Vận
nước chuyển đổi, sau ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh giữa Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) và Cộng sản Bắc Việt (CSBV) kết thúc! Thay vì hòa hợp, hòa giải dân tộc
để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam phú cường thì ngược lại nhà cầm
quyền Hà Nội say men chiến thắng, tạo dựng lên hằng trăm nhà tù lớn, nhỏ với mỹ
từ cải tạo để giam giữ: Quân, Dân, Cán, Chính. đảng phái, Tôn
giáo, giới trí thức, văn nghệ sĩ... của VNCH còn ở lại trong nước vì nhiều lý
do khác nhau.
Qua
thông cáo của Ủy Ban Quân Quản Saigòn và các địa phương họ đã ra lệnh tập trung
thành phần trên trong thời hạn một tháng để học tập chính sách của đảng CS. Bản
chất CS đã lộ nguyên hình khi họ ấn định thời gian ngắn hạn là Một Tháng để
đánh lừa sự thành tâm của các viên chức và sĩ quan của miền Nam VN muốn thi
hành đúng đắn mọi yêu cầu của kẻ chiến thắng để rồi an phận trở về với công việc
canh tác, sản xuất...
của người
công dân trong thời hậu chiến. Nhưng tiếc thay, họ đã tráo trở lợi dụng cơ hội
nầy để giam giữ những người chiến bại một cách dài hạn không bản án và được mệnh
danh Trại tập trung cải tạo . Thời gian bị tù đã kéo dài ít nhất là 3
năm, còn lại đa số chịu đựng khổ nhục trong vòng 7, 10, 18 hay 20 năm.
Trong
số tù nhân có hơn 30 tướng lãnh và trên 400 đại tá. Căn bản chính yếu để
giam tù được căn cứ theo lý lịch của tù nhân để trả hận thù bằng nhiều hình thức
như bắn bỏ, tra tấn, nằm nhà cùm, giam vào ngục tối để chịu đói lạnh, lao động
khổ sai, bệnh nặng không thuốc men làm cho nhiều người phải vùi thây dưới tầng
địa ngục.
Trong
vòng ba mươi năm nữa, những quân nhân thuộc vào thế hệ trẻ nhất của cả hai bên
đã tham gia vào cuộc chiến 1945-1975 sẽ lần lượt qua đời. Thế hệ kế tiếp
muốn tìm hiểu lịch sử của thời cha ông sẽ phải tìm đọc những tài liệu, sách
báo, phim ảnh có tính cách lịch sử do những người trong cuộc lưu lại.
Là
tù nhân qua hai trại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh, tôi xin ghi lại những chuyện đau
thương nhất mà chính tôi đã từng chứng kiến. Các chuyện được hình thành
không nhằm mục đích gây thêm lòng hận thù và chia rẽ mà chỉ nêu lên những kinh
nghiệm đau thương
trong
lịch sử cận đại để cho các thế hệ tiếp nối học được những kinh nghiệm quý báu hầu
tránh được những lỗi lầm tai hại của những người đi trước vì thiếu đạo đức cũng
như kiến thức trong việc lãnh đạo toàn dân mà chỉ dựa trên lòng đố kỵ và mưu đồ
trả thù khiến cho tương lai của dân tộc Việt mỗi ngày một tuột xuống hàng thấp
nhứt của lịch sử nhân loại.
Cưỡng
chiếm các thành phố miền Nam xong, Ủy ban Quân Quản kêu gọi những
viên chức, sĩ quan của chế độ cũ mang theo tiền ăn 1 tháng để học tập.
Nhưng tại Đà Nẵng vào sáng ngày 5-4-1975 Ủy Ban Quân Quản thông báo: Đúng 8 giờ
sáng hôm nay, tất cả sĩ quan chế độ cũ tập trung đầy đủ, không chậm trễ tại số
2, Đống Đa để nghe nói chuyện tình hình đất nước . Tập đoàn CS đã
dùng nơi nầy như cái nôm để tóm gọn các sĩ quan. Đến tối họ chuyển tất cả
những người đã đến trình diện về Vĩnh Điện, Hội An để giam giữ. Tại
Quảng Nam Đà Nẵng CS đã thiết lập ngay những trại tù mang tên của những địa
danh: Hội An, Vĩnh Điện, Hiếu Đức, Hòa Cầm, Phú Túc, Thượng Đức, An Điềm, Kỳ Sơn,
Tiên Lãnh... là nơi ngục tù của các sĩ quan và viên chức VNCH. Không đưa tù
quan trọng ra Bắc:
Cuối
năm 1975, Trung Ương ra lệnh chuyển ra Bắc tất cả các sĩ quan chế độ cũ trước
đây giữ chức vụ quan trọng đang bị giam giữ tại Kỳ Sơn, Tiên Lãnh và An Điềm.
Viên Tỉnh Ủy Quảng Nam Đà Nẵng liền trình xin Trung Ương giữ tại chỗ
các cải tạo viên qua các lý do sau đây:
-
Quân đội Mỹ đã chọn Đà Nẵng để đổ bộ đầu tiên 2 Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến
vào ngày 8-3-1965.
-
Quảng Nam Đà Nẵng đi đầu trong công tác diệt Mỹ cứu nước.
-
Bộ đội, Công An Quảng Nam Đà Nẵng có đủ khả năng, kinh nghiệm để quản lý cải tạo
tốt, làm ra nhiều của cải vật chất để nuôi tù, cung cấp cho Tỉnh và đóng góp về
Trung Ương. Trung Ương đã chấp thuận đề nghị trên.
Trại
tù cải tạo Kỳ Sơn:
Kỳ
Sơn là tên của một xã thuộc huyện Tam Kỳ gần mỏ vàng Bông Miêu chừng 3 cây số,
có đường trải nhựa và sông Bông Miêu chảy qua, rừng già âm u, thời tiết rất lạnh,
có nhiều thung lũng để canh tác. Kỳ Sơn có 4 trại tù: trại 1, 2, 3 và 4 giam giữ
toàn sĩ quan từ cấp Chuẩn Úy đến cấp Đại Tá, phần đông phục vụ tại Quân Đoàn I.
Các trại trên trực thuộc Tổng Trại 2 do Bộ đội quản lý. Trung tá VC Ngô
Câu làm Tổng trại trưởng. Đến ngày 28-9-1978, Tổng trại chuyển giao tù còn
lại cho Công an quản lý tại hai trại Tiên Lãnh và An Điềm. Sau đây là
những chuyện đau buồn nhất đã xảy ra tại địa ngục
Kỳ
Sơn:
Trung
Tá Lê Đình Ái, Đại Úy Nguyễn Văn Lộc vượt thoát khỏi trại tù KỲ Sơn.
-
Trung Tá Lê Đình Ái, sinh ngày 12-3-1943 tại Huế, khóa 13 Ấp Chiến Lược, Sĩ
quan Trừ bi. Thủ Đức, Quận Trưởng Quận Tiên Phước.
-
Đại Úy Nguyễn Văn Lộc, số quân 58.600.570, sinh tháng 10-1938 tại Định Tường,
Trường Không Quân VN, Phi công Quan sát Sư Đoàn 1 Không Quân. Hai anh Ái và Lộc
bị tù trại 1 Kỳ Sơn. Tuy khác Tổ trong lao động thường gặp nhau trò chuyện, cả
hai đồng tâm muốn trốn trại nên bàn kế hoạch vượt thoát. Móc nối được người
thân cung
cấp cho
giấy tờ. Đúng 9 giờ sáng ngày 20-11-1975 hai người trốn khỏi nơi lao động
gặp nhau tại điểm hẹn rồi tức tốc di chuyển nhanh bằng xe Honda chờ sẵn ra khỏi
khu vực, băng theo đường rừng vượt thoát về hướng Nam. Hay tin tù trốn,
Tổng Trại 2 bủa vây lục kiếm suốt 2 tuần không tìm được. Cuộc vượt thoát hết
sức gian nan. Hai anh biết rất rõ địa thế rừng núi của 2 tỉnh Quảng
Tín và Quảng Ngãi vì thường hành quân trước đây. Bài học mưu sinh thoát hiểm
lúc học sĩ quan được áp dụng để sống còn. Qua 27 ngày len lỏi trong rừng
già khi ra đồng trống hết sức mừng vui nhìn thấy xe chạy ở Quốc Lộ 1
nên bàn nhau ra lộ đón xe đò đi tiếp. Tắm rửa, cạo râu, thay quần áo dân sự
xong điền tên vào giấy tờ, nghĩ lấy lại sức rồi đến cầu Bà Di, Đập Đá Bình Định
đón xe. Khi xe ngừng xui ơi là xui! Lại gặp ngay đoàn xe chở
công an từ Bắc vào công tác trong Nam. Lỡ rồi, hai anh vẫn lên xe tự
nhiên. Phụ xe cho ngồi ghế xếp phía sau. Qua cặp mắt nghi ngờ của
tên công an ngồi cạnh. Đến trạm kiểm soát Cam Ranh tên công an ngồi cạnh
báo nhân viên kiểm soát để xét giấy tờ. Kiểm soát giấy thấy không nghi ngờ
nên tiếp tục cho đi. Hú hồn! Hai anh vui mừng không xiết kể. Về
đến Sài gòn, anh Lộc tìm đường vượt biển. Thật tội nghiệp về sau nghe tin
anh Lộc đã mất tích trên biển cả. Còn anh Ái gia nhập Mặt Trận Quốc Gia Giải
Phóng VN. Đến ngày 27-12-1977 lại bị bắt, tiếp tục ăn cơm tù. Tháng
9-1986 được thả ra rồi tổ chức vượt biển thành công. Tháng 4-1990 cả gia
đình định cư tại Hoa Kỳ. (Tuy cuộc vượt thoát của anh Ái thành công song những
đau thương
tan vỡ
gia đình rồi tù tội từ ngày về lại Saigòn qua câu chuyện dài chính anh Ái kể lại
hết sức thương tâm cho một chiến hữu VNCH đã gãy súng theo vận nước).
*
Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương tự tử sau một năm trong tù! Thiếu Tá Phạm Văn
Lương số quân 54.226-453, sinh vào tháng 11.1934 tại Quảng Trị, xuất thân khóa
4 Cương Quyết Thủ Đức, sau theo học ngành Quân Ỵ Nguyên Bác sĩ Trưởng khu Ngoại
Thương, Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng. Trước 1975, qua hệ thống truyền thông và
báo chí khá đông người Miền Nam biết đến Thiếu Tá Phạm Văn Lương qua các việc
ông đã làm:
-
Mang lựu đạn đến tiền đình Hạ Viện yêu cầu Hạ Viện điều tra làm sáng tỏ việc bắn
chết Y sĩ Đại Úy Hà Thúc Nhơn, người bạn cùng khóa Quân Y, phục vụ tại quân Y
Viện Nguyễn Huệ Nha Trang đã can đảm đứng lên chống bọn tham nhũng giết một sĩ
quan tố tham nhũng tại bãi biển Nha Trang.
-
Thực hiện thành công cuộc giải phẫu lấy đầu đạn M79 ghim trong người quân nhân
Đinh Né.
-
Trách nhiệm tổ chức việc gom tử thi trên đại lô. Kinh Hoàng (mùa hè đỏ lửa
1972) đưa về mai táng, lập bia kỷ niệm tại Quảng Trị.
-
Xây dựng làng Đồng Thạnh tại Hội An, Quảng Nam định cư đồng bào
phía Bắc Quân Khu 1 lánh nạn CS (ngân khoản do Bác sĩ Phan Quang Đán, Quốc Vụ
Khanh, tài trợ).
-
Ngày 29-3-1975, Cộng Quân cưỡng chiếm Đà Nẵng, Bác sĩ Lương cùng một số bác sĩ
khác ở lại nhiệm sơ? Tổng Y Viện Duy Tân cứu chữa đồng bào và thương binh. Cùng
lúc Đài BBC Luân Đôn loan tin Bác sĩ Phạm Văn Lương đã được CS cử làm Thị Trưởng
Đà Nẵng.
-
Ngày 5-4-75, Cộng quân tập trung các Bác sĩ đưa vào giam tại Hội An, trong
số có Bác sĩ Lương, rồi di chuyển đến Tổng Trại 2 Kỳ Sơn, Quảng Tín. Các Bác sĩ
đều bị đưa về Trạm xá Kỳ Sơn làm việc chuyên môn ngoại trừ Bác sĩ Vương Ngọc
Lâm cho đi lao động bởi gia đình ông chống Cộng triệt để.
-
Ngày 25-8-75, có thêm Y sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Cơ (gốc Y sĩ Dù) nguyên Chỉ Huy
Trưởng Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế từ trại giam Hiếu Đức chuyển lên Trạm
xá. Qua một năm trong Trạm Xá Tổng Trại 2 tù Kỳ Sơn, Bác sĩ Lương cùng các bác
sĩ khác tận tình cứu chữa các bệnh nhân gồm Bộ đội, tù binh và dân chúng trong
vùng.
-
Chủ Nhật 28-3-1976 bà Đỗ Khánh Niệm lên thăm chồng, trong dịp nầy Bác sĩ Lương
ngồi bên vợ, bà Lương sắp thức ăn mời chồng. Ông không thiết tha việc ăn uống
mà chỉ than cùng vợ: Chắc anh khó về lắm em ơi!!! Có người tố cáo anh cùng Bác
sĩ Phan Quang Đán là CIA... Hai vợ chồng đang bịn rịn dặn dò việc nuôi dạy các
con, bỗng có tiếng la lớn của vệ binh: Hết giờ thăm nuôi, về lại Trạm xá . Bác
sĩ Lương và vợ đứng dậy, nước mắt bà Lương trào ra, chân ông Lương không dỡ lên
được, đàng sau lưng tên vệ binh mang súng AK hối thúc đi về, bà Lương lau nước
mắt nhìn đồng hồ lúc ấy là 12 giờ trưa. Đó là giây phút biệt ly định mệnh của
hai vợ chồng Bác sĩ Phạm Văn Lương. Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một xa
thêm, rồi hình bóng Bác sĩ Lương khuất dần dưới ngọn đồi thăm nuôi trại Kỳ Sơn.
Một tuần sau, vào ngày 3-4-1976, Bác sĩ Lương đã uống nhiều viên thuốc ngủ cùng
10 viên cloroquine làm người ông quay cuồng, lăn lộn. Bằng mọi cách các
bác sĩ tại trạm xá cố gắng cứu chữa nhưng ông Lương báo là đã uống quá nhiều
thuốc nên không thể cứu được. Sau khi thốt lên lời từ biệt mọi người, mắt
ông từ từ nhắm lại.
Tin
Bác sĩ Lương tự tử được loan truyền nhanh chóng trong anh em tù, ngược lại Ban
Chỉ Huy Trại cho biết Bác sĩ Lương chết vì trúng gió! Ít ngày sau, thân nhân
thăm nuôi đưa tin về Đà Nẵng: Bác sĩ Lương đã tự tử chết. Nhận được hung tin,
bà Lương lên Trạm xá khóc lóc đòi biết rõ nguyên nhân cái chết của chồng mình.
Lúc đầu cán bô. Trạm xá cho biết không có chuyện Bác sĩ Lương chết nhưng
bà tiếp tục than khóc và la ầm lên. Thiếu tá VC Đinh Văn Nhất là Trưởng Trại
1 liền tới cho bà biết: Bác sĩ Lương chết vì trúng gió. Viên y sĩ VC nói
thêm là đã chôn cất Bác sĩ Lương cẩn thận.Số ván dự trù để đóng bàn mổ cho Bác
sĩ Lương sử dụng lại được dùng vào việc đóng quan tài cho ông. Bà Lương
xin chuyển xác chồng về Đà Nẵng nhưng Trại không chấp thuận.
-
1984, mộ phần Bác sĩ Lương được dời về Hội An, an nghỉ trong nghĩa trang
gia đình người bạn thân.
-
1985 Bà Quả phu. Phạm Văn Lương cùng 7 người con (4 trai, 3 gái)
và các
cháu được thân nhân bảo lãnh sang định cư tại Hoa Kỳ.
*
Trung Tá Võ Vàng bị bắn chết như thế nào? Trung Tá Võ Vàng, số quân
60.211.412, sinh tháng 10 năm 1940 tại Quảng Ngãi, khóa 17 Lê Lai, Trường Võ Bị
Quốc Gia VN. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 21.BĐQ. Quân Sự Vụ Trưởng Trường
Võ Bị Quốc Gia VN. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 5, Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Được
chỉ thị của Ban Chỉ Huy trại 1 Kỳ Sơn, hai Vệ binh Đinh Văn Hương và Âu Thái
Trương tức Bốn hướng dẫn toán tù binh thuộc nhà 9, khối 2 đi lao động tại khu
Cò Bay, Bông Miêu. Sau khi cắt đặt lao động, hai vệ binh gọi đích
danh anh Võ Vàng đi theo vệ binh Trương cắt đốt về làm chỗi. Độ chừng 15 phút,
một loạt AK nổ dồn lúc ấy là 10 giờ sáng ngày 13 tháng 4 năm 1976. Anh em
tù nghi là vệ binh Trương đã bắn anh Vàng vì ngày hôm trước có sự sắp đặt để
cãi nhau giữa vệ binh nầy và anh Vàng tại khu thăm nuôi. Quả thật liền thấy
tên Trương chạy ra hớt hải la lên: Tên Vàng đá, đạp tôi để giật súng, may phát
hiện kịp nên bắn chết nó rồi. Thật ra đây là một hành động sắp xếp bắn anh Vàng
để trả thù của CS. Trước đây Trung Tá Vàng đã chỉ huy Tiểu Đoàn 21 Biệt Động
Quân tham chiến vào dịp Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Đến năm 1973, anh chỉ
huy Trung Đoàn 5, Sư Đoàn 2, tái chiếm cửa khẩu Sa Huỳnh. Tại hai nơi nầy
đều gây tổn thất nặng cho Cộng Quân thuộc Liên khu 5. Ít ngày sau bà Võ
Vàng nhận được hung tin tức tốc đến trại Kỳ Sơn, tại đây Ban Chỉ Huy trại đã
báo cho Bà biết là chồng bà đã đánh vệ binh, cướp súng nên bị bắn chết. Trại có
trao cho bà 1 biên bản về sự việc xẩy ra trong đó có 5 chữ ký của đại diện trại
và tù, cùng 1 biên bản kiểm kê tư trang. Sau khi Trung Tá Vàng bị bắn chết,
bà quả phu. Võ Vàng nhũ danh Lê Thị Đường, giáo sư trung học tại Quảng
Ngãi, bị nhà trường thông báo cho nghỉ dạy (trước 1975 bà Đường là Hiệu Trưởng
Trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi). Để tránh hậu quả của việc xét lý lịch ba đời
cho các con nên bà cùng 6 con (2 trai, 4 gái) đành liều chết vượt biển qua
Hongkong. Cuối cùng gia đình cố Trung Tá Võ Vàng được may mắn định cư tại Hoa Kỳ
vào tháng 8 năm 1984. Ngôi mộ anh Vàng được cải táng vào năm 1997. Âm
mưu ám hại Trung Tá Võ Vàng đã được nhân chứng sống, Thiếu Tá Phạm Văn Hồng, số
quân 61.203.947, sinh tháng 10 năm 1941 tại Nam Định (cựu SVSQ khóa 20 Nguyễn
Công Trứ Trường Võ Bị Quốc Gia VN, bi. Trung Cộng bắt giữ tại Quảng Châu, sau
cuộc hải chiến với VNCH ngày 20-1-1974 tại quần đảo Hoàng Sa) trình bày rất chi
tiết trong chương trình Huynh Đệ Chi Binh của đài Truyền Hình SBTN do nhà văn
Huy Phương phụ trách vào tháng 4 năm 2008.
*
Trung Tá Nguyễn Văn Tố và Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt thoát chết
trong đêm tối
-
Trung Tá Nguyễn Văn Tố, sinh tháng 5 năm 1930 tại Thừa Thiên. Số
quân 50.201.605,
khóa 2 VBĐP Huế.
+
Tham Mưu Trưởng Tiểu khu Thừa Thiên.
+
Phó Thị Trưởng Thành phố Huế.
+
Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Phú Yên.
+
Trung Tâm Phó Trung Tâm Điều Hợp Bình Định Phát Triển Quân khu
1.
-
Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Công Anh Kiệt sinh tháng 6-1940 tại
Saigon,
số quân 60.701.173, khóa 13 Đệ Nhị Dương Cưu Trường HQNT.
+
Phân cuộc Trưởng Hải Cảng Sâu Tiên Sa Đà Nẵng (con rể ông
Nguyễn
Văn Kiểu, nguyên Đại Sứ VNCH tại Đài Loan, bào huynh cố
Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu).
Vào
lúc 12 giờ 30 một đêm đầu tháng 7-1976 tại Trại 1 Kỳ Sơn, một Vệ Binh mang súng
AK vào nhà 9 gọi anh Nguyễn Văn Tố và sang nhà 6 gọi anh Nguyễn Công Anh Kiệt
đi nhanh ra ngoài rồi dẫn đến phía ngoài vọng gác cổng chính của trại. Nơi đây
có sẵn vệ binh Trương tức (Bốn) tay cầm AK chờ sẵn. Anh Tố và Kiệt
đoán chúng sắp đem mình đi bắn rồi vì trước đây vệ binh Bốn đã được chọn bắn
Trung Tá Võ Vàng vào ngày 13 tháng 4 năm 1976 tại khu Cò Bay Bông Miêu. Sau
khi Bốn nhận 2 anh Tố và Kiệt xong chỉ tới ngồi nơi tảng đá gần đó. Tại
đây anh Tố nói nhỏ với anh Kiệt: Chắc chúng đưa mình ra bờ rào bắn rồi hô hoán
là trốn trại. Sự tù tội chắc còn lâu dài lắm. Thôi chết sớm khỏe xác
mình, vợ con bớt khổ trong việc lặn lội lên rừng sâu, núi thẳm thăm nuôi. Qua
lời anh Tố, anh Kiệt thở dài!!! Thời gian lo lắng lần đến 2 giờ 30 sáng, thấy
đèn pile lập lòe sáng rồi lần hồi một cán bộ từ Bộ Chỉ Huy xuống nói nhỏ gì với
tên Bốn xong về lại. Lúc nầy hai anh Tố và Kiệt rất hồi hộp, chắc chúng sắp
đem mình đi bắn rồi. Hai anh thầm cầu nguyện theo tôn giáo của mỗi
người. Năm phút sau, tên Bốn gọi anh Tố và Kiệt đến rồi bảo hai anh về lại nhà
ngủ để mai tiếp tục laođộng. Suốt đêm nầy hai anh không sao ngủ được và cứ
lo lắng mãi, kể từ sáng hôm sau hai anh Tố và Kiệt luôn được Quản giáo theo dõi
sát cho đến khi chuyển qua Trại 4 rồi đến Trại Tiên Lãnh. Đến ngày 28
tháng 9 năm 1978, toàn bộ tù nhân Kỳ Sơn được chuyển đến Trại Tiên Lãnh. Ba
ngày sau khi đến Tiên Lãnh, hai anh Tố và Kiệt liền vào nhà cùm cùng với một số
sĩ quan khác chúng cho là nguy hiểm. Hai tháng sau khi đến Tiên Lãnh, một
buổi chiều qua âm thanh rùng rợn của 2 tiếng kẻng, tất cả mọi tù nhân vào phòng
đóng cửa sắt. Công An trang bị vũ khí rải canh giữ từng phòng một.
Các cửa nhà cùm được mở ra, khoảng 100 tù nhân từ các phòng biệt giam được đưa
ra ngoài trói lại bằng giây dù cột vào nhau với 5 người một do một Công An canh
giữ rồi chuyển đến Trại Đồng Mộ, Nhà Trắng để giam tiếp, trong số tù trên có
hai anh Tố và Kiệt bị giam cho đến 1983. Đến 1988, cả hai anh Tố và Kiệt mới
nhận giấy ra trại sum họp gia đình.Ngày 24 tháng 6 năm 1992, anh Tố cùng vợ và
4 người con được các con cháu cùng đông thân hữu vui mừng chào đón tại phi trường Los
Angeles theo diện H.Ọ 10. Anh Kiệt đã sang Hoa Kỳ và định cư tại Houston Texas.
Chắc chắn hai anh Tố và Kiệt chỉ quên đêm tối ấy tại Trại 1 Kỳ Sơn khi nào được
thuyên chuyển về Vùng 5 Chiến Thuật (thế giới bên kia, hy vọng bên ấy
không có hận thù).
*
Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên trốn trại thành công, thời gian sau bị bắt lại Thiếu
Tá Nguyễn Tâm Miên sinh tháng 1 năm 1946 tại Thừa Thiên, Số quân 66.100.004,
Thiếu Sinh Quân, khóa 20 Nguyễn Công Trứ. Võ Bị Quốc Gia VN. Khối Kế Hoạch, Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 SVSQ Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Tiểu Đoàn
Trưởng.Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Vận nước đổi thay, Thiếu Tá Nguyễn Tâm Miên cũng như
hằng trăm ngàn chiến hữu của mình không thoát khỏi ngục tù khổ sai CS. Chúng
đưa anh vào Trại 1 Tổng Trại 2 Kỳ Sơn Quảng Nam Đà Nẵng. 5 tháng 9 năm 1976:
Sau khi thả một số tù, Trại 1 giải tỏa, số tù còn lại nhập vào Trại 4. Chúng
tôi khoảng 40 người đưa vào Nhà 9, Khối 4. Đa số cấp bậc Trung Tá, về Thiếu
Tá có các anh Nguyễn Tâm Miên, Phạm Văn Hồng, Nguyễn Văn Lai và tôi. Đặc biệt
ít ngày sau có Thiếu Úy Ông Văn Tụng nhập vào! Từ đó chúng tôi rất dè dặt qua
các câu chuyện khi có viên Thiếu Úy nầy!
Những
Chiến hữu xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, Võ Bị Quốc Gia trong tinh thần giúp đỡ
bao bọc khắng khít nhau với các bạn đồng khóa, đồng môn bất cứ hoàn cảnh nào nhất
là trong lao tù CS. Một phần thời gian họ học ở trường lâu dài, hơn nữa với nội
quy, chương trình học được sắp xếp rất ư khoa học để khi tốt nghiệp trở thành
cán bộ có đạo đức, văn võ song toàn. Cùng xuất thân khóa 20 Đà Lạt nên hai Thiếu
Tá Miên và Hồng chơi thân nhau, luôn chia sẻ ngọt bùi, lại có tâm ý trùng hợp
là muốn trốn trại. Đến khi thực hiện trốn trại tiếc thay Thiếu Tá Hồng không
cùng đi được lý do bịnh hoạn kéo dài. Sắp xếp xong với người thân qua chuyến
thăm nuôi trước đó, người nhà đã đưa cho Miên 1 thẻ bầu cử chưa điền tên với đầy
đủ chữ ký, con dấu cùng vài giấy tờ khác. Trước đó 1 ngày, chính Hồng là
người đã điền tên vào chỗ trống lý lịch cho Miên sử dụng trong lúc đi đường. Là
Nhà Trưởng nên việc cắt đặt lao động do chính Miên phụ trách. Một
ngày đầu tháng 9-1977, sau khi phân công anh em đi lao động, Miên liền
lấy cây rựa ra cổng trại báo cáo vệ binh đi đốn củi. Thật nhanh đến điểm hẹn có
người chờ sẵn với xe Honda. Thay xong quần áo dân sự chạy nhanh
vào hướngSaigon. Chiều lại, điểm danh thấy thiếu Miên. Trại báo động,
tìm kiếm thâu đêm, lúc nầy Miên đã thoát ra khỏi khu vực trách nhiệm của Quân
Khu 5 VC. Cuộc vượt thoát thành công, sống tại Saigon ít tháng,
đáng tiếc! Vì lý do nào đó cán bô.Trại tìm được vào tận Saigon bắt
Miên đem về Trại đưa vào nhà cùm. 28 tháng 9 năm 1978: Tất cả tù do Bộ đội
quản lý được chuyển giao Công An Trại Tiên Lãnh trong đó có Miên và
không thoát khỏi cảnh vào phòng biệt giam, qua nhiều năm kế tiếp. Sau nầy nghe
tin Thiếu Tá Miên đã sang Hoa Kỳ qua chương trình H.Ọ
*
Trung Tá Ngô Hoàng, bị bắn tại Kỳ Sơn! Trung Tá Ngô Hoàng, sinh vào tháng
2-1932 tại Thừa Thiên. Số quân 52.200.968, Khóa 10, Trần Bình Trọng, Võ Bị
Đà Lạt.
-
Trưởng Phòng Phản Gián An Ninh Quân Đội Quân Khu 2.
-
Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Phú Yên.
-
Sĩ Quan Thanh Tra Trung Tâm Điều Hợp Bình Định và Phát Triển
Quân
Khu 1.
1977:
Từ Trại 1, Trung Tá Ngô Hoàng, Khối Phó khối 4 chuyển qua Trại 4 Kỳ Sơn. Ông bị
cận thị rất nặng. Sau thời gian dài cùng anh em tù đến Phú Ninh, Tam Kỳ để
khai hoang làm lòng hồ, khi trở về Trại 4 được ít tuần lễ thì xảy ra vu.Thiếu
Tá Nguyễn Tâm
Miên
trốn trại. Hai anh Hoàng và Miên thường ăn cơm chung với nhau.
1978: Vào một ngày đầu năm, khối 4 được lịnh sang Trại 2 để đào sắn. Cơm trưa vừa
xong, vệ binh tên Tư đến bảo Đại Úy Công Binh Nguyễn Đắc Phúc (khối Trưởng) cho
người theo anh ta để đi xem bãi sắn khác để ngày hôm sau đào tiếp.
Anh Phúc hỏi: Tôi đi với cán bộ? Vệ binh Tư lắc đầu và nói:
Anh
ở lại trông coi anh em. Anh cho anh Hoàng, Khối Phó, theo tôi.
Anh Hoàng liền xách cúp đi theo. Vệ binh Tư bảo: rẫy có nhiều gai, anh đem theo rựa
để phát quang tiện hơn. Sau khoảng 20 phút, nghe tiếng nổ của một loạt AK. Anh
em tù nhìn nhau thở dài, ai nấy đều lo lắng, vì thầm nghĩ chắc anh Hoàng bị tên
Tư sát hại. Quả nhiên, vài phút sau tên Tư cầm súng AK chạy ra và hô lớn: - Các
anh ngồi yên tại chỗ, thằng Hoàng lấy rựa chặt tôi định giật súng, may tôi
nhanh tay đỡ kịp, đã bắn nó chết rồi. Lúc nầy anh em tù nhìn khẩu súng của tên
Tư không thấy dấu rựa chặt nơi báng súng. Nhưng đến khi Bộ Chỉ Huy Trại lập
biên bản cần có chữ ký của anh Phúc, đại diện tù, thì khẩu súng trưng bày có dấu
rựa chặt vào báng súng. Liền sau đó, một số anh em tù trong đó có Trung Tá
Lê Văn Thành (số quân 60.211.374, khóa 17, Lê Lai, Đà Lạt) lấy ván tại khu nhà
Trại 2 đóng quan tài chôn anh Ngô Hoàng tại rẫy sắn. Có điều gây chú ý về
con số 4 là con số kỵ đối với Trung Tá Võ Vàng và Trung Tá Ngô Hoàng vì hai vệ
binh sát thủ gây cái chết cho hai anh, một có tên là Trương tư. Bốn và một có
tên là Tư .
Sau
2 cái chết oan nghiệt của anh Vàng và Hoàng, anh em tù Kỳ Sơn hết sức hoang
mang lo lắng nhất là các anh cấp Tá. Người lo nhiều nhất là anh Tố và anh
Kiệt vì khi anh Nguyễn Văn Tố làm Tỉnh Trưởng Phú Yên thì anh Hoàng là Tham Mưu
Trưởng Tiểu Khụ Anh Tố muốn báo tin cho chi. Hoàng biết là anh Hoàng bị bắn rồi,
chôn ở rẫy sắn, cây cối um tùm rất khó tìm. Khổ nỗi vì chị Tố đã đi thăm anh
trong tuần vừa qua, nên anh phải chờ 3 tháng sau, trong lần thăm nuôi kế tiếp,
anh mới nhờ vợ về báo tin cho
chi.
Hoàng biết. Nhận được hung tin, chi. Hoàng cùng gia đình liền đến trại Kỳ Sơn 2
để tìm hiểu cái chết của anh Hoàng và xin bốc mộ chồng. Khi khai quật mộ,
thi thể anh Hoàng chưa bị phân hủy nên phải dùng rượu để tuốt thịt ra đốt tại
chỗ, còn xương thì đem về để mai táng. Cái chết đau thương đầy tủi hận nầy
đã gieo vào lòng chi. Hoàng một nỗi buồn sâu đậm khiến chi. Hoàng phải lâm bịnh
nặng trong một thời gian rất dài.
1992:
Khi lập hồ sơ theo chương trình H.Ọ vì các con đã lớn và có gia đình, không hội
đủ tiêu chuẩn để xuất ngoại nên chị Hoàng đã quyết định cùng ở lại quê nhà với
con cháu. 1994: Từ Hoa Kỳ, anh Tố nhận được thư của chi. Ngô Hoàng nhũ danh
Nguyễn Thị Hương Thủy, nguyên là Y tá của bệnh viện Tuy Hòa trước năm 1975, cho
biết về tình trạng gia đình đang gặp khó khăn. Anh Tố cùng một số anh em cựu tù
Tiên Lãnh đóng góp được 700 Mỹ kim để gửi giúp chi. Hoàng. Chị dùng số
tiền nầy để mở quán cơm chay, rồi chuyển sang bán xì dầu, nhưng tiếc thay công
việc mưu sinh của chị đều bị thất bại và từ đó anh Tố mất liên lạc với chi.
Hoàng. Ngoài những chuyện nêu trên, Tổng Trại 2 Kỳ Sơn còn xảy ra những cái chết
đau lòng khác:
-
Thiếu Tá Lũy (Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn I) chết dưới suối do vệ binh sai bắt
cá, không may bị đạp phải lựu đạn ném cá từ trước chưa nổ.
-
Thiếu Tá Khóa (Phi công phản lực) đói lạnh kiệt sức nằm
chết trong
lùm cây bên bờ sông trong ngày mưa to, gió lớn.
-
Thiếu Tá Bình (TTHL Hòa Cầm) ăn chay trường, quản giáo bắt ăn mặn,
ông tuyệt thực đến chết. Riêng tại Trại 2 Kỳ Sơn có nhiều sĩ quan trốn trại,
nhiều ngày sau mới bị phát hiện, một số đã vượt thoát, số người bị bắt lại bị
chuyển đến trại An Điềm để lãnh án tử hình. Còn nhiều chiến hữu khác đã qua đời
tại các Trại 2, 3, 4 do trốn trại, đau bịnh, đói lạnh... (người viết
không biết rõ chi tiết). Đến ngày 28 tháng 9 năm 1978, số tù còn lại tại Tổng
Trại 2 Kỳ Sơn được Bộ đội chuyển giao cho Công An quản lý tại hai trại Tiên
Lãnh và An Điềm. Trại tù Tiên Lãnh Tiên Lãnh là một xã thuộc huyện Tiên Phước
Quảng Nam, Đà Nẵng. Thời VNCH là xã Phước Lãnh, Quận Tiên Phước, tỉnh Quảng
Tín. Trại tù mang tên Tiên Lãnh nằm cạnh ngã ba sông Tranh, cạnh trại có
đường trải đá. Theo đường tỉnh lộ cách Tam Kỳ 50 cây số. Ngoài trại
chính Tiên Lãnh còn các trại trực thuộc như: Trại Thôn Tư, Thôn Năm, Na Sơn, Đồng
Mộ và Trại Nữ do Công an quản lý. Khác với Trại Kỳ Sơn do Bộ đội quản lý chỉ
giam sĩ quan chế độ cũ. Trại Tiên Lãnh ngoài sĩ quan còn có thành phần Hành
Chánh, đảng phái, văn nghệ sĩ... VNCH, tù hình sự và tù phạm CS. Các nhà
giam xây gạch, cửa sắt, bao bọc bởi nhiều rào kẽm gai kiên cố. Đặc biệt
cán bộ quản lý Trại đều là cán binh, bộ đội từng hoạt động tại liên khu 5 trước
tháng 4-1975. Trước 1954 tại Tiên Phước có nhà tù khét tiếng Liên khu 5 mang
tên nhà lao Tiên Hội. Nhắc đến Tiên Lãnh có biết bao nhiêu điều
cần nói. Xin kể hai trục trặc đau lòng nhất như sau:
*
Trung Tá Nguyễn Văn Bình và Đại Úy Trần Văn Quy trốn trại Tiên Lãnh không thoát
khỏi!
-
Trung Tá Nguyễn Văn Bình, sinh tháng 10-1943 tại Thừa Thiên. Số quân
63.210.574, khóa 19 Nguyễn Trãi, Trường Võ Bị Quốc Gia VN. Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 51, Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
-
Đại Úy Trần Văn Quy, sinh tháng 9-1939 tại Kiến An. Số quân 59.153.270, Sĩ Quan
Thủ Đức. Tiểu Đoàn 39 BĐQ. 28 tháng 9 năm 1978: Từ Trại tù Kỳ Sơn chuyển giao
Công An quản lý tại Trại tù Tiên Lãnh. Sau khi đến Trại chừng 2
tháng, một buổi sáng nhân cơ hội đi vác củi từ xa về Trại. Trung Tá Nguyễn
Văn Bình cùng Đại Úy Trần Văn Quy liền bỏ trốn. Đoàn tù về đến Trại, điểm
danh lại thấy thiếu 2 người tù. Ban Chỉ Huy Trại tức tốc báo động lùng kiếm
suốt một tuần không thấy. Trại báo các Buôn Thượng trong khu vực để theo dõi.
Qua tuần lễ thứ 2 không rõ hai anh Bình và Quy qua mưu sinh thoát hiểm thế nào
không may bị địch phát hiện. Anh Bình bị bắn chết còn anh Quy bị bắt
sống.
Thi hài anh Bình đưa về chôn bên vệ đường mòn nơi anh em tù thường đi lao động
ngang qua. Anh Quy đưa vào nhà cùm sau một ngày trói ngay nơi cổng để dằn
mặt anh em tù. Nhân dịp nầy người viết xin ghi lại cử chỉ bất khuất của
anh Nguyễn Văn Bình: Sáng hôm sau ngày nhập Trại Tiên Lãnh, anh em tù tập họp
trình diện viên Đại úy Công An để xác nhận lý lịch. Mỗi tù khi
nghe đọc tên phải lấy mũ xuống rồi hô lớn có mặt. Đến lượt anh Bình (đứng
trước tôi) không lấy mũ, chỉ nói nhỏ có thay vì có mặt như anh em khác. Tên
Đại úy nhìn thẳng anh Bình giận dữ lớn tiếng: Anh có biết lấy mũ xuống không? Anh
coi thường tôi. Giờ nầy anh là tù phạm, không phải tù binh hay Trung Tá ngụy đâu
. Anh Bình hết sức tức giận, trước kẻ thù anh đành nuốt hận! Hành động
của anh Bình, in đậm tâm trí tôi không bao giờ quên.
*
Thiếu Úy Trần Quang Trân với bản án tử hình Thiếu Úy Trần Quang Trân, sinh 30
tháng 9 năm 1949 tại Phú Lộc, Thừa Thiên. Sĩ Quan An Ninh, chi An
Ninh Phú Lộc, Thừa Thiên. Nói đến trại tù Tiên Lãnh phải kể vụ án Trần Quang
Trân, một vụ án chấnđộng Quảng Nam Đà Nẵng. Cuối 1975 tại Kỳ Sơn có phái đoàn địa
chất của Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đã sử dụng máy dò tìm địa chất của Trung Cộng để
tìm vàng tại Bông Miêu. Máy bị hỏng về Đà Nẵng không tìm ra chuyên viên sửa
chữa. Phái đoàn nhờ Tổng Trại 2 tìm cho người sửa. Anh Trân nhận sửa
và máy hoạt động tốt trở lại. Từ đó anh Trân được đưa về Bộ Chỉ Huy Tổng
Trại để sửa máy. Cán bộ có radio hỏng đều nhờ anh Trân sửa. Anh lén nghe
đài BBC, VOA... có tin hay tìm cách phổ biến cho các bạn tù được tin tưởng biết
hầu an tâm. Ngày 28 tháng 9 năm 1978, Bộ đội bàn giao số tù còn
lại tại Kỳ Sơn cho Công An trại Tiên Lãnh. Anh Trân được giao theo danh
sách chuyên viên. Qua tin đồn anh Trân sửa máy giỏi Công An Trại nhờ
sửa Radio. Có máy anh lén nghe các đài ngoại quốc về sau ráp 1 máy nhỏ để
nghe. Những tin quan trọng như: Tôn Đức Thắng qua đời, VN đánh qua
Campuchia, Tàu xâm lăng miền Bắc, nhất là Hoa Kỳ và VN thương thảo để chuyển tù
VNCH sang định cư tại Hoa Kỳ,... Được tin anh em tù hết sức vui mừng và phổ biến
cho nhau. Đầu 1981 vụ nghe lén Radio bị bại lộ. Ban Chỉ Huy trại cho
điều tra, gom bắt gần 100 tù nhân liên quan trong tổ chức nghe radio đưa vào
nhà cùm. Đến ngày 5 tháng 11 năm 1981 Tòa án Nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng mở phiên
tòa suốt một ngày tại Tiên Lãnh để xét xử 92 tù nhân với tội: Âm mưu tổ chức lật
đổ chính quyền nhà nước VN . Bản án tuyên đọc anh Trần Quang Trân tử
hình. Một số khác từ chung thân, 20, 18, 13, 12, 10, 5 và nhẹ nhất là
3 năm còn lại 75 người miễn truy tố chỉ bị phạt giam. Đặc biệt trong phiên xử
anh Trân không gọi Ban xử án là Quan Tòa mà gọi các ông. Anh nói: Các
ông không xứng đáng và có quyền xử chúng tôi, lịch sử VN sẽ xử tội các ông. .
Viên Chánh Ánluôn đập bàn gọi anh Trân phải thưa Quan tòa không được gọi
các ông. Sau khi tuyên án tử hình viên Chánh Án cho anh Trân nói lời
cuối cùng. Anh không mất tinh thần, không sợ hãi và hùng hồn tuyên bố: Tôi
không có gì nói với các ông, chỉ tiếc là khả năng của tôi không có cơ hội để phục
vụ tổ quốc sau khi chế đô. CS sụp đổ!!! Vào lúc 12 giờ trưa ngày 19 tháng 6 năm
1982, chúng đưa xe đến tận phòng giam rồi bịt mắt anh Trân để chuyển ra pháp
trường. Khi xe ra đến cổng Trại anh cố hô to: Đả đảo HCM! Đả đảo CS.
Khoảng hai mươi phút sau nhiều tiếng súng oan nghiệt nổ để tiễn đưa linh hồn của
một anh hùng VNCH thuộc Trại Tiên Lãnh đã hiên ngang đi vào lòng dân tộc. Ngày
10 tháng 5 năm 1989 mộ phần anh Trân được gia đình cải táng và chôn tại xã Lộc
Điền, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Chị Trân nhũ danh Vũ Thị Rần cùng hai con là Trần
Diễm Trang và Trần Diễm Nga đã lập thủ tục xin định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.Ọ
Công An Đà Nẵng từ chối không cấp giấy khai tử nên hồ sơ chưa được giải quyết.
Ngày 30 tháng 1 năm 2008, Ban Đại Diện Hội Tù Tiên Lãnh gửi đơn đến Tòa Tổng Lãnh
Sự Hoa Kỳ ở Saigon, nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cứu xét và giải quyết nguyện vọng
của chi. Trân.
***
Những
người tù không bản án tại trại Tiên Lãnh không thể nào quên được.
Hàng trăm người đã chết trong tù hoặc mang bệnh về nhà rồi chết. Trong số người
chết trong trại người viết chỉ nhớ các bạn như sau:
-
Trung Tá Trần Phước Xáng, khóa 10, Trần Bình Trọng Đà Lạt, Tiểu Khu Phó Quảng Nam chết
tại khu Nhà Trắng Thôn 5 do bịnh kiết lỵ kéo dài quá lâu.
-
Trung Tá Nguyễn Trinh, khóa 4 Cương Quyết Thủ Đức, Tham Mưu Phó CTCT Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương Quân Đoàn I, chết vì bệnh nặng tại Tiên Lãnh.
-
Trung Tá Huỳnh Như Xuân, khóa 19 Nguyễn Trãi Đà Lạt, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn
3 Sư Đoàn 1 BB chết tại Đồng Mộ do bịnh gan.
-
Ông Đinh Văn Biền, Bí thư Quốc Dân đảng Quảng Nam chết tại
Đồng Mộ do bịnh suyễn kinh niên.
-
Thiếu Tá Hồ Minh, Phó Ủy Viên Chính phu? Tòa Án Quân sự Thường Trực
Quân khu 1 nhịn đói đến chết tại Nhà Trắng Thôn 5.
-
Thiếu Tá Đoàn Văn Luyến, Tiểu khu Quảng Nam, vì đói quá nên ăn nhiều lá sắn và
môn, bị phù thủng và qua đời tại Tiên Lãnh.
-
Thiếu Tá Trương Đình Phước, Xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia VN. Thanh tra
Quân Tiếp vu. Quân Khu 1. Chết vì bệnh nặng. Thành phần Sĩ quan
và tù chính trị tại Tiên Lãnh, do bị tù quá lâu nên anh em biết nhau nhiều. Ra
hải ngoại rất đông anh em tiếp tụcsinh hoạt chính trị, tiêu biểu trong số có
người bạn tù chúng tôi hằng quý mến ngay từ trong trại như Bác sĩ Phùng Văn Hạnh:
*
Y sĩ Thiếu Tá Phùng Văn Hạnh cứu sống nhiều tù nhân Tiên Lãnh Y Sĩ Thiếu Tá
Phùng Văn Hạnh, số quân 51.120.936, sinh tháng 10-1931 tại Quảng Nam, được
trưng dụng vào Quân đội. Nhiệm vụ sau cùng là Bác sĩ chỉnh hình tại Trung
Tâm Y tế toàn khoa Đà Nẵng đồng thời Ông cũng là Giám đốc Dưỡng Đường Độc Lập tại
Đà Nẵng (Dưỡng Đường tư của Bác sĩ). Anh em trại tù Tiên Lãnh không quên
được một bạn tù đặc biệt như Bác sĩ Phùng Văn Hạnh. Tinh thần chống Cộng rất
cao, khi vào tù trại bắt lao động rồi đưa vào trạm Y tế chữa bệnh cho anh em
tù. Qua lần lao động sau cùng ông đạp nhằm đinh sét bị phong đòn gánh
rất nặng phải đưa về Bệnh viện Tam Kỳ chạy chữa. Nhờ một số Bác sĩ tại đây
là học trò cũ của ông đã tận tình chữa khỏi bịnh. Khi trở về Tiên Lãnh ông
được tiếp tục giao phó việc chữa bệnh cho các anh em tù. Bác sĩ Hạnh đã cứu
sống biết bao đồng đội bịnh nặng sắp đi vào cõi chết. Ông được phóng thích
sau 12 năm tù, ông vượt biển vào năm 1989, sau đó được sum họp cùng phu nhân là
bà Nguyễn Thị Bạch Nhạn và 7 người con gồm 4 trai, 3 gái tại Montréal, Canada. Hiện
ông đang vui hưởng tuổi già cùng 8 cháu nội ngoại. Điều đáng ghi nhận là tất
cả các con của ông đều thành đạt mỹ mãn. Ông ghi lại những nỗi vui buồn của cuộc
đời mình qua 2 tác phẩm:
-
Tình Yêu Hiện Sinh, xuất bản năm 2000.
-
Một Kiếp Người, xuất bản năm 2004.
Thay
lời kết
Qua
tâm ý của người viết cố hồi tưởng lại những gì mắt thấy, tai nghe trong thời
gian bị tù CS tại Kỳ Sơn và Tiên Lãnh cùng nghe qua lời kể của các bạn tù. Tham
khảo ít tài liệu Quân đội trước 1975. Xin cám ơn tất cả mọi người trong cuộc
cùng thân nhân và anh em
cựu tù
Kỳ Sơn, Tiên Lãnh đã cung cấp hình ảnh, tin tức và khuyến khích tôi viết lại
các câu chuyện đầy thương tâm để hoàn thành loạt bài này. Nhân tiện người viết
xin có mấy lời cùng các bạn trẻ thân mến: Sau biến cố năm 1975, các bạn được
cha ông tạo cơ hội vượt thoát khỏi chế độ bạo tàn CS và may mắn có nhiều cơ hội
để học hỏi và tiến thân mưu cầu một tương lai ổn định và tươi sáng. Sự thuận lợi
các bạn đang có đã đánh đổi bao sự hy sinh của cha ông đã lâm vào cảnhlao lý. Các
chuyện kể trên tiêu biểu cho hàng ngàn vụ đau thương xảy ra trong các trại tù
trên toàn quốc. Hiểu được lý do chính đáng về sự hiện diện của các bạn tại
quê người, các bạn nên luôn ghi ơn các chiến sĩ VNCH đã đóng góp phần xương máu
để xây dựng và bảo vệ miền Nam. Trước 1975 cuộc sống của đồng bào miền Nam
được tự do, hạnh phúc hơn hẳn một số Quốc Gia trong vùng Đông Nam Á, thủ đô
Saigon được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Các bạn hãy hãnh diện về thành quả
trước đây, nỗ lực hơn nữa để phục hưng nước Việt trong tương lai được phú cường
và không CS hầu thực hiện nguyện vọng của toàn dân hiện đang mong ước từng
ngày. Hiện nay, tình hình chính trị trong nước đã chín mùi, ngày toàn dân
mong ước không còn xa.
Bolsa,
ngày 28 tháng 8 năm 2008
Hồ
Đắc Huân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét