Trước khi cuộc chiến Mùa Hè 1972 bùng nổ vào cuối tháng
3/1972, từ giữa tháng 3/1972, theo kế hoạch của bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh,
trung đoàn 54 Bộ binh - biệt danh là
trung đoàn Bạch Hổ - do trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, trung đoàn trưởng, chỉ huy,
được điều động từ Nam và Tây Nam Thừa Thiên vào khu vực cận sơn quận Nam Hòa, nằm
ở phía Tây Huế. Tuyến phòng thủ chiều ngang do trung đoàn 54 Bộ binh đảm trách
chạy dài từ phía Bắc căn cứ Bastogne (cách Huế khoảng 12 km đường chim bay) đến
phía Nam cao điểm 342 (Checkmate).
Theo phối trí, bộ chỉ huy hành quân trung đoàn đặt tại căn cứ Birmingham - Bình
Điền - tiểu đoàn 1/54 án ngữ cao điểm 342 và cụm điểm quanh căn cứ Checkmate,
tiểu đoàn 2/54 phòng ngự căn cứ và vòng đai Bastogne, tiểu đoàn 3/54 và 4/54
phòng thủ chiều sâu, ban chỉ huy tiểu đoàn 3/54 đóng chung với bộ chỉ huy trung
đoàn, tiểu đoàn 4/54 hành quân di động.
Về hoạt động của đối phương, từ đầu tháng 3/1972, tin tức tình báo ghi nhận các
đợt chuyển quân của 3 trung đoàn 29, 803 và 812 thuộc sư đoàn 324 B từ phía Bắc
vào thung lũng Ashau nằm ở hướng Tậy Thừa Thiên. Cùng lúc đó, trung đoàn 24 thuộc
sư đoàn 304 CSBV cũng được ghi nhận là đã di chuyển khỏi mật khu Ba Lòng (Quảng
Trị) và trên đường di chuyển về phía Nam. Từ giữa tháng 3/1972 đến đầu tháng
4/1972, trong
khu vực trách nhiệm của trung đoàn 54 Bộ binh không có những trận giao
tranh lớn, chỉ có những đợt pháo kích của Cộng quân ở mức độ nhỏ. mang
tích cách thăm dò khả năng phản pháo của tiểu đoàn Pháo binh tăng phái cho
trung đoàn.
* Tiểu đoàn 2/54 và hai tuần lễ cố thủ căn cứ Bastogne:
Trong 10 ngày đầu của tháng 4/1972, Cộng quân áp lực nặng tỉnh lộ 547 đi ngang khu
vực phòng ngự của trung đoàn 54 Bộ binh. Cùng thời gian này, các đại đội tiền đồn
của hai cứ điểm Bastogne và Checkmate đã phát hiện các cuộc chuyển quân của Cộng
quân từ hướng Tây về hướng Đông, đồng thời tiểu đoàn 4/54 đang hành quân lưu động
đã có những cuộc đụng độ nhỏ với các thành phần tiền sát của đối phương. Trong
tuần lễ thứ hai của tháng 4/1972, việc tiếp tế bằng đường bộ cho hai tiểu đoàn
1/54 và 2/54 đã không thể thực hiện được do Cộng quân tổ chức các chốt chận
trên lộ trình. Để các đơn vị nói trên có đủ lương thực và đạn dược để chiến đấu,
bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh đã điều động các phi đội trực thăng tăng phái thực
hiện các phi vụ tiếp tế khẩn cấp cho quân trú phòng, tuy nhiên các nỗ lực tái
tiếp tế này đã gặp nhiều khó khăn do pháo phòng không của địch đã bắn chận
không cho trực thăng đáp xuống. Cuối cùng quân lương được thả bằng dù xuống căn
cứ, nhưng hơn một nửa rơi ngoài căn cứ, lọt vào tay Cộng quân.
* Tiểu đoàn 4/54, lực lượng xung kích tiếp tế đêm cho hai căn cứ bị địch bao
vây:
Sau khi đã khống chế về tiếp vận, đến giữa tháng 4/1972, Cộng quân tăng quân
bao vây và khởi động các đợt tấn công thăm dò vào hai cứ điểm Bastogne và
Checkmate, đồng thời pháo kích dồn dập vào cụm tuyến phòng ngự của hai tiểu
đoàn 1/54 và 2/54 tại hai căn cứ này. Trong thời gian từ 15 đến 27/4/1972, tất
cả các đợt tấn công của Cộng quân đều bị lực lượng trú phòng đẩy lùi. Vào đầu
tuần lễ thứ ba, bộ chỉ huy Trung đoàn 54 Bộ binh nhận được báo cáo khẩn là
lương thực dự trữ tại căn cứ Bastogne đã gần cạn, trong khi đó tại căn cứ
Checkmate, tình hình lương thực tuy không nguy khốn như tại căn cứ Bastogne,
nhưng cũng chỉ đủ để dùng tối đa là 3 ngày.
Trước hiện trạng đó, để quân trú phòng yên tâm cố thủ, bộ chỉ huy trung đoàn 54
Bộ binh quyết định sử dụng tiểu đoàn 4/54 làm nỗ lực chính vận chuyển quân
lương cho hai căn cứ. Theo kế hoạch, tiểu đoàn chia thành 2 cánh quân, cánh
quân tiếp tế cho Bastogne do thiếu tá Trần Công Đài, tiểu đoàn trưởng, chỉ huy,
cánh thứ hai do tiểu đoàn phó điều động. Kế hoạch tái tiếp tế được thực hiện
vào ban đêm, cả tiểu đoàn xuất phát từ vòng đai ngoài của căn cứ Bình Điền và
tiến về hướng Tây. Trên lộ trình hành quân tiếp tế, mỗi cánh quân có hai thành
phần: thành phần mở đường để triệt hạ các chốt chận của địch trên lộ trình,
thành phần đi sau, mỗi binh sĩ mang đầy lương thực tiếp tế đủ cho 2 binh sĩ đơn
vị bạn đủ ăn trong một chu kỳ 5 ngày. Trong hai đêm liên tiếp, tiểu đoàn 4/54
đã hoàn thành xuất sắc cuộc hành quân tiếp tế, nhờ kế hoạch rất linh động và
táo bạo này, trung đoàn 54 BB Bạch Hổ đã kịp thời tiếp ứng lương thực cho các
hai tiểu đoàn đang bị địch bao vây.
* Cuộc triệt thoái khỏi căn cứ Bastogne và Checkmate:
Chiều ngày 28 tháng 4/1972, hai cánh quân thuộc hai trung đoàn 29 và 803 thuộc
sư đoàn 324B CSBV đồng loạt tấn công cường tập vào căn cứ, dù bị áp đảo về quân
số, nhưng tiểu đoàn 2/54 do đại úy Hà Văn Khâm, tiểu đoàn phó xử lý thường vụ
tiểu đoàn trưởng, chỉ huy, đã chận được các đợt tấn công của Cộng quân trong
hai giờ đầu. Trong khi đó, từ căn cứ hỏa lực Bình Điền, tiểu đoàn Pháo binh
tăng phái cho trung đoàn 54 điều động các khẩu đội, tác xạ tập trung vào quanh
Bastogne để bảo vệ căn cứ khỏi bị Cộng quân tràn ngập. Nỗ lực của tiểu đoàn
Pháo binh chỉ làm giảm tốc độ tấn công của đối phương thêm một thời gian ngắn,
vì cùng với cuộc tấn công bằng bộ binh, Cộng quân đã pháo hỏa tập dữ dội vào
căn cứ này.
Khoảng 8 giờ tối ngày 28/4/1972, qua hệ thống truyền tin, bằng ám danh và ngụy
hóa đàm thoại, đại úy Hà Văn Khâm đã báo cáo cho trung tá Nguyễn Thanh Hạnh,
trung đoàn trưởng trung đoàn 54 BB tình hình nguy kịch của căn cứ và xin được
triệt thoái. Đại úy Khâm cũng cho biết sẽ “im lặng vô tuyến” với trung đoàn để
bảo mật trên lộ trình rút quân. Sau vài lời dặn dò, trung tá Hạnh cho phép đại
úy Khâm được tùy nghi hành động, cố gắng mở đường máu để vượt thoát khỏi vòng
vây của địch. Trước khi tắt máy, đại úy Khâm nói với vị trung đoàn trưởng của
mình: 71 yên tâm, con cháu sẽ cố về nội! (71: ám số truyền tin để chỉ trung
đoàn trưởng trung đoàn 54.)
Gần 10 giờ đêm 28/4/1972, sau khi họp với ban chỉ huy tiểu đoàn 2/54 và các đại
đội trưởng để phổ biến lệnh triệt thoái, đại úy Hà Văn Khâm đã cùng tiểu đoàn mở
đường máu vượt thoát vòng vây của địch. Ra khỏi căn cứ được khoảng 1 giờ di
chuyển trong đường núi, đại úy Khâm và toàn ban tham mưu, một số đại đội trưởng,
trung đội trưởng và hơn một nửa tiểu đoàn bị địch chận bắt.
Bastogne thất thủ, tuyến phòng ngự của tiểu đoàn 1/54 tại căn cứ Checmate đã bị
địch cô lập. Để tránh tổn thất, đêm 29/4/1972, sau khi liên lạc với thiếu tướng
Phạm Văn Phú, tư lệnh Sư đoàn, trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, trung đoàn trưởng
trung đoàn 54, ra lệnh cho thiếu tá Nguyễn Phú Thọ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn
1/54, điều động toàn tiểu đoàn triệt thoái. Trên lộ trình rút quân, tiểu đoàn
1/54 bị chận đánh, một số sĩ quan, và gần 1/3 tiểu đoàn bị địch bắt. Riêng vị
tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó và một số sĩ quan ban chỉ huy tiểu đoàn vượt
thoát được, về tuyến sau an toàn.
Dù hai tiểu đoàn 1/54 và 2/54 bị tổn thất nặng trong cuộc triệt thoái, nhưng với
hai tiểu đoàn còn lại 3/54 và 4/54, trung đoàn 54 Bộ binh đã phối hợp với trung
đoàn 1 Bộ binh tăng viện, giữ vững phòng tuyến Tây Huế trong mùa Hè 1972.
* Tái chiếm Bastogne và Chekmate:
Ngày 15 tháng 5/1972, để tái chiếm một vị trí trọng yếu đã bị rơi vào tay Cộng
quân, tướng Phú đã tổ chức một trung đội cảm tử quân gần 40 chiến binh do một
thiếu úy chỉ huy, được trực thăng vận nhảy ngay xuống căn cứ Bastogne và tấn
kích ngay vào bộ chỉ huy của Cộng quân. Bị tấn công bất ngờ và bị một phi đội
trực thăng chiến đấu oanh kích quanh vòng đai phòng thủ căn cứ nên Cộng quân bỏ
chạy. Chỉ trong vòng nửa giờ, trung đội cảm tử quân của Sư đoàn 1 đã làm chủ trận
địa. Tin chiến thắng báo về, được sự ủy nhiệm của tổng tham mưu QL/VNCH, tướng
Phú đã thăng cấp trung úy thực thụ tại mặt trận cho sĩ quan trung đội trưởng cảm
tử quân. Tất cả các hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc trung đội này cũng được đặc
cách thăng 1 cấp. Một tuần sau, hai tiểu đoàn của trung đoàn 1 Bộ binh đã tái
chiếm cao điểm 342.
* Câu chuyện về căn cứ hỏa lực Bastogne:
Căn cứ Bastogne nguyên là một trong những căn cứ hỏa lực do các đơn vị của Quân
đoàn 24 Hoa Kỳ thiết lập và phụ trách phòng ngự. Từ đầu năm 1970 đến năm 1972,
Sư đoàn 101 Kỵ Binh Hoa Kỳ thống thuộc quân đoàn nói trên đã bàn giao các căn cứ
hỏa lực và căn cứ tiếp vận, hậu cứ cho Sư đoàn 1 Bộ binh VNCH. Đầu năm 1972, Sư
đoàn 1 Bộ binh VNCH tiếp nhận căn cứ Giạ Lê và dời bộ Tư lệnh cùng toàn bộ các
đơn vị yểm trợ và hậu cứ một số tiểu đoàn, trung đoàn Bộ binh về đây.
Tháng 3/1972, như đã trình bày ở phần trên, tiểu đoàn 2/54 do đại úy Hà Văn
Khâm - tiểu đoàn phó xử lý thường vụ tiểu đoàn trưởng - chỉ huy, được giao
trách nhiệm phòng thủ căn cứ Bastogne (căn cứ này còn có tên Việt Nam là căn cứ
Phú Xuân do bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 đặt). Trước khi căn cứ Bastogne bị CSBV chiếm,
khoảng 1 tuần trước đó, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã bay thị sát chiến
trường Trị Thiên, khi nghe tướng Phú trình bày tình hình căn cứ Bastogne và căn
cứ Checkmate (do tiểu đoàn 1/54 trú phòng) và tinh thần quyết chiến của 2 tiểu
đoàn nói trên trong suốt gần một tháng, Tổng thống Thiệu đã quyết định thăng cấp
cho hai sĩ quan chỉ huy 2 tiểu đoàn 1 và 2/54. Thiếu tá Nguyễn Phú Thọ, tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 1/54, được thăng trung tá thực thụ và đại úy Hà Văn Khâm,
xử lý thường vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/54, được thăng thiếu tá thực thụ.
Tuy nhiên, vì đang hành quân, nên trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, trung đoàn trưởng
trung đoàn 54 Bộ binh quyết định chờ tình hình chiến sự lắng xuống sẽ cho trực
thăng bốc 2 sĩ quan nói trên về bộ chỉ huy để gắn cấp bậc mới. Do đó khi bị
CSBV bắt, anh Hà Văn Khâm vẫn còn mang cấp đại úy. Anh được trao trả vào tháng
3/1973 tại bờ sông Thạch Hãn cùng với các chiến hữu tiểu đoàn 2/54 bị bắt trong
mùa Hè 1972. Ngày trở về, anh bị thâu hồi cấp bậc thiếu tá đã được thăng tại mặt
trận, vài tháng sau, anh được giải ngũ. Sau 30 tháng 4/1975, anh bị cộng quan bắt, giam giữ
ở tổng trại Kỳ Sơn và đã chết trong trại tù vào năm 1977. Anh
Hà Văn Khâm xuất thân khóa 16 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, trước khi nhập ngũ, anh
là giáo sư trung học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét