận Bình Long trong nội địa Việt Nam.



Cuộc hành quân xử dụng những đơn vị, Trung Đoàn 9/Sư Đoàn 5 gồm có các tiểu đoàn 2, 3, 4 cơ hữu, và Đại Đội 5 Viễn Thám của sư đoàn; Trung đoàn được yểm trợ, tùng thiết với Trung Đoàn 11 Thiết Kỵ Mỹ tiến quân theo năm giai đoạn: Giai đoạn I tấn công; Giai đoạn 2, 3, và 4 lùng và diệt địch; Giai đoạn 5 rút về lại đất Việt. Cuộc hành quân nầy chỉ kéo dài từ tháng 5 đến tháng 7, 1970 có nhiệm vụ nhiệm vụ đánh thăm dò, và kiện toàn hệ thống tham mưu, phối hợp để tiếp theo những cuộc hành quân quan trọng hơn, cũng trên đất Miên với mục tiêu là Căn Cứ Hậu Cần 86, khu vực quanh Thị Trấn Snoul. Ngày 14 tháng 10, 1970 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III chỉ thị Sư Đoàn 5 mở cuộc hành quân Toàn Thắng 8/B/5 với lực lượng được tổ chức như sau: 1/Chiến Đoàn1 gồm Thiết Đoàn1Thiết Kỵ làm thành phần chủ lực; 2/Chiến Đoàn 9 gồm Trung Đoàn 9/SĐ5 làm thành phần chủ lực; 3/Chiến Đoàn 333 gồm Chi Đoàn 18 Chiến Xa và bốn Tiểu Đoàn Biệt Động Quân. Bộ Tư Lệnh tiền Phương Sư Đoàn 5 đóng ở Lộc Ninh chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân chỉ rút về Lai Khê khi các đơn vị lâm chiến đã rút khỏi đất Miên an toàn về đến hậu cứ (10/11/70). Qua hai cuộc hành quân (ngắn hạn, có tính chất đánh thăm dò) nầy, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III và Sư Đoàn 5 rút ra hai điều căn bản: 1/Trong giai đoạn lực lượng VNCH tiến quân, quân cộng sản thường lẩn trốn vào sâu trong nội địa đất Miên. 2/Khi quân đội cộng hòa triệt thoái quân về đất Việt là lúc tình hình chiến trường trở nên khó khăn vì đối phương thường tổ chức phục kích cuộc rút binh. Thế nên, dẫu hủy diệt rất nhiều kho tàng, quân trang bị, vũ khí, đạn dược, lương thực của địch hai cuộc hành quân vừa kể, quân lực cộng hòa cũng chưa đánh vỡ được các đơn vị chủ lực cộng sản, Trung Đoàn 174, 275, và đầu não chỉ huy Sư Đoàn 5 với các đơn vị thống thuộc trong khu vực. Thêm một lần, Tướng Hiếu đề nghị cùng Tướng Trí thay đổi quan niệm hành quân: Thay vì lùng, diệt địch, ta phải dụ địch xuất hiện, rồi mới tập trung quân tiêu diệt. Cụ thể trong khu vực hành quân của Sư Đoàn 5, có Sư Đoàn 5 của địch với hai trung đoàn có phiên hiệu 174, 275. Nay ta dùng một trung đoàn để nhử địch, và nếu địch dùng một trung đoàn tấn công, thì ta sẽ tập trung một sư đoàn để phản kích. Nếu địch tấn công toàn bộ một sư đoàn thì ta sẽ dùng ba sư đoàn cơ hữu của vùng (18, 25, và 5) để phản kích. Tướng Trí đồng ý kế hoạch “Điệu Hổ Ly Sơn” táo bạo nầy và Tướng Trí bắt đầu một kế hoạch chuẩn bị tỉ mỉ trong suốt những tháng còn lại của năm 1970. Ông cho đặt 11 vị trí máy dò thám quanh vùng Snoul, và một trung tâm dò tìm tín hiệu được đặt ở Lộc Ninh với nhân viên Phòng Tình Báo sư đoàn làm việc 24/24.



Ngày 4 tháng 1, 1971 kế hoạch “điệu hổ” bắt đầu với Chiến Đoàn 9 gồm Trung Đoàn 9/SĐ5BB, Tiểu Đoàn 74 BĐQ, Chi Đoàn 1 Chiến Xa, và Đại Đội 5 Công Binh vào vùng hành quân. Nhưng địch quân quả tình rất tinh khôn nên luôn tránh né giao tranh, mãi đến hai tháng sau mới có chỉ dấu quân cộng sản bắt đầu dấn vào bẫy sập. Nhưng một biến cố bất lợi vô cùng quan trọng xẩy ra: Ngày 26 tháng 2/1971, trực thăng chở Tướng Đỗ Cao Trí bị phát nổ – Vị tư lệnh chiến trường tử nạn vào giai đoạn quan yếu quyết định của chiến dịch – Ngày 8/3/71, Địch quân bắt đầu pháo kích vào vị trí đóng quân của Chiến Đoàn 9, một cây số Tây- Nam Snoul. Cùng lúc Mặt Trận Hạ Lào, Lam Sơn 719 nơi phía bắc bị lâm vào thế bế tắc. Tướng Nguyễn Văn Minh thay thế Tướng Trí giữ chức tư lệnh quân đoàn đồng ý tiếp tục kế hoạch “nhử địch” củaTướng Hiếu nhưng không mấy sốt sắng. Phần vì không phải kế hoạch của chính ông; phần không đủ bản lãnh để theo đuổi một kế hoạch sẽ có nhiều diễn tiến mở rộng, khó lường trước (Sẽ phải xử dụng hai sư đoàn 18, 25 trong trường hợp Bắc quân tập trung cấp sư đoàn). Liên tục trong những ngày tháng 3 hai bên vẫn tiếp tục theo dõi diễn biến chiến trường để sửa soạn một cuộc tấn công quyết định. Tướng Hiếu lệnh cho Trung Đoàn 8/SĐ5BB, thay thế Trung Đoàn 9, lực lượng mới cải danh thành Chiến Đoàn 8, các thành phần tăng phái, Biệt Động Quân, Thiết Kỵ không thay đổi. Với quân số gần 5000 người, được yểm trợ bởi Không Lực Hoa Kỳ, Tướng Hiếu trải rộng vùng hành quân cốt lùa cho được địch quân vào bẫy sập. Ngày 26/5/71 cộng quân ra mặt tấn kích Snoul nhưng bị quân trú phòng đánh bật ra. Ngày 27/5 địch chuyển hướng tấn kích sang mặt phía tây; và ngày 29 đánh vào trung tâm chỉ huy của Chiến Đoàn 8 với quân số cấp trung đoàn phá hủy hệ thống truyền tin, đài kiểm báo. Tướng Hiếu yêu cầu Tướng Minh xử dụng quân trừ bị của quân đoàn phản công với đa số áp đảo như kế hoạch đã dự trù. Cố Vấn Mỹ khuyến cáo Tướng Minh đừng thi hành yêu cầu của Tướng Hiếu với lý do: “Hãy đợi quân Việt Cộng tập trung đông rồi dùng B52 tiêu diệt.” Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu không thể chấp thuận kế hoạch nầy, vì nếu thế B52 sẽ gây thiệt hại cùng lần cho quân bạn. Ông chỉ yêu cầu B52 dội bom dọc theo lộ trình rút quân (Quốc Lộ 13 từ Snoul về Lộc Ninh), và nếu không áp dụng kế hoạch dự trù sơ khởi (dùng quân viện phản kích) thì hãy cho lệnh rút Chiến Đoàn 8 khỏi Snoul.



Ngày 30 tháng 5/1971, chỉ cần đợi Tướng Minh phủi tay với lời bất nhẫn: ”Anh muốn làm gì thì làm!!”, Tướng Hiếu đáp máy bay xuống Snoul nơi Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn 8 đang trong tầm súng bắn thẳng của cộng quân, đích thân ra lệnh triệt thoái đến với tất cả cấp chỉ huy những đơn vị tham chiến, sau khi biết rằng lời yêu cầu của ông xin B52 yểm trợ cuộc hành quân rút lui đã bị bộ tư lệnh quân đoàn và cố vấn Mỹ bỏ qua. (NVT sđd, trg 411)



Tuy nhiên, cuộc lui binh khỏi Snoul cũng được hoàn tất (dẫu với tỷ số thiệt hại 1/3 quân số, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 8 tử trận), bởi các đơn vị vẫn giữ được đội hình chiến đấu trong lúc triệt thoái, duy trì khả năng tác chiến sau lần tổn thất do tất cả những người chỉ huy, binh sĩ các cấp đồng biết rằng: Vị Tư Lệnh Sư Đoàn luôn ở với họ trong những giờ phút nguy nan nhất. Cuộc lui quân thành công cũng vì được Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi trợ lực tiếp cứu từ Lộc Ninh theo Đường 13 đánh lên Snoul. Cuối cùng, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu sau lần triệt thoái phải ra tường trình trước Quốc Hội vì lỗi đã để thất trận Snoul.



Hành Quân Triệt Thoái là hình thái hành quân KHÓ NHẤT- BỞI TỰ THÂN ĐÃ MANG MẦM THẤT BẠI.



Quân Sử Đông-Tây, Cổ-Kim thế giới đã chứng nhận điều nầy qua thất bại của những danh tướng, những đạo binh bách thắng. Napoléon rút khỏi đất Nga (1812); quân Mông Cổ lui binh ở Đại Việt (Thế Kỷ 13). Và gần gũi mới mẻ nơi chiến trường Đông Dương trên Quốc Lộ 4 với tan rã của Binh Đoàn Charton-Le Page (1953); Binh Đoàn Lưu Động 100 (GM.100) trên Quốc Lộ 19 (1954). Và không đâu xa, mới đây, ở Mặt Trận Hạ Lào, Lam Sơn 179 (tháng 2/ 1971): Một Thiết Đoàn Kỵ Binh; một Liên Đoàn Biệt Động Quân; một sư đoàn bộ binh hàng đầu của quân lực; hai đơn vị tổng trừ bị quốc gia: Sư Đoàn 1 Bộ Binh; Sư Đoàn Nhảy Dù; Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến đồng bị đem làm vật thí nghiệm cho những “chiến lược gia hạng ba, hạng tư”, những tướng lãnh bất tài, vô dụng. Lẽ tất nhiên không thể không kể những viên “tướng” gọi là “Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia; Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực; Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Quốc Gia; Chủ Tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia; Bộ Trưởng Quốc Phòng; Tổng Tham Trưởng.” Những kẻ xây dựng “công danh” trên máu xương Người Lính – của rất nhiều Người Lính.



Miền Nam thật sự lâm cảnh nước mất, nhà tan từ cuộc rút lui gọi là “di tản chiến thuật” bắt đầu ngày 15 tháng 3, nơi Tây Nguyên.



III. Trùng Vây Bất Minh



Quỹ Tiết Kiệm Quân Ðội là gì? Như thế nào?



Ngày 14 tháng 7, 1972 trong khí thế của toàn Quân-Dân Miền Nam kiên cường giữ nước trên mặt trận quân sự, Ðài Truyền Hình Việt Nam tại Sài Gòn đã nổ phát pháo hiệu của trận tuyến không tiếng súng nhưng không kém phần uy mãnh: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Phụ Tá Ðặc Biệt Phó Tổng Thống Ðặc Trách Bài Trừ Tham Nhũng, Tổng Thư Ký Ủy Ban Ðiều Tra Ðặc Biệt về Quỹ Tiết Kiệm Quân Ðội (QTKQÐ) tuyên bố bản tường trình sau ba tháng làm việc. Lòng người Miền Nam bừng lên khí thế hy vọng: thù trong-giặc ngoài đồng lần thanh toán. Vận nước sau hồi điêu linh, bĩ cực nay phải chăng đang đến kỳ vinh hiển hanh thông. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu quả đã một lần đốt lên ngọn nguồn Hy Vọng cho cả Miền Nam. Nhưng oan nghiệt thay, chỉ hơn hai năm sau, Người thắp sáng ngọn lửa lẫn quê hương đồng lâm cơn bức tử cùng đành. Chúng ta nhìn lại Nỗi Ðau không hề giảm sút dẫu đã ba-mươi năm qua.



Bắt đầu từ tháng Giêng năm 1968, mỗi quân nhân các cấp thuộc chủ lực quân và địa phương quân QLVNCH đồng bị khấu trừ 100 Ðồng vào tiền lương mỗi tháng. Với quân số khoảng 1 triệu người, số tiền kia sau một thời gian ngắn trở thành một tổng giá trị to lớn mà không một tổ chức hay hiệp hội thương mại, kỹ nghệ nào trong nước có thể sánh được. Và nếu như chỉ dùng tổng số tiền nầy mở những trương mục ký thác cố định, và huy động, sử dụng vốn, tiền lời nên thành một số vốn nhỏ cho mỗi quân nhân (có được khi giải ngũ), thì chắc rằng ý niệm ban đầu khi thiết lập quỹ ắt là một kế hoạch rất đáng ca ngợi. Với tình huống nầy cũng không thể có hiện tượng gọi là tham những, gian trá trong việc điều hành quỹ. Hoặc tài giỏi, khôn khéo hơn, điều động số vốn khổng lồ kia vào những dịch vụ kinh doanh, thương mãi với thành tâm, thiện ý – Gây sinh lợi cho Người Góp Vốn: tập thể những Người Lính đang thật sự góp máu, xương gìn giữ Miền Nam – Thì ý niệm “Kinh Bang Tế Thế” sẽ nên là một điểm son, nguồn sức mạnh kinh tế, vật chất, tài lực góp phần bền vững cho Người và Chế Ðộ Cộng Hòa. Khổ thay, sự việc không diễn tiến theo chiều hướng tốt đẹp mong muốn nầy. Chúng ta trở lại bản tường trình mà thực chất là bản cáo trạng của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu – Vì sao đơn độc trong đêm dài bất hạnh của quê hương.



1.- Những vi phạm về pháp lý:



Chiếu Dụ Số 10 ban hành ngày 6 tháng 8, 1950 (Chế độ Quốc Gia Việt Nam- Quốc Trưởng Bảo Ðại): Ðiều 1- Cấm triệt để các hiệp hội có những sinh hoạt với mục đích “chia hưởng lợi tức”. Thế nhưng, Hội Ðồng Quản Trị Quỹ Tiết Kiệm Quân Ðội (HÐQT/ QTKQÐ) đã dùng vốn của Hiệp Hội (QTKQÐ) để mua cổ phần hai công ty (của chính phủ): COGIVINA và SICOVINA; thành lập Kỹ Thương Ngân Hàng (KTNH), và bốn công ty mới: VICCO; VINAVATCO; ICICO; và FOPROCO với số vốn 1, 232, 753, 000. 00 Ðồng Việt Nam (Tính chung, 1 Tỷ 3).



Không được đứng tên Hiệp Hội (QTKQÐ) để ký các văn kiện hành chánh, nên những giấy tờ thiết lập tại Phòng Chưởng Khế Sài Gòn, Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ (Tổng Trưởng Quốc Phòng) cùng một số người nữa đã đứng tên làm chủ cổ phần với tư cách cá nhân. Sau đó, do biết rõ đã vi phạm luật khi thiết lập những chứng từ căn bản trong việc tổ chức, những cá nhân nầy lại ký những “Giấy Chuyển Nhượng các Cổ Phần” lại cho Hiệp Hội (QTKQÐ) với lời cam kết: “Chỉ là những chứng chỉ cá nhân” – Nhưng, hồ sơ chính lưu trữ tại Phòng Chưởng Khế Sài Gòn vẫn là danh tính của những cá nhân kia.



Hai khuyết điểm vi phạm luật thiết lập, điều hành hiệp hội như trên không phải không được nêu ra, Phủ Thủ Tướng đã gởi Văn Thư số 2960 ngày 27/8/1970 yêu cầu Bộ Quốc Phòng điều chỉnh về mặt tổ chức để đúng với luật lệ hiện hành. Thế nhưng, Bộ Trưởng Nguyễn Văn Vỹ và HÐQT/ QTKQÐ vẫn tiếp tục điều hành Quỹ trên căn bản vi phạm luật lệ tổ chức hiệp hội, qua lần mua thêm cổ phần trong Công Ty Dệt Việt Nam, và thiết lập những công ty mới: CôngTy Xây Cất Kỹ Nghệ VN (VICCO); CÔNG TY Vận Tải VN (VINAVATCO); Công Ty Bảo Hiểm Kỹ Nghệ và Thương Mãi (ICICO); Công ty Sản Xuất Thực Phẩm (FOPROCO). (NVT sđd trg 276-281)



Ðể đúc kết phần trình bày về vi phạm luật tổ chức, điều hành Hiệp Hội, chúng tôi nêu lên hai chi tiết bổ túc: 1/Bộ Trưởng Nguyễn Văn Vỹ vốn tốt nghiệp Trường Luật Hà Nội, và Trường Võ Bị St. Cyr của Pháp (George Mcarthur Los Angeles Times April 4, 1972 -NVT sđd trg 274)



2/Quân nhân các cấp bắt đầu góp 100 Ðồng/Tháng vào Quỹ kể từ Tháng 1/1968, nhưng mãi đến 9 Tháng 5/1969, Bộ Quốc Phòng mới ra chỉ thị ấn định những điều lệ thu nhận, điều hành số tiền đóng góp của toàn quân đội. (NVT sđd, trg276)



Do bất chính từ tổ chức, và điều hành như trên, Quỹ đã có những khuyết điểm tất nhiên như sau: – Giữa thu, chi có những số liệu chênh lệch quá lớn, và không thể giải thích.



- Khuyết điểm trên xẩy ra do mỗi đơn vị, địa phương kết toán theo mỗi cách thức khác nhau. Có đến hơn 400 đơn vị kế toán hành chánh tài chánh trên toàn quốc (kể cả trung ương) giữ sổ sách không minh bạch, (không ghi ngày, tháng; không chữ ký của kế toán trưởng; đánh số đầu mỗi trang giấy kế toán.. v.v.)



Từ những trở ngại nêu trên, Ủy Ban Ðiều Tra (UBÐT) chỉ có thể làm việc trên hai con số liệu cụ thể: – Số liệu thật sự thu góp từ năm 1968 đến 1981



- Số liệu Quỹ đã thật sự hoàn trả cho các thành viên quân đội đã giải ngũ, hay trợ giúp cho những người thừa kế (của quân nhân tử trận, mất tích).



Từ yêu cầu đơn giản và khẩn thiết trên, UBÐT có được hai số liệu kết toán (tính đến ngày 31 tháng 12/1971) mà không thể nào giải thích thỏa đáng cho dù quan niệm rộng rãi, giản lược đến bao nhiêu.



Số liệu thật sự thu góp từ năm 1968 đến 1981: 3, 267, 631, 585. Ðồng



Số liệu thật sự hoàn trả và trợ giúp:



a/ Từ 1968 đến 1969: 14, 487, 642 Ðồng



b/ Từ 1970 đến 1971: 293, 287, 047 Ðồng



Tóm lại: Trong hai năm (1970-1971) Quỹ đã hoàn trả, bồi thường cho quân nhân giải ngũ, và gia đình tử sĩ một số lượng gấp hai-mươi lần của hai năm trước (1968-1969)!! (NVT sđd trg 277)



2/ Lạm dụng, vi phạm:



Tuy nhiên, những vi phạm pháp lý như trên vẫn có thể được điều chỉnh, và biện minh nếu như những người quản lý điều hành Quỹ nhận hiểu ra điều đơn giản thương tâm: Những đồng tiền người lính góp vào Quỹ Tiết Kiệm kia quả thật là giá máu của chính họ và gia đình. Nhưng những “đồng tiền máu” nầy đã được dùng trong những dịch vụ sinh lợi cá nhân (và tập thể cá nhân) theo như diễn tiến, và những hậu quả điển hình như sau: Tòa nhà số 8 Ðường Nguyễn Huệ được xây cất với dự định sẽ là Trụ Sở Kỹ Thương Ngân Hàng và văn phòng của bốn công ty mới lập vừa kể ra trên. Quyết định xây dựng tòa nhà không do Hội Ðồng Quản Trị/QTKQÐ mà từ Bộ Trưởng Quốc Phòng Nguyễn Văn Vỹ ấn ký – Bộ Trưởng Vỹ chỉ là Chủ Tịch Danh Dự không có thẩm quyền đối với Hội Ðồng Quản Trị. Sự khởi đầu vi phạm nầy không phải do “vô ý trong điều hành” và sẽ nẩy sinh những hệ quả.



Bộ Quốc Phòng sử dụng tài lực, nhân vật lực quân đội (Nha Công Binh/Bộ Quốc Phòng) để xây dựng cơ sở cho một Hiệp Hội (tư).



Một năm sau, Hội Ðồng Quản Trị/QTKQÐ mới chuẩn y công trình và hợp thức hóa quyết định của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng – Giới chức nầy ký Quyết Ðịnh Số 1815-QP/TCTT/DD (ngày 14 tháng 8/ 1969) thành lập ba ủy ban: Ủy Ban Hành Sự; Ủy Ban Mãi Dịch; Ủy Ban Kiểm Soát. Ba ủy ban nầy cho phép (Bộ Quốc Phòng/Là chính cá nhân bộ trưởng) được toàn quyền điều hành, quyết định qua tất cả những lãnh vực: Cung cấp vật liệu; Cứu xét, chuẩn y cho những dịch vụ mua sắm thiết bị, phụ tùng xây cất; Phê chuẩn báo cáo tài chánh mua sắm vật liệu, phụ tùng, trang bị; Cứu xét và ký nhận các ngân phiếu chi, thu đối với các nhà thầu.. v… v…



Do những quyền hạn được quy định từ ba ủy ban trên, cá nhân bộ trưởng (dẫu ý hướng trung trực tốt lành bao nhiêu) đã vi phạm nguyên tắc quản trị hành chánh, tài chánh mà điều lệ của Hội Ðồng Quản Trị/QTKQÐ đã định rõ: Ngân phiếu phải có chữ ký của Phát Ngân Viên, Tổng Thư Ký, và Chủ Tịch Hội Ðồng Quản Trị. Bộ Trưởng Quốc Phòng (Chủ Tịch Danh Dự) không thể là một trong ba giới chức nầy. Sự vi phạm nguyên tắc hành chánh tài chánh nầy được thể hiện tiếp trong công tác như sau.



Một nữ thương gia trúng thầu hiến giá thành công vụ mua bốn (4) thang máy thiết trí cho tòa nhà với giá tổng cộng là 79.000.000 Ðồng (56 triệu tiền mua 4 thang máy; 23 triệu phí tổn thiết kế). Y thị được Bộ Quốc Phòng (Ai là Bộ quốc Phòng?) can thiệp cho nhập cảng thang máy Hitachi với hối suất song hành 275 Ðồng/Ðô-la Mỹ trong khi Bộ Kinh Tế khuyến cáo nên nhập thang máy Otis (Mỹ) với giá 118Ðồng/Ðô-la. Không mất một đồng xu, không bỏ ra một đồng tiền vốn, y thị chỉ là một người trung gian (giữa chủ nhân tòa nhà với hãng nhập cảng thang máy) đã lấy trọn số tiền lời 17 triệu đồng (không kể số tiền huê hồng trả cho hãng nhập cảng thang máy). Tiếp vụ mười ba máy lạnh (trang bị cho tòa nhà) với một nữ thương gia (lại một nữ thương gia) mất tiêu khoảng 19 triệu đồng cho một chị đàn bà khéo ăn nói, luồn lách!!



Nhưng không chỉ vụ việc liên quan đến tòa nhà Kỹ Thương Ngân Hàng ở Ðường Nguyễn Huệ, từ sai phạm nguyên tắc tổ chức, điều hành, phân quyền như đã nói ở những phần trên, Hội Ðồng Quản Trị Quỹ Tiết Kiệm Quân Ðội và chính cá nhân Chủ Tịch Danh Dự Bộ Trưởng Quốc Phòng Nguyễn Văn Vỹ liên tục vấp phạm những điều cụ thể:



Mua sắm một kiện hàng (2,069 cánh cửa nhôm) không có chứng thư hành chánh hợp lệ từ Trịnh Phương Bình (qua dịch vụ thương mãi của VICCO) với giá 17 triệu đồng; cộng thêm tiền lời cho hai quân nhân môi giới là 8 triệu 250 ngàn; Bình nhận 2 triệu 290 ngàn tiền lời. Cuối cùng lố cửa sắt bị vất đống vì không sử dụng được. Tất cả có nguyên nhân: Bình là chồng của Nguyễn Thị Chuyên, em gái Bộ Trưởng Vỹ.



Công Ty VICCO do Tướng Lê Văn Kim (bạn chí cốt của Bộ Trưởng Vỹ) mua 650 tấn sắt của Công Ty Hưng Nam với giá 9 triệu Ðồng rồi để không sử dụng; chứ không mua thép của Công Ty Lucia để được bớt đi ba triệu tiền huê hồng trả cho Hưng Nam – Bởi, Giám đốc Hưng Nam là Lê Thị Thương, em gái Tướng Kim.



Chúng ta vẫn có thể bỏ qua những vụ việc coi như nhỏ nhặt trên (dẫu với thất thoát hàng chục, hàng trăm triệu) vì quan niệm rằng, đấy chỉ là những dịch vụ đấu thầu thương mãi thông thường (cho dù có dự mưu nâng đỡ đối với những người có liên hệ với những nhân sự thuộc HÐQT), nhưng không thể bỏ qua những sai phạm nguyên tắc về quản lý mà những người trong Hội Ðồng Quản Trị đã đưa mức độ lạm dụng lên thành một chính sách, một đường lối, một chủ trương hoạt động như sau:



Biệt phái đặc biệt nhân sự: Một tổng số quân nhân (385 người) được biệt phái về làm việc tại Kỹ Thương Ngân Hàng và sáu công ty do quân đội quản lý (như trên đã kể). Sự việc nầy xét ra khả thể chấp nhận nếu như không vi phạm những trường hợp sau: a/ Bộ Quân Luật không hề cho phép quân nhân biệt phái đặc biệt về nhiệm sở tư (cho dù quân nhân Ðịa Phương Quân); b/ Một số quân nhân biệt phái lãnh lương từ các công ty nhưng không bao giờ có mặt tại nhiệm sở; c/ Quân nhân biệt phái vẫn lãnh lương quân đội do Bộ Quốc Phòng đài thọ. Tóm lại: Kỹ Thương Ngân Hàng và sáu công ty là: Nơi trốn quân dịch hợp pháp và được trả lương lớn nhất.



Nhưng vi phạm, lạm dụng lớn nhất nằm ở phạm vi điều hành, quản lý. Chỉ một năm 1971, Kỹ Thương Ngân Hàng có những chi tiêu như sau: a/ Chi phí nhân viên: 38Tr 119 ngàn Ðồng; b/ Chi phí giao dịch đối ngoại: 19Tr. 431 ngàn Ðồng; c/ Mua sắm chi phí chung: 25Tr. 744 ngàn Ðồng. Tổng cộng: 83, 285,000 đồng. Bên cạnh tổng số nầy, còn có số liệu trả cho Hội Ðồng Quản Trị: 16, 149, 398.00 Ðồng. Chưa hết, riêng với Mã Hí, Giám Ðốc Phân Bộ Huê Hồng, người có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh cho người đến vay tiền để cá nhân ông ta có huê hồng tính từ 15% lãi suất (số tiền) ông ta vừa đứng bảo lãnh cho kẻ kia vay (vì không tài sản bảo chứng) – Chỉ một năm Giám đốc Mã Hí nhận được từ 15 đến 30 triệu đồng huê hồng chính thức (chưa kể tiền lương và các phụ phí khác).



Trong khi đó Quỹ Tiết Kiệm Quân Ðội ký thác MỘT TỔNG SỐ 249.300.000 Ðồng vào Kỹ Thương Ngân Hàng tức là 99.72% vốn của ngân hàng mà chỉ nhận được một số tiền lời rất nhỏ nhoi. TÓM LẠI MỘT TRIỆU NGƯỜI LÍNH GÓP TỪNG ÐỒNG TIỀN XƯƠNG MÁU MÌNH ÐỂ CHỈ SINH LỢI RIÊNG CHO MỘT THIỂU SỐ GỌI LÀ HỘI ÐỒNG QUẢN TRỊ VÀ HỆ THỐNG NHÂN SỰ DO HỘI ÐỒNG ẤY ÐỊNH ÐẶT.



(Tất cả số liệu của phần trình bày trên trích dẫn từ “NVT sđd trg 276-294”-Bản dịch Việt Ngữ từ văn bản Tiếng Anh của Tòa Ðại Sứ Mỹ, Sài Gòn, 1972)



Tham nhũng quả là một dịch họa, ngày 19 tháng 7, 1972, Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn gởi thông tri về Bộ Ngoại Giao ở Washington, DC với nội dung: Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trong buổi viếng thăm Phó Ðại Sứ Mỹ Whitehouse đã có những lời xác định: “Tham nhũng là mối hiểm họa lớn lao tại Nam Việt Nam. Ông đã điềm chỉ nguyên do Trung Quốc rơi vào tay cộng sản là vì tình trạng tham nhũng của chế độ Tưởng Giới Thạch lan tràn. Ông tin rằng nếu không áp dụng những biện pháp mạnh mẽ và khẩn cấp tại Nam Việt Nam, thì Miền Nam cũng chịu số phận tương tự.” Ðó là lời của vị Chủ Tịch Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng với viên Phó Ðại Sứ nước Mỹ – Chính quyền có quyết định đối với vận mệnh Việt Nam – Và đề tài tham nhũng ở Việt Nam là một vấn đề của bầu cử tổng thống sắp tới tại Mỹ (NVT sđd trg 297). Nhưng khi trở lại với công việc của Tướng Hiếu, cũng là trở lại chức vụ đứng dưới một người tên gọi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì dù với bản lãnh của con người tiết tháo, Kẻ Sĩ Trần Văn Hương đôi khi phải lâm vào tình thế khó xử mà Tướng Hiếu có nhận xét: “Phó Tổng Thống Hương không có được thái độ cứng rắn. Ông ngại đụng chạm đến Tổng Thống Thiệu và Tướng Quang (Ðặng Văn Quang, phụ tá chính trị của Tổng Thống Thiệu). Một hôm, ông trình hồ sơ về một dân biểu rõ ràng có hành vi tham nhũng, Phó Tổng Thống ghi nhận là dân biểu nầy là thành viên của Khối Thân Chính Quyền, và ngày hôm trước người nầy đã dùng cơm với tổng thống. Phó Tổng Thống khuyến cáo (Tướng Hiếu) không nên theo đuổi vụ nầy!” Một ví dụ khác, Tướng Hiếu báo cáo về Ðại Tá Phạm Kim Quy, chỉ huy Khối Tư Pháp, Tổng Nha Cảnh Sát, mà theo ông đã có những vụ tham nhũng lớn trong Sở Di Trú, một nhánh của Khối Tư Pháp. Phó Tổng Thống cũng tỏ vẻ ái ngại không muốn theo đuổi vụ nầy vì Ðại Tá Quy là người thân cận của Phụ Tá Quang (NVT sđd trg 272).



Tham nhũng không chỉ xẩy ra trong những giới chức cấp cao, nhưng tràn lan khắp nơi, từ một viên sĩ quan trung cấp giữ đơn vị chiến đấu, nay chuyển qua chức vụ chỉ huy hành chánh – “Tướng Hiếu chú thích với viên chức sứ quán (Mỹ): “Tướng Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn III bổ nhiệm Ðại Tá Mạch Văn Trường vào chức vụ Tỉnh Trưởng Long Khánh là để nắm trong tay một thương vụ lâm sản đem lại nhiều lợi tức.” (NVT sđd 273)



Tham nhũng xuống đến xã, ấp, những tỉnh xa xôi với đối tượng (truy xét) là những viên chức thi hành Chương Trình Phượng Hoàng nơi các địa phương. Tình hình tồi tệ đến nỗi – “Tướng Hiếu nói là ông sẽ xuống Rạch Giá và Cần Thơ trong hai ngày 19 và 20 tháng 9, 1972 để điều tra hành vi tống tiền, bắt bớ những người tình nghi Việt Cộng, rối đòi đưa tiền chuộc mới thả họ ra.” (NVT sđd trg306)



Và cuối cùng, tham nhũng tấn công ngay tại một đơn vị cao nhất – Cơ quan hành xử Tính Thật của Công Lý. Ngày 1 tháng 9, 1972, Khối Dân Biểu Quốc Gia ra một thông tri tố cáo: “Huỳnh Khắc Dụng, Chánh Biện Lý tại Tòa Sài Gòn bị cáo buộc có nhiều hành vi tham nhũng, lạm quyền, độc tài và hành sự xấu. Tha bổng kẻ có tội và bắt giam kẻ vô tội, nhằm đòi hỏi kiếm tiền một cách bất lương. Phó Biện Lý Lưu Văn Ngô, từng bị tù vì tội hối lộ, toa rập với Dụng để thả Trần Văn Ken, chánh phạm vụ ăn cắp xăng ở Nhà Bè…” (NVT sđd trg 303) Chắc hẳn Ken không lấy vài trăm, hoặc vài ngàn lít xăng để tuông ra bán lẻ; nhưng hãy nghe Tướng Hiếu nói cùng viên chức sứ quán Mỹ (ngày 14 tháng 9, 72): “Có chỉ dấu là xăng ăn cắp từ Nhà Bè đã được chuyển qua Campuchia bán cho Bắc quân!!” (NVT sđd trg 304). Nếu không có số lượng xăng khổng lồ nầy tuồng ra từ những kho xăng ở Nhà Bè, những chiến xa của cộng sản di chuyển từ Bắc vào chỉ là những khối sắt nằm ụ, vô dụng mà thôi.



Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu có thể làm gì hơn với mối uất hận mỗi ngày mỗi trùng lấp, và nỗi đau ắt sẽ đến càng dần hiện rõ: “Hoặc chúng ta tự sửa lỗi lấy hoặc cộng sản sẽ sửa lỗi cho chúng ta” (NVT sđd trg 304)



Ðến đây hẳn chúng ta đã hiểu ra: Tại sao Ngũ Tử Tư chỉ một đêm âu lo vận nước, sáng mai tóc đà hóa trắng – Hóa ra chỉ Kẻ Sĩ – Người Hào Kiệt luôn là nạn nhân đầu tiên lâm vào những tình huống kiệt cùng bi thảm nhất.



IV. Cái Chết của Một Người Lính:



1973, Tướng Nguyễn Văn Hiếu trở về quân đội do yêu cầu của Tướng Phạm Quốc Thuần với Tổng Thống Thiệu: Vùng III Chiến Thuật cần phải có một tướng lãnh xuất sắc mới có thể đương cự với tình hình quân sự càng ngày càng xấu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn III, dưới quyền Tướng Thuần. Tình huống khả năng chiến đấu quân đội Miền Nam bị hạn chế toàn diện do Hiệp Ðịnh Paris ký ngày 27 tháng 1, 1973 áp đặt, qua việc Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, thêm Ðạo Luật về “Quyền Lực (của Hành Pháp đối với) Chiến Tranh – War Powers Act” đã được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn (1974) chặt đứt tất tất cả khả năng của bất kỳ vị tổng thống nào dù có “thiện chí” cứu viện Việt Nam đến bao nhiêu.



Tháng 9, 1974 Tổng Thống Nixon từ nhiệm mang theo tất cả ký kết (cho là thật lòng) với Tổng Thống Thiệu; Tổng thống không do dân cử Gerald Ford kế vị, hứng chịu gánh nặng chiến tranh Việt Nam đang hồi tàn cuộc với cắt giảm viện trợ (cho Miền Nam) theo mức độ “đáng kinh sợ”, 50% mỗi năm kể từ Hiệp Ðịnh Paris. Năm 1973, 2.1 tỷ; 1974 xuống 1.4 tỷ; và tài khóa dự trù cho năm 1975: 700 Triệu! (Henry Kissinger Ending the Vietnam War Simon and Schuster New York, 2003 p493). Trước 1973, quân đội Việt Nam trên chiến trường một pháo đội (sáu khẩu 105 ly) có thể bắn 10 tràng (60 viên đạn) để dọn bãi cho một mục tiêu trước khi đổ quân, nay với số tiền viện trợ quân sự lẫn kinh tế cho một quốc gia đồng minh như thế nầy, chỉ còn đúng “Bốn (4) viên cho Một ngày hành quân đối với Một khẩu pháo”. Và chẳng cần đọc đến báo cáo của Ngoại Trưởng Kissinger trình Tổng Thống Ford về khả năng yểm trợ chiến đấu cho Miền Nam: “Không quân giảm 50% hoạt động của 11 phi đoàn chiến đấu; Hải quân giảm từ 30 đến 82% hoạt động hành quân; Bộ Binh chỉ còn 1/4 đạn dược dự trữ tối thiểu…” (Kissinger idid p 496); Hà Nội cũng đã thấy thấy rõ lần mất máu của Miền Nam qua thống kê: “Pháo binh bị giảm 3/4 số đạn tiêu thụ; Không quân chỉ còn 1/5 hoạt động; số lượng phi cơ sử dụng được giảm 70%; trực thăng giảm 80%… (Tạp Chí Học Tập, Hà Nội, số Tháng Giêng/1975)”



Bởi hai bên (Mỹ và Cộng sản) biết rõ (và biết đúng) nhau như thế, nên đến tháng 10, 1973 Trung Ương Ðảng Hà Nội ban hành Nghị Quyết 21 (biến thành Nghị Quyết 12 của Trung ương Cục Miền Nam) nhất quyết thực hiện: “Quyết chiếm Miền Nam bằng vũ lực, giành thắng lợi từng phần. Tiến tới thắng lợi cuối cùng”. Nghị quyết không là chữ nghĩa suông – Mặt Trận Phước Long bùng nổ ngày 13 tháng 12, 1974 – Lần đầu tiên sau Hiệp Ðịnh Paris, một tỉnh Miền Nam bị cưỡng chiếm. Những biện pháp do Bộ Quốc Phòng Mỹ đưa ra:1/Tăng cường thám sát trên không phận Bắc Việt. 2/Chuyển hướng hoạt động của Hàng Không Mẫu Hạm Enterprise thay vì đến Ấn Ðộ Dương, nay hướng về Vịnh Bắc Bộ. 3/Khai triển phi cơ chiến đấu F4 đến Phi và Thái Lan; đưa B52 từ Hoa Kỳ đến đảo Guam. Ngoại trưởng Kissinger có ý kiến về những đề nghị nầy: “Theo kinh nghiệm riêng của tôi, khi chúng ta rụt rè thì sẽ thua cuộc. Còn khi mạnh mẽ xông xáo thì thế nào cũng thành công.” (Kissinger ibid p.505). Nhưng tất cả chỉ là đề nghị và ý kiến, vì quốc hội Mỹ hiện tại đang bị phe McGorven chế ngự – Và viên nghị sĩ nầy thì nhất quyết trả thù vụ mất mặt do lần thất bại bầu cử tổng thống năm 1972 vừa qua; cũng như Ngũ Giác Ðài đồng ngại phải ứng phó với quốc hội, và giới truyền thông nếu vì dính líu vào lại Việt Nam. Tàu Enterprise không bao giờ trở lại vùng biển Ðông Dương, Vịnh Bắc Việt, nên ở Hà Nội, trong buổi họp Bộ Chính Trị cuối năm 1974, Phạm Văn Ðồng nói lời chắc nịch: “Cho tiền đi nữa, Mỹ cũng không dám nhận để quay lại can thiệp (ở Việt Nam)” (Kissinger ibid p507)



Ngày 10 tháng 3, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Miền Bắc, Tướng Văn Tiến Dũng xua năm sư đoàn chính quy tiến chiếm Ban Mê Thuột. Ngày 13 tháng Ba, những giới chức cầm đầu miền Nam gọi là “tổng thống, thủ tướng, cố vấn (chính trị) tổng thống, tổng tham mưu trưởng..” họp nhau tại Cam Ranh để đi đến quyết định: Rút bỏ toàn bộ lực lượng quân sự Quân Ðoàn II từ Pleiku xuống đồng bằng theo Tỉnh Lộ 7 qua Phú Bổn (Cheo Reo). Con đường, những vị trí quân sự mà quân dân Tây Nguyên phải trả bằng giá máu để gìn giữ từng tất đất mười năm trước khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu còn là vị Ðại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn đã huân công giữ nước. Cơn suy sụp dây chuyền kéo theo như điều tất yếu. 24 Tháng Ba mất Huế, 30 tháng Ba mất Ðà Nẵng, 31 mất Nha Trang. Riêng tại Vùng III, Liên Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân phải rời bỏ An Lộc, co cụm về Chơn Thành, và Chơn Thành, chỉ cách Sài Gòn hơn 50 cây số đường thẳng bắt đầu bị pháo kích, tấn công. Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn III, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu hứng chịu một lần gánh nặng chiến trận của ba đời tư lệnh để lại: Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, Trung Tướng Dư Quốc Ðống, và Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn. Cũng như vận nước truân chuyên, Tướng Hiếu phải trải qua những biến cố vô hồi dồn dập: Ngày 2 Tháng Tư, 1975 ông bay ra Phan Thiết, nhận bàn giao với Tướng Phạm Văn Phú về những thành phần còn lại của Quân Ðoàn II, của Quân Ðoàn I từ ngoài Trung tán loạn chạy vào… Nhưng Tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã là một người “sợ đến cái bóng của mình” theo mô tả của Tướng Vĩnh Lộc; đêm đêm phải thay đổi chỗ ngủ (theo lời của Nguyễn Cao Kỳ), nên sau khi ra lệnh Tướng Hiếu nhận chức Tư Lệnh Tiền Phương QÐ III, ông ta thấy ngay mối nguy hiểm (bởi đã quá nhiều tưởng tượng đối với với cái chết mười-hai năm trước của Cố Tổng Thống Diệm) khi giao quân vào tay của một người dũng lược, trung chính, nên ông Thiệu sửa lại quyết định: Thiếu Tướng Hiếu khẩn bàn giao chức tư lệnh tiền phương lại cho Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, viên tư lệnh Quân Ðoàn IV vừa bị mất chức bởi tội tham nhũng mấy tháng trước. Chưa yên tâm về Tướng Hiếu, sáng ngày 6 tháng Tư, 1975; Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu về Dinh Ðộc Lập. Sáng 8 tháng Tư, phi công Nguyễn Thành Trung lái chiếc F5E trút bom xuống dinh – Mối lo sợ của Tổng Thống Thiệu đã hiện thực. Cùng ngày 8, Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, cựu Tư Lệnh Sư Ðoàn Sư Ðoàn 23 hơn tháng trước đây ở Ban Mê Thuột, sau một thời gian dưỡng thương (của một vết thương do trầy sướt) nay được chỉ định chức Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn III mang một số lính thân tín (từ Quân Ðoàn II xuống) đến thay thế toán quân cảnh an ninh gác bộ tư lệnh. Có tiếng nổ từ văn phòng của Tướng Hiếu- Hai chứ không phải một – theo lời một nhân chứng bất ngờ (Trung Tá Vĩnh Hồ từ Quân Ðoàn II xuống, đang ngồi đợi trình diện Tướng Toàn ở phòng bên cạnh văn phòng Tướng Hiếu). Gia đình Thiếu Tướng Hiếu nhận được tin vào buổi chiều (7 giờ), báo tin ông bị nạn do khi lau chùi súng (vào buổi chiều từ 5:30 đến 6 giờ) – Vụ Án thật sự không phải là quá bí ẩn để tìm hiểu – Chúng ta sống lại những giờ phút uất hận oan khiên của Người chết cùng Vận Nước bằng duyệt xét lại nhân sự và vụ việc Ngày 8 Tháng 4, 1975 tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III, ở Biên Hòa:



1. Những nhân chứng trung tâm (Theo thứ tự liên quan đến diễn tiến vụ án):



- Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn III, trưởng nhiệm sở, chỉ huy trực tiếp Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó. Theo lời kể của Ðại Úy Ðỗ Ðức, Chánh Văn Phòng: “Ngày hôm đó tình hình rất căng thẳng. Lệnh cấm trại 100%. Cả ngày hôm đó Tướng Toàn làm việc trong văn phòng tại Bộ Tư Lệnh. Tôi ngồi trực phòng kế bên, đối diện với văn phòng Tướng Hiếu. Tôi nhớ rõ ngày đó Tướng Toàn không họp với Tướng Lý Tòng Bá (Tư Lệnh SÐ25BB, một nhân chứng sẽ kể sau). Khoảng 5 giờ 30 chiều, Tướng Toàn sai tôi gọi xe về tư dinh cạnh Tòa Hành Chánh Biên Hòa (xe chạy mất khoảng 10, 15 phút). Ðại Úy Ðức đi nhậu với hai viên phi công Lượng, Cửu (lái trực thăng cho Tướng Toàn); khoảng 10, 15 phút sau, ba người được tin “Tướng Toàn đã trở về bộ tư lệnh cùng một viên cận vệ.” Ðại úy Ðức vội trở về bộ tư lệnh, thấy tấp nập quân cảnh qua lại. Tướng Toàn ra lệnh niêm phong văn phòng Tướng Hiếu. (NVT sđd trg 142-143).



Cũng liên quan đến Tướng Toàn (sau 5:30 chiều ngày 8/4 theo như lời kể trên), tại hiện trường: “Ðại Tá Khuyến (Trưởng Sở An Ninh Quân Ðội Vùng III); Ðại Tá Lương (Tham Mưu Phó Hành Quân QÐIII) và Tướng Toàn cùng nhau đi qua văn phòng Tướng Hiếu. Các nhân viên quân cảnh đang vẽ họa đồ hiện trường. Một nhân viên lấy thang leo trên trần nhà để tìm viên đạn súng lục văng lên đó, nhưng không tìm thấy… Một chập tự nhiên Tướng Toàn reo lên: “Viên đạn đây rồi! Viên đạn đây nè!” (NVT sđ trg 132). Trong thư đề ngày 10 tháng 3, 1999 gởi Tác Giả Nguyễn Văn Tín, Tướng Toàn viết: “…Nhưng bất ngờ vào ngày (không nhớ) lúc bay hành quân về thì được tin anh Thiếu Tướng Hiếu đã tử nạn ở văn phòng. Tôi liền bay đến văn phòng Thiếu Tướng Hiếu thì tôi thấy anh ấy đã chết bởi một viên đạn súng lục trổ từ mắt lên đầu và chết nơi bàn giấy.” (NVT sđd trg 28)



- Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn III có lời kể:



“… Tôi nhớ buổi chiều xẩy ra chuyện bất ngờ. Anh Hiếu sau khi đi công tác về đã vào phòng tôi mời tôi đi ăn cơm chiều. Lúc đó tôi quá bận rộn với công việc giấy tờ, hẹn anh khi tôi xem xong công văn sẽ qua mời anh… Lúc đó anh trở về phòng, chỉ cách phòng tôi độ 30 thước. Sau độ 15 phút, nghe tiếng súng nổ, nhân viên văn phòng anh Hiếu chạy qua phòng tôi cho biết trong phòng anh Hiếu có tiếng súng. Tôi bèn gọi Quân Cảnh Tư Pháp đến mở cửa điều tra. Sau mấy phút, QC/TP mở cửa để điều tra thì thấy anh Hiếu đã nằm cạnh bàn làm việc của Anh ta với một khẩu súng lục. Ðạn xuyên qua đầu, vết thương quá nặng nên Anh đã qua đời… (Thư viết từ Sài Gòn, ngày 26/5/2002 NVT sđd trg 144).



Liên quan đến vụ việc, nhân sự Lê Trung Tường đã có hành động: Trong ngày 8/4/1975 một nhóm lính mặc đồ trận trellis do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường cầm đầu tới Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III đuổi lính gác quân cảnh đi hết (NVT sđd trg136). Chi tiết nầy được Trung Tá Quyến, Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh/Quân Ðoàn III xác nhận (với Tác Giả NVT) ngày 23 tháng 1, 1999. (NVT sđd trg 139)



- Ðại Tá Tạ Thanh Long, Trưởng Ðoàn Liên Hợp Quân Sự 4 & 2 Bên (Khu vực Biên Hòa; Bạn cùng Khóa 3 với Thiếu Tướng Hiếu) xác nhận: “…Qua điện đàm sáng ngày 2 tháng 1, 1999, tôi (Ðại Tá Long) xin xác nhận: Tướng Hiếu đã chết sau giờ họp tổng kết hành quân buổi chiều (khoảng sau 6: 30) thay vì tin đồn đến với ông (N.V. Tín) là Tướng Hiếu chết vào ban trưa… Với cương vị Trưởng đoàn quân sự VNCH Ban Liên Hợp Quân Sự 4 & 2, tôi có bổn phận đến quân đoàn họp lúc 5 giờ mỗi buổi chiều… Chiều hôm đó, tôi đến họp thì Tướng Hiếu chủ tọa, tôi được biết Tướng Toàn tư lệnh đang bận tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương đóng tại Gò Dầu Hạ, Tây Ninh. Lúc vào họp, Tướng Hiếu ngồi chính giữa; bên trái có Tướng Ðào Duy Ân TMT (Ðại Tá Long nhớ lầm chức vụ của Tướng Ân: Tư Lệnh Phó Ðặc Trách Lãnh Thổ, chứ không là Tham Mưu Trưởng- PNN), và Ðại Tá Phan Huy Lương, Tham Mưu Phó/Hành Quân. Bên phải có ông Peters Tổng Lãnh Sự Biên Hòa, và tôi (ÐT/Long). Sau giờ họp, Tướng Hiếu, Tướng Ân và tôi ra phòng khách uống trà. Tướng Hiếu khoe với tôi trước mặt Tướng Ân: “Collection pistolet của moa đã lên đến con số 37. Moa vừa có một cây P.38, đã đưa cho quân cụ xoáy lại rayures (Khương tuyến: Rãnh nòng súng), để moa lấy cho toa xem.” Tướng Hiếu nói đến đây thì Ðại Tá Lương mời tướng Hiếu xuống dùng cơm… Xe tôi chạy đến Hotel de la Piscine Biên Hòa (trụ sở Ủy Ban Quốc Tế), tôi ghé vào 20 phút để nói qua các vi phạm của Việt Cộng. Về đến văn phòng (chưa kịp xuống xe), Trung Tá Thắng báo cáo: Ðại Tá Lương cần gặp đại tá gấp. Tướng Hiếu đã chết”. Tôi quay lại bộ tư lệnh thì thấy quân cảnh đã vây chặt văn phòng bộ tư lệnh, tôi hỏi Ðại Tá Lương: “Chuyện gì xẩy ra?” Ðại Tá Lương trả lời: “Sau khi dùng cơm, Tướng Hiếu trở lại văn phòng, sau vài phút có tiếng súng nổ, lính gác vào xem, nhìn thấy Tướng Hiếu đang gục trên bàn với máu me… Tôi mời đại tá qua chứng vì đại tá và thiếu tướng là bạn cùng khóa, thân nhất tại quân đoàn. (NVT sđd trg 135)



- Ðại Tá Phan Huy Lương, Tham Mưu Phó Hành Quân/QÐIII (qua cuộc điện đàm với N.V. Tín, tháng 7/1999): “…như thường lệ, khoảng 5, giờ hoặc 5:30 chiều, Tướng Hiếu, Tướng Tường, Ðại Tá Lương ngồi nói chuyện chơi tại văn phòng tham mưu trưởng trong khi chờ tới giờ ăn cơm chiều. (Ngày 8/4-Pnn) Ðại Tá Lương mời Tướng Hiếu đi xơi cơm. Tướng Hiếu về văn phòng tư lệnh phó lấy đồ riêng; một chập sau có tiếng súng nổ, quân cảnh chạy vào xem rồi lại chạy trở ra báo cáo bị nạn; một lát sau Ðại Tá Lương thấy Tướng Toàn xuất hiện. Phần ông thì quá buồn bực và bối rối nên không còn để tâm theo dõi tình hình xảy ra… Ông cũng không kêu điện thoại báo cho ai cả, và chỉ biết Bà Tướng Hiếu tới bộ tư lệnh quân đoàn lúc 9, 10 giờ tối.” (NVT đd trg 140)



- Ðại Tá Nguyễn Khuyến, Chỉ Huy Trưởng An Ninh Quân Ðội Quân Ðoàn III có lời: “…chuyện xẩy ra có lẻ cũng đến một phần tư thế kỷ, nhưng tôi còn nhớ diễn tiến như sau: Buổi sáng đó có buổi họp với Tướng Hiếu lúc 10 giờ tại văn phòng ông. Buổi họp kéo dài đến 12 giờ. Tôi trở về văn phòng tôi cách bộ tư lệnh khoảng 10 phút lái xe. Tôi sửa soạn đi ăn trưa với những người bạn ở Sài Gòn lên thì Phòng An Ninh Quân Ðoàn điện thoại báo cho biết Tướng Hiếu đã dùng súng tự vận tại văn phòng. Tôi rất bàng hoàng và kinh ngạc vì đó là chuyện khó tin. Tôi mới chào từ biệt ông cách đấy 15 phút sau buổi họp. Tôi vẫn thấy ông vẫn vui vẻ như thường lệ… Tôi vội vã lên xe jeep phóng qua bộ tư lệnh. Khi tôi đến xe hồng thập tự đã chở xác tướng Hiếu vào bệnh viện. Tôi không biết làm gì hơn là vào gặp Ðại Tá Phan Huy Lương. Theo lời kể của Ðại Tá Lương: “Thì vào khoảng 12 giờ mọi người ở gần văn phòng Tướng Hiếu có nghe một tiếng súng lục trong phòng của Tướng Hiếu. Ðại Tá Lương chạy qua thì thấy Tướng Hiếu nằm bất động trên ghế bành ở bàn giấy. Một dòng máu tươi chảy chan hòa xuống mặt và ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn nầy còn có trớn bay lên trần nhà, xoi thủng một lỗ… Viên đạn nầy đã kết liễu đời Tướng Hiếu. Trong tay Tướng Hiếu còn cầm một khẩu súng lục… Việc đầu tiên (của Ðại Tá Lương) là quay điện thoại báo bác sĩ của quân đoàn…. và tiếp đó gọi báo cho quân cảnh tư pháp của quân đoàn. Ðại Tá Lương còn cẩn thận không cho ai bước vào văn phòng Tướng Hiếu trước khi nhân viên quân cảnh đến lập biên bản, điều tra.” Khi tôi (ÐT/Khuyến) bước vào phòng Tướng Hiếu thì thấy mấy nhân viên quân cảnh đang vẽ họa đồ trên tường. Không có dấu hiệu gì có sự xô xát. (Thư San José, ngày 18 tháng 7, 1998 của Ðại Tá Khuyến gởi NVT – NVT sđd trg 128)



Ðại Tá Khuyến có thêm ý kiến: “Không có bằng chứng nào về giả thuyết Tướng Hiếu bị ám sát hay tự sát… Theo lời Trung Tá Quyến, Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh Quân Ðoàn thì đây là “một vụ tai nạn súng lục cướp cò súng”… Trước đó ít lâu, ông (Tướng Hiếu) được ai đó biếu một khẩu súng lục… nhưng phiền nó hay cướp cò, cái khóa an toàn bị hỏng, ông đã giao cho Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận sửa đi sửa lại mấy lần. Ðấy là tin tức nghe được từ Ðại Tá Khang, chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận kể lại. (NVT sđd trg 129)



- Trung Tá Quyến, Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh/QÐIII. Ngày 12/1/1999, Trung Tá Quyến quả quyết với tôi (NVT): “Tướng Hiếu chết vào khoảng sau 6 giờ chiều. Ngày hôm đó (8/4/75), Chuẩn Tướng Lê Trung Tường đem một toán quân mặc đồ trận đến BTL/QÐIII đuổi hết quân cảnh thuộc quyền ông đi nơi khác. Chiều hôm đó, sau khi tắm xong khoảng 6 giờ rưỡi chiều, ông (TT/Quyến) ghé vào bộ tư lệnh thì thấy Tướng Hiếu còn ngồi tại bàn giấy trong văn phòng.” (NVT sđd trg 139). Trung Tá Quyến nói thêm: “Khi phải điều tra vụ án mạng, ông sợ cho tính mạng nhân viên quân cảnh tư pháp của ông, nên phải lập mưu kéo thêm nhóm cảnh sát của Ðại Úy Thịnh Văn Phúc, cùng nhóm chiến tranh chính trị của Ðại Tá Nguyễn Hùng Khanh vào điều tra để giảm bớt trách nhiệm, áp lực từ trên giáng xuống. (NVTsđd trg 139)



- Bác Sĩ Lý Ngọc Dưỡng, Y Sĩ Trung Tá Chánh Văn Phòng Trung Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Toàn: (Ðiện đàm với NVT ngày 31 tháng 8, 2004): “Tôi còn nhớ rõ sự việc ngày Tướng Hiếu ngộ nạn. Ngày hôm đó rất là bận rộn vì sáng đó Dinh Ðộc Lập bị giội bom, và tôi phải soạn thảo bản thảo thông cáo cho Tướng Toàn sẽ đọc trên đài phát thanh về vụ ném bom để trấn an quần chúng. Trong khi đó văn phòng Tham Mưu Trưởng kế bên văn phòng tôi đang có cuộc họp về Nhân Dân Tự Vệ với sự tham dự của Tướng Hiếu, Tướng Ân, Ðại Tá Khuyến, và một Ðại Tá, BCH Cảnh Sát Quân Ðoàn III (không nêu tên). Khoảng 6 giờ, Tướng Toàn bước qua văn phòng tôi (Y Sĩ Dưỡng) nói ông đi về tư dinh ở Biên Hòa. Tôi cùng leo lên xe đi theo Tướng Toàn, trên xe có Ðại Úy Ðức. Khi bước ra văn phòng, tôi nghe Tướng Hiếu rủ Tướng Tường đi ăn cơm, và nghe Tướng Tường trả lời: “Anh đợi tôi đi tắm cái đã”. Tại tư dinh Tướng Toàn, điện thoại reo, tôi bốc điện thoại, đầu dây bên kia Tướng Tường báo tin: “Tướng Hiếu chết rồi”. Tôi chạy qua thông báo cho Tướng Toàn, lúc đó chưa kịp cởi xong dây giầy. Chúng tôi trở lại bộ tư lệnh, trên xe có Ðại Úy Ðức. Khi bước vào văn phòng Tướng Hiếu, tôi tự nhiên buột miệng dặn Tướng toàn đừng sờ mó gì kẻo để lại dấu tay. Tôi thấy cảnh tượng Tướng Hiếu ngồi trên ghế, đầu gục trên mặt bàn, cánh tay trái đặt trên bàn, cánh trái thõng xuống đất, có khẩu súng lục nằm dưới mặt đất bên cạnh bàn tay. Tôi nhận xét thấy viên đạn xuyên từ cổ… ờ.. ờ… ờ… (nguyên văn điện đàm) không phải vậy, xin nói lại… từ hàm bên phải trổ lên màng trang bên trái. Tướng Toàn không lại gần bàn giấy mà chỉ đứng dựa vào thành cửa, và tôi mục kích Tướng Toàn khóc, đây là lần thứ hai. (NVT sđd trg 147)



2. Những chứng nhân ngoại vi:



- Bác Sĩ Lý Khánh Trí, Y Sĩ Quân Ðoàn III. Bác Sĩ Trí do bị stroke, nên khi Tác Giả Nguyễn Văn Tín hỏi về vết thương của Tướng Hiếu thì người nầy không nhớ được gì. Nên chỉ ghi lại lời của Bác Sĩ Trí nói cùng một thân nhân của gia đình khi đến viếng xác ba- mươi năm trước (1975): “Viên đạn đi vào cằm, gặp xương hàm quá cứng không đi thẳng lên đỉnh đầu được, đã phải rẽ xuống đâm ra sau ót, khiến Tướng Hiếu chết tốt, không biết đau đớn.” (NVT sđd trg182). Về định vị vết thương, và đường đạn đi, Tác Giả Nguyễn Văn Tín có xác định: “Riêng cá nhân tôi khi viếng xác anh mình, nhìn tận mắt thấy viên đạn xuyên vào cằm bên trái rồi chui ra đằng sau đỉnh đầu về phía phải.” (NVT sđd 148); hoặc: “Tôi (NVT) chỉ thấy viên đạn để lại một dấu chấm đen nhỏ xíu ở cằm bên trái, cách góc mép môi bên trái 1cm, khoảng 45 độ hướng về phía dưới. Viên đạn cũng để lại một vết đen nhỏ xíu trên đỉnh đầu bên phải (chứ không phải đằng sau ót như viên bác sĩ (Bác Sĩ Trí) trình lại với thân nhân (NVT sđd trg 130).



Cũng liên quan đến vấn đề (định vị vết thương, và đường đạn đi) trên, Ðại Tá Tôn Thất Soạn, Nguyên Lữ Ðoàn Trưởng TQLC, Tỉnh Trưởng Hậu Nghĩa có xem một xấp mười tấm hình (về cảnh chết Tướng Hiếu) do Trung Tá Cảnh Sát Phạm Khắc Ðạt, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Hậu Nghĩa giao lại; Trung Tá Ðạt có thắc mắc: Tướng Hiếu thuận tay mặt; sao vết thương lại do một người thuận tay trái gây nên” (Gặp gỡ ngày 2 tháng 10, 2004 tại New Jersey. NVT Sđd trg 149)



- Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 BB: Mới đây, trong dịp điện đàm với Tướng Bá, tôi (NVT) hỏi: Có phải Tướng Toàn bắn anh tôi không? Ông (Tướng Bá) trả lời: “Chắc không phải Tướng Toàn bắn đâu, vì lúc đó tôi đang họp với ông ta. Sau buổi họp trên đường đi thì nghe quân lính lao xao nói Tướng Hiếu vừa chết trong văn phòng. Vì phải gấp rút lên máy bay ra mặt trận, nên tôi không có thì giờ nghe ngóng thêm tin tức” (NVT sđd trg 122)



- Ðại Tá Nguyễn Văn Y, Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo: Khi gặp tôi ở Nữu Ước (1986) khẳng định: “Tướng Toàn chứ không ai vào đó cả” (NVT sđd trg 122); Và: “Tội nghiệp tướng Hiếu chết chưa kịp ăn cơm trưa” (NVT sđ trg 138)



- Ðại Úy Ðỗ Ðức, Sĩ Quan Tùy Viên Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn: “…Tướng Toàn đã ra lệnh niêm phong văn phòng Tướng Hiếu, nên tôi không thấy cảnh Tướng Hiếu chết làm sao. Ðiều mà tôi chắc chắn là Tướng Toàn không thể nào bắn Tướng Hiếu vì tôi ở sát ông cả ngày hôm đó đến khi ông về nhà sau 5 giờ rưỡi chiều… Nếu Tướng Toàn nói ông hay tin Tướng Hiếu bị nạn khi đang bay trực thăng là ông nhớ sai vì sức khỏe sa sút… Hai thiếu tá phi công Lượng và Cửu đều (đang) ngồi ăn nhậu với tôi thì làm sao ông bay trên trời lúc đó được.” Ðại Úy Ðức nêu thêm ý kiến: “Nếu Tướng Hiếu bị ám sát thì tên sát nhân phải là người rất quen thuộc với ngõ ngách quanh co trong bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn. Chính tôi, sau khi về đó 2, 3 tháng vẫn còn hay lạc khi phải đi từ văn phòng nầy qua văn phòng khác.” (NVT sđd trg 143)



- Chuẩn Tướng Trần Ðình Thọ (Trưởng Phòng Ba Bộ Tổng Tham Mưu). Cuối tháng 8, 1998 nhân có mặt tại Virginia, tôi (NVT) ghé thăm Chuẩn Tướng Thọ thì được ông xác nhận: “Tướng Hiếu chết vào buổi trưa. Vì ông nhớ rõ, trưa ngày hôm đó ông bận việc sắp sửa đi ăn cơm trưa (trễ) thì nhận được điện thoại của Ðại tá Lương” (NVT sđd trg 138)



- Ðại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn II: Trung Tướng Toàn nói với ông (ÐT/Lý): “Tướng Hiếu chết vào buổi trưa” (NVT sđd trg 138)



- Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Xung Kích/QÐIII: Qua cuộc điện đàm vào tháng 6/1999, ông (CT/Khôi) xác nhận là: “Tướng Hiếu chết vào buổi trưa, vì ông nhớ là ngày hôm đó, Tướng Hiếu họp với ông lúc 8:30 sáng tại Gò Dầu Hạ, khoảng 9:30 Tướng Hiếu bay về Biên Hòa; vài giờ sau ông hay tin Tướng Hiếu chết.” (NVT sđd trg 138)



- Ðại Tá Lê Trọng Ðàm, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Vùng II: Là nhân sự độc nhất thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III trong buổi sáng ngày 8/4/75. Ðại Tá Ðàm tiếp xúc với tác giả (NVT) qua điệm đàm kéo dài 45 phút (không ghi rõ thời gian, địa điểm-pnn): Ông (LTÐ) nói sáng ngày Tướng Hiếu chết ông có mặt tại BTL/QÐIII và trở về Sài Gòn sáng hôm đó. Ðến chiều thì Y Sĩ Trung Tá Dưỡng điện thoại báo tin Tướng Hiếu chết. Khi tôi (NVT) nói: “Ðại Tá Khuyến xác nhận là Tướng Hiếu chết vào buổi trưa”, thì Ðại Tá Ðàm quả quyết ngay là: “Ðại Tá Khuyến nói sai vì 2 giờ trưa ông còn có mặt tại Quân Ðoàn III” (NVT sđd trg 146)



V. Kết từ



Ðến đây, chúng ta có thể ngưng lại câu chuyện về Con Người Trung Liệt Nguyễn Văn Hiếu để có thể đi đến một kết luận chung nhất về cái chết của Người: Báo hiệu cơn lâm tử uất hờn của cả Miền Nam – Của mỗi Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta hẳn cũng không cần thiết phải tìm câu trả lời (thật ra rất dễ dàng đối với cơ quan, chuyên viên tội phạm học, kể cả những người có vài kiến thức căn bản về ngành, nghề điều tra án mạng cho dù các nhân chứng ném tung một khối trả lời hỗn loạn, đối nghịch nhau) về những chi tiết: Ai đã ra lệnh giết Người? Ai là kẻ sát nhân đã bắn vào Người Trung Chính? Người đã chết lúc ban trưa, hay chiều tối, bởi loại vũ khí nào? Tất cả đã là vô ích vì Người Lính Ðã Chết. Những luận cứ tầm phào, thô thiển để che lấp về âm mưu sát nhân như: Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu đã tự sát; hoặc sau đó: Thiếu Tướng Hiếu bị cướp cò khi chùi súng?!! Quả tình không thể đánh lừa được ai vì đấy là Người Tín Ðồ Công Giáo thuần thành với Ðức Tin bền đỗ. Là một xạ thủ súng colt thượng thặng. Và toàn Quân-Dân đang ở trong TÌNH CẢNH NHỮNG NGÀY QUYẾT ÐỊNH CỦA CHIẾN CUỘC VIỆT NAM VỚI VẬN NƯỚC ÐANG BỊ ÐE DỌA TỪNG PHÚT GIỜ NGẮN NGỦI. Thêm buổi sáng Dinh Ðộc Lập bị giội bom. Chúng ta nắm vững sự kiện nầy với những hệ quả được nêu ra như sau: Khi Dinh Ðộc Lập bị giội bom, Tổng Thống Thiệu hoảng hốt lo sợ một cuộc đảo chánh khởi phát. Ông ra lệnh xác định vị trí các tướng tá khắp bốn quân khu thì được cơ quan tình báo của Tướng Quang (Ðặng Văn Quang, Cố vấn chính trị) cho biết ai nấy đều ở vị trí bình thường, duy chỉ có Tướng Hiếu đang ở Gò Dầu Hạ họp bàn gì với Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III (NVT sđd trg 180). Tổng Thống Thiệu nghi ngay có dự mưu đảo chính giữa hai người, cũng do việc Tướng Minh (Cựu Tư Lệnh Quân Ðoàn III) đã báo cáo về âm mưu đảo chánh từ trước (tháng 6/1971) nhân khi hai người phối hợp trong trận triệt thoái Snoul. Tình hình của tháng Tư, 1975 còn nguy kịch hơn với kế hoạch (chứ không còn là dự tính suông) sẵn có của Nguyễn Cao Kỳ, dùng lực lượng không quân, nhảy dù, thủy quân lục chiến, thiết giáp để: “Chỉ cần chiếm giữ dinh tổng thống, trụ sở và nhân sự bộ tổng tham mưu, đài phát thanh và truyền hình là nắm trọn cả Miền Nam…” Kỳ không giấu giếm kế hoạch nầy, bàn thảo với những tướng, tá thân cận như Lê Nguyên Khang, Nguyễn Ngọc Loan, Phan Phụng Tiên v.v… (và sau nầy đề nghị trực tiếp với cả Tổng Thống Hương) đến nỗi Chỉ huy trưởng CIA Mỹ ở Sài Gòn (Eric Von Marbord) phải ngỏ lời từ chối (yểm trợ) (Olivier Todd; Cruel Avril Robert Lafont, Paris, 1978 pp 326-349). Tổng Thống Thiệu hẳn biết thế nên “đã xé lẻ Sư Ðoàn Nhảy Dù” không thương tiếc (Lê Quang Lưỡng (Lê Bá Chư hiệu đính): Thiệu Ðã Xé Lẻ Sư Ðoàn Nhảy Dù Như Thế Nào? Tạp Chí Hồn Việt, CA, 1982). Hơn thế nữa, tháng Tư lại là thời điểm ám ảnh thực sự bởi cái chết (sau khi mồ người thân sinh ở Làng Ninh Chữ, Phan Rang bị quân, dân phẫn uất phá sập) – Người tên gọi Nguyễn Văn Thiệu không thể để sinh mạng bị kết thúc như cách thê thảm của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và bào đệ Ngô Ðình Nhu bởi những tay tướng lãnh mà ông đã quá thâm hiểu lòng dạ của họ trong âm mưu (cùng ông) đoạt quyền, giành lợi từ 1963 đến nay. Ðể duy trì mạng sống của mình – Nguyễn Văn Thiệu phải ra tay – Và Người Trung Chính Nguyễn Văn Hiếu phải bị bức tử.



Ðể kiên định cho luận cứ kể trên, chúng tôi có thể nại đến những yếu tố khách quan, cụ thể đã được chứng thực trong những ngày đen tối của Miền Nam vào tháng Tư ba-mươi năm trước. Yếu tố đấy là: Nếu như Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu không bị bức tử thì chắc rằng sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống – Tổng Thống Trần Văn Hương ắt hẳn sẽ chọn Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu để giao nhiệm vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – Ðiều nầy không phải là một giả thiết vì mặt trận chính trị lúc ấy đã lộ ra một giải pháp với Pháp và Trung Cộng (Những nhân tố chính của Hiệp Ðịnh Genève 1954) với những thành phần thân Pháp như Cựu Thủ Tướng Trần Văn Hữu; thân Trung Cộng như các thành viên của Chủ Tịch Ðoàn Mặt Trận Giải Phóng với Nguyễn Hữu Thọ được nhà nước Trung Cộng giới thiệu như là Quốc Trưởng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trước nhân dân, chính phủ của các nước Á Phi suốt trong giai đoạn trước sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết (27/1/1973). Giải pháp chính trị nầy hoàn toàn không phải là chiều hướng của Hà Nội và lẽ tất nhiên cũng không phải của chính phủ Mỹ vì… Chiều hướng “chính trị” duy nhất mà chúng ta có thể nghĩ tới (để giải quyết tình hình Việt Nam tại thời điểm 4/1975 -pnn) là tiếp cận với Mạc tư Khoa (Kissinger ibid p 542). Và nếu như Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu là Tổng Tham Mưu Trưởng thì chắc rằng tình hình quân sự sẽ tiến triển theo một chiều hướng khác, dẫn đến một hệ quả chính trị khác – Nhưng chí ít những nhân sự tên gọi Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm không thể bình an ra khỏi nước cho dù Tòa Ðại Sứ Mỹ có bảo trợ an ninh đến tối đa. Vì lý do nầy: Người Trung Chính Nguyễn Văn Hiếu không thể tồn tại được.



Ðể kết thúc, chúng tôi có thể nhắc lại những yếu tố: Người vốn sinh trưởng ở Tiên Sinh, Thượng Hải, sống trong một tô giới Pháp, khi về Việt Nam (năm 1949) nói tiếng Việt có âm Pháp Ngữ; cựu sinh viên Ðại Học Aurore; sau khi tốt nghiệp Trường Ðà Lạt, Trung Úy Nguyễn Văn Hiếu làm việc nơi Văn Phòng Tham Mưu Trưởng Trần Văn Ðôn (một người xuất thân trường quân sự Pháp). Và thân sinh, Cụ Nguyễn văn Hướng là Giám Ðốc Công An Bắc Việt thời trước 1954 – Những yếu tố nầy chắc chắn không phải là những điều chính phủ, tòa Ðại Sứ Pháp ở Sài Gòn không quan tâm với sự biệt đãi, đánh giá cao. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu khi phỏng vấn các Hoa Kiều liên quan đến Quỹ Tiết Kiệm Quân Ðội đã dùng trực tiếp tiếng Hoa.



Chúng tôi, những người thuộc thế hệ đi sau những nhân sự vừa kể ra trong câu chuyện bi thiết trên. Chúng tôi lại càng không hề có quan niệm chủ quan, thiên vị do đã có những tranh đoạt quyền lợi với bất kỳ ai trong câu chuyện kể. Nay với số tuổi 60, sau một trận biển dâu ba-mươi năm ắt phải hiểu nghĩa Lẽ Thường của sự sống, cái chết. Thế nên, viết ký sự nhân vật nầy không phải để cáo buộc, phê phán bất cứ cá nhân nào – Quyền hạn sau cùng ấy thuộc về Dân Tộc-Lịch Sử – Trước sau, chúng tôi chỉ có tấm lòng đối với Người Lính Trung Liệt Ðã Chết Cùng Mệnh Nước Ðiêu Linh nên phải nói thành lời trong nghĩa “Bất Bình Tắc Minh”.



Phan Nhật Nam
Ngày vỡ Trận Long Khánh,
Ba mươi năm trước.
(24 tháng 4, 1975-2005)
(Thuyết trình trong buổi ra mắt sách tại Little Saigon ngày 1/5/2005)



Trong trận đánh Pleime, Đại Tá Hiếu điểm rõ các vị trí địch đến độ khiến địch "kết luận là chỉ có thể là gián điệp trà trộn trong bộ đội cung cấp cho các lực lượng của ta vị trí và di chuyển của các phần tử trung đoàn".



Tướng Hiếu rất thành thuộc trong việc xử dụng thiết giáp ở cấp trung đoàn (Pleime 1965), cấp sư đoàn (Toàn Thắng 8/B/5) và cấp quân đoàn (Đức Huệ/Svay Riêng).



Theo Đại Tá John Hayes:



Từ khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu nắm quyền chỉ huy, Sư Đoàn đã khởi công chương trình đưa chiến tranh đến địch. Sáng kiến này là một yếu tố trọng yếu mà Sư Đoàn đã thiếu sót trước đây. Việc xử dụng Trung Đoàn Thiết Kỵ trong vai trò tấn công là một thay đổi lớn lao với sứ mạng "Ngự Lâm Lính Kiểng" trước đây.



Ngoài ra, Tướng Hiếu còn tỏ ra là biết dùng thiết giáp hơn là một tướng thiết giáp chuyên nghiệp:



Trong hầu hết các trường hợp, bộ binh tháp tùng bảo vệ các đoàn quân chiến xa là điều đòi buộc. Trái lại, trận Pleime là một trường hợp cổ điển trong đó các phần tử bộ binh phương hại nhiều đến tính di động và khả năng của các chiến xa. Vì lẽ đó, các đại đội trưởng thiết giáp không nên bám quá khư khư vào các nguyên tắc bài bản và tốt hơn là bạo dạn phơi trần ra thay vì giới hạn tính di động của mình với một bộ binh tháp tùng sát bên bảo vệ. Điều này sẽ không những tạo tự do hành động mà còn biện minh cho khả năng tự vệ trong trường hợp bị tập kích bất ngờ.



Tướng Hiếu cũng sành sõi trong việc xử dụng pháo binh trong mọi trận đánh. Ngoài ra, Tướng Hiếu còn chứng tỏ là một sĩ quan pháo binh thượng thặng khi biết ứng phó với pháo binh địch:



Ngày 3 tháng Giêng năm 1975, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, tư lệnh phó Vùng 3 Chiến Thuật, chỉ huy hành quân, phân tích các hoạt động quân sự của Việt Cộng và Bắc Quân (VC/BQ) từ ngày 6 tháng Chạp và thảo luận các ý đồ của Cộng Sản. Trong Tỉnh Tây Ninh, các lực lượng VC/BQ thất bại trong nỗ lực hoàn thành các mục tiêu tấn chiếm các tiền đồn tại Núi Bà Đen và Suối Đá (XT335576) phía đông bắc Thành Phố Tây Ninh vì sau khi pháo binh của QLVNCH lúc đầu bị hỏa lực phản pháo VC/BQ hủy diệt, QLVNCH đã có thể đem thêm pháo binh vào chống cự lại lực lượng tấn công của địch. Trung Đoàn 205 VC/BQ Biệt Lập thiệt hại khoảng một phần ba quân số, trong khi Trung Đoàn 101 VC/BQ hứng chịu khoảng 100 thương vong. Các chiến thuật VC/BQ là hủy diệt pháo binh QLVNCH với hỏa lực phản pháo dựa trên tình báo của các vị trí đại pháo howitzer và rồi xử dụng pháo tập vào lực lượng trú phòng. Trong trận đánh tại Suối Đá, các lực lượng QLVNCH đã có thể đem thêm các ổ pháo tới tầm bắn của các lực lượng tấn công mà các đơn vị VC/BQ không tài nào tìm thấy để hủy diệt. Theo Tướng Hiếu, nguồn tình báo cho thấy là hai Trung Đoàn VC/BQ sẽ tấn công lại trong Tỉnh Tây Ninh và xử dụng thêm các ổ pháo binh để triệt hủy pháo binh QLVNCH.



Một nét đặc thù của chiến tướng Hiếu khi điều binh là không trực tiếp áp đặt lệnh lạc mà là điều khiển êm xuôi đến độ các sĩ quan thừa hành lệnh cứ ngỡ là họ hoàn toàn chủ động, như trong trường hợp của Tướng Kinnard trong chiến dịch Pleime/Pleiku và Tướng Trần Quang Khôi trong mặt trận Đức Huệ/Svay Riêng. Và Tướng Schwarzkopf xác tín là Đại Tá Ngô Quang Trưởng hoàn toàn chủ động trong cuộc hành quân Thần Phong 7. Tướng Hiếu tiết lộ biệt tài này của mình như sau trong cuộc hành quân Thần Phong 1: "Các chiến đoàn được kiểm soát chặt chẽ trong tiến trình của họ. Họ hoàn toàn tự do hành động, nhưng kế hoạch của Quân Đoàn II đã buộc họ phải chiếm cứ các cao điểm dọc theo quốc lộ và di chuyển từng đợt nhảy vọt". Tướng Hiếu ra lệnh chỉ huy theo phong cách êm ả của một tham mưu trưởng chuyên nghiệp, chứ không theo phong cách sô bồ của một tướng trận mạc, nghĩa là biết đặt các con cờ đúng vị trí và khả năng trong bàn cờ chiến trận của mình nên các con cờ thi hành nhiệm vụ cách đương niên, chứ không cần phải đốc thúc xô đẩy khi họ bị đặt trong một tư thế vụng về và quá khả năng.



Một nét đặc thù khác của chiến tướng Hiếu là biết xử dụng mọi con cờ, từ tướng sĩ tượng (Việt lẫn Mỹ), xe pháo mã (Dù, TQLC, BĐQ) chí đến các con tốt (ĐPQ, NQ). Tướng Hiếu bình phẩm là Tướng Dư Quốc Đống, gốc Dù, không quen dùng địa phương quân: "Trung Tướng Tư Lệnh QĐIII Dư Quốc Đống không có kinh nghiệm chỉ huy các lực lượng địa phương quân nhưng ông đang học hỏi rất nhanh." Tướng Abrams cũng chê Tướng Đỗ Cao Trí theo chiều hướng đó: "Ông là một chiến thuật gia giỏi, tuy nhiên tôi đã chỉ cho tổng thống thấy là, tuy tôi thán phục chiến thuật Tướng Tri, thật sự Tướng Trí chiến đấu tại Quân Đoàn III với lính dù, thủy quân lục chiến, và biệt động quân, và không làm gì để cải tiến mức chiến đấu của --. " Còn Tướng Ngô Quang Trưởng thì bị Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Phụ Tá Tham Mưu Trưởng G3, chê bai là chỉ giữ được Vùng 1 Chiến Thuật với Dù và Thủy Quân Lục Chiến: "Bộ Tham Mưu đã làm hết sức mình. Mỗi khi có phương tiện, là Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 được ưu tiên yểm trợ. Cả hai Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, hai lực lượng trừ bị, đều được tăng phái cho Quân Đoàn 1. Ngay sau khi đã đạt được mục tiêu, Tướng Trưởng dùng họ như lính địa phương thay vì gửi trả lại Tổng Tham Mưu để điều quân cho các vùng khác."







Nhà văn Phan Nhật Nam viết:



Nắm quyền tư lệnh sư đoàn từ giữa năm (tháng 6, 1966), cuối năm (tháng 11), vị tân tư lệnh đã tạo dựng ngay một chiến thắng vẻ vang dưới chân Đèo Phù Cũ (Quận Phù Mỹ). Lúc ấy, chúng tôi, đơn vị tăng phái (Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù – Pnn) làm thành phần chận địch đóng trên núi, chứng kiến đơn vị bạn (Trung Đoàn 42/ Sư Đoàn22Bộ Binh) hợp cùng chi đoàn thiết vận xa M113 lùa địch từ Quốc Lộ I vào núi. Trận chiến hào hùng như một đoạn phim tài liệu lịch sử kỳ Đệ Nhị Thế Chiến - Các chiến sĩ bộ binh tùng thiết với thiết vận xa M113 theo đội hình hàng ngang, ào ạt tiến tới sau một đợt tác xạ, mạnh mẽ uy vũ như những hiệp sĩ thời trung cổ xung trận. Chiến Đoàn Trưởng Nhảy Dù, Trung Tá Nguyễn Khoa Nam đứng trên sườn núi chong ống nhòm quan sát trận địa dẫu là người kín đáo, phải nói nên lời thán phục: “Đại Tá Hiếu điều quân như một “ông thiết giáp” nhà nghề, và lính Sư Đoàn 22 đánh đẹp đâu thua lính mình”- Lời ngợi ca chân thật giữa những người chiến đấu nơi trận tiền.



Kết Luận



Tướng Hiếu quả thật là một viên ngọc quân sự ẩn tàng bấy lâu nay. Đã đến lúc Tướng Hiếu được nhìn nhận là một chiến tướng hiếm có trong cuộc chiến Việt Nam, một thiên tài quân sự ít có ai sánh bì.




Vị Tướng Tài Đức Song Toàn
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III



Trong cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chống lại làn sóng đỏ xâm lăng của khối cộng quốc tế, mà quân đội cộng sản Bắc Việt chính là con tốt, ngụy quyền Hà Nội là tay sai, xua người Việt giết người Việt, thì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nỗ lực chính đã nhận trọng trách bảo vệ phần đất còn lại của nước Việt Nam Cộng Hòa dù còn non trẻ, vũ khí thiếu thốn, đã chận đứng được những đợt sóng cuồng chiến quá hung hãn của binh đội Bắc Việt, nhiều lúc tưởng chừng phải ngã quị, rồi cũng đứng lên được và đánh những trận long trời vang danh chiến sử. Để có thể làm được những điều kỳ diệu đó, QLVNCH đã hun đúc và cống hiến cho tổ quốc không biết bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, mà đã đem máu xương viết thành những trang lịch sử chói lọi. Những vị tướng lãnh xuất sắc nhất của QLVNCH đã chứng minh với thế giới, với những nhà viết quân sử và với những người có thiên kiến khắt khe với Việt Nam Cộng Hòa lẫn thân cộng, rằng quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi đã được chỉ huy bởi những anh hùng kiệt xuất, thì quân đội đó trở nên một quân đội thiện chiến, có khả năng bảo vệ được đất nước.



Một trong những vị Tướng mà đã nhận được sự nể phục của đồng ngũ và của cả các giới chức quân sự cao cấp Hoa Kỳ tại Việt Nam chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong QLVNCH, từng làm Tư Lệnh các Sư Đoàn 22 Bộ Binh và Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tham Mưu Trưởng tại các Quân Đoàn và làm Tư Lệnh Phó phụ tá cho những danh tướng khác của Việt Nam Cộng Hòa. Khả năng của Thiếu Tướng Hiếu không chỉ hạn chế trong chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn hay Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, nếu cấp chỉ huy cao nhất Việt Nam Cộng Hòa không vì bè phái, tín nhiệm Thiếu Tướng Hiếu vào những vị trí Tư Lệnh Quân Đoàn, thì chắc chắn Thiếu Tướng Hiếu còn đóng góp được nhiều việc to lớn và có ý nghĩa hơn nữa cho đất nước.



Tên tuổi của Thiếu Tướng Hiếu và những đóng góp thầm lặng cho tổ quốc không được dân chúng biết đến nhiều. Chỉ mãi đến khi ông được Phó Tổng Thống Trần Văn Hương tin cẩn trao cho trách vụ Phụ Tá Đặc Trách œy Ban Bài Trừ Tham Nhũng Phủ Phó Tổng Thống. Với bản tính thanh liêm, trung trực, ông kiên quyết phanh phui và vạch trần vụ tham nhũng lớn nhất của tập đoàn tướng tá Bộ Quốc Phòng ra ánh sáng, về tội đục khoét, ăn chận tiền xương máu của chiến sĩ QLVNCH trong Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội. Ông làm mạnh quá, thẳng quá, Tổng Thống Thiệu trước sự đã rồi, mặc dù ông muốn dàn xếp nhận chìm xuồng vụ án này, buộc phải cách chức Tổng Trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Văn Vỹ và nhiều nhân vật khác.



Cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Hiếu chỉ lên đến mức cao nhất là làm Tư Lệnh Phó rồi đứng chựng lại, bởi vì ông không được lòng cấp lãnh đạo. Tuy nhiên nếu chúng ta biết rằng Thiếu Tướng Hiếu từng làm Tư Lệnh Phó cho lần lượt ba vị Tư Lệnh Quân Đoàn III là Trung Tướng Phạm Quốc Thuần, Trung Tướng Dư Quốc Đống và Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, điều đó chứng minh tài năng của Tướng Hiếu, một nhân vật chiến lược không thể thiếu được trong bộ máy điều hành cấp quân đoàn, mà lại là Quân Đoàn III quan trọng nhất.



Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu không có cái may mắn được sanh ra trên đất mẹ Việt Nam. Ông chào đời trên đất Trung Hoa và lớn lên tại Thượng Hải, sinh sống cùng gia đình trong phần đất tô giới của người Pháp. Tuy nhiên chàng thanh niên Nguyễn Văn Hiếu lại có cái may mắn hấp thụ nền giáo dục phương Tây lẫn phương Đông, giúp ông thông thạo nhiều sinh ngữ quan trọng như Anh, Pháp, Đức và Quan Thoại. Ông cũng hướng niềm tin của ông vào Chúa và hấp thụ rất nhiều nền giáo dục tâm linh thánh thiện của Dòng Tên. Năm 1949, quân Trung Cộng vào tiếp thu Thượng Hải, ông đang học năm đầu ngành kỹ thuật tại đại học Aurore do các linh mục Dòng Tên (Jesuit) Pháp điều hành, thì phải tạm thôi học theo gia đình hồi hương về Sài Gòn trên một chiến hạm Pháp. Kiến thức về khoa học trong trường Aurore và trong thời gian học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt hai năm sau đã giúp cho ông có một căn bản vững chắc về các loại kỹ thuật áp dụng trong quân sự, từ truyền tin, công binh, pháo binh, cơ giới, chiến xa. Vì vậy khi đề cập tới bất cứ loại súng lớn nhỏ nào, bất cứ loại máy bay nào, loại máy truyền tin nào, loại xe tăng nào, ngay cả những máy dĩa hát hay những máy chụp hình Polaroid mới sáng chế hồi đó, Tướng Hiếu đều có thể chỉ vẽ tường tận cho người nghe mọi ưu khuyết điểm kỹ thuật của từng loại một.



Thân phụ ông là cụ Nguyễn Văn Hướng khi về đến Sài Gòn ở được vài tháng lại dọn ra Hà Nội và được tín nhiệm trao giữ chức Phó Giám Đốc Công An Bắc Phần. Về sau khi trở vào Nam, trong những thập niên 1950, cụ Hướng lại được cất nhắc làm phó cho Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Năm 1950, chàng thanh niên Hiếu ghi tên xin học Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, ông được nhập học Khóa 3. Thuở đó các quân trường vẫn do hầu hết các sĩ quan và huấn luyện viên người Pháp giảng dạy. Sinh Viên Sĩ Quan Nguyễn Văn Hiếu đỗ điểm nhất, nhưng ông phải nhường chức thủ khoa cho một đồng đội gốc miền Trung đồng hương với Quốc Trưởng Bảo Đại. Tuy nhiên sau khi ra trường tân Thiếu Úy Nguyễn Văn Hiếu vướng phải bệnh lao, vì trong thời gian hoạt động thể dục thể thao ở trường ông đã cố quá sức và bị nhiễm lạnh, nên ông được cho nghỉ dưỡng bệnh. Các bạn đồng khoá một số lớn được gửi ra tham chiến tại Điện Biên Phủ và trên các chiến trường khác. Năm 1954, Đại Úy tân thăng Nguyễn Văn Hiếu lập gia đình, ông cùng với gia đình lần lượt di cư vào Miền Nam. Chính thức phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, chính là ở môi trường này, tài năng quân sự và tham mưu của ông mới được dịp nảy nở và phát triển. Ông là một trong số vài vị Tướng đi lên chức vụ cao trong quân đội không phải vì những chiến công ngoài chiến trường, mà là do tài năng tham mưu từ cấp thấp và từ đơn vị nhỏ đi dần lên.



Trung Tướng Đỗ Cao Trí lúc còn làm Tư Lệnh ngoài Vùng I Chiến Thuật đã sớm nhận ra tài năng của Thiếu Tá Nguyễn Văn Hiếu, đã thăng cấp cho ông lên Trung Tá, sau khi Thiếu Tá Hiếu vừa mới đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp từ Hoa Kỳ về hồi tháng 6.1963, và cử Trung Tá Hiếu làm Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I. Một vị Tướng năng nổ xông xáo và dũng cảm ngoài chiến trường, nổi danh tài hoa trong giới thượng lưu là Tướng Đỗ Cao Trí, và một vị Tướng có cuộc sống đơn giản thanh bạch, không khoa trương ồn ào, điềm tĩnh và khiêm nhường trong bóng tối, lại là một cặp chiến tướng kiệt xuất hết sức ăn ý và tri kỷ. Hai vị Tướng đều nể trọng tương kính nhau và đã đưa quân đội Việt Nam Cộng Hòa gặt hái nhiều chiến thắng vang dội.



Thiếu Tướng Hiếu hai lần được tín nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, một sư đoàn thiện chiến mà đã cung cấp cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa những sĩ quan trẻ ưu tú và nhiều triển vọng như các vị Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Nguyễn Hữu Thông, Lê Cầu. Trong thời gian làm Tư Lệnh SĐ22BB, bản tính trung trực thẳng thắn và kính nể sĩ quan thanh liêm, Tướng Hiếu đã bày tỏ quan điểm bất phục về việc Trung Tướng Vĩnh Lộc thuyên chuyển Trung Tá Trần Văn Hai, Tỉnh Trưởng Phú Yên về làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Trung Tá Trần Văn Hai rất được lòng quân dân tỉnh Phú Yên, dưới sự chăm sóc tận tụy của ông, toàn tỉnh Phú Yên đã hưởng được những ngày thái bình. Bọn Việt Cộng địa phương không dám ngóc đầu dậy quấy phá, vì bị ngăn chận bởi những cuộc hành quân bình định rất hiệu quả của Trung Tá Hai. Trung Tá Hai chỉ có một "lỗi" là dám cưỡng lệnh vị Tư Lệnh Quân Đoàn II và Vùng II Chiến Thuật, không chịu đem công xa chở người thân của ông này và dùng công ốc để cho người này lưu trú trong thời gian ở Phú Yên.



Thiếu Tướng Hiếu có mối giao hảo rất tốt đối với các vị chỉ huy trưởng Mỹ trong vùng trách nhiệm của SĐ22BB và các vị Tư Lệnh quân đội Đại Hàn tại Bình Định. Có một lần, một Thiếu Tướng Tư Lệnh một sư đoàn Đại Hàn sang thăm Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Trong cuộc nói chuyện với Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh, ông này luôn tỏ vẻ tự hào là đã từng tốt nghiệp khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ, vì quân đội Đại Hàn rất ít người có khả năng theo học khóa này. Ông Tư Lệnh Đại Hàn hỏi Thiếu Tướng Hiếu trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa có được bao nhiêu sĩ quan đi học khóa này. Thiếu Tướng Hiếu nhã nhặn trả lời, rằng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông không được rõ có bao nhiêu sĩ quan được gửi đi học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, nhưng trong Sư Đoàn 22 Bộ Binh có ông và Trung Tá Lê Khắc Lý đã tốt nghiệp khóa này. Vị Tư Lệnh Sư Đoàn Mãnh Hổ ngạc nhiên cực kỳ, bỏ hẳn thái độ kiêu ngạo. Từ đó ông tỏ vẻ rất kính nể Thiếu Tướng Hiếu và các sĩ quan tham mưu SĐ22BB, mối giao tình giữa hai vị Tướng trở nên rất tốt đẹp. Cho nên trong cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi có khoảng 200 tên Việt Cộng khuấy phá thị xã Qui Nhơn, nhận được lời yêu cầu giúp quân của Tướng Hiếu, vị Tư Lệnh Sư Đoàn Mãnh Hổ đã gửi ngay quân tới thanh toán nhanh chóng các vị trí VC.



Một chiến công lớn khác nữa của Thiếu Tướng Hiếu mà đã làm vị Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ nể phục tài chiến lược chiến thuật và cung cách chỉ huy rất mực binh thư bài bản trong cuộc hành quân Đại Bàng 800 phối hợp Việt-Mỹ-Hàn trong năm 1967. Theo kế hoạch thỏa thuận giữa các lực lượng, thì sư Đoàn 22 Bộ Binh nhận nhiệm vụ bình định bốn quận phiá Bắc đông dân cư nhất tỉnh Bình Định là: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ và Phù Cát. Khu vực phiá Nam gồm các quận: Qui Nhơn, Tuy Phước, Phú Phong và Văn Canh thuộc vùng hành quân của Sư Đoàn Mãnh Hổ. Bốn quận phiá Tây là An Khê, Vĩnh Thạnh, An Lão và Hoài Ân là vùng núi non hiểm trở, Sư Đoàn 1 Không Kỵ nhận trách nhiệm lùng và diệt địch. Lực lượng Hoa Kỳ rất xông xáo và hành quân trong ba ngày đầu và đã phá được rất nhiều kho lúa gạo dự trữ và khu hậu cần kiên cố của VC trong vùng Vĩnh Thạnh và Hoài Ân, nhưng Sư Đoàn 3 Sao Vàng của Bắc Việt đã tránh né đụng độ với quân Mỹ. Vị Thiếu Tướng Hoa Kỳ yêu cầu Thiếu Tướng Hiếu chuyển quân Sư Đoàn 22 về vùng An Lão bao vây SĐ3BV với SĐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ. Tuy nhiên Thiếu Tướng Hiếu cương quyết từ chối, vì ông biết Sư Đoàn 3 Sao Vàng đang di chuyển về khu vực giữa quận Hoài Ân và Phù Mỹ. Trung Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã khéo léo dùng tiền bạc mua chuộc được một người du kích VC để người này cung cấp tin tức cho Trung Tá Tiếu. Nhờ đó quân ta biết chắc SĐ3 Sao Vàng đang lảng vảng trong khu vực hành quân của SĐ22BB.



Thiếu Tướng Hiếu rất sở trường về chiến thuật nhử địch lộ diện để đập. Những con chuột rất sợ ánh sáng và tiếng động, cho nên nhử chúng ra ngoài để giết là chuyện cực kỳ khó khăn. Thiếu Tướng Hiếu lệnh cho Trung Tá Bùi Thạch Dzần, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 41 Bộ Binh chỉ đem hai tiểu đoàn bộ binh và Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn vào vùng hành quân thật sớm. Khi vào đến vị trí lúc gần 3 giờ chiều thì Trung Tá Dzần cho binh sĩ đóng quân, nấu ăn rùm beng và đào công sự ra vẻ ở đêm. Đây là vùng xôi đậu, bọn VC nằm vùng sẽ bò vào quan sát lấy phiên hiệu Trung Đoàn và bò trở ra báo cáo cho gã SĐ3 Sao Vàng. Từ đó gã sẽ điều quân tới đánh tiêu diệt Trung Đoàn. Thực ra, Thiếu Tướng Hiếu đã ém một tiểu đoàn và hai Chi Đoàn Thiết Vận Xa tại một địa điểm cách đó 10 cây số, chờ khi địch tấn công quân Trung Đoàn 41, ông sẽ điều lực lượng này đánh bọc hậu, bao vây và tiêu diệt địch. Đúng như tiên liệu của Tướng Hiếu, lúc 2 giờ sáng, một trung đoàn cộng quân tấn công vị trí của Trung Tá Dzần dữ dội, tưởng chừng có thể đánh tan tành Trung Đoàn 41. Lực lượng tăng viện của ta liền thần tốc tiến quân dưới ánh sáng hỏa châu sáng rực như ban ngày của SĐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ thả yểm trợ và pháo binh của Sư Đoàn 22 Bộ Binh bắn dội lên đầu giặc. Quân SĐ22 áp dụng chiến thuật nội công ngoại kích, Trung Đoàn 41 đánh ép từ trong ra, lực lượng tăng viện đánh thốn từ ngoài vào, trung đoàn cộng quân bị kẹt ở giữa đành chịu chết. Chiến sĩ Trung Đoàn 41 đã canh súng chờ giặc từ lâu, nên khi những đợt biển người của giặc tràn lên ngoài đồng trống, đã là những cái bia sống rất tốt cho quân ta bắn hạ. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 5 giờ sáng thì địch quân rút chạy tán loạn, bỏ lại trên chận địa hơn 300 xác, vũ khí gãy nát vì đạn và pháo cùng đạn dược nằm ngổn ngang ngoài chiến trường. Mười lăm phút sau, Tướng Hiếu và Tướng Hoa Kỳ đáp xuống trận địa quan sát. Đến lúc đó vị Tướng Hoa Kỳ mới thật sự thán phục con mắt chiến lược và tài điều binh thần sầu của tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa. Người Mỹ còn cần phải học hỏi rất nhiều ở người Việt Nam trên các chiến trường. Vị Tướng Mỹ cũng bắt tay khen ngợi Trung Tá Trịnh tiếu đã gài người và cung cấp tin tức tình báo thật chính xác. Như vậy chính Trung Tá Tiếu đã góp công rất lớn đưa SĐ22BB đến chiến thắng lớn vang dội này và làm cho Tướng Lãnh Hoa Kỳ khâm phục tài năng của sĩ quan Việt Nam. Người anh hùng Nguyễn Công Trứ ngày xưa khi đem quân đi đánh Nùng Văn Vân cũng đã cố ý cho quân sĩ lộ mục tiêu, ăn nhậu ngày này qua ngày khác, còn cụ thì rước ả đào lên ca múa inh ỏi suốt đêm dụ cho Nùng Văn Vân chường mặt dẫn quân đến đánh. Rất khó bắt Nùng Văn Vân vì ông này lủi trốn giỏi hơn cả chuột. Quân phục kích nhà Nguyễn đổ ra bao vây đánh tiêu diệt quân Nùng và bắt được Nùng Văn Vân. Tướng Hiếu nổi danh là người nghiền ngẫm binh thư Đông Tây, chắc ông rất thích thú và ngưỡng mộ tài hành binh thần sầu của cụ Nguyễn Công Trứ.



Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí khi về nắm Quân Đoàn III đã dám cách chức vị Tư Lệnh tiền nhiệm Sư Đoàn 5 Bộ Binh và trao cho Thiếu Tướng Hiếu chức Tư Lệnh này. Một sự trùng hợp lý thú khác mà đã nâng cao tinh thần chiến sĩ Quân Đoàn III lên cao, góp phần dẫn đến những chiến thắng lừng lẫy trong chiến dịch tấn công qua đất Kampuchea năm 1970. Đó là sự có mặt của hai Vị Tướng xuất sắc cũng cùng Khóa 3 Đà Lạt với Thiếu Tướng Hiếu. Tướng Trí bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Thịnh làm Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Cả ba sư đoàn đều lần lượt gửi quân tham chiến bên xứ Chùa Tháp và đều đạt chiến thắng. Trong khoảng đầu tháng 1.1971, khi nhận lệnh Tổng Thống Thiệu ra thay Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy mặt trận Hạ Lào, Trung Tướng Trí đồng ý với điều kiện TT Thiệu bổ nhiệm Thiếu Tướng Hiếu lên làm Tư Lệnh QĐ III, vì ông biết Thiếu Tướng Hiếu có đầy đủ khả năng thay thế ông tiếp tục dẫn dắt đoàn quân Tây chinh của ta. Lời yêu cầu không được đáp ứng, Trung Tướng Trí bị tử nạn trực thăng trên không phận Tây Ninh, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh lên thay. Những chiến thắng huy hoàng của QĐ III bắt đầu có chiều hướng đi xuống. Tiếng nói của các vị Tướng Hiếu, Thịnh và Thơ không được Tướng Minh coi trọng. Hơn thế nữa, Tướng Minh còn tự tiện giải tán Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Xung Kích, một lực lượng đột phá hữu hiệu và kinh khủng lên các tuyến địch quân trong thời Tướng Trí. Quân Việt Nam Cộng Hòa mất đi một quả đấm mạnh để làm cho địch quân kiêng sợ. Đoàn quân Tây chinh của ta lục tục được điều động về gần biên giới.



Trung Tướng Trí mất đi, Thiếu Tướng Hiếu mất một người chiến hữu tri kỷ và mất một người đỡ đầu để ông thực hiện kế hoạch dụ địch, đánh một trận long trời lở đất và quyết định để tiêu diệt khối sinh lực địch. Theo như kế hoạch mà đã được Trung Tướng Trí đồng ý, cuộc hành quân Toàn Thắng 02/71 sẽ được tổ chức từ tháng 3.1971 đến tháng 6.1971, Thiếu Tướng Hiếu sẽ dùng Trung Đoàn 8 Bộ Binh của SĐ5BB nhử địch trong khu vực Snoul. Nếu Sư Đoàn 5 Bắc Việt chấp nhận giao tranh và tung các Trung Đoàn 174 và 275 đánh Trung Đoàn 8, Quân Đoàn III sẽ sử dụng lập tức từ một đến ba sư đoàn bao vây tiêu diệt SĐ5BV. Kế hoạch đang tiến triển thuận lợi, sau nhiều lần đánh thăm dò, SĐ5BV có dấu hiệu lọt bẫy Tướng Hiếu, chúng điều quân bao vây Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Nhưng không may cho ông và cho QĐ III, Tướng Trí tử nạn, Tướng Minh không mặn mà với kế hoạch. Ông do dự giữa áp lực của phiá cố vấn Mỹ đòi thay đổi kế hoạch, vẫn nhử cho SĐ5BV lộ diện bao vây Trung Đoàn 8 rồi dùng B52 trải thảm tiêu diệt, thay vì dùng ba Sư Đoàn 5, 18 và 25. Thiếu Tướng Hiếu lưu ý Tướng Minh, rằng dùng B52 rải bom không những giết chết SĐ5BV mà còn tàn sát luôn Trung Đoàn 8, như vậy cái giá của chiến thắng là sinh mạng của hàng ngàn chiến sĩ Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Đánh giặc theo cái kiểu giết người hàng loạt như vậy thì dễ quá, ấu trĩ quá và tàn nhẫn quá. Một người Tướng có tài là khi mà ông ta dùng một số ít chiến sĩ thiện chiến cộng với mưu lược mà có thể tiêu diệt được một quân số lớn của giặc, thì vị Tướng ấy mới xứng đáng được kính trọng là tướng tài. Thiếu Tướng Hiếu nhắc nhở nếu như Trung Tướng Minh không dứt khoát chọn được một giải pháp nào, thì nên rút ngay Trung Đoàn 8 về, kẻo khi SĐ5BV bao vây trùng điệp thì đã quá muộn.



Tướng Minh vẫn lừng khừng không quyết, cho đến khi tình hình suy sụp trầm trọng, Trung Đoàn 8 bị bao vây tại Snoul và sắp sửa bị tràn ngập, ông đã phủi tay nói với Tướng Hiếu: "Anh muốn làm gì thì làm đi." Thiếu Tướng Hiếu không còn chọn lựa nào khác, ông và các sĩ quan tham mưu sư đoàn đã dũng cảm đáp trực thăng bay vào Snoul, hạ xuống bản doanh Trung Đoàn 8, trong lúc ngoài vòng rào quân giặc đang mở những đợt tấn công dứt điểm. Một buổi họp chớp nhoáng được tổ chức, Tướng Hiếu trực tiếp ban lệnh và vạch kế hoạch triệt thoái ra khỏi Snoul. Sự có mặt của vị Tư Lệnh Sư Đoàn khả kính đã nâng tinh thần chiến sĩ Trung Đoàn 8 lên cao, thêm nữa hai vị Trung Đoàn Trưởng và Trung Đoàn Phó sẽ cùng rút theo đường bộ với các đơn vị. Các sĩ quan cao cấp của SĐ5BB đã nêu tấm gương quả cảm, không bỏ chạy trước và quyết sống chết với chiến sĩ. Cho nên quân sĩ Trung Đoàn 8 đã giữ vững kỷ luật không quăng súng đạp lên nhau chạy, theo kế hoạch rút, các đơn vị bình tĩnh yểm trợ nhau di tản. Cuộc rút quân của Trung Đoàn 8 giữa vòng vây áp sát và hỏa lực kinh khủng của địch dội xuống là cả một trang sử đẫm máu và bi tráng. Để về được bên này biên giới Bình Long, Trung Đoàn 8 Bộ Binh hy sinh 1/3 quân số, vị Trung Đoàn Trưởng bị sa vào tay giặc, vị Trung Đoàn Phó bị tử trận. Thiếu Tướng Hiếu đã giữ được mức thiệt hại tối thiểu cho Trung Đoàn 8 Bộ Binh, nhưng ông vẫn bị đưa ra quốc hội chất vấn về cuộc bại trận của SĐ5BB. Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Đôn hiểu nỗi lòng của người Tư Lệnh cô đơn và đã bênh vực hết lòng cho Thiếu Tướng Hiếu. Tuy vậy Tướng Hiếu cũng bị cách chức Tư Lệnh và được điều động về Bộ Tổng Tham Mưu. Sau đó ít lâu, Bộ Tổng Tham Mưu bổ nhiệm ông ra Miền Trung làm Tư Lệnh Phó Quân Đoàn I và Vùng I Chiến Thuật, phụ tá cho Trung Tướng Tư Lệnh Hoàng Xuân Lãm.



Thiếu Tướng Hiếu có dịp trở lại chiến trường Miền Đông thi thố tài năng và đóng góp nhiều chiến thắng cho QLVNCH sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết ngày 27.1.1973. Trong năm 1974, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần được Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm làm Tư Lệnh quân Đoàn III và Quân Khu III thay thế Trung Tướng Minh. Tự biết khả năng hạn chế của mình, Trung Tướng Thuần hơn hẳn Trung Tướng Minh về con mắt nhìn người, ông quyết định xin cho bằng được Thiếu Tướng Hiếu về làm Tư Lệnh Phó cho mình. Tại sao ông không xin người khác cùng phe cánh mà lại xin đích danh Tướng Hiếu, điều đó chứng tỏ ông đánh giá rất cao tài năng của Tướng Hiếu. Trung Tướng Thuần cần một vị tướng chiến lược có khả năng chỉ huy quân đoàn để chống ngăn giặc. Ông không cần tướng tham nhũng bất tài, mà sẽ làm cho Quân Khu III đi đứt và đi luôn cái ghế Tư Lệnh Quân Khu của ông. Sự tín nhiệm đó còn được thể hiện thời kỳ Trung Tướng Dư Quốc Đống và Trung Tướng Nguyẽn Văn Toàn tiếp nối lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn III.



Trong thời kỳ phục vụ dưới quyền Trung Tướng Thuần, Thiếu Tướng Hiếu đã giúp Trung Tướng Thuần đánh thắng hai trận lớn. Sư Đoàn 18 và Sư Đoàn 5 của ta tiến quân đánh phá và hủy diệt mật khu Tam Giác Sắt và trận Svayrieng với SĐ5BB, Biệt Động Quân, Kỵ Binh đánh tan nát SĐ5BV. Cả hai trận đánh thắng vang dội này, Tướng Hiếu đều dàn quân tấn công theo nhị thức Bộ Binh-Thiết Giáp. Tuy nhiên nhị thức này thành công lớn trên địa thế rộng rãi ít chướng ngại vật trên lãnh thổ Miên hơn là trên địa thế rậm rạp của khu Tam Giác Sắt. Trong trận Svayrieng, được sự hỗ trợ và tin cậy của Trung Tướng Thuần, Thiếu Tướng Hiếu đã tung vào chiến trường toàn bộ 20 tiểu đoàn bộ binh và Mũ Nâu, 3 Chi Đoàn Thiết Kỵ bao vây các đơn vị của SĐ5BV trong vùng Mỏ Vẹt và đánh thẳng vào Bộ Chỉ Huy SĐ5BV, với hơn 1.000 cán binh bị giết, trong khi quân ta chỉ bị tổn thất dưới 100 chiến sĩ. Thiếu Tướng Hiếu đã có được cơ hội dụng võ trên chiến trường rộng lớn bên đất Kampuchea, thay vì bị gò bó bởi những khu vực nhỏ hẹp bên Việt Nam. Trung Tướng Vĩnh Lộc, từng là Tư Lệnh Thiết Giáp của QLVNCH, có nhận xét sau đây về việc sử dụng chiến xa trên chiến trường:



Địa thế và vị trí của nước ta trong phương vị hành quân tìm địch để tảo thanh không tạo được cơ hội để dàn trận một lúc đồng thời cả ba Trung Đoàn cùng các đơn vị yểm trợ. Xét lại từ khi thành lập Sư Đoàn cho đến ngày thất thủ Vùng Cao Nguyên, chưa thấy Khu Chiến Thuật nào hành quân sử dụng toàn thể sư đoàn, nghĩa là cả 3 Trung Đoàn Bộ Binh, Tiểu Đoàn Pháo Binh, Công Binh và Thiết Giáp v.v. Dù muốn cũng không có môi trường để dàn ra cả Sư Đoàn nếu không muốn nói đến hiếm hoi sĩ quan chỉ huy được huấn luyện nghiêm túc điều khiển Đại đơn vị."



Theo quan điểm của Tướng Hiếu thì chiến thuật Kỵ Binh xung kích đạt được thành quả to lớn hơn chiến thuật trực thăng vận "Diều Hâu". Với "Diều Hâu", các đơn vị địch có thể tản quân chạy trốn từ khi nhác thấy hợp đoàn trực thăng của ta từ phiá chân trời. Nhưng với nhị thức Thiết Giáp-Bộ binh, quân ta tấn công thọc sâu vào tận đầu não địch, từ đó tỏa rộng ra bốn phiá đánh phá và tê liệt hóa hậu tuyến địch. Trong nhị thức Bộ Binh-Thiết Giáp, các đơn vị cơ giới có nhiệm vụ tập trung chọc thủng các tuyến phòng thủ chính của địch, trong lúc các đơn vị bộ binh đánh phá tạo hỏa mù và tập trung lực lượng đánh ngang hông địch. Không Quân được tận dụng tối đa để đánh phá các vị trí chiến đấu, các điểm tiếp vận của địch.



Trong những ngày đầu tháng 4. 1975, khi các quân đoàn của Bắc Việt rầm rộ theo các trục đường quốc lộ tiến vào lãnh thổ Quân Khu III, thoạt đầu Tổng Thống Thiệu định cử Thiếu Tướng Hiếu ra Phan Rang chỉ huy quân Dù, Mũ Nâu và Sư Đoàn 2 Bộ Binh, nhưng không hiểu sao ông đổi ý và điều Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Trong lúc quân Bắc Việt tràn xuống vùng Long Khánh, Thiếu Tướng Hiếu Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III đang nghiền ngẫm kế hoạch dùng chiến xa phản công. Thật đáng tiếc, kế hoạch chưa được vị tướng tài năng này thực hiện thì ông đã bị tử nạn một cách bí mật trong văn phòng của ông tại Biên Hòa ngày 8.4.1975. *



Cái chết của Thiếu Tướng Hiếu vào thời điểm sôi bỏng của đất nước đã chìm dần vào lãng quên trong những tin tức chiến sự ngày càng bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Người ta vẫn còn nhắc lại nhiều câu chuyện về ông, trân trọng ông như là một vị Tướng thanh liêm trong sạch, có một cuộc sống giản dị và đạo đức. Như câu chuyện của Đại Tá Trịnh Tiếu lúc còn phục vụ dưới quyền Tướng Hiếu tại Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tướng Hiếu đã bảo anh tài xế đem trả thùng sữa Quân Vụ lại cho kho và chỉ nhận đúng tiêu chuẩn sáu hộp cho mỗi chiến sĩ mà thôi. Câu chuyện kể của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham Mưu Trưởng SĐ22BB trong những năm 1966-1969. Đại Tá Lý cho biết Tướng Hiếu sống như một nhà khổ tu. Tướng Hiếu rất trân trọng hạt cơm và thực phẩm của Chúa ban cho, ông thường xuống câu lạc bộ sĩ quan dùng cơm chung với mọi người và không nhận những biệt đãi của nhà bếp, lính ăn cái gì thì ông ăn cái đó, ông không hề khen chê món ăn. Dù có hôm món ăn nấu dở ông vẫn điềm nhiên ăn hết, luôn luôn không để mứa lại một thức gì. Có hôm ông ăn canh, thấy có một con ruồi trôi lềnh bềnh, ông im lặng lấy đũa gắp nó ra và ăn hết tô canh. Câu chuyện khác về sự ngoan đạo và kiến thức sâu sắc về Kinh Thánh của Tướng Hiếu. Trong thời còn làm Tư Lệnh SĐ22BB, một chúa nhật nọ, trong khi ông ngồi xem lễ trong nhà thờ, Cha chủ lễ bất ngờ mời Tướng Hiếu lên bục giảng nói vài lời cùng cộng đồng giáo dân. Thiếu Tướng Hiếu đã ứng khẩu một bài nói chuyện trôi chảy, khúc triết, với đầy đủ những đoạn trích dẫn Thánh Kinh, Tân Ước lẫn Cựu Ước. Câu chuyện kể về tấm lòng nhân đạo của Thiếu Tướng Hiếu dành cho những người cùi bất hạnh ở Trại Cùi Di Linh, ông thường đến thăm viếng trại cùi và an ủi những người bạc phước đáng thương ấy. Ngày 12.4.1972 Thiếu Tướng Hiếu đại diện Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đến Trại Di Linh vào phòng nằm bệnh của Đức Cha Gioan Sanh (Jean Cassaigne) người Pháp, sáng lập viên Trại Cùi Di Linh, trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho người.



Cùng với những vị Tướng Lãnh, những sĩ quan các cấp và những chiến sĩ vô danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tử tiết báo đền ơn nước, thà chết không hàng giặc, cái chết oan khuất và bí ẩn của Thiếu Tướng Hiếu đã gây cho tổ quốc và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa một tổn thất lớn không gì bù bắp nổi.



Giờ đây, anh linh của những vị thần tướng nước Nam Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Nguyễn Văn Hiếu, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Trần Văn Long, các vị Trung Đoàn Trưởng, các cấp sĩ quan, các chiến sĩ vô danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có hiển linh, hãy xin xót thướng cho nỗi khổ đau của dân tộc Việt Nam và ban phép màu cho những người còn đang sống trong nỗi khắc khoải triền miên và trong đêm đen mù mịt. Xin cho được một ngày, ánh sáng lại trở về với những người công chính, xua tan màn u tối của dối trá và bạo lực, để dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu đi vào kỷ nguyên mới của hạnh phúc, tiến bộ và no ấm.




Phạm Phong Dinh



Cái Chết Của Anh Tôi



Tới giờ phút này, cái chết của anh tôi vẫn mang đầy bí ẩn. Hung tin đến với gia đình chiều tối ngày 8 tháng 4 năm 1975 (thật sự thì anh tôi đã bị thảm sát từ buổi trưa) do người tài xế riêng của anh tôi, hớt hải từ bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa lái xe chạy về Sài-Gòn thông báo. Hôm sau, gia đình lên Biên Hòa, vào trại thì được Trung Tá Quyến, Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh Quân Đoàn III dẫn đưa tới xem thi hài của anh tôi. Tôi cúi xuống nhìn kỹ thì thấy vết lằn đạn xuyên một lỗ từ cằm bên trái lên tới đỉnh đầu bên phải. Trung Tá Quyến cũng đưa chúng tôi tới văn phòng riêng của anh tôi, lúc đó đang giữ chức Tư Lệnh Phó Quân Đoàn.



Trên đường đi đến văn phòng, gia đình gặp một đoàn người cầm đầu bởi một sĩ quan mang lon quân y đi ngang qua. Một viên sĩ quan trong đoàn chúng tôi ghé miệng vào tai tôi thì thầm: "Chánh Văn Phòng cùng là bác sĩ riêng của Tướng Toàn đấy. Nhiệm vụ chính của ông ta là khám xét trinh mấy con bé trước khi đưa lên ông tướng!" Viên Sĩ quan y sĩ đến bắt tay chào hỏi ông cụ tôi. Lúc ấy tôi thấy mặt mũi ông ta sao nham nhở thế: nói nói cười cười, như thể không có ai mới chết đây cả!



Gia đình được cho hay là anh tôi chết ngay tại bàn viết, đang khi chờ đợi đi ăn cơm chiều với vài cộng sự viên tại câu lạc bộ sĩ quan.Lý do chết được đề xướng ra: Tướng Hiếu, vốn thích chơi súng, lỡ tay lẩy cò đang khi lau chùi súng lục. Tôi nghĩ thầm: làm sao có thể thế được, vì anh tôi thuận tay phải mà lằn đạn phải được gây ra bởi một người thuận tay trái. Hơn nữa, dựa vào dấu vết viên đạn để lại trên vách tường, chứ không phải trên trần nhà, chặp lại với vết viên đạn để lại trên cằm trái và đỉnh đầu phải, tôi suy diễn: phát súng phải gây nên bởi một kẻ sát nhân khiến anh tôi nghiêng mặt qua bên né tránh khi bị họng súng chĩa vào mặt mình. Có điều lạ là không thấy ai đưa ra cho xem khẩu súng lục tội phạm. Tôi còn ghi nhận một điều lạ khác: gia đình Tư Lệnh Phó Quân Đoàn tới viếng xác mà không thấy bóng dáng Tư Lệnh Quân Đoàn hay một sĩ quan cộng sự viên thân cận của anh tôi ra tiếp chuyện. Họa chăng khó ăn khó nói, hoặc tại gây nên sự việc hay tại biết chuyện mà bị cấm đoán tiết lộ? Còn Trung Tá Quyến thì hành sự như thể một nhà đạo diễn miễn cưỡng tại phim trường: cử chỉ lời nói có vẻ ngượng ngùng không mấy tự nhiên như tuồng cố che giấu điều gì.



Tôi tiếc là hoàn cảnh hỗn độn mất nước tới nơi đã không cho phép gia đình biết được kết quả của cuộc thử nghiệm do một viên thiếu tá cảnh sát từ Tổng Nha Cảnh Sát phái tới điều tra đang khi gia đình viếng xác, nhằm xác định xem có hay không có dấu vết thuốc súng trên bàn tay anh tôi. Viên sĩ quan cảnh sát này, trước khi ra về, có đến bắt tay chào hỏi ông cụ tôi: "Thưa cụ, con là cựu học viên của cụ, hồi cụ là Giám Đốc Trường Huấn Luyện Cảnh Sát Đô Thành Sài-Gòn. Con hứa sẽ cho cụ biết kết quả của phương pháp thử nghiệm khoa học tân kỳ mà con mới học được ở Hoa-Kỳ đem về ứng dụng." Nhưng xét cho cùng thì không dễ gì biết được sự thật một khi quân gian manh đã cố tâm dàn cảnh nhằm ếm nhẹm mọi sự kiện bất lợi cho chúng.



Theo ý kiến riêng của tôi, anh tôi bị ám sát hoặc vì tư thù cá nhân, hoặc vì lý do chính trị. Nếu nguyên do là vì tư thù riêng, ắt là phải xảy ra trong một cuộc cãi vả. Thử hỏi ai mà dám cãi vả tay đôi với Tư Lệnh Phó Quân Đoàn ngay trong văn phòng riêng, ngoại trừ chính Tư Lệnh Quân Đoàn hay một sĩ quan thân cận của Tư Lệnh hành động theo lệnh trực tiếp của thượng cấp? Nội dung cuộc cãi vả có thể là sự bất đồng ý kiến liên quan đến chiến thuật hành quân (có thể chăng một bên không ngại thí quân, một bên muốn bảo toàn tính mạng quân lính tối đa ?) trong khi tình hình quân sự đang sôi động, trong đó cấp trên đầy tự ti mặc cảm thua lý cấp dưới tài giỏi hơn mình. Một giọt nước cuối cùng làm đổ tràn ly nước đưa tới hành động sát nhân? Có lần tôi hỏi anh tôi tại sao Tướng Toàn lại được chọn làm Tư Lệnh Quân Đoàn III thì anh tôi mỉm cười với nét mặt luống vẻ mệt mỏi chán chường và với giọng hơi mỉa mai : "Tổng Thống cho là lúc này cần một tướng gốc thiết giáp biết xông xáo." Cộng thêm vào đó, một bên là một tướng mang tiếng tham nhũng với cái danh "tướng rừng quế" và "tướng đồng sắt", một bên là một tướng sạch từng nắm trong tay đống hồ sơ tham nhũng trong quân đội khi còn tại chức Đặc Trách Bài Trừ Tham Nhũng thuộc Phủ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tôi còn nhớ, nghe tin Tướng Toàn về thay thế Tướng Đống làm Tư Lệnh Quân Đoàn III, có người bạn nói với tôi: "Thôi rồi, anh toa như một cừu non giữa bày sói dữ!"



Qua đến Mỹ, mỗi lần gặp những cựu sĩ quan biết đến cái chết của anh tôi, là mỗi lần nghe câu thốt: "Tướng Toàn chứ không ai vào đó cả!" Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tỉnh Trưởng Tỉnh Chợ Lớn, thời ông Diệm, sau này là Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, khi gặp tôi ở Nữu Ước năm 1986 cũng khẳng định như thế. Tuy nhiên, mới đây trong dịp điện đàm với Tướng Lý Tòng Bá, tôi hỏi có phải Tướng Toàn bắn anh tôi không, ông trả lời: "Chắc không phải Tướng Toàn bắn đâu, vì lúc đó tôi đang họp với ông ta. Sau buổi họp, trên đường đi ăn cơm thì nghe quân lính lao xao nói Tướng Hiếu vừa chết trong văn phòng. Vì phải gấp rút lên máy bay ra mặt trận, nên tôi không có thì giờ nán lại nghe ngóng thêm tin tức". Xin nhắc lúc đó Chuẩn Tướng Bá là Tư lệnh Sư Đoàn 25 đóng quân ở Củ Chi. Ngược lại có nguồn tin khác cho tôi hay là Đại Tá Lưu Yểm, Tỉnh Trưởng Biên Hoà, cũng tham dự buổi họp ngày hôm đó thì lại quả quyết là Tướng Toàn bắn sau buổi họp. — đây tôi xin mở dấu ngoặc: buổi họp quan trọng vậy, sao Tư Lệnh Phó Quân Đoàn lại không được mời tham dự?



Nguyên do khác khiến anh tôi bị ám sát cũng có thể là vì có người sợ anh tôi đứng ra cầm quân đảo chính. Giả thuyết này nhen nhúm hình thành trong đầu óc tôi sau những lần tiếp xúc với viên Tổng Lãnh Sự Mỹ Biên Hoà. Sau đám táng tại nghĩa trang quân đội ở Biên Hoà, ông ta mời gia đình về tư thất. Trong buổi gặp gỡ đó, ông ta kéo tôi ra sân nói riêng với tôi ông ta rất thân thiện với anh tôi: hai người thường đánh cờ với nhau bên hồ bơi nhà ông và ông thường mời anh tôi tới cùng coi xi-nê trong phòng chiếu phim của Toà Tổng Lãnh Sự Mỹ vào những cuối tuần. Tôi phỏng đoán là có người nghi viên chức thuộc cơ quan tình báo Mỹ CIA này thường xuyên thân mật tiếp xúc với anh tôi để thuyết dụ anh tôi đứng ra nhận lãnh tổ chức đảo chính, nên ra lệnh loại trừ trước. Tôi nhớ lại có lần về tới nhà, ông cụ tôi nói với tôi: "Vừa rồi có hai viên chức tự xưng là CIA tới dò hỏi xem hai Tướng Trưởng và Hiếu có thân nhau không, để làm gì không biết?" Có phải chăng CIA muốn Tướng Trưởng, lúc đó đang nắm Quân Đoàn I, và anh tôi liên kết nhau đứng ra đảo chính? Còn Tướng Trưởng thì khi bị điên đầu vì lệnh và phản lệnh của ông Thiệu lúc thì muốn giữ lúc thì muốn bỏ Huế cáu tiết dọa sẽ đảo chính nếu ông Thiệu đổi ý một lần nữa! Vào thời điểm đó, CIA muốn đẩy ông Thiệu đi vì Quốc Hội Mỹ chỉ ưng thuận tháo khoán 700 triệu đô-la viện trợ quân sự với điều kiện Tổng Thống Thiệu phải ra đi. Đồng thời, phe Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, người mến phục tài anh tôi, thì đang túc trực sẵn để chấp chính.



Anh tôi có dám đứng ra đảo chính không? Anh tôi là một sĩ quan thuần túy quân sự không có tham vọng làm chính trị. Trong những lần quân đội đảo chính trong quá khứ, tôi thường tò mò xem có tên anh tôi trong danh sách các tướng tá phe đảo chính không thì không lần nào thấy cả. Tuy vậy, tôi nghĩ anh tôi là một người gan dạ, nếu tiếng gọi của nghĩa vụ đòi hỏi thì anh tôi sẽ không từ nan, cho dù hậu quả của hành động mình không có lợi cho cá nhân mình. Khi các tỉnh miền Trung lần lượt mất vào tay Cộng quân, anh tôi có lời nhận xét này:"Nếu Mỹ không viện trợ quân sự lại thì Quân Đội ta chỉ có thể cầm cự nổi tối đa hai tháng nữa thôi. Khả năng, quân lính ta có dư thừa; chỉ thiếu có đạn dược thôi". Tôi còn nhớ có đọc một lá thư anh tôi viết cho ông cụ sau vụ đảo chính Tổng Thống Diệm, trong đó anh tôi, lúc đó là Trung Tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 1, dưới quyền Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 kiêm Quân Đoàn I, thuật lại đã nhận lãnh nhiệm vụ chỉ huy đội binh công hãm dinh ông Ngô Đình Cẩn, và hãnh diện khoe là đã hoàn thành nhiệm vụ tước khí giới quân lính phòng vệ dinh mà không phải nổ một phát súng nào.



Trong lúc tình hình trong nước rối ren, ai nấy đều lo Cộng Sản sắp thanh toán miền Nam tới nơi, anh tôi thường trấn an chị dâu tôi: "Em đừng lo, anh sẽ lo liệu cho cả." Sáng ngày 8/4/1975 một khu trục cơ F5, do phi công Nguyễn Thành Trung, cất cánh từ Biên Hòa, nhào xuống dội bom vào Dinh Độc Lập, anh tôi gọi điện thoại về nhà ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa căn dặn vợ "đừng để các con ra đường chơi", đó là hàng chữ sau chót được ghi xuống trong sổ nhật ký của anh tôi. Buổi trưa hôm đó anh tôi bị ám sát.



Mấy ngày kế tiếp sau đó, chị dâu tôi bận rộn với việc mai táng anh tôi. Quân Đội và Chính Quyền ra ý kiến muốn quàn xác anh tôi tại Bộ Tổng Tham Mưu hay Tòa Đô Sảnh, để tiện cử hành lễ nghi quân cách long trọng. Chị dâu tôi, vì uất ức chồng mình bị một bàn tay thuộc Quân Đội hay Chính Quyền ám hại, bác bỏ lời đề nghị đó, và yêu cầu quàn xác tại căn nhà nhỏ bé trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa. Thế là một lễ nghi mai táng trọng thể diễn ra trong phòng khách bé xíu. Bốn góc quan tài, bốn Tướng Lãnh uy nghiêm trong bộ lễ phục trắng với đầy ắp huy chương gắn trên ngực, từng đợt luân phiên túc trực 24 tiếng trên 24. Hầu hết các chính khách và các tướng lãnh đều đến phân ưu. Phó Tổng Thống Hương, thay mặt Tổng Thống Thiệu (tại sao lại lánh mặt vậy?), đến gắn sao thăng cấp Trung Tướng cho anh tôi.



Tôi đã có lần viết thư cho cơ quan CIA, chiếu theo đạo luật "Freedom of Information Act" yêu cầu họ trao cho tôi xem hồ sơ họ có về Tướng Hiếu, với hy vọng biết được sự thật quanh cái chết của anh tôi, nhưng trong bức thư trả lời họ từ chối lời yêu cầu nại lý do an ninh quốc gia, mặc dù biến cố xảy ra đã hơn hai mươi năm.



Nguyễn Văn Tín
Nữu Ước tháng 9/1998
Cập nhật ngày 17.12.2000



Tin Tướng Tự Sát ở Sài-Gòn Đáng Nghi Ngờ




SAIGON (UPI) - Tư Lệnh Phó QLVNCH bảo vệ vùng Sài-Gòn được khám phá bị bắn tối thứ ba sau một cuộc cãi vả về chiến thuật với cấp trên của mình. Các nguồn tin quân sự nói là có vẻ ông ta tự vận.



Các nguồn tin đó nói Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu chết với một vết thương do một viên đạn gây nên ở miệng tại văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III nằm ven biên phi trường quân sự Biên Hòa, cách Sài-Gòn 14 miles.



Không biết sự kiện Tướng Hiếu chết có liên quan gì với vụ oanh tạc Dinh Độc Lập của ông Nguyễn Văn Thiệu xảy ra sáng thứ ba cùng ngày không?



Từ hướng Nam và Đông Sài-Gòn, Việt Cộng và quân chính quy Bắc Việt tiếp tục pháo kích và dùng đặc công tấn kích nặng nề dường như trong một nỗ lực nhằm thắt chặt vòng vây quanh thủ đô đang dãy dụa.



Tại Hoa Thịnh Đốn, Tướng Tổng Tham Mưu Frederick C. Weyand nói Nam Việt Nam không thể sống sót nếu không nhận được thêm viện trợ quân sự từ phía Hoa Kỳ. Ông ta tuyên bố như vậy sau khi tường trình trước Ủy Ban Quân Sự Vụ của Thượng Nghị Viện về chuyến công du Nam Việt Nam mới đây của ông. Nếu nhận được đủ viện trợ, Nam Việt Nam sẽ chiến đấu, ông nói.



Lệnh giới nghiêm được ban bố sau vụ oanh tạc vào dinh Độc Lập làm trì hoãn chương trình Babylift và việc di tản bằng đường hàng không của kiều dân Mỹ, và Việt Cộng đã tràn vào một quận của thủ đô trong khu quân sự phía Bắc Sài-Gòn.



Viên phi công thả bom vào dinh đã cất cánh từ Biên Hòa để thực hiện sứ mạng và hiện còn tại đào nhiều giờ sau vụ oanh tạc. Các nguồn tin quân sự nói là có thể viên phi công đã quy hàng theo Cộng Sản với phi cơ siêu thanh. Ông Thiệu thoát nạn và sau đó tuyên bố vụ oanh tạc không dính dáng gì đến một cuộc đảo chánh.



Tướng Hiếu là phụ tá cho Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, chỉ huy các đơn vị trong 13 tỉnh quanh Sài-Gòn. Các nguồn tin quân sự nói hai tướng lãnh đã lâm vào một cuộc cãi vả vì bất đồng về chiến thuật quân sự, tuy nhiên nguyên do chính xác của cuộc tranh luận giữa hai người không được tiết lộ ngay tức khắc.



[...]



Tư Lệnh Phó
Vùng Sàigòn
Bị Bắn Chết
Bản tin đặc biệt của The New York Times



SÀIGÒN, Nam Việt Nam, Thứ Tư 9 tháng 4 - Tư Lệnh Phó vùng quân sự Nam Việt Nam bao gồm Sàigòn chết tối hôm qua vì một vết thương do chính nạn nhân gây nên, theo lời báo cáo của giới chức thẩm quyền tại đây ngày hôm nay.



Theo phát ngôn viên quân sự của Chính Phủ, Trung Tá Lê Trung Hiền, sĩ quan tử nạn, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, thảo luận tình hình quân sự với một nhóm sĩ quan tham mưu trong văn phòng, và đồng thời trưng ra một khẩu súng lục tự động mang nhãn hiệu Đức Walther P-38 mà ông đã sửa lại.



Sau khi các sĩ quan chia tay để đi dùng cơm chiều, người ta nghe thấy một tiếng súng, và tìm thấy vị tướng lãnh chết, phát ngôn viên nói, và thêm ông tin là nguyên nhân là rủi ro chứ không phải cố ý.



Tướng Hiếu là tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh năm 1970 và 1971, và sau đó trở nên trưởng ban chống tham nhũng quốc gia. Trong chức vụ hiện tại, ông phục vụ với tư cách tư lệnh phó Vùng III Chiến Thuật dưới quyền Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.



Có nhiều nguồn tin cho là có sự bất đồng giữa Tướng Hiếu và Tướng Toàn.



generalhieu.com



Cái Chết Đầy Bí Ẩn Của Tướng Hiếu



Cái chết của tướng Nguyễn Văn Hiếu đầy bí ẩn. Lúc đó, Quế Tướng Công Nguyễn Văn Toàn đang giữ chức tư lệnh quân đoàn 3, kiêm vùng 3 chiến thuật. Tướng Nguyễn Văn Hiếu làm Tư Lệnh Phó Hành Quân, cùng với tướng Đào Duy Ân tư lệnh phó, Phụ Tá Diện Địa. Ngoài ra, tướng Hiếu còn kiêm nhiệm chức Phụ Tá Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, đặc trách bài trừ tham nhũng. Văn phòng làm việc của tướng Hiếu trong bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, vốn là văn phòng cũ của cố vấn Mỹ, nằm sát cạnh văn phòng của Quế Tướng Công Nguyễn Văn Toàn. Hai phòng có cửa thông nhau. Lúc đó cố vấn quân sự Mỹ không còn nữa.



Hôm ấy, tôi không còn nhớ rõ ngày nào, nhưng chắc chắn vào một buổi chiều, sau giờ làm việc, nghĩa là khoảng 4 giờ rưỡi, 5 giờ gì đó, hung tin tướng Hiếu vừa bị bắn chết ngay trong văn phòng Bộ tư Lệnh Quân Đoàn 3 được tung ra như một loại tin giật gân. Dư luận bị chấn động liền. Lập tức tôi đã liên lạc với vài nơi quan yếu để kiểm chứng tin tức, và chuẩn bị tháp tùng lên Bộ tư Lệnh Quân Đoàn 3. Ngay bấy giờ tôi đã có dịp chứng kiến tại chỗ, trung tá Quyến, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3 Quân Cảnh, kiêm chỉ huy trưởng Quân Cảnh vùng 3, vội vã ra lịnh cho trung uý Ấn, trưởng phòng Điều Hành, và đại uý Nam phải cấp tốc tập họp đơn vị, kéo thẳng lên Biên Hòa để điều tra về án mạng của tướng Hiếu. Đến nay tôi vẫn còn nhớ mãi lời hô hào của trung tá Quyến trước toán quân cảnh, gồm cả sĩ quan và hạ sĩ quan, binh sĩ chừng trên 20 người. Ông nóng nảy và hung hăng nói:



- "Đ. Mẹ, thằng Toàn nó tham nhũng. Nó vừa bắn chết ông Hiếu rồi. Mình phải lên ngay Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn bắt thằng Toàn mới được!"



Tôi nhìn quan sát đám sĩ quan và binh sĩ quân cảnh thì thấy ai cũng lộ vẻ lo ngại và lưỡng lự, nhưng tất cả đều sẵn sàng theo trung tá Quyến, lên bộ tư lệnh quân đoàn 3 làm nhiệm vụ. Dọc đường một sĩ quan QC kề tai tôi nói nhỏ:



- "Thằng cha Toàn tham nhũng, nhưng nó là bộ hạ thân tín của ông tổng thống. Nó lại đương quyền tư lệnh quân đoàn, lên đó sớ rớ nó bắn bỏ mẹ...Nó có quyền bắn bỏ tại chỗ rồi báo cáo sau mà!"



Khi đoàn quân cảnh của trung tá Quyến lên đến nơi, tôi thấy tại phạm trường đã có mặt phái đoàn điều tra của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát. Nên nhớ thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và chỉ huy trưởng Trung Ương Tình Báo vốn là dân Mỹ Tho, có bà con với đệ nhất Nguyễn Thị Kim Anh, vợ của TT Nguyễn Văn Thiệu. Ngoài ra, tôi còn thấy có mặt phái đoàn điều tra của An Ninh Quân Đội, dưới quyền đại tá Khuyến, chánh sở 3 ANQĐ, và trung tá Chi, phó chánh sở 3, kiêm An Ninh QĐ vùng 3. Khi đó tướng Toàn đã đi đâu mất dạng.



Theo lời tường thuật sơ khởi của viên thượng sĩ cận vệ của tướng Hiếu, trước uỷ ban điều tra hỗn hợp, thì nội vụ diễn tiến như sau: Hôm ấy, viên thượng sĩ cận vệ thấy đã qua 4 giờ rưỡi rồi, mà tướng Hiếu vẫn chưa ra về, anh ta mới mở cửa, bước vào để nhắc chừng. Nhưng hắn ta vô cùng kinh ngạc, khi thấy tướng Hiếu đã chết tự bao giờ. Xác của ông ta đẫm máu còn ngồi trên ghế, nhưng bật ngửa ra sau, đầu nghẹo về một bên thành ghế dựa sát vách. Đường đạn đạo đã xuyên thủng ngực tướng Hiếu, khiến ông ta chết tức khắc.



Được biết viên thượng sĩ này là người cận vệ tin cậy nhất của tướng Hiếu, đã theo ông Hiếu từ hồi ông còn làm tư lệnh Sư Đoàn 5, đóng ở Bình Dương, Phú Lợi, và cả về sau, khi Sư Đoàn 5 đóng ở Lai Khê, trong doanh trại cũ của SĐ I Bộ Binh Mỹ. Lúc bấy giờ viên hạ sĩ quan hầu cận ấy là trung sĩ. Anh ta đã được tướng Hiếu tặng cho một cái đồng hồ làm kỷ niệm.



Cách bài trí trong văn phòng làm việc của ông tướng tư lệnh quân đoàn 3, thì tôi không lạ gì. Vì từ thời trung tướng Lê Nguyên Khang giữ chức tư lệnh quân đoàn cho đến thời trung tướng Đỗ Cao Trí, tôi đã có nhiều dịp vào trong đó chơi và chuyện trò với mấy ổng. Nhưng tôi chưa bao giờ được dịp vào phòng làm việc của cố vấn Mỹ của quân đoàn, nên lần này có hơi tò mò. Tôi thấy xung quanh vách tường đều có bọc da, sau một lớp "isolation", dùng để giữ điều hòa không khí, đồng thời ngăn tiếng động. Phòng làm việc của 2 ông tướng xung khắc nhau - về cả thể chất, nhân dạng, đến tánh nết và tư cách - hoàn toàn thông luôn, và chỉ ngăn ra bằng một cánh cửa nhỏ. Giả thiết, nếu 2 ông tướng ấy có bắn lộn nhau bằng súng M-16, ở bên ngoài cũng không ai biết được, chứ đừng nói gì đến chuyện thanh toán có dự mưu.



Về phương diện dư luận, tôi nghe đồn đãi, cho rằng có lẽ tướng Hiếu đã bị súng cướp cò khi lau chùi súng. Vì ông Hiếu có tật hay chùi súng. Qua sự quen biết, tôi thấy ông Hiếu rất thích khẩu súng lục kiểu Rouleau Mỹ, 5 viên, nòng ngắn, P.38, hiệu Smith & Wesson mà ông luôn đeo bên hông. Loại súng này rất đơn giản, không mấy khi cướp cò kiểu đó. Vì khi chùi súng ai cũng phải mở ổ đạn ra rồi mới chùi được. Huống chi ông Hiếu là tướng trong quân đội, dĩ nhiên đã quá quen với các loại súng đạn. Đây là loại súng các phi công phản lực cơ thường dùng. Nó không giống như loại Colt 9, hoặc Colt 12 của quân đội, dễ bị cướp cò.



Một mặt khác, cũng có dư luận cho rằng Quế Tướng Công Nguyễn Văn Toàn vốn là tay đã tạo thành tích lẫy lừng trên phương diện tham nhũng, thối nát. Nay tướng Toàn ngồi chung với tướng Hiếu, đặc trách bài trừ tham nhũng, chẳng khác nào mặt trời mặt trăng, hay chó với mèo, làm sao tránh khỏi thảm họa xảy ra.




Đặng Văn Nhâm
Bí Mật Hậu Trường Chính Trị Miền Nam 1954-1975 - Quyển I (1999)




(Sau đây là lá thư của Đại tá Nguyễn Khuyến, Chỉ huy trưởng An Ninh Quân Đội QĐ3)



San Jose, ngày 18 tháng 7 năm 1998



Thân gởi anh Tín,



Tôi vừa nhận được thơ anh ngày hôm qua hỏi về cái chết của cố Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu, nguyên Tư lịnh phó Quân Đoàn 3/Quân khu 3. Chuyện xảy ra có lẽ cũng đến một phần tư thế kỷ, nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ diễn tiến như sau:



Lúc đó Thiếu tướng Hiếu đang giữ chức Tư lịnh phó Quân Đoàn 3. Ông còn kiêm chức chủ tích Ủy Ban Bài trừ tham nhũng của Quân Đoàn. Tôi còn nhớ sáng hôm đó tôi có buổi họp với Tướng Hiếu lúc 10 giờ ở văn phòng ông. Buổi họp kéo dài đến gần 12 giờ thì chấm dứt. Tôi trở về văn phòng của tôi cách Bộ Tư lịnh không xa, chỉ độ 10 phút lái xe. Tôi sửa soạn đi ăn trưa với một vài người bạn ở Sài gòn lên thăm thì được Phòng An ninh Quân đoàn điện thoại báo cho biết Tướng Hiếu đã dùng súng lục tự vận tại văn phòng. Tôi rất bàng hoàng và kinh ngạc vì đó là chuyện khó tin. Tôi mới chào từ biệt ổng cách đây chừng 15 phút sau buổi họp. Tôi thấy ổng vẫn vui vẻ như thường lệ, không có triệu chứng gì của một kẻ chán đời. Làm sao có chuyện tự vận?



Tôi bèn xin lỗi mấy người bạn Sài gòn và vội lên xe Jeep phóng trở qua Bộ Tư lịnh Quân đoàn. Khi tôi đến thì xe Hồng thập tự đã chở xác Tướng Hiếu vào bịnh viện. Tôi không biết làm gì hơn là vào gặp Đại tá Phan huy Lương lúc ấy là Tham mưu trưởng của Quân Đoàn.



Theo lời kể của Đại tá Lương thì vào khoảng 12 giờ mọi người ở gần văn phòng của Tướng Hiếu có nghe một tiếng súng lục nổ ở trong phòng của Tướng Hiếu. Đại tá Lương chạy qua thì thấy Tướng Hiếu nằm bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một giòng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này còn trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ.



Theo hiện trạng thì viên đạn này đã kết liễu đời Tướng Hiếu ngay tức khắc. Nói cách khác là Tướng Hiếu đã chết tốt, không kịp đau đớn. Trong tay Tướng Hiếu còn cầm một khẩu súng lục. Trong phòng Tướng Hiếu lúc đó không có một ai.



Việc đầu tiên là Đại tá Lương quay điện thoại mời Bác sĩ của Quân Đoàn tới gấp xem còn kịp cứu ổng không và tiếp đó là gọi báo cho Quân cảnh Tư pháp của Quân Đoàn. Đại tá Lương còn cẩn thận không cho một ai được bước vào văn phòng của Tướng Hiếu trước khi nhân viên Quân cảnh đến lập biên bản và mở cuộc điều tra.



Khi tôi bước vào phòng Tướng Hiếu thì thấy mấy nhân viên Quân cảnh đang vẽ họa đồ hiện trường. Một nhân viên lấy thang leo lên trần nhà để tìm viên đạn súng lục văng lên đó. Máu và óc văng trên tường! Không có dấu hiệu gì có sự xô xát.



Vì việc này do Quân cảnh tư pháp phụ trách nên tôi chỉ nghe kể lại kết quả điều tra mà thôi. Theo lời Trung tá Quyến, Chỉ huy trưởng Quân cảnh Quân đoàn 3 thì đây là một tai nạn súng lục cướp cò. Không có bằng chứng nào về giả thuyết Tướng Hiếu bị ám sát hay tự sát.



Tôi cũng đồng ý về nhận xét này của Quân cảnh vì theo tin tức chúng tôi nhận được thì biết Tướng Hiếu rất thích súng lục. Ông đã từng giựt giải vô địch thiện xạ súng lục. Trước đó ít lâu, ông được ai đó biếu cho một khẩu súng lục, loại hiếm có. Ông rất quý khẩu súng này nhưng phiền một cái là nó hay bị cướp cò. Cái khóa an toàn bị hỏng sao đó nên dễ bị cướp cò. Ông đã giao cho Bộ Chỉ huy 3 tiếp vận sửa đi sửa lại mấy lần rồi. Đây là tin tức tôi nghe được từ Đại tá Khang, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy 3 Tiếp vận kể lại.



Ngoài ra, vài tuần sau, tôi cũng được Cục A.N.Q.Đ. gởi lên mấy bài báo nói có dư luận đồn rằng Tướng Hiếu bị bọn tham nhũng thanh toán vì sợ ông phanh phui những việc làm mờ ám của họ. Có tờ báo còn nói xa gần rằng việc này do Tướng Toàn chủ mưu. Tướng Toàn lúc ấy đang là Tư lịnh Quân Đoàn 3, vừa lên thay Tướng Dư quốc Đống xin từ chức vì lý do sức khỏe.



Theo kết quả điều tra của tôi thì đây chỉ là một nguồn dư luận vô căn cứ, không dựa trên vật chứng hay nhân chứng nào khả dĩ đi đến kết luận rằng Tướng Hiếu đã bị bọn tham nhũng thanh toán.



Dạo ấy những lời đồn về loại ấy thì quá nhiều. Thí dụ như trước đó ít lâu có tin đồn Tướng Đỗ cao Trí bị Mỹ đặt chất nổ trên trực thăng để thủ tiêu ổng. Đây là một lời đồn vô căn cứ nhưng lại có lắm người tin! Theo kết quả điều tra về vụ này thì đây chỉ là một tai nạn kỹ thuật. Mỹ nó giết ổng để làm gì! Những tướng tài như ổng, Mỹ nó rất trọng dụng, nể nang.



Tướng Hiếu là một Tướng giỏi và trong sạch. Mọi người từ trên xuống dưới đều quý mến ổng. Ông chết đi là một sự mất mát lớn cho Quân đội, nhất là lúc này Quân đội đang cần những tướng lãnh tài đức để cứu nước và giữ nước.



Tôi được hân hạnh phục vụ dưới quyền Tướng Hiếu một thời gian. Ông quả thật là một vị tướng giỏi và nhất là trong sạch. Hình ảnh một ông tướng trẻ tuổi, đẹp trai nhưng lại ăn mặc xuề xòa, tánh tình điềm đạm và bình dân vẫn còn ghi mãi trong ký ức của tôi.



Trên đây là những gì tôi biết về Tướng Hiếu. Có thể tôi đã làm anh thất vọng vì những tin tức của tôi không phù hợp với những tin tức mà anh đã được cung cấp hay mong đợi. Nhưng tôi xin đoan chắc với anh một điều là những gì tôi viết ra đây là đúng với sự hiểu biết của tôi về cái chết của Tướng Hiếu. Tôi không có lợi gì để phải nói dối hay che dấu cho một ai.



Địa chỉ và điện thoại của tôi có ghi ngoài bì thơ. Nếu anh có điều gì còn thắc mắc hay nghi vấn mà anh nghĩ rằng tôi có thể giúp anh làm sáng tỏ thì xin anh cứ gọi điện thoại hay viết thơ cho tôi. Tôi đã về hưu và nay tương đối cũng rảnh rang.



Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?



Dàn Cảnh Sau Cái Chết Tướng Hiếu




Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III bị thảm sát ngay tại văn phòng làm việc. Chỉ có sự kiện này là chắc chắn. Sau giây phút đó, ngoài kẻ chủ mưu ám hại và kẻ sát nhân, không ai biết chắc đâu là sự thật vì quân gian manh lập tức toa rập dàn cảnh nhằm đánh lạc hướng dư luận.



Duy sự kiện có hai tin được phao đồn ra liên tiếp ngay sau đó, và cả hai tin đó đều phát xuất từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III- một là Tướng Hiếu tự vận, hai là Tướng Hiếu tử nạn vì bị súng lẩy cò - cho ta thấy có gì không ổn. Ngay cả những chi tiết đưa ra bởi những người được coi là có mặt ngay tại chỗ và ngay sau đó, cũng trái ngược, mâu thuẫn hay không phù hợp với sự kiện. Tôi xin đan cử một ví dụ: Đại Tá Phan Huy Lương, Tham Mưu Phó Hành Quân Quân Đoàn III, người mà Tướng Hiếu đang chờ đi ăn cơm chung tại câu lạc bộ sĩ quan, và người đầu tiên chạy vào văn phòng Tướng Hiếu sau khi nghe tiếng súng lục nổ, kể cho mọi người khác nghe là viên đạn xuyên qua trán lên đỉnh đầu, khiến cho óc văng tung tóe lên tường. Điều này không ăn khớp với sự kiện chính tôi quan sát được khi tới viếng thi hài anh tôi. Tôi chỉ thấy viên đạn để lại một dấu chấm đen nhỏ xíu ở cằm bên trái, cách góc mép môi bên trái 1 cm, khoảng 45 độ hướng về phía dưới. Viên đạn cũng để lại một lỗ đen nhỏ xíu trên đỉnh đầu bên phải (chứ không phải đàng sau ót, như viên bác sĩ khám nghiệm trình lại với một thân nhân; ông bác sĩ này còn tỏ vẻ nhân hậu an ủi rằng nhờ vậy mà Tướng Hiếu "chết tốt không biết đau đớn!"). Với cái lỗ nhỏ xíu trên đỉnh đầu, phần còn lại của đầu sọ còn y nguyên thì làm sao có thể nói là "óc văng tung tóe lên tường" được. Quyền lực nào ép buộc Đại Tá Lương phải nói sai sư thật như vậy ?



Hơn nữa, Tướng Hiếu bị thảm sát vào buổi trưa, khoảng từ 12g30 đến 1g00, đang khi chuẩn bị đi ăn cơm trưa, theo như lời xác nhận của Đại Tá Khuyến, lời xác quyết của Đại Tá Nguyễn Văn Y ("Thằng Toàn giết, tội nghiệp Tướng Hiếu: người ta chết no, đàng này Tướng Hiếu lại phải chết đói, không kịp ăn cơm trưa")- Đại Tá Y có thời là Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo - và của Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ (người được Đại Tá Lương gọi điện thoại thông báo tin động trời ngay sau khi xảy ra sự việc vào buổi trưa đang khi Chuẩn Tướng cũng đang chuẩn bị đi ăn cơm trưa trễ hơn thường lệ vì bận việc). Thế mà gia đình Tướng Hiếu chỉ được thông báo tin buồn sau 7 giờ chiều và Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá cũng chỉ hay tin sau khi họp với Tướng Toàn vào buổi chiều trên đường vội vã trở về đơn vị khi đi ngang qua văn phòng Tướng Hiếu; đồng thời giấy chứng nhận khai tử ghi là chết "lúc 7 giờ chiều."



Đúng là có một cuộc dàn cảnh để che đậy hành động mờ ám, không thể chối cãi được. Mãi cho đến ngày hôm nay, tháng 8 năm 1998, tôi mới được soi sáng khám phá ra sự mâu thuẫn về thời gian này. Chẳng vậy mà trong bài "Anh Tôi, Tướng Hiếu" viết xong trước tháng 8/1998, tôi kể lại gia đình được thông báo anh tôi chết khi chuẩn bị đi ăn cơm chiều, thành thử chỉ có bà chị dâu tôi lên Biên Hòa vào chiều tối hôm đó, còn các thân nhân khác chờ tới ngày hôm sau mới lên viếng xác.



Vậy thì, dựa vào những dữ kiện lượm lặt được khi nghe hay đọc về cái chết của Tướng Hiếu, từ hơn 20 năm nay, nhất là dựa vào những dữ kiện mới thâu thập được từ một tháng nay, tôi xin cấu trúc lại cách đại cương diễn trình của biến cố ngày 8/4/1975 tại bản doanh Quân Đoàn III. Tuy là một diễn trình giả tưởng, nhưng tôi nghĩ nó bám sát với diễn biến thật sự xảy ra vào ngày đó, vì tôi xác tín nó được phác họa ra dưới sự hướng dẫn linh ứng của vong hồn anh tôi.



* Sáng sớm ngày 8/4/1975, Tướng Hiếu đáp trực thăng tới Gò Dầu Hạ gặp Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Khoảng 9 giờ 30, Tướng Hiếu trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.



* Đúng 10 giờ sáng, Tướng Hiếu, với tư cách chủ tịch Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng Quân Đoàn III, chủ tọa buổi họp hàng tháng với các thành viên, trong số đó có Đại Tá Nguyễn Khuyến, Chỉ Huy Trưởng An Ninh Quân Đội Quân Đoàn III và Đại Tá Lưu Yểm, Tỉnh Trướng Biên Hòa, tại văn phòng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn. Buổi họp kéo dài đến 12 giờ trưa. Sau đó, Đại Tá Khuyến trở về trụ sở Anh Ninh Quân Đội cách Bộ Tư Lệnh 10 phút.



* Sau buổi họp, Tướng Hiếu qua văn phòng Đại Tá Lương rủ đi ăn cơm như thường lệ. Khi thấy Đại Tá Lương còn đang bận việc, Tướng Hiếu không chờ tại chỗ mà nói là để trở lại văn phòng mình chờ cùng đi.



* Chập một lúc sau, thình lình Đại Tá Lương nghe có tiếng súng lục nổ từ văn phòng Tướng Hiếu vọng lại. Ông chạy vội qua thì thấy Tướng Hiếu bị trúng đạn tại bàn giấy. Ông liền gọi điện thoại cho Bác Sĩ QĐ qua cấp cứu, gọi về gia đình ở Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, nhưng không có ai bốc điện thoại, rồi gọi cho Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ ở Bộ Tổng Tham Mưu.



* Đang khi Đại Tá Lương ráo riết dùng điện thoại thì quân gian ập vào văn phòng bắt Đại Tá Lương bỏ ống điện thoại xuống và khuynh đảo tinh thần bắt ông, từ giây phút này, làm theo mệnh lệnh của chúng.



* Bác sĩ khám nghiệm rồi, xác nhận viên đạn khiến Tướng Hiếu chết tức khắc không đau đớn gì. Xe cứu thương chở Tướng Hiếu qua bệnh viện QĐ. Quân lính quanh Bộ Tư Lệnh hỏi han thì được cho biết là Tướng Hiếu bị thương không biết nguyên do.



Tướng Hiếu chết tức khắc, sao lại di chuyển thi hài qua bên bệnh viện trước khi gọi Quân Cảnh Tư Pháp đến lập biên bản. Chẳng phải quân gian manh cố ý phi tang sao ?



* Đại Tá Lương gọi Quân Cảnh Tư Pháp của QĐ III đến lập biên bản.



* Sau khi bàn thảo, tin đồn thứ nhất được tung ra giới hạn cho một số cơ quan mà thôi, tỷ như Phòng An Ninh Quân Đội Quân Đoàn III, trong khi đại quần chúng vẫn chưa được thông báo gì : Tướng Hiếu tự vận.



* Phòng An Ninh Quân Đội QĐ III báo tin đó cho Đại Tá Nguyễn Khuyến, lúc đó đang chuẩn bị đi ăn cơm trưa với mấy người bạn ở Sài-Gòn lên chơi. Đại Tá Nguyễn Khuyến liền kiếu từ bạn bè phóng xe đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Ông chỉ được phép vào gặp Đại Tá Lương. Đại Tá Lương, có sự hiện điện của Tướng Toàn, tả lại cho Đại Tá Khuyến: "Tướng Hiếu nằm bất động tại ghế bành bàn giấy. Một giòng máu tươi chảy chan hòa xuống mặt và ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này còn trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ".



Làm sao mà viên đạn lại có thể chọc thủng trán - chắc là phải đâm ngang vào trán (tự vận mà!) - rồi tự lái vòng lên đỉnh đầu để bay lên trần nhà! Thế cho nên một giòng máu mới chảy chan hòa xuống mặt và ngực. Khốn nỗi, trên thực tế viên đạn xuyên vào cằm bên trái rồi chui ra đàng sau đỉnh đầu thì làm sao có được hiện tượng giòng máu chảy ngược đời như vậy được!



* Đại Tá Khuyến, Đại Tá Lương và Tướng Toàn cùng nhau đi qua văn phòng Tướng Hiếu. Các nhân viên Quân Cảnh đang vẽ họa đồ hiện trường. Một nhân viên lấy thang leo lên trần nhà để tìm viên đạn súng lục văng lên đó; nhưng không tìm thấy viên đạn. Một chập tự nhiên Tướng Toàn reo lên:"Viên đạn đây rồi! Viên đạn đây nè!"



Các nhân viên chuyên môn điều tra án mạng vạch lá tìm sâu không tìm thấy viên đạn, sao Tướng Toàn lại tài tình thế! Bộ ông cũng sốt sắng đến độ không sợ lính chê cười leo thang lên trần nhà lục lọi viên đạn ? Hay là ông tìm thấy viên đạn ở vách tường vì viên đạn, sau khi văng lên trần nhà bèn làm một đường lả lướt bay vòng trở xuống ? Hơn nữa hiện trường đã được niêm phong, sao lại có quá nhiều người không có phận sự, kể cả Tướng đi nữa, qua lại như đi chợ vậy ?



* Có người trong quân gian manh đưa ra ý kiến: cho là Tướng Hiếu tự vận không ổn vì những yếu tố sau đây: 1) không chưng được giấy tờ trăn trối vợ con hay ba quân Tướng Hiếu để lại; 2) Tướng Hiếu ngoan đạo công giáo không thể tự tử vì giáo điều công giáo nghiêm cấm giáo dân tự hủy tính mạng mình; 3) Ai nấy đều thấy sáng nay Tướng Hiếu vui vẻ không có dấu chỉ gì chán đời. Thế là tin thứ hai được tung ra: Tướng Hiếu vốn thích chơi súng lục, táy máy sao đó khiến súng tự động lẩy cò.



Tướng Hiếu, từng đoạt giải vô địch thiện xạ súng lục, lại vụng về đến như vậy ư ? Sắp sửa đi ăn cơm rồi mà còn lôi súng ra chơi hay để chùi làm gì cơ chứ ? Tướng Hiếu thuận tay mặt, tại sao viên đạn lại xuyên qua cằm bên trái ? Bộ lẩy cò bằng ngón cái của tay trái sao ? Súng lục bán tự động chiến trường phải dùng tới một viên đạn cỡ lớn với sức công phá mạnh mẽ, chứ làm sao lại để một chấm đen nhỏ xíu trên cằm và trên đỉnh đầu ? Viên đạn Tướng Toàn tìm thấy và trao cho quân cảnh có phù hợp với cỡ nòng khẩu súng lục Tướng Hiếu nắm trong tay khi chết không ? (Chắc là phải phù hợp rồi!) Nhưng kích thước viên đạn có ăn khớp với dấu để lại trên nạn nhân không? Tất cả những câu hỏi này, tôi tin chắc Quân Cảnh Tư Pháp không cần phải nhọc công nghiên cứu cũng có thể đi đến kết luận dễ như trở bàn tay.



Chính vì những rắc rối tiểu tiết liên quan đến súng và đạn đại loại như vậy khiến cho bọn gian manh không dám chưng khẩu súng lục oái oăm đó ra để làm tang chứng, mà cũng không xác định được là loại súng nào, chỉ nói vu vơ là súng lục mà thôi!



Hơn nữa, viên Bác Sĩ khám nghiệm phân tách cho một thân nhân Tướng Hiếu như sau: "viên đạn khi đi vào cằm, gặp xương quai hàm quá cứng không đi thẳng lên đỉnh đầu được, đã phải rẽ xuống đâm ra sau ót, khiến Tướng Hiếu chết tốt, không biết đau đớn".



Sao lại lạ thế nhỉ: viên đạn, lúc thì đâm vào trán, lúc thì đâm vào cằm, lúc thì lên đỉnh đầu, lúc thì ra sau ót, lúc thì còn trớn bay lên trần nhà, lúc thì đuối sức quẹo ngang vào vách tường ! Mà dù lên đỉnh đầu - như Đại Tá Lương kể, hay ra sau ót - như ông Bác Sĩ kể - thì kẻ bạc phước cũng đều được ban phước "chết tốt" ! Đòn tâm lý được chưởng ra đánh thẳng vào tim người nghe, khiến nội lực của chính đương sự tốc lên óc làm lu mờ lý trí, không còn lòng trí nào thắc mắc gì nữa cả! Bọn gian manh cao tay ấn thật đấy chứ !



* Tướng Toàn họp thường lệ với Bộ Tham Mưu, như thể không có gì quan trọng xảy ra trong doanh trại đáng đề cập tới (Tư Lệnh Phó bị thương hay đã chết) trước khi khai mạc buổi họp, trong khi họp và khi bế mạc buổi họp (vì Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn 25 tham dự buổi họp đó không hay biết gì cả).



* Trong khi Tướng Toàn họp thì tin Tướng Hiếu bị thảm hại vì bị súng cướp cò đang khi chuẩn bị đi ăn cơm chiều được chính thức quảng bá rộng rãi, sau 7 giờ chiều.



Thế là Tướng Toàn có một "alibi", chứng cớ tỏ rằng khi việc xảy ra thì ông ta có mặt ở nơi khác, với nhiều nhân chứng xác nhận điều đó. Trong khi đó, nếu là giờ cơm trưa thì Tướng Toàn đâu có bận việc gì, hiện diện ở đâu mà chả được!



* Khoảng sau 7 giờ chiều, khi tan họp ra về đi ngang qua văn phòng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, Chuẩn Tướng Bá nghe lính tụ họp xôn xao bàn tán Tướng Hiếu tử nạn trong văn phòng. Vì vội ra máy bay trở về đơn vị gấp nên Tướng Bá không nán lại nghe ngóng tin tức.



* Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn cho người gọi điện thoại về gia đình thông báo Tướng Hiếu bị thương đang khi chuẩn bị đi ăn chơm chiều và hẹn sẽ gọi lại sau khi có thêm tin tức. Một chập sau điện thoại tư thất Tướng Hiếu trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa lại reo lên. Lần này gia đình đón nhận tin buồn hơn: Tướng Hiếu đã chết.



Tại sao Tướng Hiếu chết đang khi chuẩn bị đi ăn cơm trưa, theo như lời của Đại Tá Khuyến, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn lại nói với gia đình là chết đang khi chuẩn bị ăn cơm chiều? Không có lẽ Đại Tá Khuyến nhớ lộn giờ giấc ? Ngoài lý do "alibi" ngụy tạo, còn cần thời gian sắp xếp dàn cảnh cho chu đáo.



* Trung Tá Quyến, Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh Quân Đoàn III được bọn gian manh chỉ định tiếp quả phụ Tướng Hiếu đang trên đường tới viếng thi hài. Họ dúi vào tay phải ông một "củ cà-rốt"; tay trái ông, một "cây gậy". Nếu ông đạo diễn hay khiến cho gia đình thủ phận không thắc mắc nhiều quá, ông sẽ được lên lon đại tá; bằng không thì không những bị mất chức mà còn nhiều tai họa khác xảy đến cho ông và gia đình ông.



Thế là từ giờ phút đó trở đi, có ai hỏi tới, Trung Tá Quyến buộc phải chà đạp lên lương tâm mình trả lời: kết quả chính thức của ban điều tra Quân Cảnh Tư Pháp là "tai nạn vì súng cướp cò". Nghe vậy ai chẳng phải xếp tập hồ sơ lại: uy quyền chuyên môn của Quân Cảnh Tư Pháp đã phán quyết mà lị!
Bình thường, kết quả điều tra án mạng cần tối thiểu hai, ba tuần lễ mới được chính thức công bố. Sao trong trường hợp này lại được Trung Tá Quyến xác nhận mau mắn như vậy?
Trên thực tế, vì tình hình đất nước sôi động (mặt trận Xuân Lộc đã bùng nổ, Việt Cộng đã bắt đầu đánh phá ngay trong tỉnh Biên Hòa), bọn gian manh có cớ đình trệ tiến trình điều tra, đến ngày mất nưóc 29 tháng 4, kết quả điều tra vẫn chưa hoàn tất.



* Tất cả những ai hiện diện quanh văn phòng Tướng Hiếu khi án mạng xảy ra, có nghe, có thấy ít nhiều đều được quân gian manh ban bố cho "củ cà-rốt" và "cây gậy", tương tợ như Trung Tá Quyến.



* Bọn gian manh bí mật đem xác Tướng Hiếu, sau khi đã được tắm rửa sạch sẽ, trở lại văn phòng đặt ngồi vào ghế bành bàn giấy.



* Quả phụ Tướng Hiếu được Trung Tá Quyến dẫn đưa vào văn phòng chứng kiến cái chết của chồng mình.



Tối đó trở về Sài-Gòn, chị dâu tôi thưa với thày tôi:"Tụi nó giết chồng con ở đâu rồi khiêng xác đặt vào văn phòng: con không thấy có máu me gì cả, chỉ có một vệt máu đỏ khô đọng ở cằm trái chỗ vết đạn đen nhỏ xíu"



* Hôm sau, ông cụ và anh em tôi tới Bộ Tư Lệnh được ông đạo diễn bất đắc dĩ Quyến, có hai tên sĩ quan từ Phủ Tổng Thống gài lại luôn kèm sát bên, hướng dẫn đánh một vòng phim trường: nơi quàn thi thể Tướng Hiếu, văn phòng Tướng Hiếu, "trailer" Tướng Hiếu. Nhà đạo diễn ta luôn cố né tránh đề cập đến đề tài chính của cuốn phim, thay vào đó ông toàn nói huyên thuyên chuyện đẩu đâu, tỷ như ông đã từng tham gia đảo chính cạnh bên Tướng Thi làm sao!



* Đang khi gia đình lưu lại tại phòng quàn xác Tướng Hiếu, một phái đoàn điều tra từ Tổng Nha Cảnh Sát được biệt phái tới điều tra. Một viên Thiếu Tá Cảnh Sát mở nắp một hộp sắt chứa đồ nghề, lấy ra một lọ thuốc bột đen, lấy một cây cọ lông phết phết bột đen lên hai bàn tay Tướng Hiếu. Mục đích là để xác định súng lục nổ trên tay nạn nhân hay từ tay kẻ sát nhân, tùy theo có hay không có vết thuốc súng trên bàn tay. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ, viên sĩ quan cảnh sát tới chào hỏi thân phụ Tướng Hiếu, cho cụ biết mình là cựu học viên của cụ khi cụ là Giám Đốc Trường Huấn Luyện Cảnh Sát Đô Thành ở Đa-Kao, và hứa sẽ cho cụ biết kết quả sớm.



Bọn quân gian manh muốn cho dư luận tin đây là một vụ "dân sự" không dính dáng đến "quân sự" nên bày trò đem cơ quan dân sự đến điều tra!




Tới giờ phút này, Tướng Hiếu đã bị thảm sát hơn 20 năm, sự thật quanh cái chết đó vẫn không được làm sáng tỏ vì những ai biết chuyện đều im hơi lặng tiếng. Tôi mong rằng những người này (Đại Tá Lương, Trung Tá Quyến, Thiếu Tá Cảnh Sát điều tra viên, Bác Sĩ QĐ vv...) mạnh dạn lên tiếng cho toàn thể gia đình Quân Đội biết đâu là sự thật, chẳng phải để đi trả thù cá nhân nào, nhưng chỉ để giải nỗi oan ức cho Tướng Hiếu - không được để tiếng thơm lại là chết vì một chính nghĩa quốc gia cao cả, thay vào đó bị mang tiếng xấu là chết cách lảng xẹc vì vụng về bất cẩn súng cầm giỡn trong tay cướp cò - và nỗi niềm u uất của gia đình Tướng Hiếu cũng như của toàn thể gia đình Quân Đội.



Nguyễn Văn Tín
(viết xong ngày 25/8/1998)
Cập nhật ngày 27.10.1999



Lá Thư Thứ 2 Xác Nhận Sự Kiện



(Lá thư này do Đại Tá Tạ Thanh Long gửi xác nhận Thiếu Tướng Hiếu bị thảm sát vào buổi chiều, chứ không phải buổi trưa như Lá Thư Thứ 1. Tôi xin đăng lá thư thứ hai này cách vô tư để rộng đường dư luận.)



Ngày 4 tháng 1 năm 1999.



Kính ông Nguyễn Văn Tín,



Qua điện đàm lúc 8 giờ sáng ngày 2/1/1999, tôi xin xác nhận Tướng Hiếu đã chết sau giờ họp tổng kết hành quân mỗi buổi chiều (khoảng sau 6.30) thay vì tin đồn đến với ông là Tướng Hiếu chết vào trưa và báo cáo ghi nhận vào chiều. Sự kiện như sau:



Tôi, với cương vị Trưởng đoàn quân sự VNCH Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, có bổn phận phải đến tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn họp vào lúc 5 giờ mỗi buổi chiều để ghi nhận và tố cáo vi phạm của Việt Cộng đến Ủy Ban Quốc Tế về Hiệp Định Paris.



Chiều hôm đó, tôi đến họp thì Tướng Hiếu chủ tọa, tôi được biết Tướng Toàn Tư Lệnh đang bận tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương đóng tại Gò Dầu Hạ, Tây Ninh. Lúc vào họp, Tướng Hiếu ngồi chính giữa. Bên trái: Tướng Đào Duy Ân, TMT và Đại Tá Phan Huy Lương TMP/HQ. Bên phải: ông Peters Tổng Lãnh Sự Biên Hoà và Tôi. Các hàng ghế sau là Sĩ Quan các phần hành Bộ Tham Mưu.



Sau giờ họp, Tướng Hiếu, Tướng Ân và tôi ra phòng khách uống trà. Tướng Hiếu khoe với tôi trước mặt Tướng Ân: "Collection Pistolet của moa đã lên đến con số 37 rồi toa, moa vừa có một cây P38, đã đưa cho Quân Cụ xoáy lại rayures, để moa lấy cho toa xem. Tướng Hiếu vừa nói đến đây thì Đại Tá Lương mời Tướng Hiếu xuống dùng cơm. Tướng Ân và Tôi đứng dậy, xin phép ra về.



Xe tôi chạy đến Hotel de la Piscine Biên Hoà (trụ sở Ủy Ban Quốc Tế), tôi ghé vào 20 phút để nói qua các vi phạm của Việt Cộng trong ngày với Đại Tá Thành viên chủ vị, sau đó tôi ra về. Vừa đến văn phòng (chưa kịp xuống xe), Trung Tá Nguyễn Văn Thắng, sĩ quan trực thuộc Đoàn Liên Hiệp Quân Sự của tôi báo cáo: "Đại Tá Lương cần gặp Đại Tá gấp, Tướng Hiếu đã chết."



Tôi quay lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn thì thấy Quân Cảnh vây chặt văn phòng Bộ Tư Lệnh, tôi hỏi ngay Đại Tá Lương: "Chuyện gì xảy ra?" Đại Tá Lương trả lời: "Sau khi dùng cơm, Tướng Hiếu trở lại văn phòng, sau đó vài phút có tiếng súng nổ, lính gác vào xem, nhìn thấy Tướng Hiếu đang gục trên bàn với máu me, nên báo động lên. Tôi mời Đại Tá qua chứng để cơ quan hữu trách điều tra nguyên cớ, vì Đại Tá và Thiếu Tướng là bạn cùng khóa, thân nhứt tại Quân Đoàn."



Lời Bàn



1. Xin ghi nhận hai lời xác nhận khác nhau về thời điểm giữa Đại Tá Nguyễn Khuyến và Đại Tá Tạ Thanh Long: khoảng 12giờ30 trưa, và khoảng 6giờ30 chiều. Ai nhớ đúng, ai nhớ sai? Chắc cần kiểm chứng cùng một số nhân chứng khác. Đại Tá Khuyến họp Ủy Ban Chống Tham Nhũng hàng tháng; Đại Tá Long họp Ủy Ban Vi Phạm Hiệp Định Paris hàng ngày đúng 5 giờ chiều; ai dễ, ai khó nhớ lộn hơn?



2. Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá xác nhận là họp với Tướng Toàn vào buổi chiều ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, chứ không phải ở Bộ Chỉ Huy Tiền Phương đặt ở Gò Dầu Hạ như Đại Tá Long nói. Tướng Bá nói là sau khi họp, khi đi ngang qua văn phòng Tướng Hiếu thì nghe lính tráng lao xao nói Tướng Hiếu mới bị bắn trong văn phòng.



3. Trước nay, Tướng Hiếu chết trước khi đi ăn cơm trưa hay cơm chiều. Trong thư này lại nói Tướng Hiếu chết sau khi ăn cơm chiều.



4. Trước nay, Tướng Hiếu rủ Đại Tá Lương đi ăn. Trong thư này lại nói Đại Tá Lương mời Tướng Hiếu đi ăn.



5. Trước nay, khẩu súng lục được Tướng Hiếu gửi qua Quân Cụ để sửa bộ phận an toàn. Trong thư này lại nói để chỉnh các đường rãnh (rayures) của nòng khẩu súng.



6. Trước nay, Đại Tá Lương là người chạy tới đầu tiên khi có tiếng nổ vọng ra từ văn phòng Tướng Hiếu. Trong thư này lại nói là lính canh chạy vào trước và báo động lên.



7. Ngoài ra tôi biết thêm một vài chi tiết sau đây:



a. Trong ngày 8/4/1974, một nhóm lính bận đồ trận treillis do Chuẩn Tướng Lê Trung Tường cầm đầu tới Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đuổi lính gác quân cảnh đi hết. Tướng Tường vừa mới được Tướng Toàn chỉ định vào chức Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 3. Tháng trước, Tướng Tường đã hèn nhát mếu máo từ nhiệm chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 trong vụ Cộng Quân tấn chiếm Ban Mê Thuột. Khi Tướng Hiếu bị thảm sát không có bóng dáng quân cảnh canh gác gần văn phòng.



b. Trung Tá Vĩnh Hồ, sĩ quan tình báo phòng 2 Quân Đoàn 2 của Tướng Toàn trước đây, từ Pleiku về thăm Tướng Toàn sau khi Quân Đoàn 2 tan rã, đang ngồi đợi tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, có nghe đến hai phát súng, chứ không phải một phát, từ văn phòng Tướng Hiếu dội lại, rồi nghe thấy những bước chân chạy rầm rộ. (Được biết Trung Tá Vĩnh Hồ đã mất vì bệnh ung thư).



c. Khẩu súng lục Tướng Hiếu nắm trong tay khi chết là một khẩu súng thời Pháp, lính tây Lê-Dương xài, rất nặng nên Tướng Hiếu không khi nào đeo theo mà chỉ để ở văn phòng. Viên đạn Tướng Toàn tìm thấy và trao cho Quân Cảnh phù hợp với kích thước nòng khẩu súng lục này (lẽ đương nhiên, nhưng đâu có đọ đúng kích thước nhỏ xíu của vết lủng nơi cằm và đỉnh đầu Tướng Hiếu!).



d. Một Đại Tá, từng làm trong ngành An Ninh Quân Đội cho biết: khẩu súng kẻ sát nhân dùng trong vụ ám hại Tướng Hiếu phải là một khẩu súng hãm thanh loại rất đặc biệt, Mỹ chỉ cung cấp cho một số rất ít đơn vị lực lượng đặc biệt. Do đó trên nguyên tắc, giới thẩm quyền không khó gì phanh phui ra manh mối, nếu muốn.



e. Một Đại Úy Lực Lượng Đặc biệt nhận xét khẩu súng ám hại tướng Hiếu phải là khẩu súng lục Browning loại nhỏ, bằng 3/4 bàn tay, không hãm thanh, dùng viên đạn 8 ly. Người xử dụng loại súng này , khi muốn uy hiếp đối phương, thường dí súng vào cằm bên trái của nạn nhân. Nếu nạn nhân đứng yên thì đạn xuyên từ cằm trái ra sau ót. Nếu nạn nhân nghiêng đầu (trong trường hợp của Tướng Hiếu), đạn trổ lên gần đỉnh đầu bên phải.



f. Sáng hôm sau có sự hiện diện tại phạm trường của Trung Tướng Cao Hảo Hớn do Tổng Thống Thiệu phái tới.



g. Ngày 10/4/1975, một Đại Úy người nhà đến viếng xác Tướng Hiếu thì gặp cụ Hướng, thân sinh Tướng Hiếu, có mặt tại nơi quàn xác. Lúc đó đàn em Tướng Toàn đứng xớ rớ đầy dẫy nơi đó. Cụ Hướng bô bô nói lớn tiếng: "Này cháu, súng rouleau làm sao mà dễ lẩy cò được nhỉ?" Viên Đại Úy lí nhí trả lời cách sợ sệt: "Thưa bác, đúng vậy", và để ý thấy nhiều cặp mắt dòm ngó mình. Khi ra về, viên Đại Úy thấy có hai tên sĩ quan leo lên xe jíp chạy theo xe vespa mình. Anh ta phải chạy lẩn vào các ngõ hẻm chật hẹp mới chạy thoát... Nếu không có chủ mưu thì cần gì phải theo dõi như vậy?



8. Trong cuộc điện đàm, sau khi tôi nhận được lá thư trên đây, Đại Tá Long xác nhận: "Công tâm mà nói, khẩu P38 khó mà có thể tự động lẩy cò. Muốn nổ súng, phải làm lần lượt hai động tác: 1. gạt chốt an toàn, và 2. bấm cò".



9. Tôi hân hoan tiếp nhận mọi dữ kiện hay chi tiết liên quan đến cái chết bí ẩn của Tướng Hiếu, với hy vọng là khi đem ra duyệt xét và đối chiếu tất cả mọi dữ kiện thu thập được, sự kiện vô tư khách quan sẽ được sáng tỏ.



10. Đại Tá Long viết thêm ngày 20/1/1999: "Trong vụ việc mất mát đau buồn đã qua, nếu có ẩn tình hay do sự bất cẩn, thì ánh sáng cũng sẽ được phơi bày."




Nguyễn Văn Tín
Ngày 24 tháng 1 năm 1999
Cập nhật ngày 29.08.1999



Chứng Từ Của Đại Úy Đỗ Đức
Tùy Viên Tướng Toàn



Qua sự giới thiệu của một người bạn, tôi may mắn có cơ hội nói chuyện qua điện thoại với Đại Úy Đỗ Đức, tùy viên thân cận của Tướng Toàn. Sau đây là nội dung của cú điện đàm quanh cái chết của Tướng Hiếu.



Tôi làm tùy viên cho Tướng Toàn 7, 8 năm cho đến ngày mất nước. Để anh tin những gì tôi nói là sự thật, tôi xin nói sơ qua về cá nhân tôi. Tôi là người Việt gốc Hoa, sinh trưởng tại Châu Đốc. Sở dĩ tôi đăng lính là vì tôi tức giận tụi cảnh sát bố ráp thanh niên trốn lính, khinh miệt tôi là thằng Tàu nhà giàu trốn lính. Tôi tốt nghiệp khóa 25 Trường Võ Bị Thủ Đức và được gửi ra phục vụ tại Trung Đoàn 5 thuộc Sư Đoàn 2. Khi Tướng Toàn thấy tôi đánh giặc hăng hái, không sợ chết và biết nhiều thứ tiếng Tàu, ông chọn tôi làm tùy viên riêng của ông. Với tư cách này, tôi luôn luôn đi sát bên ông, không rời một bước. Tôi khởi sự làm việc cho Tướng Toàn với lon Chuẩn Úy và kết thúc với lon Đại Úy.



Tôi rời nước cùng với Tướng Toàn ngày 29/4/1975. Lúc đó bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 đã dời về Bộ Tư Lệnh Thiết Giáp ở Gò Vấp. Chiều hôm đó, vào lúc 5 giờ rưỡi, nhóm chúng tôi gồm có Tướng Toàn, Y Sĩ Trung Tá Lý Ngọc Dưỡng (Chánh Văn Phòng), Đại Tá Hoàng Đình Thọ (Trưởng Phòng 3 Quân Đoàn III), Đại Tá Lê Trọng Đàm (Tư Lệnh Cảnh Sát Quân Khu 2) và tôi leo lên trực thăng do phi công chính Thiếu Tá Võ Văn Lượng và phi công phụ Trung Úy Phi lái, cất cánh từ Gò Vấp bay thẳng ra Đệ Thất Hạm Đội Mỹ.



Tôi mến Tướng Toàn vì ông đánh giặc giỏi và tốt với thuộc cấp. Ông chỉ có một tật xấu lớn là rất mê gái.



Tôi cũng rất mến Tướng Hiếu vì ông giỏi, trong sạch và đạo đức. Tôi biết Tướng Hiếu khi ông còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 22 và Sư Đoàn 5.



Bây giờ tôi xin đề cập tới điều gì tôi biết về ngày Tướng Hiếu chết. Ngày hôm đó tình hình rất căng thẳng. Có lệnh cấm trại 100 phần trăm. Cả ngày, Tướng Toàn làm việc trong văn phòng tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Tôi ngồi trực tại phòng kế bên. Phòng tôi đối diện với văn phòng Tướng Hiếu. Tôi nhớ rõ ngày hôm đó Tướng Toàn không họp với Tướng Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn 25 vì ai tới gặp Tướng Toàn cũng phải qua tôi. Đến khoảng 5 giờ rưỡi chiều, Tướng Toàn sai tôi gọi xe đưa ông về tư dinh nằm cạnh Tòa Hành Chánh Biên Hòa, chạy xe có quân cảnh hú còi hụ mất khoảng 10, 15 phút. Sau khi thảy cặp Tướng Toàn xuống, tôi đi nhậu cùng với Thiếu Tá phi công Lượng, trước ở Quân Đoàn 2 được tôi đề nghị với Tướng Toàn đưa về quân Đoàn 3 và Thiếu Tá phi công Cửu (vẫn còn ở Việt Nam), từng bay cho nhiều Tướng ở Quân Đoàn 3. Chúng tôi nhậu được khoảng 10, 15 phút thì được báo là Tướng Toàn đã cấp tốc trở lại Bộ Tư Lệnh với viên cận vệ. Tôi vội vàng vứt bỏ rượu bia, phóng về Bộ Tư Lệnh. Khi tới nơi thì quang cảnh đã tấp nập với quân cảnh qua lại đầy dẫy. Tướng Toàn đã ra lệnh niêm phong văn phòng Tướng Hiếu, nên tôi không thấy cảnh Tướng Hiếu chết làm sao. Tôi nghe Tướng Toàn ra lệnh phải điều tra gấp cho ra nội vụ. Sau khoảng nửa tiếng tôi theo Tướng Toàn về tư dinh. Sau này, tôi nghe nói Tướng Hiếu thích chơi súng nên bị nạn vì súng lảy cò.



Điều mà tôi chắc chắn là Tướng Toàn không thể nào bắn Tướng Hiếu vì tôi ở sát bên ông cả ngày hôm đó đến khi ông về nhà sau 5 giờ rưỡi chiều. Tướng Toàn rất kính nể Tướng Hiếu. Ông luôn luôn gọi Tướng Hiếu là "Anh".



Nếu Tướng Toàn nói ông hay tin Tướng Hiếu bị nạn đang khi bay trên trực thăng là ông nhớ sai vì dạo sau này sức khỏe ông đã sa sút nhiều sau khi bị mổ tim. Hai Thiếu Tá phi công Lượng và Cửu đều ngồi ăn nhậu với tôi thì làm sao ổng bay trên trời lúc đó được.



Nếu Tướng Hiếu bị ám sát thì tên sát nhân phải là người rất quen thuộc với ngõ ngách quanh co trong bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Chính tôi, sau khi về đó 2, 3 tháng vẫn còn hay lạc khi phải đi từ văn phòng này qua văn phòng khác. Tôi ít có dịp qua văn phòng Tướng Hiếu, ngoại trừ những khi Tướng Toàn sai tôi đi mời Tướng Hiếu bước qua gặp hay họp riêng.



Nguyễn Văn Tín
Ngày 14 tháng 8 năm 1999



Lời bàn (03/07/2004) - Sự kiện Đại Tá Lê Trọng Đàm, Tư Lệnh Cảnh Sát thuộc Quân Khu II, hiện diện trên chuyến bay trực thăng di tản cùng Tướng Toàn, không khỏi khiến ta phải thắc mắc sao ông lại được biệt đãi như vậy, trong khi có biết bao thuộc hạ thân cận khác trong Quân Đoàn III. Hoặc ông phải là một thân nhân hay một bạn hữu chí thân, hoặc ông là một ân nhân đã thi thố một ân huệ sâu đậm cho Tướng Toàn. Phải chăng Tướng Toàn đền ơn ông vì ông đã can đảm nhận lãnh trọng trách trực tiếp thi hành việc ám sát Tướng Hiếu (hoặc đích thân ông cầm súng lẩy cò, hoặc ông sai khiến một đàn em cảnh sát viên thân tín thuộc Quân Khu II hành sự)?



Rất có thể là khi Tướng Toàn nhận được chỉ thị từ cấp trên (Thiệu ? Quang ? Khiêm ?) ám hại Tướng Hiếu, ông không có đàn em đáng tin cẩn trong nội bộ Quân Đoàn III vì ông mới tới đây chừng hai tháng, do đó ông đã phải dùng tới các phần tử từ Quân Đoàn II, tỉ như Tướng Lê Trung Tường là người đã hướng dẫn một đội toán lính đến đuổi hết quân canh gác thuộc đơn vị Quân Cảnh của Trung Tá Quyến di khỏi bộ tư lệnh trong ngày hôm đó. Tướng Toàn và Đại Tá Đàm rất dễ dàng gài tên sát nhân ngay trong văn phòng của Tướng Toàn, để rồi chỉ cần bước vài bước qua văn phòng Tướng Hiếu ở kế bên, ra tay hành động rồi bước lui trở về văn phòng Tướng Toàn ẩn núp, chờ đến khi tình hình lắng dịu, ngang nhiên bước ra khỏi phạm trường mà không gây nên sự chú ý của một ai.




Lá Thư Thứ 3 Xác Nhận Sự Kiện



(Dưới đây là lá thư của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Ðoàn III, nói về cái chết của Tướng Hiếu.)



Sàigòn Ngày 26/5/2002



Cậu Tín,



Nhận được thư Cậu qua sự giới thiệu của Sự, tôi cố gắng trả lời. Sự việc đã qua 27 năm rồi với tuổi của tôi đã cận 80 rồi mà còn mới trong trí để nhớ chuyện đã qua, để biên thư cho Cậu rõ.



Anh Hiếu là bạn thân của tôi từ Huế rồi đến Sàigòn, gặp nhau trong các cương vị khác nhau. Là bạn thân cứ mỗi buổi ăn sáng, trưa, chiều đều cùng nhau đi ăn sau giờ làm việc.



Bạn Hiếu là một người thích dùng súng. Là thiện xạ toàn quốc lúc ở QĐ1. Súng luôn luôn mài lẩy cò, để bắn mau lúc tập cũng như đi thi đấu.



Tôi nhớ chiều hôm xẩy ra chuyện bất ngờ mà anh đã biết, Anh Hiếu sau khi đi công tác về đã vào phòng tôi để mời tôi cùng nhau đi ăn cơm chiều. Lúc đó tôi quá bận với công việc giấy tờ nên đã hẹn anh khi tôi xem công văn xong sẽ qua mời anh cùng đi ăn. Lúc đó anh trở về phòng Anh làm việc ở cách phòng làm việc của tôi độ 30 thước.



Sau đó độ 15 phút, nghe tiếng súng nổ, nhân viên VP của Anh Hiếu chạy qua phòng tôi cho biết trong phòng Anh Hiếu có tiếng súng. Tôi liền bảo gọi ngay QC Tư Pháp đến để mở cửa điều tra. Sau mấy phút QC/TP đến, mở cửa để điều tra thì thấy Anh Hiếu đã nằm cạnh bàn làm việc của Anh ta với một khẩu súng lục. Đạn xuyên qua đầu, vết thương quá nặng nên Anh đã qua đời ... Công việc sau đó QC/TP và Công An lập biên bản. Cũng từ ngày xẩy ra sự việc cho đến 30/4, tình hình QĐ3 quá bận rộn cho đến ngày miền Nam sập tiệm, Quân Đội tan rã, một số người di tản, riêng tôi đến phút chót đã đi cải tạo 13 năm.



Cậu rõ đó là sự việc xẩy ra mà tôi cố nhớ lại biên thư cho bạn rõ.



Thôi nhé, chào Cậu. Chúc Cậu sức khỏe, vui vẻ và tôi chỉ mong gia đình cầu nguyện luôn luôn cho linh hồn Anh Hiếu thư thả về với nước Chúa.



T.B.: Ở đây bây giờ là cuộc sống đổi đời, biên thư thăm nhau trong tình bạn, đừng ghi nhớ lại chức vụ trong quá khứ nữa nhé.



Thân ái,



Tường



Lời bàn: Đem đọ sự việc Tướng Tường, Đại Tá Khuyến, Đại Tá Lương, Đại Tá Long, Đại Tá Trang, Tướng Ân, Tướng Toàn kể, thấy chẳng ai nói giống ai.



1. Trước đây vẫn nghe nói Tướng Hiếu thường đi ăn chung với Đại Tá Phan Huy Lương, Phụ Tá Tư Lệnh Phó Hành Quân QĐ 3; đây là lần đầu tiên nghe nói Tướng Hiếu luôn đi ăn chung với Tướng Tường và Tướng Hiếu mời Tướng Tường chứ không phải mời Đại Tá Lương đi dùng cơm chiều.



2. Đại Tá Lương kể ngày hôm đó, ba người, gồm Tướng Hiếu, Tướng Tường và Đại Tá Lương, ngồi tán gẫu tại văn phòng Tướng Tường trong khi đợi tới giờ ăn cơm chiều. Tướng Tường lại kể khác.



3. Đọc công văn chứ có phải việc gì quan trọng lắm đâu mà Tướng Tường không ngưng việc mà nhận lời mời đi dùng cơm ngay với Tướng Hiếu được? Và tại sao không mời Tướng Hiếu ngồi xuống đợi trong chốc lát, mà lại bảo Tướng Hiếu trở về văn phòng riêng chờ mình tới rước? Có ẩn ý gì chăng?



4. Khi Tướng Tường kể là "nhân viên VP của Anh Hiếu chạy qua phòng tôi cho biết trong phòng Anh Hiếu có tiếng súng", ông cho thấy là không có lính canh gác gần văn phòng, đúng như lời Trung Tá Quyến nói là ngày hôm đó Tướng Tường đã đuổi hết đội canh gác đi khỏi nơi văn phòng Bộ Tư Lệnh QĐ 3.



5. Có điều lạ là sao nhân viên văn phòng Tướng Hiếu khi nghe tiếng súng nổ lại chạy đi kiếm Tướng Tường thay vì mở cửa văn phòng vào xem xét tình hình. (Cửa văn phòng đâu có khóa lại: viên cận vệ Tướng Hiếu có khai là khi đã quá giờ làm việc mà vẫn chưa thấy Tướng Hiếu rời khỏi văn phòng, anh ta tự ý vào văn phòng và thấy Tướng Hiếu đã nằm chết).



6. Sự kiện khi được thông báo có tiếng súng nổ từ văn phòng Tướng Hiếu, Tướng Tường liền cho gọi Quân Cảnh Tư Pháp đến điều tra, chứ không điều động quân lính xông vào cứu nguy Tướng Hiếu, cho ta thấy là đã có sự sắp xếp để sự việc được phô bày ra như một ngộ nạn do chính nạn nhân hoặc cố ý hay vô tình tự gây nên.



7. Các lời khai của các "chứng nhân" chỉ giống nhau ở điểm là Tướng Hiếu là tay thiện xạ súng lục; ngoài ra các chi tiết khác đều khác nhau (sự việc xảy ra trước hay sau giờ ăn chiều; ngay trước đó Tướng Hiếu làm gì và gặp gỡ hay nói chuyện với những ai; đạn xuyên qua đâu). Sự kiện này khiến ta phải kết luận là có một sự toa rập dàn cảnh - nhưng thiếu tập dượt - và Tướng Hiếu đã không bị chết vào thời điểm (5, 6 giờ chiều) và địa điểm (văn phòng Tướng Hiếu) như đã được đề ra.



"Bác đã thấy xác anh Hiếu," bố anh Hiếu đã nói vậy chiều tối hôm đó. "Không những bác xác tín là anh Hiếu đã không tự sát, mà bác còn chắc chắn là chúng giết anh Hiếu ở đâu rồi đem xác trở về đó. Con dâu bác nói, "chẳng thấy máu đâu cả - chỉ thấy một chấm vệt đỏ ở cằm thôi." (Số Mạng Của Một Người Ái Quốc).




Nguyễn Văn Tín
Ngày 12 tháng 6 năm 2002
Cập nhật ngày 18.06.2002



Thêm Một Ít Chứng Từ



Trong tháng 8 năm 2004, tôi liên lạc được ba nhân chứng để hỏi thêm về cái chết của Tướng Hiếu: Bác Sĩ Lý Khánh Trí, Y Sĩ Quân Y Quân Đoàn III, Đại Tá Lê Trọng Đàm, Tư Lệnh Cảnh Sát Quân Đoàn II và Trung Tá Y Sĩ Lý Ngọc Dưỡng, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn III.



Y Sĩ Lý Khánh Trí



Tiếc là khi tôi liên lạc được Bác Sĩ Trí, người đã khám nghiệm Tướng Hiếu tiếp ngay sau khi ngộ nạn và chính thức tuyên bố Tướng Hiếu chết thì người nhà cho biết là ông đã bị "stroke" mấy năm nay và trí nhớ đã bị tổn thương nặng nề. Vì vậy khi tôi tự giới thiệu qua điện thoại là em Tướng Hiếu, ông hỏi: "Tướng Hiếu là ai vậy?" Do đó tôi không hỏi ông gì được về cái chết của Tướng Hiếu. Tuy nhiên người nhà cho biết là trước khi ông bị bệnh, khi được hỏi, ông có nói là trong tờ trình ông gửi lên Bộ Tổng Tham Mưu ông dựa vào đường đạn kết luận nguyên nhân gây nên cái chết là rủi ro.



Đại Tá Lê Trọng Đàm



Khi chợt nhận thấy sự hiện diện bất thường của Đại Tá Đàm trên chuyến bay trực thăng di tản của Tướng Toàn ngày 29/4/1975 - trong khi ai nấy đều thuộc Quân Đoàn III, chỉ duy mình ông thuộc Quân Đoàn II – tôi bèn tìm cách liên lạc với ông để thử xem ông nói sao về cái chết của Tướng Hiếu.



Ông nói sáng ngày Tướng Hiếu chết ông có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III và trở lên Sài Gòn sáng hôm đó. Đến chiều thì Y Sĩ Trung Tá Dưỡng điện thoại báo tin Tướng Hiếu chết. Khi tôi nói là Đại Tá Khuyến xác nhận là Tướng Hiếu chết vào buổi trưa thì Đại Tá Đàm quả quyết ngay là Đại Tá Khuyến nói sai vì 2 giờ trưa ông còn có mặt tại Quân Đoàn III.



Cuộc điện đàm kéo dài khá lâu, khoảng 45 phút, tuy nhiên ông chỉ đề cập vỏn vẹn như trên về cái chết của Tướng Hiếu. Ông cho biết là ông quen biết Tướng Hiếu từ khi Tướng Hiếu còn là cấp úy làm việc dưới quyền của Tướng Nguyễn Văn Mạnh khi Tướng Mạnh còn là Thiếu Tá trong chức vụ Trưởng Phòng 3 tại Bộ Tổng Tham Mưu ở Chợ Quán, mà ông lại là em rể Tướng Mạnh. Ông nói là khi ông mới chạy thoát khỏi Nha Trang, ông tới thăm Tướng Toàn ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Tướng Hiếu chạy lại ôm trầm lấy ông và reo lên: "Mừng anh đã thoát nạn." Tiếp sau đó, ông dành thì giờ còn lại kể chuyện về những gì ông biết về Tướng Toàn và mối giây liên hệ thân mật giữa Tướng Toàn và ông từ thủa thiếu thời.



Với mục đích trắc nghiệm lòng trung thực của ông, tôi hỏi ông di tản bằng cách nào. Lần thứ nhất ông nói là đi từ Hà Tiên; khi tôi tỏ vẻ thắc mắc hỏi gạn lại thì ông vội đính chính là gia đình ông đi từ Hà Tiên chứ không phải là ông. Lần thứ nhì, tôi kể là tôi di tản bằng cách đi vào phi trường Tân Sơn Nhất và được trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bốc ra hạm đội Mỹ và hỏi ông có đi giống như tôi không thì ông ỡm ờ trả lời là "cũng vậy". Lần thứ ba, khi tôi nói là hình như Tướng Toàn bỏ chạy bằng trực thăng bay ra hạm đội Mỹ thì ông nói là có đọc bài viết của Tướng Khôi nói sai Tướng Toàn cho phi công đưa trực thăng trở lại đất liền và làm ngơ không nói là ông cùng đi trong chuyến đó.



Trung Tá Y Sĩ Lý Ngọc Dưỡng



Sau đây là nội dung cú điện thoại tôi gọi Bác Sĩ Lý Ngọc Dưỡng, cựu Ý Sĩ Trung Tá, Chánh Văn Phòng Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III, ngày 31 tháng 8 năm 2004.



Tôi còn nhớ rõ sự việc xảy ra ngày Tướng Hiếu bị ngộ nạn. Ngày hôm đó rất là bận rộn vì sáng đó Dinh Độc Lập bị dội bom, và tôi phải cấp tốc soạn thảo bản thông cáo Tướng Toàn sẽ đọc trên đài phát thanh về vụ ném bom để trấn an quần chúng.



Trong khi đó ở văn phòng Tham Mưu Trưởng kế bên văn phòng tôi đang có cuộc họp về Nhân Dân Tự Vệ - tôi biết vậy vì có đọc công văn thông báo buổi họp đó - với sự tham dự của Tướng Hiếu, Tướng Đào Duy Ân (Tư Lệnh Phó Diện Địa), Đại Tá Nguyễn Khuyến (Chánh Sở Anh Ninh Quân Đoàn III), và một Đại Tá Tư Lệnh Cảnh Sát Quân Đoàn III tôi không nhớ tên.



Vào khoảng 6 giờ, Tướng Toàn bước qua văn phòng nói ông đi về tư dinh ở Biên Hoà. Tôi vội vàng đem theo giấy tờ để tiếp tục công việc soạn thảo bản văn và cùng leo lên xe đi theo Tướng Toàn, trên xe có cả Đại Úy Đỗ Đức, tùy viên Tướng Toàn.



Khi bước ra văn phòng tôi thấy Tướng Đào Duy Ân vừa leo lên xe vụt phóng về nhà. Tôi nghe Tướng Hiếu rủ Tướng Lê Trung Tường đi ăn cơm, và nghe Tướng Tường trả lời: "Anh đợi tôi đi tắm cái đã." Hình như hai người cùng khóa nên xưng hô thân mật như vậy. Trong văn phòng Tham Mưu Trưởng có trang bị phòng tắm riêng. Tướng Hiếu đi về văn phòng Phó Tư Lệnh đợi Tướng Tường tắm xong.



Tại tư dinh Tướng Toàn, khi tôi đang chuẩn bị đem máy thâu băng qua phòng Tướng Toàn để ông đọc bản thông cáo vào băng, thì điện thoại reo. Tôi bốc điện thoại, đầu giây bên kia Tướng Tường báo tin: "Anh Hiếu chết rồi." Tôi hỏi lại: "Chuẩn Tướng nói gì? Xin lập lại." "Tướng Hiếu chết rồi." Tôi chạy qua thông báo cho Tướng Toàn. Lúc đó ông còn chưa cởi xong giây giầy.



Chúng tôi vội trở lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Trên xe có cả Đại Úy Đỗ Đức tháp tùng theo.



Khi bước vào văn phòng Tướng Hiếu tôi tự nhiên buột miệng dặn Tướng Toàn đừng sờ mó gì kẻo để lại giấu tay. Tôi thấy cảnh tượng Tướng Hiếu ngồi trên ghế, đầu gục trên mặt bàn, cánh tay trái đặt trên mặt bàn, cánh tay phải thõ xuống đất, có khẩu súng lục nằm dưới mặt đất bên cạnh bàn tay. Tôi nhận xét thấy viên đạn xuyên từ cổ ...ờ ...ờ ...ờ ... không phải vậy, xin nói lại, từ hàm bên phải trổ lên màng tang bên trái. Tướng Toàn không lại gần bàn giấy, mà chỉ đứng tựa tay vào thành cửa, và tôi mục kích Tướng Toàn khóc. Đó là lần thứ hai tôi chứng kiến Tướng Toàn khóc, lần đầu khi còn ở Quân Khu II, và lần thứ ba trên boong tàu Midway ngày 29/4/1975.



Y sĩ Quân Đoàn III đến khám nhiệm và xác định Tướng Hiếu đã tắt thở.



Nhân viên Cảnh Sát Tư Pháp đến điều tra, tìm thấy viên đạn trên trần nhà và đọ đúng với khẩu sung lục nằm bên xác Tướng Hiếu. Và một viên Thiếu Tá Cảnh Sát Tư Pháp dùng phương pháp bột đen xác nhận tay phải Tướng Hiếu có dấu vết thuốc súng và còn ngửi thấy đầu súng lục có mùi khói. Những điều này chứng tỏ là nạn nhân tự gây nên tai nạn.



Có người cho là Tướng Hiếu tự tử khi cuộc chiến tới thời điểm vô vọng. Tôi không nghĩ vậy vì Tướng Hiếu rất ngoan đạo và đồng thời là một Tướng giỏi, Tướng Hiếu có khả năng đối phó với mọi cảnh huống tại chiến trường. Nếu có thêm nhiều tướng lãnh tài giỏi như Tướng Hiếu thì chắc tụi mình đã khỏi phải chạy qua đây.



À, mà chắc anh biết Tướng Hiếu thích chơi súng. Sáng hôm đó nhân viên ngành Công Binh trao lại cho Tướng Hiếu khẩu súng lục Tướng Hiếu nhờ chỉnh lại cơ phận lảy cò. Có lần Tướng Hiếu dẫn tôi vào "trailer' để khoe bộ 'collection' súng lục đủ loại.



Tôi rất mến phục Tướng Hiếu. Tướng Hiếu rất giỏi, có lẽ giỏi nhất trong hàng tướng lãnh, nhưng lại rất khiêm tốn. Ngày tôi mới về nhậm chức chánh văn phòng cho Tướng Toàn, Tướng Hiếu ghé vào văn phòng thăm tôi. Tôi không ngồi đàng sau bàn giấy tiếp Tướng Hiếu. Chúng tôi ngồi tại ghế xa-lông và Tướng Hiếu không đối xử tôi như cấp tướng đối với cấp tá, mà như thể anh em. Tướng Hiếu nói về cuộc đời binh nghiệp, tài nói nhiều ngôn ngữ, các chuyến công du tại các nước ngoài ... Tướng Hiếu không tỏ vẻ tự tôn phô trương, trái lại trông chừng rất khiêm tốn khi nói về tài năng của mình. Ai cũng biết Tướng Hiếu khiêm nhu. Nữ nhân viên tổng đài điện thoại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, khen Tướng Hiếu luôn ăn nói rất ôn tồn, không khi nào to tiếng quát tháo trên đường giây điện thoại như hầu hết các cấp tướng tá khác những khi đường giây điện thoại không được thông thương như ý muốn, điều thường xảy ra trên hệ thống điện thoại quân đội.



Vì cảm nghiệm của tôi đối với Tướng Hiếu như vậy nên hôm nay anh nhắc lại chuyện xưa mà tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một và đồng thời không khỏi chạnh lòng bùi ngùi



Lời Bàn



1. Về đường đạn, Bác Sĩ Trí phân tách cho một thân nhân Tướng Hiếu đến viếng xác sáng hôm sau ngày ngộ nạn như sau: "Viên đạn khi đi vào cằm, gặp xương quai hàm quá cứng không đi thẳng lên đỉnh đầu được, đã phải rẽ xuống đâm ra sau ót, khiến Tướng Hiếu chết tốt, không biết đau đớn." Bác Sĩ Dưỡng thì lại nói: "Tôi nhận xét thấy viên đạn xuyên từ cổ … ờ…ờ …ờ …không phải vậy, xin nói lại, từ hàm bên phải trổ lên màng tang bên trái." Khi tôi hỏi viên đạn có phá banh màng tang không thì ông trả lời là không nhớ rõ (!). Riêng cá nhân tôi, khi viếng xác anh mình, nhìn tận mắt thấy viên đạn xuyên vào cằm bên trái rồi chui ra đàng sau đỉnh đầu về phía bên phải. Đáng nghi ngờ thay khi lời khai của hai y sĩ với cặp mắt chuyên môn lại sai biệt nhau.



2. Xin ghi nhận hai điểm đáng chú ý trong chứng từ của Đại Tá Đàm: (1) ông chỉ là người khách qua đường mà sao lại nhớ rõ sự kiện hơn Đại Tá Khuyến và mạnh dạn quả quyết là Tướng Hiếu khổng thể chết buổi trưa vì ông còn có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III lúc 2 giờ; (2) Vì lý do thầm kín nào mà ông không chịu nói ông di tản trên trực thăng cùng Tướng Toàn.



3. Bác Sĩ Dưỡng nói Tướng Tường bảo Tướng Hiếu đợi ông đi tắm xong rồi đi ăn; nhưng Tướng Tường lại viết ông bảo Tướng Hiếu đợi ông đọc hết công văn đã. Bác Sĩ Dưỡng nói khi trở lui lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, trên xe có Đại Úy Đỗ Đức cùng đi; nhưng Đại Úy Đỗ Đức lại nói ông đi thẳng từ quán nhậu về Bộ Tư Lệnh khi tài xế đưa tin Tướng Hiếu chết và Tướng Toàn đã trở về đó cùng viên cận vệ.



4. Nhân dịp dự một đám cưới ở New Jersey ngày 02 tháng 10 năm 2004, tôi hân hạnh gặp Đại Tá Tôn Thất Soạn, TQLC. Ông kể khi Tướng Hiếu chết, ông đang là Tỉnh Trưởng Hậu Nghĩa. Trung Tá Phạm Khắc Đạt, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Hậu Nghĩa đi tới Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III để tìm hiểu về cái chết bí ẩn này. Khi về lại Hậu Nghĩa, ông trao cho Đại Tá Soạn xem một xấp mười tấm hình chụp quang cảnh Tướng Hiếu chết trong văn phòng. Ông được một đồng nghiệp cảnh sát tặng cho xấp hình này. Đại Tá Soạn nhớ rõ Trung Tá Đạt thắc mắc một câu: "Tướng Hiếu thuận tay mặt; sao vết thương lại do một người thuận tay trái gây nên?" Trung Tá Đạt hiện sống ở San Jose, California.



Nguyễn Văn Tín
Ngày 03 tháng 09 năm 2004
Cập nhật hóa ngày 06.10.2004



Con Cờ Tướng Hiếu Trong Thế Cờ Tổng Thống Nhà Nam




Vận mạng Tướng Hiếu nằm gọn trong tay Thiệu khi Thiệu được Tổng Thống Mỹ Johnson cho lên làm Tổng Thống năm 1967. Tướng Hiếu lên đến cấp bậc Thiếu Tướng năm 1968 khi mới 39 tuổi, nhưng rồi bị Tổng Thống Nhà Nam dìm không cho ngóc đầu lên cấp bậc Trung Tướng đương khi còn sống, và chỉ được Thiệu sai Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đến thí cho ngôi sao thứ ba sau khi Tướng Hiếu đã bị thảm sát cách hèn nhát. Phải chăng đây là điển hình của một cử chỉ "ném đá giấu tay"? Ta hãy duyệt xem tay cờ Tổng Thống Nhà Nam dùng con cờ Tướng Hiếu ra sao trong thế cờ của hắn.



Khi Tướng Thiệu còn là Chủ Tịch Hội Đồng Các Tướng Trẻ - Thiệu, Kỳ, Thi, Có, Thắng, Cang - hắn đã để ý tới Tướng Hiếu trong hai trường hợp. Khi Thiệu được chính phủ Đài Loan mời qua dự Lễ Quốc Khánh Song Thập năm 1967, Thiệu chọn Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Nguyễn Văn Hiếu, ngôi sao sáng trong hàng Tướng Lãnh QLVNCH thời đó, tháp tùng theo như "aide de camp". Vợ Tướng Hiếu đưa chồng mình ra xe, hình ảnh chồng mình bước lên xe gọn gàng trong bộ đồ quân phục màu trắng tinh thẳng tắp, đầu đội mũ kíp trắng nõn, trẻ đẹp và oai phong, khiến tâm hồn bà phơi phới mừng thầm chồng mình đã lọt vào mắt xanh vị nguyên thủ quốc gia rồi!



Trường hợp thứ hai Tướng Hiếu gây sự chú ý của Thiệu là vào dịp Tết Mậu Thân, khi Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 Tổng Tham Mưu báo cáo với Tổng Thống Thiệu là Tướng Hiếu, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 điện thoại cho biết tù binh Việt Cộng khai cuộc Tổng Công Kích toàn lãnh thổ Miền Nam sẽ được phát động vào mồng một Tết.



Sau khi lên làm Tổng Thống, năm 1968, ông Thiệu bắt đầu tìm cách loại trừ các đàn em của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ tại các chức vụ then chốt. Thiệu rất lưu manh khôn khéo trong thế cờ hắn. Khi biết thế mình còn yếu, Thiệu liên minh với địch thủ của mình là ông Kỳ bằng cách cho làm Phó, rồi ngấm ngầm từ từ loại trừ chân tay bộ hạ của ông Kỳ kém mưu trí hơn. Tháng 2 năm 1968, tại Quân Đoàn 2, Thiệu nhấc Tướng Vĩnh Lộc đi, đặt Tướng Lữ Lan vào. Vào thời gian đó Tướng Hiếu là Tư Lệnh Sư Đoàn 22. Tháng 8/1968, tại Quân Đoàn 3, Thiệu đẩy Tướng Lê Nguyên Khang đi, đặt Tướng Đỗ Cao Trí vào. Tướng Trí không phải người của Thiệu. Nhưng Thiệu đang cậy nhờ tới ông Trần Văn Hương để loại phe nhóm Kỳ ra. Ông Hương đề nghị đưa Tướng Trí, đang làm Đại Sứ tại Nam Hàn, về củng cố lại Quân Đoàn 3. Thiệu không ưa thích gì Tướng Trí, nhưng biết Tướng Trí không ham chính trị, cứ tạo dịp cho Tướng Trí thi thố tài đánh giặc là yên thân khỏi lo. Cứ tạm dùng rồi đẩy đi sau. Thiệu cũng lập luận như vậy khi cử Tướng Nguyễn Viết Thanh vào chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4.



Năm 1969, Thiệu vẫn còn tin cẩn Tướng Hiếu vì khi được Tổng Thống Tưởng Kim Quốc mời qua thăm Đài Loan với tư cách là Tổng Thống của Việt Nam ngày 30 tháng 5 năm 1969, ông chọn Tướng Hiếu khi đó còn là Tư Lệnh Sư Đoàn 22, làm Sĩ Quan Tướng Lãnh Tùy Viên tháp tùng vị nguyên thủ quốc gia.



Khi về nắm Quân Đoàn 3, Tướng Trí đưa Tướng Nguyễn Xuân Thịnh về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 25, và Tướng Lâm Quang Thơ làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18. Tướng Trí cũng dự định đem Tướng Hiếu về thay Tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh Sư Đoàn 5. Vào thời kỳ đó, Sư Đoàn 5 là Sư Đoàn yếu nhất trong 3 Sư Đoàn của Quân Đoàn 3. Thiệu không chịu, vì Tướng Thuần thân với ông, từng là Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 5 khi ông là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Mãi đến gần một năm sau, vào tháng 8 năm 1969, sau khi Tướng Trí chứng minh cho thấy tình trạng chiến đấu của quân lính Sư Đoàn 5 vẫn không cải tiến chút nào, Thiệu mới chịu cắt nhắc Tướng Thuần đi và miễn cưỡng đặt vào đó con cờ Tướng Hiếu.



Với sự trợ lực hữu hiệu của bộ ba Tướng Tư Lệnh Thịnh, Thơ và Hiếu, ba sinh viên sĩ quan đồng khóa 3 VBLQĐL, Tướng Trí đã thành công cải biến toàn bộ hiệu năng chiến đấu của Quân Đoàn 3. Thế mà vào khoảng tháng 9 năm 1970, Thiệu ngấm ngầm núp đằng sau Hội Đồng Tướng Lãnh bứng Tướng Trí ra khỏi Quân Đoàn 3 và đầy Tướng Trí qua Pháp. Thiệu khôn khéo bưng bít hành động mình bằng cách cho tuyên bố là Tướng Trí đi nghỉ dưỡng bệnh và cử Tướng Nguyễn Văn Minh trông coi đàn con cái Quân Đoàn 3 trong thời gian "bố" Trí tạm vắng mặt.



Ngày 6/10/1970, viên thư ký Phòng 3 Tham Mưu Cố Vấn Hoa Kỳ tại Quân Đoàn 3, Đại Úy Wayne T. Stanley, viết cho Trung Tá John L.Huestis, Fort Braggs, North Carolina:



General Tri continues to rule the land with fire and determination. He is now on vacation in Europe and he continues to plan on being Commanding General, III Corps until he retires in 18 months.
(Tướng Trí tiếp tục cai trị lãnh thổ với lửa và tâm huyết. Ông hiện đang nghỉ hè bên Âu Châu và tiếp tục dự tính tại chức Tư Lệnh Quân Đoàn 3 cho đến khi về hưu trong 18 tháng nữa).



Ai đời tình hình quân sự đang sôi động mà Tư Lệnh lại nhởn nhơ đi nghỉ mát bao giờ! Vậy mà dư luận, và ngay cả các sĩ quan tại Quân Đoàn 3 thời bấy giờ, cũng ngây thơ như viên đại úy này, cùng nhìn vào bàn cờ theo dõi sự di chuyển của các con cờ mà không thấu hiểu được thâm ý của tay cờ Thiệu.



Cũng may cho Tướng Trí là Thiệu lúc đó cũng còn chưa mạnh đủ, nên Tướng Trí vận động thành công và được phép hồi hương. Đặt chân về tới nước, Tướng Trí liền trực chỉ xuống án ngữ tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5, cậy nhờ đến Tướng Hiếu và lực lượng dũng mãnh của Sư Đoàn 5 để dọa binh biến, khiến Tổng Thống Thiệu vội vàng kéo Tướng Minh trở lại Biệt Khu Thủ Đô và trả lại ghế Tư Lệnh Quân Đoàn 3 cho Tướng Trí. Thế là Thiệu thêm để tâm canh chừng Tướng Hiếu trong tâm trí thâm hiểm của hắn. Thua keo này, ông chờ dịp bày keo khác.



Dịp đó đến khi tình hình chiến trận Lam Sơn 719 mới bắt đầu khởi phát đã sa lầy. Tổng Thống Thiệu thừa cơ Tướng Lãm điều binh dở, bèn tuyên bố ý định đưa Tướng Trí, người đã thành công trong cuộc hành quân vượt biên qua Kampuchia của Quân Đoàn 3, ra thay Tướng Lãm. Thiệu không ngờ Tướng Trí ra điều kiện: phải giao Tướng Hiếu chức Tư Lệnh Quân Đoàn 3 thì ông mới chịu đi! Lẽ dĩ nhiên là Thiệu không chịu vì hắn đã chủ tâm đưa Tướng Minh vào đấy rồi. May thay cho Thiệu, đang khi sự việc chưa ngã ngũ thì Tướng Trí tử nạn trực thăng (mà cũng hên cho Thiệu là dư luận tin theo tin đồn Mỹ thủ tiêu Tướng Trí!) vào tháng 2 năm 1971. Đúng y như rằng: tay cờ Thiệu liền đặt Tướng Minh vào lỗ hổng. Tuy nhiên bề ngoài, Thiệu vẫn làm ra vẻ khoan thai, vì vậy, ngày 27/2/1971, viên Đại Úy Wayne Stanley mới viết cho Chuẩn Tướng Andrew J. Gatsis, BTL/USAARPAC, Fort Shafter, Hawaii:



Như vậy Trung Tướng Minh, trưóc đây là Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, gánh vác lấy trọng trách nặng nề vào lỗ hổng chỉ huy và điều hành V3CT... Tuy chưa được chính quyền chính thức xác nhận, nhưng hầu như chắc chắn ông sẽ giữ chức này luôn.



Giá tay cờ Thiệu đặt con cờ Tướng Hiếu vào chỗ Tướng Trí thay vì chọn Tướng Minh có phải là khả năng chiến đấu của Quân Đoàn 3 không bị lụi bại đến tận bùn đen cách mau chóng như ta thấy, và Việt Cộng đã không thể bén mảng trở lại phần đất bên này của biên giới Việt Miên để mà xảy ra trận tử thủ An Lộc sớm như vậy.



Về tới Quân Đoàn 3, theo lệnh của Thiệu, việc đầu tiên Tướng Minh lo làm - ngoài việc tính toán tiếp tục kinh tài cho Thiệu - là tìm dịp bứng Tướng Hiếu đi khỏi Sư Đoàn 5. Tưóng Minh đã đểu giả "ba que xỏ lá" thọc gậy vào bánh xe lăn của kế hoạch Hành Quân Snoul khiến Tướng Hiếu chịu lãnh trách nhiệm thua trận Snoul vào tháng 6 năm 1971, để có cớ cách chức Tướng Hiếu và đưa Đại Tá Lê Văn Hưng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 32, Sư Đoàn 21, một tí hon bên cạnh vóc dáng quân sự khổng lồ của Tướng Hiếu, phe cánh của Tướng Minh lên thay. Tướng Hiếu bị tống ra ngoài Đà Nẵng vào chức vụ ngồi chơi xơi nước Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1.



Lúc Tướng Hiếu ra Đà Nẵng thì Tướng Hoàng Xuân Lãm, cùng khoá 3 VBLQDL với Tướng Hiếu, còn làm Tư Lệnh Quân Đoàn 1.



Giá tay cờ Thiệu thay Tướng Lãm bằng Tướng Hiếu trong dịp này thì chắc không xảy ra vụ Tướng Vũ Văn Giai bỏ Quảng Trị trước khi địch tấn công, một cuộc rút lui mạnh ai nấy chạy vào ngày 1/5/1972.



Khi muốn cứu vãn tình hình quân sự tại miền Trung sau vụ Tướng Vũ Văn Giai làm mất Quảng Trị, Thiệu dùng dịp này để đưa Tướng Ngô Quang Trưởng ra thế Tướng Lãm, rồi rút một lô Tướng "già khó xài" ra khỏi bàn cờ - ngoài Tướng Lãm, có thêm Tướng Lê Nguyên Khang (TQLC), Tướng Dư Quốc Đống (Dù) và Tướng Hiếu. Thế vào đó là những Đại Tá "trẻ dễ sai" - ngoài Tướng Trưởng, Đại Tá Bùi Thế Lân (TQLC), Đại Tá Lê Quang Lưỡng (Dù) và Đại Tá Phan Đình Soạn.



Giá tay cờ Thiệu chọn Tướng Hiếu, thay vì chọn Tướng Trưởng, trong nước cờ này thì chắc đã không xảy ra vụ rút lui vô tổ chức của toàn bộ lực lượng Quân Đoàn 1, trong đó có một Sư Đoàn Trưởng ra lệnh rút lui bằng cách hô to câu Pháp ngữ bất hủ: "Sauve qui peut!" (Mạnh ai nấy chạy!).



Riêng trong trường hợp Tướng Hiếu, tay cờ mưu mô Thiệu đi hố một nước cờ khi hắn nghe theo đề nghị của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương đặt Tướng Hiếu vào chức vụ Phụ Tá Đặc Trách Bài Trừ Tham Nhũng. Thiệu tính toán đây là dịp may để loại khử khéo Tưóng Hiếu ra khỏi môi trường quân sự với một chức vụ dân sự mà hắn nghĩ rằng cũng chỉ có thể là ngồi chơi xơi nước. Hắn đâu có ngờ Tướng Hiếu sẽ làm cho hắn phải điên đầu khi Tướng Hiếu thi hành nhiệm vụ mình cách nghiêm minh.



Nên biết thời bấy giờ ai cũng cho là Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng được Thiệu dựng đứng lên và trao cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương điều hành, như là một tấm bình phong, mục đích chỉ là để thỏa mãn yêu sách của giới Hoa Kỳ trách cứ Thiệu dung túng đàn em tha hồ tham nhũng. Thiệu nghĩ Tướng Hiếu sẽ chẳng làm được trò trống gì hay rồi cũng sẽ phải run sợ ngồi im bất động không dám hó hé khi một lô cú điện thoại hay thơ rơi nặc danh dọa dẫm tính mạng Tướng Hiếu tuôn vào văn phòng Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng. Thiệu đâu ngờ Tướng Hiếu miệng vẫn nghêu ngao: "Chó sủa mặc chó. Đoàn người cứ đi", chân thì mạnh dạn tiến hành chu toàn sứ mạng đã được giao phó. Thế là Thiệu điên đầu khi các đàn em lũ lượt gọi điện về Phủ Tổng Thống kêu ca bị Tướng Hiếu tới vấn an sức khỏe.



Nhưng vụ bất ngờ nhất đối với Thiệu là vụ Tướng Hiếu cả gan phanh phui cái trò "mượn đầu heo nấu cháo" của Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội. Tướng Hiếu lần theo đường giây tham nhũng trong vụ này thì thấy nó bắt nguồn từ Bộ Quốc Phòng của Tướng Nguyễn Văn Vỹ qua tới Phủ Thủ Tướng của Tướng Khiêm rồi lên đến Phủ Tổng Thống của Tướng Thiệu. Tướng Hiếu bàn định với Phó Tổng Thống Hương và hai người quyết định công bố kết quả điều tra này ra cho công chúng biết trước qua hệ thống truyền hình đêm trước ngày chính thức đệ trình hồ sơ lên Tổng Thống Thiệu, khiến Thiệu trở tay không kịp. Thiệu vội vàng cách chức Bộ Trưởng Quốc Phòng Nguyễn Văn Vỹ và ra lệnh Tướng Hiếu ngưng họp báo trên màn truyền hình. Đúng là "gậy ông đập lưng ông": trước nay dân chúng không biết Tướng Hiếu là ai, sau vụ này ai cũng biết Tướng Hiếu là Tướng trong sạch nhất trong 5 Tướng nổi tiếng sạch của QLVNCH (4 vị kia là: Thắng, Thanh, Chinh, Trưởng).



Trong vụ này, Tướng Hiếu hành động giống y như thân phụ. Ta hãy trở lui lại năm 1955. Phó Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An Nguyễn Văn Hướng, khi được Tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tổng Giám Đốc gọi vào văn phòng ra chỉ thị bắt nhốt những viên chức tham nhũng của Tổng Nha, đã cả gan dám thưa: "Trình Thiếu Tướng, như vậy tôi phải bắt giam Thiếu Tướng trước tiên!". Kết quả: bị giáng xuống chức ngồi chơi xơi nước: Giám Đốc Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Đô Thành.



Trong khi Thiệu vân vê con cờ Tướng Hiếu trong tay, phân vân không biết làm sao bứng nó đi cách êm thấm ra khỏi vị trí này thì dịp may xuất hiện. Số là Thiệu bị áp lực mọi phiá đòi hắn sa thải Tướng tồi Minh ở chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, vào tháng 10 năm 1973. Thiệu bèn kêu gọi tới Tướng Phạm Quốc Thuần. Tướng Thuần ra điều kiện: phải đưa Tướng Hiếu về làm Tư Lệnh Phó Hành Quân để giúp ông một tay. Thiệu lưỡng lự không muốn đưa Tướng Hiếu trở lại Quân Đội, nhưng rồi chiều theo lời yêu cầu của Tướng Thuần khi lập luận rằng giao cho chức Tư Lệnh Phó Hành Quân, vừa xài được tài năng chiến lược xuất chúng của Tướng Hiếu, vừa không sợ Tướng Hiếu làm bậy vì không có quân trong tay.



Nhưng giá mà tay cờ Thiệu thay vì đưa Tướng Thuần vào thế cờ ở giai đoạn này lại đánh liều dùng tới con cờ Tướng Hiếu thì QLVNCH sẽ có nhiều trận chiến thắng hào hùng kiểu Hành Quân Svay Riêng hơn nữa. Trong trận Svay Riêng này, Tướng Hiếu đã xua quân và chiến xa vượt biên đâm thẳng vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bắc Việt, theo chiến thuật "blitzkrieg" - đoàn chiến xa vũ bão chọc thủng hàng dọc ngay giữa lằn tuyến phòng thủ địch, thần tốc xông thẳng tới trọng tâm lòng địch, rồi lan tỏa ra ở hậu tuyến địch - của Tướng Rommel. Đó là lối tác chiến đặc thù của Tướng Hiếu: tấn chứ không thủ với nhị thức Bộ Binh-Chiến Xa. Nên nhớ là từ năm 1972, Cộng quân đã lấn trở lại vào lãnh thổ Việt Nam dưới thời Tướng Minh, thế mà năm 1974 lại bị Tướng Hiếu đem quân uy hiếp tận sào huyệt bên lãnh thổ Miên thì biết Tướng Hiếu cừ chừng nào!



Vào tháng 10 năm 1974, khi phải bứng cả ba Tư Lệnh Quân Đoàn 2 (Toàn), 3 (Thuần) và 4 (Nghi) dưói áp lực của phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, Thiệu thay Tướng Thuần bằng Tướng Dư Quốc Đống và để Tướng Hiếu ở y nguyên vị trí Tư Lệnh Phó Hành Quân/QĐ3. Đến khi Tướng Đống từ chức vì Thiệu không chịu đưa Sư Đoàn Dù về tiếp cứu mặt trận Phước Long, vì sợ Dù đảo chánh, Thiệu thế vào đó bằng Tướng Toàn và vẫn giữ Tướng Hiếu ở vị trí Tư Lệnh Phó Hành Quân/QĐ3. Người đứng ngoài nhìn vào bàn cờ chắc không khỏi thắc mắc sao tay cờ Thiệu, mấy tháng trước nay đã loại Tướng Toàn ở Quân Đoàn 2 vì tội tham nhũng, giờ này lại đưa Tướng Toàn về Quân Đoàn 3?



Giá tay cờ Thiệu đưa con cờ Tướng Hiếu vào thay Tướng Đống thay vì chọn Tướng Toàn thì



* Sư Đoàn 18 của Tướng Lê Minh Đảo sẽ còn đánh trận Xuân Lộc cách ngọan mục và hào hùng hơn nữa và không chừng còn chiến thắng nữa là đàng khác;



* Sư Đoàn 25 của Tướng Lý Tòng Bá sẽ không bị Tướng Toàn đẩy bừa về phía trước để bị Cộng quân bọc hậu cắt đứt đường giây liên lạc với Quân Đoàn 3;



* Sư Đoàn 5 của Tướng Lê Nguyên Vỹ sẽ còn làm cho Cộng quân điêu đứng nhiều trước khi có thể tiến gần tới Sài-Gòn;



* Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của Tướng Trần Quang Khôi sẽ còn dương đông kích tây tung hoành khắp ba mặt của tuyến phòng thủ Thủ Đô. Khi Tướng Khôi nghe được lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh trên đài phát thanh, các đơn vị của LLXK/QĐ3, vẫn còn nguyên vẹn, đang di chuyển thành hàng ngũ chỉnh tề về tiếp cứu Sài Gòn.



Quanh đi quẩn lại, trên bàn cờ, tại những vị trí quân sự then chốt, Thiệu xếp đặt toàn là các Tướng "Trẻ dễ sai" hay các Tướng "Già dễ bảo", còn các Tướng "Già khó xài" đều được giao về Tổng Tham Mưu để Tướng Cao Văn Viên trông coi, chỉ duy có Tướng "Già khó bảo" Hiếu là còn đứng sừng sững đó, không khác gì một con cừu hiền lành giữa một bày sói dữ. Thế mới biết Thiệu phải công nhận tài của Tướng Hiếu cho nên tuy ngán nhưng vẫn muốn xài tới. Đồng thời ta cũng thấy trong những thế cờ của Thiệu, hắn quan tâm tới ghế Tổng Thống của hắn hơn là quan tâm đến vận mạng tổ quốc.



Những người theo dõi thế cờ của Thiệu ít người để ý thấy động tác sau đây của hắn: Thiệu đặt con cờ Tướng Hiếu vào vị trí Tư Lệnh Mặt Trận Tiền Phương của Quân Đoàn 3. Trong tư cách này Tướng Hiếu tiếp nhận tàn quân còn lại của Quân Đoàn 2 do Tướng Phú bàn giao lại tại Lầu Ông Hoàng, Phan Thiết ngày 2/4/1975. Nhưng Thiệu chợt giựt mình thấy như vậy là Tướng Hiếu có quân trong tay, bèn hoảng sợ Tướng Hiếu có thể kéo quân về đảo chánh, vội vàng rút Tướng Hiếu trở lại vị trí Tư Lệnh Phó Hành Quân Quân Đoàn 3 "không quân" cũ và đưa Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi (một Tướng "Già dễ bảo", vài tháng trước đây bị cách chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4 dưới áp lực của phong trào chống tham nhũng) ra thế.



Giá tay cờ Thiệu duy trì Tướng Hiếu ở chức vụ Tư Lệnh Tiền Phương thì Cộng quân sẽ chọc thủng phòng tuyến Phan Rang cách khó khăn hơn nhiều.



Khi Thiệu thấy kế dụ Mỹ trở lại chiến trường Việt Nam bằng cách để mất Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật thất bại, hắn bấn loạn cả lên, nhất là khi được Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh, Phủ Tổng Thống, báo cáo có nhiều phe nhóm đang ráo riết vận động hầu như công khai với tất cả các Tư Lệnh có quân nắm trong tay đảo chánh. Nguyễn Cao Kỳ nói mỗi tối Thiệu di chuyển chỗ ngủ. Trần Văn Đôn nói Thiệu sợ nếu có đảo chánh hắn sẽ bị giết như ông Diệm. Vĩnh Lộc nói Thiệu sợ đến cả chính bóng hình mình, và run rét Dù hay Thiết Giáp đảo chánh...



Sáng ngày 6/4/1975, Thiệu triệu Tướng Hiếu vào Dinh Độc Lập để tham khảo ý kiến. Tướng Hiếu không ngần ngại thẩm định là cuộc triệt thoái vô tổ chức của Quân Đoàn I và II đã khiến khả năng chiến đấu của QLVNCH suy giảm đến mức vô vọng không tài nào chống cự nổi đà tiến vũ bão của Bắc Quân. Nếu chính phủ Hoa Kỳ không nhảy vào lại chiến trường Việt Nam, Quân Đội sẽ tiêu hao hết sạch đạn dược nội trong hai tháng, Tổng Thống, trong cương vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH chỉ còn nước ra lệnh cho các đơn vị chiến đấu buông súng đầu hàng, nếu muốn tránh đổ máu vô ích cho chiến sĩ và dân chúng.



Sáng ngày 8/4/1975, Dinh Độc Lập bị một phi cơ phản lực F5E cất cánh từ phi trường quân sự Biên Hoà dội bom...Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, mới được chỉ định vào chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 3 (sau khi mếu máo xin từ nhiệm chức Tư Lệnh Sư Đoàn 23 khi Cộng quân tấn chiếm Ban Mê Thuật), chỉ huy một nhóm lính mặc đồ trận đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đuổi hết lính gác Quân Cảnh đi... Nội trong ngày hôm đó con cờ Tướng Hiếu bị loại khỏi bàn cờ...




Nguyễn Văn Tín
Ngày 29 tháng 1 năm 1999
Cập nhật ngày 12.12.2002




Sự Suy Tàn
(Viết để tưởng nhớ cái chết của tướng Nguyễn Văn Hiếu)



Trước một bè lũ thợ săn lão luyện đầy mưu mô mà nạn nhân bị triệt hạ dần lại chính là những vị tướng lãnh liêm khiết chỉ biết hy sinh vì đất nước non sông, chỉ vì các vị tướng trong sạch này không nằm trong hàng ngũ tham nhũng như bè phái các tướng chỉ lo vơ vét cho cá nhân mình mà thôi.



Tướng Hiếu chết oan ức dưới họng súng vô nhân của chính những người đồng chung một mầu cờ và từng vào sanh ra tử với mình. Chết một cách đau thương chỉ vì có tội là không đứng về bè phái của bọn người tham nhũng.



Tiếng người vợ trẻ vật vã khóc than, giọng khàn đặc bởi những lời thét to ai oán, khiến cho những người đang có mặt không thể nào cầm lòng được trước nỗi xúc động về cái chết quá bàng hoàng của Tướng Hiếu.



- Các ông giết chồng tôi! Giết chồng tôi! Các ông là lũ sát nhân! Hãy trả chồng tôi lại cho tôi! Các ông giết chồng tôi.



Mọi người thân thuộc trong gia đình cố giữ người vợ trẻ vừa mất chồng lại, nhưng những lời khuyên bảo đều vô ích trước nỗi phẫn uất đang dâng lên đến tột độ, bộc phát cõi lòng bà bằng những lời lẽ khó hiểu chỉ bà là người trong cuộc đoán trước cảnh đau thương hôm nay xảy đến cho gia đình bà, vì lúc chồng bà còn sống bà đã từng nghe những tiếng thở dài, có lúc nét mặt ông rất đăm chiêu và những đêm thổn thức, trằn trọc suốt cả đêm đã nhiều lần bà hỏi mà chồng cố ý lảng sang nhưng bà cũng đã hiểu và hiểu một cách tường tận, rõ ràng đưa đến cái chết của chồng bà ngày hôm nay vì đâu ...?



Tiếng bà tướng Hiếu vẫn gào lên xé tan sự im lặng, nặng nề vô cùng trước những gương mặt cố tạo nên vẻ bi thương, nhưng đó chỉ là một kịch vụng đóng quá tồi trước mặt bà tướng.



- Các ông giết chồng tôi! Chính các ông giết chồng tôi rồi ...!



Sáng hôm ấy thời tiết báo cho một ngày không may xảy ra, trời xám mây đen u buồn ảm đạm, không mưa được, nắng cũng không len nổi qua đám mây dầy đặc, khí hậu Sàigòn hôm đó nóng oi bức vô cùng. Tình hình đất nước toàn miền Nam ngày càng lâm vào cảnh bế tắc. Ngoài chiến trường căng thẳng. Việt cộng đánh úp khắp nơi. Miền Tây rồi đến miền Trung Nam Bộ ngập tràn khói lửa binh đao, cả trời quê hương chìm trong chiến tranh trong đe dọa của sự chết chóc.



Cam Ranh, Ban Mê Thuột, Huế, Nha Trang, Phan Thiết, Đà Nẵng... và toàn bộ một số nơi ngoài vùng 1 vùng 2 miền Trung được lệnh Tổng Thống bắt buộc phải di tản thật gấp rút. Bao cảnh màn trời chiếu đất, xác người ngổn ngang nằm vất đầy trên lối đi di tản tránh sự tấn công như vũ bão của Việt cộng, đói khát hoành hành, vợ chết trên tay chồng, con ướt đẫm máu loang gục chết trên tay mẹ! Và còn bao nhiêu cảnh cướp bóc đau thương xảy ra. Đạn pháo không rõ của quân thù hay chính của ta, cứ vô tình bắn thẳng vào đoàn người khốn khổ đang cố thoát chạy khỏi cảnh chiến tranh, cố dành lại cho mình sống còn!



Thời điểm của tháng ba và tháng tư năm 1975 đó, thật kinh hoàng trong lòng người dân Việt, khó có ai mà quên được nỗi tủi hận bi thương đó, thì bên trong lòng đô thành Sàigòn hoa lệ vẫn rực rỡ dưới ánh đèn màu, dưới cái lớp giả tạo mà chính quyền đương thời đang cố che đậy. Hòn Ngọc Viễn Đông nơi đang quy tụ đầy đủ các vị tướng lãnh nắm trọn quyền hành thì lại tạo thành một bè phái dựa vào quyền lực trong tay mà tha hồ vơ vét, tham nhũng lớn, tham nhũng bé ...!



Lúc đó Nha Tâm Lý Chiến quân đội thì đăng những mục chấn chỉnh lại bớt nạn tham nhũng đang lan rộng khắp nước, báo Diều Hâu đăng hai câu đối luận về bốn vị tướng lãnh "tham nhũng nhất nước" (nhất Trí, nhì Quang, tam Lan, tứ Quảng) và cạnh đấy nêu tên bốn vị tướng khác "sạch nhất nước" (nhất Thắng, nhì Thanh, tam Chinh, tứ Trưởng); báo còn nêu thêm vị tướng "sạch" thứ năm là tướng Nguyễn Văn Hiếu.



Tướng Hiếu vừa mất chức tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh chỉ vì lương tâm ông xót thương cho bao mạng người ngã xuống vô ích trước sự vây tỏa trong tầm đạn của quân thù ở chiến trường Campuchia nguy hiểm, tuy quân số được cân nhắc kỹ nên không mất mát bao nhiêu nhưng tổn thất nặng nề về mặt vũ khí, quân trang.



Sau đó vị tướng hiền lành liêm khiết bị quy tội về trách nhiệm sự bại trận trong chiến cuộc này. Họ đổ oan lên đầu vị chỉ huy sư đoàn. Cách chức chỉ là một lý do để khỏa lấp hòng dẹp tắt bớt đi một tướng sạch, bớt được sự chống đối mà có phương hại đến bè phái tham nhũng của bọn người đang nắm bạo lực quyền hành.



Nhưng nhiệm vụ cao cả trong trái tim người tướng lãnh đã thắng nỗi cô đơn vì phải bị loại khi đất nước đang đương đầu với khó khăn, nên vị tướng thanh liêm này nhận lời về cộng tác với phó tổng thống Hương, vị phó tổng thống sung sướng đón nhận tướng Hiếu về làm phụ tá cho mình trong công việc bài trừ tham nhũng quân đội.



Sau mấy tháng làm việc điều tra về sự thất thoát đục khoét dần trong quỹ tiết kiệm của quân đội, Tướng HIếu đã vượt những nguy hiểm đang rình rập và niềm an ủi của tướng Hiếu là còn có vị phó tổng thống Hương tuổi đã già mà lòng yêu nước còn cao hơn tuổi của Ngài.



Tướng Hiếu đã báo cáo về thành quả của mình trên đài màn ảnh truyền hình về các vụ thất thoát quá to tát trong "Quỹ Tiết Kiệm" của lính. Tướng Hiếu đã tiến sâu vào cuộc điều tra này, không ngại bất cứ một trở lực nào ngăn cản làm tướng Hiếu chùng bước. Nhưng cuối cùng rồi vị phó tổng thống đành ôm thất vọng phải trả tướng Hiếu về lại quân đội vì chính ngay cả phó tổng thống và tấm lòng vàng của tướng Hiếu không thể nào ngăn chận được nạn tham nhũng đang ăn sâu dưới lớp quyền lực, bạc tiền!



Tướng Hiếu trở lại quân đội giữ chức Phó Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Đà Nẵng rồi Phó Tư lệnh Quân Đoàn 3 Biên Hoà dưới quyền Tư lệnh trung tướng Nguyễn Văn Toàn.



Cuộc đời của một tướng sạch như tướng Hiếu chỉ biết hy sinh và sống giản dị, ngay cả vợ con tướng Hiếu cũng sống khiêm tốn đơn giản như mọi người. Ngoài căn nhà trả góp trong cư xá Sĩ Quan Chí Hoà, riêng bản thân ông thì ở trong căn nhà lưu động của Tổng Hành Dinh. Tướng Hiếu chỉ ăn uống ở câu lạc bộ như những sĩ quan khác. Thỉnh thoảng cũng đi nghe nhạc hay xem ciné do viên chức lãnh sự Mỹ ở Biên Hoà mời vào những chiều sau khi hết giờ làm việc.



Buổi sáng tai biến xảy đến cho cuộc đời của một vị tướng liêm khiết, ngày 8/4/1975, một máy bay oanh tạc đã cất cánh bay từ Biên Hòa đến Sàigòn ném hai quả bom xuống Dinh Độc Lập và cố ý giết hại tổng thống. Nhưng điểm ném bom không gây thiệt hại cho ai và cũng không tổn thất nặng.



Trời bắt đầu tắt nắng, ngoài đường vẫn còn lệnh giới nghiêm 24/24 cô đọng cả thành phố Sàigòn trong cảnh căng thẳng khó thở. Bên trong nhà riêng vợ con tướng Hiếu có tiếng chuông điện thoại reo vang báo tin "tướng Hiếu bị thương" rồi hẹn sẽ báo tin lại sau. Tiếng bà Hiếu sụt sùi vì lo lắng cho sinh mạng của chồng, bầu không khí trong căn nhà cư xá buồn ảm đạm, chờ đợi từng giây phút để được chuông điện thoại báo thêm về tin tức tướng Hiếu.



-Reng, reng, reng ...



Bà tướng nóng tin chồng bị thương khi nghe chuông reo vội chạy nhanh lại chụp lấy điện thoại:



- Cái gì ? Xin lập lại!



Mặt bà tái xanh, môi bà lấp bắp nói không ra hơi, tay chân bà run rẩy như sắp quỵ xuống nền nhà:



- Hãy lập lại ... Sao ? Không, không thể nào như thế được ...!



Bà ném điện thoại xuống bàn, ôm lấy mặt rú lên gọi tên chồng khóc bên cạnh đàn con nhỏ còn khờ dại:



- Họ giết bố con rồi các con ơi! Bố con chết rồi, chết thật rồi ...!



Đầu óc bà căng tưởng chừng như vỡ tan từng mạch máu. Bà cố trấn tĩnh không khóc nhưng sao những giọt nước mắt vô tình cứ luôn trào xuống hai bên má. Tim bà đau thắt nhói từng cơn như có ai đang bóp xoáy tận cùng. Tóc bà rũ xuống vai, đôi bờ vai gầy guộc, nước mắt bà tuôn thành dòng như suối, rồi bà lịm dần trong vòng tay đứa con trai lớn của bà! Khi bà hồi tỉnh dậy, bà bảo tài xế đưa bà lên Biên Hoà. Như còn hốt hoảng quá độ bà chợt khóc lớn lên gọi người nhà trong cơn đau khổ tận cùng:



- Chúa ơi! Hãy cứu giúp lấy chồng con, còn thằng Dũng ngoài chiến trường nữa, làm sao kêu nó về đây, làm sao đây, bố nó chết rồi! Người ta sẽ giết chết thêm con tôi nữa. Họ giết chồng tôi rồi! Dũng, Cảm, Thư, Hà ơi ...!



Khi lính đưa bà xuống Biên Hoà thì người ta đưa bà vào văn phòng Phó tư lệnh quân đoàn. Bà thấy chồng bà ngồi chết tại bàn giấy. Bà nhận thấy ngay có điều lạ: không thấy có máu me, chỉ có một vệt đỏ ở cằm trái. Gương mặt vị tướng hiền lành đã biến dạng vì viên đạn quái ác tàn nhẫn xuyên qua từ cằm lên đỉnh đầu, mắt người còn trợn trừng vì đón nhận cái chết bất ngờ của số phận bạc.



Sáng hôm sau, báo chí loan tin đầy trên các trang hàng đầu là tướng Hiếu lau súng bị cướp cò tử thương. Nghi lễ được tổ chức theo đúng nghi thức trong quân đội, và theo sự quyết định của bà góa phụ thì nơi an táng sẽ là Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, phần đất dành làm nơi yên nghỉ cho tướng Hiếu.



Khiết Anh



generalhieu.com



Những Ai Muốn Tướng Hiếu Chết?
(Những giả thuyết quanh cái chết của Tướng Hiếu)



Đến ngày hôm nay cái chết của Tướng Hiếu vẫn còn là một bí ẩn. Do đó có rất nhiều giả thuyết được nêu ra: tự sát, lỡ tay lẩy cò, chủ mưu thảm sát với lý do quân sự, lý do thù vặt cá nhân hay tập đoàn, lý do chính trị. Sau đây xin góp nhặt tất cả những giả thuyết, bất luận thực hư, hợp lý hay viển vông. Mục đích chính là tập trung một chỗ tất cả các giả thuyết về cái chết của Tướng Hiếu; công việc phân tách, tổng hợp và nhận định để đi tới kết luận ai là thủ phạm, xin để dành cho chính độc giả.



Chính Tướng Hiếu



1. Đại Tá Nguyễn Khuyến viết: "Tôi sửa soạn đi ăn trưa với một vài người bạn ở Sài Gòn lên thăm thì được Phòng An Ninh Quân đoàn điện thoại báo cho biết Tướng Hiếu đã dùng súng lục tự vận tại văn phòng. Tôi rất bàng hoàng và kinh ngạc vì đó là chuyện khó tin. Tôi mới chào từ biệt ổng cách đây chừng 15 phút sau buổi họp. Tôi thấy ổng vẫn vui vẻ như thường lệ, không có triệu chứng gì của một kẻ chán đời. Làm sao có chuyện tự vận?"



2. Thông tín viên UPI viết: "Tư Lệnh Phó QLVNCH bảo vệ Sài Gòn được khám phá bị bắn tối thứ ba sau một cuộc cãi vả về chiến thuật với cấp trên của mình. Các nguồn tin quân sự nói là có vẻ ông tự vận. Các nguồn tin đó nói Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu chết với một vết thương do một viên đạn gây nên ở miệng tại văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 ven biên phi trường quân sự Biên Hòa, cách Sài Gòn 14 miles."



3. Alan Dawson viết: "Phó Tư Lệnh Quân Đoàn 3 vùng bao quanh Sài Gòn, Tướng hai sao Nguyễn Văn Hiếu, đã chết. Tin đồn ông tự vận tại văn phòng ở Biên Hòa sau một cuộc cãi vả với thượng cấp ông, Tướng ba sao Nguyễn Văn Toàn, liên quan đến việc bảo vệ vùng Thủ Đô." (55 Days - The Fall of South Vietnam, 1975)



4. John Prados viết: "Năm 1975, Tướng Hiếu giữ chức tư lệnh phó vùng quân sự bao gồm Sài Gòn; ông tự vận khi rõ ràng là Miền Nam Việt Nam sắp cáo chung." (The Hidden History of the Vietnam War, 1995)



Không ai hết: tai nạn rủi ro súng lẩy cò



1. Đại Tá Nguyễn Khuyến viết: "Theo lời Trung Tá Quyến, Chỉ huy trưởng Quân cảnh Quân đoàn 3 thì đây là một tai nạn súng lục cướp cò. Không có bằng chứng về giả thuyết Tướng Hiếu bị ám sát hay tự sát. Tôi cũng đồng ý về nhận xét này của Quân cảnh vì theo tin tức chúng tôi nhận được thì biết Tướng Hiếu rất thích súng lục. Ông đã từng giựt giải vô địch thiện xạ súng lục. Trước đó ít lâu, ông được ai đó biếu cho một khẩu súng lục, loại hiếm có. Ông rất quý khẩu súng này nhưng phiền một cái là nó hay bị cướp cò. Cái khóa an toàn bị hỏng sao đó nên dễ bị cướp cò. Ông đã giao cho Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận sửa đi sửa lại mấy lần rồi. Đây là tin tức tôi nghe được từ Đại tá Khang, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận kể lại."



2. Tướng Nguyễn Văn Toàn viết: "Bất ngờ vào ngày (không nhớ) lúc bay hành quân về thì được tin anh Thiếu Tướng Hiếu đã tử nạn ở văn phòng. Tôi liền bay đến văn phòng Thiếu Tướng Hiếu thì tôi thấy anh ấy đã chết bởi một viên đạn súng lục trổ từ mắt lên đầu và chết ngay nơi bàn giấy. Sự tử nạn của anh Hiếu là do súng lục cướp cò mà ra."



3. Tướng Hoàng Xuân Lãm viết: "Thiếu Tướng đã qua đời vì một tai nạn súng nhỏ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 sau khi chủ tọa một cuộc họp hành quân."



4. Tướng Lâm Quang Thi nói: "Có thể là anh Hiếu chết vì súng lục cướp cò. Tôi còn nhớ hồi chúng tôi còn là Thiếu Tá ở Quân Đoàn 1, Đà Nẵng, chúng tôi thường bắn súng lục thi vào cuối tuần. Anh Hiếu bắn giỏi hơn tôi, vì hay mài dũa nòng súng dữ lắm."



Tập Đoàn Tham Nhũng



1. Trong cuốn Blind Design (1995) Tướng Hoàng Văn Lạc nêu tên các Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và Đồng Văn Khuyên trong số tập đoàn tướng lãnh tham nhũng giết hại Tướng Hiếu:



Khi Hương được bổ nhiệm Chủ Tịch Ủy Ban Bài Từ Tham Nhũng, với sự phụ tá của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Thiệu đồng ý cho Hương duyệt xét hồ sơ của Viên. Trong một bữa cơm gia đình ở Vĩnh Long, Hương nói với tôi là ông đề nghị với Thiệu duyệt xét hồ sơ của Viên, và sau này hồ sơ của Quang nữa. Tôi giải thích cho Hương là cho dù Viên có bị loại, thì Viên cũng được thay thế bởi Quang, chứ không phải bởi Trí. Hơn nữa, rất khó cho Thiệu và Hương cách chức Viên. Vì lẽ không đủ bằng chứng Viên hành sự thiếu sót hay bất trung, và Viên khôn ngoan đủ để cho Thiệu có lấy được bằng chứng. Dưới sự bao che của Viên, Khuyên sẵn sàng hy sinh cho Viên. Khuyên, mặt khác, được sự hỗ trợ của MACV vì ông luôn đồng ý với cố vấn trong việc chu toàn bổn phận quản trị tiếp tế, chuyên chở, tồn kho, và các dịch vụ tiếp vận khác cung ứng cho các cuộc hành quân được thành công.



Hương bắt đầu tập trung điều tra vào Quang nhưng Thiệu tìm đủ mọi cách để bao che cho Quang vì bảo vệ Quang tức là bảo vệ mình vì các dịch vụ của Quang và của Thiệu là một. Tướng Hiếu thu thập và hoàn tất hồ sơ về Quang và trở nên bất mãn. Ông xin trở lại Quân Đội.



Hương thất vọng và thôi không đeo đuổi các viên chức cao cấp, và thay vào đó, ông chú tâm vào những viên chức thấp bé hơn.



{...}



Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Vùng 3 Chiến Thuật, và cựu phụ tá cho Phó Tổng Thống phụ trách chống tham nhũng, cũng chết một cái chết đáng nghi ngờ. Tướng Hiếu trẻ trung, đầy nhiệt huyết, nhiều khả năng và trong sạch, và giới truyền thông báo chí cho là cái chết của ông là do bàn tay của các tướng lãnh tham nhũng.



2. Phạm Lê Hiệp viết:



Tôi xin đóng góp ý riêng về cái chết của Tướng Hiếu. Tướng Hiếu bị giết vì đã điều tra chuyện tham nhũng của Tướng Toàn. Đường giây tham nhũng ấy do gia đình ông bà Thiệu đứng đầu. Do đó, việc Tướng Toàn ra lệnh giết Tướng Hiếu để ếm nhẹm là chuyện đương nhiên. Cũng có nguồn tin nói rằng: Ông Trần Văn Hương chỉ thị cho TT Hiếu điều tra chuyện tham nhũng của ông Thiệu. Khi ông Thiệu đưa TT Toàn về làm Tư Lệnh, ông ta đã ra lệnh TT Toàn hạ sát TT Hiếu. Nếu TT Hiếu thật sự bị súng cướp cò khi đang chùi súng thì đạn phải vào bụng hay đùi."



3. Kỳ Phong viết:



Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu chỉ huy Sư Đoàn 22 Bộ Binh năm 1964 khi ông còn mang lon Đại Tá. Tin đồn cho là ông bị đàn em của Tướng Đặng Văn Quang sát hại khi Tướng Hiếu sắp sửa phúc trình các hành động tham nhũng của Tướng Quang năm 1974.



4. Vào cuối tháng 3/1975, khi Thiệu bị áp lực mạnh từ tứ phía muốn ông từ chức Tổng Thống, và người kế vị sẽ là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, tập đoàn tướng lãnh tham nhũng - trong số đó có cả ông Thiệu - lo sợ số mạng của họ sẽ giống số mạng Tướng Nguyễn Văn Vỹ trong vụ tham nhũng Quỹ Tiết Kiệm năm 1972, vì họ biết là ông Hương sẽ cử Tướng Hiếu vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Khi đó, chắc chắn là các xấp hồ sơ tham nhũng mà ông Thiệu đã ngâm tôm ếm nhẹm sẽ được khui ra. Do đó họ thấy cần phải hành động ngăn chận Tướng Hiếu trước.



Tướng Nguyễn Văn Toàn hay Tướng Đồng Văn Khuyên



Phạm Lê Hiệp viết:



Tôi xin mạn phép đưa thêm một giả thuyết về chuyện Tướng Hiếu. Có lẽ Tướng Hiếu bị Tướng Toàn hoặc Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh giết vì ông ta có kế hoạch phản công tại Xuân Lộc. Nếu kế hoạch này được áp dụng và thành công, VNCH có thể kéo dài cuộc chiến thêm vài ba năm nữa. Trong những năm đó biết đâu chừng ông Thiệu lại không liên kết với Trung Cộng hay Pháp để tạo một thế đứng chính trị mới cho miền Nam. Thế đứng đó sẽ bất lợi cho Hoa Kỳ và Bắc Việt. Vì lý do đó, Bắc Việt hay Hoa Kỳ phải chận đứng kế hoạch của Tướng Hiếu. Tướng Toàn (một người buôn gạo và quế cho Cộng Sản và rất thân Mỹ) hay Tướng Khuyên (Cộng Sản nằm vùng) là người đã ra lệnh hạ sát Tưóng Hiếu.



Tướng Trần Thiện Khiêm



Phạm Lê Hiệp viết:



Tôi xin thêm một giả thuyết nữa về cái chết của tướng Hiếu. Trong năm 1974, hai ông Thiệu Khiêm xung-đột với nhau vì chuyện bầu-cử năm 1975. Nguyên-nhân là khi ông Thiệu đề cử ông Khiêm làm thủ-tướng thay ông Nguyễn văn Lộc (phe ông Kỳ), ông đã hứa hẹn với ông Khiêm là vào năm 1975 ông Khiêm thay thế ông ta trong chức-vụ tổng-thống.



Sau vài năm cầm quyền, ông Thiệu tham-quyền cố-vị đã sửa hiến-pháp để ông ta có thể tranh-cử một lần nữa. Ông Khiêm giận nên đã đưa những tài-liệu tham-nhũng của ông bà Thiệu cho LM Trần Hữu Thanh. Ông Thiệu trả đũa bằng cách cách chức một số người thuộc vây cánh ông Khiêm.



Tháng 1/1975 trước cuộc tấn-công Phước Long, ông Thiệu đang phân-vân không biết làm gì với những lời hối-thúc của hai cố-vấn Ted Serong (Úc) và Vanuxem (Pháp, mật-thám của Mỹ). Ông Serong khuyên ông Thiệu triệt-thoái vùng I và II đem quân về tái phối-trí và xin viện-trợ của một nước khác (xem toàn bộ tập hồ-sơ triệt-thoái "Give me 10 more years" tại thư-viện của TT LB Johnson). Ông Vanuxem thì khuyên nên thoả-hiệp với Pháp. Cùng lúc ấy, các đại-sứ VNCH tại Âu Châu và Á Châu đều được điệp-viên Trung-Cộng tiếp-xúc đề-nghị VNCH thoả-hiệp ngoại-giao với Bắc Kinh. Nếu ông Thiệu đồng-ý, Trung-Cộng sẽ cúp viện-trợ và cắt ống tiếp-liệu của Bắc Việt (khoảng 5000km ống dẫn dầu đến tận Lộc Ninh).



Ông Thiệu vì tin vào mấy lá thư cam-đoan tái-chiến của cựu TT Nixon đã không chịu áp-dụng giải-pháp quân-sự hay ngoại-giao nào ngoài việc tiếp tục xin viện-trợ quân-sự của Mỹ. Khi Ban Mê Thuột thất-thủ, ông Thiệu đem kế-hoạch tái phối-trí quân-đội áp-dụng tại QĐ II và QĐ I. Quân Đoàn II rút theo đường 7B bị Cộng Quân đuổi đánh tan rã. Quân Đoàn I bị cô-lập phải rút bằng đường biển bị thiệt hại nặng nề. QĐ III và IV trở thành phòng-tuyến của VNCH. Lúc đó, nếu QĐ III cản được sức tiến công của Cộng Quân, ông Thiệu có thể quay sang Pháp hay Úc để xin viện-trợ. Ông Thiệu cũng có thể xin Trung Cộng can-thiệp sau khi đặt quan-hệ ngoại-giao . Nếu được như vậy, chắc chắn ông Thiệu sẽ còn giữ được chức mình vài năm nữa. Đó là điều mà TT Khiêm không muốn. Do đó, Tướng Hiếu với kế-hoạch tổng phản-công tại vùng III phải bị giết. Ai ra lệnh giết? Có thể là TT Khiêm (rất thân Mỹ) chăng? Trung Tá Quyến và Quân Cảnh Tư-Pháp dính líu thế nào? An-ninh quân-đội tại sao không điều tra ra được?



Tướng Nguyễn Văn Toàn



1. Khi phóng viên UPI và ký giả Alan Dawson nói là Tướng Tư Lệnh Phó Hiếu chết sau một cuộc cãi vả kịch liệt về chiến thuật với Tướng Tư Lệnh Toàn, chắc hẳn họ ngụ ý là Tướng Toàn bắn hay ra lệnh sai bắn Tướng Hiếu.



2. Denis Warner viết trong Certain History - How Hanoi won the war (1978): "Theo Tướng Dung, sát nhân là một người thân tín của ông Thiệu và là thượng cấp của Tướng Hiếu, tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Nguyễn Văn Toàn.



3. Hoàng Khởi Phong viết trong Ngày N+...: "Đàn em tướng Toàn đã giúp tướng Hiếu, một tướng sạch khác đến nơi an nghỉ cùng tướng Thanh rồi."



4. Đại đa số giới quân sự cho là Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu.



5. Các cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 3 Trần Hưng Đạo trường Võ Bị Đà Lạt, trong một buổi họp mặt ở California, có hỏi thẳng Tướng Toàn. Câu trả lời của Tướng Toàn là không.



6. Tướng Toàn viết trong thư gửi cho em Tướng Hiếu: "Bất ngờ vào ngày (không nhớ) lúc bay hành quân về thì được tin Thiếu Tướng Hiếu đã tử nạn ở văn phòng."



7. Tướng Lý Tòng Bá quả quyết với em Tướng Hiếu là không phải Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu vì khi Tướng Hiếu chết ở văn phòng thì ông đang họp với Tướng Toàn ở một phòng họp khác cũng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.



8. Đại Úy Đỗ Đức, tùy viên Tướng Toàn, nói là cả ngày hôm Tướng Hiếu chết, Tướng Toàn ở trong văn phòng làm việc; Tướng Toàn về tư dinh khoảng 5 giờ 30 chiều; một chập sau thì có tin Tướng Hiếu chết.



9. Đại Tá Lê Văn Trang nói là trong một dịp ông qua California, ông được Trung Tá Quyến cho hay là theo ý ông thì chính Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu.



Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu



1. Phóng viên UPI viết: "Không biết sự kiện Tướng Hiếu chết có liên quan gì với vụ oanh tạc Dinh Độc Lập của ông Nguyễn Văn Thiệu xảy ra sáng thứ ba cùng ngày không?"



2. Phóng viên Denis Warner viết trong Certain History - How Hanoi won the war (1978):



Trong hai tuần lễ tiếp sau, có vô số tin đồn đảo chánh. Một tối, một viên sĩ quan tham mưu làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu gọi điện thoại tại phòng tôi mướn ở khách sạn Continental và cho tôi hay là một cuộc đảo chánh đang tiến hành và tôi có thể an toàn mà viết là ông Kỳ sẽ lên nắm chính quyền trước sáng hôm sau. Người đó rất đáng tin cậy nên tôi đã bước xuống khỏi giường và khởi sự viết thiên phóng sự. Nhưng rồi, suy nghĩ lại (hay tại tôi nhát sợ phải đối mặt với các toán binh ngoài đường phố khi không có giấy phép di chuyển), tôi đã xé bỏ vào thùng rác và đi ngủ trở lại. Như vậy lại còn hay hơn.



Thực sự thì ông Kỳ có kế hoạch đảo chánh, dùng tới không quân, lính dù, và lực lượng đặc biệt. Ông khựng lại vào phút chót chỉ vì ông tin là Đại Sứ Martin đã đồng ý gây áp lực để ông Thiệu từ chức. Tôi không rõ Tướng Hiếu, tư lệnh phó Vùng 3 Chiến Thuật (tuyến phòng Sài Gòn) có liên hệ tới vụ đảo chánh không, nhưng vào tối ngày 7 tháng 4 ông bị bắn và giết tại bàn giấy ở Biên Hoà. Theo Tướng Dung, sát nhân là một người thân tín của ông Thiệu và là thượng cấp của Tướng Hiếu, tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, Tướng Nguyễn Văn Toàn.



Đúng 8 giờ 22 phút ngày hôm sau, khi đường Catinat đầy nghẹt xe cộ qua lại, một chiến đấu cơ F5E do Trung Úy phi công KQVN Nguyễn Thành Trung lái, bay trên đầu thành phố rồi bổ đầu đâm thẳng xuống Dinh Độc Lập.



3. Tướng Phạm Văn Đổng nói: "Ông Trần Văn Hương chỉ thị cho Thiếu Tướng Hiếu điều tra chuyện tham nhũng của ông Thiệu. Khi ông Thiệu đưa Trung Tướng Toàn về làm Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông ta đã ra lệnh Trung Tướng Toàn hạ sát Thiếu Tướng Hiếu."



4. Ai cũng biết là Tổng Thống Thiệu rất sợ bị đảo chánh. Tướng Vĩnh Lộc nói Tổng Thống Nhà Nam sợ đến cả chính bóng hình mình, và run rét Dù hay Thiết Giáp đảo chánh. Tướng Trần Văn Đôn nói Thiệu sợ nếu có đảo chánh ông sẽ bị giết như ông Diệm. Tướng Lê Quang Lưỡng nói Thiệu đang tâm xẻ Sư Đoàn Dù ra làm ba, khi ông đưa Sư Đoàn này từ Quân Đoàn 1 về, vì sợ Dù đảo chánh. Ông Thiệu thà mất nước chứ không muốn mất ghế Tổng Thống. Thiệu dám hy sinh cả một đoàn quân Dù ưu tú và cả một quốc gia thì có xá gì tính mạng một Tướng Hiếu một khi ông nghi Tướng Hiếu đứng ra cầm đầu đảo chánh. Tướng Trần Văn Đôn đã dùng tiếng Pháp "méchant" để mô tả Thiệu như là một con người độc ác (The Fall of South Vietnam. Statements by Vietnamese Military and Civilian Leaders, by Stephen T. Hosmer, Brian M. Jenkins, and Konrad Kellen).



5. Nhân một buổi đại hội toàn quốc cựu tù nhân chính trị tại Cali, một người hỏi riêng Tướng Toàn nghĩ sao về vụ Tướng Hiếu là người hay xông pha ngoài mặt trận lại chết vì súng lẩy cò thì được Tướng Toàn trả lời, "Ông Thiệu nay đã chết rồi, thôi bỏ chuyện đó cho qua đi."



6. Ý kiến của một người lính - Trước tiên tôi xin tự giới thiệu, tôi là một người lính phục vụ tại SĐ 5 BB thuộc ĐĐ 5 TRINH SÁT dưới thời Tướng Trần Quốc Lịch và sau này là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lệnh Sư đoàn. Thời gian gần đây tôi có dịp đọc những bài viết của ông trong trang nhà Tướng Hiếu. Trước khi Saigon bị cưỡng chiếm tôi chỉ nghe các đàn anh kể lại về tướng Hiếu là một vị tướng lãnh tài năng trong quân đội. Sau này qua các ý kiến của rất nhiều người đã từng cộng tác, hoặc quen biết với tướng Hiếu đều có cùng một nhận định tướng Hiếu là một thiên tài quân sự. Một con người liêm khiết, có tư cách và tinh thần phục vụ vì quốc gia, dân tộc. Vì vậy cái chết của tướng Hiếu là một mất mát to lớn cho đất nước. Nhưng cái chết bí ẩn của tướng Hiếu cho đến bây giờ vẫn còn là một điều bí ẩn đối với gia đình ông cũng như cho tất cả mội người. Vì vậy tôi rất hiểu rằng sau bao nhiêu năm ông đã bỏ công thu thập những chứng cứ để tìm ra sự thật về cái chết của tướng Hiếu. Qua bài viết này tôi hy vọng đóng góp phần nào công sức cho cho gia đình ông và cho những người có tấm lòng với tướng Hiếu.



Lần theo các tư liệu mà ông đã thu thập cùng những lời phát biểu của các vị tướng tá trong quân đoàn 3 lúc bấy giờ (tôi xin phép không nêu ra đây để không làm mất thời gian) tôi xin phép được nêu ra ý kiến như sau:



1/ Trường hợp tướng Hiếu tự sát: Không thuyết phục vì tướng Hiếu là một người Công giáo, vả lại tướng Hiếu trong thời gian đó vẫn sinh hoạt bình thường.



2/ Trường hợp chùi súng bị cướp cò: Không thuyết phục vì tướng Hiếu là một tay thiện xạ và rất am hiểu về súng đạn. Trong thao tác lau súng theo tác giả Đăng văn Nhâm gồm có 3 động tác an toàn nên đối với tướng Hiếu không thể xảy ra trường hợp cướp cò để xảy ra tử vong được.



3/ Trường hợp bị mưu sát: Đây là trường hợp khả thi nhất. Nhưng ai là thủ phạm ?



Trong vấn đề này có 3 đối tượng mà chúng ta cần phân tích.



a/ Người Mỹ: Thời gian này đối với người Mỹ đã coi như chiến tranh tại VN đã chấm dứt. Họ không có thời gian để xen vào chuyện nội bộ VN nữa. Do đó đối tượng này chúng ta loại ra.



b/ Cộng sản: Sau khi chiếm được Ban mê thuột và Phước Long mà người Mỹ không can thiệp, và không tiếp tục viện trợ cho Miền Nam nữa thì coi như chế độ VNCH sắp cáo chung, Họ không có hơi sức đâu mà lo những chuyện phụ thuộc. Vì vậy giả thuyết cộng sản ám sát tướng Hiếu bị loại ra.



c/ Nguyễn Văn Thiệu và tập đoàn tham nhũng: Như chúng ta đã biết tướng Hiếu được phó tổng thống Trần văn Hương bổ nhiệm làm trưởng ban bài trừ tham nhũng. Trong thời gian làm việc ông đã phanh phui các vụ tham nhũng lớn làm cho 2 ông tướng và 6 đại tá mất chức mà những người này là tay chân bộ hạ của ông Thiệu. Vì vậy đối với ông Thiệu tướng Hiếu là đối tượng cần phải loại trừ vào thời điểm thích hợp nhất. Tiện đây tôi xin nhắc lại vụ tham nhũng ở Long An còn được gọi là vụ còi hụ Long an vô tình bị lộ do 2 trung sĩ khi làm nhiệm vụ, vì tưởng là đoàn xe kéo quân về đảo chính nên đã báo cho đại tá Lê văn Năm ra lệnh chận đoàn xe lại. Thay vì điều tra làm rõ sự việc nhưng ông Thiệu ra lệnh cách chức đại tá Năm và các hạ sĩ quan, sĩ quan thuộc tiểu đoàn 6 quân cảnh phải ra tòa án quân sự trong đó có bản án tử hình sau giảm xuống còn chung thân. Một sự việc tình cờ bị phát hiện như vậy mà ông Thiệu còn muốn giết người huống hồ như vụ tướng Hiếu dám phanh phui cả một đường dây tham nhũng của ông ta.(trích nguồn của ông Đặng văn Nhâm). Khi tướng Thuần lên thay tướng Minh có yêu cầu ông Thiệu bổ nhiệm cho tướng Hiếu làm phó tư lệnh QĐ. Theo tôi đó chỉ là một màn kịch, không phải vì mến tài của tướng Hiếu mà bổ nhiệm tướng Hiếu làm phó, chỉ là một chức vụ ngồi chơi xơi nước. Nhưng chủ yếu là để theo dõi và chờ thời cơ để triệt hạ tướng Hiếu.



Trong những bài viết của ông về cái chết của tướng Hiếu tôi thấy nổi lên 2 vấn đề: thời gian tướng Hiếu chết và những mâu thuẫn trong lời khai của những người có mặt tại hiện trường. Theo tôi đây không phải là điểm mấu chốt mà quan trọng nhất là địa điểm tướng Hiếu chết.



Những người đạo diễn về cái chết của tướng Hiếu đã phạm một sai lầm rất lớn là họ mặc nhiên xác nhận tướng Hiếu chết tại bộ tư lệnh QĐ3. Điều này chắc chắn không ai dám phủ nhận. Bộ tư lệnh QĐ3 không phải là một cái chợ ai muốn ra vào cũng được chỉ trừ những người có nhiệm vụ, nhất là trong thời điểm chiến tranh đã gần đến thủ đô Saigon.



Sau khi dùng phương pháp loại trừ chỉ còn đối tượng 3 là: Nguyễn văn Thiệu và tập đoàn tham nhũng là có động cơ sát hại tướng Hiếu.



Vì vậy tôi có thể mạnh dạn kết luận rằng tướng Hiếu bị sát hại bởi: Nguyễn văn Thiệu ra lệnh cho tướng Toàn. Tướng Toàn không trực tiếp thi hành mà tổ chức cho một sát thủ là tay chân trong tập đoàn tham nhũng thực hiện, Sau đó dàn dựng kịch bản tướng Hiếu lau súng bị cướp cò. Nhưng địa điểm tướng Hiếu chết đã nói lên tất cả. Một kịch bản đã phạm sai sót lớn nhất ở phần cơ bản.



Một đôi điều góp ý cùng ông. (Duy Phương)




Nguyễn Văn Tín
Ngày 05 tháng 10 năm 1999
Cập nhật ngày 14.10.2010



Tôi Hỏi C.I.A Về Cái Chết Tướng Hiếu




Tôi nghĩ Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ (Central Intelligence Agency) chắc thể nào cũng phải biết rõ đến cái chết của Tướng Hiếu, anh tôi. Trước hết vì CIA đóng một vai trò then chốt, hầu như chủ yếu, trong mọi quyết định của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam từ khi Hoa Kỳ nhảy vào bàn cờ Đông Dương thay thế Pháp cho đến ngày chót của Đệ Nhị Cộng Hòa . Thứ đến vì sự liên lạc mật thiết giữa Tướng Hiếu với viên Tổng Lãnh Sự Mỹ Biên Hòa trong những tháng cuối cùng của Sài-Gòn; trong giới am hiểu ai cũng biết chức vụ Tổng Lãnh Sự là "diện", và nhân viên tình báo là "điểm". Một trong những giả thuyết Tướng Hiếu bị thảm sát ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III Biên Hòa cho là Tướng Hiếu bị tình nghi được sự hỗ trợ của CIA mưu toan đứng ra cầm quân đảo chính ông Thiệu. Tôi xin mượn lời của Tướng Vĩnh Lộc và độn thêm ba chữ: "Tổng Thống nhà Nam còn đa nghi hết bóng đến hình của mình, run Nhảy Dù, rét Thiết Giáp, khiếp Tướng Hiếu đảo chính"(Thư Gửi Người Bạn Mỹ, trang 82).



Do đó, từ khi qua đến Mỹ, tôi vẫn có ý định liên lạc với CIA để mong tìm được sự thật quanh cái chết của anh tôi. Tôi ý thức được rằng "cậy răng" CIA rất là khó vì sự sống còn của CIA tùy thuộc vào yếu tố bí mật thì làm sao bật mí CIA ra được! Quốc Hội Mỹ có ra đạo luật "Freedom of Information Act" buộc các cơ quan chính phủ Mỹ phải tháo mở mọi hồ sơ đã được giải mật cho bất cứ ai muốn xem, đồng thời cũng biểu quyết là sau 20 năm, mọi hồ sơ tự động được giải mật. Vì vậy tôi kiên nhẫn chờ đợi 20 năm mới khởi sự tìm cách liên lạc với CIA.



Giữa tôi và CIA cả thảy có ba thư đi và bốn thư về. Tôi xin đăng tải các lá thư được dịch sang tiếng Việt cho những ai tò mò muốn coi cho biết, và xin tóm tắt dẫn lối vào mỗi lá thư.



Trong lá thư đầu đề ngày 28/8/1996, tôi xin CIA bản sao hồ sơ về Tướng Hiếu, với vài chi tiết làm mấu: Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III, bị ám sát 2 tuần trước khi Sàigòn mất, có liên hệ với Tổng Lãnh Sự Biên Hòa, ông Richard Peters.



Trong lá thư trả lời đề ngày 2/10/1996, CIA lưu ý là không xác nhận cũng như không phủ nhận sự hiện hữu của hồ sơ yêu cầu được xem. Đồng thời cho biết là CIA được miễn tuân theo đạo luật "Tự Do Thông Tri" trong hai trường hợp: (b)(1)hồ sơ bảo mật theo lệnh Hành Pháp để bảo toàn an ninh quốc gia và chính sách ngoại giao; (b)(3)bổn phận Giám Đốc CIA bảo mật các nguồn và phương pháp tình báo, cùng cơ cấu tổ chức CIA.



Trong lá thư đề ngày 7/10/1996, tôi xin CIA xét lại lời yêu cầu vì: một, tôi chỉ xin coi hồ sơ đã được tự động giải mật khi đủ 20 tuổi; hai, tôi chỉ xin tin tức về anh tôi, chứ không quan tâm tới nguồn và phương pháp tình báo của CIA.



Trong lá thư trả lời đề ngày 25/10/1996, CIA thông báo là đồng ý chuyển lời yêu cầu qua Hội Đồng Giám Định cứu xét.



Trong lá thư trả lời đề ngày 15/01/1997, Ủy Ban Giám Định bác bỏ lời yêu cầu dựa vào hai lý do đã nêu trong lá thư trả lời đầu tiên, nhưng lần này chưng dẫn thêm nhiều khoản đạo luật đặc miễn khác.



Trong lá thư đề ngày 28/01/1997, tôi đổi chiến thuật xin CIA dựa trên căn bản tình người, chứ không chiếu theo đạo luật và pháp lý nữa, để mà tiết lộ cho tôi biết "ai" và "tại sao" anh tôi bị giết. Tôi cũng đề nghị CIA hoặc cho tôi "đọc bằng mắt mà thôi" hoặc "nói cho tôi nghe mà thôi" hầu tránh phương hại đến CIA.



Trong lá thư trả lời đề ngày 5/02/1997, CIA nói đề nghị của tôi ra ngoài phạm vi ấn định bởi đạo luật "Tự Do Thông Tri" (!) và vì vậy không thanh thỏa được, đồng thời thông tri là nếu muốn có thể nhờ toà án can thiệp.



Đến giai đoạn này tôi chào thua bức thành trì chắc nịch của CIA, chỉ mong là sau này Quốc Hội Mỹ có buộc được CIA nới lỏng chính sách bảo mật thêm tí nữa thì sẽ xông tới tấn công kỳ kèo lại!




Nguyễn Văn Tín
(tháng 8/1998)
Cập nhật ngày 17.12.2000



Quân Lực Hoa Kỳ Biết Gì Về Cái Chết Của Anh Tôi ?




Đang khi tôi ở Văn Khố Quốc Gia, người bảo quản văn khố hướng dẫn tôi trong công việc lục lọi tài liệu quân sự về anh tôi, đề nghị tôi liên lạc với Cơ Quan Tình Báo Quân Sự liên quan tới cái chết bí ẩn của anh tôi. Cơ Quan Tình Báo Quân Sự chuyển đạt thư yêu cầu của tôi qua Cơ Quan Điều Tra Án Mạng Quân Sự. Xin mời bạn cùng tôi đi lần theo con đường mòn bất định này.



1. Thư yêu cầu ngày 26 tháng 8 năm 1998



The FOI/Privacy Office
Department of the Army
U.S. Intelligence and Security Command
Fort George G. Meade, MD 20755-5995



Kính thưa quí vị:



Đây là thư thỉnh cầu chiếu theo Đạo Luật Tự Do Thông Tri.



Tôi tìm kiếm hồ sơ quí vị có liên quan đến anh tôi, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu của QLVNCH. Sau đây là sơ lược tiểu sử của anh tôi ngõ hầu giúp quí vị truy lục hồ sơ anh tôi:



1975 Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3
1969 Tư Lệnh Sư Đoàn 5
1966 Tư Lệnh Sư Đoàn 22
1964 Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2
1963 Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 1
1963 Tốt nghiệp Đại Học Quân Sự Cao Cấp, Ft Leavenworth



Tôi đặc biệt quan tâm muốn biết các hoàn cảnh bao quanh cái chết của anh tôi xảy ra tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 vào ngày 8/4/1975.



Nếu có khoản lệ phí phải trả, xin quí vị cho tôi biết.



Tôi rất đội ơn sự giúp đỡ của quí vị trong vấn đề này.



Trân trọng,



Tín Nguyễn



2. Thư trả lời của Cơ Quan Tình Báo ngày 23 tháng 9 năm 1998



Kính thưa ông:



Đây là văn thư trả lời thư thỉnh cầu của ông chiếu theo Đạo Luật Tự Do Thông Tri đề ngày 26/8/1998, xin hồ sơ về anh ông, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Văn phòng này nhận được thư ông ngày 31/8/1998.



Trong trường hợp ông không biết rõ về hệ thống lưu trữ hồ sơ ở cơ quan chỉ huy này, tôi xin giải thích là Cơ Quan Tồn Trữ Hồ Sơ Điều Tra Quân Lực Hoa Kỳ (IRR) gồm có những phúc trình về công tác và dự án tình báo, cùng về những vụ điều tra về cá nhân, sự việc, biến cố, hay tổ chức mang tính chất tình báo. Cách nhận diện các hồ sơ trong IRR là qua mục lục điện toán gọi là Mục Lục Minh Bạch Quốc Phòng và Điều Tra (DCII). Hồ sơ trong DCII không được nhận diện hay lôi ra bằng tên của cá nhân hay đơn vị phát sinh hồ sơ liên hệ. Để ấn định xem hồ sơ thỉnh cầu có nằm trong IRR không, DCII được truy vấn như sau:



Mục Lục Tên Chính. Mục Lục này chứa đựng các tên của những cá nhân có hồ sơ điều tra trong Bộ Quốc Phòng. Dữ kiện được lôi ra từ Mục Lục Tên Chính bằng tên họ của cá nhân và các dữ kiện cá nhân (ngày tháng năm và nơi chốn sanh, và số an sinh xã hội).



Mục Lục Tên Mà Thôi. Mục lục này gồm các tựa không nêu tên chỉ rõ một sự việc, biến cố, dự án, công tác, hay tổ chức mang tính chất tình báo. Mục Lục này được đưa lồng vào thỉnh cầu "tên mà thôi" và ấn định xem hồ sơ có thể truy lùng bằng cách duyệt xét hồ sơ bằng tên không.



Dùng dữ kiện ông cung ứng trong thư thỉnh cầu, chúng tôi đã kiểm chứng xem DCII có hiện hữu hồ sơ tình báo quân sự phù hợp với lời thỉnh cầu không, thì không thấy có hồ sơ gì cả. Dịch vụ này được miễn phí.



Nếu ông cung cấp thêm dữ kiện, đặc biệt là số an sinh xã hội, ngày và nơi sanh, của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, cơ quan này sẽ kiểm chứng hệ thống hồ sơ cách trọn vẹn hơn.



Hơn nữa, nếu ông có thể cung cấp bằng chứng Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu đã chết, khi truy lục được hồ sơ, thì văn phòng này không phải bảo tồn chi tiết riêng của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu (tỉ như ngày sanh, nơi sanh, địa chỉ nhà, vv...)



Nếu ông cần hỏi gì liên quan đến thư này, xin tự tiện liên lạc với ông Reilly (301) 677-4501. Xin nêu hồ sơ số 2095F-98.



Trân trọng,



Russell A. Nichols
Chief, Freedom of Information/Privacy Office



3. Thư thứ nhì ngày 1 tháng 10 năm 1998



Tham chiếu: hồ sơ số 2095F-98



Kính thưa ông Nichols:



Xin cám ơn ông về thư đề ngày 23/9/1998 trong đó ông xin thêm chi tiết liên quan đến anh tôi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu.



Sanh ngày 15/4/1929 (*)



Sanh tại Tientsin, Trung Quốc.



Tôi xin đính kèm Chứng Từ Khai Tử.



Trân trọng,



Tín Nguyễn



----------------------------------------------------------------
(*) ngày/tháng sanh ghi ở đây sai, đúng ra là 23/6/1929



4. Thư trả lời của Cơ Quan Tình Báo ngày 29 tháng 10 năm 1998



Kính thưa ông:



Đây là văn thư phúc đáp thư đề ngày 1/10/1998 của ông, thỉnh cầu bản sao hồ sơ liên quan đến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Văn phòng này nhận được thư ông ngày 9/10/1998.



Để ấn định sự hiện hữu của các hồ sơ điều tra tình báo liên quan đến Thiếu Tướng Hiếu, chúng tôi đã kiểm chứng Mục Lục Minh Bạch Quốc Phòng và Điều Tra (DCII) tự động. Mục lục này phản ảnh sự lưu trữ các phần tử điều tra nội trong phạm vi của Bộ Quốc Phòng. Kết quả của cuộc kiểm chứng DCII cho thấy không có hồ sơ nào về hồ sơ điều tra tình báo quân sự liên quan đến Thiếu Tướng Hiếu.



Kiểm chứng DCII sâu hơn cho thấy Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng Quân Đội Hoa Kỳ (USACRC) có thể có hồ sơ liên quan đến một người mang tên Hieu, Nguyen Van. Chúng tôi đã chuyển thư thỉnh cầu của ông qua văn phòng đó để họ trực tiếp phúc đáp ông. Nếu ông muốn liên lạc họ, địa chỉ là:



U.S. Army Crime Records Center
ATTN: CICR-FF
6010 6th Street
Fort Belvoir, VA 22060-5585



Nếu ông có cần hỏi gì về thư này, xin tự tiện liên lạc SFC Byrd tại (301) 677-4502/4501. Xin nêu hồ sơ số 64F-99.



Trân trọng,



Russel A. Nichols
Chief, Freedom of Information/Privacy Office



5. Thư trả lời của Cơ Quan Điều Tra Án Mạng ngày 7 tháng 12 năm 1998



Kính thưa ông:



Đây là văn thư phúc đáp thư thỉnh cầu chiếu theo Đạo Luật Tự Do Thông Tri (FOIA) xin tháo giải hồ sơ của Bộ Chỉ Huy Điều Tra Án Mạng Quân Lực Hoa Kỳ (USACIDC) liên quan đến Nguyễn Văn Hiếu, anh ông. Thư thỉnh cầu của ông được Bộ Chỉ Huy Tình Báo và An Ninh Quân Lực Hoa Kỳ tại Fort Meade, Maryland chuyển đến bản doanh này ngày 16/11/1998.



Chúng tôi xin lưu ý ông là thư thỉnh cầu của ông được xử lý chiếu theo đoạn 1-503b, Bộ Quốc Phòng, Điều lệ 5400.7-R, ấn định một phần rằng:



"Khi một bộ phận có một số lượng đáng kể thỉnh cầu đang cứu xét khiến không phúc đáp được nội trong 20 ngày làm việc, thư thỉnh cầu sẽ được xử lý theo hệ thống đa đạo, dựa vào ngày giờ tiếp nhận, mức độ lao lực và số giờ cần để xử lý thư thỉnh cầu..., ấn định tùy theo đơn giản hay phức tạp do phần tử mỗi bộ phận Quốc Phòng thẩm định..." và đoạn 1-503c xác định rằng: "Sẽ xử lý cấp bách khi đương đơn chứng minh được là cần cấp bách được cứu xét ưu tiên."



Cần nên lưu ý là hiện giờ chúng tôi đang cứu xét các thư thỉnh cầu nhận được tháng 6 năm 1998. Thư thỉnh cầu của ông được cứu xét theo thứ tự ngày giờ nhận được.



Mọi thắc mắc liên quan tới thư phúc đáp này phải viết cho the Director, U.S. Army Crime Records Center, Attention: Freedom of Information/Privacy Act Division (F98-2387), 6010 6th Street, Building 1465, Fort Belvoir, Virginia 22060-5585.



Trân trọng,



Philipp J. McGuire
Director, Crime Records Center



6. Thư thứ 2 của Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng ngày 24/8/1999



Kính thưa ông:



Đây là để phúc đáp thư thỉnh cầu giải tỏa tài liệu liên quan tới ông Nguyễn Văn Hiếu, chiếu theo Luật Tự Do Thông Tri (FOIA), và là bổ xung cho thư phúc đáp của chúng tôi đề ngày 7/12/1998.



Xin thông báo ông biết là Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng Quân Lực Hoa Kỳ (CRC) là nơi lưu trữ hồ sơ của các Báo Cáo Điều Tra (ROI) và Báo Cáo Quân Cảnh (MPR) thuộc Ban Chỉ Huy Điều Tra Án Mạng Quân Lực Hoa Kỳ (ASACIDC). Hồ sơ lưu trữ tại bản doanh này được sắp xếp theo ngày và nơi sanh, và theo các dữ kiện khác khả dĩ kiểm tra đúng các cá nhân. Một cuộc tìm kiếm hồ sơ án mạng của Quân Lực HK dùng các chi tiết ông cung cấp, cho thấy là không có hồ sơ nào tại USACIDC đáp ứng lời thỉnh cầu của ông.



Thư phúc đáp "không có hồ sơ" này được thảo với quyền của Chuẩn Tướng David W. Foley, Chỉ Huy Trưởng, USACIDC, là Cơ Quan Thẩm Quyền Từ Chối Tham Chiếu và Hiệu Đính cho các hồ sơ của USACIDC chiếu theo luật PA (Riêng Tư) và là Thẩm Quyền Khước Từ Sơ Khởi cho các hồ sơ của USACIDC chiếu theo luật FOIA, và có thể khiếu nại lên Bộ Trưởng Quân Lực. Nếu ông quyết định khiếu nại, đơn khiếu nại phải nạp nội trong 60 ngày kể từ ngày lá thư này. Trong đơn khiếu nại cần phải nêu rõ dựa trên căn bản nào ông bất đồng với lời khước từ, và cần nêu lên lý do chánh đáng để xin tài liệu. Đơn khiếu nại phải nạp qua trung tâm này và gửi tới Director, US Army Crime Records Center, Attention: FOIA/PA Division (P98-2387), Building 1465, 6010 6th Street, Fort Belvoir, Virginia 22060-5585, để nhờ chuyển, theo đúng cách, cho Văn Phòng Bộ Trưởng Quân Lực.



Tôi tin là lá thư này sẽ giúp đỡ ông.



Trân trọng,



Phillip J. McGuire
Director, Crime Records Center



7. Thư phúc đáp đề ngày 28/8/1999



Kính thưa ông McGuire:



Xin cám ơn ông về lá thư đề ngày 24/8/1999 trong đó ông thông báo tôi là không có hồ sơ về ông Nguyễn Văn Hiếu dựa vào những chi tiết tôi đã cung cấp cho Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng Quân Lực HK.



Khi tôi kiểm lại chi tiết tôi đã cung cấp cho ông Russel Nichols, Trưởng Phòng, FOI/PA của Ban Chỉ Huy Tình Báo và An Ninh QLHK trong thư đề ngày 1/10/1998, thư đã được chuyển tới quí Trung Tâm, tôi khám phá ra là mình đã phạm một lỗi tầy trời: thay vì cung cấp ngày sanh - đúng ra là 23/6/1929 - tôi đã đưa ngày giỗ gia đình cử hành hằng năm vào ngày 15/4 (thật ra anh tôi chết ngày 8/4/1975, theo như giấy khai tử ghi cũng đã được cung cấp cho Ban Chỉ Huy Tình Báo và An Ninh).



Như vậy, với lời đính chính - ngày tháng sanh 23/6/1929 - tôi thỉnh cầu ông cho tôi xin hồ sơ liên quan đến ông Nguyễn Văn Hiếu, anh tôi.



Tôi sực nhớ là rất có thể Trung Tâm có một nơi sanh khác của anh tôi: Thượng Hải (có nhiều người lầm tưởng như vậy) thay vì Tiên Sinh, Trung Hoa. Nếu quí Trung Tâm cần tài liệu hay chi tiết nào khác (tỷ như hình chụp) khả dĩ kiểm tra chính xác, xin vui lòng cho tôi biết.



Tôi thiết nghĩ quí Trung Tâm có thể giải quyết lời thỉnh cầu của tôi và tôi chưa phải khiếu nại lên Bộ Trưởng Quân Lực ở giai đoạn này.



Xin đa tạ mối quan tâm ông giành cho vấn đề này.



Trân trọng,



Tín Nguyễn



8. Thư thứ 3 của Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng ngày 7/9/1999



Kính thưa ông:



Đây là lời phúc đáp bổ túc cho thư thỉnh cầu xin hồ sơ liên quan đến anh ông, ông Nguyễn Văn Hiếu, chiếu theo luật Tự Do Thông Tri (FOIA), và bổ xung cho thư phúc đáp của chúng tôi đề ngày 24/8/1999.



Như đã xác nhận trong thư phúc đáp trước, hồ sơ tại trung tâm này là các Báo Cáo Điều Tra và Báo Cáo Quân Cảnh thuộc Ban Chỉ Huy Điều Tra Án Mạng QLHK (USACIDC). Hồ sơ lưu trữ tại bản doanh này được sắp xếp theo các chi tiết cá nhân, tỷ như tên, số anh sinh xã hội, ngày và nơi sanh, và các dữ kiện khác khả dĩ kiểm tra đúng các cá nhân. Một cuộc tìm kiếm khác trong hồ sơ án mạng Quân Lực dựa theo các chi tiết ông đã cung cấp lại thất bại trong việc lôi ra hồ sơ đáp ứng đơn thỉnh cầu của ông. Trong trường hợp ông có thể cung cấp cho bản doanh này số kiểm tra và/hay địa chỉ sau cùng của anh ông, chúng tôi sẽ tìm kiếm thêm lần nữa.



Thư phúc đáp "không có hồ sơ" này được thảo với quyền của Chuẩn Tướng David W. Foley, Chỉ Huy Trưởng, USACIDC, là Cơ Quan Thẩm Quyền Từ Chối Tham Chiếu và Hiệu Đính cho các hồ sơ cuả USACIDC chiếu theo luật PA (Riêng Tư) và là Thẩm Quyền Khước Từ Sơ Khởi cho các hồ sơ của USACIDC chiếu theo luật FOIA, và có thể khiếu nại lên Bộ Trưởng Quân Lực. Nếu ông quyết định khiếu nại, đơn khiếu nại phải nạp nội trong 60 ngày kể từ ngày lá thư này. Trong đơn khiếu nại cần phải nêu rõ dựa trên căn bản nào ông bất đồng với lời khước từ, và cần nêu lên lý do chánh đáng để xin tài liệu. Đơn khiếu nại phải nạp qua trung tâm này và gửi tới Director, US Army Crime Records Center, Attention: FOIA/PA Division (P98-2387), Building 1465, 6010 6th Street, Fort Belvoir, Virginia 22060-5585, để nhờ chuyển, theo đúng cách, cho Văn Phòng Bộ Trưởng Quân Lực.



Trân trọng,



Phillip J. McGuire
Director, Crime Records Center



9. Thư phúc đáp đề ngày 14/9/1999



Kính thưa ông McGuire:



Xin cám ơn ông về lá thư đề ngày 7/9/1999 trong đó ông xin thêm chi tiết về anh tôi, ông Nguyễn Văn Hiếu.



Địa chỉ sau cùng của anh tôi là: QQ18, Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa, Sài Gòn, Việt Nam.. Giấy khai tử, mà quí ông có trong tay, ghi địa chỉ cách vỏn vẹn Bình Trước, nơi anh tôi đồn trú, và cũng là nơi anh tôi chết: Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 tại Biên Hòa.



Nếu chi tiết mới này vẫn đưa tới kết quả phúc đáp "không có hồ sơ", tôi kính thỉnh quí ông làm như sau: Vì lẽ ông Russell A. Nichols, thuộc Ban Chỉ Huy Tình Báo và An Ninh QLHK, cho biết trong lá thư đề ngày 29/10/1998 là"Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng QLHK (ASACRC) có thể có một hồ sơ liên quan đến một Hieu, Nguyen Van", và vì lẽ trung tâm có thể chỉ có một hồ sơ duy nhất về một Hieu, Nguyen Van, xin vui lòng rút hồ sơ đó ra để xét kỹ xem cá nhân đó không phải là anh tôi:



Thiếu Tướng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 (1973-1975)
Thiếu Tướng, Đặc Trách Bài Trừ Tham Nhũng, Phủ Phó Tổng Thống (1972-1973)
Thiếu Tướng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1 (1971-1972)
Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 (1969-1971)
Thiếu Tướng, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 (1966-1969)
Đại Tá, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2 (1964-1966)
Đại Tá, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 1 (1963-1964)
Thiếu Tá, tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy Cao Cấp và Tham Mưu QLHK;



và hồ sơ này không chứa đựng báo cáo về cái chết của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu xảy ra ngày 8/4/1975 tại BTL Quân Đoàn 3, như ghi trong giấy khai tử.



Nếu kết quả của sự kiểm soát là "có", thì cho tôi xin hồ sơ đó, trong trường hợp này, liên quan đến anh tôi. Nếu, trái lại, kết quả của việc kiểm soát là "không", thì xin xác nhận như vậy, ngõ hầu tôi có thể chắc chắn, không còn nghi ngờ nữa, là các hồ sơ tại quí Trung Tâm không có chi tiết về cái chết của anh tôi, và gia đình chúng tôi có thể đóng sổ.



Xin đa tạ mối quan tâm ông giành cho vấn đề này.



Trân trọng,



Tín Nguyễn



10. Thư trả lời của Cơ Quan Điều Tra Án Mạng ngày 28/09/1999



Kính thưa ông:



Đây là lời phúc đáp bổ túc cho thư thỉnh cầu xin hồ sơ liên quan đến anh ông, ông Văn Hiếu Nguyễn và bổ xung cho thư phúc đáp của chúng tôi đề ngày 24/8/1999.



Như đã xác nhận trong thư phúc đáp trước, hồ sơ tại trung tâm này là các Báo Cáo Điều Tra và Báo Cáo Quân Cảnh thuộc Ban Chỉ Huy Điều Tra Án Mạng QLHK (USACIDC). Hồ sơ lưu trữ tại bản doanh này được sắp xếp theo các chi tiết cá nhân, tỷ như tên, số anh sinh xã hội, ngày và nơi sanh, và các dữ kiện khác khả dĩ kiểm tra đúng các cá nhân. Một cuộc tìm kiếm khác trong hồ sơ án mạng Quân Lực dựa theo các chi tiết ông đã cung cấp lại thất bại trong việc lôi ra hồ sơ đáp ứng đơn thỉnh cầu của ông.



Thư phúc đáp "không có hồ sơ" này được thảo với quyền của Chuẩn Tướng David W. Foley, Chỉ Huy Trưởng, USACIDC, là Cơ Quan Thẩm Quyền Từ Chối Tham Chiếu và Hiệu Đính cho các hồ sơ cuả USACIDC chiếu theo luật PA (Riêng Tư) và là Thẩm Quyền Khước Từ Sơ Khởi cho các hồ sơ của USACIDC chiếu theo luật FOIA, và có thể khiếu nại lên Bộ Trưởng Quân Lực. Nếu ông quyết định khiếu nại, đơn khiếu nại phải nạp nội trong 60 ngày kể từ ngày lá thư này. Trong đơn khiếu nại cần phải nêu rõ dựa trên căn bản nào ông bất đồng với lời khước từ, và cần nêu lên lý do chánh đáng để xin tài liệu. Đơn khiếu nại phải nạp qua trung tâm này và gửi tới Director, US Army Crime Records Center, Attention: FOIA/PA Division (P98-2387), Building 1465, 6010 6th Street, Fort Belvoir, Virginia 22060-5585, để nhờ chuyển, theo đúng cách, cho Văn Phòng Bộ Trưởng Quân Lực.



Trân trọng,



Phillip J. McGuire
Director, Crime Records Center



11. Thư phúc đáp đề ngày 3/10/1999



Kính thưa ông McGuire:



Xin cám ơn lá thư của ông đề ngày 28/9/1999, trong đó ông thông báo là chi tiết mới về địa chỉ sau cùng cũng vần đưa tới một phúc đáp "không có hồ sơ".



Theo tôi nhận xét hình như lá thư ông mang tính chất "mẫu thư chung sẵn có" và không đề cập tới lời thỉnh cầu bất thường của tôi xin lấy ra hồ sơ của Hieu, Nguyen Van có lưu trữ tại quí cơ quan, để xác định cá nhân đó có phải là anh tôi hay không và có chứa đựng báo cáo về cái chết của anh tôi xảy ra ngày 8/4/1975 hay không. Tôi xin ông cảm phiền trả lời thẳng thắn cho lời thỉnh cầu này.



Xin đa tạ mối quan tâm ông giành cho vấn đề này.



Trân trọng,



Tín Nguyễn



12. Thư trả lời của Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng ngày 21/10/1999



Kính thưa ông:



Đây là lời phúc đáp bổ túc cho thư thỉnh cầu xin hồ sơ liên quan đến anh ông, ông Nguyễn Văn Hiếu và bổ xung cho thư phúc đáp trước của chúng tôi.



Như đã xác nhận trong thư phúc đáp trước, hồ sơ tại trung tâm này là các Báo Cáo Điều Tra và Báo Cáo Quân Cảnh thuộc Ban Chỉ Huy Điều Tra Án Mạng QLHK (USACIDC). Các cuộc tìm kiếm trong hồ sơ án mạng Quân Lực dựa theo các chi tiết ông đã cung cấp cho thấy hồ sơ của USACIDC không chứa đựng gì liên quan tới anh ông. Không có dấu chỉ gì cho thấy Quân Lực Hoa Kỳ có thực hiện một công cuộc điều tra tội hình hay có Báo Cáo của Quân Cảnh liên quan tới anh ông.



Ông vẫn có thể thượng tố thư phúc đáp "không có hồ sơ" gửi ông trước đây lên Bộ Trưởng Quân Đội qua ngã trung tâm này.



Mọi vấn nạn liên quan đến thư phúc đáp này phải được gửi tới the Director, U.S. Army Crime Records Center, Attention: Freedom of Information/Privacy Act (P99-1742), 6010 6th Street, Fort Belvoir, Virginia 22060-5585,



Trân trọng,



Milton O. Webb
Acting Director, Crime Records Center



13. Thư phúc đáp đề ngày 31/10/1999



Kính thưa ông Webb:



Xin cám ơn lá thư của ông đề ngày 21/10/1999. Tôi xin tái xác nhận là ông vẫn không trả lời thỉnh cầu của tôi. Xin mạn phép ông cho tôi lập lại một cách khác: bất luận chi tiết tôi cung ứng,



1. Hồ sơ lưu trữ tại quí cơ quan có hay không có hồ sơ về một cá nhân mang tên Hieu, Nguyen Van như ông Russell A. Nichols, Chief, FOI/PA thuộc Ban Chỉ Huy Tình Báo và An Ninh Quân Đội, cho biết và là người đã chuyển lời thỉnh cầu của tôi đến cơ quan ông (xin xem bản sao lá thư đính kèm)?



2. Nếu có, hồ sơ này có chứa đựng báo cáo về cái chết của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu xảy ra ngày 8/4/1975 tại bản doanh Quân Đoàn 3 tại Biên Hòa không?



Tôi mong ông thông cảm cho thái độ quyết liệt đeo đuổi cho ra sự thật về cái chết bí ẩn của anh tôi.



Xin đa tạ mối quan tâm ông giành cho vấn đề này.



Trân trọng,



Tín Nguyễn



14. Thư trả lời của Trung Tâm Hồ Sơ Án Mạng ngày 9/11/1999



Kính thưa ông:



Đây là phúc đáp bổ túc cho thư thỉnh cầu ông xin tiếp thu tài liệu liên quan đến anh ông, Ông Van Hieu Nguyen và bổ túc cho các lá thư trả lời trước của chúng tôi.



Như đã xác nhận trong thư trả lời trước của chúng tôi, các cuộc tìm kiếm trong hồ sơ án mạng Quân Lực dựa theo các chi tiết ông đã cung cấp cho thấy hồ sơ của USACIDC không chứa đựng gì liên quan tới anh ông, Ông Van Hieu Nguyen.



Ông vẫn có thể thượng tố thư phúc đáp "không có hồ sơ" gửi ông trước đây lên Bộ Trưởng Quân Đội qua ngã trung tâm này.



Trân trọng,



Phillip J. McGuire
Director, Crime Records Center



Kết Luận



Tới đây, tôi có cảm tưởng đang nghe một đĩa hát đã bị xứt mẻ khiến cho các âm thanh đồng loại cứ lập đi lập lại mãi không ngừng, thay vì đang đối thoại với một viên chức bằng xương bằng thịt...




Nguyễn Văn Tín
Ngày 15/12/1998
Cập nhật ngày 18.11.2000



Bản Tường Trình Kết Thúc Về Cái Chết Tướng Hiếu



Vào tháng 8 năm 1998, tôi đã trình bày sơ khởi về cái chết của Tướng Hiếu qua bài Dàn Cảnh Sau Cái Chết Tướng Hiếu. Sau một cuộc hành trình kéo dài hơn sáu năm tìm hiểu thêm về cái chết đầy bí ẩn này, nay tôi đã đạt tới giai đoạn đúc kết các dữ kiện thâu thập - coi là đầy đủ - để đi tới một kết luận khả tin.



Tôi đã may mắn tìm ra và tiếp xúc được các nhân chứng chính yếu có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III trong ngày Tướng Hiếu bị ám sát: (1) Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, Tư Lệnh Sư Đoàn 25, (2) Đại Tá Nguyễn Khuyến, Chánh Sở Anh Ninh Quân Đội Quân Đoàn III, (3) Trung Tá Nguyễn Quyến, Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh Tư Pháp Quân Đoàn III, (4) Bác Sĩ Quân Y Lý Khánh Trí, Y Sĩ Trưởng Quân Đoàn III, (5) Đại Tá Tạ Thanh Long, Trưởng Đoàn Quân Sự VNCH Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, (6) Đại Tá Nguyễn Văn Trang, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Quân Đoàn III, (7) Thiếu Tướng Đào Duy Ân, Tư Lệnh Phó Diện Địa Quân Đoàn III, (8) Đại Tá Phan Huy Lương, Phụ Tá Tư Lệnh Phó Hành Quân Quân Đoàn III, (9) Đại Úy Đỗ Đức, Tùy Viên Tướng Toàn, (10) Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III, (11) Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III, (12) Đại Tá Lê Trọng Đàm, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quân Đoàn II, và (13) Trung Tá Quân Y Lý Ngọc Dưỡng, Chánh Văn Phòng Tướng Toàn.



Trong số 13 nhân chứng này, 9 người đầu đứng tại vòng ngoại vi và 4 người sau đứng tại tâm điểm đối với cái chết của Tướng Hiếu. Đại Tá Khuyến tả lại quang cảnh cái chết của Tướng Hiếu theo lời thuật lại của Đại Tá Lương. Đại Tá Long, Đại Tá Trang và Thiếu Tướng Ân đều nói là sau khi đã rời khỏi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III và, hoặc đã về văn phòng hoặc đã về tới nhà thì được Đại Tá Lương gọi điện thoại báo tin Tướng Hiếu chết và khi họ trở lại tới Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, họ không được phép lại gần xác Tướng Hiếu. Đại Tá Lương thì khi xảy ra sự việc không biết ông đang ở đâu, vì ông nói ông không phải là người đầu tiên chạy vào văn phòng Tướng Hiếu và cũng không hề quay số điện thoại gọi cho bất cứ ai để báo hung tin.



Sự mâu thuẫn này giữa lời khai của Đại Tá Khuyến, Đại Tá Long, Đại Tá Trang và của Đại Tá Lương có thể được giải thích là những người đó nhớ lộn Chuẩn Tướng Tường, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III với Đại Tá Lương, Phụ Tá Tư Lệnh Phó Hành Quân Quân Đoàn III. Đại Tá Khuyến viết: Tôi không biết làm gì hơn là vào gặp Đại tá Phan huy Lương lúc ấy là Tham mưu trưởng của Quân Đoàn. Đại Tá Long viết: Lúc vào họp, Tướng Hiếu ngồi chính giữa. Bên trái: Tướng Đào Duy Ân, TMT và Đại Tá Phan Huy Lương TMP/HQ. Và Đại Tá Long viết thêm: Tướng Hiếu vừa nói đến đây thì Đại Tá Lương mời Tướng Hiếu xuống dùng cơm. Tướng Ân và Tôi đứng dậy, xin phép ra về. Trong khi đó Chuẩn Tướng Tường và Bác Sĩ Dưỡng đều nói là Tướng Hiếu rủ Chuẩn Tướng Tường, chứ không phải Đại Tá Lương, đi ăn cơm. Đồng thời Chuẩn Tướng Tường viết ông là người chạy vào văn phòng Tướng Hiếu khi nghe tiếng súng nổ và Bác Sĩ Dưỡng nói là Chuẩn Tướng Tường gọi điện thoại ông để báo tin: "Anh Hiếu chết rồi".



Đại Úy Đỗ Đức nói là khi trở lại Bộ Tư Lệnh "Tướng Toàn đã ra lệnh niêm phong văn phòng Tướng Hiếu, nên tôi không thấy cảnh Tướng Hiếu chết làm sao."



Trung Tá Quyến và Bác Sĩ Trí được Bộ Tư Lệnh triệu đến để lập biên bản, nhưng rõ là cả hai người này bị Tướng Toàn và đồng bọn gây áp lực không được báo cáo sự thật khách quan mà phải nói theo luận điệu che đậy của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III.



Không những bốn người còn lại là nhân chứng bậc một mà là những nhân vật chủ chốt lập mưu và thi hành ám hại Tướng Hiếu. Sau đây là diễn tiến khả dĩ xảy ra, dựa vào việc phân tách, phối kiểm, đối chiếu các lời khai của bốn nhân vật này.



Vào lúc 8 giờ sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975, Dinh Độc Lập bị dội bom. Tổng Thống Thiệu hoảng hốt lo sợ một cuộc đảo chánh khởi phát. Ông ra lệnh xác định vị trí của các tướng tá trên khắp bốn quân khu thì được cơ quan tình báo của Tướng Quang cho biết ai nấy đều ở vị trí bình thường, chỉ duy có Tướng Hiếu là đang có mặt ở Gò Dầu Hạ họp bàn gì với Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Tổng Thống Thiệu nghi ngay Tướng Hiếu âm mưu đảo chánh. Ông nhớ là bốn năm trước, vào tháng 6 năm 1971, Tướng Nguyễn Văn Minh đã báo cáo là Tướng Hiếu toa rập với Chuẩn Tướng Khôi đưa Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III về Lộc Ninh lấy cớ là để giải vây quân lính bị vây khốn ở Snoul nhưng thật ra là để đưa chiến xa về Sài Gòn đảo chánh. Tướng Vĩnh Lộc viết trong cuốn Lá Thư Gửi Người Bạn Mỹ là Tổng Thống Thiệu còn đa nghi hết bóng đến hình của mình, run Nhảy Dù, rét Thiết Giáp đảo chánh (trang 82). Ông cảm thấy lần này cần ra tay trừ khử ngay Tướng Hiếu để tránh hậu nạn. Lệnh này được truyền xuống cho Tướng Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III.



Khoảng 9 giờ sáng Tướng Hiếu bay trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Từ văn phòng, Tướng Hiếu gọi điện thoại về nhà ở Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa dặn vợ đừng cho phép trẻ con ra đường chơi vì có lệnh cắm trại một trăm phần trăm, rồi làm việc như thường ngày.



Trong khi đó, Tướng Toàn họp mật với ban tham mưu thu hẹp gồm Bác Sĩ Dưỡng, Chuẩn Tướng Tường và Đại Tá Đàm, cả ba người này từng là giới thân cận với Tướng Toàn được đưa từ Quân Đoàn II về đây. Chuẩn Tướng Tường được giao phó phận vụ đưa một toán lính đến thay thế đội Quân Cảnh canh gác Bộ Tư Lệnh và lập kế dụ Tướng Hiếu trở về văn phòng. Bác Sĩ Dưỡng coi văn thư nhật trình thì thấy ghi có một buổi họp về Nhân Dân Tự Vệ dưới sự chủ tọa của Tướng Hiếu và với sự tham dự của Thiếu Tướng Đào Duy Ân, Đại Tá Khuyến và Đại Tá Lưu Yểm, Tỉnh Trưởng Biên Hòa, vào lúc 5 giờ chiều. Ông thấy đây là cơ hội thuận tiện vì ước đoán buổi họp sẽ tan vào lúc 6 giờ chiều và như thường lệ Tướng Hiếu sẽ rủ Chuẩn Tướng Tường đi ăn cơm và các nhân viên làm việc tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III đều ra về hầu hết.



Bác Sĩ Dưỡng và Đại Tá Đàm nhận lãnh phận vụ thu xếp đưa một viên cảnh sát đàn em của Đại Tá Đàm vào văn phòng Tướng Toàn núp chờ sẵn. Đại Tá Đàm bàn định xong với Bác Sĩ Dưỡng và rời Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III sau 2 giờ trưa đi lên Sài Gòn để lánh mặt.



Khi Bộ Tư Lệnh đã thanh vắng tên sát nhân lẻn từ văn phòng Tướng Toàn qua văn phòng Tướng Hiếu ở kế bên để mai phục. Khoảng 6 giờ chiều các tướng tá họp ra về, Chuẩn Tướng Tường lấy cớ phải đi tắm để buộc Tướng Hiếu trở về văn phòng ngồi chờ. Vào lúc đó, Tướng Toàn và Bác Sĩ Dưỡng bước ra khỏi văn phòng để cùng đi về tư dinh Tướng Toàn.



Sau khi hạ sát Tướng Hiếu với khẩu súng lục nhỏ loại đặc biệt, tên sát nhân đặt khẩu súng lục của Tướng Hiếu vào bàn tay Tướng Hiếu, chĩa lên trần nhà và dùng ngón tay Tướng Hiếu bóp cò. Hành động xong, tên sát nhân lẻn về ẩn núp an toàn trong văn phòng Tướng Toàn.



Nghe tiếng súng nổ, Chuẩn Tướng Tường không chạy qua văn phòng Tướng Hiếu ngay mà lại gọi điện thoại cho Quân Cảnh đến điều tra "án mạng" rồi mới xông qua xem xét tình hình. Tiếp sau đó, ông gọi điện thoại cho Tướng Toàn báo cáo mission accomplie: "Anh Hiếu đã chết rồi." Đồng thời Chuẩn Tướng Tường cũng điện thoại cho một số người khác (tỷ như Đại Tá Khuyến, Đại Tá Trang, Thiếu Tướng Ân, Đại Tá Long …) báo tin là Tướng Hiếu tự tử.



Tướng Toàn và Bác Sĩ Dưỡng trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Hai người bước vào chứng kiến Tướng Hiếu chết trong văn phòng. Bác Sĩ Dưỡng tiến lại sát gần xem; Tướng Toàn chỉ đứng ngó từ ngưỡng cửa. Bác Sĩ Trí được triệu tới khám nghiệm Tướng Hiếu.



Đại Úy Đỗ Đức chạy tới thì đã thấy Quân Cảnh phong tỏa Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Toán Quân Cảnh này không thuộc về lính của Trung Tá Quyến, vì theo nhà báo Đặng Văn Nhâm, khi hay tin, ông từ Sài Gòn chạy lên Biên Hòa săn tin rồi còn kịp tháp tùng Trung Tá Quyến và đội toán Quân Cảnh đi tới Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, không phải để lập biên bản mà là để bắt Tướng Toàn.



Tướng Toàn ra lệnh tắt hết đèn tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III và cho trở xác Tướng Hiếu qua khu bệnh xá trên một chiếc xe jíp hồng thập tự có gắn băng ca do một viên thiếu tá lái. Sau khoảng nửa tiếng lưu lại tại phạm trường, Tướng Toàn trở về tư dinh cùng Đại Úy Đỗ Đức. Trước khi lên xe, ông ra lệnh lớn tiếng phải điều tra gấp rút cho ra sự vụ.



Các quân nhân tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn được lệnh không được bàn tán về cái chết của Tướng Hiếu.



Tướng Tường cho nhân viên báo tin gia đình Tướng Hiếu qua điện thoại đồng thời cũng phái viên tài xế của Tướng Hiếu lái xe về Sài Gòn đưa tin. Bà Tướng Hiếu và con trai trưởng, được viên tài xế trở xe lên Biên Hòa tối đó. Tới nơi Bà Tướng Hiếu được hướng dẫn vào thẳng văn phòng Tướng Hiếu chứng kiến cảnh chồng nằm gục đầu trên bàn giấy. Như vậy là có một sự dàn cảnh đưa xác Tướng Hiếu từ bệnh xá trở lại văn phòng. Khi về lại nhà, Bà Tướng Hiếu thưa với bố chồng: "chẳng thấy máu đâu cả - chỉ thấy một chấm vệt đỏ ở cằm thôi."



Trong buổi họp báo chính thức tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, khi một phóng viên hỏi Tướng Hiếu chết cách nào, phát ngôn viên, vì đã được cấp trên mớm cho là Tướng Hiếu tự tử, lúng túng trả lời đại: chết với một vết thương do một viên đạn gây nên ở miệng.” (chẳng qua tự tử bằng súng lục thường là dí súng áp màng tang hay đút nòng súng vào miệng). Chuẩn Tướng Tường thì ngang nhiên kể láo với Đại Tá Khuyến là ông thấy "Tướng Hiếu nằm bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một giòng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này còn trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ.[…] Máu và óc văng trên tường!"



Bác Sĩ Dưỡng khôn ngoan hơn Chuẩn Tướng Tường một tí; ông cho là giả thuyết tự tử nghe không mấy xuôi tai vì Tướng Hiếu rất ngoan đạo do đó ông chuyển qua bịa ra nguyên do súng lảy cò vì Tướng Hiếu vốn thích chơi súng. Do đó, khi được hỏi Tướng Hiếu chết làm sao, Tướng Toàn trả lời: "tôi thấy anh ấy đã chết bởi một viên đạn súng lục trổ từ mắt lên đầu và chết ngay nơi bàn giấy". Tướng Toàn suy diễn Tướng Hiếu chùi súng xong, quay đầu súng lại, một con mắt nhắm lại, còn con mắt kia dòm ngó vào nòng xem có sạch hết bụi chưa!



Có một điều lạ cần nêu lên, trong khi các nhân chứng mỗi người đều khai khác nhau về thời gian, trường hợp và đường đạn trong cái chết của Tướng Hiếu, họ đều đồng thanh nói là Tướng Hiếu thích chơi súng và là một tay thiện xạ súng lục nên mới gây nên nỗi. Bác Sĩ Dưỡng còn nhận xét "sáng hôm đó nhân viên ngành Công Binh trao lại cho Tướng Hiếu khẩu súng lục Tướng Hiếu nhờ chỉnh lại cơ phận lảy cò."



Một điều lạ khác cũng cần nêu lên là hầu hết các nhân chứng đều khởi đầu lời khai là mình còn nhớ rõ sự việc như mới xảy ra ngày hôm qua; nhưng khi bị gạn hỏi tiểu tiết thì lại ỡm ờ chạy làng; nào là không để ý, nào là quên mất, hay không biết, hay nữa nhớ lộn, và để hỏi lại người khác …



Có hai người lại gần xem xét vết thương trên xác Tướng Hiếu kỹ càng là Bác Sĩ Dưỡng và Bác Sĩ Trí. Bác Sĩ Dưỡng kể: "Tôi thấy cảnh tượng Tướng Hiếu ngồi trên ghế, đầu gục trên mặt bàn, cánh tay trái đặt trên mặt bàn, cánh tay phải thõ xuống đất, có khẩu súng lục nằm dưới mặt đất bên cạnh bàn tay. Tôi nhận xét thấy viên đạn xuyên từ cổ ...ờ ...ờ ...ờ ... không phải vậy, xin nói lại, từ hàm bên phải trổ lên màng tang bên trái." Khi tôi hỏi: "Thế màng tang có bị viên đạn công phá không?", ông trả lời: "Tôi không để ý" Tôi hỏi thêm: "Thế khẩu súng lục cạnh xác Tướng Hiếu có phải là loại P.38 không?", ông trả lời: "Tôi là bác sĩ, chả biết gì về súng ống cả." Bác Sĩ Trí thì an ủi một thân nhân Tướng Hiếu đến viếng xác: "Viên đạn khi đi vào cằm, gặp xương quai hàm quá cứng không đi thẳng lên đỉnh đầu được, đã phải rẽ xuống đâm ra sau ót, khiến Tướng Hiếu chết tốt, không biết đau đớn". Không những nhận xét của hai nhà chuyên môn y khoa sai biệt nhau - một người thì nói đạn trổ ra màng tang, người kia sau ót – mà còn không trung thực nữa, vì thật ra đạn trổ ra gần đỉnh đầu, hơi chếch về phía phải, sọ còn nguyên xi, chỉ có một vệt chấm đỏ nhỏ, theo sự nhận xét của riêng tôi khi viếng xác anh mình.



Để xui khiến Tướng Hiếu về lại văn phòng chờ đợi, Chuẩn Tướng Tường đã giả vờ bận công chuyện. Bác Sĩ Dưỡng nói ông nghe Chuẩn Tướng Tường bảo mắc đi tắm. Còn Chuẩn Tướng Tường lại kể là bảo bận đọc công văn. Khi tôi nêu lên sự khác biệt này, Bác Sĩ Dưỡng quả quyết mình nhớ đúng và Chuẩn Tướng Tường nhớ sai. Tôi không cho là Chuẩn Tướng Tường quên mà cố ý nói láo vì bận công vụ nghe "phải phép" hơn là bận việc tư để mà bắt Tướng Hiếu chờ cùng đi ăn.



Bác Sĩ Dưỡng nại cớ là phải thảo cho xong bài công bố trên đài phát thanh của Tư Lệnh Quân Đoàn III về vụ ném bom Dinh Độc Lập nên cùng đi theo Tướng Toàn về tư dinh làm cho xong việc đêm đó. Thiết nghĩ theo thói lệ thông thường Tư Lệnh Quân Đoàn đâu có phận vụ làm việc này; hơn nữa ngay sáng hôm đó, Tổng Thống Thiệu đã trấn an dân chúng trên đài phát thanh làkhông có đảo chánh. Chẳng qua ông và Tướng Toàn về tư dinh chỉ để ngóng chờ tin tức hạ sát Tướng Hiếu (thông thường Bác Sĩ Dưỡng về nhà ở Chợ Lớn).



Bác Sĩ Dưỡng và Đại Úy Đỗ Đức đều nhớ là ngày hôm đó có lệnh cắm trại một trăm phần trăm, và Tướng Toàn về tư dinh cùng với hai người. Vừa về tới tư dinh không bao lâu thì nhận được cú điện thoại của Tướng Tường báo tin Tướng Hiếu chết. Vậy mà Tướng Toàn lại nói láo khi viết là "lúc bay hành quân về thì được tin anh Thiếu Tướng Hiếu đã tử nạn ở văn phòng. Tôi liền bay đến văn phòng Thiếu Tướng Hiếu."



Có hai điều chỉ cho thấy Đại Tá Đàm dính líu mật thiết tới cái chết của Tướng Hiếu. (1) Dù đã ba mươi năm qua, ông vẫn nhớ rõ ông còn hiện diện ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, lúc 2 giờ trưa ngày hôm đó, và quả quyết là Đại Tá Khuyến, Chánh Sở An Ninh Quân Đoàn III không nhớ giỏi bằng ông khi nói là Tướng Hiếu chết vào 12 giờ trưa. (2) Khi tôi gạn hỏi ông ba lần, ông di tản bằng cách nào, ông đều không tiết lộ là đi cùng chuyến bay trực thăng với Tướng Toàn; lần thứ nhất ông nói là đi bằng ngã Hà Tiên; lần thứ nhì, ông nói là đi giống kiểu tôi, tức là được trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bốc đi từ phi trường Tân Sơn Nhất; và lần thứ ba, ông đề cập tới chuyến bay trực thăng của Tướng Toàn nhưng lại không đả động đến sự kiện ông đi cùng trên chuyến bay đó. Khi nào lợi thì không hỏi cũng nói; còn khi nào không lợi thì có hỏi mấy cũng không chịu hé môi. Đại Tá Đàm và tên đàn em sát nhân thuộc Quân Đoàn II, là yếu tố bên ngoài, còn Chuẩn Tướng Tường và Bác Sĩ Dưỡng là yếu tố bên trong, hai yếu tố cần thiết trong một vụ mưu sát.



Khi mới nghe tin Tướng Hiếu chết, ai cũng cho là Tướng Toàn bắn Tướng Hiếu trong một cuộc cãi vả kịch liệt vì bất đồng về chiến thuật. Điều này có thể xảy ra trong trường hợp Tướng Toàn hành động không suy nghĩ vì quá nóng giận. Nhưng Đại Úy Đỗ Đức xác nhận là không thể như vậy vì anh luôn phục dịch sát bên Tướng Toàn trọn ngày hôm đó, và khi Tướng Hiếu chết thì Tướng Toàn đã về tư dinh. Mặt khác, việc ám hại Tướng Hiếu là một hành động có bàn định tính toán của một ban tham mưu thu hẹp với bốn thành viên (Toàn, Tường, Dưỡng và Đàm). Tướng Toàn chỉ dám nhúng tay vào việc giết Tướng Hiếu trong trường hợp nhận được lệnh từ cấp trên ban xuống, mà cấp trên của Tướng Toàn chỉ có thể là Tổng Thống Thiệu mà thôi.



Như vậy trong cái chết của Tướng Hiếu, Thiệu là người chủ mưu ra lệnh giết; Toàn là người kết tụ nhóm lập mưu thi hành lệnh; Tường, Dưỡng và Đàm là những tay sai thừa hành với Tường và Dưỡng đóng vai trò nội tuyến dẫn đường chỉ lối, còn Đàm mượn bàn tay đàn em sát nhân đóng vai trò thích khách.



Nguyễn Văn Tín
Ngày 28 tháng 9 năm 2004

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét