Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018

LỜI TRƯỚC MỘ GIÁO SỸ ALEXANDRE DE RHODES CỦA TIẾN SỸ NGUYỄN THỊ HẬU


Một đoàn nhân sĩ trí thức Việt Nam do Giáo Sư Tiến Sỹ Nguyễn Đăng Hưng dẫn đầu đã đến đặt bia tri ân và chính thức khánh thành long trọng và trang nghiêm tại mộ phần cha Alexandre de Rhodes sáng hôm 5/11/2018, đúng ngày giỗ thứ 358 năm của ông tại thành phố Isfahan (Iran).

Buổi lễ đã có sự tham dự của chính quyền thành phố (ông Mazaheri, cộng đồng Hồi giáo tại Isfahan), cộng đồng chủ quản (ông Gestabian, cộng đồng cơ đốc giáo Armenian tại Isfahan), nhà thờ VANK (Bà Gukasian, trưởng phòng quan hệ dân chúng)và 20 công dân Việt Nam đến từ ba miền đất nước, có cả người Việt định cư ở nước ngoài!
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Viện Trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc ngữ và Bảo Tồn tiếng Việt (ĐH Duy Tân), Tiến Sỹ Nguyễn Thị Hậu, nhà văn Hoàng Minh Tường đến từ Việt Nam đã phát biểu tri ân sâu sắc sự đóng góp của Alexandre de Rhodes đối với văn hóa Việt Nam.
Xin hân hạnh giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tiến sĩ Khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu:
PHÁT BIỂU CỦA TIẾN SĨ NGUYỄN THỊ HẬU, TRƯỚC MỘ CHA  ALEXANDRE DE RHODES, TẠI ISFAHAN NGÀY KHÁNH THÀNH BIA TRI ÂN


Chữ quốc ngữ là chữ viết chung của cả nước. Trải qua gần một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt. Từ khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ X, các triều đại phong kiến nước ta đã mượn chữ Hán (còn gọi là chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật nhưng chữ Nho chưa bao giờ có vai trò là chữ quốc ngữ.


Từ thế kỷ XIII người Việt dựa trên chữ Nho để ra chữ Nôm nên muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán. Vì vậy cả chữ Hán và chữ Nôm đều không thể phổ biến trong dân chúng, do đó ít được sử dụng.


Từ thế kỷ XVI, các giáo sĩ phương Tây bắt đầu đến truyền giáo tại nước ta. Khi truyền đạo, các giáo sĩ không phải chỉ nói, mà còn dùng kinh sách để giảng giải. Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải học tiếng Việt và viết kinh sách bằng tiếng Việt. Từ nhu cầu đó nhiều giáo sĩ đã ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi dùng thứ chữ mới ký âm nầy để viết sách giáo lý bằng tiếng Việt. Sau đó tổ chức biên soạn từ điển và in kinh thánh, giáo lý bằng loại chữ mới này. 


Từ thế kỷ XVII trở đi, nhờ dễ sử dụng bằng cách ghép chữ thành vần nên thứ chữ mới bằng mẫu tự Latin phổ biến hơn. Chữ quốc ngữ phát triển được là nhờ dựa trên nền tảng tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú, linh hoạt và biểu cảm. Từ góc độ lịch sử văn hóa, sáng tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây đặc biệt là vai trò của Ngài Alexandre de Rhodes. Bên cạnh đó không thể không nói đến sự đóng góp của nhiều nhà văn hóa, trí thức người Việt, đặc biệt giai đoạn từ nửa sau thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ XX.


Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện nhiều thành tố văn hóa mới: báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật, in ấn và xuất bản... chữ quốc ngữ càng có điều kiện phát triển rộng khắp, đồng thời tác động trở lại làm cho “văn viết” và “văn nói” của tiếng Việt có sự phân biệt. Từ sau 1945 có thể nói, bằng phong trào “bình dân học vụ” phần lớn dân chúng trước đây “mù chữ” đã biết đọc biết viết. Ngôn ngữ, văn hóa nhiều vùng miền đi vào chữ viết càng làm cho chữ quốc ngữ phong phú và tinh tế, nhiều sắc thái và giàu đẹp hơn. 


Chữ quốc ngữ là một thành tựu văn hóa lớn, có ý nghĩa thúc đẩy văn hóa phát triển (văn chương, giáo dục, khoa học kỹ thuật...). Vì vậy, từ buổi lễ trang trọng hôm nay tại đây, chúng ta hy vọng rằng ngoài việc tôn vinh những ngươi có công lao sáng tạo và hoàn thiện chữ quốc ngữ - tiêu biểu là Ngài Alexandre de Rhodes - chúng ta sẽ đánh giá đúng vai trò của những nhà văn hóa Việt Nam, giá trị những địa điểm ghi lại dấu ấn hình thành và phát triển chữ quốc ngữ tại nước ta vì đó là xứng đáng trở thành di tích lịch sử - văn hóa của đất nước.




Trân trọng cám ơn giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, người khởi xướng và tổ chức hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa này. Chân thành cám ơn các vị khách quý đã tham dự buổi lễ. Xin cám ơn tất cả anh chị em trong đoàn! 
Chúc tất cả quý vị sức khỏe và thành công!
Tiến Sỹ Nguyễn Thị Hậu

1 nhận xét: