Chương 32
Mao - Lâm quyết đấu ở Lư Sơn
Hạ tuần tháng 8-1970, Hội nghị Trung ương 2 khoá 9 họp tại Lư Sơn, có 253 người dự. Ngày 19-8 Mao lên núi, ông có 3 ngày đọc sách, nghỉ ngơi trước khi vào việc.
Ngày 20, Lâm Bưu và những người thân cận lên núi. Sáu đường truyền tin quân dụng được đặt tại nơi ở để Lâm chỉ huy quân đội trong cả nước, ngoài ra còn hai máy bay lên thẳng Skylark đậu trên núi chờ lệnh.
Chiều 22, Thường vụ Bộ Chính trị thảo luận vấn đề
chức danh Chủ tịch nước. Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang Sinh chủ
trương Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch nước, tức là về hình thức, có nguyên thủ quốc
gia. Như vậy là ngoài Mao, các uỷ viên Thường vụ đều tán thành ông làm Chủ tịch
nước. Sở dĩ xuất hiện cục diện trên vì Mao đã 4 lần, công khai nói không đặt chức
danh Chủ tịch nước, bản thân không làm Chủ tịch nước, nhưng mặt khác lại gợi ý
Lâm Bưu giới thiệu ông ta làm Chủ tịch nước. Mọi người không biết chắc ý đồ thật
sự của Mao là gì.Mao - Lâm quyết đấu ở Lư Sơn
Hạ tuần tháng 8-1970, Hội nghị Trung ương 2 khoá 9 họp tại Lư Sơn, có 253 người dự. Ngày 19-8 Mao lên núi, ông có 3 ngày đọc sách, nghỉ ngơi trước khi vào việc.
Ngày 20, Lâm Bưu và những người thân cận lên núi. Sáu đường truyền tin quân dụng được đặt tại nơi ở để Lâm chỉ huy quân đội trong cả nước, ngoài ra còn hai máy bay lên thẳng Skylark đậu trên núi chờ lệnh.
Cái Mao coi trọng là Chủ tịch Đảng và gắn với nó là Chủ tịch Quân uỷ Trung ương đầy quyền lực, chứ không phải Chủ tịch nước chỉ có quyền hờ. Mao đã hứa riêng sẽ nhường Lâm Bưu chức Chủ tịch Đảng, còn mình sang làm Chủ tịch nước, Một khi Lâm kiên trì kiến nghị Mao làm Chủ tịch nước, có nghĩa là Lâm ép Mao nhường chức Chủ tịch Đảng cho mình. Trong mắt Mao, việc làm đó đã hoàn toàn phơi trần dã tâm cá nhân của Lâm Bưu. Cùng một đề nghị Mao làm Chủ tịch nước, Chu Ân Lai và Khang Sinh nêu ra thì được Mao coi là thiện, song Lâm Bưu nêu ra lại bị coi là ác ý, là mưu toan tiếm quyền. Cơn giận lôi đình của Mao khởi nguồn từ đây.
Lâm Bưu cho rằng: Mao chân thành muốn chuyển giao quyền lực cho mình. Sau khi mắc tội ác tày trời làm chết đói 37,55 triệu người trong Đại tiến vọt và quay lưng lại với toàn Đảng trong Đại cách mạng văn hoá, Mao phải hiểu rõ hơn ai hết rằng sau khi ông ta qua đời, chỉ có Lâm Bưu có thể giữ vững cục diện. Tách khỏi sự ủng hộ của Lâm Bưu thì không thể có vị trí lịch sử “luôn luôn đúng đắn” của Mao Trạch Đông. Lâm không tin rằng Mao có thể đùa cợt, giăng bẫy hại Lâm. Đến khi nhận ra âm mưu quỷ kế của Mao, Lâm phẫn nộ nói với vợ con:
- Mọi người không thấy hắn giống một tên lưu manh sao? Giống lắm! Nếu sau này ta thua hắn, thì chỉ thua ở chỗ không đủ lưu manh bằng hắn mà thôi.
Khi bị Mao từng bước dồn ép sau, Lâm cha nói với Lâm con:
- Lão Hổ, con hãy nhớ, ta không cai trị nổi đất nước này. Ngay trong tình hình bình thường, ta cũng không biết quản lý đất nước ra sao. Một nước lớn như thế này, kinh tế, chính trị, văn hoá… đều rất phức tạp. Ta không thích công việc hành chính, không thích giao lưu, sức khỏe cũng không tốt, không thể quản lý đất nước. Ta tự biết mình, chưa bao giờ muốn làm Chủ tịch nước. Ta chỉ biết chút ít về quân sự, rất nhiệt tình đối với thống nhất đất nước, phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, nhưng năng lực có hạn. Ta muốn giữ vững quyền lực tham gia đời sống chính trị, đảm bảo quân đội phát huy vai trò bình thường, thế là đủ.
Đoạn trên Lâm nói rõ không làm Chủ tịch nước, đoạn dưới thể hiện muốn giữ vững cục diện, cầm lái, làm Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch Quân uỷ Trung ương.
Phát biểu tại Thành Đô, Mao nói phe Lâm Bưu muốn Mao làm Chủ tịch nước là động tác giả, muốn Lâm làm Chủ tịch Đảng là thật.
Nhưng đó là chuyện về sau, xin độc giả trở lại Hội nghị Lư Sơn tháng 8-1970. Trước cuộc họp chính thức, Lâm đã có cuộc nói chuyện riêng rất dài với Mao. Lâm báo cáo cuộc tranh luận giữa Trương Xuân Kiều và Ngô Pháp Hiến khi thảo luận dự thảo hiến pháp, và ngỏ ý muốn nói vài lời về vấn đề này trước Hội nghị. Mao trả lời: có thể nói, nhưng không nêu tên. Đến lúc này, Lâm vẫn cho rằng Giang Thanh giới thiệu Trương Xuân Kiều làm Thủ tướng, để Giang làm Chủ tịch Đảng là dã tâm của bà ta, chứ không phải ý đồ của Mao.
Chiều 23-8, Hội nghị khai mạc dưới sự điều khiển của Mao Trạch Đông. Mở đầu, Lâm Bưu nói:
- Tôi vẫn kiên trì quan điểm Chủ tịch Mao Trạch Đông là thiên tài. Đồng chí Mao Trạch Đông là người Mácxít-Leninnít vĩ đại nhất thời đại ngày nay. Đồng chí đã kế thừa, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin một cách thiên tài, sáng tạo và toàn diện.
Về chức Chủ tịch nước, Lâm Bưu nói khá mập mờ:
- Dự thảo hiến pháp lần này thể hiện một đặc điểm là khẳng định vị trí lãnh tụ vĩ đại, nguyên thủ quốc gia và thống soái tối cao của Mao Chủ tịch, không định tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng chỉ đạo nhân dân cả nước, điều này rất quan trọng, là linh hồn của hiến pháp.
Khang Sinh “hoàn toàn tán thành và ủng hộ” phát biểu của Lâm Bưu. Khang nói mọi ý kiến đều tán thành Mao làm Chủ tịch, Lâm làm Phó Chủ tịch làm nước, nếu Mao không nhận thì Lâm mới làm Chủ tịch nước, nếu cả hai đều không nhận, thì bãi bỏ chương này trong hiến pháp. Mao lặng im, theo dõi tình hình, tìm đối sách.
Sớm 24-8, Diệp Quần gặp Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác truyền đạt ý kiến của Lâm Bưu:
1. Phải ủng hộ phát biểu của Lâm Bưu, kiên trì quan điểm thiên tài;
2. Kiên trì đặt chức Chủ tịch nước, để Mao giữ chức vụ này;
3. Có thể móc nối một số uỷ viên trung ương trong Không quân, Hải quân, Tổng cục chính trị để họ phát biểu, chú ý không nêu tên;
4. Chĩa mũi nhọn chủ yếu vào Trương Xuân Kiều, sau Trương là Giang Thanh, nhưng không được đụng đến Giang nửa chữ.
Sáng 24, theo đề nghị của Ngô Pháp Hiến, những người dự hội nghị lên hội trường nghe băng ghi âm phát biểu của Lâm Bưu. Buổi chiều, các tổ thảo luận, Diệp Quần đi khắp nơi tung tin bài nói của Lâm đã được Mao đồng ý.
Tại Tổ Hoa Bắc, Trần Bá Đạt ca ngợi phát biểu của Lâm Bưu về việc dự thảo hiến pháp khẳng định vị trí của Mao, Trần nói viết được như vậy là “trải qua nhiều cuộc đấu tranh và là kết quả đấu tranh”; có người đang lợi dụng sự khiêm tốn của Mao, mưu toan hạ thấp tư tưởng Mao.
Tổ trưởng Lý Tuyết Phong mời Uông Đông Hưng phát biểu. Uông nói:
- Tôi hoàn toàn ủng hộ bài nói quan trọng của Phó Chủ tịch Lâm Bưu, hoàn toàn tán thành phát biểu vừa rồi của đồng chí Trần Bá Đạt. Tôi thay mặt Văn phòng Trung ương và Bộ đội 8341, kiên quyết yêu cầu đặt chức chủ tịch nước, kiến nghị lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch làm Chủ tịch nước. Tình hình đồng chí Bá Đạt vừa nói là vô cùng nghiêm trọng. Trong Đảng ta còn một số kẻ có dã tâm, khôn khéo phản đối lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch, đó là đường lối Lưu Thiếu Kỳ không có Lưu Thiếu Kỳ, đại diện cho đường lối phản động của Lưu. Chúng tôi rất mong muốn Phó Chủ tịch Lâm Bưu làm Phó Chủ tịch nước.
Do thân phận đặc biệt của Uông, mọi người cho rằng ý kiến của ông ta có thể biểu hiện ý hướng chân thực của Mao, nên đều lắng tai nghe. Họ cảm thấy đã nắm được “long mạch” của Mao. Thì ra mấy lần Mao nói không làm Chủ tịch nước chỉ là “sự khiêm tốn vĩ đại”. Về sau xuất hiện tin ngắn số 2 của Tổ Hoa Bắc, phần cuối viết:
“Mọi người nhiệt liệt hoan nghênh phát biểu hôm qua của Phó Chủ tịch Lâm, cho rằng bài nói này có ý nghĩa chỉ đạo cực lớn đối với Hội nghị Trung ương 2 khoá 9. Nghe phát biểu của các đồng chí Bá Đạt, Đông Hưng tại tổ, cảm thấy càng hiểu sâu hơn phát biểu của Phó Chủ tịch Lâm. Nhất là khi được biết trong Đảng ta còn có người mưu toan phủ nhận lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch là thiên tài vĩ đại nhất của thời đại ngày nay, mọi người tỏ ra cảm phẫn mạnh mẽ nhất, cho rằng ngày nay đã trải qua 4 năm Đại cách mạng văn hoá mà trong Đảng còn có kẻ tư tưởng phản động như vậy, tình hình thật nghiêm trọng. Loại người này là những kẻ có dã tâm, có âm mưu, những phần tử phản động cực đoan, phần tử phản cách mạng một trăm phần trăm, là những kẻ đại diện cho đường lối phản động Lưu Thiếu Kỳ không có Lưu Thiếu Kỳ, lâm tay sai của đế quốc, xét lại và phản động, lâm những ké xấu, phải lôi cổ chúng ra cho mọi người biết, phải đưa chúng ra khỏi đảng, đấu cho chúng đổ sụp, thối rữa ra, phải băm vằm chúng ra, toàn Đảng lên án chúng, cả nước hỏi tội chúng. Tự đáy lòng mình, mọi người tán thành khôi phục chương Chủ tịch nước trong hiến pháp, điều 2 hiến pháp tăng thêm Mao Chủ tịch là Chủ tịch nước, Lâm Phó Chủ tịch là Phó Chủ tịch nước…
Phát biểu tại các tổ Trung Nam, Tây Nam, Tây Bắc… Diệp Quần, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác đều tập trung ủng hộ bài nói của Lâm Bưu. Bản tin ngắn số 2 của Tổ Hoa Bắc vừa phát ra, mọi người phấn khích, đòi lôi ra những kẻ phản đối Mao là thiên tài.
Trần Bá Đạt đang ngắm cảnh núi rừng thì Uông Đông Hưng chạy đến lo lắng nói:
- Tôi vừa gặp Giang Thanh. Bà ta nói phát biểu của chúng ta đi chệch hướng. Thế là thế nào?
Trần bình tĩnh:
- Kiến nghị Mao Chủ tịch làm Chủ tịch nước là thiên kinh địa nghĩa, đừng sợ. Trương Xuân Kiều dựa vào Giang Thanh ủng hộ nên mới dám coi thường Lâm Phó Chủ tịch. Hắn là kẻ có dã tâm, có âm mưu. Ông yên tâm đi, Mao Chủ tịch không thể chỉ cần bà xã mà không cần bạn chiến đấu thân thiết và người kế tục.
Đến lúc này, Trần và Uông vẫn cho rằng Mao và Lâm không thể tách rời, vị trí người kế tục của Lâm Bưu không thể, lung lay, Mao thà từ bỏ vợ, chứ không từ bỏ người kế tục; sau Mao, chỉ có Lâm Bưu khống chế được tình hình rối loạn sau Đại cách mạng văn hoá; một nhà chính trị lớn mưu lược sâu xa như Mao sẽ không mắc sai lầm hồ đồ trong những vấn đề lớn. Mọi người đâu có ngờ rằng trong nội tâm sâu thẳm, Mao chỉ muốn truyền ngôi cho Giang Thanh, Lâm chỉ đóng vai “chuyền 2”, nhiệm vụ của Lâm là đoạt quyền từ tay Lưu Thiếu Kỳ, chuyển cho Giang Thanh. Khi Lâm giữ rịt lấy không chịu trao, Mao phải đích thân đứng ra buộc Lâm trao quyền. Đương nhiên, Mao sẽ không trực tiếp trao quyền cho Giang Thanh, mà cần chọn vai “chuyền 2” khác, một người mà Mao cho rằng sẽ tự nguyện, tự giác trao quyền cho Giang Thanh, đưa Giang vào, ghế Chủ tịch Đảng sau khi Mao về chầu trời. Đó là một chính khách loại hai, loại ba, yếu kém một chút, xem đi, xét lại, Mao chọn được Hoa Quốc Phong. Mao muốn thực hiện gia đình trị, lại không muốn chịu tiếng xấu gia đình trị. Vấn đề này sẽ nói tiếp ở phần sau.
Thấy phe Lâm Bưu muốn bắt Trương Xuân Kiều, Giang Thanh cuống lên, sáng 25 cùng Trương đến cầu cứu Mao.
Chiều 25, Mao hẹn Lâm đến gặp. Lâm đưa vợ đi cùng, nhưng, vừa vào cửa, cảnh vệ chặn Diệp Quần lại, chỉ cho một mình Lâm Bưu vào. Mao vẻ mặt nghiêm túc, nói thẳng:
- Đồng chí Lâm Bưu, vừa lên Lư Sơn tôi đã nói Hội nghị này phải là hội nghị đoàn kết, thắng lợi, đừng làm cho nó biến thành hội nghị chia rẽ, thất bại. Không khí hội nghị hai ngày qua không bình thường!
Lâm cố ý tỏ ra kinh ngạc:
- Có vấn đề gì vậy, thưa Chủ tịch?
- Bá Đạt dẫn đầu, một là kiên trì đặt chức Chủ tịch nước, hai là kiên trì thuyết thiên tài. Cổ động một số người, lừa dối một số người khác gây rối, với thế san bằng Lư Sơn, cho trái đất ngừng quay, Họ san bằng Lư Sơn tôi cũng không làm Chủ tịch nước, tôi khuyên ông cũng đừng giữ chức vụ này.
- Tôi vốn muốn đặt chức Chủ tịch nước là để Chủ tịch đảm đương, chứ không phải tôi muốn ngồi vào vị trí này. Có lẽ trong phát biểu của tôi tại buổi khai mạc có gì không thoả đáng?
- Tôi biết ông và Trần Bá Đạt có quan điểm nhất trí về vấn đề thiên tài. Nhưng tình hình hai người khác nhau. Bá Đạt là phần tử chống cộng chui vào Đảng cộng sản, hôm nay tôi nhắc nhở ông phải giữ khoảng cách, vạch rõ ranh giới với hắn”.
- Vâng, tôi sẽ lưu ý mấy uỷ viên Trung ương trong quân đội.
Mao cố ý nói đây là cuộc đấu tranh giữa Trần Bá Đạt và Trương Xuân Kiều. Mao nói tiếp:
- Còn Trương Xuân Kiều tiếp tục xem xét hai năm. Hai năm sau tôi nghỉ rồi, giao ông xử lý!
Lời hứa hai năm nữa sẽ chuyển giao quyền lực tạm làm Lâm Bưu yên lòng.
Mao lại gặp Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, một phiếu phủ định bốn phiếu, các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị đều tán thành không đặt chức Chủ tịch nước.
Sau đó, Mao triệu tập Hội nghị Thường vụ Bộ chính trị mở rộng, nghiêm túc tuyên bố ba điều:
1. Ngừng họp ngay, chấm dứt thảo luận về phát biểu của Lâm Bưu tại buổi khai mạc.
2. Thu hồi bản tin ngấn số 2 của Tổ Hoa Bắc.
3. Không được bắt người, phải đoàn kết theo tinh thần Đại hội 9. Phát biểu của Trần Bá Đạt tại Tổ Hoa Bắc trái với tinh thần Đại hội 9.
Tuy biết rõ người đứng đầu gây chuyện là Lâm Bưu, nhưng Mao lôi Trần Bá Đạt ra trị, làm yên lòng Lâm Bưu, vi Trần vốn là công cụ của Mao, nay con thuyền của Mao chưa bục, mà Trần đã thay thay đổi chủ, một mực ngả theo ý Lâm. Mặt khác, Lâm đã đặt 6 đường truyền tin chuyên dụng tại nơi ở để chỉ huy quân đội trong cả nước, lại có 2 máy bay lên thẳng Skylark sẵn sàng chờ lệnh trên núi, không thể ép Lâm quá mức. Đề phòng ngừa bất trắc, Mao lại gọi Hứa Thế Hữu, uỷ viên Bộ Chính trị, Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh đến dặn dò…
Trong hai ngày 26 và 27, Chu Ân Lai, Khang Sinh liên tục gặp Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác, buộc họ viết kiểm điểm. Ngày 29, Mao chỉ thị Lâm chủ trì Hội nghị Thường vụ Bộ chính trị mô rộng, Trần Bá Đạt và Ngô Pháp Hiến kiểm điểm lần đầu. Trần nhận khuyết điểm phát ngôn mang tính kích động, không nghe theo lời Mao, kiên trì đòi đặt chức Chủ tịch nước, xuyên tạc phát biểu của Lâm, làm rối loạn tư tưởng mọi người, nói lung tung về thiên tài. Ngô Pháp Hiến nhấn mạnh đã mắc lừa Trần Bá Đạt, đổ mọi lỗi cho Trần, bảo vệ Lâm Bưn-Diệp Quần.
Ngay từ đầu, Chu Ân Lai đã chỉ định Hoàng Vĩnh Thắng ở lại Bắc Kinh “trông nhà”, nên 31-8, Hoàng mới lên Lư Sơn. Vừa gặp Hoàng, Diệp Quân ứa nước mắt:
- Mấy ngày qua gay quá, may mà ông lên muộn, không dính vâo.
Diệp quay sang Ngô Pháp Hiến:
- Ông mắc sai lầm, nhưng không sao, còn có Lâm Bưu và Hoàng Vĩnh Thắng. Chỉ cần không liên luỵ đến hai vị này, thì mọi chuyện dễ giải quyết, chức vụ của ông không thay đổi.
Ngày 6-9-1970, Hội nghị bế mạc. Trần Bá Đạt bị cách ly thẩm tra.
Sau khi rời Lư Sơn, Mao Trạch Đông nêu Uông Đông Hưng thành tấm gương sau khi kiểm điểm vẫn được trọng trụng, để ép và dụ Diệp, Ngô, Lý, Khưu kiểm điểm, tiến tới ép và dụ Lâm Bưu kiểm điểm. Một ngày cuối tháng 9, Mao cử Uông tới thuyết phục Lâm Bưu, với lời dặn dò:
- Cố gắng để Lâm Bưu viết kiểm điểm. Chỉ cần Lâm nhận thức được sai lầm của mình, tôi vẫn hoan nghênh ông ta. Bản kiểm điểm này phải gắn với những sai lầm trong lịch sử.
Gặp Uông, Lâm phàn nàn:
- Hiện nay tôi không còn cách nào liên hệ với Hoàng Vĩnh Thắng và một số người, kể cả ông, vì sợ Giang Thanh, Trương Xuân Kiều lại kể tội trước mặt Chủ tịch. Tôi không hình dung nổi vì sao Chủ tịch lại tin vào những lời lẽ xằng bậy, gây ly gián của họ!
Uông nói:
- Tôi cũng không sao giải thích nổi vấn đề trên. Song tôi nghĩ trong tình hình này, để chủ động, Lâm Phó Chủ tịch nên viết kiểm điểm gửi Chủ tịch có lẽ tốt hơn.
Đôi mất Lâm Bưu toé ra những tia sáng lạnh, nhìn thẳng Uông Đông Hưng:
- Ông muốn tôi để người ta nắm gáy hay sao? Đây là cá nhân ông quan tâm tôi, hay có người cử ông tới đây làm thuyết khách?
Uông cứng họng, im lặng.
Lâm nói tiếp:
- Nếu tôi viết kiểm điểm, Chủ tịch sẽ công bố trong toàn đảng, như vậy chẳng khác gì tôi thừa nhận “sai lầm” trước toàn đảng, toàn quân và toàn dân. Không! Tôi không thể mắc lừa mấy kẻ cầm bút ấy. Tôi chẳng có sai lầm gì cả, tôi cũng không viết kiểm điểm trái với lòng mình.
- Vậy chúng ta kết thúc vụ này như thế nào? Cứ căng thẳng thế này không phải là biện pháp.
- Tôi không thể trả lời vấn đề này. Tôi, Diệp Quần và các đồng chí trong Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương đều đang bị thẩm tra. Lịch sử của chúng tôi không thể nghi ngờ. Mọi việc để Chủ tịch quyết định, tôi xưa nay vẫn tin vào sự lãnh đạo và quyết đoán sáng suốt của Người.
Như hạ quyết tâm cuối cùng khi lâm trận, Lâm Bưu ngả người trên xa lông, không nói gì nữa. Uông Đông Hưng gượng gạo ra về.
Lâm Bưu mang tính cách một nhà quân sự, chỉ có thắng bại, không có thoả hiệp, chiết trung. Nhớ lại thời chiến tranh giải phóng, Lâm và Bành Chân bất đồng về phường châm chiến lược. Bành Chân khi ấy là uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Cục Đông Bắc, Chính uỷ Liên quân Dân chủ Đông Bắc, sau lưng có Lưu Thiếu Kỳ ủng hộ. Lâm tuy là Tư lệnh Đông Bắc, nhưng trong Đảng chỉ là uỷ viên Trung ương. Cuối cùng báo cáo Mao Trạch Đông, Mao quyết định cử Lâm Bưu làm Bí thư Cục Đông Bắc, Tư lệnh kiêm Chính uỷ Liên quân Dân chủ Đông Bắc, Bành Chân bị giáng xuống làm Phó Bí thư kiêm Phó Chính uỷ. Sau giải phóng, từ Đàm Chính đến La Thụy Khánh, ai trái ý Lâm Bưu, người đó gặp vận đen. Giang Thanh. Trương Xuân Kiều là cái thá gì? Dựa vào mụ đàn bà và mấy gã cầm bút liệu có ngăn nổi dòng thác toàn đảng, toàn quân và toàn dân phản đối Đại cách mạng văn hoá không? Liệu cố bịt nổi miệng thế gian, không cho người ta tính sổ nợ làm chết đói mấy chục triệu người không? Chỉ có dựa vào Lâm Bưu này, dựa vào Dã chiến quân thứ 4 của ta, không được Lâm Bưu ủng hộ thì không có Đại cách mạng văn hoá, không có vị trí tối cao của Mao Trạch Đông ngày nay. Trần Bá Đạt nói đúng: Mao không thể chỉ cần vợ, không cần người kế tục.
Ngày 8-10, Mao gửi thư ngắn thăm hỏi, nhắc Lâm giữ gìn sức khỏe. Trong thư trả lời ngày 10, Lâm lùi để tiến:
“Tôi cảm thấy sâu sắc không theo kịp lời dạy của Chủ tịch về đường lối và tư tưởng, không thích ứng được sự phát triển của tình hình cách mạng, không thích hợp làm người kế tục, xin Chủ tịch định liệu, tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định của Chủ tịch”.
Mao xem xong, viết thư trả lời:
“Tôi không thể làm trái với qui định trong Điều lệ Đảng và quyết định của Đảng. Hai ta vẫn cơ bản nhất trí về đường lối và những vấn đề nguyên tắc lớn”
Sách lược của Mao là làm yên lòng Lâm Bưu, rồi vặt dần lông cánh của Lâm.
Ngày 6-11, Mao cho công bố quyết định thành lập Tổ Tuyên truyền-tổ chức Trung ương do Khang Sinh làm Tổ trưởng, và năm tổ viên: Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Kỷ Đăng Khuê, Lý Đức Sinh. Tổ này phụ trách công tác của Ban Tổ chức Trung ương, Trường Đảng Trung ương, Nhân dân nhật báo, Tạp chí Hồng Kỳ, Tân Hoa Xã, Cục Phát thanh-truyền hình, Quang minh nhật báo, Cục Biên dịch Trung ương. Chức Tổ trưởng của Khang Sinh chỉ là danh nghĩa, Kỷ Đăng Khuê và Lý Đức Sinh bận quá nhiều việc quân đội và chính quyền, chỉ là hai dải áo, thực quyền của bộ máy này nằm trong tay Giang Thanh. Nó chính là “Tổ cách mạng văn hoá” đã xoá bỏ sau Đại hội 9 nay sống lại dưới tên gọi khác, là biến dạng của Ban Bí thư, là “Tổ làm việc Trung ương” đối kháng “Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương”. Mười ngày sau, Tổ ra chỉ thị triển khai cuộc vận động phê phán Trần Bá Đạt, chỉnh phong.
Mao tổng kết 3 chiêu trong cuộc đấu tranh với tập đoàn Lâm Bưu là:
1. Ném đá (phê vào các bản kiểm điểm của Diệp Quần, Ngô Pháp Hiến… rồi công bố trong toàn Đảng);
2. Trộn cát (cử những người không thuộc Dã chiến quân thứ 4 như Kỷ Đăng Khuê, Trương Tài Thiên vào Tổ làrn việc Quân uỷ Trung ương);
3. Khoét chân tường (cải tổ Ban lãnh đạo Đại quân khu Bắc Kinh).
Mao Trạch Đông phê bình Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương không phê phán Trần Bá Đạt. Ngày 20-2-1971, Tổ viết báo cáo kiểm điểm về vấn đề này. Mao phê vào báo cáo trên: “Vì sao mấy đồng chí cứ bị động mãi về vấn đề phê phán Trần Bá Đạt? Phải suy nghĩ kỹ vấn đề này, biến bị động thành chủ động”.
Phê Trần là cái cớ, thật ra Mao muốn họ tố cáo và phê phán Lâm Bưu.
Hội nghị phê Trần, chỉnh phong tổ chức tại Bắc Kinh từ 15 đến 29-4, chủ yếu giải quyết vấn đề Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Diệp Quần, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác.
Ngày 19, Lâm Bưu về Bắc Kinh nhằm ổn định tinh thần họ.
Ngày 29, Mao uỷ quyền Chu Ân Lai kết luận hội nghị, nội dung chính là: “Trước, trong và sau Hội nghị Lư Sơn, năm đồng chí trong Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương về chính trị mắc sai lầm phương hướng, đường lối, về tổ chức mắc sai lầm bè phái, nhưng tính chất sai lầm vẫn là vấn đề nội bộ nhân dân, hoàn toàn khác với tính chất của phần tử chống cộng Trần Bá Đạt”.
Mao vẫn chưa đạt mục đích ép Lâm kiểm điểm. Lâm có gửi cho Mao một lá thư, nhưng không phải kiểm điểm, mà là đặt điều kiện. Trong thư, Lâm cho rằng giữa hai người vẫn có lợi ích chung, là củng cố thành quả Đại cách mạng văn hoá. Lâm khuyên Mao trong 10 năm, không cách chức, không chặt đầu người của Lâm, thì có thể đảm bảo 10 năm không loạn. Diệp Quần cho rằng Mao không thể chấp nhận điều kiện trên, nên không cho chuyển thư đi. Lâm thấy mình có lý vì đã “phụng mệnh hành sự” (đề nghị đặt chức Chủ tịch nước theo ý Mao) nên nhiều lần đề nghị gặp Mao, trực tiếp nói rõ mọi chuyện, nhưng Mao biết mình đuối lý, dứt khoát không gặp, cũng như đói với Cao Cương trước đây.
Để yên lòng Lâm Bưu, Mao bảo Giang Thanh chụp cho Lâm bức ảnh đầu trần, đang chăm chú đọc tác phẩm của Mao. Ảnh chụp 6-9, ký tên Tuấn Lĩnh, đăng trên bìa đầu “Báo ảnh Nhân dân” và “Báo ảnh Quân Giải phóng”. Mao muốn nói với Lâm rằng: dù phong trào “phê Trần, chỉnh phong” diễn ra sôi động, Hoàng, Ngô, Diệp, Lý, Khưu đã kiểm điểm, nhưng đến lúc này, vị trí người kế tục của Lâm không lung lay. Đồng thời. Mao cũng muốn chứng tỏ với toàn đảng, toàn quân, toàn dân rằng quan hệ Mao-Lâm rất thân thiết, che đậy cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc ở tầng lớp cao.
♦ ♦ ♦
Chương 33
Tướng quân bách chiến thân danh liệt
Sau thất bại ở Lư Sơn, Lâm Bưu muốn sử dụng vũ lực. Tháng 10-1970, Hạm đội liên hợp chính thức thành lập do Lâm Lập Quả làm Tư lệnh, Chu Vũ Trì làm Chính uỷ. Các thành viên nòng cốt của Hạm đội được bí mật lựa chọn kỹ từ Bộ Tư lệnh Không quân, các Quân đoàn không quân ở Thượng Hải, Vũ Hán, Quảng Châu, Nam Kinh, Hàng Châu.
Ngày 24-1-1971, Mao đột ngột quyết định cải tổ Đại quân khu Bắc Kinh. Diệp Quần sợ quá, giục Lâm Bưu sớm có quyết định. Nội bộ tập đoàn Lâm Bưu có hai mảng. Một là loại tướng tá lão thành, đứng đầu là Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác. Họ đều là thân tín của Lâm Bưu, từng cùng Lâm nam chinh bắc chiến, vào sinh ra tử, nhưng khi phải lựa chọn giữa Mao và Lâm, họ lại do dự, không dám phiêu lưu. Quyền điều động quân đội tập trung trong tay Chủ tịch Quân uỷ Trung ương Mao Trạch Đông, điều động một trung đội cũng phải được Mao phê chuẩn, Lâm Bưu là Phó Chủ tịch Quân uỷ kiêm Bộ trưởng Quốc phòng không được quyền điều động một trung đội. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng trở xuống càng không có quyền ấy. Vì vậy, tuy Lâm có ý làm phản, nhưng không hề nói với Hoàng, Ngô, Lý, Khưu. Hai là các thành viên Hạm đội liên hợp do Lâm Lập Quả đứng đầu là những kẻ có dã tâm, dám phiêu lưu, sẵn sàng liều mạng để đạt mục đích. Trong tình hình bị Mao dồn ép từng bước, ý kiến của Hạm đội liên hợp chiếm tư thế. Tư tưởng chủ đạo của vợ chồng Lâm Bưu hồi đó là “nổi lên chống lại còn hơn ngồi chờ chét”. Lâm từng nói với Diệp:
- Bí quyết đảo chính là hai chữ QUYỀN và NHANH. Các cuộc đảo chính hiện đại có thể đoạt quyền trong một buổi sớm. Làm đảo chính, cái giá đoạt quyền phải nhỏ nhất, nhỏ nhất, nhỏ nhất, thu hoạch phải lớn nhất, lớn nhất, lớn nhất, thời gian phải nhanh nhất, nhanh nhất, nhanh nhất, nhưng tìm được một thích khách như Chuyên Chư cũng khó nhất, khó nhất, khó nhất.
Chỉ cần tìm được một thích khách như Chuyên Chư, giết phăng Mao Trạch Đông, là có thể nắm chính quyền trong tay. Trong giai đoạn đầu đảo chính, Lâm Bưu dựa vào Hạm đội của Lâm con, mà không sử dụng Hoàng, Ngô, Lý, Khưu, việc này có lý do của nó. Từ 21 đến 24-3-1971, tại căn hầm toà nhà số 889 đường Cự Lộ Thượng Hải, theo lệnh Lâm bố, Lâm con cùng Chu Vũ Trì, Vu Tân Dã, Lý Vĩ Tín, nghiên cứu thảo luận “kế hoạch khởi nghĩa vũ trang”. Cuộc đảo chính vũ trang có tâm mưu tính đã bước vào giai đoạn thực thi.
Lâm Lập Quả nêu 3 khả năng Lâm Bưu tiếp quản quyền lực: một là quá độ hoà bình, đợi 5,6 năm vẫn chưa được tiếp quản, trong thời gian trên có thể thay đổi lớn, chưa chắc Lâm giữ được vị trí hiện nay; hai là Lâm bị người khác thay thế; ba là tiếp quản quyền lực sớm, biện pháp là trừ phăng B-52 (Mao), thực hiện khởi nghĩa vũ trang. Lập Quả thay mặt Lâm Bưu trao cho Vu Tân Dã nhiệm vụ vạch kế hoạch hành động, mang mật danh “Kỷ yếu công trình 571” (571 đồng âm với cụm từ “khởi nghĩa vũ trang”).
Cốt lõi của kế hoạch hành động này là giết Mao, nói Mao không phải người Mác xít chân chính, mà là hôn quân phong kiến lớn nhất trong hách sử, thực hiện đạo Khổng Mạnh, khoác áo Mác-Lenin, cai trị kiểu Tần Thuỷ Hoàng; cuộc đấu tranh với Mao là cuộc đấu tranh “một mất một còn”, “hoặc chúng ta xơi gọn hắn, hoặc hắn nuốt chửng chúng ta”. Có hai thời cơ chiến lược: “một là khi chuẩn bị tốt rồi, có thể xơi gọn đối phương, hai là khi phát hiện kẻ thù há rộng miệng định nuốt chửng chúng ta, khi ấy dù chuẩn bị tốt hay chưa, cũng phải một trận sống mái”. Sách lược do kế hoạch trên đưa ra là: “Giương ngọn cờ B-52 đánh vào lực lượng của B-52”, “lợi dụng cuộc họp cấp cao quãng mẻ lưới bất gọn, hoặc “trước tiên chặt hết móng vuốt, tạo ra sự thật đã rồi, buộc B-52 nghe lời”, hoặc “dùng các phương tiện đặc chủng như hơi độc, vũ khí vi trùng, máy bay ném bom, tên lửa, tai nạn ôtô, ám sát, bắt cóc, phân đội du kích ở thành thị… để giết Mao Trạch Đông”.
Sau đó, Lâm Lặp Quả cho thành lập đội huấn luyện quân sự cho cán bộ cơ sở, thực chất là các phân đội cơ động có sức chiến đấu mạnh ở Thượng Hải.
Hình như nhận ra dấu vết tập đoàn tâm Bưu sắp nổi loạn, ngày 15-8-1971, Mao Trạch Đông rời Bắc Kinh tuần du phương Nam, nhằm nhắc nhở lãnh đạo các địa phương cần vạch rõ ranh giới với Lâm Bưu. Từ 16 đến 27-8 tại Vũ Xương, Mao lần lượt gặp Chính uỷ Đại quân khu Vũ Hán Lưu Phong, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam Lưu Kiên Huân, Tư lệnh Quân khu tỉnh Vương Tân, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam Hoa Quốc Phong, điểm tên phê phán Lâm Bưu và đồng đảng tổ chức tập kích bất ngờ tại Hội nghị Lư Sơn.
“Tôi không tin Hoàng Vĩnh Thắng chỉ huy nổi Quân Giải phóng làm phản! Bên dưới còn có các sư đoàn, trung đoàn, còn có các cơ quan chính trị, hậu cần, anh điều động quân đội làm phản, ai nghe theo?”
Ngày 28-8. Mao đến Trường Sa, lần lượt gặp lãnh đạo các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Mao nói với Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu Đinh Thịnh, Chính uỷ Lưu Hưng Nguyên:
- Các ông quan hệ với Hoàng Vĩnh Thắng mật thiết như vậy, Hoàng đổ, các ông thế nào?
Câu nói đáng chú ý nhất của Mao tại đây là:
- Tôi dự định 23-9 về Bắc Kinh, 25 đến 29-9 họp Hội nghị Trung ương 3 khoá 9. Hội nghị sẽ nêu ra sai lầm của Lâm Bưu, cử thêm Trương Xuân Kiều, Lý Đức Sinh vào Thường vụ Bộ chính trị, Trương Xuân Kiều làm Phó Chủ tịch Đảng.
Ngày 31-8, Mao đến Nam Xương, gặp Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh Hứa Thế Hữu, Tư lệnh Đại quân khu Phúc Châu Hàn Tiên Sở, Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng Giang Tây Trình Thế Thanh. Mao phê phán Lâm Bưu và phe cánh tổ chức tập kích bất ngờ, hoạt động bí mật, có kế hoạch, có tổ chức, có cương lĩnh… Mao nói:
- Hội nghị Lư Sơn mới giải quyết vấn đề Trần Bá Đạt, chưa đụng đến Lâm Bưu. Đương nhiên Lâm phải chịu một số trách nhiệm. Đối với Lâm vẫn phải theo phương châm ngăn trước ngừa sau, trị bệnh cứu người, song với những vụ mắc sai lầm về nguyên tắc lớn, sai lầm về đường lối, phương hướng, thi người đứng đầu cũng khó sửa lắm.
Trình Thế Thanh xin gặp riêng Mao, tố cáo ba việc:
1. Trong thời gian Hội nghị Lư Sơn, Diệp Quần bảo Trình phải kiên trì yêu cầu đặt chức danh Chủ tịch nước;
2. Thượng tuần tháng 7, Chu Vũ Trì đến Nam Xương, dùng máy bay chở đi số xe lội nước mà họ nhờ Nhà máy Giang Nam chế tạo.
3. Lâm Lập Hằng (con gái Lâm Bưu) có lần đến Nam Xương ở tại nhà Trình, đã nghiêm túc nói với bà vợ ông ta: “Sau này bớt đi lại với nhà họ Lâm, làm không tốt mất đầu đấy”. Thông tin trên khiến Mao thêm cảnh giác.
0 giờ ngày 3-9, Mao từ Nam Xương tới Hàng Châu, cho gọi lãnh đạo tỉnh Chiết Giang, và Chính uỷ Quân đoàn 5 Không quân Trần Lệ Vân đến gặp trên chuyên xa. Lệ Vân là thành viên Hạm đội liên hợp, được Lâm Lập Quả cử đứng đầu lực lượng này ở Hàng Châu. Lệ Vân vừa đến, Mao nghiêm mặt chất vấn:
- Quan hệ của anh với Ngô Pháp Hiến thế nào? Tại Lư Sơn, Ngô Pháp Hiến đã tìm gặp mấy người, trong đó có anh. Vương Duy Quốc ở Thượng Hải và một người nữa ở Phúc Kiến. Tám uỷ viên Trung ương trong Không quân các anh đã làm những gì rồi?
Trần Lệ Vân cúi gằm mặt. Mao nói tiếp:
- Các anh bị lừa dối. Đối với những người mắc sai lầm vẫn là trị bệnh cứu người. Phải theo chủ nghĩa Mác-Lenin, không theo chủ nghĩa xét lại, phải đoàn kết, chớ chia rẽ, phải quang minh chính đại, chớ giở mưu ma chước quỷ. Tôi cũng không hiệu mấy viên đại tướng hiện nay (chỉ Hoàng, Ngô, Lý, Khưu), cũng không rõ tình hình tư tưởng Hoàng Vĩnh Thắng hiện nay ra sao. Tôi không tin quân đội muốn tạo phản. Quân đội phải thống nhất, phải chỉnh đốn…
Nghe Mao nói, Trần Lệ Vân thấy như sét đánh ngang tai, đâu dám thực hiện nhiệm vụ của Hạm đội liên hợp nữa.
Lúc đó, từ biệt thự ven biển Bắc Đới Hà, Lâm Bưu và Diệp Quần tim mọi cách thăm dò lịch trình của Mao trong chuyến đi này, cũng như việc Mao gặp những ai, nói những gì đề lựa chọn thời cơ ra tay. Đêm 5-9, Tham mưu trưởng Không quân Quảng Châu Cố Đồng Chu mật báo Chu Vũ Trì nội dung cuộc đàm thoại giữa Mao với Hoa Quốc Phong, Đinh Thịnh, Lưu Hưng Nguyên. Chiều 6-9-1971, Chu Vũ Trì đáp máy bay lên thẳng tới Bắc Đới Hà trao cho Lâm Lập Quả. Đọc xong bản ghi qua điện thoại dài tới 16 trang, Lâm Bưu và Diệp Quần lòng như lửa đốt. Đến đoạn “Ngày 23-9 Mao về Bắc Kinh, 25 đến 29 họp Hội nghị Trung ương 3 khoá 9. Hội nghị sẽ nêu ra sai lầm của Lâm Bưu, cử thêm Trương Xuân Kiều và Lý Đức Sinh vào Thường vụ Bộ chính trị, Trương Xuân Kiều làm Phó Chủ tịch Đảng”, Lâm Bưu tức điên lên, quyết một trận sống mái.
6 giờ sáng 6-9, nhân dịp cùng Tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên tới Vũ Hán, Lý Bằng đã bí mật gặp Chính uỷ Đại quân khu Vũ Hán Lưu Phong. Trở về Bắc Kinh trong ngày, Lý Bằng đã báo cáo Hoàng Vĩnh Thắng nội dung phát biểu của Mao tại Vũ Hán do Lưu Phong vừa mật báo. Hoàng thông báo ngay cho Diệp Quần qua đường điện thoại bảo mật.
Ngày 7-9, Chu Vũ Trì quay lại Bắc Kinh, trao cho Giang Đàng Giao nhiệm vụ chỉ huy giết Mao Trạch Đông, khi đoàn tàu chở Mao qua Thượng Hải trên đường trở về Bắc Kinh dự Quốc khánh.
Mao nghỉ tại biệt thự Uông Trang một tuần. Uông Đông Hưng kể lại, tối 8-9, một “đồng chí tốt” cho người đến ngầm nói với Mao: “ở Hàng Châu có người chuẩn bị máy bay, có người chỉ trích chuyên xa của Chủ tịch cản trở họ đi lại”. Uông nửa đêm gọi điện cho Trần Lệ Vân bàn việc di chuyển chuyên xa, Trần thoái thác “bận việc”, cho thư ký đến gặp. Tình hình đó thôi thúc Mao quyết đoán di chuyển sớm. 13 giờ 40 phút ngày 10, Mao rời Thiệu Hưng. 15 giờ 35 phút rời ga Hàng Châu, 18 giờ 10 phút tới Thượng Hải.
9 giờ tối 8-9, Lâm Lập Quả lên máy bay Trident số 256 về Bắc Kinh, mang theo lệnh viết tay:
“Làm theo mệnh lệnh do các đồng chí Lập Quả, Vũ Trì truyền đạt.
Ngày 8-9
Lâm Bưu”
11 giờ 30 tối 8-9, tại cứ điểm bí mật trong sân bay Tây Giao (Bắc Kinh), Lâm Lập Quả nói:
- Tình hình rất khẩn cấp, chúng ta đã quyết định ra tay tại Thượng Hải. Chúng ta nghiên cứu ba biện pháp. Một là dùng súng phun lửa, B.40 tấn công chuyên xa của Mao, lai là dùng pháo cao xạ 100 ly bắn thẳng vào chuyên xa. Ba là Vương Duy Quốc mang theo súng ngắn, nhân lúc gặp Mao, ra tay trên xe lửa.
Lập Quả quay sang Giang Đằng Giao:
- Ông xuống Thượng Hải thống nhất chỉ huy, chỉ có ông đảm đương nổi việc này. Sau khi Thượng Hải khởi sự, Vương Phi chỉ huy tiểu đoàn cảnh vệ trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân đánh vào Điếu Ngư Đài. Thủ trưởng (Lâm Bưu) nói rồi, ai hoàn thành nhiệm vụ, người đó là khai quốc nguyên huân.
Giang Đằng Giao nêu ý kiến:
- Nếu chuyên xa dừng tại sân bay Hồng Kiều Thượng Hải, thì cho nổ kho dầu gần đó, lợi dụng tình trạng nhốn nháo khi cứu hoả, xông lên thịt luôn B-52. Thêm một phương án nữa là đánh sập cầu Thạc Phóng, khi chuyên xa di chuyển giữa Thượng Hải và Tô Châu.
Đến Thượng Hải, Mao ở luôn trên chuyên xa. Uông Đông Hưng lệnh cho lực lượng cảnh vệ địa phương rút hết ra ngoại vi. Uông trực tiếp chỉ huy cảnh vệ thiện chiến thuộc Trung đoàn cảnh vệ trung ương, bố trí bảo vệ nghiêm ngặt, đặt cả trạm gác tại kho dầu sân bay cách chuyên xa 150 mét. Mao cho gọi Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh Hứa Thế Hữu đến ngay Thượng Hải. Sáng 11, Hứa vừa xuống máy bay, liền cùng Vương Hồng Văn (Phó Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng Thượng Hải) được đưa ngay lên chuyên xa gặp Mao. Vương Duy Quốc nhận nhiệm vụ mưu sát Mao, y giấu súng ngắn trên xe hình như bị phát giác; nên không được tiếp cận chuyên xa. Mao bảo Vương Hồng Văn mời Hứa Thế Hữu và mọi người ăn trưa, Hồng Văn cố tình kéo cả Duy Quốc cùng đi. Bữa trưa kéo dài hai giờ, Vương Duy Quốc không sao rời nổi bàn ăn.
13 giờ 12 phút ngày 11-9, Mao hạ lệnh đoàn tàu lập tức chuyển bánh, không cho một ai biết. Nghĩa là vào lúc Vương Duy Quốc và đồng đảng còn đang do dự, đùn đẩy nhau về các phương án mưu sát Mao, thì đoàn chuyên xa của Mao đã rời Thượng Hải, chạy như bay trên tuyến đường sắt Phố Khẩu-Thiên Tân. Trạm đầu tiên là Tô Châu. Cầu Thạc Phóng nằm giữa Tô Châu và Vô Tích, Hạm đội liên hợp đã xem xét địa hình, thiết kế vị trí đặt thuốc nổ, nhưng họ vẫn theo phương án ngày 23-9 Mao về Bắc Kinh, nên mọi việc chưa triển khai. Đoàn chuyên xa của Mao an toàn qua cầu, 18 giờ 35 phút đến Nam Kinh, dừng lại 15 phút, Hứa Thế Hữu đứng trên sân ga chỉ huy bảo vệ đoàn tàu. Qua Nam Kinh là thoát khỏi vùng nguy hiểm. 13 giờ 10 phút ngày 12-9-1971, đoàn tàu về đến ga Phong Đài. Do Uông Đông Hưng thông báo trước, Tư lệnh Đại quân khu Bắc Kinh Lý Đức Sinh, Chính uỷ thứ hai Kỷ Đăng Khuê, Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng Bắc Kinh Ngô Đức, Tư lệnh khu cảnh vệ Bắc Kinh Ngô Trung đã có mặt. Mao hỏi han tình hình Bắc Kinh, rồi lệnh cho Lý Đức Sinh điều một sư đoàn thuộc Quân đoàn 38 đến cửa Nam Bắc Kinh chờ lệnh. 16 giờ 5 phút ngày 12, đoàn tàu về đến ga Bắc Kinh, trong sự bảo vệ nghiêm ngặt.
Mao lên ôtô về Trung Nam Hải.
Đêm 11-9, Vương Duy Quốc gọi điện thoại cho Chu Vũ Trì, hối hả nói, quên cả mật danh và ám ngữ: “Chuyên xa của Mao Chủ tịch đã rời Thượng Hải trưa nay”.
Lâm Lập Quả nghe tin bật khóc. Tại biệt thự số 86 trên núi Liên Phong, Bắc Đới Hà, Lâm Bưu nghe tin mặt tái xanh, đôi mắt trân trân như tượng gỗ. Kế hoạch mưu sát Mao Trạch Đông hoàn toàn phá sản, Lâm Bưu quyết định thực hiện phương án 2, đem theo 5 uỷ viên Bộ chính trị Hoàng, Ngô, Diệp, Lý, Khưu xuống Quảng Châu, lập Trung ương riêng, đối kháng Mao. Tám máy bay, trong đó có 2 chiếc Trident, 2 chiếc Il-18, 1 chiếc lên thẳng Skylark được chuẩn bị để thực thi phương án này, phía Quảng Châu đã được lệnh sẵn sàng tiếp nhận máy bay hạ cánh, và bố trí phòng ở trên núi Bạch Vân.
15 giờ 12-9, Diệp Quần tổ chức lễ đính hôn cho con gái là Lâm Lập Hằng và Trương Thanh Lâm. Buổi tối tổ chức chiếu phim Hồng Công, số cảnh vệ và nhân viên phục vụ không trực ban đều bị hút cả nào đó. 20 giờ 10 phút, Lâm Lập Quả từ Bắc Kinh trở về, lưng giắt súng ngắn, tặng chị một bó hoa tươi chúc mừng, rồi vội vã vào phòng Lâm Bưu.
Lập Hằng lặng lẽ theo dõi, thấy tình hình khác thường, liền thông qua Đại đội trưởng cảnh vệ Phương Tác Thọ, báo cáo Trung ương. Mao Trạch Đông ra lệnh Trung Nam Hải và Điếu Ngư Đài vào báo động chiến đấu cấp 1.
22 giờ 30 phút, Uông Đông Hưng báo cáo Chu Ân Lai, lúc ấy đang họp tại Nhà Quốc hội. Một lát sau, Uông lại nhận được báo cáo thứ 2 của Lâm Lập Hằng: “Có một máy bay Trident đậu trên sân bay Sơn Hải Quan”.
Chu cho ngừng ngay cuộc họp, trở về phòng lâm việc, gọi điện bảo Ngô Pháp Hiến làm rõ việc này. Pháp Hiến báo cáo:
- Đúng là có một máy bay đến Sơn Hải Quan, Hồ Bình nói đây là máy bay bay thử, sau khi sửa chữa. Tôi yêu cầu cho máy bay quay lại, Hồ Bình nói máy bay có chút trục trặc, tạm thời chưa thể bay trở lại.
Sân bay Sơn Hải Quan thuộc Hải quân, Chu gọi điện cho Lý Tác Bằng nêu rõ:
- Phải có 4 người Chu Ân Lai, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng cùng ra lệnh, chiếc máy bay ở Sơn Hải Quan mới được cất cánh. Sự nhạy bén, lão luyện của Chu khiến người ta khâm phục, một cú điện thoại trên đã phá tan âm mưu của Lâm Bưu chạy xuống Quảng Châu lập Trung ương riêng.
23 giờ 30 phút, Lâm Lập Quả nhận được điện thoại của Chu Vũ Trì:
- Hỏng rồi, Thủ tướng đã điều tra chiếc máy bay 256. Thủ tướng đòi đưa máy bay trở lại Bắc Kinh.
Đang lúc nhà họ Lâm bàn đối sách, chuông điện thoại lại reo lên.
Diệp Quần nhấc ống nghe, tiếng Chu Ân Lai quen thuộc:
- Đồng chí Diệp Quần, Lâm Phó Chủ tịch khỏe không?
- Đồng chí Lâm Bưu rất khỏe.
- Bắc Đới Hà có một chiếc máy bay, đồng chí có biết không?
- Có biết, con tôi bay đến đấy. Bố cháu nói nếu ngày mai thời tiết tốt, sẽ bay dạo trên trời.
- Phải chăng rời đi nơi khác?
- Vốn định đi Đại Liên, ở đây thời tiết lạnh rồi.
- Bay đêm không an toàn đâu.
- Chúng tôi không bay đêm, đợi sáng mai hoặc trưa mai thời tiết tốt mới bay.
- Đừng bay nữa, không an toàn: Nhất định phải nắm chắc tình hình thời tiết.
Chu Ân Lai chủ yếu nhắc nhở họ thời tiết chính trị không tốt hành động phiêu lưu không an toàn, rồi nói tiếp:
- Tôi muốn xuống Bắc Đới Hà thăm đồng chí Lâm Bưu.
Diệp Quần cuống lên:
- Thủ tướng đừng đến, đòng chí đến thì Lâm Bưu sẽ căng thắng, Thủ tướng dứt khoát đừng đến.
Lâm và Diệp cho rằng kế hoạch của họ bị lộ rồi. Chu Ân Lai đến thì chỉ còn nước ngồi chờ làm tù binh. Lâm bảo Diệp:
- Tôi cũng không nghỉ ngơi nữa, đằng nào thì đêm nay cũng không ngủ nổi. Mọi người nhanh chóng lấy đồ đạc. Chúng ta đi ngay.
Khu biệt thự yên tĩnh bỗng trở nên rối loạn. 23 giờ 40 phút, chiếc xe Hồng Kỳ chống đạn cỡ lớn của Lâm Bưu lao ra với tốc độ trên 100 km/giờ. Đại đội trưởng Không Tác Thọ đứng giữa đường ra hiệu cho xe dừng lại. Diệp Quần ra lệnh:
- Bộ đội 8341 không trung thành với Thủ trưởng, lao qua!
Nếu Tác Thọ không đề phòng từ trước, chắc đã bị cán chết. Tham mưu cảnh vệ Lý Văn Phổ ngồi bên lái xe vẫn tưởng chuyến này đi Đại Liên, khi nghe Lâm Bưu hỏi Lập Quả “Đến Irkutsk còn bao xa?”, liền lớn tiếng hét dừng xe, lái xe phanh lại theo thói quen. Lý nhảy xuống xe, hỏi: “Các người đưa thủ trưởng đi đâu?” Lâm Lập Quả rút súng bắn luôn. Chiếc xe lại lao vút lên như điên, đến sân bay Sơn Hải Quan lúc 0 giờ 18 phút ngày 19-9-1971.
14 phút sau, chiếc Trident số 256 chở đoàn Lâm Bưu do Phan Cảnh Diễn điều khiển cất cánh bay về hướng Irkutsk, trong tình trạng không có lái phụ, hoa tiêu và nhân viên báo vụ. Sân bay điện báo cáo Lý Tác Bằng, ý thoái thác “có thể trực tiếp báo cáo Thủ tướng”. Chu Ân Lai được tin, lệnh cho Sở chỉ huy Không quân dùng đài đối không liên lạc với Phan Cảnh Diễn, yêu cầu bay trở lại, có thể hạ cánh tại sân bay Thủ đô hoặc Tây Giao. Ngô Pháp Hiến trực tiếp cầm máy liên tục gọi Phan, nhưng không thấy trả lời. Ngô gọi điện cho Uông:
- Máy bay của Lâm Bưu sẽ từ hướng Trương Gia Khẩu bay khỏi Hà Bắc, đi vào Nội Mông, có cho máy bay tiêm kích chặn lại không?
Uông báo cáo Mao, Mao nói:
- Lâm Bưu vẫn là Phó Chủ tịch Đảng ta. Trời phải mưa, con gái phải lấy chồng, cứ để ông ta bay đi.
1 giờ 50 sáng 13-9-1971, chiếc máy bay 256 vượt biên giới, bay vào vùng trời Mông Cổ. Chu Ân Lai cho ban bố lệnh cấm không: không một máy bay nào được cất cánh, nếu không có lệnh do Chủ tịch Mao Trạch Đông, Phó Chủ tịch Lâm Bưu, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng và Tư lệnh Không quân Ngô Pháp Hiến liên danh ký tên.
Hơn 3 giờ sáng 13-9, Bộ Tư lệnh Không quân báo cáo: chiếc máy bay lên thẳng số 3685 bay khỏi sân bay Sa Hà, trên máy bay có Chu Vũ Trì, Vu Tân Dã, Lý Vĩ Tin, lái chính Trần Vân Tu, lái phụ Trần Sĩ Ấn. Trần Vân Tu không làm theo lệnh của các thành viên Hạm đội liên hợp, cho máy bay vòng lại, hạ cánh xuống một hẻm núi ở ngoại thành Bắc Kinh. Chu Vũ Trì nổ súng bắn chết Trần Vân Tu, Trần Sĩ Ấn nằm im vờ chết. Ba thành viên Hạm đội liên hợp hẹn nhau cùng tự sát. Chu Vũ Trì và Vu Tân Dã chết ngay. Lý Vĩ Tín bắn chỉ thiên, bị bắt.
Chiều 14-9, Thủ tướng Chu nhận được báo cáo của Đại sứ Trung Quốc tại Mông Cổ: 3 giờ sáng 13-9; chiếc máybay Trident số hiệu 256 của Hàng không dân dụng Trung Quốc bị rơi tại tỉnh Chentij gần Underkhan Mông Cổ, cả 9 người trên máy bay đều chết. Sau qua giám định, được biết 9 người trên gồm Lâm Bưu, Diệp Quần, Lâm Lập Quả, Lưu Bái Phong, cùng phi công, lái xe, và 3 kỹ sư cơ khí.
♦ ♦ ♦
Chương 34
Nixon mang đến cho Mao chiếc ô bảo hộ hạt nhân
Sáng 13-9, Mao Trạch Đông uỷ thác Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị, thông báo vụ Lâm Bưu bỏ chạy, đồng thời chuẩn bị chiến đấu khẩn cấp, bố trí bảo vệ Bắc Kinh, đề phòng các sự kiện đột phát. Chu còn trực tiếp gọi điện thoại cho lãnh đạo 29 tỉnh và thành phố trực thuộc, thông báo vụ Lâm Bưu, yêu cầu các nơi có biện pháp khẩn cấp, kiểm soát tình hình.
Ngày 3-10, theo đề nghị của Chu, Mao đồng ý xoá bỏ Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương, bắt Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác, thành lập Hội nghị làm việc Quân uỷ Trung ương gồm 10 thành viên, do Diệp Kiếm Anh chủ trì. Mao dặn họ: “Phàm thảo luận những vấn đề lớn, phải mời Thủ tướng tham gia”.
Ngày 25-10, với đa số áp đảo, Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 26 thông qua nghị quyết khôi phục mọi quyền hợp pháp của Trung Quốc trong tổ chức này. Mao chỉ thị cử ngay phái đoàn do Kiều Quán Hoa dẫn đầu sang New York dự hội nghị.
Sự kiện 13-9 tuyên cáo Đại cách mạng văn hoá phá sản.
Mao quyết định mở ra cục diện mới về ngoại giao làm cho nhân dân phấn chan, giữ vững thế trận. Mao càng quyết tâm cải thiện quan hệ Trung-Mỹ.
Liên quan đến vấn đề này, phải bắt đầu từ vụ xung đột Trung-Xô trên đảo Trân Bảo (Damansky) tháng 3-1969. Mỹ cho rằng sự kiện trên đánh dấu tình đoàn kết không gì phá vỡ nổi giữa hai nước đã sụp đổ, Trung Quốc sẽ tạm thời cùng Mỹ đối phó với Liên Xô.
Ngày 20-8-1969, Đại sứ Liên Xô tại Mỹ xin gặp khẩn cấp tiến sĩ Kissinger, Cố vấn an ninh quốc gia của Tồng thõng Mỹ, thông báo Liên Xô dự định thực thi đòn tấn công hạt nhân vào Trung Quốc, và trưng cầu ý kiến Mỹ về vấn đề này. Sau khi triệu tập khẩn cấp Hội đồng an ninh quốc gia bàn bạc, Nixon cho rằng mối đe doạ lớn nhất đối với các nước phương Tây đến từ Liên Xô, sự tồn tại của một nước Trung Hoa lớn mạnh phù hợp lợi ích chiến lược của phương Tây.
Nixon áp dụng hai biện pháp lớn giúp Trung Quốc. Một là kịp thời cho Trung Quốc biết thông tin chiến lược quan trọng này. Hồi đó hai nước chưa có quan hệ ngoại giao, trên danh nghĩa, đế quốc Mỹ vẫn là kẻ thù số một của Trung Quốc.
Tờ Washington Star ngày 28-8 đăng ở vị trí nổi bật tin sau:
“Theo nguồn tin đáng tin cậy, Liên Xô định dùng tên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạn hạt nhân đương lượng vài triệu tấn, tiến hành đòn tấn công hạt nhân kiểu phẫu thuật ngoại khoa vào các căn cứ quân sự quan trọng của Trung Quốc, và các thành phố công nghiệp quan trọng như Bắc Kinh, Trường Xuân, An Sơn”.
Đọc tin trên, các nguyên soái Diệp Kiếm Anh, Trần Nghị, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn cho rằng cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô đã ở ngay trước mắt, họ liên danh cảnh báo Trung ương. Chu Ân Lai hỏi Mao:
- Bốn lão soái cho rằng có nhiều khả năng Liên Xô sẽ tập kích vào dịp Quốc khánh năm nay. Vậy có tổ chức mít tinh mừng Quốc khánh nữa không?
Mao nói vẫn phải tổ chức mít tinh, nếu không chẳng khác gì bảo mọi người rằng mình sợ. Chu lo ngại, Mao cười:
- Liệu có thể cho nổ hai quả bom hạt nhân, hù doạ một chút chơi. Để họ cũng căng thẳng hai ngày, đợi họ hiểu rõ vấn đề thi ngày lễ của chúng ta cũng qua rồi.
Chu hỏi nên cho nổ vào ngày nào? Mao nói không thể sớm, cũng không thể muộn, vào 28, 29 là được.
Ngày 28 và 29-9-1969, Trung Quốc cho nổ thành công hai quả bom hạt nhân, các trung tâm đo đạc và vệ tinh của Mỹ và Liên Xô đều thu được tín hiệu hữu quan. Mọi lần Trung Quốc thử hạt nhân đều công bố tin tức, tổ chức chúc mừng, song lần này lặng im, khiến bên ngoài bàn tán, nói chung họ cho rằng hai cuộc thử hạt nhân này là một biện pháp trắc nghiệm trước khi lâm trận.
Sau đó, Mao ra lệnh cả nước đào hầm sâu, dự trữ lương thực ở khắp nơi, chuyển sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 28-9, Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ kêu gọi chính quyền, nhân dân các tỉnh biên giới và quân đội đóng ở vùng biên cương kiên quyết hưởng ứng lời kêu gọi của Mao “nâng cao cảnh giác, bảo vệ tổ quốc, sẵn sàng đánh giặc”.
Biện pháp quan trọng thứ hai của Mỹ là: bằng tín hiệu rõ ràng nhất, cho Liên Xô thấy phản ứng của Mỹ trong tình hình Liên Xô phát động chiến tranh hạt nhân chống Trung Quốc. Nixon đã sử dụng con bài Mỹ dự trữ từ cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962: dùng mật mã đã bị Liên Xô giải mã, phát lệnh của Tổng thống cho quân Mỹ chuẩn bị mở cuộc tấn công hạt nhân vào 134 thành phố, căn cứ quân sự, đầu mối giao thông, cơ sở công nghiệp nặng của Liên Xô. Nhận được thông tin trên, lãnh đạo Liên Xô hỏi đại sứ quán Liên Xô tại Mỹ, đại sứ Dobrynin báo cáo:
“Tổng thống Nixon cho rằng lợi ích của Trung Quốc gắn chặt với lợi ích của Mỹ. Nếu Trung Quốc bị tấn công hạt nhân, Mỹ sẽ cho rằng chiến tranh thế giới 3 bắt đầu, và Mỹ sẽ tham chiến đầu tiên. Kissinger tiết lộ Tổng thống đã ký mật lệnh chuẩn bị trả đũa hạt nhân vào hơn 130 thành phố và căn cứ quân sự nước ta. Mỹ sẽ bắt đầu kế hoạch trả đũa khi quả tên lửa đạn đạo đầu tiên của ta rời bệ phóng”.
Phái điều hâu trong điện Kremlinin nghe vậy liền xẹp hơi. Nhờ Mỹ giúp đỡ, Trung Quốc đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng hạt nhân nghiêm trọng nhất.
Nixon là phần tử chống cộng nổi tiếng, đồng thời cũng là vị tổng thống Mỹ có đầu óc chiến lược nhất. Vào lúc quan hệ Trung-Xô xấu đi, Nixon bảo vệ Trung Quốc, là xuất phát từ lợi ích chiến lược của Mỹ. Ông ta biết rõ khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ“ của Mao Trạch Đông không thể tồn tại lâu dài, và ông ta chờ đợi Mao chìa cành ô liu…
Ngày 18-12-1970, gặp nhà báo Mỹ Edgar Snow, Mao tỏ ý hoan nghênh Nixon thăm Trung Quốc. Một thông báo ngắn đồng thời công bố tại Bắc Kinh và Washington ngày 15-7-1971 cho biết từ 9 đến 11-7, Kissinger đã đến Bắc Kinh hội đàm với Chu Ân Lai, hai bên thoả thuận tổng thống Mỹ sẽ sang thăm Trung Quốc vào thời điểm thích hợp trước tháng 5-1972.
11 giờ 27 phút ngày 21-2-1972, chiếc Air Force One chở Nixon và phái đoàn Mỹ hạ cánh xuống sân bay Bắc Kinh.
Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Cơ Bằng Phi, Kiều Quán Hoa ra đón, đưa về nhà khách Điếu Ngư Đài, từng là nơi ở của Hoàng đế Càn Long. Sau bữa tiệc trưa thịnh soạn, Chu Ân Lai nhận được điện thoại từ Trung Nam Hải: “Chủ tịch muốn tiếp ngài Tổng thống Nixon, mời Tiến sĩ Kissinger cùng dự”.
Khách đến, Mao đứng dậy chìa tay về phía Nixon. Nixon bước lên một bước chìa tay ra nắm lấy, rồi úp tiếp bàn tay trái lên. Mao cũng úp tiếp tay trái lên theo. Chủ khách nhìn nhau cười, bốn bàn tay ấp chặt vào nhau, lắc liên hồi. Mao nói:
- Tôi là người cộng sản số 1 trên thế giới, ngài là phần tử chống cộng số 1 trên thế giới, lịch sử đã đưa chúng ta đến bên nhau.
Cuộc hội kiến dự định 15 phút, thực tế đã kéo dài tới 65 phút.
Ngày 22-2, các tờ báo lớn ở khắp Trung Quốc đều dành nửa đầu trang nhất đăng ảnh lớn Mao tiếp Nixon, ảnh Chu Ân Lai đón Nixon tại sân bay, trong đó Nixon tươi cười chìa tay phải ra, bước tới phía Chu. Đến lúc này, 800 triệu dân Trung Quốc mới trấn tĩnh lại từ nỗi kinh hoàng bởi vụ Lâm Bưu. Đọc báo chí hôm đó, người ta cảm thấy niềm tự hào của Thiên triều đại quốc. Cường quốc hàng đầu thế giới không thừa nhận Trung Quốc đã 25 năm, nay Tổng thống của họ đến Bắc Kinh, như sang triều kiến vậy. Nhân dân Trung Quốc đã đứng lên rồi, tình cảm của dân chúng hôm ấy thật là mãnh liệt. Lâm Bưu là cái thá gì? Bỏ chạy cũng được, chết khi máy bay rơi cũng được, chẳng liên quan gì đến đại cục. Chúng ta có Mao Chủ tịch, có Chu Thủ tướng, có hai người này là nhân dân Trung Quốc có chỗ dựa rồi.
Thông qua chuyến thăm của Nixon, trên mức độ rất lớn, Mao đã khôn khéo khôi phục thanh danh cho mình. Một nhà nghiên cứu nhận xét sắc bén: Mao mời Nixon thăm Trung Quốc “phản ánh nhu cầu đối nội của ông ta”.
Trong, khi Nixon thăm thú Cố Cung, Trường Thành, Hàng Châu, Kiều Quán Hoa và Kissinger cân nhắc từng câu chữ cho bản thông cáo chung Trung-Mỹ. Vấn đề khó nhất là eo biển Đài Loan, lập trường hai bên đối lập gay gắt. Trung Quốc dứt khoát không nhượng bộ trong lập trường 3 điểm:
Chính phủ CHND Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, giải phóng Đài Loan là công việc nội bộ của Trung Quốc, quân Mỹ phải rút khỏi Đài Loan. Lập trường cơ bản của Mỹ là không thể vừa bắt đầu quan hệ với Bắc Kinh đã bỏ rơi Đài Bắc.
Xoay đi, xoay lại vẫn vấp phải khái niệm phía Trung Quốc không thể đồng ý là hai nước Trung Hoa, hoặc một Trung Quốc một Đài Loan, hoặc một Trung Quốc hai chính phủ. Cuối tùng, Kissinger đã tìm được cách giải quyết khó khăn này. Kissinger nói với Chu đã quyết định diễn đạt quan điểm của Mỹ bằng phương thức khác:
“Phía Mỹ tuyên bố: Mỹ nhận thức rằng tất cả những người Trung Quốc ở hai bờ eo biển Đài Loan đều cho rắng chì có một nước Trung Hoa, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, Chính phủ Mỹ không có ý kiến khác về lập trường trên. Mỹ khẳng định mối quan tâm của mình đối với việc người Trung Quốc giải quyết hoà bình vấn đề Đài Loan. Tính tới triển vọng đó, Mỹ xác nhận mục tiêu cuối cùng rút toàn bộ lực lượng vũ trang cùng các công trình quân sự của Mỹ khỏi Đài Loan. Trong thời gian này, song song với tình hình căng thẳng trong khu vực dịu đi, Mỹ sẽ từng bước giảm lực lượng vũ trang và các công trình quân sự của mình ở Đài Loan”.
Chu Ân Lai đọc lại, cân nhắc từng chừ, vẻ mặt tươi cười:
- Tiến sĩ rốt cuộc là tiến sĩ, đây quả là một phát minh thần bí!
Bế tắc được khai thông. Ngày 28-2, hai bên công bố Thông cáo chung Trung-Mỹ (Thông cáo Thượng Hải). Cùng ngày, Nixon rời Trung Quốc.
Nhìn bề ngoài, Tổng thống Mỹ thăm Trung Quốc giống như Quốc vương phiên bang triều kiến Hoàng đế Thiên triều, thoả mãn tối đa tâm lý tự tôn và hư vinh của người Trung Quốc. Trên thực tế, trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, chiêu này là bước quyết định Mỹ đánh bại Liên Xô, làm tan rã phe xã hội chủ nghĩa; bắt đầu thực thi diễn biến hoà bình chống Trung Quốc. Nixon ảnh hưởng tới hướng đi của lịch sử thế giới nửa cuối thế kỷ 20: Liên Xô tan rã. Đông Âu biến động dữ dội, Trung Quốc cải cách mở cửa, nước Mỹ trở thành con dê đầu đàn lãnh đạo thế giới. Nếu dùng biện pháp quân sự để đạt mục tiêu chiến lược này, Mỹ phải sẵn sàng hy sinh một triệu người, mà chưa chắc đã thực hiện nổi.
Nixon tràn đầy niềm tin vào mục tiêu mà ông ta theo đuổi, có thể thấy rõ điều này qua cuốn sách cuối đời của ông ta: “Năm 1999 không đánh mà thắng”.
Chương 35
Mời Đặng Tiểu Bình làm quân sư
Ngày 6-1-1972, Nguyên soái Trần Nghị từ trần vì bệnh ung thư, lễ tang tổ chức vào chiều 10-1. Từ Đại hội 9, Trần Nghị chỉ còn là uỷ viên Trung ương, nên qui cách lễ tang bị hạ thấp, do Lý Đức Sinh chủ trì, Diệp Kiếm Anh đọc điếu văn, các uỷ viên Bộ chính trị khác không dự. Hôm ấy, sau bữa trưa, Mao thấy bồn chồn không yên: Trước đây, vì Giang Thanh, Mao đã trở mặt với Trần Nghị và hầu như toàn bộ các vị nguyên lão, còn doạ sẽ cùng Lâm Bưu lên núi đánh du kích.
Nay Lâm Bưu chết rồi, lịch sử đã kết luận ai là người trung, kẻ gian. Muốn vãn hồi lòng người, hôm nay là dịp tốt. Mao quyết định dự lễ tang Trần Nghị.
Được tin trên, Chu Ân Lai quyết định nâng cấp lễ tang, báo tất cả các uỷ viên Bộ chính trị có mặt tại Bắc Kinh đến dự.
Mao năm ấy đã 78 tuổi, sức khỏe ngày càng kém. Sắp đến lúc đi, thư ký sinh hoạt Trương Ngọc Phượng giúp ông thay quần áo. Lúc đó Mao đang mặc áo ngủ, bên dưới là chiếc quần len mỏng. Ông bảo không cần thay, cứ trùm một bộ khác ra ngoài áo ngủ là được. Nhưng mặc áo xong, Mao dứt khoát không chịu mặc quần. Phượng ngắm Mao trên là áo kiểu Tôn Trung Sơn, áo ngủ thò ra ngoài, bên dưới chỉ có chiếc quần len mỏng, ăn mặc thế này làm sao ra khỏi cửa được? Nhưng người già cố chấp đã nói không mặc quần là không mặc, cuối cùng Ngọc Phượng đành khoác thêm chiếc măng tô che kín áo ngủ, rồi dìu Mao lên chiếc xe ZiL chống đạn. Đi dự lễ tang một nguyên soái mà lãnh tụ vĩ đại không mặc quần, chuyện kỳ cục ấy nếu không do chính Ngọc Phượng sau này kể lại, có lẽ cũng chẳng mấy ai tin.
Tại lễ tang. Mao cũng sụt sịt, nhưng chẳng có giọt nước mắt nào. Mao nói “Trần Nghị đã lập công lớn cho cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới”. Mao còn nói:
- Đồng chí Đặng Tiểu Bình thuộc mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Chu Ân Lai biết rằng thời gian phục hồi công tác cho Đặng không còn xa nữa.
Đặng Tiểu Bình bị lưu đày ở Giang Tây từ 20-10-1969. Tuy là nhân vật số 2 trong phái “đi con đường tư bản”, Đặng lại được Mao đối xử nương nhẹ hơn nhiều người khác. Lợi dụng điều này, Chu Ân Lai đã chỉ đạo sắp xếp cho Đặng ở ngay ngoại thành Nam Xương, trong ngôi nhà hai tầng biệt lập có sân vườn, được gọi là “Lầu tướng quân” vì đây vốn là nơi ở của Hiệu trưởng Trường bộ binh Nam Xương. Hàng ngày, Đặng chỉ phải lao động một buổi trong xưởng sửa chữa máy kéo, không bị đấu tố, có thời gian đọc sách, rèn luyện sức khỏe. Cùng với công nhân, Đặng được nghe truyền đạt Thông tri của Trung ương ĐCSTQ về vụ Lâm Bưu. Ông nói với vợ, bà Trác Lâm: “Lâm Bưu không chết, đạo trời khó dung”.
Ngày 3-8-1972, Đặng gửi thư cho Mao, kiểm điểm sai lầm của mình, bày tỏ ủng hộ Trung ương xử lý vụ Lâm Bưu. Mao nhận xét: Đặng mắc sai lầm nghiêm trọng, nhưng khác với Lưu Thiếu Kỳ, không đầu hàng giặc, phối hợp với Lưu Bá Thừa đánh giặc có chiến công, khi dẫn đầu phái đoàn sang Moskva đàm phán đã không khuất phục xét lại Liên Xô.
Ngày 10-3-1973, Chu Ân Lai chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị căn cứ vào lời phê của Mao, ra quyết định khôi phục sinh hoạt đảng và chức vụ Phó thủ tướng cho Đặng. Cuối tháng 8-1973, Đại hội 10 Đảng Cộng sản Trung Quốc họp trước kỳ hạn, sửa đổi điều lệ, xử lý tập đoàn Lâm Bưu về tổ chức.
Đặng Tiểu Bình cùng nhiều cán bộ lão thành lại được bầu vào Ban chấp hành trung ương. Lãnh đạo cấp cao do Đại hội bầu ra gồm Chủ tịch Đảng Mao Trạch Đông; 5 Phó Chủ tịch: Chu Ân Lai, Vương Hồng Văn, Khang Sinh, Diệp Kiếm Anh, Lý Đức Sinh. Thường vụ Bộ chính trị 9 người, gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Đảng, thêm Chu Đức, Trương Xuân Kiều, Đổng Tất Vũ.
Lễ bế mạc Đại hội xuất hiện tình huống khó xử: các đại biểu đứng dậy vỗ tay tiễn lãnh tụ vĩ đại rời hội trường, nhưng Mao không sao đứng dậy nổi, nếu để hai vệ sĩ khiêng Mao ra xe, lại sợ lòng đảng, lòng dân xôn xao. Tiếng vỗ tay vẫn như sấm động, kéo dài… Chu Ân Lai nhanh trí lớn tiếng giải vây:
- Lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch muốn tận mắt thấy các đại biểu rời hội trường.
Ngày 12-12-1973, Mao triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị, kiến nghị để Đặng Tiểu Bình tham gia Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, và giữ chức Tổng tham mưu trưởng. Mao muốn Đặng Tiểu Bình gánh vác trọng trách trị quốc an dân, thành một Chu Ân Lai thứ hai. Việc chỉnh đốn quân đội do Lâm Bưu thống lĩnh nhiều năm cần một người mạnh cả về chính trị và quân sự như Đặng Tiểu Bình lo liệu. Trong 8 Tư lệnh Đại quân khu, ít nhất có ba người từng chiến đấu dưới sự chỉ huy của Đặng (Lý Đức Sinh. Trần Tích Liên, Dương Đắc Chí), vạn nhất có chuyện phản biến, Đặng dư sức điều binh khiển tướng ứng phó. Diệp Kiếm Anh quá nửa đời người làm Tổng tham mưu trưởng, nhưng cũng không có ưu thế bằng Đặng. Mao không những muốn Đặng thay thế Lâm Bưu, mà còn muốn Đặng thay thế Chu Ân Lai. Mao hy vọng Đặng có thể hợp tác với Giang Thanh, phụ tá Giang, mãi mãi bằng lòng với vị trí số 2 để Giang nắm thiên hạ, Đặng trị thiên hạ.
Ngày 22-12, Chu Ân Lai khởi thảo quyết định của Trung ương về việc cử Đặng Tiểu Bình vào các chức vụ trên theo đề nghị của Mao. Cùng ngày, Quân uỷ Trung ương ra mệnh lệnh đổi chỗ 8 Tư lệnh Đại quân khu, theo từng cặp: Bắc Kinh và Thẩm Dương, Nam Kinh và Quảng Châu, Tế Nam và Vũ Hán, Lan Châu và Phúc Châu.
Mao biết rõ Chu Ân Lai là trở ngại lớn nhất trong việc Mao hoàn thành bố cục gia đình trị. Mao trọng dụng Giang Thanh và Trương Xuân Kiều, cả hai đều là kẻ phản bội, Chu Ân Lai biết rõ điều này. Mao không có cách nào giải thích với toàn đảng 8 năm Đại cách mạng văn hoá làm chết và đánh đổ nhiều cán bộ như vậy, mà lại dựa vào hai tên phản bội, cuối cùng còn muốn để chúng kế tục, vì sao? Sách lược “lôi kéo Đặng, bài trừ Chu” của Mao xuất phát từ nguyện vọng chủ quan. Ngày 9-4-1973, khi vợ chồng Đặng đến thăm Chu ở núi Ngọc Tuyền, Chu đã cho Đặng biết những hiểm ác của môi trường công tác, và nói rõ Trương Xuân Kiều là tên phản bội, nhưng Mao không cho điều tra. Ngay từ đầu Đặng đã không nghĩ đến việc hợp tác với “lũ bốn tên”.
Mao muốn kéo Đặng và “bốn tên” vào với nhau, nhưng cục diện hợp tác bị Giang Thanh phá hết lần này đến lần khác.
Tháng 4-1974, Liên Hợp Quốc triệu tập Hội nghị đặc biệt. Đây là cuộc gặp gỡ các nguyên thủ quốc gia hoặc người đứng đầu chính phủ, lẽ ra phải Chu Ân Lai đi dự. Căn cứ vào chỉ thị của Mao “theo tuyến, không theo người”, Bộ Ngoại giao vượt mặt Chu Ân Lai, cử Vương Hải Dung trực tiếp thỉnh thị Mao. Mao chỉ định Đặng Tiểu Bình làm Trưởng phái đoàn Trung Quốc, nhưng dặn Vương Hải Dung đừng nói đó là ý kiến của ông ta, mà để Bộ Ngoại giao đề cử Đặng, viết báo cáo gửi lên. Để Đặng Tiểu Bình xuất hiện ở Liên hợp quốc là Mao gửi tín hiệu cho trong và ngoài nước biết rằng Đặng sẽ thay thế Chu cầm quyền. Khi Chu chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị thảo luận báo cáo của Bộ Ngoại giao, Giang Thanh đứng ra phản đối, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên phụ hoạ, những người khác ngồi im. Sau khi biết việc để Đặng đi Liên hợp quốc là ý đồ của Mao, Chu Ân Lai tích cực thuyết phục Bộ Chính trị, khiến báo cáo trên được thông qua vào 26-3. Ngày 27, trong thư gửi Giang Thanh, Mao viết: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình đi Liên hợp quốc là chủ ý của tôi, tốt nhất là bà đừng phản đối”
Tiếp đó là vụ tầu Phong Khánh. Năm 1964, để nhanh chóng phát triển vận tải đường biển xa, Chu Ân Lai chủ trương đóng tàu đồng thời với mua tàu, được Mao tán thành.
Cuối tháng 9-1974, tàu vận tải Phong Khánh 10.000 tấn do Trung Quốc chế tạo chạy thử sang châu Âu thành công trở về, Diêu Văn Nguyên ra sức tuyên truyền sự kiện trên, đồng thời xuyên tạc chủ trương của Chu thành “đóng thuyền không bằng mua thuyền, mua thuyền không bằng thuê thuyền”, và gọi đó là “triết học nô lệ nước ngoài”. Giang Thanh gián tiếp phê phán Chu Ân Lai, đòi Bộ Chính trị tỏ thái độ về vấn đề này và có biện pháp cần thiết. Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 17-10, Giang Thanh đòi lôi “tổng hậu đài” của giai cấp tư sản mại bản, và ép Đặng Tiểu Bình tỏ thái độ. Đặng đập bàn đứng dậy, giọng nghiêm khắc: “Bộ Chính trị như thế này còn hợp tác sao được? Nhất định áp đặt đòi người khác tán thành ý kiến của bà ta”. Rồi Đặng tức giận bỏ họp ra về. Đây là cuộc xung đột công khai đầu tiên với Giang Thanh sau khi Đặng trở lại công tác.
Nhóm Giang Thanh cử Vương Hồng Văn xuống Trường Sa báo cáo với Mao. Vương nói:
- Giang và Đặng tranh cãi gay gắt về vụ tàu Phong Thanh, xem ra Đặng vẫn theo đuổi phương châm đóng thuyền không bằng mua thuyền, mua thuyền không bằng thuê thuyền. Thủ tướng Chu tuy ốm nhưng vẫn bận bịu ngày đêm tìm người trao đổi ý kiến, thường xuyên đến chỗ Chu có Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm. Việc này liên quan đến nhân sự Quốc hội khoá 4.
Mao đang trông chờ Giang bắt tay Đặng đề loại bỏ Chu, nay Giang lại một lần nữa phá hỏng sắp xếp của Mao. Nghe Vương nói xong, Mao phê bình ngay:
- Làm như vậy không tốt! Phải đoàn kết với đồng chí Đặng Tiểu Bình. Anh về gặp Thủ tướng và đồng chí Diệp Kiếm Anh bàn bạc, chớ vào hùa với Giang. Anh phải chú ý bà ta.
Ban đầu, Mao trao cho Vương Hồng Văn phụ trách nhân sự bảo Trương Ngọc Phượng trực tiếp thông báo cho Vương biết rằng Đặng sẽ làm Phó thủ tướng thứ nhất, mà không nêu rõ Chu Ân Lai có tiếp tục làm Thủ tướng hay không.
Ngay sau hai ngày suy nghĩ, Mao quyết định nhượng bộ về sách lược, bảo Vương Hải Dung truyền đạt ý kiến của ông tới Chu Ân Lai và Vương Hồng Vãn:
- Thủ tướng của chúng ta vẫn lâ Thủ tướng. Nếu sức khỏe cho phép, Thủ tướng cùng Vương Hồng Văn thương lượng với các bên, đưa ra danh sách sắp xếp nhân sự. Đặng làm Phó thủ tướng thứ nhất kiêm Tổng tham mưu trưởng, đây là ý kiến của Diệp Kiếm Anh, tôi tán thành. Còn Chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Quốc hội để suy nghĩ thêm. Nói chung, phương châm là phải đoàn kết, phải ổn định.
Mặt khác, Mao có ý kiềm chế Giang Thanh. Ngày 12-11-1974; Giang Thanh gửi thư cho Mao giới thiệu Tạ Tĩnh Nghi làm Phó Chủ tịch Quốc hội, Kiều Quán Hoa làm Phó thủ tướng, Trì Quần làm Bộ trưởng Giáo dục. Mao phê trên lá thư: “Chớ lộ mặt nhiều, đừng phê văn kiện; không nên đứng ra lập nội các, phải làm lão phu nhân, chớ làm bà mối”.
Không lâu sau, Giang lại kiến nghị để Vương Hồng Văn làm Phó Chủ tịch Quốc hội. Mao nói với Vương Hải Dung:
- Giang Thanh có dã tâm, muốn để Vương Hồng Văn làm Chủ tịch Quốc hội, bâ ta làm Chủ tịch Đảng.
Kế hoạch truyền ngôi của Mao thật khó nói thắng ra, bởi nó khác rất xa Chủ nghĩa Mác, phục vụ nhân dân, giải phóng cả loài người mà ông ta vẫn huênh hoang. Thế là ông ta đành nói ngược như trên để Vương Hải Dung truyền đi, cho mọi người lĩnh hội. Phát hiện kẻ có dã tâm mà không loại trừ, là muốn người ta hiểu ngược lại. Bên trong nói với Giang Thanh “phải làm lão phu nhân”, bên ngoài nói với mọi người: Giang Thanh “làm Chủ tịch Đảng”.
Từ 23 đến 27-12, Chu Ân Lai bốn lần báo cáo Mao về tình hình chuẩn bị khoá họp. Ngày 26, Chu gặp riêng Mao, đây là cuộc ngửa bài quan trọng giữa hai người. Chu nói Giang Thanh, Trương Xuân Kiều trong lịch sử đều là phản bội, Mao tỏ ý đã biết rõ. Hai bên thoả thuận: Mao đáp ứng yêu cầu của Chu, bảo đảm quyền lãnh đạo Chính phủ khoá này không rơi vào tay “bốn tên”; Chu đáp ứng yêu cầu của Mao, giữ im lặng về vấn đề lịch sử của Giang Thanh và Trương Xuân Kiều.
Ngày 5-I-1975, Trung ương ĐCSTQ ra văn kiện số 1, cử Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Tổng tham mưu trưởng, Trương Xuân Kiều làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Hội nghị Trung ương 2 khoá 10 căn cứ vào đề nghị của Mao, bầu Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Đảng, uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị; phê chuẩn đề nghị của Lý Đức Sinh xin thôi chức Phó Chủ tịch Đảng. uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị.
Ký họp thứ nhất Quốc hội khoá 4 bầu lại Chu Đức làm Chủ tịch Quốc hội, Chu Ân Lai làm Thủ tướng, với 12 Phó thủ tướng, đứng đầu là Đặng Tiểu Bình.
Với các chức vụ Phó Chủ tịch Đảng. Phó thủ tướng thứ nhất, Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương kiêm Tổng tham mưu trưởng, Đặng đã được Mao đặt vào vị trí “dưới một người và trên vạn người” Ngày 1-2-1975, tại bệnh viện, Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Hội đồng Chính phủ, công bố phân công các Phó Thử tướng, truyền đạt đánh giá của Mao đối với Đặng là “nhân tài hiếm có, tư tưởng, chính trị mạnh”, đồng thời ông tuyên bố từ nay những cuộc họp này do Đặng chủ trì.
Phát biểu trước Hội nghị các Bí thư phụ trách công nghiệp các tỉnh và thành phố trong cả nước, Đặng nói:
- Hiện nay toàn Đảng phải nói nhiều đến một cục diện lớn. Các báo cáo công tác của Chính phủ tại Quốc hội khoá 3 và khoá 4 đều nói tới kế hoạch 2 bước phát triển kinh tế quốc dân. Bước thứ nhất đến năm 1980, xây dựng hệ thống công nghiệp và hệ thống kinh tế quốc dân độc lập và tương hội chủ nghĩa có nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại, quốc phòng hiện đại và khoa học kỹ thuật hiện đại, toàn đảng, toàn quốc đều phải phấn đấu thực hiện mục tiêu vĩ đại này. Đó chính là cục diện lớn.
Sau khi trở lại công tác, Đặng Tiểu Bình giương ngọn cờ nào, đi con đường nào? Toàn đảng, toàn quân và nhân dân cả nước ngẩng đầu chờ đợi. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang quan sát Đặng, “Lũ bốn tên” và phái tạo phản cũng đang quan sát ông, cán bộ lâu năm và phái dân chủ trong Đảng cộng sản đang theo dõi từng lời nói, việc làm của ông.
Đoạn phát biểu trên là cương lĩnh cầm quyền của Đặng Tiểu Bình. Xin bạn đọc lưu ý: cục diện lớn của Đặng không phải “chống xét lại, phòng ngừa xét lại”, không phải “phê Lâm, phê Khổng”, “đề phòng chủ nghĩa tư bản phục hồi”, cũng không phải là “kiên trì đường lối Pháp gia”, mà là phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện bốn hiện đại hoá; chỗ dựa của ông không phải “chỉ thị tối cao”, mà là báo cáo công tác Chính phủ của Chu Ân Lai. Sau khi Lưu Thiếu Kỳ bị đánh đổ, Chu Ân Lai là nhân vật tiêu biểu kiên trì đường lối Đại hội 8. Nay Chu ốm nặng, Đặng nhận chiếc gậy tiếp sức, trở thành nhân vật đại diện kiên trì đường lối Đại hội 8. Qua 9 năm vật vã, toàn đảng, toàn quân, toàn dân nhận ra chỉ có đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội do Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đại diện mới cứu được Trung Quốc; đường lối chủ nghĩa xã hội không tưởng mà Mao đại diện chỉ hại nước, hại dân, cái gọi là “chống xét lại, phòng ngừa xét lại” “đề phòng chủ nghĩa tư bản phục hồi” đều là treo đầu dê bán thịt chó, tạo dư luận cho phe Giang Thanh cướp quyền. Đây là cơ sở tư tưởng để sau này một trận đập tan “lũ bốn tên”.
Thành công của Đặng trong việc khai thông vận tải đường sắt - khâu yếu trong nền kinh tế đương thời - đã tạo thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động kinh tế, đem lại niềm phấn chấn và tin tưởng cho toàn dân, nhưng lại làm cho phe Giang Thanh ghen ghét, tức giận, thậm chí hoảng sợ Chúng trương lá cờ chống chủ nghĩa kinh nghiệm, bắt đầu phản công.
Ngày 18-4, Mao tiếp Kim Nhật Thành, có Đặng cùng dự. Mao giới thiệu với Kim:
- Đồng chí Đặng Tiểu Bình biết đánh trận, cũng biết chống xét lại. Chúng tôi cần đồng chí ấy.
Sau buổi tiếp, lợi dụng cơ hội báo cáo công tác với Mao, Đặng thẳng thắn bày tỏ không tán thành việc Giang Thanh và một số người nêu “chủ nghĩa kinh nghiệm” là nguy cơ chủ yếu hiện nay, Mao tán thành ý kiến của Đặng.
Đêm 3-5, Mao triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị, tiếp tục nâng Đặng, hạ Chu, có phần phê bình Giang Thanh, yêu cầu Giang đoàn kết với Đặng. Mao nói:
- Phải theo chủ nghĩa Mác-Lenin, không theo chủ nghĩa xét lại; phải đoàn kết, chớ chia rẽ, phải quang minh chính đại, chớ giở mưu ma chước quỷ, chớ hình thành “lũ bốn tên”. Vì sao không đoàn kết với hơn 200 uỷ viên Trung ương?
Mao chỉ thị Bộ Chính trị tiến hành phê bình những người mắc sai lầm, song do liên quan đến Giang Thanh, Vương Hồng Văn (chủ trì công tác Trung ương) bỏ lửng. Đến 27-5, Mao chỉ thị Đặng chủ trì triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị, phê bình “lũ bốn tên” do Giang Thanh đứng đầu.
Sau cuộc họp, Mao chỉ thị Giang Thanh đến nhà Đặng giãi bày tâm sự. Trong bản kiểm điểm ngày 28-6, Giang viết: “Tôi xin lỗi Mao Chủ tịch, xin lỗi Bộ Chính trị, càng xin lỗi đồng chí Đặng Tiểu Bình”. Mao đã tạo thể diện cho Đặng tới mức tối đa, hy vọng ông liên minh với Giang tiếp quản đảng, quân đội và đất nước này, mãi mãi cam chịu làm người số 2, nâng Giang Thanh lên ngôi Chủ tịch Đảng. Mao cho Giang với thân phận tôn quý “Lã Hậu” đến phủ Đặng nhận sai lầm, là muốn xin ông đóng vai “Tiêu Hà” thời nay.
Giang hạ mình đến thăm Đặng song không đạt mục đích. Ông không đón, cũng không tiễn, cự tuyệt làm “Tiêu Hà” của Giang Thanh.
Từ 8 đến 29-5, Đặng chủ trì cuộc toạ đàm về gang thép với sự tham gia của những người lãnh đạo 17 tỉnh và thành phố trực thuộc, 11 xí nghiệp gang thép lớn, các cơ quan hữu quan. Từ 24-6 đến 15-7, Đặng lại cùng Diệp Kiếm Anh triệu tập Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng nhằm chỉnh đốn quân đội.
Qua mấy tháng, Đặng mạnh tay chỉnh đốn, kinh tế quốc dân 6 tháng đầu năm 1975 chuyến biến tốt rõ rệt; giá trị tổng sản phẩm công nghiệp cả nước hoàn thành 47,4% kế hoạch cả năm; thu nhập tài chính cả nước hoàn thành 43% kế hoạch cả năm; thu chi cân bằng, có dư chút ít. Tài trị quốc an bang của Đặng được toàn đảng, toàn quân và toàn dân tin phục.
♦ ♦ ♦
Chương 36
Chu Ân Lai - trở ngại mà Giang Thanh không thể vưọt qua
Đầu năm 1972, Mao trải qua một cơn bệnh hiềm nghèo, đã có lúc hôn mê. Sau sự kiện này, sức khỏe của ông không hồi phục được nữa. Khi tình huống nguy cấp đã qua, Mao liền biểu diễn màn kịch “trao quyền bên giường bệnh”, cài bẫy Chu Ân Lai. Theo những người có mặt kể lại: Mao ngoảnh đầu về phía Chu:
- Tôi không qua khỏi được rồi, tất cả dựa vào ông.
Chu nói ngay:
- Sức khỏe của Chủ tịch không có vấn đề lớn, vẫn phải dựa vào Chủ tịch.
Mao lắc đầu:
- Hỏng rồi, tôi không qua khỏi được nữa rồi. Sau khi tôi chết, mọi việc do ông lo liệu.
Giang Thanh đứng bên trợn tròn mất, hai tay nắm chặt, toàn thân như sấp nổ tung.
Chu Ân Lai thu đôi chân lại, tay đặt trên đầu gối, ngồi thông lưng, hơi ngả về phía trước, như đông cứng lại. Những câu nói trên của Mao rõ ràng là trao cho Chu quyền quản lý đảng, chính quyền và quân đội, mà lại nói trước mặt Giang Thanh. Mao nói tiếp:
- Quyết định thế nhé, các người thực hiện đi.
Một con người được tôi luyện về chính trị như Chu Ân Lai tất nhiên không nhẹ dạ tin vào lời hứa trao quyền của Mao như Lâm Bưu. Nếu thật sự muốn trao quyền, Mao phải triệu tập cuộc họp Ban chấp hành trung ương, ít nhất là Bộ Chính trị, tuyên bố trước mọi người, rồi Trung ương ra nghị quyết tương ứng, mới có giá trị. Đóng kịch trước giường bệnh, trước mặt Giang Thanh, lão Mao già dặn kinh nghiệm muốn gì? Chu Ân Lai biết câu trả lời Mao chờ đợi ở ông là “Tôi kiến nghị trong thời gian Chủ tịch lâm bệnh, để đồng chí Giang Thanh làm Quyền Chủ tịch. Tôi sẽ phụ tá đồng chí Giang Thanh như phụ tá Chủ tịch”.
Nếu Chu trả lời như vậy, ông sẽ được Mao cho ngay điểm 10, rồi đưa kiến nghị của Chu vào văn kiện Trung ương, phân phát trong toàn đảng, để chứng tỏ đây là Chu giới thiệu Giang Thanh kế tục, chứ không phải Mao thực hiện gia đình trị. Còn nếu Chu tiếp nhận quyền lực, ông sẽ bị đánh đổ. Chu lựa chọn đáp án thứ ba: lần lữa kéo dài thời gian. Mấy ngày sau, sức khoẻ của Mao ổn định, Chu trịnh trọng nói với Phó Văn phòng Trung ương Trương Diệu Từ:
- Nhờ đồng chí báo cáo Chủ tịch, chúng tôi vẫn làm việc dưới sự lãnh đạo của Người.
Từ khi xảy ra vụ Lâm Bưu, Chu giúp Mao cứu vãn cuộc khủng hoảng chính trị lớn nhất của chính quyền ĐCSTQ, tiếp đó mở ra cục diện mới trong quan hệ Trung-Mỹ, chỉnh lại hướng đi đúng cho sự phát triển của nước cộng hoà trong tương lai, lập nên công trạng lớn mọi người đều biết. Nhưng Mao lại coi Chu là trở ngại lớn nhất cho việc thiết lập vương triều họ Mao, công lớn không thưởng, mà tăng cường hãm hại. Qua các tư liệu tham khảo của Tân Hoa Xã, Mao lo ngại thấy từ xử lý vụ Lâm Bưu đến đón tiếp Nixon, uy tín của Chu đã vượt mình ở cả trong nước và trên trường quốc tế. Cộng thêm trước đó Chu không có câu trả lời khiến Mao hài lòng trong màn kịch “trao quyền”, Mao quyết tâm trị Chu.
Ngày 18-5-1972, các bác sĩ phát hiện Chu bị ung thư tế bào thượng bì bàng quang. Các chuyên gia cho trọng bệnh tình còn ở giai đoạn đầu, nếu sớm trị liệu, khả năng khỏi bệnh là 80 đến 90%. Nếu bỏ lỡ cơ hội, để phát triển thành ung thư bàng quang giai đoạn cuối, thì hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Tổ điều trị báo cáo lên Trung ương phương án điều trị sớm. Mấy ngày sau, Uông Đông Hưng truyền đạt chỉ thị 4 điểm của Trung ương, thực tế là của Mao:
1. Phải giữ kín, không cho Thủ tướng và phu nhân biết;
2. Không kiểm tra;
3. Không phẫu thuật;
4. Tăng cường chăm sóc và dinh dưỡng.
Các chuyên gia điều trị biết rằng bỏ lỡ thời cơ điều trị sớm chẳng khác nào để Thủ tướng chờ chết. Họ đề nghị trực tiếp gửi thư trình bày với Mao, nhưng Uông Đông Hưng ngăn lại:
- Các ông phải nghe lời, phải theo luồng tư duy của Chủ tịch. Người đang xem xét vấn đề toàn diện, có thể qua một thời gian tính sau.
Việc điều trị bị buông trôi tới 9 tháng. Đến tháng 2-1973, Chu tiểu tiện ra máu rất nhiều, Diệp Kiếm Anh trực tiếp gặp Mao trình bày, Mao mới miễn cưỡng cho điều trị, nhưng lại hạn chế các biện pháp trị liệu. Thượng tuần tháng 5-1974, tế bào ung thư di căn, Tổ trưởng điều trị Ngô Giai Bình yêu cầu cho nhập viện phẫu thuật, Trương Xuân Kiều thay mặt Mao trả lời không thể tính chuyện phẫu thuật vì “không ai có thể làm thay” công tác của Chu lúc đó.
Cứ dềnh dàng như vậy, mãi đến 1-8, Chu mới được đưa vào Bệnh viện 305 phẫu thuật. Tuy các chuyên gia đã cắt hết mọi chỗ nghi ngờ, vết mổ mau lành, nhưng chỉ 2 tháng sau, Chu lại đi tiểu ra nhiều máu, dấu hiệu tế bào ung thư tiếp tục di căn, và ngây 8-10 phải phẫu thuật lần hai.
Nghe báo cáo, Mao biết rằng những ngày còn lại của Chu không nhiều nữa. “Vấn đề toàn diện” mà Mao xem xét, nói thẳng ra, là cho Chu “đi trước một bước”, để Mao sắp xếp cho phe Giang Thanh nắm quyền, Nếu Mao đi trước, Giang tuyệt đối không phải là đối thủ của Chu. Để thực hiện giấc mơ gia đình trị, Mao Trạch Đông những năm cuối đời tâm lý vô cùng tối tăm, phẩm chất hết sức xấu xa. Ông ta quyết không cho Chu Ân Lai yên tâm dưỡng bệnh, liên tiếp tổ chức ba đòn đả kích Chu. Lần thứ nhất cuối năm 1973, họp Hội nghị Bộ chính trị mở rộng phê phán “đường lối đầu hàng” của Chu. Lần thứ hai phê Lâm, phê Khổng, phê Chu công. Lần thứ ba phê truyện Thuỷ Hử, quay lại vấn đề “phái đầu hàng”. Mao muốn làm cho Chu đi nhanh tới điểm tận cùng của cuộc sống trong nỗi sợ hãi, từng bước thực hiện kế hoạch nham hiểm cho Chu “đi trước một bước”. Nguyên nhân và mục đích Mao liên tục tổ chức phê phán Chu Ân Lai đã được gói gọn trong câu Đặng Tiểu Bình góp ý kiến với Chu tại một cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng:
- Vị trí của ông hiện nay chỉ cách Chủ tịch một bước chân, đó là điều những người khác đâu có thể thấy song không tới được, còn ông có thể thấy và có thể tới được, mong ông hết sức cảnh giác điểm này.
Song điều Mao không ngờ tới là những đòn đả kích liên tiếp của ông ta chẳng làm tổn thương được nhân cách vĩ đại và hình ảnh sáng ngời của Chu Ân Lai mà ngược lại, còn tự bôi tro trát trấu vào mặt mình. Từ tháng 6-1974 đến hạ tuần tháng 10-1975 trên thực tế là 17 tháng cuối cùng Chu Ân Lai đảm đương chức vụ Thủ tướng. Trong thời kỳ then chốt nây, Chu ứng phó đến cùng với Mao, không đề cho chính quyền rơi vào tay “lũ bốn tên”, ngăn chặn âm mưu gia đình trị. Sự kiện ngày 5-4-1976 trên thực tế là một cuộc bỏ phiếu toàn dân “cần Chu Ân Lai. không cần Mao Trạch Đông”, báo trước chiều hướng chính trị của Trung Quốc sau Mao.
Trước khi bước vào cuộc phẫu thuật lần thứ 4. Chu nắm chặt tay Đặng Tiểu Bình, ráng sức nói lớn trước mặt mọi người: “Đồng chí Tiểu Bình, công tác hơn một năm qua chứng tỏ đồng chí mạnh hơn tôi rất nhiều!” Khi bánh xe lăn tới sát cửa phòng mổ, Chu Ân Lai dùng hết sức bình sinh, lên tiếng cực lực kháng nghị: “Tôi trung thành với Đảng, trung thành với nhân dân! Tôi không phải là phái đầu hàng!” Đứng bên Chu, Đặng Dĩnh Siêu bình tĩnh nói với Uông Đông Hưng: “Đem lời Ân Lai báo cáo Chủ tịch”.
♦ ♦ ♦
Chương 37
Chu Ân Lai mà người căm ghét, hãm hại:
mãi mãi sống trong lòng trăm họ!
Lũ bốn tên mà người tin cậy, bảo vệ:
nhân dân rủa bay chết sớm đi!
9 giờ 57 phút ngày 8-1-1976, Chu Ân Lai qua đời, nhà cầm quyền công bố thành lập Ban lễ tang gồm 107 thành viên, trong đó có Mao Trạch Đông, Vương Hồng Văn, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Chu Đức… Tuy nhiên, qui cách lễ tang đã bị hạ thấp, với việc lễ vĩnh biệt thi thể lẽ ra phải tổ chức ở Nhà Quốc hội, thì lại làm tại nhà tang lễ bệnh viện Bắc Kinh (mặc dù đây không phải nơi Chu qua đời), việc rắc tro hài cốt được thực hiện trên chiếc máy bay An-2 cũ kỹ chuyên dùng phun thuốc trừ sâu cất cánh từ một sân bay cấp huyện, Mao không dự lễ truy điệu v.v… Tuy nhiên, tình cảm sâu nặng của người dân đối với vị Thủ tướng của họ vượt xa ý muốn của Mao. Hàng triệu người đã tự động đứng hai bên đường tiễn biệt ông từ bệnh viện tới nơi hoả táng. Nhiều cán bộ và dân chúng tự đeo băng đen hoặc hoa trắng để tang ông. Nhiều người cảm thấy như đất dưới chân mình sụt xuống.
Chu Ân Lai sau khi từ trần thanh danh nổi như cồn, trở thành ngọn cờ để toàn đảng, toàn quân, toàn dân đấu tranh tẩy chay âm mưu gia đình trị của Mao.
Ở Bắc Kinh, nhà cầm quyền cấm các đơn vị lập bàn thờ Chu, quần chúng liền phát hiện Đài liệt sĩ trên Quảng trường Thiên An Môn là nơi tưởng niệm lý tưởng nhất. Ngày 19-3, học sinh Trường Tiểu trọc Ngưu Phòng khu Triệu Dương đặt vòng hoa đầu tiên trên Đài liệt sĩ tưởng niệm Thủ tướng Chu. Những ngày tiếp theo, số vòng hoa ngày càng nhiều. Công nhân nhà máy cơ khí hạng nặng Bắc Kinh dùng cần cẩu đưa đến quảng trường một vòng hoa “xé không rách, lay không chuyển” làm bằng thép. Công nhân viên chức Nhà máy 109 thuộc Viện Khoa học Trung Quốc dựng ở phía sau Đài liệt sĩ 4 tấm bia thép lớn, mang 4 dòng chữ chĩa mũi nhọn vào “lũ bốn tên”:
Hồng tâm dĩ kết thắng lợi quả
Bích huyết tái khai cách mạng hoa
Thảng hữu yêu ma phún độc hoả
Tự hữu cầm yêu đả quỷ nhân
(Tạm dịch nghĩa: Trái tim đỏ làm nên thắng lợi, máu đào lại nở hoa cách mạng. Nếu có yêu ma phun lửa độc, tất có người bắt quỷ, trừ ma).
4-4 là tiết thanh minh, tuy có lệnh cấm của chính quyền thành phố, 2 triệu lượt người đã kéo đến Quảng trường Thiên An Môn tưởng nhớ ông Chu, trong đó có đội ngũ trên 1000 công nhân viên chức Nhà máy đồng hồ Thanh Vân, hơn 3.000 công nhân Nhà máy điện cơ Thự Quang. Theo thống kê của Cục Công an Bắc Kinh, riêng ngày 4-4 trên 1.400 đơn vị tham gia tưởng niệm, với 2.073 vòng hoa được đặt quanh Đài liệt sĩ, và vô số thơ, lời điếu, trong đó có 48 vụ “công kích ác độc Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng”.
Tối 4-4, Vương Hồng Văn chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị, cho rằng vụ Thiên An Môn là sự kiện phản cách mạng đứng sau là Đặng Tiểu Bình. quyết định dọn sạch Quảng trường Thiên An Môn, bắt phản cách mạng, tổ chức chiến dịch tố cáo âm mưu của kẻ thù trong cả nước. Khi thảo luận việc tước hết các chức vụ và khai trừ đảng tịch của Đặng, Chu Đức và Diệp Kiếm Anh bỏ ra về, Lý Tiên Niệm im lặng, Hoa Quốc Phong, Trần Tích Liên, Ngô Đức… đề nghị thỉnh thị Mao.
Nghe Mao Viễn Tân báo cáo tình hình, Mao Trạch Đông nói:
- “Như vậy là họ nã súng vào tôi, tưởng nhớ Thủ tướng, hỏi tội Giang Thanh và Trương Xuân Kiều, tóm lại là muốn lật đổ Đại cách mạng văn hoá”
Chống Chu, phê Đặng, Mao không ngờ lại dẫn đến kết quả này. Mao quá tín vào quyền uy của mình. Sau sự kiện 13-9, chính vì Mao dựa vào Chu, sử dụng Đặng, toàn đảng, toàn quân và toàn dân mới tiếp tục ủng hộ ông ta. Nay Mao bỏ rơi hai người này, định chuyển giao quyền lực cho Giang Thanh, thì toàn đảng toàn quân và toàn dân đều quay lưng lại.
Mao quyết tâm làm theo ý mình cho đến cùng, phê chuẩn đàn áp quần chúng trước Thiên An Môn. 9 giờ 35 phút sáng 5-4, 5 tiểu đoàn cảnh vệ, 3.000 công an, 10.000 dân quân ra tay đàn áp, bắt tại chỗ 38 người, phá huỷ các vòng hoa. Kể cả trước và sau ngày 5-4, có 388 người bị bắt. Sáng 7-5, nằm trên giường bệnh, Mao chỉ thị:
- Tước mọi chức vụ của Đặng Tiểu Bình, giữ lại đảng tịch, Hoa Quốc Phong làm Thủ tướng kiêm Phó Chủ tịch thứ nhất ĐCSTQ.
Mao dặn thêm khi họp Bộ Chính trị chính thức thông qua quyết định trên, không báo Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh và Tô Chấn Hoa đến họp, để đảm bảo nghị quyết được nhất trí thông qua.
Ngày 15-6-1976, trong lúc bệnh tỉnh ngày càng nặng, Mao gọi Giang Thanh, Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Uông Đông Hưng, Vương Hải Dung đến nói:
- Đời ta làm hai việc. Một là đấu tranh với Tưởng Giới Thạch mấy chục năm, đuổi Tưởng ra hải đảo; kháng chiến 8 năm, mời người Nhật về nước; đánh đến Bắc Kinh, vào Tử cấm thành. Về việc này, số người có ý kiến khác không nhiều, chỉ có vài người muốn ta sớm thu hồi mấy hòn đảo đó. Việc thứ hai là phát động Đại cách mạng văn hoá, người ủng hộ không nhiều người phản đối không ít. Cả hai việc trên đều chưa kết thúc, di sản này trao lại cho thế hệ sau. Trao lại như thế nào? Không trao được trong hoà bình thì trao trong rối ren, làm không tốt là biển máu. Các người làm ra sao? Có trời biết được.
Khi nói những câu trên, đầu óc Mao hoàn toàn tỉnh táo. Ông ta tổng kết cuộc đời mình, nói đã làm hai việc, một là đánh bại Tưởng Giới Thạch, đuổi người Nhật về nước; hai là phát động Đại cách mạng văn hoá. Có nghĩa là trong 17 năm từ 1949 đến 1965, ông ta chẳng làm gì cả. Ông ta đổ mọi sai lầm trong thời kỳ đó lên đầu Lưu Thiếu Kỳ, từ ba cuộc cải tạo lớn đến Đại tiến vọt, chết đói 37,55 triệu người, thiệt hại 120 tỉ NDT.
Nói một cách thực sự cầu thị, từ năm 1953, Mao đã thực hiện đường lối sai lầm “tả” khuynh với đặc trưng chủ nghĩa xã hội không tưởng, đường lôi sai lầm này gây thiệt hại nhiều so với đường lối Lý Lập Tam và Vương Minh. Sai lầm của Lý và Vương chỉ gây thất bại cục bộ, mất vài vạn quân, mất căn cứ địa trong vài huyện, còn sai lầm của Mao làm chết đói 37,55 triệu người. Một lãnh tụ đảng luôn miệng nói giải phóng nhân dân, phục vụ nhân dân, mang lại hạnh phúc cho nhân dân phạm tội ác lớn như vậy, mà lại cự tuyệt nhận sai lầm, không từ chức, lại phát động Đại cách mạng văn hoá, cách chức, đánh đổ, thậm chí dồn vào chỗ chết khoảng trên 80% đảng viên cộng sản chính trực, những người không tán thành cách làm tuỳ tiện của Mao từng có ý kiến bất đồng với ông ta. Nó tàn khốc, vô tình gấp bao nhiêu lần so với đường lối Vương Minh. Nếu đường lối sai lầm “tả” khuynh của Mao không chiếm vị trí chủ đạo, không có việc phê phán Lưu Thiếu Kỳ “xác lập trật tự xã hội dân chủ mới” năm 1953, không có việc chống Chu Ân Lai hữu khuynh năm 1958, không có Công xã hoá và 3 năm Đại tiến vọt, không có cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh Bành Đức Hoài, thì sẽ không gây ra thảm án lớn chưa từng có làm chết đói 37,55 triệu người. Mao Trạch Đông kéo Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc theo ông ta vật vã trong 1/4 thế kỷ, đến năm 1978 lại quay về chủ nghĩa dân chủ mới, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đến lúc này mới đi vào quỹ đạo dân chủ mới. Đại diện đường lối đúng đắn của Đảng trong thời kỳ xây dựng phải là những nhà lãnh đạo đã kiên trì đường lối Đại hội 8 Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Trần Vân. Công cuộc cải cách-mở cửa hiện nay đã kế thừa và phát trên đường lối đúng đắn đó.
♦ ♦ ♦
Chương 38
Mao để Giang Thanh cầm “cờ lớn”
Mao rất chú trọng tên tuổi của mình sau khi chết, hoàn toàn tự tin không ai có thể phủ nhận “võ công” của mình. Nhưng “văn trị” của Mao thật hồ đồ. Ông ta đã phá hoại một thế giới cũ, nhưng lại không xây đựng nổi một thế giới mới. Mao muốn đưa mọi người lên thiên đường, song lại đẩy họ xuống địa ngục. GDP của Trung Quốc năm 1955 chiếm 4,7% thế giới, năm 1980 tụt xuống 2,5%, năm 1955 gấp 2 lần Nhật Bản, năm 1960 tương đương, đến năm 1980 chỉ bằng 1/4. GDP bình quân đầu người năm 1955 bằng 1/2 Nhật Bản, đến năm 1980 chưa được l/20. Năm 1960, GDP của Mỹ nhiều hơn Trung Quốc 460 tỉ USD, đến năm 1980, con số này là 3.680 tỉ USD. Trước năm 1949. Thượng Hải là trung tâm tiền tệ và thương mại quốc tế vùng Viễn Đông, là “Paris phương Đông”, trình độ công nghiệp hoá vượt xa Hồng Công, dẫn đầu châu Á. Nhưng đến năm 1976, Thượng Hải tụt xuống thành phố loại hai, loại ba ở châu Á, GDP bình quân đầu người chỉ có 400 USD, trong khi Hồng Công là 7.000 USD. Năm 1979, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc chỉ xấp xỉ 1/7 Đài Loan. Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1978 xếp GDP bình quân đầu người của Trung Quốc ngang Somali, Tanzania, đứng hàng thứ 20 thế giới tính từ dưới lên. Khoác lác đuổi kịp Anh, vượt Mỹ, nhưng tụt hậu ngày càng xa.
Điều đặc biệt khiến Mao nửa đêm giật mình lo sợ là 3 năm Đại tiến vọt làm 37,55 triệu người chết đói. Lưu Thiếu Kỳ từng nói với Mao: “Để xảy ra thảm kịch người ăn thịt người, ông và tôi sẽ bị ghi vào sử sách”. Mao rất sợ điều này. Có học giả thống kê, số người chết đói dưới thời Mao còn nhiều hơn tổng số người chết đói trong hơn 2.000 năm dưới mọi triều đại. Nếu con số này được ghi vào sử sách, Mao có còn là “đại cứu tinh”, là “mặt trời đỏ nhất” trong lòng nhân dân không? Có còn là lãnh tụ vĩ đại, người mác xít vĩ đại nhất trong thế kỷ 20 không? Chế độ mới do Mao sáng lập con đường mới do ông ta mở ra có còn đại diện cho tương lai của loài người không? 37,55 triệu người chết đói là sự thật lịch sử không gì bác nổi chứng minh rằng lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao là chủ nghĩa xã hội giả hiệu phản động nhất, tàn khốc nhất trong lịch sử loài người. Mỗi khi nghĩ đến điều này, Mao rùng mình ớn lạnh.
Mao phát động Đại cách mạng văn hoá nhằm buộc Lưu Thiếu Kỳ và “phái đi con đường tư bản” các cấp tỉnh, chuyên khu, huyện, xã làm vật hy sinh thay ông ta vác chiếc chảo đen này. Họ là những người trung thành chấp hành đường lối cực tả của Mao (không trung thì đã bị đánh đổ từ lâu) những người tổ chức và lãnh đạo “Đại tiến vọt”, những người chịu trách nhiệm trực tiếp và nhân chứng về 37,55 triệu người chết đói những người bị trăm họ căm giận nhất.
Tại Đại hội 7.000 người, số cán bộ cấp huyện trở lên này không chịu làm vật hy sinh, đòi cùng Mao làm rõ trách nhiệm, phân rõ đúng sai, ép Mao kiểm điểm. Sau hội nghị, Mao phất lá cờ đấu tranh giai cấp, tạo dư luận Đảng biến thành xét lại, đất nước thay mầu đổi sắc. Sau khi chiếm lĩnh điểm cao về chính trị và đạo đức, Mao liền phát động Đại cách mạng văn hoá, đánh đổ phái đi con đường tư bản các cấp trong mấy năm đã thay đổi hết cán bộ lãnh đạo các cấp từ trung ương tới công xã. Năm này qua năm khác, Mao tuyên truyền rằng đường lối tư sản và con đường tư bản chủ nghĩa của Lưu Thiếu Kỳ đã khiến Trung Quốc lỡ dở, làm hại trăm họ, rằng phái đi con đường tư bản đã gây ra nạn đói lớn khiến dân chúng chịu khổ trăm bề, vợ con ly tán, tan cửa nát nhà.
Đại cách mạng văn hoá là con đê chắn sóng của Mao Trạch Đông. Có con đê này, Mao có thể ngồi trên điểm cao an toàn, không những chối phắt trách nhiệm làm hàng chục triệu người chết đói, mà còn tiếp tục đại diện cho đường lối đúng đắn, là đại cữu tinh đưa nhân dân ra khỏi nước sôi lửa bỏng, đánh đổ phái đi con đường tư bản. Ai phủ định Đại cách mạng văn hoá, người đó phá vỡ con đê chắn sóng của Mao, là lôi ông ta xuống nước gánh trách nhiệm về việc làm chết đỏi 37,55 triệu người, vì vậy Mao đặc biệt nhạy cảm với việc bảo vệ thành quả Đại cách mạng văn hoá. Trong bối cảnh tâm lý phức tạp đó, điều kiện hàng đầu để Mao lựa chọn người kế tục là có thể trung thành giữ vững con đê chắn sóng này, còn có năng lực quản lý đất nước không, có được nhân dân ủng hộ không, đều là thứ yếu; rồi kinh tế có thể phát triển không, đời sống nhân dân có được cải thiện không, cũng là những chuyện chẳng quan trọng gì. Mao cho rằng chỉ có Giang Thanh đảm đương nổi trọng trách lịch sử này, Giang biết nắm đấu tranh giai cấp, biết trị những cán bộ nắm sản xuất không tính toán việc bị phỉ báng hay được ca ngợi, thề chết bảo vệ thanh danh cho Mao. Chỉ cần thiết lập được gia đình trị, chỉ cần thời gian cho hai thế hệ - Giang Thanh truyền ngôi cho Mao Viễn Tân - là có thể xoá sạch máu và nước mắt do 37,55 triệu người để lại trên dải đất Trung Hoa bao la này, hoàn toàn viết lại lịch sử hiện đại Trung Quốc.
Mao chơi con bài người kế tục là trò bịp che tai mắt thiên hạ. Người Mao thật sự cần tìm kiếm là đại thần nhiếp chính, tức quân sư hoặc “tham mưu giỏi” giúp Giang cầm quyền.
Kỳ thực, “bạn chiến đấu thân thiết” của Mao là Giang Thanh. Trong phong trào phê truyện “Thuỷ Hử”, Mao cho thấy cách nhìn nhận chân thực của ông ta đối với Giang Thanh, biểu dương Giang trước các thành viên Bộ Chính trị, khẳng định đầy đủ về chính trị. Mao nói Giang tính đấu tranh mạnh, lập trường giai cấp kiên định, không biết giở trò hai mặt, nhưng không hiểu sách lược, không biết đoàn kết mọi người, nên bị thiệt thòi. Nếu bên cạnh cớ một tham mưu giỏi hỗ trợ, Giang có thể cầm cờ lớn. “Tôi biết rõ phái ngoan cố (chỉ Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình) phản đối Giang Thanh, phản đối tôi sử dụng Giang Thanh”.
Giang Thanh muốn làm Nữ hoàng là việc mọi người đều biết, thậm chí sau khi Mao chết, đã có chuyện các tỉnh đua nhau gửi thư ủng hộ Giang Thanh làm Chủ tịch Đảng. Trung Quốc suýt nữa quay lại xã hội phong kiến. Những năm cuối đời, Mao mắc nhiều chứng bệnh, chân phù, đi lại khó khăn, bệnh tim ngày càng nặng, mắt gần như bị loà, nhưng ông ta van nắm chặt quyền lực, mọi việc lớn vẫn phải do Mao quyết định cuối cùng. Mao chỉ tin người nhà. Trước khi vào Trung Nam Hải, Mao Viễn Tân là Bí thư Tỉnh uỷ Liêu Ninh, Chính uỷ Đại quân khu Thẩm Dương. Từ 10-10-1975, Mao Viễn Tân được cử làm “liên lạc viên” cho Mao. Bộ Chính trị họp, Mao Viễn Tân ngồi trên ghế Chủ tịch truyền đạt “khẩu dụ” của Mao. Y coi các uỷ viên Bộ chính trị như cấp dưới, đã có lần y nói: “Tôi thuận miệng nói vài câu, đủ để bọn họ học tập mấy tháng ròng”.
Ngày 2-11-1975, Viễn Tân nói với Mao Trạch Đông:
- Cháu thấy thái độ của Đặng Tiểu Bình đối với Đại cách mạng văn hoá rất không bình thường. Đường lối, phương châm từ khi Đặng chủ trì công tác Trung ương năm 1975 hoàn toàn đối lập với đường lôi, phương châm của Chủ tịch. Bất đồng cơ bản là: Khẳng định hay phủ định Đại cách mạng văn hoá? Trọng điểm công tác là đấu tranh giai cấp, đấu tranh đường lối, hay phát triển kinh tế quốc dân? Bên ngoài lo ngại Trung ương sẽ thay đổi.
Mấy câu trên đã chạm đến sợi dây thần kinh nhạy cảm nhất của Mao. Nếu để Đặng Tiểu Bình nắm quyền, liệu sau này ông ta có lật án Đại cách mạng văn hoá hay không?
Phải tìm hiểu rõ vấn đề này. Mao bảo Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên cùng Viễn Tân gặp Đặng, và dặn cháu:
- Nói hết ý kiến của anh, đừng úp mở gì cả, xem ông ta nói gì.
Quả nhiên Đặng nêu ý kiến khác. Về việc không phê phán đường lối xét lại trong 17 năm (trước Đại cách mạng văn hoá), Đặng giải thích:
- Không thể nói rằng Trung ương Đảng do Mao Chủ tịch đứng đầu thực hiện chủ nghĩa xét lại.
Về công tác của mình từ khi được phục hồi đến nay, Đặng nói:
- Bình luận về tình hình cả nước sau khi có văn kiện số 9, quan điểm của tôi khác với đồng chí Viễn Tân. Thực tiễn có thể chứng minh tình hình tốt lên hay xấu đi.
Ngây 20-11. Mao chỉ thị Vương Hồng Văn chủ trì Hội nghị Bộ chính trị thảo luận vấn đề đánh giá Đại cách mạng văn hoá. Mao gợi ý để Đặng Tiểu Bình chủ trì soạn thảo nghị quyết khẳng định Đại cách mạng văn hoá, đánh giá chung là 7 phần thành tích, 3 phần sai lầm. Chỉ cần đáp ứng điều này, Đặng sẽ có cơ sở chính trị để hợp tác với Giang Thanh. Mao vẫn chưa từ bỏ ý định để “Giang giám quốc, Đặng cầm quyền”.
Đây là một thử thách lớn đối với Đặng, chỉ cần đáp ứng điều kiện trên, ông sẽ được quyền cao chức trọng, dưới một người và trên vạn người. Nhớ những ngày bị lưu đày ở Giang Tây, dùng dầu hoả tẩy rửa những linh kiện két bẩn, trông nom mẹ già, chăm sóc đứa con bị liệt, kinh luân đầy bụng mà cứu nước vô phương, được trở lại làm việc chẳng dễ dàng gl, những chính khách thường dễ dàng khuất phục.
Nhưng Đặng thuộc chính khách lớn, nhìn xa hơn, nghĩ sâu hơn. Đặng hiểu nếu ông không phủ định Đại cách mạng văn hoá, thì người khác sẽ phủ định, con cháu đời sau sẽ phủ định; cuối cùng phải nói rõ với nhân dân món nợ lịch sử lớn 3 năm Đại tiến vọt làm mấy chục triệu người chết đói, không thể một người che nổi tai mắt thiên hạ. Đặng quyết tâm dù bị đánh đổ lần thứ ba cũng không tiếp nhận điều kiện của Mao. Ông trả lời rất nhẹ nhàng, đại ý mình là người bị đánh đổ trong Đại cách mạng văn hoá, hoàn toàn không tham gia, không biết “bố trí chiến lược” của Mao, nên không thể hồ đồ đứng ra ca ngợi Đại cách mạng văn hoá.
Nghe Viễn Tân báo cáo, Mao rất thất vọng về Đặng, quyết tâm phát động “phản kích làn gió lật án hữu khuynh”.
Nằm trong bệnh viện. Chu Ân Lai lo ngại không biết Đặng có đứng vững nổi trước trận cuồng phong này không. Ông mời Đặng vào, quan tâm và trịnh trọng hỏi: “Thái độ liệu có thay đổi không?” Đặng trả lời rõ ràng: “Vĩnh viễn không”. Chu vui mừng: “Vậy tôi yên tâm rồi”.
Đây là lời thề chính trị giữa hai người, bất chấp vinh nhục và tính mạng bản thân. Ý nghĩa câu hỏi của Chu là: Liệu ông có thay đổi thái độ, chấp nhận điều kiện của Mao, làm “đại thần phụ chính” không? Câu trả lời của Đặng là: Thà bị đánh đổ lần thứ 2, cũng không phụ tá cho Giang Thanh lên ngôi Chủ tịch Đảng.
Hạ tuần tháng 12, Diệp Kiếm Anh vào bệnh viện thăm Chu. Chu nắm chặt tay ông dặn dò:
- Phải chú ý phương pháp đấu tranh, không thể để quyền lực rơi vào tay “lũ bốn tên”.
26-12-1975, Khang Sinh qua đời. Trước khi chết, Khanh đã tố cáo với Mao việc Giang Thanh, Trương Xuân Kiều từng là kẻ phản bội. Mao lờ đi.
Tháng 12-1975, Bộ Chính trị liên tục họp dưới sự chủ trì của Đặng Tiểu Bình để phê phán Đặng. “Lũ bốn tên” khí thế hung hăng, lời lẽ gay gắt, phủ định sạch trơn công tác chỉnh đốn trong 9 tháng qua. Những người khác phụ hoạ. Đặng lặng lẽ nghe, mọi người nói hết, ông tuyên bố nghỉ họp.
Ngày 20-12-1975, kiểm điểm trước Bộ Chính trị, Đặng nêu lên những việc đã làm, và nói ông cảm thấy ngạc nhiên khi một số người phương châm và phương pháp đó. Ngày 20-1-1976, Đặng gửi thư cho Mao, xin thôi trách nhiệm chủ trì công việc hàng ngày của Trung ương. Cuối tháng 1-1976, Mao cử Hoa Quốc Phong làm quyền Thủ tướng, chủ trì công việc hàng ngày của Trung ương.
Mao Viễn Tân cực lực phản đối, cho rằng Hoa năng lực quá kém, chủ trì một cuộc họp cũng ăn không nên đọi, nói không nên lời. Mao đập bàn: “Ta cần người không có năng lực như thế”. Mao không tìm đâu ra “Tiêu Hà” nữa, Mao thấy rõ Hoa không có năng lực, không bè phái, không có dã tâm, hội đủ “ba không” ấy, sau khi Mao chết. Hoa chỉ có thể trao quyền cho Giang Thanh. Mao còn cưỡng bức Diệp Kiếm Anh “nghỉ ốm”, để Trần Tích Liên chủ trì công việc hàng ngày của Quân uỷ Trung ương. Từ đó, Mao cho Đặng chuyên quản công tác đối ngoại, Mao nhẹ tay như vậy, vì cho đến phút cuối cùng, ông ta vẫn chưa từ bỏ ý định lôi kéo Đặng, vì biết rõ sau khi ông ta qua đời, chỉ có Đặng giữ được cho đất nước này khỏi rối loạn. Sau khi Chu từ trần, Mao yêu cầu Bộ Chính trị thảo luận nhân sự Thủ tướng. Hội nghị nêu ba người: Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Trương Xuân Kiều. Hội nghị còn một việc quan trọng là bầu Giang Thanh làm Phó Chủ tịch Đảng, theo đề nghị của Uông Đông Hưng, được Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Ngô Quế Hiến phụ hoạ.
Khi thảo luận vấn đề này, Diệp Kiếm Anh, Chu Đức bỏ về, Lý Tiên Niệm không tỏ thái độ. Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn, Trần Tích Liên, Ngô Đức, Kỷ Đăng Khuê đề nghị thỉnh thị Mao. Mao chọn Hoa Quốc Phong làm Thủ tướng kiêm Phó Chủ tịch Đảng. xoá tên ba người Lý, Trương, Giang. Rồi Mao gọi Vương Hồng Văn, Uông Đông Hưng, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên đến hỏi:
- Ai đề cử Giang Thanh làm Phó Chủ tịch Đảng? Xem ra việc ấy không chân thành. Ai đề cử, người ấy làm hại Giang. Các người muốn ủng hộ Giang, phải chờ sau khi ta chết.
Ngày 25-2, Hoa Quốc Phong triệu tập lãnh đạo các tỉnh và thành phố, các bộ và Uỷ ban, các đại quân khu, kêu gọi phê phán đường lối xét lại của Đặng.
Ngày 25-3, Giang Thanh tự ý triệu tập cuộc họp những người lãnh đạo 12 tỉnh và thành phố, gọi Đặng Tiểu Bình là “bậc thầy phản cách mạng”, “đại Hán gian”, “đại diện cho giai cấp tư sản mại bản và địa chủ”. Giang nói:
- Có người nói tôi là Võ Tắc Thiên. Có người gọi tôi là Lã Hậu. Tôi cũng cảm thấy vô cùng vinh hạnh. Lã Hậu là Hoàng đế không đội vương miện, quyền lực thực tế nằm trong tay bà. Phỉ báng Lã Hậu, phỉ báng tôi, là nhằm phỉ báng Mao Chủ tịch!
Do tác động của cuộc “phê Đặng, phản kích làn gió lật án hữu khuynh”, cục diện xã hội ổn định, kinh tế phát triển vừa xuất hiện qua cuộc chỉnh đốn toàn diện từ đầu năm 1975 đã bị phá hoại, nhiều chính sách và biện pháp đúng đắn đề ra và thực hiện trong công cuộc chỉnh đốn bị xoá bỏ và phê phán, một số kẻ cầm đầu phái tạo phản và phần từ cốt cán vũ đấu bị cách chức hoặc thuyên chuyển lại quay về, ngọn lửa bè phái và vũ đấu lại bùng lên, nhiều nơi xã hội lại rối loạn, nhiều xí nghiệp không hoàn thành nhiệm vụ, nhà máy ngừng sản xuất, thậm chí không trả nổi tiền lương cho công nhân, một số trục đường sắt tê liệt, giao thông tắc nghẽn, xe lửa chậm giờ, vật tư ứ đọng, cả nước lại rơi vào tình trạng rất rối ren.
Sau sự kiện Thiên An Môn, một số nhà lãnh đạo kiên quyết chấp hành phương châm chỉnh đốn toàn diện như Vạn Lý, Hồ Diệu Bang bị cách chức, bị đấu tố, Bộ trưởng Giáo dục Chu Vinh Hâm bị bức hại cho đến chết trong cuộc phê đấu ngày 12-4-1976. Mức độ Giang Thanh thù địch Đặng Tiểu Bình vượt xa mức độ mụ ta thù địch Đào Chú. Để phòng ngừa “lũ bốn tên” xúi giục phái tạo phản hãm hại Đặng, ngày 7-4, Mao chỉ thị Uông Đông Hưng di chuyển vợ chồng Đặng đến một nơi ở bí mật, bảo vệ nghiêm ngặt. Mao quan tâm Đặng như vậy không phải do nhà đại độc tài này bỗng trở nên lương thiện. Mao sẵn sàng mượn bàn tay phái tạo phản giết Đặng, nếu việc đó có thể giúp ổn định tình hình, đưa Giang Thmh lên ngôi báu. Phong trào “5-4” mang tính toàn quốc, Mao không biết giải tán quần chúng kháng nghị khỏi Thiên An Môn rồi tình hình sẽ phát triển ra sao. Nếu cả nước đại loạn, “lũ bốn tên” không giữ nổi thế trận, lại phải mời Đặng ra ổn định tình hình. Qua việc chỉnh đốn cục diện rối ren của Đại cách mạng văn hoá sau khi trở lại làm việc, uy danh của Đặng đã chấn động cả nước. Đặng lại có cơ sở vững chắc trong quân đội. Mao thừa nhận Đặng có cơ sở xã hội, được quân đội bảo vệ. Đó là lý do Mao không dám đẩy Đặng vào chỗ chết.
Sau sự kiện Thiên An Môn, Mao bị một đòn nặng nề về tinh thần, sức khỏe ngày càng giảm, những ngày còn lại không nhiều, buộc phải nói rõ những việc hậu sự, không còn vòng vo được nữa. Trong hồi ức, Diêu Văn Nguyên tiết lộ: Mao từng nhiều lần hỏi ý kiến các uỷ viên Bộ chính trị về danh sách Ban lãnh đạo sau Mao:
Chủ tịch Đảng: Giang Thanh;
Thủ tướng: Hoa Quốc Phong;
Chủ tịch Quốc hội: Vương Hồng Văn hoặc Mao Viễn Tân;
Chủ tịch Quân uỷ Trung ương: Trần Tích Liên.
Theo tư liệu ghi chép của Mao Viễn Tân và Trương Ngọc Phượng, ngày 15-7-1976, Mao Trạch Đông gặp Mao Viễn Tân, Hoa Quốc Phong, Giang Thanh, Uông Đông Hưng, Trương Ngọc Phượng, đưa ra danh sách Thường vụ Bộ Chính trị sau Mao, theo trình tự: Mao Viễn Tân, Hoa Quốc Phong, Giang Thanh, Trần Tích Liên, Kỷ Đăng Khuê, Uông Đông Hưng, Trương Ngọc Phượng.
Giang Thanh yêu cầu Mao đọc lại một lần nữa, rồi hỏi:
- Còn Vương Hồng Vãn và Trương Xuân Kiều?
Mao chỉ Giang Thanh, nói:
- Cô ấu trĩ quá.
Rồi Mao chém tay về hai phía tả, hữu:
- Các lão soái, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều đều không vào Thường vụ Bộ chính trị!
Mao đưa ra đanh sách này, không cho Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều vào Thường vụ Bộ chính trị, rõ ràng muốn chia cắt “lũ bốn tên”, làm yếu thế lực của Giang Thanh, để Giang phụ tá Viễn Tân kế vị. Giang Thanh có dã tâm, có chủ kiến, không nghe lời Mao, kiên trì muốn làm Nữ hoàng.
Ngày 1-8, phát biểu tại lễ bế mạc Hội nghị công tác kế hoạch toàn quốc, Giang Thanh lớn tiếng chửi Vạn Lý, chỉ trích Lý Tiên Niệm, điều khiển mọi người kinh ngạc là Giang công khai điểm tên phê bình Hoa Quốc Phong, nói Hoa chạy theo Đặng. Như vậy là cho toàn đảng thấy một tín hiệu: Vị trí của Giang cao hơn Hoa.
Sau khi “lũ bốn tên” bị bắt, Ban chuyên án, thu được bản danh sách lãnh đạo Trung ương theo dự kiến của Giang Thanh:
Chủ tịch Đảng: Giang Thanh
Phó Chủ tịch Đảng: Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Tôn Ngọc Quốc, Mao Viễn Tân
Thường vụ Bộ chính trị: ngoài 6 người trên, thêm: Tạ Tĩnh Nghi, Trương Thu Kiều, Vương Tú Trân.
Chủ tịch Quốc hội:Vương Hồng Văn
Thủ tướng: Trương Xuân Kiều
Giang Thanh hoàn toàn không tôn trọng ý kiến của Mao, gạt Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên ra khỏi hạt nhân lãnh đạo, buộc họ ra tay trước.
♦ ♦ ♦
Chương 39
Mao chết, Giang tù
0 giờ 10 phút ngày 9-9-1976, Mao Trạch Đông qua đời.
Tang lễ được tổ chức siêu trọng thể. Trong 7 ngày quốc tang, 30 vạn quần chúng đến viếng. Ngày 18-9, một triệu người dự lễ truy điệu trên quảng trường Thiên An Môn.
Tình cảm của đông đảo quần chúng dự lễ tang thật phức tạp. Một số người vẫn rất mê tín Mao, cảnh họ chùi nước mắt là chân thành. Đại đa số kính sợ hơn mến yêu, song kính sợ không phải để chúc phúc, mà để tránh tai hoạ. Lớp thanh niên học sinh, những tiểu tướng Hồng vệ binh sùng bái Mao nhất trong thời kỳ đầu Đại cách mạng văn hoá từng lục soát đánh đấm từ Nam lên Bắc, đập phá, giết chóc từ Đông sang Tây, giúp Mao đánh đổ hàng loạt kẻ thù chính trị, được hứa hẹn làm người kế tục cách mạng, cuối cùng bị đưa về vùng núi và nông thôn đề bần nông và trung nông dưới “giáo dục lại”. Những thanh niên này lòng đầy phẫn uất bị lợi dụng, bị lừa bịp, sự kiện Thiên An Môn 5-4 chứng minh họ đã thức tỉnh. Lễ truy điệu kết thúc, trên đường về, phần lớn mọi người cảm thấy lòng nhẹ nhõm, như vừa tham gia diễu hành mừng quốc khánh, khác hắn tình cảm lúc Chu Ân Lai từ trần.
Đông đảo cán bộ trung cao cấp theo Mao cả đời bắt đầu thức tỉnh. Đổng Thiết Thành, Chính uỷ một đơn vị thuộc Học viện quân sự, cấp bậc tương đương Quân đoàn trưởng, nói với người viết cuốn sách này:
- Các đồng chí trong Đảng mong Mao Chủ tịch đi sớm một chút, ông không chết, đất nước không có hy vọng. Nếu lũ bốn tên lên cầm quyền, chúng tôi sẵn sàng lên núi tiến hành chiến tranh du kích.
Một ông già ngoài 60 tuổi “ba đời bần nồng” ở huyện Hợp Giang nghe tin Mao chết đã bình thản nói: “Mao Trạch Đông lẽ ra phải chết từ lâu rồi”.
Sắp xếp chuyển giao quyền lực kiểu gia đình trị khiến Mao để lòi chiếc đuôi dài phong kiến, những lý luận của Mao như phòng, chống xét lại, ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản… đều trở thành dối trá, bịp bợm. Những vòng hào quang sáng chói trên đầu Mao như mặt trời đỏ nhất, người mác xít vĩ đại nhất, đại cứu tinh của nhân dân, lãnh tụ vĩ đại bỗng trở nên ảm đạm. Ban lãnh đạo hùng mạnh với đội ngũ nhân tài kinh tế hình thành từ Đại hội 8 bỗng hỏng cả, các thành viên Bộ Chính trị và Ban bí thư đều biến thành xét lại trên 70% uý viên Trung ương bị đánh đổ. Chỉ có vợ và cháu Mao mới là nhà cách mạng vô sản đủ tư cách kế tục Mao. Đó là mục đích 10 năm Đại cách mạng văn hoá đấu đi đất lại cần đạt được. Sau khi thấy rõ tất cả, mọi người thất vọng, lắc đầu. Toàn đảng, toàn quân, toàn dân không thể chấp nhận kết cục đó.
Lễ truy điệu vừa kết thúc, cuộc đấu tranh quyền lực gay gắt đã bắt đầu.
Về người kế tục, Mao để lại ba danh sách. Danh sách đầu tiên xác định rõ Giang Thanh là Chủ tịch Đảng. Hai danh sách sau, đưa Mao Viễn Tân lên vị trí số 1, Giang Thanh xuống vị trí số 3. Rốt cuộc ai đứng đầu? Nội bộ phe Giang Thanh tranh chấp. Việc này đòi hỏi Phó Chủ tịch thứ nhất Hoa Quốc Phong triệu tập Hội nghị Bộ chính trị xác định, Giang Thanh không thể lên ngôi Nữ hoàng ngay sau khi “Tiên vương” băng hà. Hoa Quốc Phong vẫn chủ trì công tác trung ương. Được phái nguyên lão đứng đầu là Diệp Kiếm Anh ủng hộ, tối 6-10-1976, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng đứng ra bí mật bắt Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Mao Viễn Tân, triệt để đập tan âm mưu của Mao Trạch Đông phục hồi chủ nghĩa phong kiến, thực hiện gia đình trị. “Lũ bốn tên” bị bắt đánh dấu Đại cách mạng văn hoá hoàn toàn thất bại, cũng đánh dấu chấm dứt thời đại Mao Trạch Đông.
Hội nghị Trung ương 3 khoá 10 họp từ 16 đến 21-7-1977 ra nghị quyết tước đảng tịch và mọi chức vụ trong và ngoài đảng của Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên.
Ngày 17-3-1980, Ban Bí thư thảo luận vấn đề xét xử tập đoàn Lâm Bưu và tập đoàn Giang Thanh, xác định 16 tội phạm chủ yếu, trong đó 6 người đã chết (Lâm Bưu, Khang Sinh, Tạ Phú Trị, Diệp Quần, Lâm Lập Quả, Chu Vũ Trì) chỉ khởi tố, không xét xử. Mười tội phạm chủ yếu đưa ra xét xử là Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, Trần Bá Đạt, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác, Giang Đằng Giao.
Hội nghị quyết định thành lập Ban chỉ đạo xét xử hai vụ án này, do Bành Chân làm Chủ nhiệm.
Cuối tháng 3-1980, trong cuộc họp Ban Bí thư, Bành Chân nêu vấn đề: Lâm Bưu, “lũ bốn tên” phạm tội và Đảng mắc sai lầm là hai việc tính chất hoàn toàn khác nhau, không thể xét xử sai lầm của Đảng. Như vậy có nghĩa là do nhu cầu chính trị, ngọn cờ Mao Trạch Đông không thể đổ, không thể bỏ, nhưng lại phải để hàng chục triệu người bị bức hại và nhân dân Trung Quốc trút bỏ được những oán hận suốt 10 năm trời, quét sạch uy tín của Mao, để từ nay nó không còn khả nàng cản trở công cuộc cải cách mở cứa và tác động đến đường lối, chính sách của Đảng nữa. Để đạt mục đích này, biện pháp hay nhất là xét xử Giang Thanh, để Giang nhận tội thay Mao. Ba giờ chiều 20-11-1980, tại số 7 đường Chính Nghĩa, Bắc Kinh, phiên toà đặc biệt Toà án nhân dân tối cao bắt đầu xét xử vụ án tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, Giang Thanh. Trong 880 người ngồi trên ghế dự thính, có các bà Vương Quang Mỹ - phu nhân Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Phố An Tu - phu nhân Nguyên soái Bành Đức Hoài, Tiết Minh - phu nhân nguyên soái Hạ Long, Hách Trì Bình - phu nhân đại tướng La Thụy Khanh. Quyết định khởi tố dài hơn 2 vạn chữ do Chánh án và Phó Chánh án luân phiên đọc nêu lên 48 tội của hai tập đoàn Lâm Bưu, Giang Thanh. Sau đó, toà án tách ra, thẩm vấn riêng từng tập đoàn một.
Trong phiên thẩm vấn sáng 3-12, Giang Thanh nói ra một số việc khiến công chúng sửng sốt, trong đó quan trọng nhất là: “Tôi là con chó của Chủ tịch, Chủ tịch bảo cắn ai, tôi cắn người đó”. Giang còn nói:
- Việc gì các vị cũng đổ lên đầu tôi. Trời đất ơi, hình như tôi là người khổng lồ ba đầu sáu tay đã làm nên kỳ tích. Tôi chỉ là một người lãnh đạo của Đảng, tôi đứng về phía Mao Trạch Đông! Bắt tôi, xét xử tôi, là phỉ báng Chủ tịch Mao Trạch Đông!
Chỉ vài lời đó đã đập tan câu chuyện thần thoại về “chỉ có Hậu, Phi làm hại nước, còn Hoàng thượng vẫn anh minh”, nói rõ lịch sử chân thực của Đại cách mạng văn hoá.
Khi vạch tội Giang Thanh có dã tâm chống Đảng, cướp quyền, công kích Hoa Quốc Phong, người được chỉ định kế tục Mao, Giang Thanh lớn tiếng, thu hút sự chú ý về phía mình:
- Tôi muốn cho các vị biết một việc, câu “đồng chí làm việc tôi yên tâm” Mao Chủ tịch viết cho Hoa Quốc Phong tối hôm đó không phải là toàn bộ nội dung Mao viết cho Hoa, ít nhất còn thiếu 6 chữ “có vấn đề, hỏi Giang Thanh”.
Mấy câu trên của Giang khiến phiên toà đại loạn. Giang cười nhạt:
- Ta bất chấp phép nước, đạo trời ư?
Trong những hồi chuông dồn dập. Giang một lần nữa bị lôi ra khỏi phòng xử án, nhưng trên những hàng ghế dự thính, mọi người vỗ tay rầm rộ, đây là những lời khen chân tình, bởi Giang Thanh đã vạch ra một sự thật quan trọng nhất: Người kế tục mà Mao chỉ định là Giang, chứ không phải Hoa Quốc Phong: Hoa chỉ là viên cận thần có việc cần thỉnh thị Nữ hoàng.
Hoa làm việc Mao yên tâm, nhưng không phải Hoa muốn làm gì thì làm, mà phải thỉnh thị Giang, làm theo chỉ thị của Giang.
“Quyết định khởi tố” đưa ra bản “Kỷ yếu cuộc toạ đàm về công tác văn nghệ trong quân đội do đồng chí Lâm Bưu uỷ thác đồng chí Giang Thanh triệu tập” làm bằng chứng câu kết giữa Lâm Bưu và Giang Thanh, có vẻ như Mao hoàn toàn không biết việc này. Sự thật là Mao đã ba lần duyệt văn bản trên, tự tay sửa 11 chỗ, lại thêm 6 chữ “đồng chí Lâm Bưu uỷ thác cho thêm sức nặng.
“Quyết định khởi tố” vạch tội Giang Thanh câu kết với Khang Sinh hãm hại các uỷ viên Trung ương khoá 8. Thật ra đó là chủ trương của Mao, Giang Thanh chỉ là người chấp hành. Nói Giang đánh đổ 123 uỷ viên Trung ương trái với ý muốn của Mao, liệu có thể như thế được không?
Mao Trạch Đông những năm cuối đời tâm địa tối tăm, giả dối, xảo trá, vừa không từ bất cứ việc làm xấu xa lào, lại muốn để lại tiếng thơm muôn thuở. Các Hoàng đế phong kiến muốn truyền ngôi, cuộc đấu tranh phế lập thường dẫn đến xung đột đổ máu, nhưng nó chỉ giới hạn trong phạm vi cung đình, chẳng liên quan gì đến trăm họ. Để phế truất Lưu Thiếu Kỳ, lập Giang Thanh hoặc Mao Viễn Tân, Mao đã làm cho sự việc còn phức tạp hơn thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta muốn thực hiện đế chế dưới danh nghĩa cách mạng, quả thật không nói ra được, mà nói ra cũng danh không chính, ngôn không thuận. Do đó, ông ta dùng hàng tràng lý luận cách mạng, “bố trí chiến lược vĩ đại” lần này đến lần khác, các phong trào chính trị triền miên, các âm mưu quỷ kế nối tiếp, giấu kín ý đồ thật sự của mình, làm cho toàn đảng, toàn quân, toàn dân xoay như chóng chóng chạy theo ông ta, để đạt mục đích đen tối của mình. Đến nay, chúng ta cần thực sự cầu thị thừa nhận hai tập đoàn chống đảng Lâm Bưu, Giang Thanh đều ra đời và phát triển trong lồng ấp của Mao, nhất là tập đoàn Giang, một bà nàng và mấy anh học trò, không có Mao Trạch Đông đứng sau nâng đỡ làm sao có khả năng phá hoại toàn đảng, gây rối loạn trong cả nước? Trước công đường, Giang Thanh nói:
- Các vị nói tập đoàn Lâm Bưu, Giang Thanh là không đúng. Lâm Bưu là một tập đoàn do Lâm Bưu đứng đầu. Trần Bá Đạt, tôi Khang Sinh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn là một tập đoàn; đứng đầu tập đoàn này không phải tôi, mà là Mao Chủ tịch.
Ngồi trên đỉnh kim tự tháp tác oai tác quái, bức hại cán bộ lãnh đạo các cấp, lừa bịp toàn đảng, toàn quân, toàn dân, không chỉ là tứ nhân bang” (lũ bốn tên), mà là “ngũ nhân bang”, do Mao Trạch Đông làm bang chủ.
Qua 2 tháng 5 ngày thẩm lý, ngày 25-1-1981, Toà án tối cao Trung Quốc tuyên án: Giang Thanh và Trương Xuân Kiều tử hình, hoãn chấp hành án 2 năm, tước đoạt quyền lợi chính trị suốt đời, Vương Hồng Văn tù chung thân, tước đoạt quyền lợi chính trị suốt đời, 7 người khác bị kết án từ 16 đến 20 năm tù, tước đoạt quyền lợi chính trị từ 5 đến 6 năm. Từ đó, Giang bắt đầu cuộc sống ngục tù dài dằng dặc.
Buồng giam Giang Thanh trong nhà tù Tần Thành chính là nơi từng giam giữ Bành Chân. Sắp đến hạn thi hành án, Giang được giảm án xuống tù chung thân. Tháng 11-1989, lãnh đạo Trung Quốc cho phép Giang hưởng chế độ giam lỏng. Văn phòng Trung ương tìm cho bà ta một ngôi nhà nhỏ 2 tầng ở gần Tửu Tiên Kiều, có một hộ lý ở cùng.
Ngày 13-5-1991, Giang Thanh viết lên trang đầu tờ “Nhân dân nhật báo”: “Một ngày đáng kỷ niệm trong lịch sử” Trước đó 25 năm, ngày 13-5-1966, theo đề nghị của Mao, Giang được cử làm người lãnh đạo Tổ cách mạng văn hoá Trung ương, đầy uy lực bước lên vũ đài lịch sử, quyền thế, vinh hiển, hưởng thụ, phong quang vô hạn. Nay bị bắt đã 15 năm, sức khỏe ngày càng giảm, những người ủng hộ trước đây không có chút tin vui nào, bản thân cũng chưa thảy dấu hiệu nào có thể trở lại vũ đài chính trị. Sự khác biệt giữa xưa và nay khiến Giang tức giận, đau thương, tuyệt vọng. 3 giờ 30 phút sáng 14-5, hộ lý phát hiện Giang Thanh đã treo cổ tự sát trong nhà tắm. Buổi chiều, con gái Giang là Lý Nạp đến bệnh viện ký nhận giấy tử vong, và đồng ý không có bất cứ hình thức tang lễ nào. Không một người thân nào của Mao hoặc Giang có mặt khi thi thể Giang được hoả táng 3 ngày sau đó.
Ba năm Đại tiến vọt, cả nước có 37,55 triệu người chết đói tồn thất khoảng 120 tỉ NDT. Mười năm Đại cách mạng văn hoá, theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ngày 13-12-1978, có 20 triệu người chết, 100 triệu người bị đấu tố, lãng phí 800 tỉ NDT.
Cộng thêm thu nhập quốc dân tổn thất 500 tỉ NDT (báo cáo của Lý Tiên Niệm tại Hội nghị kế hoạch toàn quốc 20-12-1977), thì lãng phí, và giảm thu tới 1.300 tỉ NDT. Từ khi thành lập nước Trung Hoa mới năm 1949 đến khi Mao qua đời năm 1976, không có nội chiến, không có thiên tai nghiêm trọng, mà số người chết không bình thường lên tới trên 57,55 triệu, thiệt hại kinh tế 1.420 tỉ NDT, gấp hơn hai lần tổng kim ngạch đầu tư xây dựng cơ bản trong 30 năm.
Theo tờ “Kính báo” Hồng Công, mùa xuân 1992, một cơ quan tuyên truyền ở Bắc Kinh đã tổ chức thăm dò dư luận về 10 nhà lãnh đạo đáng kính nhất ở Trung Quốc, theo phương thức bỏ phiếu.
Kết quả như sau:
1. Chu Ân Lai 100% số phiếu bầu
2. Đặng Tiểu Bình 97%
3. Đặng Dĩnh Siêu 90%
4. Lưu Thiếu Kỳ 88%
5. Chu Đức 84%
6. Vạn Lý 83%
7. Hồ Diệu Bang 80%
8. Dương Thượng Côn 78%
9. Giang Trạch Dân 76%.
10. Bành Chân 72%
Còn Mao Trạch Đông được bao nhiêu? Không đến 2% (hai phần trăm). Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên An Môn, tiếp tục để thi hài Mao ở Nhà kỷ niệm là lạc hậu so vai quần chúng rồi, cần xứ lý thoả đáng để đất nước ta triệt để thoát khỏi bóng đen Mao Trạch Đông.
Cuộc thăm dò dư luận này có một điểm đáng chú ý: quần chúng nhân dân không lẫn lộn giữa Đảng cộng sản và Mao Trạch Đông, không vì uy tín của Mao tụt mạnh mà lung lay niềm tin vào Đảng cộng sản. Mười nhà lãnh đạo đáng kính nhất được lựa chọn đều là đảng viên cộng sản. Điều đó nói với chúng ta một chân lý: chớ gửi gắm tính hợp pháp của Đảng cộng sản cầm quyền vào việc bảo vệ những sai lầm của Mao; sửa đổi những sai lầm của Mao, Đảng cộng sản mới có tính hợp pháp cầm quyền, sửa đổi càng nhiều, tính hợp pháp càng lớn, sửa đổi toàn bộ, trở lại Chủ nghĩa dân chủ mới, đi con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ, là có tính hợp pháp hoàn toàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét