Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

TRUNG TÁ LÊ VĂN NGÔN - NGƯỜI HÙNG TỬ THỦ TONLE TCHOMBE (TỐNG LÊ CHÂN)

(Kính tặng anh linh cố Trung Tá Lê Văn Ngôn và chiến hữu Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng)
Cùng với việc Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho Việt Nam và rút quân về nước, các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu cũng được giải thể. Những người lính thuộc lực lượng này một số được cải tuyển sang Địa Phương Quân và một số đông hơn tình nguyện sang binh chủng Biệt Động Quân để phục vụ trong các tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng mới được thành lập để trấn giữ những căn cứ trước đó thuộc các toán Dân Sự Chiến Đấu.

       Tại Phước Long, Căn cứ Bù Đốp do A-341 trấn giữ được chuyển thành Tiểu Đoàn 97 Biệt Động Quân Biên Phòng vào ngày 31 tháng Chạp 1970. Tại Bình Long, Căn cứ Lộc Ninh của A-331 chuyển sang Tiểu đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng ngày 30 tháng Chín 1970 và cũng tại Bình Long, ngày 31 tháng Mười Một 1970, đơn vị A-334 chính thức giải thể và Chỉ Huy Trưởng Căn cứ Tống Lê Chân là Thiếu tá Đặng Hưng Long chính thức bàn giao căn cứ cho Đại uý Lê Văn Ngôn, người chỉ huy đơn vị mới được thành lập để trấn giữ căn cứ này là Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng với quân số lúc đó là 318 người mà hơn một nửa là người Thượng thuộc sắc tộc S’tieng mang họ Điểu và một số khá đông là người Việt gốc Miên mang họ Châu, Danh và Thạch. Đại uý Lê Văn Ngôn xuất thân Khoá 21 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, lúc đó chưa tròn 24 tuổi.

      
Nằm bên cạnh hai con suối Takon và Neron là thượng nguồn của Sông Sàigòn và trên một ngọn đồi cao hơn 50 thước cách An Lộc khoảng 15 cây số về hướng đông-bắc, Tống Lê Chân (dọc trại từ tiếng Miên Tonlé Tchombe) có nhiệm vụ ngăn chặn đường tiếp tế của Việt Cộng từ Chiến khu C theo trục lộ 246 sang Chiến khu D. Vào thời điểm này, Tống Lê Chân ngoài căn cứ chính còn có thêm hai tiền đồn nhỏ nằm án ngữ đường tiến quân của địch vào trại chính. Với tham vọng thôn tính miền Nam cho bằng được, Trung Ương Cục R của Việt Cộng trong suốt 5 năm qua đã cho nhiều đơn vị của chúng thay phiên nhau đánh chiếm Tống Lê Chân để dễ dàng chuyển quân và vũ khí về các mặt trận phía đông Sài Gòn mà không bị cản trở nhưng không thành công mà còn phải trả những giá thật đắt trong những cuộc tấn công tự sát. Sau đi tung những đại đơn vị tấn công Lộc Ninh, An Lộc và một số vùng phụ cận trong tỉnh Bình Long vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, cộng quân cho các lực lượng chính qui Bắc Việt tấn công Tống Lê Chân.

       Thật ra thì ngay sau khi Công Trường 9 Cộng sản Bắc Việt tấn công vào Lộc Ninh, Việt Nam Cộng Hoà chúng ta đã nhìn thấy trước ý đồ của cộng quân nên Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 3 quyết định cho Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng rút khỏi Tống Lê Chân để về An Lộc cùng với những đơn vị khác chuẩn bị đối đầu với đại quân Bắc Việt. Tuy nhiên, Đại úy Lê Văn Ngôn đã trình lên Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 3 khi ông ghé xuống đây vào những ngày đầu tháng Tư 1972 rằng có ba lý do để đơn vị này ở lại trấn giữ Tống Lê Chân. Thứ nhứt là dồn quá nhiều quân vào An Lộc để lãnh đạn đại pháo của Việt Cộng là điều không nên (lúc đó, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân do Đại Tá Nguyễn Văn Biết chỉ huy đã nhảy vào An Lộc rồi). Thứ hai, Tống Lê Chân nằm trong chiến khu của địch, tại một vị trí giống như yết hầu đối với đường tiếp tế và chuyển quân của giặc và hơn nữa, từ trên đồi có thể quan sát được mọi di chuyển của địch ngay trong chiến khu của chúng. Vì thế, càng nên giữ căn cứ cho tới cùng để gây thêm khó khăn cho các hoạt động quân sự của chúng. Thứ ba là toàn thể quân nhân các cấp trong đơn vị muốn ở lại giữ Tống Lê Chân chớ không muốn rút đi. Kể từ lúc đó, một trang sử bi hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu.

 Ngày 10 tháng Năm 1972, sau khi đặc công đã đột nhập vào bên trong vòng đai phòng thủ và bắt đầu phá hoại, đại quân Bắc Việt tổ chức nhiều đợt tấn công biển người có chiến xa yểm trợ nhưng lần lượt bị đẩy lui và chúng phải bỏ cuộc. Đại uý Lê Văn Ngôn được vinh thăng thiếu tá nhờ những chiến công liên tiếp này. Sau đó, An Lộc và các vùng phụ cận được giải toả, các lực lượng cộng quân còn sót lại tháo chạy qua biên giới về mật khu an toàn của chúng trong vùng Mỏ Vẹt và Lưỡi Câu.. Tống Lê Chân được tạm yên một thời gian ngoại trừ những cuộc tấn công quấy rối và những vụ pháo kích lẻ tẻ vốn không đáng kể so với những trận mưa pháo và tấn công biển người liên tiếp trước đó. Sau Hiệp định Paris ký kết ngày 27 và có hiệu lực kể từ ngày 28 tháng Giêng 1973, giữa lúc Việt Nam Cộng Hoà, Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt đang thực hiện các cuộc trao trả tù binh thì Việt Cộng đem một lực lượng chính qui bao vây Tống Lê Chân, trắng trợn vi phạm hiệp định mà chính chúng đã ký kết.
       Ngày 17 tháng Ba, một phiên họp cấp trưởng đoàn của Ban Liên Hợp Quân Sư Bốn Bên (BLHQSBB) được triệu tập. Trưởng đoàn của Việt Cộng là tướng Trần Văn Trà biết tình hình không có lợi nên lánh mặt và cho Đại tá Đặng Văn Thu thay mặt tới tham dự. Tại phiên họp này, trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hoà là Trung tướng Dư Quốc Đống đề nghị những biện pháp cấp bách gồm có việc cử ngay một tổ Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm, nếu điều đó được thoả thuận tại hội nghị. Nếu hai phe cộng sản không thoả thuận thì Hoa Kỳ, với tư cách chủ vị của BLHQSBB, sẽ yêu cầu Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát Đình Chiến (1) (International Commission for Ceasefire and Supervision = ICCS) cử người đi điều tra và trong trường hợp này, Việt Cộng, tức cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phải ra lệnh cho các đơn vị của chúng quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của ICCS khi họ tới đó.
       Đương nhiên là hai phái đoàn của cộng sản không đồng ý với biện pháp này nên tìm cách lảng sang chuyện khác. Đặng Văn Thu luôn mồm lảm nhảm rằng Việt Nam Cộng Hoà đã vi phạm (!) ngưng bắn ở Đức Cơ thuộc tỉnh Pleiku, Đức Phổ và Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi nên có lỗi chớ chúng không có lỗi. Bên phái đoàn Bắc Việt cũng lập lại như vẹt những lời của đám tay sai của chúng. Khi chúng ta bàn sang biện pháp thứ hai thì chúng nhứt định không chịu để cho một phái đoàn của ICCS đi Tống Lê Chân điều tra và rồi cả hai tên đại diện cho bên cộng sản này “nhứt trí” với nhau bỏ phòng họp ra về. Sau đó, chính bọn này đã thông báo cho hai thành viên của khối Cộng tại ICCS là Ba Lan và Hung Gia Lợi rằng nếu có văn thư Hoa Kỳ yêu cầu đi Tống Lê Chân điều tra thì hãy từ chối với lý do ở nơi đó không được an ninh. Nghe Việt Cộng hù dọa như vậy, thử hỏi có phái đoàn nào còn đủ can đảm đáp trực thăng đi Tống Lê Chân để mà ăn đạn phòng không dầy đặc của chúng. Vì vậy mà Tống Lê Chân cứ tiếp tục bị bao vây tháng này qua tháng khác và năm này qua năm khác.
       Khi Việt Cộng bắt đầu bao vây Tống Lê Chân thì quân số của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng chỉ có 274 quân nhân các cấp. Bao vây tấn công đơn vị cô độc này là các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 271 (2) của Công trường 9 được tăng cường thêm các đội phòng không của trung đoàn này và Trung đoàn 42 cùng với Tiểu đoàn 28 Pháo binh có trang bị đại bác 130 ly.
       Trong sáu tháng đầu Tống Lê Chân bị tấn công và bao vây, Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đã thực hiện hơn 3 ngàn phi vụ yểm trợ và tiếp tế cho căn cứ này, thả xuống hơn 3 trăm kiện thực phẩm và tiếp liệu nhưng quân trú phòng chỉ thu được 134 kiện và số còn lại rớt xuống các vị trí của địch. Cũng trong thời gian này, cộng quân pháo kích vào Tống Lê Chân hơn 3 trăm lần với khoảng 1300 trái đạn đủ loại. Chúng tấn công căn cứ này 11 lần và đặc công của chúng đột nhập vào được bên trong căn cứ chín lần nhưng không một tên nào sống sót chạy ra.
       Nhờ các đơn vị của Không Quân thay phiên nhau tích cực yểm trợ và tiếp tế, các chiến sĩ tử thủ Tống Lê Chân càng thêm tinh thần chiến đấu, không những đẩy lui được các đợt tấn công của cộng quân mà còn mở các cuộc hành quân vòng đai, loại hàng chục tên ra khỏi vòng chiến mỗi lần hành quân và phá hủy một súng phòng không và một đại bác.
       Cho đến đầu tháng Bảy 1973 thì quân số tại Tống Lê Chân chỉ còn 258 người kể cả 34 bị thương nặng nhẹ hoặc bị bịnh sốt rét không di tản được trong đó có một số vẫn tiếp tục chiến đấu với đồng đội. Bên địch, có thêm các lực lượng thuộc Trung đoàn 301 Chủ Lực Miền được cử đến tăng phái cho Trung đoàn 271. Thấy lực lượng tử thủ bị vây khốn đã nửa năm, giặc cộng tưởng tất cả đều không còn tinh thần chiến đấu nên cứ tối đến là chúng bắc loa vừa kêu gọi anh em ra đầu hàng vừa đem bom đạn ra hù doạ theo kiểu “hàng sống chống chết”. Chúng còn “tử tế” tới mức dặn dò kỹ lưỡng rằng “Anh Ngôn” hãy dẫn anh em ra chỗ này chỗ nọ để được “nhân dân đem về vùng hoà bình”.
       Việc Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng bị giặc cộng vây khốn suốt nửa năm trời đã gây được sự chú ý của dư luận quốc tế. Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt thấy vậy ra vẻ làm theo lời yêu cầu của ICCS nhưng thật ra đây cũng chỉ là một hành động lừa dối trắng trợn của bọn chúng mà thôi. Chúng cử tên đại tá khét tiếng mất dạy Võ Đông Giang (3) sang gặp Trưởng Phái đoàn Gia Nã Đại là Đại tá Lomis để cho biết là Việt Cộng đồng ý để cho ICCS đến Tống Lê Chân điều tra nhưng trước hết phải để cho Giang cử một đại diện đi trực thăng tới Tống Lê Chân liên lạc trước với các đơn vị của chúng tại đây để đề phòng ngộ nhận. Sau đó, một tên đại diện của Việt Cộng đáp trực thăng đi Bình Long nhưng thay vì xuống Tống Lê Chân, tên này lại yêu cầu phi công đáp xuống một nơi cách Tống Lê Chân tới cả chục cây số gọi là Sóc Con Trăn mà theo lời của tên này thiø y phải liên lạc với “địa phương” trước. Tên này biến vào rừng một lúc lâu rồi trở ra, miệng lảm nhảm tố cáo rằng “bộ phận đường dây” của chúng đã bị Mỹ-Nguỵ giết hại hết rồi nên y không tìm được một ai. Sau đó, thay vì trở về Biên Hoà để báo cáo cho Ban Liên Hợp Quân Sự Khu V, tên này lại yêu cầu trực thăng chở y về Sàigòn. Việt Nam Cộng Hoà lại làm dữ nhưng chúng vẫn không thay đổi thái độ. Cuối cùng, trong một việc làm đầy tính cách giả nhân giả nghĩa, chúng cho phép trực thăng của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà đáp xuống Tống Lê Chân để di tản đúng 20 thương binh. Đây là lần duy nhất trong hai năm bị tấn công và vây hãm, trực thăng của Việt Nam Cộng Hoà đáp xuống Tống Lê Chân mà không bị phòng không bắn lên cũng như đại bác pháo vào căn cứ. Sau đó, Việt Cộng lại tiếp tục bao vây, pháo kích và tấn công Căn cứ Tống Lê Chân.
       Khi Việt Nam Cộng Hoà tiếp tục tố cáo giặc cộng vi phạm Hiệp định Paris thì chúng trơ tráo trả lời rằng việc pháo kích vào Tống Lê Chân là để cảnh cáo lính trong căn cứ liên tục lấn ra ngoài, xâm phạm vào “vùng giải phóng” của chúng (chỉ có hai trăm quân nhân còn đủ khả năng tác chiến thì làm sao lấn nổi cả một sư đoàn của chúng?). Khi chúng ta khiếu nại về việc chúng dùng loa phóng thanh dụ các chiến sĩ trong căn cứ ra đầu hàng chúng thì chúng trơ tráo nói rằng chúng chỉ giảng “đạo lý hiệp định Paris” cho “anh em lính Sàigòn” nghe để anh em hiểu về “đạo lý hoà hợp hoà giải dân tộc” và rằng đó là “quyền lợi của anh em”.
       Sau hơn nửa năm trời chúng ta không ngừng khiếu nại, dư luận quốc tế cũng không còn chú tâm đến Tống Lê Chân nữa và Việt Cộng vẫn tiếp tục tấn công và pháo kích. Trong khi đó thì những người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà nói chung và những người lính của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng nói riêng còn bị thêm những nhát dao chí tử của ngay chính đồng bào của mình. Những tay tu sĩ bội đạo phản đời như Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan luôn mồm chống phá chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Những tay dân biểu và nghị sĩ đối lập như Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường và Trương Gia Kỳ Sanh lợi dụng vị trí của mình luôn mồm tiếp tay cho giặc. Hai phái đoàn Việt Cộng và Cộng Sản Bắc Việt đương nhiên là lợi dụng tối đa điều này và chúng luôn xem đó là những bằng chứng để tố cáo vu vơ và bôi xấu Việt Nam Cộng Hoà tại những phiên họp giữa hai bên hoặc bốn bên.
       Đầu năm 1974, giữa lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang điên đầu đối phó với chiến dịch gây rối đội lốt “phong trào chống tham nhũng” do Trần Hữu Thanh cầm đầu thì tại Tống Lê Chân, Thiếu tá Lê Văn Ngôn được vinh thăng trung tá lúc mới 27 tuổi. Chẳng có một thượng cấp nào của ông tại Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 3 lên Tống Lê Chân gắn lon cho ông cả mà chỉ có cặp lon trung tá được trực thăng thả xuống cùng với tiếp phẩm (4). Đúng lúc đó thì xảy ra trận Hoàng Sa khiến người ta tạm quên mất Tống Lê Chân và Việt Cộng tung toàn lực của chúng tại đây đánh vào căn cứ với quyết tâm chiếm hoặc san bằng cho bằng được.
       Vào cuối tháng Giêng và đầu tháng Hai 1974, những tên chỉ huy cao cấp nhứt của Công trường 9 Cộng Sản Bắc Việt họp liên miên để rút ưu khuyết điểm của các đợt tấn công của chúng vào Tống Lê Chân suốt một năm trước đó. Sau đó, Tống Lê Chân lại được chúng đem lên sa bàn nghiên cứu từng chi tiết nhỏ. Sau mấy đợt tấn công thăm dò, ngày 5 tháng Tư, Trung đoàn 271 cùng với một trung đoàn pháo và một lữ đoàn chiến xa có thêm một số đơn vị chủ lực miền tiếp ứng, ồ ạt tấn công Tống Lê Chân. Được tin tình báo cho biết trước, các chiến sĩ Biệt Động Quân chuẩn bị sẵn sàng và sau đó giao chiến ngang ngửa với đại quân Bắc Việt được đúng sáu ngày. Đến quá trưa ngày 11, chiến xa của chúng xuất hiện trong tầm mắt của các chiến sĩ phòng thủ trong khi các phi vụ tiếp tế của Không Quân đã mấy ngày liền không thể thực hiện được vì một trung đoàn phòng không của cộng quân sẵn sàng bắn đạn che kín bầu trời. Hết đạn dược và thực phẩm, Trung tá Lê Văn Ngôn hướng dẫn anh em mở đường máu về được An Lộc. Chỉ việc các chiến sĩ can trường này đem được cả thương binh thoát khỏi vòng vây dày đặc của địch để về đến An Lộc cũng đã là một việc nói lên tình đồng đội và tinh thần chiến đấu của người lính Việt Nam Cộng Hoà ngay cả trong tình thế bi đát nhứt. Ngoài ra, người ta cũng phải nghĩ rằng chỉ có phép lạ mới che chở được đơn vị lẻ loi và anh hùng này: trong một tuần lễ ác chiến sau cùng, chỉ có hơn hai chục chiến sĩ bị thương.
       Sau khi đem đơn vị về đến An Lộc, Trung tá Lê Văn Ngôn được cử đi học khoá Tham Mưu Trung Cấp và sau đó về Sư Đoàn 5 Bộ Binh giữ chức vụ trung đoàn phó. Sau ngày đất nước chúng ta rơi vào tay giặc cộng, Trung tá Ngôn cũng như biết bao chiến sĩ khác, lọt vào tay giặc và bị đưa ra miền Bắc. Một tối mùa thu 1977, ông lặng lẽ qua đời tại liên trại Yên Báy. Chính Phan Nhật Nam đem người đàn em vắn số của mình ra huyệt chôn.
  

Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Hòa bình Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang. Trận đánh Tống Lê Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngay. Không ai trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi bỏ qua tai nạn cục bộ của Việt Nam rắm rối. Hòa bình, thứ rượu nhạt mà thế giới hằn lâu không được uống. Tống Lê Chân, trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị bao vây đúng 17 tháng, hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm đau đớn này, chúng ta cũng là những kẻ có tội.

Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Balaam 66 ngày, quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày và ở Việt Nam “thiên đường” của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không giới hạn, chúng ta cũng đã có những cứ điểm với tên tuổi để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây với số lượng 57 ngày. Gần gũi và còn được nhớ hơn hết là những trận đại chiến khởi đầu trong mùa hè ’72, những trận đánh vượt quá hẳn chiến sự thế giới tại các địa danh Kontum, An Lộc, Quảng Trị, những Delta, Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo dài trong 1 ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến ngày 25 tháng 7/1972 đã được giải tỏa phần lớn…

Thế nên, Tống Lê Chân với 510 ngày bị vây hãm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh của nhân loại. Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10 tháng 5/1972 đã bị mờ khuất sau làn khói lớn của An Lộc, Quảng Trị, Kontom và đến nay, sáu tháng sau ngày hòa bình độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng Sản. Chúng ta phải nhỏ giọt nước mắt thật nóng để cầu nguyện cho số người trong 510 ngày đã phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: tội ác đã đồng nghĩa với con người cộng sản. Tống Lê Chân, giọt nước mắt tinh tuyền của sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam.

Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những con suối đầu tiên của sông Saigon dày đặt khắp miền Tây Ninh, Bình Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc 15 cây số về phía đông bắc và ở miền nam biên giới Việt-Miên khoảng 13 cây số, điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R chĩa thẳng vào căn cứ. Tống Lê Chân trước kia là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ Quân Khu 3 dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quan Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại còn lại làm thành một hàng rào hệ thống tiền đồn ngăn chận, báo động sự xâm nhập và điều động của Cộng Sản từ bên kia biên giới nơi có những địa danh đã một lần vang động như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt, hệ thống trại còn lại là nơi xuất phát những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng.

Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc, Chiến Khu C và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền ông Diệm đã thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ý của Tổng Thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bât giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đã quay mũi phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa bình, các trại kia chỉ còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành đoạn.

Một toán lính Dân Sự Chiến Ðấu (DSCD, còn được gọi là “CIDG,” viết tắt của chữ Civilian Irregular Defense Forcetrong Anh ngữ) đang di chuyển ngang con suối cạn. Vào đầu thập niên Bảy Mươi, các lực lượng Dân Sự Chiến Ðấu được biến cải thành Biệt Ðộng Quân Biên-Phòng. Nhiệm vụ của họ là đóng quân án ngữ tại các điểm then chốt nằm dọc theo biên giới Việt-Miên, Việt-Lào.Trong trận chiến tại Tống Lê Chân, quân Bắc Việt đã chịu một tổn thất ghê gớm với hàng nghìn xác chết. Họ phải huy động đến hơn 10,000 bộ đội Bắc Việt, và mãi sau 510 ngày bao vây và kịch chiến, Bắc quân mới tràn ngập được tiền đồn nhỏ bé kia.Xin nhắc lại, căn cứ Tống Lê Chân không có 5 ngàn hoặc 10,000 binh sĩ VNCH trấn đóng. Nơi này chỉ được phòng thủ bởi 259 tay súng của Tiểu Ðoàn 92 Biệt Ðộng Quân mà thôi.(Hình ảnh: SGM Brushwood)

Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ còn là những cơn sốt vỡ da cho “hòa bình” nguy hiểm. Tống Lê Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẳng. Dưới chân đồi căn cứ về phía Bắc còn có đường 246 nối Tây Ninh và Bình Long xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để mặt trận nối liền hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lê Chân cũng là yết hầu chận ngang đường dây Bắc Nam, nơi bản doanh Cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống Bình Dương, Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lê Chân không còn là mục tiêu quân sự thông thường. Căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết kiểm soát được bốn hướng tây đông, bắc nam của hệ thống giao liên quan trọng trong lòng căn cứ địa đối phương.
Từ ngày thành lập, Tống Lê Chân chưa bao giờ có một ngày thanh bình, tên địa phương là Tonle Tchombe, vị chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu Tá Đặng Hưng Long gọi trại thành Tống Lê Chân. Những người ngoài binh chủng Lực Lượng Đặt Biệt phần đông gọi theo danh từ hàm xúc này, Tống Lê Chân tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngã.
Năm 1970, trong chương trình cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại Tống Lê Chân phần đông là những dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stieng tình nguyện ở lại cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng. Tháng 4 năm 1972, song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đã có ý định “ủi láng” hết dãy căn cứ biên phòng trên để rộng đường điều quân cùng chuyển vận quân nhu, quân cụ. Tình hình khẩn trương của thời gian ấy đã khiến Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Quân Khu 3 quyết định rút hết lực lượng của bốn căn cứ Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống Lê Chân đã có câu trả lời sau khi nhận được lệnh:
- Xin ở lại chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá. Biệt Động Quân mà di tản yếu quá.
- Tình hình có giữ nổi không?
- Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng.
Định mệnh đã điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng trở nên những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ lòng chiến đấu bền bỉ của người Việt cho hòa bình. Hòa bình Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của cả một dân tộc được tưới thêm bởi máu nóng của những người lính vô danh của Tiểu đoàn 92 trong một hốc của núi rừng miền đông Nam Bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên hòa bình vật vã này, toàn thể nhân loại có biết thế không?
Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cánh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lê Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu R (Việt Cộng) đã được xác định là một mục tiêu cần phải “dứt điểm”. Ngày 10 tháng 5/1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công xâm nhập được vào vòng đai phòng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững như lời nguyền người chỉ huy của trại tên Lê Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhường, 25 tuổi đã giữ được lời thề
Ngôn thuộc Khóa 21 Đà Lạt, ra trường năm 1966, bây giờ tháng 9 năm 1972, Ngôn mang cấp bậc trung tá, một thời gian kỷ lục, nhưng không ai tỵ hiềm. Không thể tỵ hiềm được vì tình hình quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn còn đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu Ðoàn 92 của anh là một biệt lệ, một hiện thực ý niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời luôn nghĩ đến. Những người lính khắp nơi của thế giới đã nhiều lần chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của mình trên đảo Saipan, trong buồng lái của những chiếc máy bay Rero, trong những phi vụ trên vùng trời Âu châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn phòng không trong đệ nhị thế chiến…Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971 và suốt 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao, theo cường độ tấn công và pháo kích của quân giặc.
Tống Lê Chân bắt chúng ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng Nhảy Dù lừng danh của Quân đoàn Viễn chinh Pháp đã nói cùng Cogny và Navarre: “Hãy móc tôi ra khỏi Điện Biên Phủ, tôi vừa sống 6 tháng ở ổ chuột Na San rồi. Tôi quá sợ những cứ điểm bưng bít như thế này!” Sáu tháng ở cứ điểm Na San trong vị thế một người chỉ huy cùng với phương tiện vật chất thừa thãi cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải kinh khiếp, thế nhưng trên ngọn đồi 50 thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Lê Văn Ngôn đã sống đến ngày thứ 510 cùng với Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động Quân với số quân thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy. Đau đớn hơn cả, Ngôn chiến đấu trong hòa bình giả tạo và gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút.
Những phút Tiểu Ðoàn 92 ẩn mình dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh sáng mặt trời. Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đã trình bày. Chúng ta phải làm gì cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chận, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp, tung quân tuần tiểu, tấn công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ý niệm hành quân đã đặt để cho căn cứ không còn nữa. Chúng ta chỉ còn lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lý để những người anh hùng âm thầm ngã xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ sự tàn ác, khiếp nhược của nền hòa bình độc hại. Chúng ta sẽ làm gì nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy trì tình trạng phi lý độc địa này.
Phiên họp đặt biệt cấp trưởng đoàn ngày 17 tháng 3/1973 do Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lê Chân lên bàn hội nghị. Trưởng đoàn Việt Nam Cộng Hòa, tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp cấp bách:
1. Cử ngay một toán Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên trung ương đi Tống Lê Chân để điều tra vi phạm ngay lập tức sau khi có thỏa thuận hội nghị.
2. Nếu phe Cộng Sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gởi văn thư yêu cầu Ủy Ban Quốc Tế cử người đi điều tra.
3. Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của mình chung quanh Tống Lê Chân phải ở nguyên vị trí, không được bắn lên phi cơ Ủy Ban Quốc Tế khi đến điều tra.
Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía Mặt Trận Giải Phóng biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết: dù Trần Văn Trà mang quân hàm trung tướng đi chăng nữa, Trà cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề gì, dù vấn đề đó thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đã vắng mặt để cho viên đại tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay.
Trước ba đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng bối rối né qua tố cáo: Việt Nam Cộng Hòa đã vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Đức Cơ (Pleiku) và kết luận ung dung: chính Việt Nam Cộng Hòa vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lê Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù chiếc đầu tán đồng lập lại lời phát biểu của Mặt Trận Giải Phóng với thứ tự chữ nghĩa nói khác đi một chút. Bài học đã được học từ nhà, các cậu học trò cộng sản lập lại không sai một chữ, bất chấp nội dung rõ rệt của ba đề nghị…Ý kiến – một sự kiện không có bao giờ có trong đầu của cá nhân người cộng sản khi chưa “hội ý!”

A-7 Corsair,
Hình trên: A-7 Corsair, phản lực cơ dội bom của Hoa Kỳ, một loại vũ khí không-yểm rất hữu hiệu mà quân đội Việt Nam Cộng Hòa rất thiếu thốn trong các năm 1973, ’74 và ’75 (hình ảnh: Air War College Gateway & USAF Counterproliferation Center).
Thấy hai phái đoàn Cộng Sản không đá động gì đến ba đề nghị vừa trình bày, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lập lại đêø nghị lần thứ hai: Nếu Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn-Bên chưa thống nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: “Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra.” Phiên họp ngưng ở kết luận này. “Tính nhất trí” của Hiệp định, tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị!
Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng Sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ đi điều tra Tống Lê Chân: “UBQT không đồng ý đi điều tra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh.” Muốn chắc ăn hơn, hai phái đoàn quốc tế cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ dĩ nhiên điều kiện không bao giờ được thực hiện vì Mặt Trận Giải Phóng chắc chắn không đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
Một tuần lễ trôi qua, kể từ phiên họp ngày 17 tháng 3/1973 tất cả nỗ lực về Tống Lê Chân đều bị chấn lối bởi hai ngón đòn: “Tình hình Tống Lê Chân chưa rõ rệt, phái đoàn Mặt Trận chờ chỉ thị của thượng cấp và đơn vị Mặt Trận Giải Phóng không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra.” Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi quả bóng vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề.
Ngày 23 tháng 3/1973, chỉ còn 4 ngày nữa là hết thời hạn 60 ngày làm việc của Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn-Bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nã Đại (chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với Mặt Trận Giải Phóng để sớm điều tra sự kiện Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng trốn không nỗi, đưa Ðại Tá Võ Đông Giang, phó trưởng đoàn ra gặp Ðại Tá Lomis (Gia Nã Đại) thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê Chân vào ngày 24 tháng 3/1973…Nhưng rốt cuộc cũng là trò đánh tráo. Theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt Trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lê Chân tiếp xúc trước với lực lượng Cộng Sản ở đây xong trở về Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự – tức là cùng của Việt Nam Cộng Hòa) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân. Tên sĩ quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên từ Tống Lê Chân y trở về Tân Sơn Nhất, làm cho Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24 tháng 3/1973. Cuộc điều tra Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được. Không bao giờ.
Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần lễ cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17 tháng 3/1973, Việt Nam Cộng Hòa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cùng sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23 tháng 3/1973, thay vì xuống Tống Lê Chân như đã dự liệu, tên sĩ quan liên lạc Mặt Trận xuống “Sóc Con Trăn” cách Tống Lê Chân 10 cây số về phía tây, viên sĩ quan này lấy cớ phải liên lạc với “địa phương” y trước, sau một hồi tìm kiếm trong vùng, y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã đánh đứt đường giây y không tìm ra ai. Chiếc trực thăng trở về Saigon, không một thương binh được di chuyển.
Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì yêu cầu Mặt Trận Giải Phóng thảo luận để Việt Nam Cộng Hòa tản thương ở Tống Lê Chân. Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24 tháng 3/1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cuối cùng được di tản. Mặt Trận Giải Phóng “hòa hợp, hòa giải dân tộc” với giá máu này một lần độc nhất, Tống Lê Chân đóng cửa vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó. Cấp trưởng phái đoàn, cấp trưởng tiểu ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lê Chân. Nhưng sự thật là một việc, và cách nhìn của người Cộng Sản lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của ta biến thành một cuộc hành quân của “quân đội Saigon” lên chiếm khu vực Tống Lê Chân, một nơi nằm sâu trong vùng giải phóng của chính phủ Cách Mạng Lâm Thời!
Kèm theo luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kềm chế vì phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn “nống nấn” ra ngoài khu vực Mặt Trận Giải Phóng (một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào vòng vây của một sư đoàn). Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng “đạo lý, hiệp định” cho binh sĩ trong đồn biết “đạo lý về hòa hợp, hòa giải dân tộc”. Ý nghĩa đích thực của ngôn từ đã biến mất trên lưỡi của người Cộng Sản. Những điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát thanh Việt cộng ào ào tố cáo. Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thư tố giác, các thành viên Hung Gia Lơiï, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư. Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư gian dối đó. Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tòa báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang mong ngày mau đến.
Đau đớn hơn, khi tại Saigon, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm cây số đường chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những người lính Việt Nam đang ở chiếc đồn bị bao vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại nhìn vấn đề ngược lại, như đám Ngọc Lan, Chân Tín, như thứ chính khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh (những nghị sĩ, dân biểu được Mặt Trận Giải Phóng nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố cáo chính quyền Việt Nam Cộng Hòa). Những người này là gì trong khi đồng lõa với tội ác đẫm máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lê Chân, hai mươi ngày sau khi hòa bình 28 tháng 1/1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị thương, những người chết này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể đang nhân danh hòa bình.
Quả tình chúng ta đang ở trong một “trạng thái hòa bình” sau hai mươi sáu năm nghe tiếng súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe quen tiếng nổ đại bác hỏa tiễn, chúng ta cũng quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng của An Lộc, Quảng Trị nên hình như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của ngày hôm nay, chúng ta đã vội vã xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những hình ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước và trong hạnh phúc tội nghiệp này, giữa lòng cơn lốc túng đói, chúng ta cũng đã không đủ khả năng để nhớ đến hình ảnh một căn cứ lẻ loi cố gắng khỏi bị hủy diệt để thể hiện ý muốn sống trong tự do và hòa bình, nỗi mơ ước của toàn dân tộc…Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải làm gì được cho Tống Lê Chân.
Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào tháng 6 năm 1973, thời gian quân đội Cộng Sản đang chuẩn bị dứt điểm vào Tống Lê Chân trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đã đứng vững được trước hàng chục cuộc tấn công và bị pháo kích hàng chục ngàn quả đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh đã gắng chặt tên anh cùng chiếc đồn nhỏ bé đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đã được giữ trọn như tên anh đã định trước. NGÔN –một lòng son sắt giữ mãi một lời nói. Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả là một hiên thực hình ảnh linh diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hỗ thẹn trước nỗi can trường này.
Những phiên họp của tháng 3, tháng 4/1974 tại Ban Liên Hợp Quân Sự Hai-Bên trung ương, phía Việt Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo động: Công Trường 9 (Cộng Sản) nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng Trung Ðoàn 27 quyết ủi láng trại. Trung Ðoàn 27 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và lữ đoàn chiến xa, không kể thành phần trừ bị và tăng viện. Một năm trời thử lửa, một hai tháng thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự…quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi từ 5 tháng 4/1974 đến 1:00 giờ ngày 11 tháng 4/1974 đoạt được đồn. NGÔN làm gì với quân số 259 người với 50 người bị thương từ trước, hai chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?

Tiểu Ðoàn 92 đã chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh, con người NGÔN hơn hẳn những người anh hùng chiến trận của nhân loại: Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh của thế giới đã dựng lên tấm bia can trường về bổn phận cao cả của lính. NGÔN và Tiểu Ðoàn 92 Biệt Động dựng lên tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quý hơn tất cả, NGÔN và 259 Biệt Động Quân của Tống Lê Chân là những người chiến sĩ chiến đấu cho hòa bình. Hòa bình của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố bình yên có nghĩ gì khi hay tin Tống Lê Chân bị đoạt mất. Tiểu đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ còn giọt nước mắt, phải, chỉ còn một giọt nước mắt ngập bi hùng.

Phan Nhật Nam

HỒI KÝ TƯỞNG NIỆM CỐ TRUNG TÁ LÊ VĂN NGÔN 
LTS: Thiếu Tá Phi Công Vận Tải Lê Hồng Đức đã từ Mỹ qua sống tại Đức từ lâu,  anh Nguyễn Hữu Huấn, Phi Công Trực Thăng đã giới thiệu bổn báo Chủ Nhiệm  với TT Lê Hồng Đức, hôm nay Anh TT Đức gởi cho TCDV đoản văn hồi ký này để tưởng niệm cố Trung Tá Lê Văn Ngôn, TĐT và các chiến sĩ TĐ 92 BĐQ đã nằm xuống tại căn cứ Tống Lê Chân…
Hồi ký – Không vận tiếp tế Tống Lê Chân (TLC) 1971-1974
 (Ngoài chiến lược, những trận đánh vào TLC của CSBV và sự chiến đấu oai hùng của các chiến sĩ Biệt Động Quân Biên Phòng để bảo vệ tiền đồn TLC , tác giả tường thuật thêm tổng quát về vận tải cơ C130 thả dù & trực thăng tải thương. Tôi cũng xin được phép kể dưới đây để bổ túc thêm về sự đong góp không nhỏ của 3 phi đoàn vận tải C7 Caribou PĐ427, PĐ429 & PĐ431 đã thi hành không vận tiếp tế cho chiến trường TLC từ năm 1971 đến 1974.)  
Phi vụ hành quân cất cánh từ Đà Nẵng, chở lương thực đạn dược lấy từ phi trường quân sự Biên Hòa (BH) thuộc SĐ3KQ để tiếp tế cho Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng (TĐ92/BĐQ/BP) trấn đóng tiền đồn Tống Lê Chân (TLC) nằm trên đồi cao dưới quyền chỉ huy của Tiểu Đoàn Trưởng (TĐT) Th/tá Lê Văn *NGÔN (Tr/tá 1972-1975. Chết trong tù CS 1977) để bảo vệ vòng đai phía Tây Nam tỉnh lỵ An Lộc và phía Đông Bắc tỉnh Tây Ninh, nhất là đường xâm nhập của Cộng quân từ biên giới Miên trên con sông Sài Gòn chảy xuyên qua giữa 3 tỉnh Tây Ninh, phía Tây An Lộc sát biên giới Miên đến Lộc Ninh. Trong đồn TLC có 1 phi đạo vĩ sắt dài ca. 1100-1200! Feet (ca. 363-396m) cho phi cơ cánh quạt loại nhỏ như L19, đáp ngắn như vận tải cơ C-7 Caribou, phi cơ trực thăng UH-1 & Chinooks CH-47.
Trước khi chuyển giao phi cơ C7 Caribou cho KQVN, chúng tôi bay thực hành chuyển vận với pilot Mỹ tại Cam Ranh-, Phan Rang US AFB từ cuối tháng 09 &11.1971, đáp xuống hầu hết các phi trường dã chiến được xây nhanh bằng vĩ sắt trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật từ Đông Hà – Bến Hải tới An Thới – Phú Quốc và dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào. Sau đó KQVN tự đảm trách phi vụ không vận với loại vận tải cơ C7A Caribou từ Căn Cứ 72 (CC72) Phù Cát được chuyền giao lại bởi Liên Đoàn 22 Không Quân Hoa Kỳ, dưới quyền chỉ huy của Đ/tá NH TUYỀN. Đến tháng 2 năm 1972 thì PĐ427 được thuyên chuyển ra KĐ41CT/SĐ1KQ Đà Nẵng, trong thời gian nầy thì VC chưa pháo kích hay tấn công vào tiền đồn, cho nên phi cơ C7 có thể đáp xuống phi đạo vĩ sắt TLC nằm trong vòng kiểm soát của TĐ92/BĐQ/BP. Thường thì 2 phi đoàn C7A Caribou PĐ429 & PĐ431 thuộc SĐ5KQ đồn trú tại Tân-Sơn-Nhất đảm nhận chuyên chở cho Quân Đoàn III (3) và IV (4), còn PĐ427 đảm nhận chuyên chở cho Quân Đoàn I (1) và II (2), nhưng cũng đôi khi được chỉ định từ Đà Nẵng bay về Quân Đoàn III (3) và IV (4) như bay về Biên Hòa để chở lương thực, vũ khí đạn dược từ nơi đây cho TĐ92/BĐQ/BP.
Nhưng khi VC tấn công tỉnh lỵ An-Lộc vào tháng 04.1972 thì tiền đồn TLC cũng bị pháo kích liên tiếp làm hư hại những vĩ sắt nhô lên trên phi đạo, nên phi cơ C7 chỉ có thể bay thấp trên phi đạo và thả những tấn Pallets lương thực gồm (gạo, đồ hộp, thuốc tây để trị bệnh, thuốc quân tiếp vụ để hút, v.v… & thư từ) xuống phi đạo, tuy có hư hại đôi chút nhưng tất cả khoảng 400 chiến sĩ TĐ92/BĐQ/BP vẫn có để dùng cho cả tháng.
Mất tiền đồn Tống Lệ Chân  là mất An Lộc!.
VC, với cả sư đoàn CSBV & MTGPMN đã thấy điều thất bại nặng nề nầy sau cả tháng trời bao vây & tấn công từ phía Tây, Tây Bắc, Bắc tỉnh lỵ An Lộc được tử thủ dưới quyền của Tư Lệnh chiến trường là Đ/tá Lê Văn *HƯNG (cố Th/Tướng 1975) & Tỉnh Trưởng An Lộc Đ/tá Trần Văn NHỰT (Ch/Tướng, 1975 tỵ nạn tại Camp Pendleton USA), do đó địch quân chuyển hướng dùng biển người tấn công TLC nhưng đều bị thất bại với sự chống trở oai hùng của các chiến sĩ mũ nâu BĐQ để bảo vệ đường tiến quân của địch từ TLC xuyên phía Tây Nam An Lộc. Địch quân lại bị bao vây bởi các đơn vị của SĐ9BB/QĐIII của ta trong nhiều tháng.
Vì 1 số chiến sĩ BĐQ bị thương quá nặng cần mang về hậu cứ để điều trị gấp, nên Tr/t NGÔN yêu cầu TTHQ/SĐ3KQ/QĐIII cho trực thăng đến chở thương bệnh binh đi. Cũng vì lý do tối thượng nầy mà 1 vài phi hành đoàn trực thăng PĐ 2xx đã can đảm liều chết đáp xuống TLC để cứu chiến hữu của mình, vì địch quân mỗi khi thấy bất cứ phi cơ nào (đang) đáp xuống TLC, ngày cũng như đêm, là chúng bắn và pháo kích xối xả vào TLC. Thật là kính thương & khâm phục những chiến hữu của TĐ92/BĐQ/BP & phi hành đoàn trực thăng PĐ2xx/SĐ3KQ đã hy sinh tại ải tuyến TLC hay những ai may mắn còn sống sót cho tới ngày hôm nay.
Do đó phương tiện tải thương & tiếp tế bằng phi cơ cho TLC càng rất nguy hiểm trong những tháng cuối cùng của năm 1972 cho đến sau ngày ký Hiệp Định Paris 27.01.1973, TLC vẫn còn bị địch quân bắn phá tuy rằng không có những cuộc tấn công nào của VC. Nhưng cuối năm 1973 khi mà quân đội Mỹ và đồng minh đã hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam thì VC bất chấp sự ký kết HĐ Paris, bắt đầu gia tăng áp lực đánh phá khắp nơi nhất là các tiền đồn biên phòng BĐQ như Ba Tơ, Thượng Đức, Tiên Phước thuộc QĐI và Tống Lệ Chân / An Lộc thuộc QĐIII. Sau trận hãi chiến giữa hãi quân QLVNCH và Trung Cộng vào ngày 19.01.1974, CSBV thấy Hạm Đội 7 Mỹ không trợ giúp HQ/QLVNCH, liền sau đó mở những cuộc tấn công nhỏ để thăm dò phản ứng của Mỹ. Khi thấy Mỹ làm ngơ, CSBV bắt đầu tấn công mạnh vào các tiền đồn BĐQ/BP cố chiếm cho kỳ được để từ đó có thể chuyển quân ồ ạt tiến vào tỉnh lỵ.
Vì phi đạo TLC quá nhỏ để đáp, nên 2 phi đoàn C130 PĐ43!/SĐ5KQ sử dụng phi cơ C130 trên cao độ cao thả dù tiếp tế xuống TLC, nhưng chỉ có 50% thì vào bên trong TLC, con số còn lại thì rơi trên đầu địch quân VC được hưởng lợi. Vì lý do nầy mà 3 phi đoàn C7A Caribou PĐ427/429/431 phải tiếp tục đảm trách không vận cho TLC. Tuy phi cơ bị trúng đạn nhưng 2 phi đoàn bạn 429 & 431 đã gần hoàn tất thả những Pallets xuống phi đạo TLC. Duy chỉ có phi cơ của Đ/u Phạm T. NGHIỆP bị trúng đạn hư nặng 1 động cơ (bể máy), chỉ còn lại 1 động cơ hoạt động tốt. Bình tỉnh, anh và phi hành đoàn thay vì đáp khẩn cấp gần tỉnh lỵ Tây Ninh nhưng đã cố bay về TSN và đáp an toàn.
Bây giờ đến lượt phi đoàn 427 từ Đà Nẵng bay về Biên Hòa để thi hành những phi vụ hiểm nguy nầy vì TLC lại cần sự tiếp tế sau hằng nhiều ngày ngăn cản sự tấn công của Cộng quân, đạn dược thì có thừa nhưng lương thực thì cạn dần. Phi hành đoàn của tôi thi hành phi vụ bất thần nầy.
Đáp xuống phi trường Biên Hòa VNAFB khoảng 9-10 giờ sáng, trong khi anh em phi hành đoàn (p.h.đ) Th/u HƯƠNG, T/s TIẾN & TỴ lo công việc chất 2-3 tấn Pallets lương thực lên tàu, tôi vào TTHQ/SĐ3KQ để hỏi tình hình hiện tại ở TLC thì được thông báo rằng, VC vừa pháo kích vào TLC, làm hư hại vĩ sắt ở đầu phi đạo, không ai bị thương và các chiến sĩ của TĐ92/BĐQ/BP  đang trong tư thế chiến đấu dưới giao thông hào chung quanh tiền đồn. VC chỉ tấn công lên đồi TLC vào ban đêm, vì ban ngày địch quân chúng biết sẽ bị tiêu diệt bởi phi pháo (không quân & pháo binh) của ta & hõa lực của TĐ92/BĐQ/BP. Sau đó tôi nhờ TTHQ chuyển tin tới Tr/t NGÔN Tiểu Đoàn Trưởng rằng, tôi sẽ bay đến, nếu phi đạo an toàn thì tôi đáp, nếu không thì tôi sẽ bay sát trên phi đạo thả hàng xuống!.
Trở về tàu, tôi trình bày tình hình ở TLC cho anh em p.h.đ và đi đến quyết định bay thật thấp và thả Pallets trên phi đạo vì chúng tôi đã biết những phi cơ bạn trực thăng UH1 & Chinooks CH-47 trước đó bị bắn, bị trúng đạn pháo của VC khi đáp vào TLC. Sau đó chúng tôi bắt đầu quay máy, xin chỉ thị BH-Tower và cất cánh trực chỉ TCL-An Lộc, nhưng tôi không quên bảo TỴ kiểm soát cửa “cargo door & floor”, buột nịch thật kiên cố 2-3 Pallets trước khi thả. Sau hơn 10 phút bay lên cao độ 7000-8000 feet về hướng Bắc thì tôi đã thấy xa xa dưới lớp mây lưa thưa tiền đồn TLC và tỉnh lỵ An Lộc đang chìm trong chiến tranh với những cụm khói trắng đen bốc lên cao từ phía Tây, Tây Bắc An Lộc. Vì từ BH đến TLC & An Lộc rất gần khoảng hơn 100km theo không hành, tôi bắt đầu cúp hết ga (Power Off – Êm không có tiếng động cơ nổ, bay xuống như chiếc lá cây rơi, đây cũng là kỹ thuật sáng chế đặc biệt chỉ có loại C7A Caribou), đồng thời tôi dùng phương pháp trược cánh liều lĩnh bay xuống Kamikaze cho nhanh với tốc độ cao trên >200 Knots (warning – yellow speed limit range) để kịp thời vào đúng Downwind phía Bắc song song với phi đạo TLC (phi cơ của Đ/u NGHIỆP bị VC bắn ở phía Nam! TLC) cách 500-600m/cao độ 500-600feet về phía An Lộc, Th/u HƯƠNG bấm chuông để báo TỴ được lệnh mở cửa “cargo door & floor” theo tư thế thả dù. Vẫn còn PowerOff vì tránh VC nghe tiếng động cơ, tôi quẹo thật gắt bên trái cận tiến bay thẳng với trên >100 Knots xuống sát trên phi đạo 090-270o (!?) dưới 200feet (ca. 66m) về hướng Đông 90o thì thấy vĩ sắt nhô lên phía dưới mũi phi cơ. Lệnh “Thả” vừa dứt (cả p.h.đ đều nghe), tôi vừa tống ga từ từ nhanh lên maximum vừa kéo phi cơ lên, cùng lúc Th/u HƯƠNG bấm chuông để báo TỴ thả (release locking). Tất cả hành động “Thả” chớp nhoáng hoàn thành trong vòng 3-4 giây, TỴ nói “OK” và đóng “cargo door” lại. Tôi vừa quẹo trái bay lên cao về phía Đông Bắc TLC, vừa nhìn xuống phía dưới phi đạo; từ các giao thông hào gần đó, vô số chiến sĩ Biệt Động Quân tuôn chạy đến những Pallets lương thực mà các anh em đã bao nhiêu ngày chờ đợi đang nằm trên phi đạo, thật là cảm động và rất thương mến các chiến sĩ TĐ92/BĐQ/BP dưới quyền chỉ huy của vị Tiểu Đoàn Trưởng trẻ tuổi, tài ba Tr/tá Lê Văn *NGÔN.
Tôi mang tàu lên cao thật nhanh ra khỏi tầm bắn của VC và sau đó để Th/u HƯƠNG bay về BH. Anh em p.h.đ chúng tôi thở phào và cảm thấy nhẹ nhỏm ra vì đã hoàn thành nhiệm vụ không vận tối cần cho TLC và bay trở về an toàn. Nhưng trong lòng tôi vẫn còn mang nỗi lo âu cho các chiến hữu của TĐ92/BĐQ/BP, ngày cũng như đêm, từng giây từng phút sẵn sàng chống trả bất cứ những đợt tấn công “tiền pháo hậu xung” nào của địch quân.
Nhưng cuối cùng, một vết đau thương cho tới ngày hôm nay, không phải chỉ có một TLC thất thủ mà là cả đất nước miền Nam Việt Nam Cộng Hòa thất thủ chỉ vì quốc hội Mỹ không viện quân sự nữa cho QLVNCH kể từ sau năm 1973. Họ chuyển giao nhiều chiến cụ cho QLVNCH trước khi rút quân, nhưng không tiếp tục viện trợ đạn dược, xăng nhớt, … thì làm sao chống đở với ai đây, trong khi Nga (UDSSR) và Trung cộng liên tục viện trợ tối đa cho CSBV để tiến chiếm miền Nam. Điều nầy người Mỹ đã biết, trước khi hãi quân QLVNCH  hãi chiến với Tàu cộng tại Hoàng Sa ngày 19.01.1974. Thật là đau đớn thay cho QLVNCH và tức giận bởi người Mỹ & đồng minh chỉ đứng nhìn xem miền Nam VNCH đi đến ngày sụp đổ 30.04.1975.
Ngày 16.05.2011 tại Berlin/Germany, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã trao giải “Henry Kissinger Award” cho cựu Thủ Tướng Đức Helmut Kohl về thành tích lảnh đạo để thống nhất nước Đức (Đông & Tây Đức) và sau đó Âu Châu, nhân dịp sinh nhật 80 tuổi của ông. Không biết ông cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger gốc Đức có ân hận lắm chăng trước khi nằm xuống vì đã đi đêm bán đứng miền Nam VN cho Nga Tàu.
KQ TỴ hiện nay ở New York, KQ TIẾN ở San Jose CA, KQ ĐỨC ở Munich. Duy chỉ có KQ HƯƠNG còn kẹt lại VN sau khi ra tù nhưng cho đến bây giờ thì vẫn chưa liên lạc được với anh, hy vọng anh và gia đình vẫn bình an!.
Tôi viết lên hồi ký nầy, không ngoài mục đích để tưởng nhớ đến những chiến hữu Biệt Động Quân của Tiểu Đoàn 92 Biên Phòng và các phi hành đoàn bạn trực thăng UH1 & CH-47 thuộc PĐ2xx! / SĐ3KQ đã hy sinh hay may mắn còn sống sót cho tới ngày hôm nay dù ở bất cứ nơi đâu, những người trai trẻ nầy sinh ra trong thập niên 40-50, vào quân đội, xem cái chết, tợ như lông hồng để bảo vệ quê hương khỏi ách cai trị độc tài độc ác của đảng cộng sản Việt Nam…
Mùa Hè Munich 2011
KQ Lê Hồng Đức


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét