Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

TẾT MẬU THÂN 1968 VỚI NGƯỚI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA

"Vui Xuân Không Quên Diệt Cộng"; đó là câu khẩu hiệu mỗi lần Tết đến, của một thời đã được Dân-Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn phải chi nhớ trong công cuộc chiến đấu để bảo vệ tự do, bảo vệ đồng bào, không bao giờ được xao lãng.
Thế nhưng, vào Tết Mậu Thân,1968; bởi tin rằng, lệnh ngưng bắn ba ngày để cho đồng bào được vui Xuân, trong lúc mọi người đang hướng lòng tưởng niệm công đức của tiền nhân và tổ tiên của mình, thì bất ngờ tại chùa phổ Quang và chùa Nam Thiên Nhất Trụ, là nơi ẩn náu của hai tên tướng Việt cộng Trần Hải Phụng, Nguyễn Văn Bá và cũng là hai nơi trú đóng an toàn cho những "Lực lượng Biệt động thành Sài Gòn-Gia Định, thuộc Lữ đoàn 316, của cộng sản Bắc Việt, đã được lệnh của  "Hòa thượng" Thích Trí Dũng và Trần Hải Phụng là"điểm khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất".


Mặc dù người đứng đầu của chính phủ và cũng là Tổng Tư lệnh quân đội đã cùng thê tử dìu dắt nhau đi du Xuân, bỏ mặc cả nước cho cộng sản Bắc Việt xua quân đánh chiếm.  Nhưng giữa lúc sinh tử ấy, vì để bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào, người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa trên khắp Bốn Vùng Chiến Thuật vẫn quyết liệt chiến đấu để giành lại từng tấc đất đã bị cộng quân đánh chiếm. Riêng tại cố đô Huế, vì có "Hòa thượng" Thích Đôn Hậu đã sẵn sàng  nội công tại các "chùa" Từ Đàm, Từ Hiếu, Tường Vân ... nên cộng quân đã chiếm đóng đến gần cả một tháng trời, và những tên đao phủ, được mang danh là "nhà sư" như  Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu đã ra lệnh cho các đệ tử xuống tay tàn sát hàng ngàn người dân vô tội, kể cả những em bé một cách vô cùng man rợ. Những hình ảnh của những bộ xương đã bị gẫy đứt, những chiếc xương ống tay, ống chân vẫn còn bị trói, là chứng tích của những cách giết người còn thua cả loài ác thú.

Chúng ta hãy nhìn xem: Hình ảnh của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa bên cạnh một phụ nữ với tấm thân nhuộm đầy máu, hoặc đang bế cụ già, hay ôm xác một em thơ giữa vòng lửa khói, và còn một hình ảnh khác của người chiến sĩ với khuôn mặt bị thương, đã được băng kín, chỉ còn chừa đôi mắt, nhưng vẫn không rời tay súng, sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống của mình để bảo vệ đồng bào, để giành lại từng tấc đất đã bị cộng quân đánh chiếm. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu dưới lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu, đã tận hiến đời mình cho Chính Nghĩa-Quốc Gia-Dân Tộc. 












 
Và, chúng ta cũng hãy nhìn xem: Những hình ảnh của người Mẹ đang ôm xác con thơ, của người vợ đang gào thét bên xác chồng... là những nạn nhân đã bị giết chết dưới những bàn tay tàn ác của Phật Giáo Khối Ấn Quang và cộng sản Bắc Việt, trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân, 1968. Tất cả những hình ảnh ấy đời đời sẽ còn lưu lại cho hậu thế còn biết đến những hành vi giết người một cách tàn khốc, kinh hoàng nhất.

 Ôi ! còn nỗi đau đớn nào có thể sánh bằng, khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh của người Mẹ đang ôm xác đứa con ruột thịt của mình đã chết bởi những viên đạn thù của giặc cộng, với tiếng kêu gào xé ruột, đứt gan như Nhạc sĩ Anh Bằng đã chứng kiến, và đã ghi lại qua bài hát: Chuyện Một Đêm:

 
Chuyện một đêm khuya nghe tiếng nổ nổ vang trời
Chuyện một đêm khuya ôi máu đổ đổ lệ rơi
Chuyện một đêm khuya nghe tiếng than trong xóm nghèo
Mái tranh lửa cháy bốc lên ngun ngút trời cao
Bà mẹ đau thương như muối đổ đổ trong lòng
Chạy giặc ôm con qua những cảnh cảnh hờn vong

Và người con yêu đã chết trên tay lúc nào
Xót xa vạt áo trắng hôm nay hoen máu đào

Ai, ai cướp con tôi !
Ai giết con tôi giữa cơn mộng đêm thái bình
Ôi thương lời nói tội tình, hàm bao đớn đau
Giờ mẹ con đành cách nhau !

Bà đặt con lên đám cỏ phủ sương mờ
Tội gì con ơi khi lứa tuổi tuổi còn thơ
Bà nhẹ đưa môi hôn trán con yêu giá lạnh
Vuốt ve lần cuối trước khi xa con suốt đời !!!

 

 


 
Nhưng chưa hết, vì còn quá nhiều những hình ảnh của đồng bào vô tội đã bị hành quyết một cách vô cùng tàn ác và dã man. Vậy, xin hãy nhìn xem những xác chết không toàn thây, đầu lìa khỏi cổ... Những oan khiên, máu lệ này sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của mọi người có lương tri ở trên thế gian này.






tên Việt cộng mặc áo cà sa, Thích Trí Dũng!

 
Đức Thích Ca Mâu Ni đã từng dạy chúng sinh:  Không được sát sinh - Không được vọng ngữ, tức không  được nói láo.  Nhưng than ôi ! Giữa đêm giao thừa Tết Mậu Thân, 1968,  ngay tại Thủ Đô Sài Gòn, lại có một "cao tăng" của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Khối Ấn Quang; đó chính là "Hòa thượng" Thích Trí Dũng đã hạ lệnh "khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhát"; còn tại Huế, thì do "Hòa thượng" Thích Đôn Hậu, Chánh Đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh, tức miền Trung cũng của Khối Ấn Quang, đã ra lệnh cho các tay chân bộ hạ xuống tay chặt đầu, cắt cổ những lương dân vô tội. Chẳng những vậy, mà có những nạn nhân đã bị trói vào gốc Bồ Đề ở các chùa như: Từ Hiếu, Từ Đàm, Tường Vân, Quang Tự ... rồi bị bắn chết, và máu của họ đã tưới lên thân cây Bồ Đề và đã nhuộm đỏ cội Bồ Đề tại Huế.

Xin quý vị Phật tử chân chính hãy bình tâm suy nghĩ: Cội Bồ Đề luôn nhắc nhở mọi người nhớ đến hình ảnh của Đức Thích Ca Mâu Ni từng ngồi tĩnh tâm, để tìm chân lý, để chỉ cho chúng sinh: "Tự đốt đuốc tìm đường mà đi", hầu mong thoát khỏi lầm mê, quay về bờ giác. Nhưng cội Bồ Đề tại các chùa tại Huế, lại là nơi nhuộm đầy những dòng máu thắm của đồng bào vô tội !!!

Riêng tại thành phố Đà Nẵng, như loạt bài gồm 10 kỳ, với tựa đề: "Lịch Sử Đình Nại Hiên-Chùa An Long", đã chứng minh cho những điều tôi đã viết qua các bài: Cuộc Thảm Sát Thanh Bồ-Đức Lợi, 24-8-1964 - Cuộc Bạo Loạn Bàn Phật Xuống Đường, mùa hè 1966 - Tưởng Niệm Bốn mươi năm Cuộc Thảm Sát Mậu Thân: 1968-2008 và 30-4-1975: Máu và Nước Mắt.

Nên nhớ, chùa An Long tại Đà Nẵng trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Khối Ấn Quang. Xin nhắc lại: tên gọi Khối Ấn Quang là do chính "Hòa thượng" Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ, đã xác định bằng giấy trắng mực đen, chứ không phải do người khác tự nghĩ, tự đặt ra như một số người đã lầm tưởng.

Chính vì những lẽ đó, nên tất cả những lời ngụy biện, để chạy tội cho những kẻ đội lốt là "nhà sư" nhưng không bao giờ xóa được những tội ác, vì chính họ là những tên đồ tể, vì đôi tay của "Hòa thượng" Thích Trí Dũng và của "Hòa thượng" Thích Đôn Hậu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tức Khối Ấn Quang đã nhuộm đầy máu của những nạn nhân đã chết một cách vô cùng đau đớn, như mọi người đã nhìn thấy qua những tấm hình này.

 Trở lại với Tết Mậu Thân, 1968, và người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa: chính những tấm hình biết nói ấy, nó đã tự cho mọi người biết được rằng người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa là tất cả những gì hào hùng nhất, cao quý nhất, vì đã luôn luôn giữ tròn lời Tâm Niệm: Bảo Quốc An Dân.

"Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ ?!". Ngước mặt nhìn Trời cao, để rồi tự hỏi: Những người Chiến Sĩ năm xưa, bây giờ, ai còn, ai mất, ai đau thương với những tấm thân tàn phế, ai u buồn trong kiếp sống lầm than, ai cô đơn nơi đất khách quê người, mà lòng rưng rưng tiếc nhớ về những năm tháng cũ... !!!

Và mỗi mùa Xuân đến, là trong chúng ta, có những tâm hồn lại cứ trào dâng lên những niềm thống hận, cứ rơi nước mắt, vì hồi tưởng về một mùa Xuân Mậu Thân, 1968, với khói lửa, máu và nước mắt đã lan tràn khắp nẻo đường quê !!!

 Nguyện xin Hồn Thiêng Sông Núi Việt cho ánh mặt trời được soi rọi đến tận cùng của những nỗi thương đau; xin cho Quê Hương Việt Nam sớm thoát khỏi bàn tay của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc; xin cho người dân Việt sớm có ngày Tự Do-Dân Chủ và Thanh Bình thực sự, cho những người Việt Nam đang sống đời tỵ nạn cộng sản khắp nơi tại hải ngoại, sớm được trở về đoàn viên nơi cố lý.



Pháp quốc, 19/1/2012
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
------------------------------------------------------------------
 

* "Tài Trí Việt Nam: Người dựng Chùa Một Cột tại Miền Nam: Hòa Thượng Thích Trí Dũng đã đóng góp cho cách mạng rất nhiều, ông là nhà sư được Hồ Chủ Tịch viếng thăm và mời cơm… Tên tuổi ông được gắn liền với quá trình xây dựng Chùa Một Cột (Nam Thiên Nhất Trụ) ở miền Nam …. Chùa Nam Thiên Nhất Trụ (NTNT) hiện tọa lạc tại số 1/90 đường Nguyễn Du, thị Trấn Thủ Đức, (TP Hồ Chí Minh), được khởi công xây dựng theo mẫu chùa Một Cột tức chùa Diên Hựu- một công trình văn hóa nỗi tiếng có từ thời Lý, ở thủ đô Hà Nội".

"Hòa Thượng Thích Trí Dũng kể lại:

"Khi xây dựng chùa Nam Thiên nhất Trụ (Chùa Một Cột tại miền Nam) chính quyền Ngô Đình Diệm đã nhiều lần ngăn cản vì sợ chùa sẽ khơi dậy trong lòng người dân đang sống ở nửa miền đất nước bị người Mỹ chiếm đóng, ý thức dân tộc, sự mong muốn đấu tranh cho nước nhà thống nhất, độc lập và tự do. Lúc đó, đại diện văn phòng phủ Tổng Thống Sài Gòn bảo rằng: Hòa thượng muốn làm gì thì làm nhưng không được xây Chùa Một Cột. Tôi hỏi tại sao, họ trả lời: "Nếu Chùa Một Cột được xây dựng thì sau này cộng sản Bắc Việt sẽ vào cư ngụ ở đây". (Ôi! Tổng Thống Ngô Đình Diệm là vị đã Tiên Tri được tất cả mọi sự, lời người viết). Nhưng bất chấp tất cả, chùa Nam Thiên Nhất Trụ vẫn được xây dựng. Chính trong quá trình đào hồ Long Nhãn để định móng xây chùa, những người thợ đã phát hiện ra tảng đá lớn dài 1,3m, dày 0,2m. Nhờ mãnh vỡ, mọi người mới biết đây không phải là đá, khi đập ra, họ thấy bên trong có một cổ vật bằng bạch kim, hình tròn, đường kính 0,38m, dày hơn 1cm, nặng 6,2kg, trên mặt khắc 4 chữ Hán "Ngũ Tử Đăng Khoa" và 21 hoa văn đặc sắc, cổ vật này được nhà tư sản người Hoa là Lý Long Thân đòi mua với giá 4 triệu đồng (bốn triệu đồng) và 200 lượng vàng (hai trăm lượng vàng) thời giá lúc đó. Người Mỹ khi khảo sát cổ vật cũng đã ngỏ ý được đổi bằng một bệnh viện 3 tầng với 600 giường, có đầy đủ dụng cụ Y khoa. Cả Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi biết cũng đã cử người xuống thương lượng xin được lấy cổ vật ấy, hứa sẽ đáp ứng mọi yêu cầu, nhưng tôi (HT Thích Trí Dũng) là người chủ trì việc xây cất chùa vẫn một mực chối từ và đem giấu cổ vật đi. Cho đến khi nước nhà thống nhất tôi đã tình nguyện hiến cổ vật cho nhà nước: Ngày 25-8-1988, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải, Thượng tướng Trần Văn Trà, Thiếu tướng Trần Hải Phụng, giáo sư Trần Văn Giàu cùng các nhà nghiên cứu khảo cổ đã đến tiếp nhận cổ vật đem vế trưng bày ở phòng "Sài Gòn xưa" của Bảo tàng cách mạng TP. Hồ Chí Minh.

* Hòa Thượng Thích Trí Dũng kể về những thành tích cách mạng:

"Năm 1947, hơn 2000 nhân sĩ, trí thức yêu nước bị phái Công Giáo phản động bắt giam ở nhà hầm Phát Diệm. Lúc đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ông Hồ Tử Du với lá thư riêng của Hồ Chủ Tịch đã đến Đồng Đắc ủy nhiệm cho tôi - trên cương vị Đại diện Phật giáo Cứu quốc Trung ương - bằng mọi cách phải giải thoát. Nhờ sự hậu thuẫn của cách mạng, việc giải thoát đã thành công. Với thành tích này, tôi được Hồ Chủ Tịch khen thưởng và được tướng Nguyễn Sơn mời làm cố vấn.  Sau khi giải thoát cho 2000 nhân sĩ, trí thức, tôi bị bọn Công Giáo phản động tuyên án tử hình. Để tránh sự trả thù và thể theo yêu cầu của một số Phật tử Nam Kỳ, năm 1953 tôi vào miền Nam.

  Từ khi vào Nam tôi đã xây chùa Linh Giác ở Đà Lạt, chùa Phổ Chiếu, Phổ Minh ở Gò Vấp, chùa Phổ Quang ở Tân Bình, tôi quyết đinh xây dựng Chùa Một Cột tại làng Đại Học Thủ Đức, phỏng theo mô hình Chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Hà Nội. Bị chính quyền Ngô Đình Diệm cản ngăn, tôi về mướn người rào kín khu đất định xây chùa lại, thuê thợ đến làm từ 4 giờ chiều đến 11 giờ đêm. Biết được sự kiện tôi lén xây dựng chùa, chính quyền Diệm sai người đến yêu cầu tôi phá ngay vì lý do chính trị. Tôi nói với họ: Tôi chỉ biết xây chứ không biết phá. Cản ngăn không được, họ lại đưa tiền cho tôi để tôi xây dựng chùa khác, nhưng tôi không chịu. Thế là họ đành để tôi xây dựng chùa mà không lấy tiền lại.

Năm 1964, tại Chùa Một Cột (Nam Thiên Nhất Trụ) Thủ Đức qua trung gian là anh Bùi Kỳ Vân, anh Nguyễn Đức Lộc là  Chính trị viên đội Biệt động Thủ Đức, tôi gặp anh Nguyễn Văn Bá, ông Nguyễn Văn Thăng hiện đều là anh hùng Quân đội Nhân dân Việt Nam và đều ở Đội Biệt động Sài Gòn-Gia Định ngày ấy. Họ đã nhờ tôi tạo điều kiện cho Lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định thuộc Lữ đoàn 316 xây dựng cơ sở bí mật tại Chùa Một Cột và Chùa Phổ Quang ở gần sân bay Tân Sơn Nhất-là hai ngôi chùa do tôi kiến tạo và trụ trì. Tôi đồng ý, thế là hai ngôi chùa này trở thành hai cơ sở hoạt động bí mật của Biệt động Sài Gòn-Gia Định cho đến ngày 30-4-1975.

Trong cuộc Tổng công kích Mậu Thân 1968, Chùa Phổ Quang là điểm khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất; ở đây tôi đã qua mắt địch, để che giấu một số lượng lớn vũ khí và Lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định thuộc Lữ đoàn 316.  Chùa Phổ Quang cũng là nơi ở của Thiếu tướng Trần Hải Phụng và anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Bá, chùa thường xuyên bị địch để ý. Để che mắt địch, chúng tôi đã cạy nắp mồ Ngô Đình Cẩn em ruột Ngô Đình Diệm, chôn trong chùa Phổ Quang để giấu vũ khí. Chính vì vậy, địch không ngờ tới. Còn sự di chuyển của các chiến sĩ Lực lượng Biệt động thì đích thân tôi đã lái xe hơi chở họ nên địch không thể ngờ được. Vì thế, vũ khí và con người được giữ gìn cho đến giờ chót".

----------------------------------------------------------

LỊCH SỬ PHẬT TỬ GHPGVNTN CHỐNG VNCH, CHỐNG MỸ, TREO CỜ MTGPMN) ĐÌNH NẠI HIÊN-CHÙA AN LONG


- Ông Nguyễn Đình Liệu đã cho giương cao cờ của Mặt trận Giải Phóng Dân tộc Miền Nam Việt Nam tại vườn hoa Diên Hồng và vườn hoa phía trước Cổ Viện Chàm. Đây là lần đầu tiên cờ của Mặt trận Giải phóng công khai xuất hiện tại Đà Nẵng.

- Tháng 3.1966, Nguyễn Đình Liệu và Thượng tọa Thích Minh Tuấn cho thành lập “Lực lượng thanh niên phật tử cứu quốc”.
 
Ngày 22.8.1964, từ chùa An Long và chùa Tỉnh hội, ông Nguyễn Đình Liệu, Phan Chánh Dinh, Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Thích Minh Chiếu … dẫn đầu đoàn biểu tình đi đến sân vận động Chi Lăng dự mít-ting hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ-Khánh”.
 
-         Trong tháng tư, ông Nguyễn Đình Liệu chỉ đạo cho các thanh niên phật tử Nại Hiên và học sinh trường Bồ đề thực hiện chiến dịch “đốt xe Mỹ”, đã có một vụ đốt xe như vậy xảy ra ở đầu đường Bạch Đằng, trước Cổ viện Chàm: một chiếc xe Jeep nhà binh trên xe có hai sĩ quan, một Mỹ và một Nam Hàn vừa chạy trờ đến, thì các thanh niên phật tử từ chùa An Long xông ra chặn đường và lôi hai sĩ quan này xuống đất, hai sĩ quan này hốt hoảng kêu cứu thì bị đánh, cùng lúc các thanh niên phật tử khác tưới xăng vào xe và châm lửa đốt. Hai sĩ quan này may mắn chạy vào khách sạn Moderne gần đấy nên thoát chết.

 - ngày 1.7.1967, Ông Lê Duẫn viết thư ban khen GHPGVNTN-AQ  trong bức thư gửi Thành ủy Sài gòn - Gia định đề ngày 1.7.1967, ông Lê Duẩn, bí thư thứ nhất BCHTW Đảng, đã viết:

  “Cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng chống Thiệu – Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1966, tuy không đem lại thắng lợi, nhưng đã cho ta một bài học bổ ích về lợi dụng mậu thuẫn nội bộ địch. Lúc đầu cuộc nổi dậy đó là không phải do ta chủ động mà nhân cơ hội nội bộ địch chống đối lẫn nhau, ta đã biết tập hợp, phát động quần chúng đứng lên làm chủ thành phố. Mặc dù cơ sở Đảng mỏng và lực lượng cách mạng trong thành phố không nhiều, các đồng chí ở Đà Nẵng đã làm được việc đó. Nhưng thiếu sót ở đây là các đồng chí ở Đà Nẵng chưa tranh thủ được thuận lợi để phát triển thực lực cách mạng … Bài học về cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng rất phong phú”.


(Kỳ 10: Chùa An Long trong Tết Mậu thân 1968)

Kỳ 9: Chùa An Long trong cao trào đấu tranh Phật giáo (chống VNCH) tại Đà Nẵng:

Lễ Phật đản năm 1963, chính quyền Diệm ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo tại Huế. Đông đảo tăng ni, phật tử kéo đến đài phát thanh Huế để phản đối. Thiếu tá Đặng Sĩ, tỉnh phó nội an Thừa Thiên - Huế, đã huy động cảnh sát, xe thiết giáp đến đàn áp cuộc đấu tranh, bắn giết đồng bào phật tử. Trước tội ác của địch, phong trào đấu tranh Phật giáo nổ ra khắp miền Nam. Đồng bào phật tử ở Đà Nẵng cũng xuống đường phối hợp đấu tranh.

Nhận chỉ thị của Thành ủy chủ trương vận động nhân dân đấu tranh dưới hình thức “ngọn cờ Phật giáo, ngòi pháo học sinh”, ông Nguyễn Đình Liệu lãnh đạo đông đảo tăng ni, phật tử, thanh niên trong khuôn hội Nại Hiên Tây tổ chức cầu siêu trong mùa Pháp nạn, thuyết pháp, biểu tình, hô vang khẩu hiệu “đả đảo chế độ độc tài Ngô Đình Diệm!”. (Chống VNCH)

Từ chùa An Long, ông đã dẫn đoàn biểu tình tiến về chùa Tỉnh hội Đà Nẵng (nay là chùa Pháp Lâm, số 500 đường Ông Ích Khiêm) đồng thời làm công tác binh vận, lôi kéo các binh lính theo đạo Phật đứng về với nhân dân. Cảnh sát, An ninh quân đội vùng 1 chiến thuật đi đàn áp đoàn biểu tình đã bị thanh niên phật tử chống trả quyết liệt. Ngày 3 tháng 11 năm 1963, dưới sự hậu thuẫn của ông trùm đảo chính Logde, một nhóm tướng tá Nam Việt Nam tự xưng là Hội đồng quân nhân Cách mạng do Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn … cầm đầu đã tiến hành đảo chính, và sau đó giết chết anh em Diệm-Nhu. Nhiều thanh niên phật tử trong khuôn hội Nại Hiên Tây tham gia phong trào diệt “dư đảng Cần lao”, truy quét ác ôn ở địa phương.

Nhưng chỉ sau đó 3 tháng, ngày 30 tháng 1 năm 1964, được sự ủng hộ của Mỹ và "nhóm các tướng trẻ", tướng Nguyễn Khánh đã thực hiện cuộc "chỉnh lý" cướp quyền, truất phế các tướng lĩnh chủ chốt của cuộc đảo chính là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân. Nguyễn Khánh tự xưng là chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tổng tư lệnh quân đội. Ngày 28 tháng 2 năm 1964, Nguyễn Khánh phế truất chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ và lên làm thủ tướng. Ngày 16 tháng 8 năm 1964, ông ta ban hành "Hiến chương Vũng Tàu", theo đó ông ta là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, kiêm Quốc trưởng, kiêm Thủ tướng của Việt Nam Cộng hòa, cũng như là Tổng tư lệnh, kiêm Tổng tham mưu trưởng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Uy quyền của ông ta lên đến mức tột đỉnh. Tuy nhiên, tướng Khánh đã vấp sự phản đối quyết liệt của quần chúng nhân dân. Các cuộc biểu tình chống tướng Khánh nổ ra khắp nơi. Ông Nguyễn Đình Liệu lại tham gia lãnh đạo phong trào phật tử phối hợp với lực lượng học sinh sinh viên đấu tranh chống độc tài, đòi xé bỏ “Hiến chương Vũng Tàu”. Để bảo vệ cho các cuộc biểu tình, ông Nguyễn Đình Liệu và Thượng tọa Thích Minh Tuấn cho thành lập “Lực lượng thanh niên phật tử cứu quốc”.
 
Ngày 22.8.1964, từ chùa An Long và chùa Tỉnh hội, ông Nguyễn Đình Liệu, Phan Chánh Dinh, Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Thích Minh Chiếu … dẫn đầu đoàn biểu tình đi đến sân vận động Chi Lăng dự mít-ting hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Mỹ-Khánh”.

Sau đó đoàn biểu tình kéo xuống Tòa Thị Chính Đà Nẵng. Khi đến trước Tòa Thị Chính ở đường Bạch Đằng, Lực lượng thanh niên phật tử cứu quốc đã dùng loa phóng thanh kêu gọi Hải quân Đại tá Lê Quang Mỹ, Thị trưởng Đà Nẵng, phải ra trình diện và phải bàn giao chức Thị trưởng Đà Nẵng cho nhân dân. Đại tá Lê Quang Mỹ hốt hoảng trốn ra cửa sau, rồi chạy đến Bộ tư lệnh Hải quân vùng 1 Duyên hải ở Tiên Sa để tị nạn. Nhân dân đã làm chủ Tòa Thị Chính trong vòng 9 ngày (22.8 à 2.9.1964). Trong những ngày sôi động đó, ông Nguyễn Đình Liệu đã cho giương cao cờ của Mặt trận Giải Phóng Dân tộc Miền Nam Việt Nam tại vườn hoa Diên Hồng và vườn hoa phía trước Cổ Viện Chàm. Đây là lần đầu tiên cờ của Mặt trận Giải phóng công khai xuất hiện tại Đà Nẵng và đây cũng là một thắng lợi chính trị to lớn của nhân dân Đà Nẵng nói chung và nhân dân Nại Hiên nói riêng.

Tình hình miền Nam dưới sự quản lý của tướng Khánh ngày càng loạn lạc, giai đoạn tướng Khánh nắm quyền là giai đoạn nổ ra nhiều cuộc đảo chính nhất, uy tín của tướng Khánh càng lúc càng xuống thấp và ngày càng mất lòng dân. Nhóm các tướng trẻ, do đó, thống nhất truất phế tướng Khánh. Hai tướng trẻ Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chính quyền.

Tháng 3.1966, trong cao trào đấu tranh phật giáo tại Đà Nẵng chống Thiệu – Kỳ, “lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng vùng 1 chiến thuật” được thành lập, Đặc khu uỷ đã đưa 5 cán bộ, trong đó có ông Nguyễn Đình Liệu, tham gia vào Ban lãnh đạo các tổ chức đấu tranh. Ông Nguyễn Đình Liệu được cử phụ trách “lực lượng phật tử tranh thủ cách mạng”. Các tướng tá ở vùng 1 như Trung tướng Nguyễn Chánh Thi - Tư lệnh vùng 1, Đại tá Nguyễn Văn Mô - Tham mưu trưởng vùng 1, Đại tá Đàm Quang Yêu - Tư lệnh Biệt khu Quảng Đà ... đều ủng hộ phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Ngày 25.3.1966, nhân dân đã thực sự làm chủ được thành phố Đà Nẵng.

Trước cao trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thành phố Đà Nẵng, Thiệu – Kỳ quyết định đem quân từ Sài Gòn ra đàn áp. Ban đầu, Thiệu – Kỳ định sử dụng quân Nhảy dù, nhưng khốn nỗi, tướng Nguyễn Chánh Thi từng là “quan thầy” của tướng Dư Quốc Đống, tư lệnh Nhảy dù, mà tuớng Đống lại không muốn mang tiếng “phản thầy” nên không chịu đưa quân đi. Các tướng tá Sài gòn phần lớn cũng ngán tướng Nguyễn Chánh Thi nên chẳng ai muốn đi. Cuối cùng, Nguyễn Cao Kỳ nhờ đến một người bạn thân thiết của mình là Trung tá Nguyễn Thành Yên, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến, cầm quân ra Đà Nẵng để đàn áp phong trào phật giáo.

Đổ quân xuống phi trường Đà Nẵng, Trung tá Yên được Thiệu – Kỳ bổ kiêm nhiệm chức Quân trấn trưởng Đà Nẵng để danh chính ngôn thuận cho việc đàn áp. Trung tá Yên nhanh chóng cho Thủy quân lục chiến tấn công chùa Tỉnh hội, dẹp bỏ các bàn thờ Phật ở các đường lân cận đó. Tiếp theo, Trung tá Yên đưa quân về hướng chùa An Long. Khi Thủy quân lục chiến chuẩn bị dẹp các bàn thờ Phật ở đây thì vấp sự chống trả quyết liệt của lực lượng phật tử tranh thủ cách mạng do ông Nguyễn Đình Liệu lãnh đạo. Khốn nỗi, Trung tá Yên là cháu của ông Nguyễn Đình Liệu (cụ thân sinh của Trung tá Yên, Nguyễn Thanh Xáng, là anh em chú bác ruột với ông Nguyễn Đình Liệu) nên Trung tá Yên ra lệnh lui quân (năm 1970, ông Nguyễn Thành Yên là Đại tá phó Tư lệnh Sư đoàn TQLC).

Trong tháng tư, ông Nguyễn Đình Liệu chỉ đạo cho các thanh niên phật tử Nại Hiên và học sinh trường Bồ đề thực hiện chiến dịch “đốt xe Mỹ”, đã có một vụ đốt xe như vậy xảy ra ở đầu đường Bạch Đằng, trước Cổ viện Chàm: một chiếc xe Jeep nhà binh trên xe có hai sĩ quan, một Mỹ và một Nam Hàn vừa chạy trờ đến, thì các thanh niên phật tử từ chùa An Long xông ra chặn đường và lôi hai sĩ quan này xuống đất, hai sĩ quan này hốt hoảng kêu cứu thì bị đánh, cùng lúc các thanh niên phật tử khác tưới xăng vào xe và châm lửa đốt. Hai sĩ quan này may mắn chạy vào khách sạn Moderne gần đấy nên thoát chết.

Thấy chưa đàn áp được phong trào cách mạng, ngày 15.5.1966 Thiệu – Kỳ tiếp tục đưa quân ra Đà Nẵng. Nhân dân Đà Nẵng đã anh dũng đánh trả quân chính phủ, nhưng do lực lượng ta còn yếu nên ngày 23.6, quân Thiệu – Kỳ đã làm chủ thành phố. Để xoa dịu phong trào cách mạng của nhân dân Đà Nẵng, Trung tá Nguyễn Thành Yên, Chiến đoàn trưởng Thủy quân lục chiến kiêm Quân trấn trưởng Đà Nẵng, đã lên Đài phát thanh Đà Nẵng phát lời kêu gọi như sau:

“ … Nghiêm cấm quân sĩ không được xâm phạm chốn tôn nghiêm, tuyệt đối không được nổ súng bắn trả lại quân phản loạn cho dù có bị thương vong. Đồng thời kêu gọi đồng bào hãy tiếp tay quân đội chính phủ, khiêng các bàn thờ Phật tổ để tạm yên trên lề đường cho xe cộ lưu thông, vãn hồi an ninh trên lãnh thổ Quảng Nam-Đà Nẵng. Nhưng nhớ phải cẩn thận không được làm ngã đổ tắt nhang đèn”.

Khi quân Thiệu – Kỳ chiếm thành phố, các cán bộ lãnh đạo của ta đã rút lui an toàn, những cán bộ có vỏ bọc hợp pháp, như ông Nguyễn Đình Liệu, tiếp tục ở lại lãnh đạo phong trào. Đánh giá về sự kiện này, trong bức thư gửi Thành ủy Sài gòn - Gia định đề ngày 1.7.1967, ông Lê Duẩn, bí thư thứ nhất BCHTU Đảng, đã viết: ( Ông Lê Duẫn khen GHPGVNTN-AQ  có công tiếp tay cho cách mạng)

  “Cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng chống Thiệu – Kỳ từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1966, tuy không đem lại thắng lợi, nhưng đã cho ta một bài học bổ ích về lợi dụng mậu thuẫn nội bộ địch. Lúc đầu cuộc nổi dậy đó là không phải do ta chủ động mà nhân cơ hội nội bộ địch chống đối lẫn nhau, ta đã biết tập hợp, phát động quần chúng đứng lên làm chủ thành phố. Mặc dù cơ sở Đảng mỏng và lực lượng cách mạng trong thành phố không nhiều, các đồng chí ở Đà Nẵng đã làm được việc đó. Nhưng thiếu sót ở đây là các đồng chí ở Đà Nẵng chưa tranh thủ được thuận lợi để phát triển thực lực cách mạng … Bài học về cuộc nổi dậy của đồng bào Đà Nẵng rất phong phú”.

Kỳ 10: Chùa An Long trong Tết Mậu Thân 1968

Trong cuộc tổng tiến và nổi dậy Tết Mậu thân 1968, chùa An Long đã đóng một vai trò hết sức to lớn. Ông Nguyễn Đình Liệu, Bùi Sĩ Tấn cùng một số cơ sở tiếp nhận và cất giấu một lượng lớn vũ khí tại hầm bí mật dưới chân tượng Phật tại chùa An Long. Ngày 29 Tết, ông Nguyễn Đình Liệu chỉ đạo các cơ sở, học sinh sinh viên, tăng ni, phật tử viết khẩu hiệu, biểu ngữ, bàn phương án phối hợp với các mũi đấu tranh trong thành phố, biến chùa An Long thành một trong những trung tâm lãnh đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân ở nội thành Đà Nẵng.

Treo cờ MTGPMN tại chùa Tỉnh Hội  ngày 29 Tết
Nguyễn Đình Liệu hoạt động tại chùa An long., chứa vũ khí.

Sau khi chuẩn bị xong, tối 29 Tết, một cơ sở ta dùng xe Jeep chở ông Nguyễn Đình Liệu cùng cờ Mặt trận Giải phóng, khẩu hiệu, biểu ngữ lên chùa Tỉnh hội để phối hợp với lực lượng ở đây chuẩn bị nổi dậy. Sáng mồng 1 Tết, đông đảo quần chúng nhân dân đã tập họp tại chùa Tỉnh hội. Tuy thiếu sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhưng các vị lãnh đạo Đặc khu ủy vẫn cho tiến hành nổi dậy theo kế hoạch. Ông Phan Chánh Dinh (còn có tên là Phan Duy Nhân và Nguyễn Chính, sau 1975 là cán bộ lãnh đạo ở Mặt trận Tổ quốc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, và về sau là Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ) cầm loa dẫn đầu đoàn biểu tình, hô hào quần chúng nổi dậy. Đoàn biểu tình kéo từ chùa Tỉnh hội ra đường Ông Ích Khiêm thì bị địch đàn áp. Ông Phan Chánh Dinh bị bắn gãy chân và bị bắt đem về Ty Cảnh sát Gia Long, sau đó bị giải qua Trung tâm thẩm vấn Thanh Bình và nhà lao Kho Đạn, Đà Nẵng. Địch ra lệnh thiết quân luật và bắn vào đoàn biểu tình. Ông Nguyễn Đình Liệu được cơ sở đưa về ẩn náu tại chùa An Long.

Sáng mồng 4 Tết, các ông Nguyễn Đình Liệu, Hà Kỳ Ngộ đều bị bắt vì có một cơ sở khai báo với địch. Nguyên nhân như sau: ngày 29 Tết, một cơ sở của ta, ông Nguyễn Hiếu, chủ nhà may Đồng Tân ở đường Độc Lập (nay là đường Trần Phú), được giao nhiệm vụ chở một số vũ khí từ Nam Ô đến cất giấu tại chùa An Long, trên đường vào nội thành thì xe ông Nguyễn Hiếu bị Biệt động quân chặn lại ở Ngã Ba Huế, khi khám xe thấy có chứa vũ khí nên toán Biệt động quân này bắt giữ ông Nguyễn Hiếu rồi chuyển cho An ninh quân đội, tại đây Hiếu đã khai ra địa điểmchùa An Long là nơi cất giấu vũ khí và khai thêm một số cơ sở bí mật nữa.
Tôi xin trích nguyên một đoạn viết của tác giả Hàn Giang Trần Lệ Tuyền (trên trang webwww.mauthan68.blogspot.com) về vụ bố ráp chùa An Long vào sáng mồng 4 Tết Mậu Thân: “Và cũng qua điều tra bởi vụ án này [Nguyễn Hiếu] mà chính quyền đã huy động một lực lượng gồm An Ninh Quân Đội-Ban II Đặc Khu Quân Trấn- Biệt Động Quân, đột nhập vào ngôi chùa của Khuôn hội Nại Hiên Tây (vì cảnh sát không bao giờ dám khám xét chùa), sau lưng Cổ Viện Chàm, trước trường Trung học Sao Mai, phía trái có nhiều kho chứa xăng, bên cạnh có cầu tàu thuộc Quân cảng dùng để tiếp nhận chiến cụ; thường được gọi là Cầu Đạn, phía trên là cầu Trình Minh Thế, nối liền một quãng đường ngắn khoảng hơn 100 mét là Trại Nguyễn Tri Phương, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Quân Khu 1. Và đã khám phá ra được một căn hầm bí mật ngay dưới Chánh điện thờ Phật, phía trên được ngụy trang bằng một pho tượng Phật to lớn là nắp hầm để che giấu hơn hai trăm khẩu súng, đạn đủ loại và chất nỗ TNT. Người quản nhiệm ngôi chùa này là một Khuôn hội trưởng - Giáo sư Nguyễn Đình Liệu dạy tại trường Trung học Bồ Đề do Thượng tọa Thích Minh Tuấn làm Hiệu trưởng ;( ngày 29/3/1975, Thích Minh Tuấn đã công khai đưa cả đoàn xe ra tận núi rừng để rước bộ đội Bắc Việt vào thành phố Đà nẵng). Sau đó ông Nguyễn Đình Liệu bị đưa ra Tòa Án Quân Sự Mặt Trận và bị kết án 10 năm tù ở, thụ án tại Chí Hòa. Năm 1973, ông Liệu được trao trả nhân viên dân sự tại Lộc Ninh”.

Hầu hết các chi tiết trong đoạn viết trên là chính xác, duy có ba chi tiết chưa thật chính xác,  xin đính chính lại: thứ nhất, ông Nguyễn Đình Liệu không phải là Giáo sư dạy tại trường Trung học Bồ Đề mà chỉ có chân trong ban trị sự trường Bồ Đề; thứ hai là ông Liệu được trao trả theo diện nhân viên dân sự tại Thạch Hãn chứ không phải tại Lộc Ninh; và cuối cùng, ông Nguyễn Đình Liệu thụ án ở Côn Đảo chứ không phải tại Chí Hòa như tác giả Hàn Giang đã viết.

Cũng trong ngày hôm đó, do Nguyễn Hiếu khai báo nên An ninh quân đội đã ập vào nhà bà Nguyễn Thị Sự (nay là số nhà  K191/17 Ông Ích Khiêm, phường Thạch Thang, quận Hải Châu) và bắt ông Hà Kỳ Ngộ (thường vụ Đặc khu ủy).

Địch đem ông Nguyễn Đình Liệu và ông Hà Kỳ Ngộ về giam tại Kho Đạn. Tại đây, hai ông bị địch tra tấn dã man. Ông Nguyễn Đình Liệu bị địch dùng dùi cui đánh vào mang tai nên về sau này ông đã bị điếc nặng, phải dùng máy trợ thính luôn. Không moi được tin tức gì nên địch mang hai ông ra xử tại toà án Quân đội. Ông Nguyễn Đình Liệu bị tuyên án 10 năm tù, ông Hà Kỳ Ngộ bị án chung thân và cả hai ông bị địch đưa ra Côn Đảo.
 
Năm 1973, ông Nguyễn Đình Liệu được chính quyền Việt Nam Cộng hòa trao trả cho Mặt trận Giải phóng theo diện chính trị phạm dân sự tại Thạch Hãn. Thấy ông tuổi cao, sức yếu lại bị thương tật trong chốn lao tù nên Trung ương đã bố trí ông đi nghỉ tại Trạm tiếp đón cán bộ miền Nam T72 tại Khu an dưỡng Sầm Sơn (Thanh Hoá).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975, từ ngày 2.5.1975 đến 31.1.1977, Trung ương đưa ông về lại Liên khu 5, Ban Tổ chức Tỉnh ủy tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng bố trí ông đi nghỉ an dưỡng tại trại Đón tiếp tỉnh QN-ĐN.

Ngày 1.2.1977, ông Nguyễn Đình Liệu chính thức được nghỉ hưu trí theo quyết định 54/QĐ/HT ký ngày 20.12.1976 của UBND tỉnh QN-ĐN. Kể từ đó, ông trở về sum họp với gia đình ở ngôi nhà xưa tại đường Trưng Nữ Vương, phường Bình Hiên, quận Nhất (nay là Hải Châu), Tp Đà Nẵng. Mặc dù tuổi cao, sức yếu nhưng ông vẫn tham gia sinh hoạt đảng tại đảng bộ phường Bình Hiên, chủ trì việc cúng tế tại địa phương và giành khoảng thời gian cuối đời để viết lịch sử về làng Nại Hiên, đình Nại Hiên, chùa An Long và lập gia phả tộc Nguyễn Thanh. Tài liệu này được viết, cũng một phần, là dựa trên các di cảo của ông Nguyễn Đình Liệu do anh Nguyễn Dục Anh (cháu đích tôn của ông Nguyễn Đình Liệu) đang giữ gìn và bảo quản. Ông Nguyễn Đình Liệu qua đời vào ngày 16 tháng 10 năm 1984 tại tư gia trong niềm thương tiếc vô bờ của đông đảo đồng bào đồng chí tại Quảng Nam - Đà Nẵng và toàn thể con cháu trong chư phái tộc làng Nại Hiên.

Sau Mậu Thân 1968, do đã bị lộ nên chùa An Long không còn là cơ cở cách mạng nữa. Thầy Thân bị liên đới không làm trụ trì, Đại đức Thích Như Dục từ chùa Tỉnh hội về trụ trì tại chùa An Long.

Như vậy, trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẻ vang của nhân dân ta, chùa An Long cũng đã đóng góp ít nhiều công sức vào đấy. Từ năm 1962 đến năm 1968, chùa An Long đã là:

-         một cơ sở che giấu và nuôi dưỡng cán bộ ta,
-         một địa điểm bí mật để tập kết và cất giấu vũ khí, tài liệu, máy đánh chữ …cho cách mạng,
-         một trong những trung tâm lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân trong lòng đô thị Đà Nẵng dưới vỏ bọc phong trào đấu tranh Phật giáo,
-         một trong những trung tâm lãnh đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân ở nội thành Đà Nẵng.

 

(Kỳ 11: Lời kết)

Kỳ cuối: Thay cho lời kết

Kể từ lúc các vị Tiền - Hậu Hiền làng Nại Hiên vào khai khẩn mảnh đất dọc theo hai bên bờ sông Hàn đến nay là vừa tròn 535 năm. Tổ tiên làng đã xây đình Nại Hiên, dựng chùa An Long và từ đó đình, chùa là nơi sinh hoạt tinh thần, tôn giáo, là nơi dân làng tổ chức những hoạt động lễ hội và là nơi giữ gìn những nét đẹp văn hóa xưa.

Ngày nay, mặc dầu đã trở thành thị dân nhưng nhân dân Nại Hiên vẫn không bao giờ mờ nhạt ý thức cộng đồng làng xã, họ tộc tổ tiên, vẫn duy trì những sinh hoạt văn hóa tinh thần, tôn giáo, bởi vì những sinh hoạt văn hóa tại đình Nại Hiên và chùa An Long vào các lễ tế chư vị thần chủ làng hay lễ Phật Đản, lễ Vu Lan . . . là dịp tốt nhất để mọi người tìm về cội nguồn, ôn lại truyền thống, ngưỡng vọng tổ tiên và giải tỏa mối lo âu thường nhật, làm dịu bớt nỗi đau tinh thần hay gửi gắm khát vọng thầm kín mà thực tại chưa hoặc không giải quyết được. Thực tế cho thấy những sinh hoạt văn hóa này không chỉ đã góp phần vào việc giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” đối với những người có công với làng xã, với họ tộc mà còn giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước, gắn bó với quê hương, với mảnh đất Nại Hiên đã thấm đẫm mồ hôi, xương máu của ông cha, qua đó làm tăng cường ý thức gắn kết cộng đồng của dân làng trong cuộc sống đầy những thay đổi của thời hội nhập văn hóa. Hội nhập văn hóa đang là một xu thế mang tính phổ biến trong thời đại hôm nay, nhưng hội nhập không đồng nghĩa với hòa tan mà hội nhập văn hóa phải đi cùng với việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, những nét đẹp văn hóa xưa và những di tích của tổ tiên.

Nhưng đình Nại Hiên và chùa An Long đâu chỉ là nơi giữ gìn những nét đẹp văn hóa xưa mà còn là nơi ghi dấu bao chiến công anh dũng, bao thành tích cách mạng của nhiều thế hệ dân làng Nại Hiên trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đình lớn Nại Hiên là nơi ông Án Nại đặt đại bản doanh của nghĩa quân Nghĩa hội chống Pháp, đình nhỏ Nại Hiên là nơi chứng kiến sự ra đời của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã Nại Hiên trong những ngày Cánh mạng Tháng Tám lịch sử. Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa An Long là nơi che giấu và nuôi dưỡng cán bộ, là nơi tập kết và cất giấu vũ khí, tài liệu, máy đánh chữ …cho cách mạng, là nơi lãnh đạo các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân trong lòng đô thị Đà Nẵng dưới vỏ bọc phong trào đấu tranh Phật giáo, là nơi lãnh đạo cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân ở nội thành Đà Nẵng.

Trải qua bao lần dâu bể, bao cơn phong ba bão táp và bao phen khói lửa chiến chinh, đình chùa vẫn còn đứng đấy, trầm mặc nhìn dân làng Nại Hiên theo dòng đời xuôi ngược, như để làm chứng tích cho một lịch sử vẻ vang mà nhiều thế hệ dân làng Nại Hiên đã và đang chung tay gây dựng.

Hậu thế xin đời đời tri ân công đức cao dày của Tiền nhân!

Đình Nại Hiên, chùa An Long
Năm trăm năm sử trong lòng hằng ghi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét