Hơn ba
mươi năm chiến tranh đã in dấu sâu đậm lên cuộc sống của cả dân tộc Việt Nam
ta, của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi khởi đầu không ai nghĩ chiến sự sẽ
kéo dài, kéo dài mãi đến như vậy. Về sau người ta chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại
chịu đựng với ý nghĩ rằng độc lập và tự do là điều quý nhất, có độc lập, tự do
rồi sẽ có tất cả, mọi hy sinh đều là cần thiết cho mục tiêu cao cả ấy.
Nhìn lại những cuộc đấu tranh lâu dài trên đất nước mình, nhìn lại cuộc đời cầm
súng của mình trong 37 năm có lẻ, tôi thấy những gì sâu sắc nhất?
Cuối tháng 10. 1990 tôi
dự cuộc Hội thảo do tổ chức của tướng Leclerc mời với đề tài: Tướng Leclerc và
Đông dương. Có hơn một chục vị tướng Pháp, các nhà sử học nổi tiếng như
Devillers, Brocheux... , các nhân vật liên quan hồi đó như ông Messmer (từng là
thủ tướng), ông Misoffe (bộ trưởng) và cả ngọai trưởng Polang Dumas tham dự.
Tôi từng nghiên cứu vến đề này và đến dự cùng hai cán bộ của sứ quán Việt Nam
(một tham tán chính trị và một bí thư thứ hai). Bản tham luận của tôi đựơc chú
ý. Qua việc đánh giá tướng Leclerc, tổng chỉ huy quân sự Ở Đông dương, những
quan điễm của ông về chính trị và quân sự, thái độ thực tế và thức thời của
ông, chính kiến của ông khác với chính kiến của đô đốc D'Argenlieu Cao ủy Pháp
và là Tổng tư lệnh quân lực Pháp ở Đông dương ra sao, các diễn giả đều đề cập
đến sự kiện khởi chiến ở Việt Nam ngày 19. 12. 1946. Ai cố tình gây chiến
trước? Khi chiến tranh bùng nổ rồi thì ngừng bắn sẽ rất khó khăn. Vậy thì tại
sao chiến tranh bùng nổ? Lỗi tại ai, từ phía nào? Đây là một sự kiện bị nhiễu
lọan nhất, có nhiều điểm ản dấu nhất ở cả hai bên. Có phải phía Pháp đã cố tình
khởi chiến, từ việc gây ra những cuộc nổ súng ở Hải Phòng, rồi ở Hà Nội và 2, 3
ngày trước đó đã cho xe tăng đi nhiều thêm một cách bất thường trên đường phố
Hà Nội, đột nhiên tăng viện binh từ Pháp sang rồi đánh chiếm Sở Tài chính (nay
là trụ sở Bộ Ngọai giao), đưa tôi hậu thư yêu cầu do phía Việt Nam không ổn
định được an ninh, nên phía Pháp sẽ đảm nhận việc này, rồi sau đó ra lệnh cấm
trại tất cả binh lính Pháp... Phải chăng phía Pháp đã có một kế hoạch tỉ mỉ leo
thang dần để đi đến khởi sự cuộc chiến tranh rộng khắp? Hay phía Việt Nam đã có
kế hoạch trước, dự định từ mấy tuần trước đó là đêm 19 tháng 12 năm 1946 sẽ nổ
súng. Hiệu lệnh khởi sự là phá Nhà đèn Yên Phụ, tắt điện trong tòan thành.
Cũng có nhà sử học Pháp
đưa ra nhận định rằng về phía Việt Nam, ông Võ Nguyên Giáp đã đưa ra lệnh tiến
công mà không cho ông Hồ Chí Minh biết. Đây là một phỏng đoán chủ quan, thiếu
cơ sở vì một việc trọng đại như thế này ông Giáp không thể tự ý chủ trương
được. Phỏng đoán như thế là không hiểu cơ chế và tinh thần làm việc của phía
Việt Nam.
Sau khi nghiên cưứ
nhiều tài liệu, tôi thấy lúc ấy hai bên đều có những nhận định rất giống nhau
và cả hai bên đã hiểu nhầm nhau! Những nhận định rất giống nhau là: Con đường
hòa đàm đã tan vỡ không phương cưứ chữa được nữa. Chiến tranh tất yếu sắp nổ
ra. Bên nào cũng có kế hoạch ứng phó với tình hình xấu nhất đang tới rất gần.
Bên nào cũng có ý định là nếu bên kia gây sự lớn thì phải kịp thời giáng trả
lập tức để khỏi mất quyền chủ động... Cả hai bên trong thâm tâm đều chưa muốn
bước vào một cuộc chiến tranh toàn bộ ngay vì thủ tướng thuộc đảng xã hội Leon
Blum vừa lên cầm quyền và ông Marius Moutel Bộ trưởng thuộc Dịa sắp lên đường
sang Đông dương. Thế nhưng khi quân của hai bên đã o thế cài răng lược, ở hai
phái đều có những phần tử trẻ hăng máu, cực đoan thì bất cứ một sự xô sát nhỏ
nào, một cuộc bắn nhau nhỏ nào cũng có thể tạo thành một đám cháy lớn! Hai bên
đều chưa muốn bước vào một cuộc chiến tranh lớn nhưng đều chuẩn bị rất khẩn
trương, luôn sẵn sàng cho khả năng xấu nhất để tránh bị động. Những cuộc chạm
súng liên tục và ngẫu nhiên đã là tia lửa tạo nên đám cháy lớn...
Đất nước bị cuốn hút
vào chiến tranh bi thẩm như vậy đó.
Theo tôi cái lỗi chính
là ở quan điểm thực dân lỗi thời vẫn còn tồn tại trong chính giới Pháp, kể cả
trong đảng Xã Hội và đảng Cộng Sản. Yêu nước Pháp đối với người Pháp là phải
khôi phục các thuộc địa, giữ nguyên sự hùng mạnh của Đế chế Pháp. Tướng Leclerc
đã kể rằng, Phó thủ tướng và là Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez
gặp ông ta trước khi ông lên đường nhận nhiệm vụ Ở Đông dương, đã vỗ vai ông và
nói rằng: "Cognez! Cognez- fort!" (Hãy đánh đi, đánh mạnh vào!). Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận công thức "nước Việt Nam tự do trong khối
Liên hiệp Pháp", mà chính quyền Pháp vẫn không chịu đồng ý! Cứ theo kể lại
thì tình hình không ổn định của các chính phủ Pháp kế tiếp nhau, việc giao
thông liên lạc cách xa nhau 12. 000 km làm cho việc nắm tình hình và chỉ đạo
gặp rất nhiều trắc trở và quá chậm chạp, tinh thần cố chấp cực đoan của đô đốc
D'Argenlieu... đều là những nguyên nhân làm cho chiến tranh bùng nổ tai hại cho
cả hai bên...
Nếu như chính phủ Pháp
biết sử xự với các thuộc địa của mình như chính giới Anh đối với Ấn Độ thì đâu
đến nỗi bi đát như vậy! Nước Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có thể yên
ổn và phát triển, tránh bao nhiêu hy sinh và tàn phá, và có thể tránh cả cuộc
chiến tranh với Hoa Kỳ về sau!
Một câu hỏi tôi thường
được các nhà báo Mỹ và phương Tây, các học giả ở Đông Nam và gần đây là một số
nhà quân sự Pháp hỏi: Vì sao Mỹ lại thua trận ở Việt Nam? Kèm theo nhiều câu
hỏi khác về Tết Mậu Thân 1968, về vũ khí hiện đại của Mỹ, về đường Hồ Chí Minh,
về B- 52 đánh phá trên miền Bắc, về chiến tranh ở Căm pu chia. Đó là những vấn
đề rất rộng lớn. Tôi chỉ có thể trình bày ở dưới đây rất gọn một số suy nghĩ
riêng của mình.
Tôi đã viết kịch bản
cho một bộ phim tư liệu: "Một trăm câu trả lời cho một câu hỏi, " về
chuyện Việt Nam vì sao dành được toàn thắng. Trước khi sang Pháp tôi đã sửa lại
kịch bản này để chuẩn bị cho một bợ phim hợp tác với các nhà điện ảnh _c
(Australia), dự kiến có tên là: "Cuộc đối thoại giữa hai Tổng hành dinh do
xưởng phim của Hội Nhà văn thực hiện. Theo tôi có biết bao nhiêu yếu tố tạo nên
chiến thắng: Con người, lịch sử, phong tục, văn hóa, văn học, nghệ thuật. Rồi
thời tiết, địa lý, môi trường, khí hậu... cũng có tác dụng. Rồi các mối quan hệ
chằng chịt trên thế giới, các mối liên minh thay đổi, các mối liên kết khu vực.
Rồi đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao. Rồi quan hệ giữa Sài Gòn và
Washington- Quan hệ giữa Washington với đồng minh- Quan hệ Việt nam với Liên
xô, Trung quốc... về quân đội: Người lính, người sĩ quan của cả hai bên...
Chiến thuật và chiến dịch... Chiến dịch và chiến lược... Tiền tuyến và hậu
phương của hai bên. Vai trò cũa báo chí, truyền thanh và truyền hình. Chế độ
dân chủ và chế độ chính trị thời chiến... Vấn đề thời cơ, tạo thời cơ và tận
dụng thời cơ...
Trong tất cả các vấn đề
phong phú và lý thú ấy, trong cuốn sách này, tôi chỉ nêu qua một vài vấn đề đơn
giản nhất.
Trước hết Đông nam á và
Đông Dương không được xác định là một khu vực trọng điểm trong chiến lựơc của
Mỹ, không phải là nơi gắn bó với quyền lợi sống còn của Mỹ. Mỹ bị lôi cuốn vào
cuộc chiến tranh này từng bước một, theo đà, theo một quán tính. Khởi đầu là
ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh của Pháp định giành lại ba nước Đông dương,
rồi tiếp theo một bước, chi tiền khá lớn cho Pháp trong cuộc chiến tranh ấy.
Đến sau Hiệp định Giơ
ne vơ, Mỹ lao sâu thêm giúp cho chế độ Sài Gòn, cố giành thắng lợi trước hết ở
cuộc chiến tranh một phía với các chiến dịch tố cộng, diệt cộng... Cuộc chiến
tranh này không đạt, lại lao thêm vào cuộc chiến tranh đặc biệt với cố vấn Mỹ,
vũ khí Mỹ, chuyên gia kỹ thuật Mỹ ngày càng nhiều. Rồi chiến tranh đặc biệt
không thành, lại bị động sang chiến tranh cực bộ. Ngay trong chiến tranh cực bộ
Mỹ cũng muốn dành chiến thắng với thời gian ngắn nhất và với số quân Mỹ thấp
nhất. Khởi đầu là 8 tháng, rồi 18 tháng, với 16 vạn quân, rồi 28 vạn quân. Sau
cùng lên đến 50 vạn quân, nếu kể cả quân Thái Lan, quân ở hạm đội 7 và trên hậu
cứ Okinawa thì tới 70 vạn quân! Chiến tranh cục bộ lại kết hợp với chiến tranh
phá hoại bằng không quân và hải quân trên miền Bắc, và cuộc chiến tranh này
cũng tiến hành theo từng nấc thang một. Khởi đầu là đánh phá vùng giới tuyến,
vùng ven biển, vùng trong vĩ tuyến 19, rồi trên vĩ tuyến 20, rồi đánh vào các
khu công nghiệp và sau cùng là vào thủ đô Hà Nội, với các loại máy bay chiến
thuật, sau đó là máy bay chiến lược B 52...
Trong chỉ đạo chiến
tranh, Tổng Hành dinh Mỹ luôn luôn mong chờ và hy vọng rặng, mỗi nấc thang là
nấc thang cuối cùng, và họ luôn luôn bị hẫng. Leo thêm một nấc thang lại hy
vọng đây là nấc thang chót, đối phương sẽ chịu thua và chấp nhận điều kiện của
Mỹ! Thế nhưng đối phương luôn có ý chí vững chắc, có tinh thần dân tộc kiên
định và lại được rèn luyện theo từng nấc thang chiến tranh, nên thích ứng nhanh
chóng với mỗi bước leo thang mới của Mỹ và còn sẵn sàng chuẩn bị cho nấc thang
kế tiếp.
Đến khi Mỹ leo thang
trên bộ đến mức cao nhất rồi mà không thắng, hậu phương của Mỹ lại không đủ
nghị lực và không tạo nên khối thống nhất quốc gia để lao tiếp thí Mỹ ắt phải
nghĩ đến rút chân ra Chiến lược "Việt Nam hóa" ra đời, Quân Mỹ lần
lượt rút dần về nước. Đã quen có nữa triệu quân Mỹ ở sát cạnh lại quen ỷ lại
vào quân đội Mỹ với hỏa lực cua pháo binh và không quân, khi quân Mỹ rút, quân
đội Sài Gòn càng thiếu tự tin, luôn cảm thấy hở sườn và đơn độc...
Có một điều quan trọng
là trong cuộc chiến tranh Việt Nam do tính chất và đặc điểm của nó, thế lực hai
bên không đều, quan điểm thắng và thua cũng không giống nhau: Mỹ không thắng
được, hơn nữa không thắng nhanh được, là thua. Đối phương kéo dài được cuộc
chiến, không chịu thua, là thắng.
Hơn nữa có một yếu tố
quan trọng là đối phương của Mỹ đã trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài chống
Pháp trong 9 năm (1945- 1954). Đây là một nét rất hệ trọng. Hồi 30. 4. 1975,
sau Toàn thắng, khi các vị tư lệnh họp nhau lại ở Dinh Độc lập để mừng chiến
công lịch sử, tất cả tư lệnh của năm cánh quân (4 quân đoàn và một binh đoàn
tăng cường), cũng như tư lệnh không quân, tư lệnh hải quân và chỉ huy các binh
chủng: Thiết giáp, pháo binh, cao xạ, thông tin, hóa học, đặc công... đều là
các sĩ quan chiến dịch Điện Biên Phủ trước đó 21 năm. Có người hồi đó là tư
lệnh sư đoàn, nay là tư lệnh quân đoàn, hồi đó là trung đoàn trưởng, tiểu đoàn
trưởng, nay là tư lệnh sư đoàn, tư lệnh lữ đoàn... Rõ ràng cuộc chiến tranh
chống Pháp là một cuộc thử thách lớn, một trường học lớn, một cuộc diễn tập lớn
để chuẩn bị tất cả các mặt: Tổ chức và huấn luyện bộ đội, đào tạo cán bộ, hình
thành một nghệ thuật quân sự và khoa học quân sự mới. Không có cuộc kháng chiến
chống Pháp, thì không thể hình dung ra cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ ra sao.
Về quân đội Mỹ, tôi có
mấy nhận xét cụ thể về những mặt yếu sau đây: Việc đề ra kỳ hạn sang Việt Nam
một năm hoạc hai năm là cần thiết, nhưng đó cũng là một nhược điểm lớn. Vì họ
sang một chiến trường xa lạ, vừa thích ứng được ít lâu thì đã nghĩ đến chuyện
giữ an toàn để trở về với gia đình. Họ chỉ được thực sự yên tâm và thành thạo
chiến đấu trong nữa năm (đối với người sang một năm) và chừng 15 tháng (cho
những người sang hai năm). Về không quân, quy định mức phi vụ là 100 cũng vậy.
Những phi vụ đầu còn bỡ ngỡ- khi quen rồi và trở nên thành thạo thì tâm lý đã
sớm nghĩ đến giữ an toàn để còn trở về. Tôi đã gặp khá nhiều người lái Mỹ bị
bắt, hỏi chuyện tới gần hai trăm người. Có người bị hạ Ở chuyến bay đầu tiên
(một nữa phi vụ), rất nhiều người ở chuyến bay thứ 30 đến 60, cũng có người
chuyến bay thứ 97, nghĩa là ba phi vụ nữa là thóat nạn!
Tổ chức và trang bị cho
quân đội viễn chinh Mỹ quá hình thức và nặng nề, hoàn toàn không thích hợp với
chiến trường, địa hình, thời tiết và nhất là tính chất của cuộc chiến tranh
chống nổi dậy, chống lại một phong trào rộng lớn bắt rễ trong nhân dân. Các đơn
vị Mỹ vẫn giữ biên chế, trang bị và họat động như đã được học và rèn luyện
trong một cuộc chiến tranh chính quy, thành hàng ngũ!
Về quân đội Sài Gòn
cũng vậy. Do ảnh hưởng của Mỹ nên tử tộ chức đến quân phục, trang bị đều nặng
nề, cứng nhắc, thiếu độ linh họat và cơ động. Nhiều viên tướng và sĩ quan cao
cấp Sài Gòn tôi gặp năm 1975 đã trao đổi và cho rằng cái nặng nề, cồng kềnh,
hình thức của quân đội Pháp và quân đội Mỹ bị áp đặt cho quân đội Sài Gòn (từ
điều lệnh huyến luyện cho đến đôi giầy, quân phục, cho đến chiếc ba lô... ) đều
gây khó khăn cho sự cơ động rất cần cho một cuộc chiến tranh rừng núi và đồng
bằng trong khí hậu nhiệt đới.
Về mặt tâm lý, tôi tiếp
xúc với hàng trăm người lái máy bay Mỹ cũng như vài chục sĩ quan và quân nhân
Mỹ thuộc lính cổ da (thủy quân lục chiến) và bộ binh Mỹ. Họ là những quân nhân
được đào tạo rất chính quy, có hệ thống, vững vàng về hiểu biết kỹ thuật. Trình
độ văn hóa khá cao. Có nhiều người lại có bằng cử nhân, tiến sĩ không những về
kỹ thuật, mà còn về triết học, sử học, về kinh doanh, về quan hệ quốc tế và
luật pháp. Thế nhưng quân đội Mỹ đã chuẩn bị cho họ quá sơ sài những hiểu biết
về Việt Nam, về Đông dương. Tôi thấy rõ việc chuẩn bị tâm lý cho quân nhân Mỹ
là không tốt, có nhiều lỗ hổng về nhận thức, quá xa thực tế, thậm chí trái
ngược với thực tế. Một sự sai lầm nổi bật nữa là qua các tài liệu và lời khai,
quân nhân Mỹ ỷ lại rất nặng vào vũ khí, hỏa lực, coi nhẹ yếu tố con người.
Về chính quyền Sài Gòn,
việc chính quyền Kennedy thay ngựa giữa dòng, triệt hạ anh em ông Ngô Đình Diệm
là một thất sách, có thể gọi là một sai lầm rõ rệt. Phải chăng đây là một hành
động cần thiết để chuyên từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ, nhằm
thực hiện việc đưa ồ ạt quân Mỹ vào miền Nam, vì anh em Diệm, Nhu tỏ ý chống
lại việc đưa quân Mỹ vao tham chiến? Vấn đề khó khăn nhất của Mỹ là tìm ra một
chính đảng chính trị và một lãnh đạo tiêu biểu ở miền Nam Việt Nam, có khả năng
và uy tín. Tuy được tổng thống Mỹ Einsenhower tâng bốc là "Churchill của
châu á, " ông Diệm vẫn có nhiều hạn chế: Trí thức miền Nam vẫn coi ông
thuộc tầng lớp quan lại phong kiến đã lỗi thời. Ông lại là người công giáo
trong khi người công giáo chỉ chiếm 10 phần trăm số dân phần lớn theo đạo Phật.
Kiểu gia đình trị của ông quá lộ liễu hai vợ chồng ông Nhu lại lộng hành quá
đáng... Cái gay go của Mỹ là những người lện thay Diệm, Nhu lại tỏ ra yếu kém
hơn, chia rẽ hơn, bất lực hơn. Mỹ tưởng vất bỏ được cái xấu để thay cái tốt,
cái khá hơn, thì chỉ nhận được cái tồi tệ hơn! Sự rối loạn chính trị với Nguyễn
Khánh, rồi với Nguyễn Văn Thiệu- Nguyễn Cao Kỳ gắn liền với sự rối loạn về kinh
tế, với tham nhũng lan tràn, đạo đức băng hoại, đàn áp Phật giáo, miệt thị trí
thức, thanh niên, sinh viên. Nạn mãi dâm, xì ke, ma túy quanh các căn cứ Mỹ,
những vụ đầu cơ ở các P. X. (trung tâm thương mại cho các quạn nhân Mỹ) tạo nên
khủng hoảng xã hội trầm trọng. Quân đội Sài Gòn trong bối cảnh ấy tất nhiên sa
sút nhanh về mọi mặt. Đó là cái giá cực nặng phải trả khi có thường xuyên nữa
triệu lính Mỹ- lính nhà giầu, lính hưởng thụ, lính đời sống cao, lính ra trận
mà không hiểu rõ động cơ chiến đấu- trên một giải đất hẹp, trong một xã hội
tiêu thụ. Những nhà "du lịch cầm súng" vui vẻ phóng khóang! Họ đâu có
biết chính họ đã phá vỡ những giá trị truyền thống cổ truyền, làm chấn động hậu
phương của cuộc chiến tranh vốn đã mong manh.
Một điều bất ngờ là:
Quân Mỹ vào để cưứ vãn tình hình, thế nhưng chính sự có mặt của 50 vạn quân Mỹ
(hơn 2 triệu lượt quân nhân Mỹ thay phiên nhau) ở miền Nam Việt Nam đã làm rối
loạn và sa sút thêm cái hậu phương trực tiếp của cuộc chiến tranh. Khi quân Mỹ
phải rút dần cho đến hết theo quy định của Hiệp định Paris, họ đã phải tiến
hành chiến lược "Việt Nam hóa" chiến tranh với một hậu phương đã bị
tàn phá đến tận gốc chính do sự có mặt của quân đội Mỹ.
Còn hậu phương nước Mỹ
bị chấn động tai hại bởi chính những giá trị cố hữư của nó về dân chủ, công
bằng và lòng nhân đạo. Cuộc chiến tranh được truyến đi trên hệ thống truyền
hình nhiều nhất, tức thời nhất đã mang lại những cảnh tượng khủng khiếp ở Mỹ
lai, cảnh đài tá Loan bắn một người yêu nước trên đường phố một cách lạnh lùng
và khiếp nhược, những F. F. Z. (Free Fire Zone- vùng bắn phá tự do), cảnh lính
Mỹ kinh hòang ở Khê Sanh... đều vào tận phòng ngủ của người dân Mỹ, tác động
mạnh đến suy nghĩ, tình cảm của họ.
Còn hậu phương miền Bắc
Việt Nam? Phải công nhận rằng, tuy bị đánh phá liên tiếp, bị tàn phá hết sức
nặng nề, với hơn 5 triệu tấn bom đạn, nhưng đã đứng vững một cách kỳ lạ đương
đầu với pháo đài bay và Thần sám, Con Ma Mỹ. Nhà máy sụp đổ, cầu gãy, đường bị
băm nát, trường học, bệnh viện bị san bằng chỉ làm bốc cao thêm căm thù và
khinh bỉ những kẻ tội phạm bất nhân, truyền cho chiến sĩ những nghị lực mới. Đó
là lòng yêu nước truyền thống được khơi gợi mạnh mẽ, những phẩm chất vốn có của
dân tộc được phát huy rất cao. (Bộ máy lãnh đạo và nắm chính quyền lúc ấy hầu
hết là trong sáng về đạo đức, tận tụy với nhân dân, lòng dân do đó rất yên. Đất
nước hầu như không có trộm cắp và hối lộ). Tình thương yêu đùm bọc nhau giữa
thành thị và nông thôn, giữa người đi sơ tán và nơi tiếp nhận thật xúc động.
Dương Thu Hương đã nói đúng: Đảng đã khơi được nguồn tài sản vô giá, như những
khối vàng ròng, đó là lòng yêu nước cố hưữ của một dân tộc vốn chuộng đạo lý
làm người và có truyền thống chống ngọai xâm từ xa xưa. Chủ nghĩa cộng sản và
chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa Mác Lê Nin, tuy được nói rất nhiều, nhưng không
can dự gì trực tiếp đến quảng đại quần chúng nhân dân, không thể vơ vào một
cách sống sượng, kiểu nói lấy được. Tôi đã nghiệm ra rằng, khi nào lên gân theo
chủ trương đấu tranh giai cấp, theo nguyên tắc dân chủ tập trung để thực hiện
những chủ trương tả khuynh như đấu tố và xử tử tran lan trong cải cách ruộng
đất và đàn áp, bóp nghẹt trào lưu dân chủ trong các vụ chống "Nhân văn
giai phẩm, " chống "xét lại... " thì lại là vác đá ghè vào chân
mình, gây nên xáo trộn của hậu phương trong chiến tranh, gây bất ổn trong lòng
dân, làm giảm sức chiến đấu.
Cũng cần nói rõ thêm:
Cuộc chiến tranh phá họai của Mỹ nhằm gây tổn thất thật lớn để buộc đối phương
phải quỳ gối. Nhưng đối phương lại quá nghèo, cơ sở vật chất mới xây dựng chưa
có gì nhiều. Một anh nhà nghèo khi lâm trận sẽ chỉ nghĩ đến giữ được cuộc sống
của mình, vài hành lý sơ sài có mất đi cũng không sao, còn người là còn của,
còn làm ra của, cho nên dể sống mái với kẻ thù hơn mà không mảy may tính tóan
thua thiệt về vật chất. Điều cơ bản hơn chính là truyền thống chống ngọai xâm
kiêu hùng từ xa xưa được truyền lại, là truyền thống bất khuất của dân tộc được
phát huy mạnh mẽ trong thời đại mới vì độc lập tự do của đất nước.
Về tình hình quân sự Ở
Việt Nam, tôi rất băn khoăn về số lượng của quân đội, của đủ thứ lực lượng vũ
trang tại ngũ. Sau Toàn thắng 1975 đã có ý định giải ngũ một số lớn quân đội-
Nhiều đơn vị quân đội được phái đi làm nhiệm vụ kinh tế ở những vùng cần phát
triển, nhất là Tây nguyên. Nhưng khi mâu thuẫn với người thuộc dân tộc Hoa (bà
con Hoa kiều) phát sinh, sau đó việc đưa quân vào Căm pu chia làm xu hướng tăng
số quân đội và an ninh được thực hiện rất mạnh. Theo con số của Viện nghiên cứu
quốc tế về chiến lược ở IISS thì đến năm 1985 quân đội Việt Nam lên đến 1 triệu
600. 000 và lực lượng an ninh lên đến 300. 000!
Năm 1985, tôi theo Bộ
trưởng Quốc phòng Việt Nam sang thăm Ấn Độ và Indonexia. Trong cuộc hội đàm, bộ
trưởng Quốc phòng Ấn Độ cho biết, Ấn Độ có 700 triệu dân, có hai cuộc chiến
tranh ở hai đầu biên giới với Pakistan và Trung Quốc nhưng số quân chỉ chừng
900. 000 người, không bao giờ lên đến 1 triệu cả. Có nghĩa là tỷ lệ tổng số
quân trên tổng số dân là 1/700 (0, 13%). Ông nói rằng nếu đưa số quân lên đến
trên 1 triệu thì nền kinh tế và ngân sách sẽ không chịu nỗi. Tôi ngồi nghe mà
giật mình! Vì lúc ấy số lượng quân đội nhân dân Việt Nam quả thật còn hơn một
chút con số của Viện IISS trên đây, tỷ lệ quân đội và dân số lên đến 1, 6/60
tức là 2, 7%, gấp 20 lần tỷ lệ của Ấn Độ. Mấy tháng sau chúng tôi đến
Indonexia, ông Muađani (Murdani) tổng tư lệnh giới thiệu rằng Indonexia có 180
triệu dân (gấp 3 lần Việt Nam) nhưng quân đội chỉ trên 700. 000 (kém hơn 2 lần
Việt Nam), tỷ lệ nói trên chỉ là 0, 4%, mặc dầu địa thế đất nước này rất phức
tạp, có 3000 hòn đảo và vấn đề an ninh khá là nghiêm trọng. Kinh tế họ phát
triển mà tỷ lệ Ở nước họ thấp hơn ở Việt Nam đến 12 lần- Trung Quốc có hơn 1 tỷ
dân, số quân tại ngũ chính quy chỉ dưới 3 triệu, nghĩa là tỷ lệ chỉ 0, 3%, thấp
hơn Việt Nam tới gần 10 lần!
Theo thống kê của Viện
chiến lược IISS, tỷ lệ chung của thế giới là dưới 1% cho quân đội và dưới 0, 1%
cho an ninh. Theo tỷ lệ ấy đối với Việt Nam, con số 650. 000 cho quân đội và
65. 000 cho an ninh là vừa phải. Nếu muốn phát triển kinh tế với tốc độ kha khá
phải hạ thấp hơn nữa. Số quân linh quả tài một cách kinh hồn là biểu hiện của
bệnh quan liêu, duy ý chí, bất chấp quy luật, quyết định các vấn đề hệ trọng
theo cảm tính, thiếu thận trọng và thiếu khoa học. Vấn đề hệ trọng này chỉ do
Bộ Chính trị tự quyết định, chính phủ và quốc hội, cũng như Hội đồng nhà nước
đều không được bàn đến!
Khi vấn đề người Hoa bỏ
đi về Trung Quốc hoăc ra nước ngòai, cơ quan an ninh tổng kết lại và giật mình
thấy không nam được dân, cho rằng lực lượng an ninh mỏng manh quá, liền quyết
định tăng số an ninh ở cơ sở lên. Cơ quan an ninh phường vốn chỉ có 6 đến 7
người được tăng lên 30 đến 40 người, hoặc hơn nữa, và hiện nay mỗi phường có
một đại úy hoặc một thiếu tá an ninh phụ trách! Vì số quân đội và số an ninh
quá đông, ngân sách quá lớn, đời sống khó khăn, nên tư tưởng anh em diễn biến
rất phức tạp, kỷ luật sa sút rất nhanh làm cho quốc phòng và an ninh không như
trước. Tôi đến thăm sư đoàn bộ binh 304, sư đoàn cũ của tôi, chỉ huy tiểu đoàn
cho chiến sĩ về thăm nhà dài dài, với điều kiện khi lên nộp mấy yến gạo, vài
con gà, một số tiền, cho chỉ huy và cho đơn vị cải thiện! Còn chiến sĩ an ninh
trên đường phố thì đói nghèo quá đành làm liều, có khi huýt còi bắt xe gắn máy
dừng lại hỏi giấy tờ chỉ để kiếm mấy điếu thuốc thơm hút hoặc vài ngàn đồng lót
tay! Không thể trách anh em được, họ không thể sống một cách bình thường là do
cơ chế quan liêu, bảo thù, vộ trách nhiệm, tình trạng bất công xã hội lan tràn
khắp nơi.
Việc tăng quá lớn quân
đội sau năm 1975 là một việc làm duy ý chí, thiếu cân nhắc, rơi đúng vào âm mưu
thù địch cố tình làm cho Việt Nam mất sức, kiệt quệ do phải chịu một gánh nặng
quân sự, một gánh nặng về ngân sách quốc phòng quá tải kéo dài- Nó càng thêm
mỉa mai khi những khái niệm "quốc phòng toàn dân, an ninh toàn dân"
được lắp đi lắp lại đến nhàm chán mà lại không được áp dụng trong thực tế của
cuộc sống.
Về mặt tình báo chiến
lược và tình báo quân sự, có một điều có vẻ trái ngược là Mỹ rất dồi dào về
phương tiện, nhân viên và ngân sách, thế mà sự hiểu biết về ý đồ chiến lược, kế
hoạch quân sự của đối phương lại rất sơ lược. Phía Mỹ đã không phán đoán được ý
đồ chiến lược của đối phương mùa xuân 1975. Trong khi đó ở Hà Nội, đại bản
doanh quân sự lại biết khá rõ, khá kịp thời và đầy đủ mọi ý đồ quân sự của Mỹ.
Tôi quen hai nhân vật của tình báo quân sự Việt Nam: Một là Vũ Ngọc Nhạ, còn gọi
là Hai Nhạ, là "ngài cố vấn" của Ngô Đình Diệm và cả Nguyễn Văn
Thiệu. Hoạt động của ông bắt đầu từ năm 1954 cho đến cuối năm 1968 mới đổ bể.
Ông nằm ngay giữa cơ quan quyền lực cao nhất ở Sài Gòn là Dinh Độc lập để quan
sát, thu thập tin tức, tài liệu trong suốt gần một chục năm để báo cáo ra Hà
Nội những tin tức chuẩn xác, quý báu và kịp thời nhất. Cho đến khi ra tòa, bị
dồn ép tra hỏi, ông vẫn làm cho mọi người nghi vấn và tin rằng ông không phải
là cán bộ cộng sản, chỉ là một người công giáo ngoan đạo theo đường lối mới của
Vatican, có cảm tình với lực lượng thứ ba ở Việt Nam hồi ấy. Cho đến khi ông
"giả" thú nhận thật sự là cộng sản thì mọi người lại không tin, cho
ông là "xạo!" Và ở trong nhà tù người cộng sản ấy đã nhận tấm huân
chương cao nhất của Tòa Thánh Vatican "Trái tim đỏ thắm (the purple
heart). Ông Nhạ từng kể cho tôi nghe những câu chuyện lý thú chưa mấy ai biết ở
trong dinh Độc Lập hồi ấy. Có lần ông Ngô Đình Diệm được phía Mỹ gợi ý ký một
văn bản nhượng lại Cam Ranh - một cân cứ hải quân lý tưởng ở vùng Đông Nam và
Tây Thái Bình Dương - trong một thời hạn là 99 năm để đổi lấy một khoản viện
trợ rất lớn- Ông Diệm bàn chuyện này với cố vấn Nhạ - Ông Nhạ Ôn tồn nói:
"Thưa cụ, tôi xin thưa, hồi Pháp mới qua, vị đại thần nhà Nguyễn Phan Thanh
Giản trót ký nhượng ba tỉnh phía Tây Nam Bộ cho Pháp, về sau bị nhân dân than
oán quá chừng, lương tâm dầy vò quá xá, phải uống thuốc độc tự vẫn - Thưa cụ,
cụ là người ngoan đạo, mà đạo của Chúa lại ngăn cấm hủy hoại sinh mệnh bản
thân, nên việc này tôi thấy không hợp quyền lợi quốc gia mà cũng không hợp việc
đạo... " Về sau khi tổng thống Kennedy nài ép ông Diệm phải để Mỹ đưa quân
vào miền Nam, một buổi tối năm 1963, ông Diệm trao đổi ý kiến với ông cố vấn và
thổ lộ: "Ông cố vấn, chuyện này hệ trọng lắm. Ta mà cho lính họ vô đây, mà
họ là người nước ngoài, vô thời họ bắn, họ ném bom, họ hành quân trên đất nước
mình, họ còn ở lại nữa, thì sau này nếu có bàn chuyện thống nhất thời ta nói
chuyện với Cụ Hồ sao được nữa!" Người thứ hai là ông Phạm Xuân Ẩn, bí danh
là Hai Trung, một nhà báo được đào tạo nghề báo chí tại một trường Đại học Mỹ,
làm phóng viên cho các báo Time, Life suốt mấy chục năm, "cặp bồ" với
Trần Văn Đôn, Trần Kim Tuyến, trùm CIA Mỹ, các phóng viên Mỹ, Anh, Pháp, Nhật
bản... Ở Sài Gòn, đi ra trận trên máy bay lên thẳng Mỹ, chuyên nói chuyện đàn
bà và tiếu lâm với các ông nghị Ở Radio - Catinat (phòng trá trước nhà Quốc hội
Sài Gòn trên đường Catinat) để lấy tin tức... Tất cả tài liệu quý, nguyên bản
hay chụp lại, đều được đưa ra Củ chi để chuyển ra Hà Nội. Tổ tình báo của ông
chỉ có hai người (ông và bà Ba làm giao liên để chuyển tài liệu ra căn cứ) và
cả hai đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong suốt hai mươi năm mà
không một lần đổ bể, đều được phong Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân
vào cuối năm 1976.
Hai ông Nhạ và Ẩn đều
là bạn thân của tôi - Hoạt động của ông Nhạ được nhà văn Hữu Mai viết thành ba
tập tiểu thuyết mang tên "Ông cố vấn, " được tuần báo Nhân Dân chủ
nhật trích đăng nhiều kỳ. Tôi có viết thêm một số nét về ông Nhạ trên tuần báo
ấy. Tôi cũng viết về hoạt động của ông Ẩn trong bài báo "Nhà báo - Tình
báo anh hùng" cũng đăng trên Nhân dân chủ nhật tháng 6. 1990. Năm 1976,
tại đại hội đảng toàn quân, tôi dẫn ông Phạm Xuân Ẩn đến gặp đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Khi ông ra Hà Nội theo học trường đảng Nguyễn ái Quốc, ông thường
ghé lại nhà tôi chơi. Nét đặc biệt của hai nhà tình báo chiến lược này là tận
tụy, tài trí, có hiệu quả rất cao, nhưng lại không lên gân lập trường một cách
cứng nhắc. Cả hai đều hiện có tinh thần hòa hợp sâu sắc - Ông Nhạ kể cho tôi
nghe rất nhiều chuyện và giữ một thái độ khách quan đối với ông Ngô Đình Diệm,
xác nhận ý thức chống Mỹ đưa quân vào Việt Nam của ông ta, cuộc sống bình dị
của ông ta nữa và không dấu niềm cảm tình, sự đồng cảm với nhiều nhân vật công
giáo ở Việt Nam cũng như của Vatican. Ông Ẩn còn giữ thiện cảm với nhiều nhà
báo Mỹ có công tâm. Ông quý trọng nền văn hóa Mỹ - Ông hiện ở tại thành phố Hồ
Chí Minh, nuôi chó béc- giê để giải trí và cùng để kiếm sống (khi họat động ông
mua con chó béc giê giá tới 7 ngàn đô- la để tạo bình phong) và còn muốn gửi
con trai sang Mỹ học để thành tại.
Sau Hiệp định Paris,
đoàn đại biểu quân sự chính phủ miền Bắc và đoàn đại biểu quân sự Chính phủ
Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có mặt tại Sài Gòn, trong căn cứ quân sự Tân Sơn
Nhất. Hồi ấy tôi vừa là ủy viên chính thức của đoàn miền Bắc, kiêm người phát
ngôn của đoàn. Trong 60 ngày trong trại Da vít tôi dự tất cả các phiên họp
chính thức bàn việc thực hiện Hiệp định, còn đi Biên Hòa, Lộc Ninh, Mỹ Tho, Cần
Thơ, Nha Trang, Đà Nẵng... Đi bằng máy bay lên thẳng và máy bay chỉ huy do
người Việt và người Mỹ lái. Tôi cũng đi xuống phố xá Sài Gòn 12 lần để gặp gỡ
các đoàn ấn Độ, Canada, Ba Lan, Hưng ga ri trong ủy ban quốc tế và tổ chức 5
cuộc họp báo trong trụ sở. Đây là những thời cơ lý tưởng để tìm hiểu tình hình
mọi mặt của đối phương một cách đầy đủ, bằng trực giác, nghĩa là nhìn thấy,
nghe thấy bằng chính tai mắt mình... Tôi gặp và hỏi chuyện đủ loại: Tướng, đại
tá, sĩ quan và hạ sĩ quan các cấp, thuộc các binh chủng bộ binh, không quân, ở
Bộ tổng tham mưu, ở cục chiến tranh chính trị, hỏi chuyện cả bà con nông dân,
viên chức gặp được... Chỗ yếu và chỗ mạnh, khả năng chiến đấu, những khó khăn
trong quan hệ Mỹ- Sài Gòn, những tính toán của phía Mỹ, những nỗi lo của quân
đội Sài Gòn... đều được thu lượm, nghiên cứu, nhận định, bổ sung cho những hiểu
biết trước kia vốn chỉ là gián tiếp về đối phương.
Sau 60 ngày làm việc,
žy ban quân sự Liên hợp 4 bên giải thể, nhường chỗ cho ủy ban liên hợp quân sự
hai bên (Chính phủ lâm thời và chính quyền Sài Gòn) vẫn ở trong trại Davít (Tân
Sơn Nhất). Đoàn đại biểu của chính phủ lâm thời đóng ở đó cho đến tận ngày 30.
4. 1975. Đó là một vị trí quan sat tình hình rất lợi hại ngay trong thành phố
để hiểu rõ thái độ chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và văn hóa ở thủ đô
miền Nam Việt Nam. Tối 30. 4. 1975 tôi đã từ Dinh Độc lập vào tới đây và nhờ bộ
phận thông tin quân sự vốn đã quen từ hồi 1973 đánh bằng tín hiệu morse ra Hà
Nội bài báo của tôi về sự kiện lịch sử ngày 30. 4 ấy. Đó là bài báo duy nhất
lọt ra khỏi Sài Gòn vì hệ thống truyền tin của Bưu điện đã bị ngừng. Có một
chuyện buồn cười. Trong bài báo của tôi có nói về cái thực đơn của tổng thống
Việt Nam cộng hòa chiều 30. 4 ấy. Tôi thấy nó trong ngăn kéo của bàn giấy tổng
thống. Thực đơn có nhiều món, trong đó đặc sắc nhất là: Gân bò hầm sâm (thực tế
là món "ngẩu pìn" trứ danh của người Trung quốc dành cho thượng
khách), thế nhưng do đánh bằng tín hiệu nên chữ "gân" bị nhận lầm là
chữ "gan", một món khác là món cá thu kho mía kiểu miền Nam thì bị
đánh nhằm là cá thu kho giá, nhiều người hỏi tôi gan bò và giá thì có gì là đặc
sắc!
Về cuộc chiến tranh ở
Căm pu chia, tôi có nhiều suy nghĩ trong suốt hơn 10 năm nay. Tôi đã đến dọc
các vùng biên giới với Căm pu chia ở các tỉnh Kiên Giang (Hà Tiên), An Giang
(Châu Đốc), Long An và Tây Ninh. Khi Khơ me đỏ tấn công và gây ra những vụ thảm
sát kinh người! Những nạn nhân dọc kinh Vĩnh Tế tôi được thấy tận mắt tháng 9.
1977 đều bị mổ bụng, đạp vỡ sọ, móc mắt và cắt dương vật, hay thọc gậy vào cửa
mình! Suốt một tuần lễ cảnh tượng ấy làm tôi kinh hoàng, cảnh máu me và thịt
người bấy nát làm tôi kinh sợ không dám nhìn, không dám ăn một miếng thịt bò!
Tôi cũng dự cuộc họp của cán bộ cấp cao ở trong căn cứ Tân Sơn Nhất do Bộ Quốc
phòng triệu tập để thảo luận về cách đánh trả Khơ me đỏ hồi tháng hai năm 1978.
Lúc ấy cuộc chiến đấu rất khó khăn vì không được phép đánh vào nội địa Căm pu
chia, về sau chỉ được đánh vào sâu tối đa là 10 km khi truy kích và phải quay
trở về ngay. Lính Khơ me đỏ lại chịu đựng giỏi thời tiết mưa nắng, quen lội qua
đầm lầy, thức ăn chỉ một gói cơm cứng gói trong lá thốt nốt, đi chân không lội
bùn, đánh theo kiểu du kích lúc ẩn lúc hiện. Tổn thất của các đơn vị Việt Nam
khá cao, bình quân số chết và bị thương hàng tháng cao hơn cả thời chiến đấu
chống Mỹ và Sài Gòn! Cuối cùng tháng 12. 1978 đã có quyết định tổng tấn công
giải phóng Căm pu chia bằng một số quân đoàn từng tham gia chiến dịch Hồ Chí
Minh. Quyết định này được thực hiện rất bí mật để gây yếu tố bất ngờ. Tôi đi
cùng với anh em phóng viên của báo và đài phát thanh quân đội. Trước đó tôi đã
tìm hiểu tình hình ở Căm pu chia qua hỏi chuyện hàng trăm người ở các trại tỵ
nạn dọc biên giới, nhất là ở trại Bến sắn, Tây Ninh. Khơ me đỏ đã kháng cự khá
mạnh ở nhiều nơi như Xvai- riêng, Campốt, Crotié và Preyveng... nhưng khi quân
Việt Nam đã vào sâu được chừng 20 km thì hầu như không còn kháng cự gì nữa. Khơ
me đỏ bỏ chạy tán lọan về phía Tây.
Nhân dân Căm pu chia
kiệt quệ, gầy mòn, ốm yếu và đón bộ đội Việt Nam trong mừng rỡ khôn xiết- Tất
cả các gia đình đều ly tán, nhân dân bị cưỡng bách đến nơi xa lạ (dân phía Đông
chuyển sang phía Tây, dân phía Nam đầy lên phía Bắc... ). Các thành phố Svai-
riêng, Tà Keo chúng tôi đi qua cũng như thủ đô Pnom- Penh hoàn toàn hoang vắng,
cỏ mọc lút đầu. Nhà không số, đường không tên, không tiền nong, không chợ búa,
không hàng hóa cho đến con người cũng không giấy tờ, chứng minh thư nào cả-
Không thể tưởng nổi, một đất nước không có trường học, không có bệnh viện! Sức
dân kiệt đến nỗi họ không nói, không cười nổi nữa! Chúng tôi gặp bác sĩ ch-
Kim- Seng hiện la bộ trưởng Y tế từng học ở Pháp về, vừa từ Tà Keo đi bộ lên,
chân đất, da nhăn nheo, ông mới gần 60 tuổi mà trông như cụ già 80! Ông bị Khơ
me đỏ giao cho chăn dắt một đàn bò, thỉnh thoảng làm thịt cho bộ đội chúng ăn.
Tôi được phân công giúp
họ trong việc tổ chức hãng thông tấn SPK, việc tổ chức báo Quân đội Căm pu chia
và về sau là giúp cho báo Căm pu chia hàng tuần. Tôi đã giúp cho anh Prach-
xun, một nhà báo cũ, nay ở Ban đối ngọai của đảng Nhân dân cách mạng Căm pu
chia, tổ chức việc đón tiếp hai đoàn nhà báo nước ngoài lên thăm Căm pu chia
vào tháng 1 và tháng 2. 1979, hướng dẫn họ đi thăm Pnom- Penh từ sân bay Po-
chen- tong vào thành phố trên một chiếc xe bus lớn có gắn loa do anh em bộ đội
Việt Nam sửa chữa để sử dụng. Tôi ở lại Căm pu chia gần ba năm, thỉnh thoảng đi
về thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tôi thu được khá nhiều tài liệu của bọn Khơ
me đỏ, tìm hiểu về những chủ trương diệt chủng của chúng. Thật là tận cùng của
sự tàn bạo, bất nhân, còn quá cả bọn phát xít nazi, nhưng lại đội lốt bằng
những Mỹ từ: Một chủ nghĩa cộng sản trong sạch, trong sạch, cực kỳ trong sạch,
một chế độ tuyệt vời, tuyệt vời, rất tuyệt vời, lãnh đạo bởi một đảng cộng sản
sáng suốt, sáng suốt và rất sáng suốt, là mẫu mực cho tất cả các đảng cộng sản
khác trên toàn thế giới (họ có cái kiểu chuyên môn lắp lại ba lần một tính từ
để gây ấn tượng). Đây là cách mạng văn hóa vô sản kiểu Trung Quốc, được thực
hiện triệt để hơn, rộng khắp hơn, không khoan nhượng và tự tin tuyệt đối, được
thực hiện "trong nhà với nhau", khi đất nước đóng chặt cửa, nội bất
xuất, ngọai bất nhập. Pnom- Penh lúc ấy chỉ có 6 sứ quán của Trung quốc, Bắc
Triều tiên, Nam tư, Rumani, Việt Nam và Lào. Sứ quán Việt Nam đã rút về từ
trước. Các sứ quán khác đều rút qua Thái Lan chiều 5. 1. 1979, trừ sứ quan Lào
được chỉ thị từ Viên chăn là phải ở lại. Sáng 8. 1. 1979 tôi gặp ông đại sứ Lào
đã cao tuổi Vi- na- chít, nói được tiếng Việt, cùng 4 viện chức trong sứ quán.
Tất cả vừa trải qua cơn ác mộng, vì bất cứ lúc nào bọn Khơ me đỏ cũng có thể
xông vào bắn chết khi chúng rút chạy trong hỏang loạn.
Tôi tan thành cuộc tiến
công gỉa?i phóng Căm pu chia. Đó là quyền tự vệ của một đất nước bị Khơ me đỏ
ngang ngượi, chúng đồng thời là một hành động SOS, cấp cứu cả một dân tộc bị
đòa đầy và bị giết hại dần mòn. Trước đó ông nghị MacGovern đã kêu gợi có hành
động quân sự để cứu dân tộc này đang bị thảm sát. Nhưng chẳng có ai động đậy
cả. Khi bộ đội Việt Nam vào, giữ nghiêm kỷ luật, mang theo cả gạo, muối thịt
rau, chịu cực đóng quân ngoài rừng, chia xẻ lương thực, áo quần, thuốc men cho
nhân dân nước bạn, được tất cả nhân dân nước bạn biết ơn và quý trọng. Rõ ràng
đó là một nghĩa cử cao đẹp.
Nghĩa cử ấy sẽ còn cao
đẹp bền lâu nữa nếu không phạm hai sai lầm rất lớn sau đó- Một là để bộ đội
Việt Nam quá lâu ở Căm pu chia- Đây là việc không được dự kiến. Sau khi giải
phóng nhanh chóng Căm pu chia, bệnh kiêu ngạo chủ quan lại ngự trị, họ mừng tưởng
bọn tàn quân Khơ me đỏ sẽ bị diệt hết trong thời gian ngắn. Người ta cho rằng
ông hoàng Xihanuc không còn vị trí gì nữa! Thư ông ta gửi tới Hà Nội không ai
thấy cần phải trả lời! Rồi Thái Lan và Trung quốc tận lực tiếp sức cho Khơ me
đỏ. Thế là bộ đội Việt Nam bị sa lầy, bị kẹt. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bại
ngoại, gây lại thù hằn cũ làm cho người Việt Nam gặp nhiều khó khăn thêm. Ngay
từ năm 1982, nói chuyện với đại sư Việt- Nam Ngô Điền ở Pnom penh, tôi đã nhận
xét tình thề này rất không ổn. Cần sớm rút chân ra khỏi bãi lầy một cách nhanh
chóng, không nên do dự và luyến tiếc. Yêu cầu Liên hợp quốc và Cộng đồng quốc
tế đảm nhận việc giải quyết Căm pu chia cùng với những phe phái trong nước Việt
Nam sẽ cùng tham dự với các nước khác- Việt Nam không có đủ sức và đủ lý để giữ
mãi quân đội trên một nước láng giềng, trong khi việc tiêu diệt hết Khơ me đỏ
nằm xa ngoài tầm tay rồi. Suốt 10 năm liền, tại các cuộc bỏ phiếu hàng năm tại
Liên hợp quốc, Việt Nam chỉ được sự ủng hộ của 20 đến 30 nước, bị thiểu số nặng
nề, mà vẫn cứ thản nhiên như không!
Sai lầm thứ hai rất tai
hai. là ý định xây dựng một khối liên minh Việt- Miên- Lào riêng rẽ, với những
khẩu hiệu và nội dung: Mối liên minh đặc biệt giữa ba nước Đông dương, tình hữu
nghị đặc biệt giữa nhân dân, chính phủ và ba đảng anh em, mối quan hệ đặc biệt
vừa là đồng chí, vừa là anh em... Sao lại đặc biệt? Trong ba nước ấy, Việt Nam
có 60 triệu dân, Căm pu chia chỉ có chưa đầy 6 triệu và Lào chỉ có chưa đầy 3
triệu (hồi năm 1985) thì làm sao mà bình đẳng được! Rõ ràng Việt Nam nghiễm
nhiên là người anh cả, Lào là chú em út và Căm pu chia là chú em nhỏ xíu! Dù
cho có ý muốn bình đẳng thì trên thực tế vẫn rất khó. Việt Nam bị hoài nghi, bị
các nước ASEAN phê phán, bị thế giới chê cười. Trong đội ngoại Việt Nam có thói
quen coi mình là một trung tâm, coi khu vực Đông dương là vùng ảnh hưởng của
riêng mình, không cần cân nhắc đếm xỉa đến các nước khác, đến dư luận thế giới
và tự chuốc lấy sự cô lập và khó khăn!
Có những biểu hiện chủ
quan, kiêu ngạo trong quan hệ quốc tế rất kỳ quặc. Hồi mười năm trước, thường
có những cuộc gặp gỡ hàng năm giữa Bộ quốc phòng ba nước Việt Nam, Căm pu chia
và Lào. Vào năm 1982, cuộc họp ấy diễn ra ở Pnom- penh, trong điện Chằm Ka Mon
(dịch là vườn dâu, bên bờ sông Mê Công). Đại diện Bộ quốc phòng Việt Nam là đại
tướng chủ nhiệm tổng cục chính trị Chu Huy Mân, ủy viên Bộ chính trị của đảng
cộng sản Việt Nam. Vị đại tướng xuất thân cố nông này phát biểu sau cùng, không
giấy tờ, không chuẩn bị gì hết, sau khi hai vị tướng Lào, và Căm pu chia đã đọc
diễn văn tử tế- Ông Mân nói đại thể: Đến lượt tôi, chúng ta là anh em với tình
nghĩa đặc biệt, trong nhà với nhau, tôi nói miệng thôi nhé. Đồng ý không nào!
Rồi ông đằng hắng lên giọng:
Kính thưa... đồng
chí... đại tướng... Bu Thoong... Bô... trưởng Bộ quốc phòng... nước cộng hòa...
nhân dân... Mông cổ... (thấy các sĩ quan Việt Nam có mặt giật mình)... à quên,
nước cộng hòa nhân dân Căm pu chia! Chuyện cứ như đùa, mà hoàn toàn có thật! Số
là tuần trước, ở Hà Nội, tướng Mân đón và đọc diễn văn chào mừng đoàn đại biểu
Bộ Quốc phòng Mông cổ - Sợ lầm lẫn trong khi ứng khẩu mà lại lầm lẫn thật sự!
Ông lại ngà ngà say sau khi uống một chén rượu thốt nốt! Vẫn là từ thái độ anh
cả!
Về chuyên gia Việt Nam
ở Căm pu chia có những anh em am hiểu, tận tâm, và vô tư giúp đỡ bạn, tôn trọng
bạn, được bạn rất quý mến. Nhưng đang tiếc số ấy còn ít, quá ít. Còn
"chuyên gia, chuyên giả, chuyên già" thì lại quá đông... "Chuyên
giả" vì nhiều người được cử đi là do chính sách chiếu cố. Sang Pnom penh,
có thể mua bán được ít đồ Thái Lan không phải thuế, đem về Việt Nam có thể kiếm
được ít lời, cho nên số cán bộ có thành tích lâu năm(!), nhiều tuổi, sắp về
hưu, đều được chiếu cố cho đi chuyên gia Căm pu chia một vài năm. Bất kể sang
có làm đúng cái nhiệm vụ rất khó khăn của một chuyên gia được hay không! Phần
lớn sang là để "tìm hiểu thị trường", "nghiên cứu hàng
hóa", tích lũy đôi chút để chuẩn bị về hưu cho cuộc sống được tạm ổn.
Nhiều anh em trí thức Căm pu chia ngay thật cho tôi biết nhiều chuyên gia về
kinh tế, về kế hoạch nhà nước, về ngân hàng, về tài chính... chẳng có trình độ,
không thể coi là chuyên gia. Đã thế họ lại phát biểu ý kiến quá "mạnh
dạn" đến mức ẩu tả, cứ y như là ở Việt Nam hay Liên xô, mà không am hiểu
tình hình riêng của Căm pu chia. Một số chuyên gia về quốc phòng và an ninh xử
lý công việc rất chủ quan, hách dịch, vượt qua đầu, không tính đến chủ quyền
quốc gia, xử lý một cách độc đoán và gây nên những oan trái rất lớn, để lại
những hậu quả khôn lường. Những điều ấy tôi chưa tiện nói ra ở đây, vì không
muốn đụng đến những vết thương đang kín miệng.
Về quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay, tôi không thể nói gì đến những vấn đề thuộc linh vực bí mật
quân sự, bí mật quốc gia. Vì đó là nguyên tắc. Tôi không thể làm gì có hại cho
đất nước dù cho những người lãnh đạo đã khai trừ tôi ra khỏi đảng, và cất mọi
chức vụ của tôi. Họ đã nhân danh nhân dân một cách giả dối để phụ tôi, nhưng
tôi không bao giờ phụ đồng bào và quân đội. Tôi còn tấm lòng, lương tâm và
trách nhiệm với nhân dân- Quân đội hiện nay sống rất cực khổ- Việc giảm nữa
triệu quân đã được thực hiện hai năm nay, nhưng theo tôi số quân vẫn còn quá
đông, ngân sách quân sự còn quá lớn, rất có hại cho nhân dân, nhà nước và chính
quân đội. Có người ngụy biện rằng, giảm quân sẽ làm tăng số thất nghiệp vốn đã
quá nhiều! Quốc hội cần không chế con số: Một phần trăm cho quân đội và một
phần nghìn cho an ninh tính trên tổng dân số theo ý lệ trung bình của thế giới.
Hãy xem thống kê của Thái Lan: 54 triệu dân, số quân chỉ có 270. 000 tại ngũ,
Malaixia 16 triệu dân, số quân chỉ có 120. 000 (thống kê IISS). Tinh thần của
bộ đội ta không khác gì nhân dân: Lo âu về hiện tình đất nước, không tin ở
tương lai gần và xa, mất tin ở sự lãnh đạo của đảng và nhà nước, càng không tin
ở "đổi mới" vì thiếu mạnh dạn và nhất quán. Đáng chú ý số cán bộ ve
hưu ngày càng đông. Trong số đó chỉ độ một phần tư sống ổn định, vì thu vén
được chút ít khi còn tài chức. Còn thì sống ở mức thấp và một phần tư nữa là
sống cực kỳ gay gắt. Gia đình nào không có con em đi học, đi lao động ở nước
ngoài, không có bà con ở nước thì rất gay. Cảnh "đầu đường thiếu tá bơm
xe, cuối đường trung tá bán chè đậu đen, giữa đường đại tá rao kem" là
chuyện không hiếm. Có đại úy văn công về hưu đi thổi kèn đám ma. Tôi quen thân
với một số vị tướng thiếu tướng ở Bộ Quốc phòng. Ai đã từng là đơn vị trưởng,
chỉ huy sư đoàn, quân đoàn, có chức, có quyền, nhất là ở các ngành vật chất như
quân nhu, quân trang, hậu can, quân y... thì nói chung là khá giả... Còn các
viên tướng cạo giấy ở các văn phòng, cơ quan Bộ hay ở các trường huấn luyện thì
rất "rách. " Gia tài là một chiếc xe đạp, đến chiếc xe máy cũng không
có. Có người phải ra máy nước công cộng hứng nước hay xách nước từ tầng dưới
cùng lên tầng tư tầng năm. Rất nhiều sĩ quân cấp cao ngay thẳng, tận tụy có tâm
huyết với cách mạng và nhân dân, liêm khiết và trong sạch rất băn khoăn suy
nghĩ sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về sự lãnh đạo của Đảng. Chính họ đã tạo nên
một sự kiện "lạ lùng" và bất ngờ. Hồi tháng 9. 1986, đại hội Đảng
toàn quân họp để thảo luận văn kiện và cử đại biểu đi dự đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ 6. Cuộc thảo luận được diễn ra trong tinh thần đổi mới đang sôi nổi,
hào hứng: Nói thẳng, nói thật, nói hết... Nhiều đại biểu phê phán thẳng cánh
một số thượng tướng, đại tướng đứng đầu quân đội:
Thiếu gương mẫu, nhà
dột từ nóc, tham nhũng chiến lợi phẩm, dung túng cho vợ con làm sai chính sách,
tạo nên những kẻ xu nịnh ở chung quanh, vô trách nhiệm với đời sống gay go của
bộ đội, sa sút ý chí chiến đấu... Khi bầu đoàn đại biểu, mặc dầu có danh sách hướng
dẫn của đoàn chủ tịch hội nghị, ba vị lớn nhất của quân đội: Đại tướng bộ
trưởng bộ quốc phòng, đại tướng chủ nhiệm tổng cục Chính trị (hai vị này đều là
ủy viên bộ Chính trị trung ương đảng) và thượng tướng phó chủ nhiệm Tổng cục
chính trị đều bi... ra rìa, không trúng trong đoàn đại biểu chính thức 72
người! Cả Hà Nội xôn xao suốt một tháng trời về cái tin giật gân này! Những
người có công tâm vui mừng vì cuộc sống dân chủ đã tạo nên quyền quyết định và
giám sát của cấp dưới đối với cấp trên. Đây là dân chủ thật, đẩy lùi dân chủ
hình thức: "Dân chủ có lãnh đạo", "dân chủ gắn với tập
trung", có nghĩa là "dân chủ vừa phải!" Các vị cầm cân nẩy mực
trong đảng và quân đội đã mở cả một cuộc điều tra về cái hiện tượng "dân chủ
quá trớn" này, để cố truy tìm xem ai là kẻ đầu têu, là kẻ giật dây, là kẻ
có âm mưu tiếm quyền? Bộ máy tổ chức của đảng lập tức rút kinh nghiệm là đã mất
cảnh giác nghiêm trọng về cuộc đại hội toàn quân này, có kế hoạch ngăn chặn
ngay để ngọn triều dân chủ ấy không được dâng lên trong đại hội đảng toàn quốc
lần thứ 6 mấy tháng sau đó.
Và quả nhiên đại hội
đảng lần thứ 6 được đặt tên là "Đại hội của ông Sáu", nghĩa là đại
hội của ông Sáu, Lê Đức Thọ, từng là žy viên bộ Chính trị kiêm Trưởng ban tổ
chức trung ương đảng trong hơn 30 năm liền. Đây là bộ máy quyết định từ cấp vụ
trưởng, tổng cục trưởng, thứ trưởng lên đến những chức vụ cao nhất. Hồi ấy theo
đề xuất của đại hội đảng toàn quân, bộ ba thích hợp nhất nên là: Ông Trường
Chinh ở cương vị Tổng bí thư vì là người đầu tiên phác họa ra kế hoạch, quan
niệm, phương án đổi mới ở Việt Nam, ông Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội đồng nhà
nước, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Những ngày đầu
của đại hội 6, nhiều đại biểu của các tỉnh miền Nam cũng như của Hà Nội... rất
đồng tình về bộ ba: Chinh- Đồng- Giáp ấy. Đột nhiên khi đại hội bước vào họp
nhân sự, Ban tổ chức trung ương Đảng đưa ra một phương án khác: Nguyễn Văn Linh
làm Tổng bí thư, Võ Chí Công làm chủ tịch Hội đồng nhà nước, Phạm Hùng làm chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng... Để cho phương án này trót lọt "anh Sáu" đã
có sáng kiến viết một lá thư ngắn "kính gửi các đồng chí Trường Chinh và
Phạm Văn Đồng" đại y rằng: Nhiều đoàn đại biểu có ý kiến (?) là hai đồng
chí với tôi tuổi đã cao, sức đã yếu không nên tham gia Ban chấp hành trung ương
đảng nữa, mà sẽ nhận làm nhiệm vụ cố vấn cho Ban chấp hành trung ương. Tôi thấy
đây là một đề nghi hợp lý. Nếu các đồng chí và tôi còn nhận nhiệm vụ thì sẽ có
thể bị hiểu nhầm là tham quyền cố vị. Rất mong câc đồng chí đồng ý với đề nghị
này... " Theo những người ở văn phòng trung ương đảng kể lại, chính ông
Nguyễn Khánh, žy viên trung ương đảng, vốn từng là Chánh văn phòng trung ương,
sau là Tổng thư ký Hội đồng bộ trưởng là người cầm lá thư này đến tận nhà các
ông Trường Chinh và Phạm Văn Đồng.
Hồi 1986, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp vẫn còn được tín nhiệm rất lớn trong đảng. Rất nhiều đại biểu cho
rằng hiểu biết rộng và uy tín lớn trong và ngoài nước của đại tướng là vốn quý
của dân tộc cần tận dụng. Thế là bộ máy tổ chức và an ninh, bảo vệ đảng được
huy động để ngăn chặn xu thế này. Thế là Trung ương và các đại biểu dự đại hội
được thông báo về "một số vấn đề lịch sử của đồng chí Võ Nguyên Giáp.
" Thủ đoạn là: Dịch một lá đơn xin học bổng để được đi học bên Pháp gửi
phủ Toàn quyền Đông dương hồi đầu những năm 1930. Trong đó có những câu viết
theo công thức đơn tự thịnh hành một cách đương nhiên hồi ấy: "Xin gửi
ngài lời chào kính trọng và những tình cảm chân thành... người phục vụ tận tụy
của ngài. " Những người có bệnh "lập trường vững vàng" kiểu lên
gân không bới móc gì được ở tư cách sống, tính liêm khiết sự hiểu biết rộng
hiện nay của ông Giáp đã tìm ra một cái cớ được coi là xác đáng. Một người cộng
sản lại gọi tên trùm thực dân đế quốc là Ngài, lại còn "trung thành",
"tận tụy", là "người phục vụ" (người đầy tớđịch theo tự
điển) thì không thể tha thứ được! Thủ đoạn này gây nên trò cười những người ít
nhiều có văn hóa và hiểu biết, nhưng lại tạo nên được sự hoài nghi của một số
đại biểu các tỉnh vốn không biết gì về những công thức ứng xử thời xưa...
Vị đại tướng bộ trưởng
Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng đã bị đại hội đảng toàn quân khước từ thì lại có
một "dịp may" hiếm có:
Đúng 10 ngày trước khi
đại hội 6 khai mạc, đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, ủy viên trung
ương đảng đang rất khỏe mạnh bổng nhiên đột tử ở nhà, một cái chết cho đến nay
vợ và con ông vẫn còn phân vân về nguyên nhân thật sự. Sáng 5 tháng 12 Bộ Chính
trị đã quyết định ông sẽ đảm nhiệm chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng thay ông Văn
Tiến Dũng. Trưa 5 tháng 12 ông đột tử. Do ông Tấn mất mà ông Dũng, người đứng
đầu danh sách dự bị của đoàn đại biểu quân đội- được nâng lên là đại biểu chính
thức dự đại hội 6. Tai họa và có thẻ nói là tai vạ của đại tướng Tấn đã trở
thành điều may hiếm có cho đại tướng Dũng.
Và một điều khá kỳ lạ
nữa ông vẫn được bầu vào Ban chấp hành trung ương khóa VI (làm cho không ít sĩ
quan quân đội sửng sốt) và liền đó còn được tham gia ban dự thảo Tổng kết chiến
tranh của quân đội và cả ban Dự thảo chiến lực đến năm 2000 nữa!
Những điều bất ngờ chấn
động Đại hội toàn quân năm 1986 đến nay vẫn còn gây lo sợ cho cơ quan lãnh đạo
của đảng cộng sản. Họ đã ra những thông tri liên tiếp để công việc chuẩn bị cho
đại hội 7 sẽ thuận buồm xuôi gió, theo đúng ý của lãnh đạo... Tuyệt đối không
cho ai có quan điểm dân chủ đa nguyên được lọt vào bất cứ đại hội nào trên cấp
cơ sở- Hơn 1000 sĩ quan cao cấp từ trung tướng đến đại tá được về hưu trong
tháng 11 và 12 năm 1990 sẽ không tham gia đại hội đảng của các đơn vị quân đội.
Trong số sĩ quan này ắt hẳn có nhiều "kẻ bất trị" vì am hiểu nội bộ
quân đội muốn nói thẳng, nói thật, nói hết, muốn có một quân đội hiện đại cả về
tổ chức, vũ khí và tư tưởng và Họ sẽ đòi hỏi phải chấm dứt tệ tham nhũng vô
trách nhiệm, những bất công lớn, tệ quan liêu và quân phiệt... với biển pháp cơ
bản là quyền dân chủ rộng rãi và sự bình đẳng về nhân cách- Cho họ về hưu, về
vườn, nghỉ cho khỏe... là tháo một ngòi nổ nguy hiểm trong thực hiện "dân
chủ và đổi mới. " Điều trót hứa hẹn long trọng từ hơn 4 năm trước đang
được uốn nắn lại, nhấn mạnh đến tập trung và kỷ luật.
Đầu năm 1987, ngay sau
khi kết thúc đại hội 6, nghị quyết mới được phổ biến để chấp hành, đảng ủy quân
sự trung ương vừa họp phiên đầu tiên sau đại hội thì một viên tướng nữa chết
đột ngột. Đó là trung tướng Phan Bình, cục trưởng cục quân báo của Bộ Tổng tham
mưu, với thông báo là đã tự sát, tự bắn súng ngắn vào đầu mình- Tôi rất quen
với tướng Bình, người Quảng Nam, khổ người nhỏ nhắn, đảm nhận chức vụ này từ
năm 1962, thay đại tá Nguyễn Minh Nghĩa bị buộc tội là "xét lại. " ở
Bộ Tổng tham mưu, nhiều người cho biết ông Bình rất gần gũi gia đình bộ trưởng
quốc phòng Văn Tiến Dũng, biết khá nhiều chuyện riêng tư, về tham nhũng, chia
chác chiến lợi phẩm trong hàng ngũ các viên tướng trong cơ quan bộ quốc phòng
và bộ tổng tham mưu. Ông lại là ủy viên trong cấp ủy đảng tại đó. Ông chết
trong một ngôi nhà tại thành phố Hồ Chí Minh. Các phòng ở của ông tại nhà riêng
bị lục soát. Đúng một tuần sau, con trai cả của ông, một trung tá quân đội,
người đang giữ tất cả những tài liệu thư từ riêng của ông, bị một tai nạn và
chết ngay trong một cuộc đụng xe gắn máy trên đường thành phố Hồ Chí Minh. Lại
một câu hỏi nữa, đến nay vẫn chưa được giải đáp có sức thuyết phục...
Trước đó, tháng 6.
1986, đại tướng thứ trưởng quốc phòng Hoàng Văn Thái cũng bị chết đột ngột tại
nhà, sau một tuần liền họp hành rất căng thẳng ở Bộ Quốc phòng, vào dịp chuẩn
bị cho đại hội đảng toàn quân và đại hội đảng toàn quốc lần thứ 6. Ông tham gia
đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập tháng 12. 1944, là Tổng
tham mưu trưởng trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945- 1954). Ông
từng vào miền Nam, ở căn cứ R hơn ba năm, là phó tư lệnh các lực lượng vũ trang
giải phóng ngay khi cuộc chiến tranh đặc biệt chuyển thành cuộc chiến tranh cục
bộ- Ông là sĩ quan gần gũi nhất của đại tướng Võ Nguyên Giáp, cùng ở trong sở
chỉ huy Mường Phăng ở Điện Biên Phủ- Tôi còn nhớ, đúng ngày 7. 5. 1984 (kỷ niệm
30 năm chiến thắng Điện Biển Phủ), Bộ Quốc phòng tổ chức ôn lại chiến dịch ấy
tại sa bàn lớn trong Viện bảo tàng Quân đội trên đương Điện Biên Phủ. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đến dự và nhắc đến những kỷ niệm 30 năm trước, nhắc đến chỉ huy
từng sư đoàn - Khi kết thúc, đi ra phía Cột cờ, đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫy
đại tướng Hoàng Văn Thái lại và nói với tôi như phân trần: "Nhà báo lại
đây! Đây, anh Thái đây - Có phải hồi ấy khi tôi quyết định thay đổi phương châm
công kích, anh không thông, còn chống tôi nữa phải không?" Đại tướng Hoàng
Văn Thái cười xòa: "Vâng, thưa anh đúng như thế. Vì lỡ chuẩn bị tất cả
rồi, bộ đội được động viên rất hăng, chỉ chờ lệnh nổ súng. Hoãn lại thật là
gay! Nhưng nếu không hoãn thì còn gay hơn. Có khi không thắng mà còn bị tổn
thất nặng nề, kháng chiến không còn biết ra sao! Vì vốn liếng xây dựng của ta
hơn 5 sư đoàn đều đưa vào đó cả!" Tôi còn giữ tấm ảnh chụp vào đúng thời
điểm ấy, trưa ngày 7. 5. 1984.
Ông Thái rất quý mến
ông Giáp. Hai ông còn thân thiết vì tình cảm thông gia. Võ Điện Biên, con trai
đầu của ông Giáp sinh đúng vào năm của chiến thắng Điện Biên Phủ, lấy Hoàng Thị
Kim Phượng con gái cưng của ông Thái. Cả hai đều là sĩ quan quân đội, Điện Biên
là trung tá binh chủng Phòng không quân, Kim Phượng là sĩ quan quân y, ở ngành
dược, hiện công tác ở cực quân y quân đội. Mẹ của Kim Phượng là bà Loan, cấp
bậc đại tá hiện nay đã nghĩ hưu. Trước kia bà làm công tác chính sách hậu
phương ở bộ tổng tham mưu là một trong bốn nữ chiến sĩ giải phóng quân đầu tiên
hồi trước cách mạng tháng Tám. Đầu tháng 9. 1945, bà đã từ căn cứ Việt Bắc về
Hà Nội trong chi đoàn Quang Trung nổi tiếng hồi đó.
Nhìn lại cuộc đời người
lính suốt trong 37 năm 3 tháng, tôi đã nếm đủ mùi gian khổ và vinh quang của
người cầm súng- Tôi đã là lính, đứng canh gác, rồi tiểu đội trưởng ở lớp huấn
luyện, là trung đội trưởng ở đường số 9, đi truy lùng tận quân Pháp ở vùng
Trung Lào, là đại đội trưởng đại đội chủ công trong chiến dịch giữ thành Quảng
Trị khi quân Pháp đổ bộ lên đầu năm 1947, rồi tiểu đoàn trưởng ở địch hậu Triệu
Phong, Hải Lang (Quảng Trị), làm giám đốc trưởng sĩ quan Lê Lợi của quân khu
ba, rồi giám đốc trường quân chính của sư đoàn 304, rồi lên bổ sung cho chiến
dịch Điện Biên Phủ, khi chiến dịch bước vào thời kỳ thay đổi phương châm tác
chiến. Tôi đã ba lần đi qua đường mòn Hồ Chí Minh, vào Bình Trị Thiên, quân khu
Năm và chiến trường Tây Nguyên, xuống tận đồng bằng Trung Bộ, vào ấp chiến lược
ở Quảng Ngãi tham gia nghiên cứu các mặt tình hình. Tôi đã nhiều lần ốm nặng
tưởng không qua khỏi: Kiết lỵ, bị sốt rét ác tính, bị sâu quảng khắp người, các
nốt lở to bằng đồng hào ván sâu hoắm, ba lần bị thương vì đạn cối, pháo, viêm
ruột thừa cấp tính, bị nhiễm trùng toàn bộ Ở ổ bụng. Những lần đói khát thì
không sao kể xiết. Phải ăn gạo mủn chua và đắng vì chôn dưới cá ẩm hàng tháng
trời mới moi lên... khi hành quân thiếu rau, gặp được một hay hai lá rau mà
cũng cố dừng lại để hái, gom lại để đến khi nghỉ có được vài chục ngọn rau để
nhấm ăn... Có khi giữa rừng gặp một cay cam ở một ngôi nhà bỏ hoang, hái chia
mỗi người một quả, thế mà nhấm từng múi để dành trong suốt hai ngày đêm... Đói
và khát, có khi khát đến cháy cổ, kiệt sức mắt nổ đom đóm thì vừa lết đến một
ngọn suối. Một ngụm nước tan nhanh vào toàn cơ thể như nở ra từng tế bào, từng
thớ thịt. Có khi ở căn cứ thiếu muối phải lục tìm lá chuối gói thịt, cá gài ở
mái lều đem ra mút lấy chút vị mặn. Cũng có khi phải lấy một viên thuốc
quinacrine pha loãng ra thành năm liều thuốc tiêm.
Còn vinh quang ư? Tôi
không bao giờ thích thú về những vinh quang hão huyền, hình thức. Tôi đã được
16 huân chương lớn nhỏ:
Từ huân chương chiến
công, huân chương Chiến thắng, đến huân chương Quân công. Các huân chương của
nhà nước và quân đội Lào và Căm pu chia... Tôi là nhà báo quân đội duy nhất
được thưởng Huân chương danh dự mang tên Julius Fucik do tổ chức nhà báo quốc
tế OIJ đặt ra, được chủ tịch OIJ, giao sư Nodenstreng người Phần Lan sang Việt
Nam trao tại hội trường Ba Đình tháng 12 năm 1981, "do những đóng góp về
báo chí trong thời kỳ chiến tranh, về các bài phóng sự xuất sắc được viết tại
chiến trường... "
Về hoạt đồng xã hội,
tôi là ủy viên ban chấp hành Hội hữu nghị Việt Nam - Căm pu chia (từ tháng 4.
1986), là žy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết nhân dân á- Phi của Việt Nam từ
năm 1982 đến nay. Tôi đã dự một số hội nghị quốc tế trên danh nghĩa ấy.
Có nhà báo nước ngoài
nhận xét: "Bùi Tín thường ở những nơi quan trọng nhất, ở những thời điểm
quan trọng nhất. " Có lẽ đó là do ý thức nghề nghiệp, với ý nghĩ: Người
khác đi được sao mình không đi được? Đó là niềm say mê và trách nhiệm chứ không
phải do ý muốn chơi trội, tìm kiếm danh lợi, để nổi tiếng!
Tôi có mặt ở Dinh Độc
Lập ngày 30. 4. 1975. Việc nhận đầu hàng của ông Dương Văn Minh là ngẫu nhiên,
do trung tá trưởng ban bảo vệ sư đoàn 304 của quân đoàn 2 Nguyễn Văn Hân và
trung tá Bùi Văn Tùng chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 yêu cầu. Để cho không khí
bớt căng thẳng, tôi bảo hai chiến sĩ đang cầm lăm lăm AK 47 chỉa vào phòng ra
đứng ở ngoài. Lúc ấy tôi chưa biết ông Minh đã loan báo việc ngừng tiếng súng
trên đài. Tôi yêu cầu ông Dương Văn Minh đầu hàng sớm chấm dứt chiến sự, khỏi
hy sinh thêm vô ích cho cả hai bên. Lúc ấy, tôi đã hiểu câu thực hiện chính
sách hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau. Tôi thấy những vẻ mặt lo lắng, căng
thẳng, liền nói với các ông: "Chiến tranh đã chấm dứt- Tất cả người Việt-
Nam chúng ta đều thắng. Nếu các ông có ý thức dân tộc thì các ông cũng có thể
coi ngày hôm nay là ngày vui của mình, ngày vui chung của đất nước chúng ta.
" Ông Vũ Văn Mẫu cười tươi không lo như trước đó.
Sau một lát, tôi rất
cảm động gặp riêng ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách về kinh tế, và
nghe ông Hảo nói:
"Mấy tuần nay,
người Mỹ ngày nào cũng tới rước tui qua Hoa Kỳ. Tôi nhứt định không đi. Tôi còn
biểu tụi trẻ sinh viên của tui ở lại. Đất nước mình xây dựng, rất cần bọn
tui... " Ông Hảo ở lại nhưng rồi không được xử dụng, vấp đủ khó khăn. Ông
ta chán nản và gần đây đã xin xuất cảnh, hiện ở đảo Ta- hi- ti, giúp cho chánh
phủ ở đó về kinh tế. Những người có lòng tốt như vậy đối với đất nước cuối cùng
đã phải ngậm ngùi ra đi!
Chính ông đã báo cho
tôi biết vào buổi chiều 30. 4. 1975 là ông cúng viên chức ở ngân khố đã giữ lại
16 tấn vàng không cho cánh ông Thiệu mang đi. Tôi liền báo tin ra Hà Nôi - Sau
2 ngày ở Hà Nội cho người vào nhận đủ. Nhưng rồi số vàng ấy đã không được xử
dụng hợp lý để sinh sôi ra vì định kiếu với ngân hàng ngọai quốc. Số vàng ấy
được giữ rất kỹ kiểu nông dân, xà xẻo dần để chi tiêu, cuối cùng đã hết sạch!
Sau đó tôi lo viết bài để gửi ra Hà Nội cho kịp. Chỗ tôi ngồi viết chính là bàn
giấy của ông Minh ở trên tầng hai Dinh Độc lập. Sau đó tôi cùng trung tá Nguyễn
Trần Thiết, phóng viên ban Biên tập quân sự báo Quân đội nhân dân, người cùng
đi với tôi trong suốt cả ngày hôm ấy, vào trại Đa vít để tìm cách chuyển hai
bài báo của chúng tôi ra Hà Nội.
Trước đó hai năm, ngày
29. 3. 1973 ở sân bay Tân Sơn Nhất, tôi là sĩ quan Việt Nam dân chủ cộng hòa
kiểm soát và chứng nhận việc Mỹ rút tốp quân cuối cùng ra khỏi miền Nam Việt
Nam. Người lính Mỹ cuối cùng là thượng sĩ Max Bielke, người ở bang Oregon! Tôi
bắt tay anh ta và tặng một tấm mành trúc có in hình hồ Hoàn Kiếm, chúc anh về
hạnh phúc, vui vẻ với gia đình và có dịp hãy sang thăm Việt Nam với tư cách là
khách du lịch. Anh ta có vẻ cảm động, cám ơn và cười rất thú vị trước đông đảo
nhà báo và quay phim nước ngoài.
VII. MỞ TẦM
MẮT
Với mọi quan hệ giao tiếp và thông tin ngày càng mở rộng, trái đất
như bé nhỏ lại- Các nước như gần lại với nhau hơn- Nhu cầu hiểu biết lẫn nhau
giữa người nước này với người nước khác không phải chỉ để thỏa mãn tính tò mò
mà là một yêu cầu thật sự của cuộc sống, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa
và tình cảm, mang lại những lợi ích thiết thực và lâu dài.
Trong hoàn cảnh Việt nam đang sống một cuộc sống riêng biệt, cách ly với cuộc sống
thế giới, tôi là người may mắn được đi đến một số nước để dự hội nghị, đi tham
quan và làm công tác báo chí...Tôi cho đó là những dịp may hiếm có để mở rộng tầm
mắt, bổ sung sự hiểu biết của mình...
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tôi đã được tớí thăm gần hết- Từ
Trung quốc, Liên xô đến Cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp khắc, Hung ga ri,
Bun ga rị..rồi Triều tiên tôi đều đã đi qua. Lào và Căm pu chia thì còn ở lại
những thời kỳ khá lâu- Sau năm 1975, tôi có nhiều dịp đi ấn Độ, Indonexia, Thái
Lan, Malaixia, Xanhgapo, Philipine. ở châu Phi tôi đã dự họp ở An giê, ghé qua
Xê nê gan, Ai cập (thăm Kim tự tháp kỳ vĩ), và làm việc ở Etiopi và Zimbabue- ở
châu Mỹ tôi đã từng làm việc ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York gần ba tuần, họp
bàn tròn với những đại biểu các nước nói tiếng Pháp.
Phần lớn các chuyến đi là để làm công tác báo chí. Một số chuyến đi Indonexia,
và Malaixia, cũng như Australia là theo danh nghĩa học giả, nhà nghiên cứu chiến
lược, theo lời mời của Viện nghiên cứu chiến lược Gia các ta, Viện nghiên cứu
chiến lược Kuala Lampue và trường đại học Griffith ở thành phố Brisbane,
Australia- Các chuyến đi Angiê ri, Ethiopia, Bình Nhưỡng (Bắc Triều tiên) của
tôi là trên danh nghĩa ủy viên đoàn chủ tịch ủy ban đoàn kết á Phi của Việt nam
đi dự những cuộc họp về đề tài chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, và tình
hình chính trị, quân sự trên bán đảo Triều Tiên...
Tôi đã dự những cuộc tiếp đón long trọng, những cuộc đại yến chiêu đãi thượng
khách ở những thủ đô lớn. Đó là buổi Tổng bí thư Brezhnev cùng nguyên soái
Ustinov tiếp đại tướng Võ Nguyên Giáp và đoàn đại biểu quân sự Việt nam ở điện
Kremlin. Đó là buổi đại yến ở Đại lễ đường nhân dân do nguyên soái Điệp Kiếm
Anh và tướng Trần Tích Liên khoản đãi đại tướng Giáp. Và sau đó là cuộc gặp gỡ
với chủ tịch Hoa Quốc Phong. Đó là cuộc chiêu đãi trọng thể của bà Thủ tướng Ấn
Độ Indira Gandi mời Tổng bí thư Lê Duẩn trong nhà khách danh dự của chính phủ Ấn
Độ. Nhân danh nhà báo tôi đã hỏi chuyện tổng thống Souharto, tướng Tổng tư lệnh
Muadani của Indonexia, chủ tịch Nengistu Haisle Mariam của Ethiopia (vừa bỏ chạy
sang Zimbabue tháng 5. 1991), thủ tướng Mugabe của Zimbabue, ngoại trưởng
Manglaput của Philipin và thủ tướng Ragib Gandhi của ấn Độ...Năm 1986 tôi cũng
từng qua Nam Mỹ, đến Buenos Aires của thủ đô Argentinia dự cuộc hội báo của tuần
báo "Quepasa" của đảng cộng sản Argentinia và thăm một số tỉnh của
phía Nam nước này.
Mỗi chuyến đi làm tôi thêm mở mắt một chút. Tôi thường tách khỏi các đoàn chính
thức, thâm nhập cuộc sống của người dân bình thường, của tầng lớp trí thức, của
các đồng nghiệp làm báo để có thông tin trực quan, từ nhiều đối tượng, nhiều tiếng
chuông, do đó đáng tin cậy nhất.
Hàng chục lần ở Trung Quốc, từ Nam Ninh, Liễu Châu, Vũ Hán đến Bắc Kinh, Thượng
Hảị..cho tôi nhận thức rất nhiều vẻ về đất nước này. Thời kỳ trước 1965, những
panô lớn Bắc Kinh và các thành phố lớn là hình Mao, là hình hai anh em Trung-
Xô tay nắm tay tiêu biểu cho tình hữu nghị vĩ đại. "Lão tà cơ (Người Anh Cả)".
Người anh cả Liên Xô hồi ấy là thần tượng của người dân Trung Quốc. Phong trào
học tiếng Nga lan rất rộng. Rồi đến cảnh đấu tố trong cách mạng văn hóa vô sản.
Rất Tầu, nghĩa là ầm ĩ, xô bồ, ồn ào, bát nháo, số đông theo nhau, học đòi
nhau, lôi kéo nhaụ..Một đám đông theo định hướng cưồng nhiệt, cuồng tín, cuồng
động, không cho phép nói ngược, đặt câu hỏi. Số đông là chân lý, số đông là sức
mạnh. Một tỷ người, một tỷ cái đầu tuân theo một hiệu lệnh. Mọi ho hoe chống đối
lập tức bị coi là phản bội, đáng nhổ vào mặt, đáng đội mũ lừa dong trên đường để
mọi người mắng mỏ, xỉ vả, nguyền rủa.
Tôi đã thu được biết bao tài liệu Trung quốc ở Căm pu chia, từ Hiệp định quân sự
ký giữa hai nước hồi tháng 17. 71976, về công binh Trung quốc sang xây dựng sân
bay Kong pong Chnang, dài rộng nhất Đông Nam á, về lời khen của Mao Trạch Đông
khi xiết chặt và lắc đi lắc lại bàn tay đẫm máu của Pôn Pốt: "Xin chúc mừng!
Hảo, hảo à- Các đồng chí đã lập nên kỳ công của lịch sử, diệt hết bọn tư bản, bọn
địa chủ bóc lột bọn tay sai phản động chỉ trong thời gian ngắn! hảo a, hảo
a!" Một cuộc cách mạng bằng gậy, bằng vồ, bằng cuốc đập vào đầu hàng triệu
con người! Nhân danh chủ nghĩa xã hội, chũ nghĩa cộng sản thuần chất, trong sạch
nhất, nhân danh chủ nghĩa Mác Lê Nin, những định tạo nên mẫu mực cho cách mạng
vô sản thế giới!
Tôi đã ngắm nhìn rất lâu chiếc ảnh bìa của báo Newsweek tháng 6. 1989: Một đòan
xe tăng, xe bọc thép Trung Quốc gắn súng lớn trên quảng trường Thiên An Môn dừng
tất cả lại trước một thanh niên tay cầm sách vở, chiếc áo vắt vai, tự nhiên, điềm
tĩnh lạ thường- sắt thép chùn bước trước con người. Để sau đó sắt thép khạc lửa,
khạc bão lửa vào đám đông, đem lại cái chết cho hàng ngàn con người, dìm trong
máu khát vọng dân chủ. Và đó là chủ nghĩa xã hội ư? Là nhân đạo cộng sản ư?
Tôi nhớ lại những quyển Mao tuyển hồi cách mạng văn hóa vô sản. Tôi thấy những
mầu đỏ rực ấy hồi 1965 trên hè phố Bắc Kinh. Cờ đỏ, sách báo đỏ, huy hiệu đỏ,
khẩu hiệu đỏ. Cái gì cũng nhiều, cũng lóe mắt- Vào hiệu sách, người bán, người
mua cùng ngừng lại để tụng vài đoạn Mao tuyển...Trên hè phố, trong vườn hoa, trẻ
em tay cầm Mao tuyển, miệng hát đồng ca Mao chủ tịch! ở bệnh viện người ta tụng
Mao tuyển để chữa bệnh với niềm tin vu vơ! Và cách mạng đựơc hiểu là lật nhào mọi
giá trị cũ. Học sinh đại học kéo cổ thầy giáo xuống bắt qùy, cho đội mũ lừa đi
dong phố xá. Tôi gặp những sinh viên Bắc Kinh buộc phải trốn sang đây, ở Paris,
làm người Trung hoa lưu vong vì cái tội mê say dân chủ đúng hai năm trước. Các
anh chị còn rất trẻ ấy vẫn một niềm tin: "khát vọng dân chủ bị dập bởi bạo
quyền, nhưng nó âm ỉ, nó không tắt, nó chờ thời cơ. Tất cả đau nhục là thuốc nổ,
sẽ bùng lên khi các cụ gìa cộng sản- phong kiến nhắm mắt.
ở Liên Xô hồi 1965, tôi đã vào viếng lăng Lê Nin- Stalin, cả hai chữ ấy in trên
đá vân phủ trên mộ lớn, đi vào trong là hai quan tài kính Lê Nin ở bên phải (hướng
nhìn ra) và Stalin ở bên trái. Stalin với bộ quân phục và huân chương đầy ngực
làm cho Lê Nin nằm bên như bé hẳn lạị..ít lâu sau, Stalin biến mất khỏi lăng.
Bao điều bí ẩn phơi bầy ra ánh sáng. Con người được sùng bái, ca ngợi, yêu mến
như thần tượng bị hạ bệ xuống tận bùn đen về sự xảo trã, sự độc ác khát máu,
tính vô nhân. Từ 1985, cơ quan an ninh quốc gia KGB thú nhận đã can thiệp thô bạo
quyền công dân, dựng nên vô số vụ án oan, vụ án giả. Tháng 9. 1990 tôi đi qua
cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô trên đại lộ Karl Marx. Ngôi nhà đồ sộ nay vắng
tanh vắng ngắt, trong khi ngay cạnh đó, người ta xếp hàng thành đuoi dài để mua
bánh mì và...diêm! Mấy anh cán bộ Đài phát thanh Moscow kháo nhau lo lắng: Còn
một tuần nữa phải khai cho xong hộ khẩu từng gia đình để chuẩn bị nhận thẻ phân
phối thực phẩm và các hàng hiếm khác! "Trở lại y như thời chiến và mấy năm
sau chiến tranh!" "Lùi lại gần nửa thế kỷ!" Giá cả đang lên dữ dội!
Tôi đã từng đi qua cơ quan kế hoạch nhà nước Liên Xô hồi 20 năm trước, đâu có vắng
như chùa bà đanh hôm nay! Hồi ấy người ta ra vào tấp nập, các đoàn xe đen bóng
loáng đỗ tại bãi xe cực lớn phía bên, người ta ăn mặc chỉnh tề, sách cặp lên xuống,
vẻ trang nghiêm mà hối hả. Giá cả đứng nguyên một chỗ trong hàng 30 năm ròng. Họ
khắc vào chân chiếc quạt máy 18 rúp 2, vào chiếc bàn là 6 rúp 6 là cứ như vậy
suốt hàng chục năm...
Trước kia phần lớn người Việt nam đều cho rằng người Liên Xô ai cũng tốt cả.
Liên Xô hôm nay là Việt Nam ngày mai. Đó là mẫu mực của con người mới, con người
lao động hăng say, có năng xuắt cao và có tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa
cao quý- Mọi người đều quý mến và tin cậy chuyên gia Liên Xộ..
Tháng 4. 1986, tôi ghé qua Liên Xô trên đường từ Berlin về nước. ở Moscow, tôi
gặp đoàn cán bộ dầu khí Việt Nam. Có anh em vốn là đại tá quân đội chuyên
ngành, quen biết tôi từ lâu- Thế là tôi được biết rõ thêm về sự cộng tác Việt
Xô trong tổ chức Việt - Xô Pétro, tổ chức hợp tác để tìm kiếm và khai thác dầu ở
thềm lục địa Việt Nam. Chuyên gia Liên xô trước kia nhiều người tốt. Nhưng
không ít người nặng về quyền lợi riêng của đất nước mình. Cơ quan nhà nước Liên
Xô là cả một hệ thống nặng nề, cồng kềnh, làm việc quan liêu, thông tin thiếu
chặt chẽ, quan hệ dọc còn chậm và quan hệ ngang rất lỏng lẽo. Việc hợp tác về dầu
khí những tưởng thuận buồm xuôi gió, rằng Liên Xô giúp Việt Nam rất vô tư và
hào phóng vì Liên Xô ứng ra hàng chục tỷ rúp mua biết bao thiết bị đắt tiền và
hiện đạị..Thế nhưng sau gần 10 năm làm việc, phía ta khôn dần lên, thì té ra
không phải hoàn toàn như vậy! Liên Xô đã đưa sang quá nhiều chuyên gia, cả những
chuyên gia mà ta có khả năng tự đảm nhận, tạo thành cả làng chuyện gia ở Vũng
Tàu (cũng như làng Liên Xô ở công trình thủy điện Hòa Bình). Những chi phí lớn ấy
ngoặm khá nhiều vào số tiền họ ứng ra và cho ta vay nợ. Gía cả ta tính cho bạn
cũng rất hớ, từ tiền nhà, cung cấp nhu yếu phẩm, đưa đón họ, phục vụ họ di chuyển...đều
với giá hữu nghị...Đã vậy những thiết bị họ cung cấp cho ta, có thứ mua từ Ấn Độ,
từ Hồng Kông, từ Singapore đưa tới, ta đều tính theo hóa đơn họ đưa, cao hơn rất
nhiều giá bạn mua thật sự! Có anh cay cú bảo tôi: Đó, bạn thân thiết, ông anh cả,
tinh thần quốc tế vô sản cao cả là như vậy đó. Càng là anh em càng lèn cho đau!
Đây là bài học rất sâu sắc. Ta dại dột, ngây thơ qúa. Dại từ ông lãnh đạo trên
cao xuống cán bộ các Bộ, các tổng cục...Cuối cùng, nhân dân ta phải gánh chịu
tuốt.
Tôi đã ghé Cộng hòa dân chủ Đức 4 lần. Tháng 10. 1965 tôi đã đến cổng
Brandenburg nhìn sang trụ sở quốc hội Đức cũ ở Tây Berlin. Bức tường Berlin dựng
lên vừa được ba năm. Tôi được viên trung tá Muller chỉ huy đơn vị biên phỏng dẫn
vào phòng chỉ huy, nghe giới thiệu trên bản đồ và qua một cuốn phim việc xây dựng
bức tường kiến cố này, cũng như hệ thống phòng thủ bằng điện tử, mìn, giây điện,
hệ thống canh gác cẩn mật ngăn cách đông với tây Berlin, chia cắt Cộng hòa dân
chủ Đức với Cộng hòa liên bang Đức. Không ai có thể nghĩ rằng bức tường kiến cố
ấy đã bị phá không phải bằng tiến công quân sự, mà bằng ý muốn của nhân dân.
Anh Horn, hồi ấy là cán bộ phòng Việt nam trong vụ châu á bộ ngoài giao CHDC Đức,
đã hướng dẫn chúng tôi đi thăm Dresden, nơi có bản doanh của bộ đội khối
Vacsovie, thăm Leipzig, Potsdam, thăm Weimar, nơi có di tích phòng làm việc của
văn hào Goethe, thăm lò thiêu người của phát xít Hitler ở Buchenwald, thăm hải
cảng ở phía bắc Rostov. ở Berlin, anh cùng cả gia đình đưa tôi lên tháp truyền
hình cao gần 300m gọi là Télé- Café, nơi có cửa hàng giải khát quay 360 độ mỗi
giờ, để ngồi ngắm quang cảnh đông và tây Berlin buổi chiều và ban đêm...ít lâu sau
tôi gặp anh ở Hà Nội, anh đã là bí thư thứ nhất đại sứ quán CHDC Đức ở Việt
nam. Sau đó tôi ghé Viêntian thì anh là đại sứ CHDC Đức tại Lào. Sau năm 1979,
anh là đại sứ đầu tiên của CHDC Đức ở Pnom- penh rồi trở về công tác tại Bộ ngoại
giao với chức Vụ trưởng- Một nhà báo ở Berlin sang Hà Nội đầu năm 1989 cho biết
anh có thể sắp là thứ trưởng ngoại giao. Hôm nay nhớ đến Berlin, tôi lại nhớ đến
anh. Bức tường ngăn cách đã biến mất, nước Đức đã thống nhất trong vui buồn lẫn
lộn...Không biết anh và gia đình nay ở đâu, làm gì? Anh còn ở ngành ngoại giao?
Có còn là cán bộ của đảng viên của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức?
Những quan niệm về chủ nghĩa Mác, Lê Nin, về chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa quốc
tế vô sản của anh hồi ấy nay đang được anh nhìn nhận ra sao, sau biết bao biến
thiên đột ngột và sâu sắc hơn một năm quạ..
Tháng 4. 1986 tôi dự đại hội đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức ở
cung Cộng hòa Berlin. CHDC Đức đã có những bước tiến rõ rệt trong xây dựng, dẫn
đầu các nước xã hội chủ nghĩa về sản xuất các hệ thống CAĐCAM (Computer aided
designed - Computer aided manufactured), về máy tính điện tử tốc độ cao. Tuy vậy
nước này vẫn một mực đứng ngoài việc "đổi mới và ngay thật"
(perestroika và glasnost), tự cho rằng đã thực hiện điều đó từ khá lâu rồi, đã
đứng ở trong số 10 nước công nghiệp hóa cao nhất thế giới. Tôi không ngờ đó là
đại hội cuối cùng của đảng công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức trên cương
vị cầm quyền. Một đảng nổi tiếng trong các nước xã hội chủ nghĩa là rất nghiêm,
bản chất công nhân rất đậm, kỷ luật rất chặt, tính thống nhất cao và đất nước
có nền an ninh rất vững! CHDC Đức và Liên Xô là hai nước giúp đỡ tận tình nhất
cho đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam về mặt an ninh, như đào tạo cán bộ về
các mặt chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm về phát hiện điều tra, xét hỏi, về xử
lý các phương tiện thông tin, kỹ thuật chuyên môn trong công tác an ninh và phản
gián...Những năm gần đây cơ quan mặt vụ Liên Xô KGB đã được chấn chỉnh khá sâu
sắc, đã thải loại hàng chục nghìn nhân viên có sai lầm nghiêm trọng gây oan ức
biết bao công dân lương thiện. KGB đã công khai tạ tội trước nhân dân về những
hành vi lạm dụng quyền hành, vu cáo, chụp mũ một cách độc đoán, vi phạm nặng nề
hiến pháp và pháp luật Liên Xô, đã minh oan cho nhiều công dân, trong đó có nhiều
nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báọ..Hàng chục nghìn người đã chết trong cảnh
tù đầy và oan ức. Tháng 6. 1991 vừa qua, nhiều tờ báo ở Moscow đưa tin, nhà văn
kiêm nhà báo Alexandre Cheltalinski thành viên của "ủy ban bảo về di sản
văn học của những nhà văn bị đàn áp, " được sự giúp đỡ tận tình của ủy
viên Bộ Chính trị đảng cộng sản Liên Xô Alexandre Yacovlev và được phép của viện
kiểm sát tối cao Liên Xô đã khui được một đống tài liệu tuyệt mặt cực kỳ quý
giá trong kho tư liệu lưu trữ của cơ quan KGB. Nhà báo này được đọc nhiều biên
bản hỏi cung, nhiều bản thảo có giá trị đã bị tịch thu dưới thời Stalin, trong
đó những tác phẩm độc đáo của Platsnov, của Bulgacov, của Isaccs Babel, của
linh mục Pavel Flarenski, của Guopuy Davidox. Nhiều tập nhật ký viết ngay trong
nhà tù của KGB ở cạnh trụ sở này, tác giả đã bị xử bắn, hoặc đã chết trong tù
do bị tra tấn và ngược đại. Một số cán bộ của KGB cố tình dấu diếm những hồ sơ
và tác phẩm trên đây đã bị phát hiện, thải loại và chờ ngày xét xử trước pháp
luật.
ở CHDC Đức, chính vào ngày bức tường chia cắt đông- tây bị sụp đổ, viên tướng cầm
đầu cơ quan an ninh STASI (An ninh quốc gia của nhà nước và của đảng công nhân
xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức) đã tự kết liễu mình bằng một phát đạn súng ngắn.
Con người có uy quyền gần như tuyệt đối, từng hét ra lửa, đã hoảng sợ trước sự
vùng dậy của quần chúng hay đã hối hận về những việc làm quá đáng của mình. Hắn
đã cho bắt bớ, xử lý thô bạo, không theo pháp luật nhiều công dân chân chính, chụp
mũ bừa cho những ai đấu tranh cho dân chủ là tay sai phát xít, tay sai của CHLB
Đức, tay sai CIA, đầy đọa họ, gia đình và bạn bè họ...Hồi ấy, STASI là bàn tay
sắt, có trụ sở to lớn, trang bị hiện đại ở khắp các vùng, còn to lớn và hiện đại
hơn cơ quan GESTAPO hồi xưa, tiêu biểu cho một chế độ luôn lên gân và chỉ lo trấn
áp những công dân bất đồng ý kiến...Cơ quan an ninh của ta từng tiếp thu nhiều
kinh nghiệm của Liên Xô và CHDC Đức nên tìm đọc kỹ những bài báo, tài liệu được
công bố về cơ quan KGB và STASI trong năm qua để chấn chỉnh kịp thời công tác của
mình. Qua trả lời báo Nation (Băng Kok) của bộ trưởng Mai Chí Thọ, trong những
cuộc họp báo của đại diện cơ quan phản gián Bộ Nội Vụ ở Hà Nội, cung cách nhận
định và chụp mũ đối với nhà văn Dương Thu Hương và bản thân tôi là rất cũ, coi
chúng tôi là những kẻ phản bội(!), phạm pháp(!), là bị đế quốc và phản động lôi
kéo, mua chuộc, nguy hiểm cho an ninh quốc gia! Điều mà cơ quan KGB và cơ quan
STASI đã phải từ bỏ và sám hối thì những người chỉ đạo cơ quan an ninh ở Hà Nội
được họ huấn luyện vẫn còn bám giữ, vi phạm luật pháp và đi ngược lại quyền tự
do, dân chủ của công dân...ở Hà Nội, ta cứ đi qua các đường Yết Kiêu, Trần Bình
Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du, Nguyễn Thượng Hiền mà xem. Các cơ quan an ninh
rộng lớn, bề thế, cao đẹp đến lộng lẫy ra sao, thiết bị hảo hạng cho nơi làm việc,
phòng họp, nhà khách ra saọ..thì ở sát đó trường Đại học Mỹ thuật vốn có truyền
thống từ đầu thế kỷ, hiện trong tình trạng đổ nát, bệ rạc, thầy giáo và sinh
viên sống chật chội và nhếch nhác như thế nào. Điều mà cơ quan STASI bị dư luận
ở Đức lên án đáng làm cho những người lãnh đạo Việt Nam, đậc biệt ở Bộ Nội Vụ
suy nghĩ nghiêm chỉnh và rút ra những kết luận cần thiết cho đất nước. Khi
chính những người cầm đầu KGB và STASI thú nhận đã phạm tội nặng nề, khi đặt
"một nhà nước ở trong một nhà nước, " có trách nhiệm thi hành luật
pháp lại ngang nhiên chà đạp lên luật pháp, khi những người cầm đầu KGB đã công
khai nói lên niềm hối hận, nỗi hổ thẹn của mình thì những người lãnh đạo cơ
quan an ninh và bảo vệ chính trị (trong và ngoài quân đội) ở nước ta lẽ nào lại
không biết hối hận và hổ thẹn gì về những việc làm sai trái của mình?
Theo tôi Budapest là thành phố đẹp nhất trên sông Danube với 8 chiếc cầu nối liền
hai bờ: Buda ở phía dưới và Pest ở phía trên. Trụ sở quốc hội rất đặc sắc, soi
bóng xuống dòng sông xanh. Người Hungari dễ thương, chân thành, cởi mỡ, giống
người Việt Nam ở sự tinh tế và ấm cúng trong tình bạn. Hai lần ở thăm Hungari
tôi nhận ra rất rõ sự gắn bó của dân tộc này với Tự do. Một nét "rất lạ":
Hongarie là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất xưa nay vẫn cho phép công dân của
mình được đi thăm viếng và du lịch bất kỳ nước nào- xã hội chủ nghĩa cũng như
tư bản chủ nghĩa, như sang áo, Nam Tư, ý, Pháp, Thụy Sĩ, và cả Mỹ, Canada,
Anh...Trong khi bức tường ngăn cách hai nước Đức, trong khi công dân Liên Xô,
Tiệp, Bulgarie hầu như không được ra các nước tư bản chủ nghĩa để tham quan du
lịch. Tôi hỏi các bạn Hungari và được biết chính nhờ được tự do đi về mà rất ít
người Hungari ở lại các nước đó. Người Hungari định cư ở nước ngoài không nhiều,
họ gắn bó rất sâu đậm với quê cha đất tổ...Chính nét đặc sắc về tự do dân chủ
đã làm cho Hungari là nước đi sớm nhất, từ hồi năm 1956, để tìm tòi một mô hình
chính trị và kinh tế thích hợp với bản sắc dân tộc mình ở giữa môi trường châu
Âu đầy những lực kéo theo đủ phương khác nhau. Chính do đó, sự chuyển đổi hiện
nay của Hungari tuy đầy những phức tạp, khó khăn nhưng không hàm chứa nhiều bi
kịch lớn như ở Đông Đức, Rumani, Anbani, Nam Tư, Ba Lan và cả Liên Xô nữạ..
Đầu năm 1989, tôi có dịp ở Bình Nhưỡng (Bắc Triều Tiên) ba tuần lễ, dự một cuộc
hội nghị của tổ chức đoàn kết á Phi bàn về tình hình quân sự và chính trị trên
bán đảo Triều Tiên. Chúng tôi tham quan khu vực Bàn Môn Điếm, trong khu phi
quân sự ở vĩ tuyến 38, thăm thành phố Khai Thành cổ kính, với những khu vườn và
ruộng trồng nhân sâm- một đặc sản của Bắc Triều Tiên, thăm những đập và hồ lớn ở
miền Tây. Bình Nhưỡng là thủ đô được xây dựng lớn, rất nhiều nhà cao tầng được
thiết kế và thi công sau chiến tranh. Tôi ở khách sạn Kô- ri- ô cao 44 tầng,
cách đó không xa một khách sạn cao 105 tầng đang được hoàn tất. Phải công nhận
cuộc sống ở đây còn kém khá xa Nam Triều Tiên, nhưng so với quá khứ thì một trời
một vực. Bắc Triều Tiên chỉ có 19 triệu dân mà tài nguyên lại rất phong phú:
Than, thủy điện, đá làm xi măng, quặng sắt thép, nhôm, vàng. Thủy sản nhiều,
công nghiệp hóa chất sớm phát triển, vải lụa nhân tạo dồi dào, tính ra mỗi đầu
người có đến hơn 40m/một năm. Người dân Bắc Triều Tiên vẫn còn sống trong môi
trường cách biệt. Không được nghe đài nước ngoài. Không được xem sách báo nước
ngoài, không được xem ti vi nước ngoài- Bất cứ ai phạm phải những điều cấm kỵ ấy
đều có thể vào tù. Tôi gặp mấy chục cán bộ Triều Tiên, từ Tổng biên tập báo Rô-
đông Shimun, đến ông Chủ tịch tổng công đoàn, Vụ trưởng vụ báo chí Bộ Ngoại
giao, giám đốc khách sạn Kuriu, cho đến ông phó chủ tịch thành phố Khai Thành,
đại tà Rô và đại tá Kim ở Bàn Môn Điễm...tất cả đều "tụng" những câu
giống nhau, gần như thuộc lòng "chúng tôi độc lập, tự do và hạnh phúc ngày
nay là nhờ lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành, nhờ tư tưởng chủ thể của Người,
lãnh tụ anh minh Kim Nhật Thành và lãnh tụ kính mến Kim Chung I (Kim Trung Nhất,
con trai của ông Kim Nhật Thành) đã dìu dắt gần 20 triệu nhân dân Triều Tiên từ
cuộc sống nô lệ đói nghèo đến cuộc sống hạnh phúc hôm naỵ.." Ai cũng mang
huy hiệu ông Kim ở ngực, từ cán bộ cao cấp nhất đến người phát thư, người bảo vệ
ở khách sạn, người quét rác trên hè phố. ở đây không còn một cửa hàng tư nhân
nào, kể cả hiệu giải khát nhỏ, cửa hiệu cắt tóc cũng không. Người dân không biết
perestroika ở Liên Xô, cũng chẳng biết cải cách ở Trung quốc ra sao hết. Các tờ
báo của nhà nước chỉ đang hoạt động của lãnh tụ, ảnh của lãnh tụ đi thăm nơi
này nơi khác. Nhà xuất bản trong nướcvà ngoài văn cũng chỉ có in và bầy bán các
bài viết, bài nói của ông Kim Nhật Thành và người con sắp kế nghiệp bố. Những
cuốn sách in rất đẹp, tít sách được in bằng kim nhũ, cùng những sách in về bố mẹ
của ông Kim, được coi là "Quốc phụ" và "Quốc mẫu" của đất
nước này, một số cuốn sách kể về các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh...Một nền văn
học đáng kính, để mà vái chào từ xa! Chúng tôi được dẫn đến xem Tháp Chủ Thể
cao hơn 120 mét, trên cùng là một ngọn lửa lớn, riêng nó cao hơn 8 mét, kết bằng
ánh sáng điện đỏ chói, ngày đêm lấp lánh. chân tháp là những viên gạch lớn bằng
đá vân ghi tên và địa chỉ những câu lạc bộ, nhóm nghiên cứu học thuyết Chủ Thể ở
khắp mọi nơi trên thế giới, từ Ai cập, Syri, Tunisie, ở Bắc Phi đến Columbia,
Urugoay ở Nam Mỹ, từ Canada, San Francisco ở Bắc Mỹ đến Mo zambic, Madagaska ở
Nam Phi, từ Bruxells (bỉ), Tây Ban Nha, Pháp, Anh ở châu Âu cho đến ấn Độ,
Ceylan, Philipine ở châu á. Tháp được xây dựng bằng hơn 21. 000 khối đá hoa
cương quý, vừa đúng bằng số ngày mà lãnh tụ tối cao họ Kim đã sống từ khi lọt
lòng mẹ đến khi 60 tuổi tròn. Ngọn tháp lớn đỏ rực lửa này dựng lên để kỷ niệm
ngày sinh lần thứ 60 của lãnh tụ kiệt xuất. Chúng tôi cũng đã được ngắm vô vàn
bức tượng bằng đá, bằng đồng, bằng xi- măng, bằng thạch cao của ông Kim rải ra
trên khắp đất nước. Có điều gì rất không bình thường là từ tự do, no ấm đến hạnh
phúc của mỗi con người ở đây đều được coi là đặc ân ban cho từ một con người kiệt
xuất, có tài thánh. Con trai của vị thánh sống này sẽ được kế tục trị vì đất nước
theo kiểu cha truyền con nối thời phong kiến. Trên dải đất thiên liêng, cứ mỗi
mét vuông là có 120 mảnh sắt thép lớn nhỏ bom đạn, cuối cùng con người được tự
do, với kiểu tự do như vậy!
Hồi 1987, ở thủ đô Adis Abebas của Ethiopie, tôi đi dạo một buổi chiều chủ nhật
ở quảng trường Cách mạng, có bức tượng đá Lê- Nin cao hơn 6 thước, do một nhà
điêu khắc Liên Xô làm cho nước này. Bức tượng được báo chí Liên Xô nhân xét là
tiêu biểu cho sức mạnh của chủ nghĩa Lê Nin đã lan tới Châu Phi. Tôi nói với mấy
anh bạn Việt Nam đi cùng hôm ấy: "Thật là quá sớm!" Khi người dân
Ethiopie còn bị nạn đói từ Đông sang Tây, khi người dân da mầu ở đây còn đói chữ,
giáo dục còn lâu mới được phổ cập, đã có ai hiểu gì mấy về Lê- Nin và chủ nghĩa
Lê- Nin? Khi đảng cầm quyền ở đây tuy tự nhận là Mác xit lê- nin- nit nhưng tất
cả các biểu hiện của nó lại còn mao ít hơn cả Mao! Cán bộ cơ quan nhà nước và
cơ quan đảng bị bắt buộc nhất thiết phải mặc đồng phục mầu xanh kiểu đại cán
Trung Hoa, mặc dù trời nắng như thiêu! Những lời của lãnh tụ, nguyên là đại úy
Mengistu Mariam được in và ghi thành khẩu hiệu ở khắp nơi, như một kiểu Mao tuyển
màu đỏ chót. Vừa rồi, ông Mengistu Mariam đã bỏ chạy sang Zimbabue và bức tượng
Lê- Nin nói trên đã bị một số người dân trẻ nước này buộc dây thép vào cổ và
dùng xe tải kéo cho đổ nhào. Họ nghĩ một cách giản đơn rằng đó là nguyên nhân của
sự nghèo khổ và nội chiến liên miên ở đất nước bất hạnh này. Bức tượng Lê- Nin
đã trở thành cái bung xung để hứng chịu mọi căm phẫn của nhân dân.
Tôi đã sang Argentina ở Nam Mỹ. Đây là cả một lục địa, mà kích thước về mọi mặt
thật lớn, rừng rậm bạt ngàn, nợ nước ngòai cũng cực lớn (gần 300 tỷ đô la), có
một bề dài đến 3000 km, có thành phố hơn 10 triệu dân và có những con sông rộng
ơi là rộng, không phải chỉ rộng ở cửa biển, mà ngay quãng giữa đã rộng từ 3 đến
7 km! Đó là dòng sông Parana, phải đi trên máy bay, bay thật chậm nhìn xuống mới
thấy hết cái kỳ vĩ của sông nước lục địa này!
Đó là bãi đất bằng phẳng rộng tít tắp gọi là Pampa, đường ôtô rộng chạy xuyên
qua các vùng trồng cam, quýt, lê, táo mênh mông, chẳng có bóng người, những đàn
ngựa, cừu, dê hàng ngàn vạn con, chẳng ai chăn dắt trên những bãi cỏ xanh vô tận...Con
người ở đây sôi nổi, đi nhanh, nói lớn, ôm chặt, khiêu vũ sôi động, quay cuồng,
thích màu sắc nóng...Họ ưa xem đua ngựa, vật bò tót, thích bóng chầy hơn bóng
đá vì bóng đá thư thái, uyển chuyển qúa, chẳng mạnh mẽ, dữ dằn như bóng chàỵ..Chính
trong cai nhiệt tình Mỹ La tinh ấy, tôi đã làm bạn vỡi những người cộng sản Uruguay,
Bolivie và Argentinạ..Chúng tôi trao đổi thư từ với nhau. Và hơn một năm nay, họ
băn khoăn, chán nản, vỡ mộng, nhưng vẫn tìm một con đường cho lục địa này. Một
anh nhà báo Argentina gặp ở Hà Nội tháng 7. 1990 bảo tôi: "Có thời tao là
mao ít, mao ít cuồng nhiệt. Cả thế giới không ai bằng Mao! Sau cách mạng Trung
Quốc, tao vỡ mộng. Thế rồi tao yêu Fidel, yêu hơn cả người yêu. Nhà tao đầy ảnh
Fidel, "ông có râu rậm", mấy thằng em tao bảo vậy. Thế rồi có một dạo
xuống đường hô: Hồ! Hồ Chí Minh! Che, Che, Che, Che- Ghêvra! Nay thì chẳng biết
hô gì, chẳng còn say mê ảnh ai nữa! Tao theo dõi chặt tình hình thế giới, tình
hình Việt Nam, nay đến để nhìn cho rõ. Sao đất nước của Hồ Chí Minh thống nhất
15 năm rồi mà nghèo, mà đói, mà nạn cờ bạc, nạn gái điếm, nạn tham nhũng, nạn hối
lộ trở thành nổi tiếng đến vậy? Người ta dặn tao là đến Việt Nam phải đề phòng
ngay kẻo mất cắp!!!" Tôi nói đến tình trạng Việt Nam bị bao vây, cô lập,
anh ta lắc đầu: "Không, không phải như vậy. Đó không phải là lý do. Cái đầu
này này! Cái đầu lãnh đạo của Việt Nam ấy! Phải xem lại! Phải xem lại!"
Tôi đã nhiều lần ở thăm các nước láng giềng Đông Nam á:
Thái Lan, Malasie, Indonesie, Philipinẹ..Bangkok ồn ào, ôtô chạy ầm ĩ, các kênh
rạch giữa phố xá đen ngòm, hôi thối bên những cao ốc, siêu thị hiện đại, đầy ắp
hàng hóa, để lại cho khách du lịch cảm giác căng thẳng, xô bồ. Kualămpua thoáng
rộng, có hồ, nước, vườn cây xanh chứa muông thú giữa thủ đô để lại mọt ấn tượng
êm mát thanh bình. Manila, bên cạnh những cao ốc 20, 30 tầng trên những đại lộ
thênh thang là những dẫy phố nghèo, nhà cữa lụp xụp, đường ghồ ghề. Djacarta là
thành phố rộng nhất khu vực Đông Nam á với hơn 200 khách sạn, 30 ngân hàng lớn
với khu vực giải trí dựng theo huyễn thoại cho trẻ em, hấp dẫn cho cả người lớn.
Nhưng vẫn lồ lộ khó khăn do nạn nhân mãn đè nặng lên đất nước: Gần 200 triệu
dân chen chân trên những hòn đảo lộng gió...
Mỗi lần ghé qua nước bạn, đi một vòng thăm thú, lòng tôi canh cánh một nỗi đau
cứ ngấm mãi- Hà Nội ta, thành phố Hồ Chí Minh ta, nước Việt Nam ta trên tất cả
các mặt cứ tụt hậu, tụt hậu mãi thế này! Sân bay Băng cốc hồi 1973, 1974 còn
kém khá xa sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn. Thế mà nay rộng lớn hiện đại hơn cả
sân bay quốc tế Vnecouvô hay Chérémétivô ở Moscow! Hàng không Thái Lan vừa hợp
nhất hai hãng hàng không nội địa và quốc tế, có hơn 200 máy bay, tỏa rộng đến
42 nước, được tiếng là phục vụ lịch sự nhất, sang trọng nhất Đông Nam á. Còn ở
ta? Hàng không của ta? ở Djacarta, riêng xe ôtô con đã gần 1 triệu, còn xe buýt
là 26. 000, 8000 xe tắc xi luôn tỏa trên các nẻo đường phục vụ sự đi lại của
nhân dân thủ đô- Còn ta? Tôi ghé thăm những trường đại học ở Băng Cốc và
Kualalampua thư viện, phòng họp, trường học...đều thiết kế rộng rãi, trang bị đầy
đủ máy tính, máy ghi dữ liệu, máy hỏi và trả lời các bộ môn, học toán, lý, hóa,
văn, sử, địạ..đều bằng máy chiếu phim...Các trường đều có các phòng chơi thể
thao đủ môn loại, nhà ăn, nhà giải khát, nơi đọc các loại sách báo. Câu lạc bộ
được trang bị đầy đủ về âm nhạc, chiếu phim, ca hát, nhảy, múạ..
Họ là những nước gần ta, điều kiện tự nhiên không có gì hơn ta, vậy mà họ đã cất
cánh, tạo nên tốc độ trên con đường phát triển, đang là những con rồng dự bị của
Châu . Theo thống kê của ủy ban kinh tế xã hội châu á và Thái Bình Dương
(ESCAP) của Liên Hợp Quốc, năm 1990 vừa qua thu nhập tính theo đầu người của
Indônésie đã đạt 545 đô la Mỹ, Philipine đạt 727 đô la Mỹ, Thái Lan gần ta đạt
1. 418 đô la và Malaisie đã đạt tới 2. 300 đô la. Ta thì chưa tới 200 đô la!
Cũng theo thống kê này năm 1990, Singapore và Hồng Kông đều đạt trên 12. 000 đô
la Mỹ (gấp 60 lần ta)- Những nước phát triển cao như Australia (úc) và Anh đã đạt
trên 16. 000 đô la, Pháp, Đức vượt 20. 000 đô la. Mỹ vượt 21. 000 đô la và Nhật
bản đạt tới 23. 500 đô la- Nhân nói đến Nhật bản mà sức mạnh kinh tế và tài
chính đã vươn tới đỉnh cao nhất của thế giới ngày nay, tôi nhớ đến cuộc nói
chuyện với giáo sư Tari Yokohama ở khách sạn quốc tế Narita cuối năm 1988. Ông
gần 70 tuổi chuyên nghiên cứu và dạy về kinh tế. Ông am hiểu chủ nghĩa Mác. Ông
kể lại bí quyết làm giầu của người Nhật bản sau khi chiến tranh thế giới lần thứ
hai kết thúc. Đó là nỗi tủi nhục của kẻ thua trận, nỗi lo sợ khôn nguôi của kẻ
mắc nợ lớn do phải bồi thường chiến tranh cho Đồng minh, sự bó buộc phải trông
cậy vào sức lao động của chính dân tộc mình trên đất nước quá nhỏ hẹp của mình
mà thôi. Trong thất bại và tủi nhục của kẻ bị chiếm đóng, cả một dân tộc nín lặng,
nhẫn nhục, bặm môi lại làm việc, cố kết với nhau. Ông ta cười giữa hai hớp rượu
Sa- kê: "Hồi ấy chúng tôi dạy cho học sinh từ lớp thấp: Các em bất hạnh đã
sinh ra trên đất Nhật này, một đất nước bị bom nguyên tử và bom đạn tàn phá, bị
nhục vì thua trận, bị trừng phạt, bị mắc nợ lớn. Có thoát khỏi hoạn nạn này là
do các em. Do nghi lực và tri tuệ của các em. Các em phải học cho giỏi, chiếm
các lĩnh vực hiểu biết và các quy trình công nghệ tiên tiến nhất...Chúng tôi
cho học sinh trẻ xuất sắc đi làm công và đi học: Nghề ôtô ở Mỹ, nghề làm máy
thu thanh ở HàLan, nghề đồng hồ ở Thụy sĩ, nghề chế tạo máy ảnh ở Đức, nghề luyện
kim, chế tạo cơ khí ở Pháp. Học, bắt chước họ để làm được như họ, rồi cải tiến,
mỗi nghề một chút. " Sau đó ông kể rằng, người Nhật đã tận dụng một lợi thế
lâu dài, đó là không có quân đội lớn, chỉ có một đơn vị dân phòng, lại không được
sản xuất vũ khí, càng tốt! Ngân sách quân sự chỉ có 0, 6 %, mãi sau này mới
nâng lên 1%, rồi hơn 1% ngân sách chung. Đêm ấy tôi nghĩ về đất nước Việt Nam của
tôi. Trong khi mình huênh hoang là chiến thắng lịch sử huy hoàng vượt tất cả thời
kỳ lịch sử hiển hách thời xưa, là đã toàn thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế
giới, rằng sẽ không còn ai dám động đến lông chân mình, rằng Việt Nam cứ ra ngõ
là gặp anh hùng, rằng từ nay xây dựng thì dễ ợt, chẳng mấy chốc thì giầu to vì
đánh giặc mới là khó nhất trên trần gian này, mà ta thì làm được một cách xuất
sắc...Thế rồi càng bốc đồng: Nước ta rừng vàng, biển bạc, sông ngòi, bờ biển
tha hồ nhiều tôm cá, làm chơi ăn thật, nay làm thật thì để đâu cho hết củạ..Sao
lúc ấy không ai chỉ ra rằng ta đã mất bao nhiêu thời gian, sinh mạng trong chiến
tranh, đã thua kém người ta trong xây dựng, phải tính rất cẩn thận bài toán
phát triển đất nước, tận dụng từng chiến lợi phẩm, từng đồng vốn, tiết kiệm từng
tấn nguyên liệu, đào tạo lại công nhân cán bộ kinh tế quản lý, kinh doanh...và
nhất là phải đề phòng cái kiêu ngạo, tư phụ, coi trời bằng vung sau chiến thắng
lớn này! Lẽ ra đại hội 7 phải nhìn lại một cách dũng cảm và ăn năn, hối hận trước
nhân dân, xin lỗi nhân dân và cùng nhân dân đi vào con đường đổi mới một cách mạnh
mẽ, dứt khoát, gỡ bỏ những bệnh tật đang hoành hành, bắt tay vào cuộc phấn đấu
mớị..Thế nhưng những người cầm quyền đã không làm được điều ấy! Cái khả năng
"xin lỗi" và khả năng "nhận khuyết điểm" thật quá là mỏng
manh, họ không tự vượt lên được chính mình!
Tôi ở Pháp đến nay đã được gần một năm. Tôi tận dụng thời gian ở đây để tận mắt
tìm hiểu đất nước này, một nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tôi đã đến khá nhiều
nơi ở Paris, ra vùng ngọai ô ở tất cả các hướng Tây, Bắc, Đông, Nam...tôi gặp gỡ
hỏi chuyện các nhà kinh tế, chính trị, quân sự, sử học về nước Pháp, nước Pháp
xưa kia, trong chiến tranh, sau chiến tranh và hiện naỵ..
Tôi từng đi các địa phương Lyon, Lille, Toulouse, Aix- en- Provence. Tôi đọc
sách báo Pháp hàng ngày, có những buổi gặp gỡ thú vị với các nhà báo, nhà làm
phim, nhà họat động chính trị thuộc nhiều mầu sắc- từ cực tả sang hữu. Nước
Pháp đã để lại những ấn tượng mới mẻ đối với tôi, phong phú hơn nhiều so với nền
văn hóa và văn học Pháp tôi tiếp thu khi còn ít tuổi- Nói về nước Pháp phải viết
một cuốn sách dầy mới đủ. Tôi chỉ xin kể lại đây những điều sâu sắc.
Tự do cá nhân, tự do của công dân, là một quyền lợi, một thành tựu, một động lực
rõ rệt của đất nước này. Tự do gắn với bình đẳng, với phát triển- Nước Pháp
đúng là quê hương của cách mạng 1789, của: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Có người
ở Việt Nam sẽ phê phán tôi đi ca ngợi chủ nghĩa tư bản! Rằng chính Pháp đã gây
ra chiến tranh xâm lược, gây tai họa cho chúng ta. Tôi có lý do để căm thù đất
nước này. Mẹ tôi, bà mẹ thương yêu vô vàn của tôi, bà mẹ nhân ái từng nuôi hàng
chục con nuôi Vệ quốc quân, đã tắt thở vì những viên đạn ga- răng bắn vào giữa
ngực ngay sau những ngày Tết Trung thu 1948. Một tốp lính lêđương Pháp nhẩy dù
xuống Vân Đình và tràn qua làng Liên Bạt quê tôi. Một tên chỉ điểm ở xã đã chỉ
cho lính Pháp biết mẹ tôi là "vợ một Việt Minh cao cấp, " khi cha tôi
đang là Trưởng Ban thường vụ quốc hội trên Việt Bắc. Cũng lại lính Pháp giết chết
người bạn thân thiết nhất của tôi - người bạn con chấy cắn đôi - bạn Nguyễn
Dung, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 14 trong một trận đánh ở Quảng trị năm
1947. Tôi đã vuốt mắt cho Dung và về sau còn vuốt mắt cho hàng trăm đồng đội
thân thiết của tôi, với mối căm thù không nguôi quân xâm lược. Tuy vậy tôi vẫn
giữ một cách nhìn khách quan đối với nước Pháp.
Đất nước của tự do từ những nét nhỏ. Vào hiệu ăn hay ở nhà, người Pháp chọn
riêng cho mình rất kỹ từng món ăn- Người ta tôn trọng sở thích của nhau và mỗi
người biểu hiện cái quyền sở thích của riêng mình- Lúc đầu tôi hơi lạ, chưa
quen, có cá nhân quá không nhỉ? Thế là vào ăn hai người, ba người, bốn người, mỗi
người tìm cho mình một thực đơn riêng. Anh ăn cá, tôi ăn gà, bạn này ăn thịt
bò. Tôi uống rượu vang đỏ, anh uống rượu vang trắng, bạn kia uống bia Nhật, chị
kia uống bia Tầu - Thuốc lá người hút, người không, nhưng anh này hút Camel,
anh kia Philip Morris đậm, bạn kia nữa thì xì gà hay Gaulois. Đến nước chè cũng
vậy - Anh chè có vị bạc hà, tôi chè Sri Lanka, chị kia chè Tizanẹ..Thật lắm vẻ.
Rượu thì khỏi nói, vài chục loại, tùy thích, mọi người một thứ, tự chọn, cho đến
ở nhà, bữa cơm gia đình cũng vậy. Đã thành nếp, thành tập quán rồi. Người vợ muốn
ăn cá hấp, anh chồng muốn ăn thịt bò, con trai thích thịt gà hầm, con gái thích
xúp thịt cừu, khoai tây. ít khi ăn chung một món, trừ khi có đặc sản, có thức
gì thật đặc biệt có bàn bạc. Cho đến khi ăn pho- mát, có cả một hộp lớn, có 6,
7 thứ pho- mát: Vị cừu, vị bò, có thứ hơi chua, có thứ rất mặn, thứ rắn, thứ mềm,
thứ vàng, thứ trắng...mỗi người một sở thích...Trong gia đình ai ăn thứ gì, làm
món ăn gì cứ tự tiện làm lấy- Khi bận thì cùng nhau làm, trao đổi ý kiến với
nhau. Giờ ăn cũng vậy. Cứ việc tùy ý, tiện lúc nào thì ăn. Không ai làm phiền
ai, cản trở ai, quấy rầy ai, làm khó chịu cho ai cả. Tôi quan sát cháu Alise bốn
tuổi trong nhà tôi ở. Từ bé cháu đã vậy. Tự do lựa chọn, lễ phép, lịch sự mà lựa
chọn, thoải mái mà lựa chọn.
Cháu có bà ngoại là chị Ngọc, ông ngoại là anh Jacques.
Thế mà từ khi biết nói đã gọi: Ngọc! Jacques! Gọi mẹ cháu cũng bằng tên: Luce!
Gọi bố cũng bằng tên: Michel! Đó là thói quen, là phong tục, không cần thưa bẩm,
không cần gọi rõ ông, bà, cha, mẹ. Chỉ cần một cái tên trần trụi là đủ. Gọi tổng
thống, gọi thủ tướng, đảng viên gọi tổng bí thư cũng chỉ gọi bằng cái tên trần
trụi. Chẳng có gì là bất kính, là hỗn hào, là láo xược cả- ở ta mà gọi thủ tướng,
tổng bí thư bàng cái tên là không quen, không thể được, là bất kính, là qúa trớn,
và trong hội họp gọi như vậy là nguy tai, nói chuyện riêng với nhau mà gọi như
vậy là có thể bị báo cáo, bị chất vấn, bị xét hỏi về chính trị, bị phiền phức,
rầy rà đến suốt cả đời.
Tôi đến thăm một gia đình Việt kiều- Anh tham gia phong trào ủng hộ kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ ở bên nhà từ rất sớm. Chị người Pháp, vào đảng cộng sản,
rồi từ năm 1982 chuyển sang đảng xã hội. Con gái đầu của anh chị làm nghề vẽ quảng
cáo. Cháu theo chủ nghĩa Mao từ những năm đầu học đại học Mỹ thuật, nay lại
chuyển sang đảng xã hội. Đó tính chất đa nguyên ở trong gia đình. Họ thảo luận,
đôi khi tranh luận náo nhiệt, nhưng tôn trọng nhau, tôn trọng sư suy xét, lựa
chọn của mỗi người, và họ rất phục thiện. Trước hết là phục thiện với chính
minh. Mình thấy con đường nào đúng, tổ chức nào đúng thì theo. Không bắt chước,
không ađua, không mù quáng, luôn tỉnh táo, và xử dụng trọn vẹn quyền lựa chọn của
chính mình. Dân chủ là thế. Mỗi người chọn chỗ đứng của mình, dùng là phiếu của
mình để chọn mặt gửi vàng. Đó là thước đo công bằng. Đảng xã hội Pháp hiện nay
có được chừng 30 % tín nhiệm trong cử tri. Ba đảng phái hữu được hơn 40 % : Đảng
cộng sản thuộc phái tả, xưa kia có lúc lên đến 32 % (đảng dẫn đầu nước Pháp, đảng
của những người bị xử bắn), rồi 26 %, nay chỉ còn 8 %- Đang cực hữu của Le Pen,
mang tính chất kỳ thị chủng tộc được 10 % vào giữa năm 1991. Có dân chủ, có cạnh
tranh về chính trị, mỗi đảng phải tự lo xây dựng mối quan hệ với cử tri, phải
có đường lối được cử tri tán thành, có biện pháp thực hiện, nội bộ giữ gìn ngay
thật, trong sạch, không bị tai tiếng, không có xỉ căng đan trước dư luận.
Tôi quan sát nhiều cuộc biểu tình rộng lớn của học sinh trung học toàn nước
Pháp hồi đầu tháng 11. 1990. Nội dung đấu tranh là đòi nâng cao chất lượng giảng
dạy, sửa sang và trang bị lại các lớp học, giảm số học sinh mỗi lớp, trên dưới
40 xuống 35, xây dựng thêm trường lớp nơi đông dân cư. Các thầy cô giáo, cha mẹ
học sinh tham gia rất đông đảo. Cuộc đấu tranh lớn ở Paris, Lyon, Bordeau,
Marseillẹ..lan nhanh ra cả nước. Các đòan học sinh đáp xe lửa, xe buýt từ các tỉnh
đổ về Paris. 300. 000 học sinh biểu tình từ quảng trường La Bastille, qua
Austerlitz, vòng về Champs Elysees trước trự sở của chính phủ Pháp. Biểu ngữ, cờ,
khấu hiệu căng khắp nơi, truyền đơn phân phát rộng rãi, và tiếng hô của họ vang
động cả Paris. Tôi đứng hàng giờ quan sát, rồi đi cùng các đoàn. Những đòan học
sinh trẻ, từ 12 đến 18 tuổi hừng hực khí thế, vừa hát vừa đi, vừa hô khẩu hiệu,
vừa đi, nghiêm chỉnh, tươi vui, suốt từ 9 giờ sáng cho đến tối mịt, trên một quảng
đường dài gần 10 km. Thế là quyền thủ tướng, bộ trưởng bộ Giáo Dục Jospin phải
tiếp các đại biếu, nhận các kiến nghị và trao đổi ý kiến với họ- Tổng thống
Mitterand phải tiếp các đại biểu học sinh trẻ. Tôi thích thú, cảm thấy như trẻ
lại khi đứng ở chỗ các nhà báo trước trụ sở quốc hội và trước phủ tổng thống,
nhìn các đại biểu học sinh vai đeo cặp sách, đàng hoàng bước lên các bậc thềm lớn
để vào nơi trang nghiêm nhất của chính quyền trung ương, ngồi đối diện với các
bộ trưởng và nghị sĩ không chút mặc cảm, tự ty, họ trình bày rõ những yêu sách
của mình, tranh cãi đàng hoàng. Và tối đó, qua các kênh truyền hình, hàng triệu
người xem ti- vi của nước Pháp và thế giới được thấy cảnh ở trong điện Elysees,
tổng thống Pháp Mitterand và các nhà chức trách cao cấp nhất của nước Pháp tiếp
kiến, lắng nghe, thảo luận với hơn 20 học sinh trung học đại diện của các cuộc
biểu tình tuần hành và chấp nhận những yêu sách ấy. Hai hôm sau, phủ tổng thống
thông báo, chính phủ Pháp đã quyết định trích ngay từ ngân sách dự trữ 5 tỷ
Francs (gần bằng 1 tỷ đô la) để chi cho việc mở rộng trường lớp của các trường
trung học, đáp ứng một phần yêu sách của cuộc đấu tranh...Đại diện hoc sinh
trung học quyết định: tất cả trở về học tập bình thường, ghi nhận sự đáp ứng bước
đầu của tổng thống và chính phủ, kiên quyết đấu tranh tiếp tục vì chất lượng
giáo dục trung học là nền tảng của chất xám, của văn minh và văn hóa quốc giạ..Có
những khẩu hiệu rất được dư luận chủ ý như: Không một Franc cho chiến tranh
vùng Vịnh! Bớt ngân sách quân sự cho giáo dục quốc dân! Giáo dục trung học là nền
tảng của tương lai! Chúng tôi muốn học giỏi, hãy bảo dảm điều kiện cho chúng
tôi!...
Tôi nhìn lớp lớp học sinh phấn chấn trở về trong đêm với khí thế của những chiến
sĩ vừa thắng trận, ca hát vang ở các bến tầu điện, các ga xe lửa mà nhớ, mà tủi
cho các em học sinh trung học và đại hoc ở nước ta! Bao giờ các em cũng sẽ tổ
chức được đội ngũ của mình, đề ra yêu sách thiết thực và giành được nhung quyền
lợi thiết thân như thế...ở ta người ta hay nói về quyền làm chủ, nhưng lại
không có phương tiện và biện pháp để thực hiện cái quyền tối thiểu ấy trong xã
hội!
Tôi rất chú ý đến hành động của cảnh sát Paris với cuộc biểu tình này. Cuộc đấu
tranh được các ban đại diện học sinh hoạch định rất kỹ, với một kỹ năng tổ chức
và huy động rất cao, thành kế hoạch cụ thể. Những ai dự, từ đâu đến, giờ giấc
ra sao, ai phụ trách, những điểm tập trung, lộ trinh tuần hành đều được quy định
thống nhất. Cảnh sát được Ban lãnh đạo biểu tình thông baó trước hai ngày, và
chính cảnh sát trưởng Paris phải huy động hơn 3000 cảnh binh với 30 xe buýt tỏa
đi dọc các tuyến đường để bảo vệ an toàn cho các người tham gia đấu tranh. Thật
là lý thú.
Cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ học sinh đi đấu tranh, ngăn ngừa bọn càn quấy, bọn
phá dám, bọn lưu manh trà trộn vào, chúng gỉả danh học sinh để gây chuyện, phá
phách các cửa hiệu nhằm cướp bóc.
Báo chí và truyền hình đưa rất đầy đủ tin tức của cuộc đấu tranh. Có đến hơn 20
tờ báo hàng ngày ở thủ đô và 6 kênh truyền hình - Các báo và đài đều có một cuộc
cạnh trạnh, khi thì công khai, khi thì ngấm ngầm để đưa tin được sớm nhất (đua
nhau đến từng phút như đưa tin chiến sự vùng Vịnh), đủ nhất và chính xác nhất.
Trình độ nghiệp vụ, lương tâm nghề nghiệp cao, các thiết bị in và truyền tin hiện
đại. Dư luận là người trọng tài công tâm nhất, người cho điểm, người phán xét
thật sự. Mối quan hệ giữa báo, đai, người xem, người nghe thật bén nhậy. Việc
thăm dò, bình xét thái độ và ý kiến của công chúng là tức thời. Đang có cuộc
tranh luận chính trị giữa hai người A và B. Ngay trong thời gian tranh luận, ai
khen, hay chê A hay B, chỉ việc quay 4 số ở máy điện thoại rồi phát biểu ý kiến
là đài có máy tính điện tử tổng hợp tức thời và đưa ngay kết qủa lên truyền
hình. Ví như ông A được 42% ý kiến tán thành, ông B được 35% ý kiến tán thành,
23% chưa có ý kiến rõ trên tổng số 1000 người có ý kiến.
Trong làng báo Pháp có một tờ báo ở nước ngoài ít ai biết, nhưng người đọc ở
Pháp thích thú vô cùng - Đó là tờ tuần báo "Con vịt bị trói" ra vào
sáng thư nâm. Đây là tờ báo để cười, một tờ báo giải trí, được ăn khách nhất và
cũng được lãi lớn nhất trong tất cả các tuần báo Pháp, bán chạy ở Paris, ở các
thành phố và các vùng nông thôn. Mọi đảng phái, mọi tuối tác, nghề nghiệp đều
ưa thích. Văn phong báo cực kỳ hóm hỉnh. Không có kiểu cù vào cột nhạt nhẽo,
hay cù kiểu hạ đẳng, vô văn hóa. Báo này không thuộc đảng phái nào. Do đó, tôi
nghĩ nó là tờ báo chính trị bổ ích lớn nhất cho cuộc sống dân chủ. Tờ báo chỉ
trích, lên án, công kích một cách mỉa mai, chua cay mà hóm, tất cả những thói
hư, tật xấu trong xã hội, dám vuốt râù những ông lớn nhất nếu như họ có dấu hiệu
bê bối, không chút e dè, nể sợ. Báo "Con vịt bị trói" từ năm 1975 cho
đến nay, vạch tội cả nhân viên phụ trách ngành hải quan, các quan tòa, rồi cả hệ
thống thuế...Nó không buông tha bất cứ ai, từ tổng thống, thủ tướng, đến ông cẩm
các quận, những tay buôn lậu, trốn thuế, những mafia tội ác và những kẻ phân biệt
chủng tộc, nếu họ có thật những vấn đề, những xì căng đan. Đây là một công cụ lợi
hại bảo vệ nền dân chủ và quyền công dân, cố giữ môi trường trong sạch cho xã hội.
Tờ báo đươc dư luận quý trọng, tất cả những vấn đề nó nêu lên đều được ngành hữu
quan ghi nhận làm cho sáng tỏ và phần không ít được trả lời, kết thúc, khép kín
hồ sơ trên mặt báo. Các nhà báo sành nghề ở Paris bái phục "Con vịt bị
trói" vì nó đụng chạm rất nhiều đến các vị tai to mặt lớn, có máu mặt và lắm
quyền, đến nhiều tổ chức chính trị, kinh tế, tài chinh lắm thế lực- nếu hớ hênh
là dễ bị chết kẹt, bị đưa ra tòa để bồi thường danh dự do tố điêu, tố láọ..vậy
mà "Con vịt bị trói" vẫn binh chân như vại, vẫn lớn tiếng kêu "cạc,
cạc..." cho cả làng nghe, đế cả làng giải trí và phẫn nộ, để công bằng được
thực hiện. Nó có tai mắt ở nhiều nơi, có hệ thống cộng tác viên ở lắm chỗ để
làm công tác thẩm định, phán đoán có cơ sở, lượng định kỹ mọi chuyện trước khi
gây cười cho độc giả.
Một điều được ghi thành văn trong hiến pháp các nước phương Tây và các văn bản
pháp quy khác là không một ai có thể bị trừng phạt do những quan niệm chính trị
và tư tưởng chính trị của mình. Hiến chương Liên hợp quốc về quyền con người
cũng ghi rõ điều đó - ở các nước ấy, ai thích chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã
hội là hoàn toàn tự do - Ai muốn theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin, hay chủ
nghĩa Mao, chủ nghĩa Trosky hay cả chủ nghĩa Staline là hoàn toàn tự do. Ai muốn
ca ngợi Fidel Castro, Che Ghevara, hay Titọ..là hoàn toàn tự do. Cũng như ai muốn
theo Phật giáo, theo Kitô giáo, theo Hồi giáọ..đều tự do cả. Không một ai được
áp đặt cho ai một học thuyết nào, một lý luận, một quan điểm chính trị nào. Cả
đến chính phủ, tổng thống và đảng được đa số phiếu cũng không được quyền, không
được phép bắt buộc công dân tín nhiệm mình, phục tùng những chính kiến riêng của
mình, ca ngợi, tâng bốc mình. Người công dân chỉ có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật.
Mà pháp luật bảo vệ quyền tự do tư tưởng của công dân. Cho nên những chuyện ở
ta như là đảng cộng sản cứ tự nhận là được nhân dân tín nhiệm, là nhân dân chỉ
hoàn tòan tin cậy chúng tôi thôi, và yêu nước là bắt buộc phải yêu chủ nghĩa xã
hội (mà chủ nghĩa xã hội nào, ra sao?), không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu
nước, là phản bộị..thì người phương Tây không làm sao hiểu nổi được! Nó trái với
Hiến chương Liên hợp quốc, trái với hiến pháp các nước (và cả Hiến pháp của nước
ta ghi rõ quyền tự do tư tưởng), nó có mầu sắc của những chế độ tiền tư bản,
khi người dân đen không được láo xược với vua quan, vua là tuyệt đối sáng suốt
theo mệnh trời, người dân chỉ được cúi đầu vâng dạ...
Rõ ràng chỉ có một nền dân chủ đa nguyên khi cho công dân nhiều lựa chọn, có cạnh
tranh và có đối trọng. Người công dân có quyền tự do cao nhất là tự do suy
nghĩ, tự do khen và tự do chê, tự do sử dụng lá phiếu bầu của mình, tự do tín
nhiệm và tự do không tín nhiệm, bảo đảm một không khí chính trị lành mạnh, ổn định,
thường xuyên phát triển và tiến bộ.
Điều nổi bật ở các nước tư bản là sự am hiểu luật pháp và tuân thủ luật pháp được
biểu hiện ở khắp nơi. Nguyên tắc của nó là: người công dân có quyền làm mọi thứ,
trừ những điều luật pháp cấm đoán. Cho nên phải biết từ khi còn nhỏ tuổi cho đến
khi về già những gì luật cấm. Từ đi ra đường, đi làm, đi du lịch, mua bán, tậu
tài sản, gữi tiền...đều có những luật lệ quy tắc rất chặt chẽ. Tôi không phạm
luật lệ, tôi là người tự do, không ai đươc đụng chạm đến tôi. Tôi không sợ một
ai hết, từ ông cẩm, ông cò, ông thị trưởng, ông hải quan, đến ông bộ trưởng,
ông thủ tướng, ông tổng thống. Tôi đi đứng đàng hoàng, ung dung, thư thái với tất
cả nhân cách bình đẳng với mọi người- Nếu có ai dụng đến tôi một cách phi pháp,
nhà nước phải bảo vệ tôi, tôi có quyền thuê luật sư nếu như tôi chưa hiểu biết
hết luật, để bảo vệ cho tôi một cách công bằng. Điện Panthéon là nơi chốn cất
"những người con vĩ đại của nước Pháp". Không có tổng thống, thủ tướng,
bộ trưởng nằm đây đâu! Toàn là những nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng, nhà khoa học,
bằng tài năng sáng tạo của mình, làm rạng danh cho đất nước. Phía trước điện là
trường Đại học Luật khoa, trường lâu đời nhất, gần 200 năm. Nhà nước pháp quyền
phải như thế- nắm quyền qua luật pháp- và luật pháp yêu cầu mọi người tuân
theo, trên tinh thần bình đẳng của công dân. Các nhân viên cảnh sát ở Paris rất
lịch sự, lễ độ. Cả những nhân viên cảnh sát giao thông mặc đồng phục xanh, đi
phạt những xe đậu không đúng chỗ cũng lịch sự, nhưng cương quyết Không có:
"Xin anh, xin chị thông cảm cho em..." như ở ta, mà đã phạt là phạt.
Nếu không có tiền sẵn thì xem giấy, địa chỉ, gửi giấy phạt về nhà. Không trả
đúng hẹn, thì bị phạt thêm. Cứ phép nước mà làm. Người có quyền không được cậy
quyền thế, quát nạt, khinh người. Nhận tiền phạt đều có biên lai chính thức, có
cuống đàng hoàng, không thể lèm nhèm. Luật pháp quy định chặt chẽ, bịt chặt mọi
sơ hở. Suốt thời gian ở Paris, tôi chưa hề gặp một ai hỏi giấy tờ, vậy mà họ quản
lý rất chặt chẽ những ai vừa đến nước Pháp, làm gì, ở đâu. Có anh Việt kiều ở
đây hơn 30 năm, chưa một lần nào có ai hỏi giấy tờ cả, nhưng đến cuối năm phải
khai đủ thứ: tình hình bản thân, gia đình, thu nhập, tính thuế, kinh doanh lỗ
lãi, bảo hiểm, trợ cấp xã hộị..Những dữ liệu trên đều được ghi và lưu tại các
máy tính điện tử.
Tôi liên hệ đến tình hình đất nước. Rõ ràng, việc xây dựng một nhà nước phải
trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp trị, xây dựng xã hội
thành một xã hội công dân đã trở thành một yêu cầu cấp bách, nếu không dân chủ
và công bằng vẫn chỉ là khẩu hiệu. Biết bao nhiêu luật pháp nữa cần đươc xây dựng.
Trường đại học luật cần khẩn trương mở cưả đào tạo hàng loạt cán bộ pháp lý.
Các luật sư cần phải được hành nghề rộng rãi. Và đảng phải tách khỏi nhà nước.
Ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp phải tách ra rõ rệt. Cái khó của ta là
buông lỏng quá lâu theo tinh thần đảng trị rồi. Hồi xưa đảng còn trong sạch,
dân có niềm tin và tinh thần tự giác, tự trọng rất cao. Nhưng khi lòng tham đã
lan tràn từ trên xuống dưới, bất chấp pháp luật, nhà dột từ đỉnh nóc dột xuống,
đạo lý không còn mà thiếu hẳn pháp lý để kiềm chế dục vọng thì xã hội mặc sức
băng hoại. Từ năm 1945, các nhà luật học Phan Anh, Trần Công Tường và sau đó luật
sư Nguyễn Hữu Thọ đã đề ra việc xây dựng pháp luật là vấn đề cực kỳ cấp bách.
Nhưng những ý kiến ấy đều bị bỏ qua, chỉ vì coi đảng là tất cả, đảng là
"điều kiện cần và đủ" để xây dựng chính quyền rồi. Chính cái quan niệm
đảng trị này là một nguồn gốc của sự hỗn loạn và xuống cấp của xã hội hôm nay.
Một điều cần nói rõ, nếu đảng thực sự tách ra khỏi nhà nước, đảng không còn bao
biện, dẫm đạp lên chính quyền, đảng chỉ phát huy tác dụng bằng con đường thuyết
phục như văn kiện của Đại hội đảng VII ghi rõ, thì đại hội VII lần này không
nên làm ầm ĩ dư luận đến thế. Phải để cho việc bầu cử quốc hội mới và việc quốc
hội ra các quyết định cần thiết là hệ trọng hơn, vì theo đúng Hiến pháp,
"mọi quyền lực của nhân dân thuộc về các cơ quan dân cử. "
Trong những tháng sống trên đất Pháp, điều gây ấn tượng lớn và sâu đối với tôi
là người công dân, người lao động được hưởng biết bao nhiêu quyền lợi thiết thực.
Phải đấu tranh quyết liệt mấy thế hệ công nhân và công dân mới giành được giờ
lao động mỗi ngày là dưới 8 giờ (so với 10, 12 giờ hay hơn nữa thời chủ nghĩa
tư bản sơ khai), mỗi tuần làm việc 42 giờ hoặc dưới 42 giờ (so với 60, 65 giờ
hay hơn nữa), cũng như mỗi tuần làm việc 5 ngày (so với 6 hoặc 7 ngày hồi trước)-
Trên báo Pháp đang bàn về việc tổ chức để người lao động, viên chức có thể nghỉ
3 ngày liền sau 4 ngày làm việc, mở ra một hướng đấu tranh mới mẻ ở một số
ngành. Lương tối thiểu của công nhân viên chức được ấn định hàng năm. Hiện nay
lương SMIC (tối thiểu cho các ngành nghề) hàng tháng là 5300 Francs (bằng gần
1000 dô la). Người về hưu được bảo đảm về cuộc sống. Tùy theo thâm niên, nghề
nghiệp và mức lương mà nhận được lương hưu khá giả hay dư dật ít nhiều. Quỹ trợ
cấp xã hội rất lớn, do nhiều nguồn đóng góp: của chính phủ, trích ra từ ngân
sách, tiền trích từ lương của lao đông, viên chức, cũng như đóng góp của người
chủ mướn lao động, mướn nhân công và viên chức, từ các hãng tư nhân phải trích
lãi và nộp nhiều loại thuế...Người lao động, viên chức được bảo hiểm về sức khỏe,
được chữa bệnh, nằm bệnh viện không mất tiền, hoặc chỉ phải đóng góp rất ít, nếu
không làm việc được, neo đơn, thất nghiệp thì được các cơ quan cưú trợ xã hội
xét và được những khoản phụ cấp thích đáng...Chính phủ làm ra những căn nhà HLM
(nhà cho thuê giá thấp) cho những người thu nhập trung bình và thấp (những ngôi
nhà làm riêng cho cán bộ cấp cao ở Hà Nội còn kém xa những HLM ở Pháp). Trẻ em,
người già, người tàn tật, được chăm sóc rất đặc biệt, không phải chỉ cho một số
ít, mà cho đại trà, nghĩa là mọi người trong diện ấy một cách bình đẳng.
Việc đi lại của công dân được nhà nước giải quyết từng bước theo nhu cầu. Hiện
Paris có hệ thống tầu điện ngầm như mắc cửi, gồm hơn 10 đường trục chéo nhau với
gần 600 ga. Có đến hơn 3 triệu lượt người đi Metro mỗi ngày- thêm vào đó có hệ
thống 4 đường RER- xe điện tốc độ cao- trong thủ đô nối liền với hệ thống xe lửa
trải ra khắp nước. Lại có hệ thống xe lửa nhanh TGV, mỗi giờ chạy được 240
km...Có chính sách bán vé chuyến, vé ngày, vé tháng có loại vé dành chung cho tầu
điện ngầm, RER, và xe buýt, có loại vé cho công nhân, cho học sinh và sinh
viên. Lại có loại vé cho người về hưu, người tàn tật, được bớt 50 %, hay hoàn
toàn không mất tiền- Học sinh đi tập thể, đi du lịch được mua gíá hạ hơn nữạ..
bên sông Loire, tôi ghé thăm một nhà dưỡng lão của hơn 40 cụ từ 76 đến 103 tuổi.
Đây là lâu đài của môt quận công cũ ở trong vùng. Các cụ được phục vụ chu đáo,
ăn ngủ, chơi bài, đọc sách báo, chơi thể thao, đi bách bộ, làm vườn...Mọi cụ
già trong vùng có hoặc không có người thân chăm sóc, đều có thể đến đây sống
trong niềm vui và được phục vụ chu đáo. Đã có sự ganh đua giữa các vị dân biểu,
các quận trưởng, tỉnh trưởng, giữa đảng cộng sản, đảng xã hội, với các đảng
phái hữu. Đại biểu nào cầm quyền một nhiệm kỳ đều cố để lại một dấu ấn về thành
tựu của mình ở địa phương: đó là một, hai nhà trẻ, dăm bảy lớp mẫu giáo, là những
vườn hoa và thảm cây xanh..., đó cũng có thể là 1, 2 trường trung học, một thư
viện có vài nghìn cuốn sách, là sân vận động, là những phòng thể thao mùa đông.
Đó có thể là ngôi nhà dưỡng lão, những đại lộ trồng cây, những cửa hàng thực phẩm,
hoặc những nhà ở có kiến trúc đặc sắc cho nhân dân thuê với giá rẻ...Nhiệm kỳ của
ông, bà, làm tốt, thực sự quan tâm đến nhân dân, thực hiện đầy đủ lời hứa tuyển
cử, cử tri chúng tôi lại tín nhiệm ông, bà. Còn ông hoặc bà kia chỉ hứa hão, lại
bê bối, chẳng có tích sự gì để đánh đấu nhiệm kỳ thì thôi, xin vái ngài, ô voạ..xin
ông bà về nghỉ cho dân khỏẹ..
Các vị đại biểu ra ứng cử đều có chương trình cụ thể, không có hứa hẹn chung
chung. Phải am hiểu địa phương về tất cả các mặt (sản xuất, số lao động, số thất
nghiệp, hệ thống y tế, giáo dục, các mặt xã hội và đời sống của các lớp dân cự..)
từ đó đề ra kế hoạch cho cử tri xem xét.
Thị trường Paris cũng vậy. Ông Chirac ra tranh cử với một kế hoạch rất rõ ràng.
Giải quyết những vấn đề lao động, xây dựng và điều hành các công việc của thủ
đô, xây dựng những công trỉnh, giải quyết nạn thất nghiệp...Đã hứa hẹn là phải
thực hiện đến nơi, đến chốn, hoặc vượt lời hứa. Việc xây dựng khu La Defense, một
quần thể kiến trúc rất lớn ở phía Tây Paris- đặc sắc nhất ở châu Âu- đã căn bản
hoàn thành. Khu La Villette, "thành phố khoa học và công nghiệp" ở
phía đông bắc Paris, trong quận 19 đang được hoàn tất. Đây là nơi phổ biến những
kiến thức, những thành tựu khoa học và công nghiệp của nước Pháp và thế giới,
có phòng chiếu phim rộng lớn, diện tích màn chiếu hình vòm, rộng 1000 mét
vuông. Những kiến thức về vật lý, hóa học, sinh học, tin học, quang học, địa
lý, về du hành vũ trụ, về lò phản ứng hạt nhân, từ giản đơn đến phức tạp đều được
trình bầy dưới dạng phổ cập và nâng cao, thu hút mỗi lứa tuổi, nhất là tuổi trẻ
đến để tìm hiểu về khoa học hiện đại. Gần đây thị trưởng Paris lại phải xắn tay
thúc đẩy việc mở rộng hệ thống tầu điện ngầm ra các hướng như ông từng hứa.
Trong nhiệm kỳ này của ông, Paris sẽ có thêm gần một chục ga mêtrô nữa- Những
ga tầu điện ngầm thật đặc sắc của Paris. Có ga như La Bastille, Montparnasse,
Les Halles, Republique, ga Lyon...có 3, 4 đường chéo nhau, gối lên nhau. Nhà ga
rộng mênh mông, ước bằng cả mặt hồ Hoàn Kiếm, có 3, 4 tầng dưới mặt đất...
Tổng thống Pháp Pompidou trong nhiệm kỳ của mình cũng để lại một dấu ấn giữa
Paris. Một Trung tâm mang tên ông, còn gọi là Trung tâm Beaubourg (tên của phố
này). Ngôi nhà cực lớn, 6 tầng cao và 3 tầng hầm được xây dựng về hình thức như
một nhà máy với những ống vận chuyển xanh, cùng với những ống đuy ra lắp gương.
Đây là một trung tâm văn hóa giáo dục công cộng, mỗi ngày tiếp đón chừng 80
ngàn đến 120 ngàn lượt người. Họ đến đọc báo, xem sách, xem phim, xem triển lãm
khoa học, mỹ thuật, nghe nói chuyện, làm bài, học ngoại ngữ. Vào cửa không tốn
một xu, chẳng cần giấy tờ gì hết, mà tha hồ lấy báo hàng ngày, báo hàng tuần của
Pháp và thế giới ra mà đọc, Có "thư viện nhân dân" cực lớn đủ loại
sách, được xếp đặt khoa học, có những thủ thư tận tình, có chỗ ngồi đọc sách
thoáng rộng, đủ ánh sáng, có máy sao chụp tài liệu, có hệ thống nghe và nhìn để
học hơn 20 thứ tiếng khác nhau, có những trung tâm máy tính điện tử ghi mọi dữ
kiện chính trị, văn hóa, khoa học...giải đáp ngay tức khắc những câu hỏi của mọi
ngườị..Trên tầng cao nhất có sân đứng ngắm Paris và xung quanh, có nơi điểm
tâm, giải khát tự phục vụ và những phòng triển lãm hội họa hiện đại. Tôi gặp những
bạn trẻ Việt nam, Trung quốc, Angierị..đến đây để học thêm hàng tuần, hàng
tháng liền, nâng cao trình độ tiếng Pháp và trình độ chuyên ngành của mình, chẳng
tốn tiền. ở đây chỉ cần có thiện ý, ham học, còn điều kiện rõ ràng là có sẵn,
không tốn kém gì cả, Trung tâm mang tên tổng thống Pompidou là dẫn chứng về một
cơ sở cung cấp hiểu biết, trí tuệ cho toàn xã hội. Những người phụ trách trung
tâm này cho biết: chúng tôi bỏ vốn vào đây không ít, nhưng bù lại là lợi, lợi
không nhỏ. Vì sức mạnh của một dân tộc là kiến thức, quảng đại quần chúng thừa
hướng một cách rộng rãi, kịp thời.
Còn tổng thống Mitterand? Nhiệm kỳ của đương kim tổng thống sẽ được để lại những
dấu ấn lâu bền ở một số công trình đồ sộ- Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngay cách mạng
Pháp 1789- 1989 đã hoàn thành Kim tự tháp lớn bằng kính đặt ở sân trong của lâu
đài Louvres, đã phục hồi toàn bộ cung điện Louvres sau khi tổng thống quyết định
di chuyển Bộ Tài chính làm việc tại đây ra bờ sông Seine, đã xây dựng cung
opera mới, nhà hát lớn của thủ đô, ngay trên nền nhà ngục Bastille cũ đã bị san
bằng hồi ấy: một opera phủ kính, đặc sắc và độ sộ vào bậc nhất châu âu hiện
nay- Đã hoàn thành một loạt công trình lớn bên bờ sông Seine, nổi nhất là trụ sở
Bộ Tài chính mới, có sân máy bay lên thẳng, có bến, xuống tầu trên sông Seine,
có cung thể thao tầm cỡ quốc tế ở cạnh.
phía đông, trên sông Marne, một công trình kỹ vĩ mang tên EuroĐisneyland đang
được khẩn trương xây dựng trên một khu vực rộng hơn một ngàn héc- ta. Đây là một
trung tâm giải trí cho thiếu niên, và cả cho thanh niên và người lớn tuổi. Một
phác họa kiểu châu Âu của Disneyland ở châu Mỹ, để thế hệ trẻ tha hồ thưởng thức
những bay bổng của tưởng tượng, sống trong những thần thoại và truyền thuyết: từ
thế giới cuả Bạch tuyết và bảy chàng lùn, đến vô vàn chuyện thú vị về con chuột
của Walt Disney, qua những câu chuyện hấp dẫn của dân gian Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ,
Tây Ban Nha, Mỹ La Tinh...và tập trung vào văn học dân gian Pháp, một nền văn học
mang nhiều tính nhân đạo sâu sắc...
Có nhiều người sẽ mắng mỏ tôi ăn phải bả của chủ nghĩa tư bản và đưa nó lên tận
mây xanh! Không, tôi đã nói chuyện với khá nhiều nhà kinh tế và sử học Pháp, với
những anh em Việt kiều sống hàng hai mươi, ba mươi năm ở Paris và trực tiếp
quan sát bằng tai, bằng mắt mình cuộc sống các mặt. Phải khẳng định rõ rệt rằng
cuộc sống của nhân dân, của lao động, viên chức đã có thay đổi lớn trong từng
thời gian một- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc sống rất gay gắt- phải
mua hàng bằng tem phiếu- Thiếu điện, thiếu than sưởi mùa rét. Thiếu nhà vệ
sinh, điện nước, thiếu thang máỵ..Sản xuất được khôi phục và phát triển là đời
sống được cải thiện. Hiện nay Pháp là nước số tỷ lệ điện nguyên tử trong lưới
điện quốc gia cao nhất châu Âu, điện cho sản xuất và tiêu dùng không thiếu Xưa
kia điện thoại vài trăm người mới có một máy, nay cứ 1, 4 người một bộ máy-
Hàng hóa rất nhiều vẻ. Bánh mì bán thừa thãi có đến 20 loại, tha hồ chọn: bánh
tròn, bánh dẹt, bánh có tỷ lệ cám, bánh có trộn bột ngô, và trộn kê, bánh có đường,
có mứt...Sữa bò cũng có hàng chục loại, với các chai đựng khác nhaụ..Đó trước hết
là do việc tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu của nhà sản xuất nhằm phục vụ khách hàng
tốt nhất. Không phải từ lòng tốt và thiện tâm của các nhà tư bản, mà từ cuộc chạy
theo lợi nhuận phải chăng, chạy theo lợi ích của các công ty, các nhà sản xuất,
xã hội chấp nhận điều đó một cách sòng phẳng. Thứ hai là những tiến bộ của khoa
học và kỹ thuật, những sáng chế và phát minh được ứng dụng sớm nhất vào sản xuất,
đưa năng xuất xã hội ngày càng lên cao. Tôi vừa xem một máy tính điện tử bỏ túi
nhẹ bằng một bao thuốc lá, có thể dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh và ngược lại
chứa 12 nghìn từ, giá chỉ bằng một phần hai mươi lương tối thiểu của một công
nhân bậc thấp! Thật là kỳ diệu! Pháp là nơi phát minh ra tấm "thẻ" gọi
điện thoại điện tử- từ tính mua một lần dùng hàng chục cho đến một trăm lần mọi
máy điện thọai công cộng.
Ba là- điều này rất quan trọng: tất cả những kết quả ấy đều phải trải qua những
cuộc đấu tranh bền bỉ, lâu dài, có khi khá gay gắt về chính trị, kinh tế của
các chính đảng dân chủ và tiến bộ, của các cộng đoàn, của hàng triệu công nhân,
qua các cuộc thảo luận, tuần hành, bãi công bộ phận và toàn bộ, với những yếu
sách cụ thể từ thấp lên cao. Sức lực, kinh nghiệm đấu tranh ấy đã dựa vào Hiến
pháp, luật pháp, quyền công dân mà phát huy hàng ngày, được các phương tiện
thông tin đại chúng, báo chí, phát thanh, truyền hình hỗ trợ mạnh mẽ và rất có
hiệu quả.
Điều thứ tư là do có Liên Xô, có hệ thống xã hội chủ nghĩa, tại đó nhân dân lao
động được chăm sóc nhà ở với giá thuê rất thấp, chữa bệnh cho nhân dân không mất
tiền, giáo dục từ thấp lên cao không mất tiền, phụ cấp xã hội và bảo hiểm xã hội
ở một số nước khá cao (cho những đối tượng trẻ em, người già, gia đình đông
con, người tàn tật, nuôi cao tuổi cô đơn), thời gian lao động công nhân viên chức
giảm trong năm, trong tuần lễ và trong ngàỵ..Những thành quả của các nước xã hội
chủ nghĩa ấy thúc đẩy nội dung đấu tranh của lao động các nước tư bản. Chính
giai cấp tư bản buộc phải chú trọng để không thua kém các nước xã hội chủ nghĩa
về mặt này trong cuộc cạnh tranh giữa hai xã hội đối lập. Điều đáng buồn cho chủ
nghĩa xã hội hiện thực là không thiếu những thiện ý về cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của những người lao động và đông đảo nhân dân nhưng đã thực
hiện qúa tải, nôn nóng và vội vã với những chủ trương bao cấp tràn lan theo kiểu
bình quân chủ nghĩa, trong khi chưa tạo nên được năng xuất lao động cao và sản
phẩm dồi dào như ở chủ nghiã tư bản. Đi cùng với thiếu dân chủ, sự đổ vỡ là
không tránh khỏi.
Có người chất vấn tôi về nạn thất nghiệp, nạn mãi dâm, nạn nghiện ma túy, tệ
tham nhũng trong các nước tư bản? Trong vấn đề này cần có thái độ tỉnh táo,
khách quan và công bằng- Trong một thời kỳ, nhất là thời kỳ chiến tranh, khi
toàn bộ sinh lực xã hội được huy động cho cuộc chiến đấu sống mái với kẻ thù
xâm lược, các nước xã hội chủ nghĩa đã từng giữ gìn tương đối trong sạch xã hội
mình, từ lực lượng lãnh đạo đến nhân dân. Một thời gian nhất định, đạo đức, niềm
tin, tính tự giác trong xã hội nhìn chung đã cao hơn cả pháp luật. Thế nhưng ở
các nước ấy, một thời gian dài đã có thái độ không sòng phẳng theo kiểu lập trường
cứng nhắc và gian lận: về phía ta thì đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại, về phía
"địch" thì tha hồ nói thêm, tô vẽ cho xấu thêm, bẩn thêm. Ví dụ, các
giáo sư và giáo trình xã hội chủ nghĩa không công nhận là trong các nước xã hội
chủ nghĩa có thất nghiệp (mà chỉ có người chưa có việc làm!), cũng như tại đó
không có khủng hoảng (chỉ có giá cuả đồng tiền chưa vững), cũng như không có cạnh
tranh (chỉ có thi đua), còn trộm cắp, xì- ke, hối lộ, mãi dâm...chỉ là một số
hiện tượng tiêu cực tạm thời. Các nước xã hội chủ nghĩa đều có nền dân chủ một
triệu lần cao hơn các nước khác! Những chân lý ấy trước đây, khi chưa có được
tin tức, trao đổi, khi chưa đọc báo nước ngòai, khi chưa được xem phim, khi người
thân trực tiếp thăm viếng nhau còn hiếm, thì còn có người tin. Nhưng khi hàng
rào ngăn cách biến mất, những thông tin về các nước được mở rộng, chuẩn xác,
thì những sự thật không sao còn che dấu được nữa.
Trên các mặt: sản xuất ra nhiều của cải, đạt năng xuất lao động cao, ứng dụng
nhanh các quy trình công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu phong phú của người
tiêu dùng...thì chưa có một nước xã hội chủ nghĩa nào đạt, thậm chí còn kém và
kém rất xa. Theo Mác và Lê- nin, đó là những mặt then chốt nhất, đem lại thế mạnh
và thế ưu việt của một chế độ xã hội. Liên Xô là nước đầu tiên phóng vệ tinh
nhân tạo và cũng lần đầu tiên đưa con người vào vũ trụ, nhưng đến nay lại sút
kém về mặt này, khi Mỹ đã đưa người lên cung trăng đang phóng những con tầu vũ
trụ cực lớn và thu hồi nó về, đồng thời đang đóng vai trò quyết định trong việc
thám hiểm Sao Hỏạ..
Về mặt thực hiện dân chủ thì chế độ độc đảng đã tỏ ra không ổn trên thực tế- Sự
độc đóan, chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi, thói gia trưởng, quan liêu, xa rời
nhân dân đã ngang nhiên dẫm đạp lên quyền dân chủ- Tất cả các nứơc xã hội chủ
nghĩa cũ đều đã sớm muộn chấp nhận đa nguyên: Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức (trước
khi thống nhất với CHLB Đức), Tiệp Khắc, Bungari, Hungari, Rumani, cho đến Mông
cổ, Anbani, Nam Tư. Chỉ còn Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam còn cố cưỡng
lại xu thế ấy, nhưng chắc chắn không thể cưỡng được lâu, vì trái với đạo lý,
trái với quy luật tất yếu, trái với đòi hỏi mạnh mẽ của nhân dân mỗi nước- Viện
lý do là địch sẽ lập tức lợi dụng là thái độ hoảng hốt, thiếu tự tin và thiếu
tin ở nhân dân.
Mặt khác những tình hình thiếu dân chủ, vi phạm quyền làm chủ xã hội của nhân
dân đã làm sản xuất rối loạn, bất công xã hội mở rộng, nạn tham nhũng hoành
hành như bệnh dịch, xã hội băng hoại về mặt đạo đức và không ổn định- Sự không ổn
định hiện nay hoàn toàn không phải do lực lượng nào bên ngoài gây nên mà do
tình trạng thiếu dân chủ.
Cái gốc của vấn đề là ở xã hội nào cũng có người tốt và người xấu. Trong con
người nào cũng có mặt tốt và mặt xấu- Trước kia, có người hiểu rằng những người
lãnh tụ cộng sản là rất tốt, là hảo hạng, thậm chí gần như là tốt đẹp một cách
thánh thiện, xứng đáng là mẫu mực cho toàn xã hội. Nhân dân quý trọng đến mức
tôn thờ Staline, Mao Trạch Đông chính là vì thế. Sau này được biết Staline độc
đóan ra sao, hung bạo thế nào, coi thừơng tính mạng nhân dân ra sao, thì nhân
dân Liên Xô và thế giới đều căm giận và khinh bỉ. Mao cũng hết thiêng do độc
đóan, tùy tiện trong cách mạng văn hóa vô sản, đàn áp những người dân chủ, nhân
dân lương thiện...ở Việt nam, chủ tịch Hồ Chí Mnh được nhìn nhận như một con
người tận tụy, có đạo đức, có tâm huyết, hiểu biết rộng, hành động kiên quyết...Về
sau nhiều người cho rằng ông là lãnh tụ, có công, nhưng cũng có ưu, có khuyết,
có sai lầm nữa, đó là một điều tự nhiên. Còn những người lãnh đạo sau chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tỏ ra yếu kém tất cả các mặt: gìa ốm về thể chất, thiếu đức tính
lắng nghe, thiếu am hiểu về thế giới mới, thiếu trách nhiệm, thiếu phục thiện,
cố duy trì một chế độ không dân chủ về chính trị.
ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, hay tư bản chủ nghĩa, xem ra vấn đề cốt tử
là nhân dân, trước hết là người lao động. Toàn thể công dân trong xã hội có được
lựa chọn những người lãnh đạo của mình và kiểm tra công việc của họ hay không? ở
các nước tư bản chủ nghĩa, họ đã đấu tranh và giữ được cách làm như thế, nhân
dân được hưởng thụ chính đáng những quyền lợi thiết thực. ở các nước tư bản, cuộc
đấu tranh vẫn tiếp tục hàng ngày. ở Pháp gần đây các lực lựơng phái tả (vốn thuộc
đảng cộng sản Pháp, đảng xã hội Pháp và một số người không đảng phái) vừa gặp
nhau trên khẩu hiệu Refondations ("xây dựng lại" hay "đặt nền
móng mới"), nhằm đấu tranh cho một chế độ xã hội có nhiều dân chủ, và công
bằng xã hội hơn. Tôi đã dự những cuộc họp có nội dung phong phú ấy ở phòng họp
quốc tế La Villette, nhằm tập hợp một lực lượng mới của cánh tả Pháp do thời cuộc
đòi hỏi. Không có chế độ nào tuyệt mỹ cả - mọi xã hội đều phải vận động theo hướng
hoàn thiện thêm. Dân chủ, công bằng xã hội và hạnh phúc của nhân dân luôn luôn
và mãi mãi là mục đích ở phía trước, đây là một sự tiếp cận thường xuyên và
không bao giờ kết thúc cả.
Vấn đề bà con Việt kiều đang sinh sống ở nước ngoài tại mọi châu lục là một vấn
đề cực lớn. Cần một công trình nghiên cứu chu đáo về lịch sử, địa lý, chính trị,
kinh tế, pháp luật, tập quán, tâm lý...để cùng nhau giải quyết theo những lợi
ích trước mắt và lâu dài của tổ quốc Việt nam.
Việc này càng cần thiết và cấp bách vì đã bị coi nhẹ, lại bị nhiễu loạn vì những
tình cảm nhất thời chi phối ở cả hai bên chiến tuyến trước kia. Những tình cảm
âm tính ấy đến nay vẫn còn tồn tại. Rất cần cùng nhau bàn bạc để giải quyết thấu
tình đạt lý, trên tinh thần hòa hợp và hiểu biết lẫn nhau.
Cộng sản và quốc gia, ai đúng, ai sai? Ai có công và ai có tội? Ai là chân
chính, ai là không chân chính? Câu chuyện này có thể nói hoài không hết, thảo
luận hoài không sao ngả ngũ và kết luận được. Bởi vì chỗ đứng khác nhau, cách
nhìn nhận khác nhau, đối lập nhau.
Tôi đã gặp và hỏi chuyện khá nhiều bà con người Việt ở Pháp và ở Hoa Kỳ, ở úc
và ở Thái Lan, ở Bỉ và ở Hà Lan...Có người là bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng
Kim (tháng 3. 1945), hoặc bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh sau cách mạng
tháng Tám. Họ là những trí thức, giáo sư, sinh viên, công chức. Họ là những nhà
hoạ sĩ, điêu khắc, sáng tác âm nhạc, nhà báọ..Họ là những bà nội trợ, nam nữ
thanh niên...Họ là những người lính O. N. S (lính thợ) sang đây từ Đại chiến thế
giới thứ nhất (số này chỉ còn lại rất ít người, đã trên dưới 80 tuổi), hoặc từ
Đại chiến thế giới thư hai, có những người thông ngôn cho anh em lính thợ ONS.
Có người đi tu học từ hồi 1950 đến 1954, hoặc từ những năm 1960 rồi ở lại. Có
những người đi vào những năm 1973, 1974 và 1975 khi chiến tranh kết thúc. Có
nhiều người ra đi hồi 1977, 1978 trong những chiến dịch ra đi của người Hoa.
Có người ra đi bằng con đường đoàn tụ gia đình của Cao ủy người tỵ nạn...Cũng
có một số người là thuyền nhân, trôi đạt và chờ đợi mãi ở các trại tỵ nạn ở Hồng
Kông hay ở Thái Lan, Malaixia hay Philipine, Singapor hay Indonesie, hoặc ở
Australia rồi mới sang được đất Pháp. Có người đã vào quốc tịch Pháp, có người
xin tỵ nạn chính trị, có người còn hộ chiếu Viêt Nam, quy chế của họ rất khác
nhau. Có người lấy vợ hoặc lấy chồng Pháp, sinh con, đẻ cái. Có gia đình đã trải
qua hai hay ba thế hệ người gốc Việt Nam trên đất Pháp. Động cơ rời quê hương của
họ - chừng 200. 000 người hay hơn nữa, cũng rất khác nhau. Bị chính quyền hồi
còn chính phủ bảo hộ (Bắc kỳ và Trung kỳ) hoặc thuộc địa (Nam Kỳ) tuyển mộ một
cách cưỡng bức đi lính thợ. Gia đình khá giả cử đi du học rồi bị kẹt do chiến
tranh. Nhiều anh em sang Pháp chỉ nghĩ sẽ học ở đây trong 4, 5 năm là cùng, vậy
mà kẹt lại đến 20, 30, 40 năm! Cũng có người đi bằng đường chính thức, đoàn tụ
gia đình...Quan điểm chính trị do đó hết sức nhiều vẻ, đi từ cực đoan này sang
cực đoan khác. Có những bác công nhân tự nhận là trung kiên, vững vàng nhất,
"trung thành, tận tụy nhất, " luôn giữ bàn thờ tổ quốc, cờ đỏ sao
vàng và ảnh lớn chủ tịch Hồ Chí Minh giữa nhà, coi đại sứ quán cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam như đại diện của tổ quốc Việt Nam và coi lời của đảng cộng sản,
cũng như đại biểu của đảng, những căn dặn của cán bộ sứ quán như là lời dạy của
cha mẹ mình, để một lòng tuân theọ..ở cực kia là những người quyết không đội trời
chung với cộng sản, coi cộng sản là nguồn gốc của mọi tai họa, khổ đau và nghèo
hèn của dân tộc, họ thâm thù và khinh bỉ những người cộng sản, nhất là những
người lãnh đạo của đảng và nhà nước. giữa hai cực đoan ấy là cả một gam mầu sắc
rất phong phú, trong đó có cả một số người không có chính kiến chính trị rõ
ràng, chỉ biết làm ăn, kinh doanh, kiếm lợi cho gia đình và riêng mình ở nơi xa
quê hương này, hoặc chỉ lo đến việc xin visa về nước sao cho dễ dàng.
Không gì bằng đối thoại. Đối thoại ngay thẳng và thanh thật, không có định kiến
trước. Tôi muốn lắng nghe nhiều hơn là nói. Cố hiểu cho rõ ý kiến và để biết
hòan cảnh của mỗi người. Có người để cho tình cảm dẫn dắt, phát biểu rất sôi nổi.
Có người nặng về lý trí, điềm tỉnh và tỉnh táo. Có người xa nước quá lâu, tất cả
chỉ còn là kỷ niệm. Có người có những suy tư sâu sắc, những nghiền ngẫm kỹ lưỡng,
những đắn đo chân thực. Cũng có nhiều người có biến chuyển trong nhận thức và kể
lại những nhận thức đã thay đổi ra sao và vì đâu. Có những người ý kiến trái
ngược nhau, chỉ cần mở đầu tranh luận là kéo dài bất tận những cuộc cãi vã. Chiến
tranh và hận thù. Một bên thì lập luận: Ai theo Pháp, theo Mỹ để lôi kéo vào đất
nước hàng triệu tên xâm lược, bắn phá hàng chục triệu tấn bom đạn trên cả hai
miền Nam Bắc? Hàng triệu người chết, tàn phá nhà cửa, ruộng đồng, rừng quý. Mỹ
Lai là thế nào? Chiến dịch tố cộng, diệt cộng tàn bạo để trụy lùng, bức haị những
người yêu nước ra sao? Chiến dịch Phượng Hoàng, Bình định, Bình định cấp tốc,
lùng ráp những người cộng sản, những người yêu nước ra sao? Các người là Việt
gian chính cống. Không có các người, Pháp, Mỹ cũng bị bó tay. Các người đã thua
trận nhục nhã, nay còn định quay lại à? Nhân dân không bao giờ quên tội ác của
các người đâu. Những tiếng nói của phía bên kia vang lên: Những tiếng nói: Cộng
sản là có tội, là tội phạm chính. Ai đã từ bỏ quyền lợi dân tộc để phục vụ cho
nước ngoài, cho quốc tế Ba, cho Nga Xô, cho Trung cộng? Ai đã giết hại hàng chục
ngàn người nông dân và công dân vô tội trong cải cách ruộng đất? Ai tàn phá sức
sản xuất xã hội, làm cho xã hội hỗn loạn sa sút, đảo điên vì cải tạo nông nghiệp,
cải tạo công thương nghiệp cưỡng bức, đề xướng học thuyết đấu tranh giai cấp và
luận thuyết "ai thắng ai" gay gắt? Ai mù quáng theo lệnh của Staline,
coi mọi người không cùng chính kiến là kẻ thù nguy hiểm, cần phải thủ tiêu để
tàn sát những người quốc gia thuộc các tổ chức quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng
đồng chí hội (Việt quốc, Việt cách), Duy Dân, Phục quốc?...rồi tàn sát cả những
người cộng sản, quốc tế chủ nghĩa như các nhóm Trotskit Phan Văn Hùm, Tạ Thu
Thâụ..những trí thức vô sản cùng ở nhà tù Côn Đảo với những người cộng sản?...Ai
đàn áp hàng trăm trí thức văn nghệ sĩ trong các vụ "chống đảng",
"xét lại", "Nhân Văn- Giai phẩm. " Rồi ai đã xua đuổi hàng
nửa triệu người Hoa, trong đó có cả những công nhân mỏ than, công nhân các xí
nghiệp đánh cá, làm gốm, các thợ giỏi ở Chợ Lớn...Ai đã gây nên chuyện ra đi của
hàng triệu người Việt, tổ chức các kế hoạch B để vơ vét cơ man nào là tiền của,
vàng, đồ trang sức vào túi cá nhân, gây nên cái chết oan uổng và bị thảm của
hàng chục ngàn người do tai nạn tầu thuyền, sóng gió, hải tặc? Và ai? Nếu không
phải những người cầm quyền cộng sản phảỉ chịu trách nhiệm về tình hình sản xuất
sa sút, đời sống nhân dân cực kỳ bi đát, nạn tham nhũng lan tràn, văn hóa suy đồi,
nạn trộm cắp, đi điếm, cờ bạc tùm lum khắp cả nước?
Quả thật hai bên mà ngồi kể tội nhau, tội xưa và tội nay, tội gọi là bán nước,
hại dân, tội về dùng bạo lực đối xử với nhaụ..thì không sao có thể giảng hòa
thông cảm nổi. Và hình như bên nào cũng có cái lý của mình, có những sự thật của
mình. Có người còn cho rằng chính sự lựa chọn của những người Cộng sản, đưa Việt
nam vào qũy đạo của Liên Xô và Đế Tam Quốc tế đã làm cho Việt Nam trở thành mục
tiêu của chiến lược kìm giữ phong trào Cộng sản của các nước Phương Tây. Đó
chính là nguồn gốc sâu xa của những cuộc chiến tranh liên miên trong hơn 40 năm
qua. Họ đặt ra những chữ "nếu" - "Nếu" như Đảng Cộng sản
không dành được sự lãnh đạo trong Cách mạng Việt Nam..."Nếu" như các
Đảng mang tính chất quốc gia dành được quyền lãnh đạo Cách mạng..."Nếu"
như Đảng Cộng sản sau khi dành được độc lập cho đất nước rồi mà không mù quáng
lao vào xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Staline, theo kiểu kế hoạch gò bó, thủ
tiêu mọi quyền tự hữu về tư liệu sản xuất, ..."nếu như?" Ôi là cái chữ
"nếu!" Châm ngôn Pháp có câu:
"Với cái chữ "Nếu, " có thể nhét cả Paris vào trong một cái
chai!
Cho dù Paris này đã lớn rộng vô cùng rồi.
Ai đúng? Ai sai? Cần thấy rằng nhân dân ta bị đổ máu quá nhiều. Tài sản đất nước
bị phung phí. Hiện tình đất nước thật bi đát: đứng thứ 158 trong số 166 quốc
gia trên thế giới! Cả một năm, người Việt Nam lao động cật lực mà chỉ nhận được
đồng lương vẻn vẹn chưa bằng số tiền người dân các nước đã phát triển làm ra
trong bốn ngày!
Tôi đã có lần trình bầy với bạn bè gần xa có những quan điểm đối lập: Tôi xin
nghe và ghi nhận ý kiến của các bạn. Xin tạm gác lại cuộc tranh luận có thể còn
kéo dài lê thê vì khó ngả ngũ. Xin nhìn thẳng vào hiện tình khủng hoảng nghiêm
trọng để cứu dân, cứu nước ta- Bạn có đồng ý không? Cứu dân, cưú nước trong cơn
SOS cực kỳ khẩn cấp này đã, phải không bạn? rồi khi chung sức cứu dân, cứu nước
khỏi thảm họa thì chúng ta có thể hiểu nhau hơn, gần nhau hơn, độ lượng và
khoan dung với nhau hơn, bạn có đồng ý không?
Tôi hiểu rằng, nén những tình cảm sâu sắc, gác lại những nhận thức đã thành định
kiến đâu phải dễ! Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất
trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như con mình
đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong kháng chiến chống
Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những
nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung
Thu năm 1948, trong trận càn của lính Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn
lính lê dương xộc vào nhà tôi, bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết
ngay trên sân nhà bếp. Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận,
trên chiến trường Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của
khẩu súng là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các
chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc mới bốn
tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết chung cùng với các bạn
của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua trắng tay, tôi vui mừng vì những
mối thù của riêng mình đã được trả sòng phẳng...
Và nay chính tôi lại đề xuất ý kiến với các bạn xa gần là xin nén tình cảm
riêng lại đã. Quả là một yêu cầu không đơn giản. Tháng 3. 1991 tôi gặp một thuyền
nhân quê ở Rạch Giá sang Pháp từ năm 1981. Vợ anh bị hải tặc Thái Lan hiếp,
thành bệnh rồi chết. Anh mất hai con trên biển, một con trai 13 tuổi và một con
gái lên hai. Anh sinh bệnh tâm thần sau khi đáp lên một hòn đảo ở Malaixia. Nay
khỏi bệnh, anh làm công cho một tiệm ăn người Việt. Anh vẫn sống một mình với
niềm oán hận cộng sản không đội trời chung. Với anh, tôi tôn trọng nỗi đau khổ
của người cha, người chồng. Tôi thông cảm thảm cảnh của anh, khó có thể yêu cầu
anh để sang một bên sự oán thù đã trở thành máu thịt, ít ra là lúc này.
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại thật muôn vẻ. Chớ đơn giản và có định kiến.
Tôi từng nghe ở Hà Nội các quan chức nhận định: họ đã bỏ Tổ quốc ra đi là táng
tận lương tâm, là vong bản, mất gốc! Đó là những tên chống cộng, chống chế độ
thâm căn cố để, quay lưng lại dân tộc, những kẻ ích kỷ, trốn chạy cho bản thân
mình, tìm cho sung sướng, đi kiếm bơ sữa, mặc cho đồng bào nghèo khổ ở trong nước-
Đối với họ ta không nên tiếc làm gì. Cứ coi như ta không có họ! Đây là cục thịt
thừa trên cơ thể dân tộc, cắt bỏ đi thì cơ thể càng khỏe. Đó là cách nhìn độc
đoán, mang tính áp đặt, suy diễn đơn giản, gộp chúng thành một gói cả một cộng
đồng rất đa dạng. Và cách nhìn ấy vô lý, bất công, và nhất là có hại.
Quả thật ở Hoa Kỳ và úc có những lực lượng cực đoan, chống cộng một cách điên
cuồng. . Họ lập binh đoàn, lập mặt trận với đủ thứ tên:
...Họ tuyển mộ những quân nhân cũ và thanh niên mới, đưa vào biên chế, huấn luyện
quân sự. Họ làm lễ tuyên thệ, xuất phát. Họ ra thông báo về tình hình chiến sự,
về những chiến khu trong quốc nộị..Họ mở những đêm dạ hội, quyên góp, âm nhạc
và diễn kịch, nhẩy múa lấy tiền để mua sắm vũ khí và nuôi quân...Tôi đã hỏi
chuyện khá lâu Võ Đại Tôn, người chỉ huy lực lượng vũ trang phục quốc đã bị bắt
sống trên đất Lào, gần biên giới Việt nam năm 1981. Võ Đại Tôn thú nhận đã bị lừa-
Khi ra đi, Võ Đại Tôn và đồng sự những tưởng là ở miền Nam Việt nam đã có sẵn
chiến khu, sẵn "vùng giải phóng", sẵn "có sở nhân dân chống cộng".
Khi về đến gần thì chẳng thấy có gì hết trọi! Không ai liên lạc, đón rước,
thông báo cho tình hình! Cả chuyện trở về sau này của đảng trưởng Hoàng Cơ Minh
và tùy tùng cũng chỉ là những nhóm thiêu thân bị đánh chận, bị giết, bị bắt trước
khi nhập được vào đất Việt Nam- Vì nhân dân không còn muốn chiến tranh. Lực lượng
họ sao địch được nổi quân đội và an ninh tại chỗ? Tôi gặp một sĩ quan quân đội
cấp cao Sài Gòn cũ ở Hoa kỳ, cuối năm 1988, ông ta nói:" Họ bày đặt đủ thứ,
nhưng thiệt ra không có mấy thực lực. Tôi không bao giờ tin có chiến khu, có mật
khu nào ở quốc nội cả. Họ tổ chức dữ dằn vậy chỉ để là quyên tiền, lập quỹ, và
từ đó vô túi cá nhân cũng bộn đó, rồi lấy tiền đó kinh doanh, kiếm lãi để chia
chác, nuôi nhau nữạ..Làm vậy mấy ông lớn mới có lý do để giữ nguyên những chức
tước cũ: ông quận trưởng, ngài bộ trưởng, ông đại tá, ông dân biểu, cho tới
ngài thủ tướng, ngài tổng thống. Không còn quyền nhưng còn cái tiếng, cái xưng
hô, để tự mình an ủi mình, an ủi lẫn nhau cho đỡ tủi thân mà. Cái thực chất là ở
chỗ đó, ông ạ...". Gần đây tổ chức Mật trận quốc gia thống nhất giải phóng
Việt nam lâm vào khủng hoảng lớn, những nhân vật chóp bu còn bị tòa án Mỹ truy
tố vì tội lậu thuế, trốn thuế và lấy tiền của Mặt trận chuyển vào trương mục cá
nhân...Xu thế cực đoan dùng bạo lực đã xẹp dần, xẹp rất nhanh ở các bang Hoa Kỳ
và ở úc, trong khi xu thế hòa hợp lan ra khá mạnh. Qua tiếp xúc với một số
chính khách và nhà báo Hoa Kỳ, tôi nhận rõ một điều là các chính quyền Mỹ từ
Carter, Ford, đến Rigan và Bush đều thực hiện một chính sách nhất quán: đưa vấn
đề Việt Nam lùi nhanh vào quá khứ, xóa sạch hội chủng Việt Nam ở trong xã hội Mỹ,
đặt quan hệ Mỹ- Việt trên cơ sở hoàn toàn mới. Các chính quyền ấy mong Viêt nam
đổi mới, mau chóng giải quyết vấn đề Campuchia, thực hiện dân chủ và cởi mở cả
về kinh tế và chính trị để ổn định tình hình- Gây bạo loạn và lật đổ không phải
là chủ trương của Mỹ, của chính quyền Hoa Kỳ, cũng không phải là hành động của
CIA hiện nay. Đây là một sự thật rất dễ nhận ra. Nhưng những người phụ trách cơ
quan phản gián và an ninh ở Việt Nam vẫn cứ cố tình nhìn đời bằng con mắt lệch
lạc về nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và âm mưu bạo loạn. Đến mức cán bộ
chính trị, cán bộ tuyên huấn, cán bô ngoại giao am hiểu tình hình cũng không
dám nói khác với cơ quan an ninh, luôn hô hào cảnh giác trên báo chí và đài
phát thanh: "Việt nam đang là mục tiêu chính để gây bạo loạn và lật đổ của
để quốc Mỹ, của Vatican, của tất cả các lực lựơng phản động trên toàn thế giới,
chúng đang tập họp nhau lại để gây loạn ở Việt nam!" Những người hô hoán
lên như thế cũng không tin đó là sự thật. Họ cần làm việc ấy với hai mục đích
đã được tính toán: hạn chế trào lưu đòi đổi mới, đòi quyền tự do dân chủ ở
trong nước và bắt buộc nhân dân phải cố hiểu rằng đế quốc và phản động là
nguyên nhân chính gây ra mọi khó khăn và bế tắc trong xã hội hiện naỵ..
Tôi quen với một gia đình trước ở thành phố Hồ Chí Minh, đã mạo hiểm đi cả nhà,
trên một chiếc thuyền gỗ ọp ẹp năm 1982. vợ chồng đều là giáo viên trung học.
Con gái đầu, cháu Thủy vừa 30 tuổi, sau 1975 còn tham gia các cuộc diệt trừ
gian thương, cải tạo tư sản ở miền Nam. Cháu đi kiểm kê tài sản còn được bằng
khen. Cháu kể lại những công việc "cách mạng" hồi đó một cách tự
nhiên, vui vẻ: "Các chú cách mạng, có chú thiệt tốt, chăm lo cho bọn cháu
thiệt chu đáo, có chú rất quan cách, quan liêu. Và có cả mấy ông bự chỉ lo uống
rựơu say và tham nhũng..." Ba má cháu không bị cách mạng, không bị các ông
"30. 4" quấy nhiễu chi hết, vậy vì sao lại bỏ đi? Bố cháu kể: "Bọn
tôi không cay đắng chi hết, cũng không căm thù chi hết! Chế độ Sài Gòn cũ coi
khinh người trí thức. Bọn tôi hy vong cách mạng sẽ khác. Vậy mà cách mạng coi bộ
còn tệ hơn! Bọn tui là giáo viên nên hiểu rất rõ. Học sinh do vậy hết chăm học.
t thanh niên cầm cuốn sách trong tay. Thư viện vắng hoe à, vì không có sách
báo, còn tiệm nước thì đầy nhóc thanh niên. Tui lo cho hai cháu trai, lo cho
tương lai của chúng nó. Tính toán kỹ rồi liều ra đi chỉ vì vậy thôị..Hai cháu
hiện đều học ngành điện toán, sắp thành tài cả rồị.."
€ ra vậy, tôi mở mắt. Vậy là có người ra đi không phải vì không chịu cực khổ được,
không phải vì chống cộng cực đoan, cũng không phải vì cuộc sống bơ sữa.
ở một vùng ngoại ô phía Đông Paris, tôi gặp một nhà tư sản lớn Việt Nam. Ông
quê Hải Hưng, từng có những cơ sở kinh doanh ở Hà Nội. Ông vào Nam hồi 1954 và
sang Pháp tháng 4. 1975. Ông đã trên 70 tuổi, còn quắc thước, minh mẫn và rất
năng động. Ông giầu, và có thể nói là rất giầu. Ông từng mở nhà máy dệt, cơ khí
rồi làm nghề vận tải. Ông có cơ sở cưa gỗ ở Đà Lạt, cơ sở xay lúa gạo ở Cần
Thơ, ở quận 5 Sài Gòn... Paris ông cũng có hàng dẫy nhà rộng lớn, đủ tiện nghi.
Ông tâm sự: "Tôi có của, mất nhiều mà vẫn còn đủ. Giầu thêm để làm gì nữa?
Ăn xài đâu có hết của. Nhưng tôi ham, ham gì ông biết không? Ham kinh doanh,
như sở thích, như đam mê, như cái vận của đời mình vậy. Tôi chỉ mong ở bên nhà
yên ổn, có trật tự, pháp luật, có không khí cởi mở để trở về bỏ vốn kinh doanh.
Năm ngoái tôi trở về thăm nhà, có những công nhân sở tôi cũ còn quý tôi lắm. Họ
còn giữ cái biển của nhà máy cũ và tặng lại tôi! Tôi cảm đông vô cùng. Bọn tư bản
Pháp hỏi tôi hoài: Bao giờ trở về làm ăn? Tôi về thì tụi nó mới nhào vô. Nhưng ở
nhà còn kẹt dữ quá. Nói đổi mà đâu có đổi. Chưa có luật thương mại. Luật đầu tư
có rồi mà văn bản dưới luật chưa có. Muốn người ta bỏ vốn vô mà không đổi mới
thì có ai muốn vô!..." Ông lắc đầu và nói thêm: "Về chính trị và pháp
luật cho tới nay, Việt Nam chưa có luật về quyền công dân, còn chậm tiến quá chừng!"
Thì ra có những người ra đi chỉ vì không được thi thố tài năng. Nay mong muốn
trở về để trổ tài kinh doanh.
Tôi có một kỷ niệm khó quên ở nhà anh bạn mở quán "Chiều Sài Gòn" quận
16 của Paris. Chúng tôi đều quê Hà Nội, gắn với những kỷ niệm xa xưa ở trường
Thăng Long, trường Bưởi, trường Albert Saraut, với những người thầy dạy tâm huyết
và có trình độ...Cùng nhau ôn lại những ngày đấu kháng chiến, những hoạt động của
tư vệ sao vuông thành Hoàng Diệu, thế rồi cả gần một chục người trong bưã ăn bỗng
hòa giọng hát đồng ca những bài:
"Diệt phát xít", "Nhớ chiến khu", "Tiến quân ca",
"Nào ta đi hùng binh"...Lúc ấy những khác biệt chính trị lùu đi đâu
thật xa. Người thuộc vài câu này, người nhớ vài câu khác, chấp nối nhau hồi tưởng
được hết cả gần chục bài đã in dấu một thời trai trẻ dấn thân cho kháng chiến...
Tôi đã tìm thấy nhịp đập chung qua những tiếp xúc với bà con người Việt, dù
thành phần. Ai cũng khắc khoải một nối niềm nhớ về quê hương. Người lớn tuổi, kẻ
trung niên, cho đến lớp thanh niên vừa rời nước vài năm đều thế. Ai cũng ước vọng
quê hương mình được thanh bình, vươn lên mở mắt với thế giới. Theo cách nói
chính trị, ai cũng có một tình cảm yêu nước trong tâm. Yêu nhớ nước mình, nghĩa
là vẫn còn day dứt với xóm làng, mảnh đất nuôi mình khôn lớn, mái trường có thầy
cô giáo buổi thiếu thời, những đường phố, mái nhà ôm ấp những kỷ niệm vui buồn
trong một quãng đời và những bạn bè, thân quyến còn ở lạị..Tình cảm ấy có nét
gì rất chung, mà cũng rất riêng, rất cụ thể. Bài hát "Quê hương" với
cây khế, chiếc cầu tre, con diều, mùi hương hoa bưởị..có sức truyền cảm sâu đậm
đặc biệt đối với bà con xa xứ.
Có những chị ở bên này đã 20, 30 năm tâm sự với tôi:
"Chúng tôi hầu hết vô dân Tây. Vô để dễ làm ăn, để được những quyền lợi xã
hội. Nhưng nói thật với anh chỉ là tây giấy, đầm giấy thôi. Tây, đầm trên giấy
tờ mà. Chúng tôi còn nhớ, còn thích ăn mắm tôm, cà cuống, cốm Vòng, ăn phở, còn
thèm riêu cuạ..là còn nhớ đất nước mình dữ lắm. Tâm hồn Việt không mất được đâu
anh..." Và nhiều anh chị vẫn dạy con nói tiếng Việt. Tôi về thăm gia đình
anh Liêm ở gần Tonlouse. Hai cháu nhỏ, Hương 12 tuổi và Vinh 7 tuổi đều nói tiếng
Việt. ở trường các cháu toàn nghe và nói tiếng Pháp với bạn bè và thầy cô giaó.
ở nhà, anh chị nói chuyện với nhau và với hai con đều bằng tiếng Việt để các
cháu không quên tiếng của quê hương...Rõ ràng là các cháu thuộc thế hệ hai và
thế hệ ba vẫn còn một gốc gác văn hóa dân tộc khá là sâu. Có phải từ cái cội
nguồn ấy mà Luce, một bác sĩ nay đã 27 tuổi, cha Pháp, mẹ Việt, ra đời ở bên
này, không biết tiếng Việt, vậy mà khi cùng bố mẹ về thăm Việt Nam, đã trào nước
mắt khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất? Niềm xúc động thiêng liêng
đối với quê hương thứ hai, chị từng được nghe kể, và nay mới "trở về"
thăm...
Khi còn ở trong nước, tôi đã viết những bài báo đánh động về tiềm năng to lớn của
cộng đồng người Việt ở nước ngoài và những chính sách cần có để khỏi dậy những
tiềm năng có ý nghĩa chiến lược này. Qua tiếp sức với khá nhiều bà con Việt kiều,
tôi thấy thiếu sót ở trong nước thật lớn. Còn tồn tại biết bao nhiêu định kiến.
Không thiếu những cách nhìn chính xác thấu tình, đạt lý, nhưng chưa biểu hiện
thành chính sách, còn bị ngăn trở bởi lối nhìn gò bó hạn hẹp, suy diễn chủ
quan.
Đã vậy các cơ quan ngọai giao, các đại sứ quán ta còn có quá nhiều thiếu sót và
sai lầm. Theo những công thức rất cũ, họ phân loại Việt kiều: Người này tốt,
người kia xấu, ngừơi này yêu nước, người kia phản đông! Do đó họ xếp tất cả hơn
700 người ký bức Tâm thư tháng 1. 1990 là phản động cả! Vì bức tâm thư
"dám" nhắc đến những sự kiện ở Rumani, "dám" đề ra yêu cầu
tách Đảng khỏi Nhà nước...Tháng 7. 1990 tôi đã gặp thứ trưởng Bộ Nội Vụ Tâm
Long để góp ý rằng việc không cho Việt kiều từng ký tâm thư về nước là một chủ
trương rất vô lý và dại dột, rằng cơ quan ngoại giao và quản lý kinh tế mời ông
giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, tiến sĩ kinh tế ở Canada về giảng ở Hà Nội, đến sân
bay Nội Bài rồi mà công an không cho nhập cảnh là hành động thô bạo, vừa vô văn
hóa vừa vô chính trị, an ninh quốc gia không mãy may được tăng thêm, mà tác dụng
trái ngược lại. Do phản ứng khá quyết liệt của một số cơ quan ở trong nước và của
kiều bào, sau đó có nới lỏng hơn trước một chút, nhưng cơ bản vẫn chưa có gì
thay đổi. Kỹ sư Nguyễn Thành Long, người có phát minh tại Pháp về tận dụng vỏ
xe hơi để gia cố đường xá và đê đập, được Bộ Giáo dục và Đào tạo mời về nước
làm việc cùng với một số kỹ sư Pháp. Anh mang hộ chiếu Việt nam mà cũng không được
về! Bà cụ thân sinh ốm ở bên nhà, anh xin về cũng không được! Thì ra chỉ vì anh
đã cho mượn địa chỉ của mình để liên lạc, tiếp nhận chữ ký của bức Tâm thư và
thanh toán những chi phí bưu điện. Anh lập tức được cơ quan an ninh coi là nguy
hiểm, " là một người "đề xướng, " có thể là một kẻ "chủ
mưu(!)" nữa? Các bạn Việt kiều và một số người Pháp biết việc này cho rằng
đây là một trường hợp kỳ lạ nhất thế giới: Công dân một nước mang hộ chiếu nước
mình mà lại không xin được visa về nước mình! Người trí thức có trình độ học vấn
cao, luôn tìm tòi phát minh và có lòng yêu nước ấy đã chuyện trò với tôi nhiều
lần. Anh mời tôi về thăm nhà anh, dản dị, đơn sơ chỉ có sách vở và sách vở, cuối
cùng đã thốt lên: "Tôi nản quá chừng anh ơi, đành phải xin vô quốc tịnh Pháp
thôi. Nhưng lòng yêu nước của tôi luôn nguyên vẹn anh ạ!"
Đó là chưa nói đến những chuyện đau lòng khác. Một số cán bộ sứ quán cố làm ra
vẻ lập trường, lôi kéo số người này để bày vẽ họ chống lại một số người khác,
gây nên những quan hệ nội bộ căng thẳng. Họ còn cố tình tâng bốc một số Việt kiều
lính thợ cũ, được coi là công nhân, là bản chất cách mạng thuần túy vững vàng
hơn trí thức, để đối lập giả tạo với một số anh chị em trí thức. Họ đạo điễn những
cuộc đấu tranh, những cuộc đấu đá kỳ quặc, can thiệp một cách thô bạo đến tình
hình nội bộ của hội người Việt Nam tại Pháp. Có một vài bác thợ lớn tuổi rất
đáng kính bị họ giật dây lên án bài báo của nhà sử học Lê Thành Khôi là xúc phạm
Hồ Chủ Tịch, khi ông Khôi nhận xét việc xây dựng Lăng là làm trái với mong muốn
thiêng liêng của Chủ tịch trong Di chúc đã bị cắt xén hồi ấỵ..Cuối cùng các bác
công nhân đã phải nhận là mình không có lý, đã bị xui giục một cách thô bạo.
Tháng 3. 1991, Ban chấp hành hội người Việt ở Lyon mời tôi xuống gặp anh chị em
Việt kiều. Một cán bộ sứ quán liền dở trò phá đám, gọi điện thoại xuống cho vài
bác công nhân già, thúc giục ra tuyên bố: Bùi Tín đã xin cư trú chính trị tại
Pháp (điều đài Pháp đã đưa tin sai, tôi đã chính thức cải chính), Bùi Tín là kẻ
phản bội, Hội không được mời Bùi Tín xuống...Anh chị em ở Hội vẫn mời tôi xuống,
tổ chức hai cuộc nói chuyện ở Lyon và trong một cuộc họp rộng rãi, các bạn Việt
kiều trung thực đã nói rõ: "Anh Bùi Tín không hề xin tỵ nạn chính trị như
mấy ông sứ quán nói. Anh Nguyễn Khắc Viện đã từng phụ trách Hội chúng ta vừa nhận
xét rằng anh Bùi Tín là người có tâm huyết, lãnh đạo ở nhà cần nghiêm chỉnh xem
xét đến bản kiến nghị của anh Bùi Tín..." Cuối cùng chính các bác công
nhân đã bị cán bộ sứ quán kia tác động đứng dậy nói: "Tôi tin lời anh Viện,
tôi xin đồng ý với việc hội ta mời anh Bùi Tín xuống đây nói chuyện...
Chính những việc làm thiếu suy nghĩ, thô bạo như thế đã làm mất uy tín của sứ
quán, trong khi quả thật uy tín âý chẳng còn gì nhiều lắm. Vì không tranh thủ
được tình cảm, niềm tin của bà con Việt kiều nên một số cán bộ sứ quán nghĩ ra
một điều kế - thật ra là một "đại kế" - đó là lấy cái quyền cấp
"visa" để lôi kéo bà con! Họ đe dọa thẳng thừng: Nếu tỏ ra không biết
điều, nếu cứ ngang bướng, nểu không còn coi sứ quán là cha là mẹ, không biết
vâng lời, nếu cứ phê phán chính quyền, bác bỏ chủ nghĩa xã hộị..thì việc xin
"visa" sẽ còn cứ là chờ dài dàị..Và quả nhiên đây là một ngón võ hiểm.
Nhiều người đâm ra e ngại và kẹt. Làm nẩy sinh ra một số người "biết điều"
một cách giả tạo, hoặc vâng vâng, dạ dạ cho xong chuyện, một số người cơ hội.
Vì về nước thăm cha mẹ, anh em, về nước để tìm hiểu tình hình, để làm ăn, ích
nước lợi nhà dù sao cũng là một nhu cầu tình cảm, chính trị và kinh tế chính
đáng. Chưa nói đến một số rất ít những ông chủ hãng cần về nước để móc ngoặc với
lớp "tư bản đỏ" ở nhà kiếm những món lãi kếch xù thấm đượm máu và nước
mắt của nhân dân lao động...Họ phất lên rất nhanh qua các dịch vụ chuyển tiền,
chuyển hàng, chuyển thuốc men...tận dụng các kẽ hở do lạm phát và tỷ giá hối
đoái thay đổi thất thường, cũng như hối lộ để làm những áp phe bất chính.
Sứ quán Việt nam ớ nước ngòai là hình ảnh thu nhỏ của tình trạng xã hội Việt
nam hiện nay. Lương bổng thấp, thiếu thốn thì phải tính. Không thể trách tất cả
anh chị em cán bộ và nhân viên các sứ quán. Tôi đã ghé qua hàng loạt sứ quán Việt
nam, ở Bangkok và ở New Delhi (Ấn Độ), ở Manila (Philipin) và ở Jakarta
(Indonexia), ở Kuala Lampua (Malaxia) và ở Tokyo (Nhật bản), ở Moscow và ở Bắc
Kinh, ở Berlin và Praha, rồi cơ quan đại diện Việt nam ở Liên Hợp Quốc tại New
York nữa. Anh em phải lo chạy vay, buôn bán, cứu nhà. Có lợi thì ham. Có người
phất lên rất lớn. Từng công- tê- nơ chở về- sẵn giấy tờ ngoại giáo mà...Đã cớ lần
valise ngoại giáo từ Ba Lan, Tiệp Khắc sang Moscow bị khui ra, có đến 800 quần
bò và 2000 đồng hồ điện tử của môt quan chức ngoại giao, trớ trêu lại là một đảng
ủy viên nữa! Và còn có bao nhiêu chuyện trót lọt, mỗi chuyện áp phe như thế có
hộ chiếu đỏ "che chở" đều được định giá...
ấy là chưa nói đến đường dây buôn bán của cán bộ ngành ngoại giao, của công
đoàn ngành ngoại giao xuyên qua các lực địa, móc nối qua các sứ quán ở các nước.
Nhà nước trả lương không đủ ăn, thì làm việc vừa vừa thôi, làm cho phải đạo.
Còn thì mánh mung, kiếm nguồn hàng, lo chạy giấy tờ, toan tính các chuyến hàng
về, hàng đi, hết chuyến này đến chuyến khác...Tôi đã hỏi chuyện, đã ghi lại được
vô vàn thủ thuật. Nhưng không thể trách anh chị em ở các sứ quán. Tại đó vẫn
còn có những con người có lương tâm, biết suy nghĩ, hiểu biết những đúng sai,
đau lòng về đất nước, nhân dân, ưu tư trước thảm họa dân tộc, so sánh với không
khí tự do và sự phồn vinh của nước người. Quỹ chi phí của sứ quán quá ít, không
đủ để cho một bí thư hay tham tán mời bạn một bữa cơm nhằm mở rộng quan hệ khi
cần thiết...thì công tác đối ngoại còn kẹt cứng, chỉ lo thúc thủ, đóng cửa chặt
và giữ mình, thế thôi!
Cái nguy hiểm nhất là sự đối xử thiếu nghĩa tình của sứ quán cơ quan đại diện của
đất nước- đối với đồng bào. Có những người gắn bó chí cốt với đất nước, với hai
cuộc kháng chiến, với các phái đoàn sang hội họp, tận tình phục vụ cho các đoàn
đại biểu bên nước sang, còn tổ chức những cuộc biểu tình, mít tinh lớn, may
hàng mấy trăm lá cờ, đấu tranh chống lại lực lượng phía bên kia. Vậy mà chỉ do
có một vài ý kiến khang khác, cơ bản là có thiện chí, là bị xếp ngay vào loại
nguy hiểm, có tư tưởng phản động và chống đối! Trong khi đó chính anh em này bị
phía bên kia lên án là cộng sản! Có ngứời phàn nàn "Khi khó khăn thì kêu gọi
anh em giúp đỡ, ủng hộ. Đến khi thành công rồi thì quay ngoắt laị chụp mũ một
cách dễ dàng, làm cho những người có lương tâm và thiện chí đối với đất nước
cũng phải nản lòng và ngao ngán..."
Đánh giá đầy đủ tiềm năng của cộng đồng người Việt là cả một công trình lớn đòi
hỏi nhiều cuộc điều tra, nghiên cứu, thống kê và kết luận. Chỉ biết rằng con số
hai triệu là không nhỏ. Số người Việt nói chung lại thành đạt khá và nhanh
chóng ở các nước. Thu nhập chung của họ trong một năm có thể lên đến 10 tỷ đô
la, vượt xa một nửa thu nhập của hơn 66 triệu đồng bào trong nước (ước gần 20 tỷ
đô la). Chỉ cần huy động một phần của cải ấy để đầu tư hay giúp đỡ bà con ở quê
nhà cùng tạo nên một lực lượng vật chất không nhỏ. Tất cả vấn đề là có nhìn thấy
và có biện pháp thích đáng hay không? Điều lớn nhất là tiềm năng chất xám của
bà con. Một số khá đông là trí thức, thành đạt, có trình độ cao, rất đa dạng về
lứa tuổi. Chất xám của khối người Việt này nếu phát huy được về mọi mặt khoa học
kỹ thuật, sáng chễ, phát minh, quản lý kinh doanh...thì có lợi cho đất nước. Cần
tính đến thế hệ trước, thế hệ này và thế hệ sau. Các nhà giáo dục Mỹ đều cho rằng,
trẻ em người Việt ở nước ngoài thuộc loại học giỏi (cùng với người Nhật, người
Trung Quốc, người Do Thái), tiếp thu nhanh, rất thành công ở các ngành mũi nhọn,
nhất là các ngành điện tử, thông tin học...Gần đây báo Mỹ đưa tin Eugene H. Trịnh,
40 tuổi, người gốc Việt nam, sinh ở Sài Gòn, học ở Paris rồi sang Hoa Kỳ học ở
trường Đại học Columbia và Yale có luận án về vật lý và động lực học, đã được
chọn để bay trên phi thuyền con thoi Columbia vào năm 1992 tới. Mọi người Việt
đều cảm thấy tự hào. Cái nút vấn đề là cách nhìn dúng, cởi mở, hòa hợp, coi trọng
những tài năng ấy và có chính sách để tranh thủ chất xám Việt nam ở nước ngoài.
Làm khôn khéo, thông minh, thì sẽ đạt được một hiệu quả có tính chất chiến lược:
biến một niềm đau, một nỗi bất hạnh lớn là hai triệu người tha hương thành một
lợi thế cho đất nứơc. Dễ gì một nước có thể cử ra nước ngoài, tỏa ra mọi hướng
một số lượng đồng đảo đến như vậy? Khi trở về đánh thức tiềm năng của đất nước
mình, với tất cả hiểu biết thu nhặt, sàng lọc được từ bốn phương trời. Biến họa
thành phúc lớn là như thế. Biến một cuộc chảy máu lớn về người, về chất
xám...thành một cuộc tiếp máu lớn về trí thức, kỹ thuật, về vốn liếng, về kinh
nghiệm làm ăn, quản lý, kinh doanh...là thế.
Bài toán này ắt phải giải một cách tốt đẹp. Nhưng phải thay đổi tất cả nhân thức
và các biện pháp hiện hành. Pháp đại sứ quán Việt nam chỉ còn quan hệ với chừng
200 người trong tổng số 200. 000 người gốc Việt! Mười sáu năm trước con số đó
là 6000! Hoa Kỳ cơ quan đại diện Việt nam chỉ có quan hệ tốt đẹp với vài chục
người gốc Việt trên tổng số gần một triệu! Đó là hậu quả của chiến tranh, của đối
kháng lâu dài, của những hận thù. Đó cũng là hệ quả của cách nhìn, của quan niệm
xơ cứng. Nhà văn Nguyễn Đình Thi và tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy ở Paris hồi cuối
tháng 10. 1990. Đó là những cuộc nói chuyện bổ ích giữa những đồng đội cũ ham
mê văn nghệ. Chúng tôi nhắc đến chuyện Phạm Duy sáng tác bài hát "Bà mẹ
Gio linh", khi chúng tôi ở cùng một chiến trường Trị Thiên năm 1948.
1949...Anh bị cuốn nhập vào một chế độ, một guồng máy khác. Để nay nhìn lại,
trông chờ mong mỏi một cuộc đại hội ngộ anh em trên tinh thần hòa hợp. Anh nói
về những tập bài hát "Bầy chim bỏ xứ" và đang chuẩn bị cho những tập
hát "Bầy chim đoàn tụ"- ở Hà Nội hiện nay một số người trong cơ quan
an ninh vẫn coi Phạm Duy là một tên "trùm văn nghệ phản động, chống cộng
điên cuồng". Và chống cộng thì tất yếu là quan hệ lăng nhăng, mất tư cách,
là nghiện thuốc phiện và bợm rượu. Thật là oan cho nghệ sĩ Phạm Duy. Anh không
hề hút một điếu thuốc lá và đến bia anh cũng xin miễn. Anh không hút thuốc và uống
rượu, trước kia và hiện nay là như thế. Anh hỏi thăm chúng tôi về các bạn bè
cũ, hỏi thăm anh Lưu Trọng Lư, anh Đỗ Nhuận, anh Hoàng Cầm...và các chỉ huy bộ
đội cũ, với tất cả kỷ niệm xưa êm đẹp của một thời trẻ trung. Và rất lo rằng,
những cuộc tiếp xúc thế này và nguyện vọng hòa hợp để trở về thăm đất nước sẽ bị
những kẻ cực đoan ở nước ngoài trừng phạt, cho ăn đạn chưa biết chừng.
Con người là một thực tế sống động và thay đổi theo bản chất, tư chất riêng, điều
kiện và môi trường. Tôi sợ những con người cứng đờ, bất động, nằm trên giấy
trong nhận định của những quan chức ngành tổ chức và an ninh. Chỉ cần họ tiếp
xúc, đối thoại, quan hệ với nhau như những con người có lý trí và tình cảm, thì
đỡ biết bao nhiêu thiên kiến hẹp hòi, những sự chụp mũ thô bạo và oan ức...
Gần đây, trong tình hình các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng nặng nề,
có nước chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ, đã nảy sinh biết bao kinh nghiệm mới,
hàng trăm tập chí kinh tế và chính trị viết về Liên Xô, các nước Đông âu, Cu
Ba, Trung Quốc, Triều Tiên...Rất đáng tiếc ở Hà Nội có quá ít sách báo thuộc loại
này. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong 8, 9 năm nữa, khi bước vào thế kỷ
21 sẽ ra sao? Cuộc cách mạng tin học, sinh học, năng lượng, vật liệu mới được dự
báo như thế nào? Nên quan niệm gía trị của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê Nin ra
sao? Như chân lý có tính chất tuyệt đối hay là một trong những học thuyết có
giá trị để vận dụng và tham khảo? Chủ nghĩa xã hội là thế nào? Tiền đề của chủ
nghĩa xã hội phải chăng là phải có sức sản xuất phát triển đến mực độ cao nhất
định, nếu không chỉ là ảo tưởng và nói suông.
Các nhà chính trị và kinh tế Việt nam hãy tìm đọc những tác phẩm của nhà kinh tế
Paul Samuelson, để ít ra là hiểu rằng kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ
phát triển mới đâu có hoàn toàn mù quáng, vô chính phủ. Các Nhà nước và các nhà
kinh tế Nhật, Hoa Kỳ, Đức, Anh, Pháp...có những dự báo gần và xa khá sát đúng:
ba tháng tới, các chỉ số kinh tế, tài chính ở từng khu vực, từng nước sẽ ra
sao? Trong 2 năm, 3 năm, 5 năm, 10 năm, họ dự báo về từng khu vực, từng ngành để
làm cơ sở cho chính sách kinh tế, tài chính, đầu tư rất cụ thể, qua vô vàn dữ
kiện nạp vào máy tính điện tử, với phần cứng của cơ khí và phần mềm của trí tuệ,
của quy luật, của phương phép tư duy và so sánh không kém phần biện chứng.
Chúng ta cần hiểu những cuộc tranh luận nẩy lửa ở Liên Xô trong tình hình khủng
hoảng hiện nay, không phải để bắt chước, mà để làm giầu thêm suy tư và tưởng tượng.
Quan điểm của nhà kinh tế Agalbegian nổi tiếng về phóng khoáng, chống công thức
cứng đờ, ra sao? Quan điểm của nhà kinh tế Leonid Abalkin từng là phó thủ tướng
Liên Xô được thủ tướng Rujkov tín nhiệm ra sao nhưng đã bị gạt bỏ thế nào? (Cần
chú ý Abalkin đã vài lần sang Việt Nam giới thiệu kinh nghiệm Liên Xô cho cán bộ
ta, rất được tin cậy, đến mức như là sùng bái. Tôi thấy nội dung của những văn
kiện đại hội VII vừa được thông qua ở Hà Nội mang rất đậm quan điểm của
Abalkin: Chuyển sang kinh tế thị trường một cách thận trọng, dưới sự kiểm soát,
tác động chặt chẽ của nhà nước.) Cũng cần tìm hiểu kỹ những quan điểm kinh tế
và chính trị của nhà kinh tế học Xô viết Oleg Bogomolov, đặc biệt là những
chính kiến mới mẻ hơn của Nicolai Petrakov và Stanislav Chataline, hai nhà kinh
tế trẻ có tầm nhìn khá rộng, tác giả của "Kế hoạch 500 ngày" tiến mạnh
hơn vào nền kinh tế thị trường. Kế hoạch nay bị gạt bỏ bởi những lực lượng bảo
thủ còn tồn tại khá dai dẳng trong nhà nước Liên Xô - Chataline, là ủy viên
trung ương đảng cộng sản Liên Xô, đã trả lại thẻ đảng viên của mình ngay sau
đó. Gần đây các nhà kinh tế học thế giới rất chú ý đến Grigori Yaplinski, nhà
kinh tế xuất sắc từng là phó thủ tướng nước Cộng hòa Xô viết Nga. G. Yaplinski
đã sang trường Đại học Haward ở Hoa Kỳ để thảo luận cùng nhà kinh tế học nổi tiếng
của Hoa Kỳ là Graham Allison. Họ cùng nhau phác họa một kế hoạch tổng hợp, đưa
nền kinh tế tài chính Liên Xô ra khỏi khủng hoảng gay gắt và đánh giá nhu cầu về
sự giúp dỡ của các nước phương Tây đối với Liên Xô trong bối cảnh đặc biệt hiện
nay Kế hoạch này được thảo luận tại cuộc gặp gỡ giữa những người cầm đầu 7 nước
phương Tây với tổng thống Gorbachev ở Luân Dôn tháng 7 năm 1991 vừa qua. Công
trình nghiên cứu của nhà kinh tế Pháp Maurice Allais- giải thưởng Nobel- về nền
kinh tế Hungari hiện nay! Công trình nghiên cứu của giáo sư Hoa Kỳ Jeffrey
Sacha và của nhà kinh tế Hongrie Janos Kornai (tác giả của "Chủ nghĩa xã hội
và nền kinh tế của sự thiếu thốn hàng hóa") rất bổ ích cho các nhà chính
trị- kinh tế Việt Nam ta.
Những nhà lãnh đạo kinh tế, chính trị, tài chính của đất nước cũng cần đọc, tìm
hiểu và tham khảo những công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học Tiệp Khắc,
Ba Lan, Đức...để rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích: từ bỏ nếp quan liêu
bao cấp, kế hoạch hóa nặng nề nhưng vô hiệu quả ra sao, về kinh tế thị trường
có những thuận lợi và những cạm bẫy thế nàọ.., về khắc phục nạn thất nghiệp, thực
hiện tư nhân hóa một số cơ sở quốc doanh, thực hiện các chính sách xã hội trong
thời buổi giao thời, cải thiện hệ thống giáo dục, dạy nghề và hệ thống y tế...
Qua những gì đã diễn ra ở các đại hội đảng trước đây và đại hội VII vừa qua,
qua các cuộc họp của quốc hội, cách làm việc của Nhà nước và của đảng cộng sản
Việt Nam vẫn còn rất quan liêu và đại khái. Thiếu những tài liệu, con số, phụ lục
cụ thể, không có "địa chỉ" rõ ràng cho những vấn đề bàn luận, nghị
quyết quá là chung chung, thiếu những biện pháp rạch ròi, thiếu những giải pháp
thiết thực. Nhìn chung chỉ là những phương hướng những mong muốn chủ quan đại
khái, những ước vọng tốt đẹp chỉ có thể tồn tại trên giấy và trên báo chí. Hãy
xem tài liệu họp đại hội đảng và quốc hội của các nước, nó chứa dựng những tư
liệu, thống kê, so sánh, tỷ lệ, những phương án giải đáp cho từng thời kỳ, những
biện pháp chi tiết, giải pháp khoa học với những giá trị cân đong, đo, đếm chuẩn
xác...Báo Le Monde bình luận rất đúng là trong thời đại này, một nhà lãnh đạo
chính trị, kinh tế, tài chính, cho đến văn hóa, văn nghệ đều phải biết sử dụng
máy vi tính hiện đại (không phải để làm toán cộng trừ, nhân, chia) mà là máy
ghi lại những dữ kiện và xử lý những dữ kiện ấy theo "chỉ thị" của
người sử dụng. ở Việt Nam, máy tính điện tử đã bắt đầu sử dụng khá nhiều, nhưng
nó vẫn còn hết sức xa lạ với cán bộ chính trị. Họ vẫn còn ngủ yên với cách suy
nghĩ trừu tượng, đại khái rất chung chung, mang mầu sắc quan liêu và duy tâm...
Cả đất nước ta cần mở rộng tầm mắt, nhìn ra thế giới quanh ta để mà hội nhập,
và thu về những kiến thức rất cần thiết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét