Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2016

HỒI KÝ THÉP ĐEN - ĐẶNG CHÍ BÌNH – PHẦN 2


11. Sửa Soạn Lên Đường …
Theo những quy định thời gian ấy, tôi phải làm một số thủ tục về giấy tờ. Trong đó, tôi phải viết một giấy ủy quyền cho thân nhân.
Đã từ 6, 7 tháng trước, mỗi tháng lương của tôi là 5.000đ không kể công tác phí như thuê nhà, xe cộ.v.v… Vì vậy, nếu vì lý do nào đó mất liên lạc, như bị bắt, chết, v.v… đều được coi như là mất tích, nhà nước sẽ trả lại cho thân nhân 12 tháng lương. Đó, nếu ai đi ra vì tiền, thì 60.000đ là một sinh mạng của một con người.
Thực ra, tất cả những người trong Cục Tình Báo miền Nam đều hiểu, đối với những người ra đi, nếu không vì một lý do nào khác cao đẹp hơn, như non sông, đất nước, thì làm sao số tiền đó có thể mua được họ?
Cục cũng hứa hẹn thật nhiều. Nếu công tác thành công trở về, chính phủ sẽ cho đi nghỉ ở Nhật mấy tháng. Nếu công tác trở về, sẽ v.v… và v.v… Vậy, còn nếu không trở về, thì sẽ được… mất tiêu!
Tôi hiểu đây cũng chỉ là những thủ tục giấy tờ về lương lậu. Vậy mà phải nghe, phải làm những vấn đề này, mặt tôi cứ nóng dần lên. Thật lòng, tôi nghĩ thàt đừng có cái mục này, tôi lại còn thấy lòng nhẹ nhàng thích thú hơn, cho nên tôi rất uể oải, lần thần không muốn viết. Mấy lần tôi định nói thẳng với ông An:
“Hay thôi, không phải viết nữa. Nếu tôi vào đất địch, bị chết, hay bị mất tích, Cục cứ nói như không có tôi.”
Chắc An cũng hiểu những nỗi niềm thầm kín của tôi, nên ông đặt nhẹ tay lên vai tôi, thân mật:
- Tôi hiểu lòng Bình lắm và cả Cục cũng hiểu con người Bình cho nên họ rất quý nể Bình. Bây giờ Bình hãy nghe tôi, viết vài chữ ủy quyền lại cho bất cứ ai như bố mẹ, bạn bè thân thuộc v.v… chỉ là một thủ tục phòng hờ, chứ người ta ra ngoài miền Bắc, đi về chợ ấy như đi chợ ấy, có sao đâu!
Để khỏi phải nói nhiều, tôi ngồi viết nghuệch ngoặc giấy ủy quyền cho bố tôi, tâm tư thầm nghĩ, thôi, nếu có bề gì thì gọi là một chút đền công các đấng sinh thành!
Họ mang đến cho tôi một chiếc ba lô của Nhật, bên trong đựng sẵn một đôi “bốt-đờ-sô” để lội bùn và đi trong rừng, quần áo và một vài trang bị vặt, hầu hết đều sản xuất từ Nhật, riêng cái túi “dết” màu xanh nước biển là của miền Bắc (tôi đoán chắc chiếc túi này của một đồng bào vượt tuyến.) Những thứ trang bị đều dùng để đi từ ngoài biển vào, và sống ở trong rừng, còn quần áo, dép, mũ v.v… để sử dụng trong những vỏ bọc thì chính tôi phải lo liệu lấy.
Tôi nghĩ đến dép “râu” (Bình Trị Thiên.) Nó làm tôi thật vất vả. Tôi phóng xe chạy đôn đáo suốt Tân Định, ông Tạ, Cầu Ông Lãnh tìm mua mà không có. Thậm chí tả kiểu ra đặt thợ làm giầy, họ lại không có nguyên liệu và không biết cách nào. Mãi mới gặp được một ông thợ giày di cư đã từng sống ờ vùng Việt Minh làm cho. Tay ông làm, nhưng mắt ông nhìn tôi đầy thắc mắc. Tôi phải nói đây là một “mốt” mới ra lò của học sinh, của tay chơi. Đi dép râu mà lại ngồi trên solex hay vespa thế mới hách. Ông thợ giầy làm sao có thề hiểu được, nên ông tin quá!
Tôi còn phải đi hớt tóc theo kiểu nông thôn miền Bắc, và ra Cấp mấy ngày phơi nắng cho da ngâm đen. Trong khi tôi phải làm những công việc bình thường này. Đầu óc tôi lửng lơ nghĩ về xã hội và con người trong thời đại ngày nay. Vào đất Cộng Sản, hoạt động tình báo cho thế giới tự do, khổ thật. Phải trở về một dạng anh nông dân, quê mùa cục mịch. Ngược lại, Cộng Sản vào đất tự do hoạt động, thì lại lên “complet,” kính trắng, phong độ hào hoa. Càng ra vẻ trí thức càng dễ hoạt động. Chính một điều này đã đủ nói lên mức sống của hai xã hội; tương phản cảu hai cảnh đời.
Trong ngày ra Cấp với Hoàng Công An; một buổi tôi đang ngồi đôi mắt nhìn ra biển cả bao la về mãi phía chân trời. Tai đang nghe đài phát thanh Hà Nội, thì chợt một giọng the thé của xướng ngôn viên miền Bắc, tuyên bố về phiên tòa xử vụ C- 47. Nghe loáng thoáng, chiếc phi cơ hoạt động tình báo đã xâm nhập bầu trời miền Bắc. Bị bắn rơi tháng 7 năm 1961 ở Cồn Thơi, Ninh Bình, nhiều người đã chết v.v… Còn mấy người sống sót bị thương nặng. Điệp viên Đinh Như Khoa bị 15 năm tù (mới chạm vào đất liền đã bị bắn rơi, chưa hoạt động gì,) phi công phụ Phan Thanh Vân bị 7 năm tù.
Cái tên Phan Thanh Vân nghe thật quen thuộc, nhưng lúc đó tôi không thể nhớ ra vì còn đang bận tâm về việc xử điệp vụ kể trên. Từ vụ án này, giòng suy tư của tôi cứ len lỏi chảy dài, đẩy đưa về công tác của chính mình.
Tôi vào đất địch một mình, tôi phải quyết định nhiều vấn đề với bao cảnh huống khác nhau chưa thề biết trước. Từ ý nghĩ này, tôi cần phải đặt ra giả thuyết về một số tình huống, để hỏi ý kiến giải đáp của Cục. Có như vậy, khi đã ở trong đất địch; tôi nắm vững để dễ dàng, mạnh bão xử lý. Tôi đưa ý kiến này ra với Hoàng Công An, ông ta vồn vã khuyến khích tôi:
- Ý kiến của Bình rất có giá trị thực tiễn. Bình hãy suy nghĩ; đặt ra những trường hợp bất ngờ, tôi sẽ đưa ngay về Cục để đáp ứng yêu cầu của Bình.
Cuối cùng, tôi đã mầy mò viết một bản 30 câu hỏi để đưa về Cục. Thí dụ:
* Nếu trong hai ngày 16 và 18 theo quy ước. Tôi không gặp đối tượng để trao tài liệu M. Vậy tôi sẽ hủy ngay tài liệu M?
* Cũng làm như vậy với Z5 Hoàng Đình Thọ?
* Nếu trên đường trở về, tôi bị ốm nặng, bị kẹt vì tụi công an truy lùng. Hoặc vì lý do nào đó, tôi không thể đến được điểm hẹn theo thời gian quy định, thì sao?
* Nếu bị bắt tù, sau 2 – 3 năm, tôi trốn được về Nam, thì sao? v.v…
Mấy ngày sau, khi 30 câu hỏi của tôi được đưa về Cục. Hoàng Công An trở lại với bác sĩ Harry trả lời:
Trên Cục chỉ giải đáp một số, còn hầu hết những câu hỏi khác để tôi tự quyết định, tùy theo tình hình tại chỗ, sao cho thỏa đáng.
Mãi ngày hôm đó, họ mới trao cho tôi những giấy tờ tùy thân mang theo. Tôi nhìn tờ giấy thông hành mới, với chữ ký phòng công an huyện Vĩnh Linh; thời hạn một tháng. (thời gian công tác của tôi là 25 ngày) tôi đoán rằng, tất cả những giấy tờ đưa cho tôi phải giống hệt như thật. Tôi nhìn, từ con dấu cho đến nét chữ, thật sắc sảo. C.I.A. làm giả, hết chê!
Ngoài mấy bao thuốc lá “Dại Tiền Môn” và hộp quẹt của Trung Cộng (điều này đã nói lên nhiều khía cạnh yếu, kém của C.I.A. và tình báo miền Nam) Anh còn đưa cho tôi 400đ tiền miền Bắc, gồm giấy 5đ, 2đ, 1đ, 5 hào. Bằng cái nhìn về tiền bạc ở miền Nam, tôi cầm 400đ với thái độ không thỏa mãn lắm, vì thấy quá ít ỏi. An đã hiểu ý tôi ngay, nên nói:
- Bình yên tâm, ở trên Cục đã nghiên cứu kỹ. Với 400đ này trong một tháng, Bình có thể bao quát, phòng hờ hết cả. Tiền không thiếu, nhưng nếu Bình mang đi nhiều, đôi khi lại làm ảnh hưởng ngược lại cho công tác. Thông thường, tiêu ở miền Bắc chỉ có giấy 5đ là lớn nhất đấy.
Sau đó, bác sĩ Harry đưa cho tôi một số thuốc bệnh, lọc nước, chống muỗi, và một số hộp lương khô, tăng sức v.v… khi sống trong rừng.
Trước khi về, An còn nhắc tôi xác định lại rõ ràng những quy ước, mật khẩu, tín hiệu v.v…
* * * * *
Ngày 20 tháng 4 năm 1962, ngày tôi rời Thành Đô dịu hiền và nhiều tình nghĩa.
Tôi lên đường theo thời gian và lộ trình quy định như sau:
2 giờ chiều ngày 20/4, tôi sẽ rời Sài Gòn, đáp máy bay ra Huế. Tôi sẽ ở lại đấy 2 ngày để ra Bến Hải nghiên cứu và xác định lại một số địa điểm chính của địa hình bên kia bờ khu quân sự Bắc. Sau đó, ngày 22/4/62, sẽ trở về Đà Nẵng, điểm xuất phát, để đến điểm đổ bộ thuộc Nga Sơn Thanh Hóa.
Buổi sáng ngày 20/4, ở số 62 đường Trần Hưng Đạo, Dale và Brown báo cho biết: Khoảng 12 giờ trưa, sẽ có một nhân vật cao cấp trong ngành của Mỹ ở Sài Gòn, đến chào vả tiễn đưa tôi.
Đúng buổi trưa hôm đó, một người Mỹ to lớn, bệ vệ cùng đến với bác sĩ Harry. Ngay từ lúc ông ta bước vào phòng, tuy tôi không nhìn trực diện, nhưng tôi biết ông ta không rời một cử chỉ thái độ nào của tôi trong lúc tôi cùng Brown, Dale và An chuẩn bị lại một số trang bị của chuyến đi. Qua đôi kính trắng thật to, mắt ông ta vừa lộ vẻ hân hoan tươi sáng, vừa như tò mò quan sát. Tôi chẳng biết ông ta đang nghĩ gì về tôi, nhưng tôi có một điều chắc chắn, ông ta không thể nghĩ được rằng, người thanh niên trước mặt sắp bước vào đất thù của thế giới tự do – có thể sẽ hy sinh cả mạng sống – đã là chủ một hiệu vàng, nghĩa là từng ngồi trên hoặc cạnh đống tiền. Nếu ông ta biết được như vậy, ông ta mới đánh giá được đầy đủ ý nghĩa chuyến đi của tôi. Cuối cùng, ông ta nắm tay tôi thật chặt, chúc tôi thành công và hẹn gặp lại.
Lần lượt sau đó, Dale, Brown, Harry đều bắt tay tôi, nói rằng không thể ra trường bay đưa tiễn, vì lúc đó ờ Sài Gòn rất ít người Mỹ, đi ra đây là điều bất tiện.
Như tôi đã nói, trình độ Anh ngữ của tôi còn thấp, phải nói bằng tay nhiều hơn bằng miệng, đồng thời để hiểu được họ tôi phải dựa vào sự phán đoán là chính. Vì thế, tôi chả nói hết được những điều tôi muốn nói với họ lúc chia tay.
Những thứ dụng cụ trang bị của tôi đều được mang đi trước. 1 giờ 30 tôi và An ra phi trường. Trên đường đi, tôi nhìn lại Đô Thành, có thể là lần cuối, mắt đăm chiêu, lòng ngập ngừng thăm thẳm.
Khi xe tới đường Công Lý, tôi thoáng thấy một anh bạn quen đang song đôi hai chiếc solex cùng với người bạn gái rẽ vào phía đường Yên Đổ. Âm vang của một bài hát quen thuộc từ đâu ùa đến với tôi, như trỗi dậy thành lời:
Rồi đây, mai này ai hỏi đến tên tôi,
Bạn ơi! Hãy nói đã đi xa rồi…
Phải chăng đó là điềm báo trước một lần đi không trở lại? Tôi cũng nghe và thuộc nhiều bài hát, nhưng không hiểu tại sao lúc ấy lại chỉ nhớ mấy câu này!
Suốt từ lúc đó ra phi trường, tôi im lặng không nói một lời, lòng vương vấn nặng nề như cái nóng chiều Hè oi ả của Thành Đô. Tôi liếc nhìn sang An, trong cặp kính trắng, mắt An cũng đăm chiêu như đang nghĩ ngợi điều gì.
Xe tới trường bay, tôi thấy ông Lý và ông Cục Trưởng đã có mặt. Đó là lần thứ ba tôi gặp ông Cục Trưởng. Người ta nói “quá tam ba bận,” chẳng lẽ tôi không còn lần nào gặp ông nữa ư? Mà đúng, sau đó không bao giờ tôi gặp lại ông.
Nhìn hàng ria mép rậm xì to tướng của ông Cục Trưởng, nhất là đôi mắt dù đã được che khuất sau chiếc kính râm mầu đen bóng, tôi vẫn thấy hai luồng nhỡn tuyến phát ra, có thể những ai là đối thủ sẽ không yên lòng khi phải đứng trước cặp mắt ấy.
Thấy tôi xuống xe, ông nhanh nhẹn chạy lại, nắm chặt tay tôi, niềm nở chào đón, sau đó ông ân cần hỏi:
- Trước khi anh ra đi, anh có yêu cầu bất cứ điều gì không?
Tôi bâng khuâng nghĩ ngợi, tôi cần cái gì nhỉ? Nếu tôi ra đi, thành công chẳng nói làm gì, còn như bị bắt, hay bị chết, tôi cần cái gì? Nếu như vậy, tôi chẳng cần cái quái gì cả. Điều tôi cần, tôi hiểu, kể cả chính phủ miền Nam cũng không làm gì được, đó là, nếu tôi bị bắt, tôi cần được cứu ra. Cho nên, nhìn ông ta, tôi cám ơn và lắc đầu. Cuối cùng, khi bắt tay lúc tôi bước lên máy bay, ông Cục Trưởng đặt nhẹ tay lên vai tôi, dịu dàng thân mật:
- Bình đi vào thực tiễn, biết đâu khi thành công trở về. Bình lại mang kinh nghiệm huấn luyện bổ sung cho chúng tôi.
Tôi hiểu, đó cũng chỉ là một câu xã giao để động viên, khích lệ người ra đi thôi. Nhưng, phải thừa nhận rằng, đó là một câu nói có giá trị thực tế của một người có nhãn quan tiến bộ. Tuy nghĩ như vậy, nhưng tôi chỉ cười, không nói gì. Thấy tôi im lặng tư lự, ông Cục Trưởng nói tiếp giọng sôi nổi:
- Nếu Bình đi công tác thành công trở về, tôi sẽ ra tận Đà Nẵng đón Bình ngay khi còn ở trên hải thuyền.
Tôi ngước mắt, nhìn thẳng vào mắt ông, miệng tôi hơi mỉm cười để làm giảm độ căng sắc của mắt mình. Thì ra, tôi chỉ có giá trị khi thành công! Còn lúc này, chỉ là tiễn đưa lấy lệ! Tuy nhiên, nghĩ cho cùng “Đời là thế!” Nên tôi cười to hơn và bàn tay tự nhiên cũng nắm chặt tay ông Cục Trưởng hơn khi từ giã.
Khi tôi và Hoàng Công An xuống trường bay Phú Bài, lại vẫn chính ông Hương lái chiếc xe “díp” dân sự ra đón. Ông đưa chúng tôi về một khách sạn ở Huế.
Hôm sau, chúng tôi lại ra Bến Hải, nhưng lần này dịch về gần phía cầu Hiền Lương. Tôi ngước mắt đăm chiêu nhìn hai lá cờ đang phất phới tung bay trong gió lộng. Một lá đầy mầu máu, sặc mùi tử khí, giết chóc phía bên kia. Và một lá mầu vàng với ba sọc đỏ hiền hòa phía bên này, tự nhiên lòng tôi suy ngẫm. Hai lá cờ đứng bên nhau đang cùng tung bay trước gió dưới cùng một bầu trời Tổ Quốc, thế mà muôn đời không bao giờ có thể sống chung. Chỉ vì một lá cờ muốn trên trái đất này, chỉ còn lại một mầu duy nhất là mầu của nó. Nghĩa là tất cả mọi mầu cờ khác phải bị tiêu diệt. Ai cũng hiểu đó là lá cờ nào rồi.
Sáng ngày 22/4, ông Hương đưa tôi và An trở vào Đà Nẵng.
Đà Thành với thời tiết bốn mùa của Hà Nội năm xưa đây rồi. Cái lành lạnh của cuối Xuân đầu Hè càng làm cho thành Đà thêm nhiều mầu sắc. Xe đã đi sâu vào giữa phố phường. Do thói quen từ trước, tôi không hỏi và cũng không cần biết khi đến Đà Nẵng sẽ ở đâu, và ai sẽ đón. Chính vì vậy, khi xe ngừng lại trên đường Độc Lập, chéo xa xa phía bên kia là một “bar” giải khát, mang cái tên mỹ miều gợi nhớ “Hà Nội,” cả ông Hương và Hoàng Công An đều bắt tay tôi từ biệt, hẹn gặp lại ngày tôi từ bên kia vĩ tuyến trở về. Sau đó, ông Hương chỉ sang quán Hà Nội:
- Bình xách va li váo quán đó chờ, lát nữa sẽ có người đến đón. Từ lúc này, Bình thuộc quyền hạn của người khác.
Vai khoác chiếc ba lô to mầu vàng của Nhật, tay khệ nệ xách chiếc va li, tôi tiến về phía “bar” Hà Nội. Bước chân vào quán, nhìn thấp thoáng qua mấy chậu cảnh hoa lá tốt tươi, tôi thấy bàn này vài sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, bàn kia mấy người Bộ Binh ngồi chung với những người bận Không Quân và thường phục. Sâu phía trong, chỗ sát quầy “buvette” trên những hàng ghế cao, là mấy quân nhân Dù cổ áo óng ánh một vài chiếc mai vàng. Tại một đầu quầy, ba người mặc thường phục, kính trắng đạo mạo, đang ngồi trầm ngâm bên những “phin” cà phê sáng bóng. Quang cảnh trong quán, nổi bật vẫn là ba bộ mặt giai nhân duyên dáng, lả lướt trong những tà áo dài bó chẽn những thân hình căng đầy hương sắc.
Tôi hơi ngỡ ngàng băn khoăn, tiến vào một chiếc bàn trống ở trong góc. Chính cái dáng dấp “không giống ai” của tôi đã làm cho hầu hết những người trong quán đều quay lại với những ánh mắt tò mò. Tôi coi như không biết, lựa thế đặt va li và ba lô. Tôi hiểu đây là một trong những tụ điểm gặp gỡ của những giới son trẻ tài hoa nơi Thành Đà, tuy khác nẻo đường nhưng cùng chung sở thích những âm thanh du dương trầm bổng đưa đẩy bên những mầu sắc mơ hồ chìm nổi chung quanh. Một tà áo mầu hoa khế tiến lại nhỏ nhẹ giọng của đất văn vật ngàn năm:
- Dạ thưa anh dùng gì ạ?
Nghe giọng nói của một giai nhân, tuổi trạc đôi mươi, với bối cảnh của chiếc quán, tự nhiên tôi nổi hứng gió sương:
- Một ly Martel “sếch”, một Capstan.
Khi cô chiêu đãi đưa rượu và thuốc lá ra, nhìn đôi bàn tay thon dài, óng chuốt duyên dáng khẽ để ly rượu trước mặt tôi. Gợi trí tò mò, tôi ngước lên. Đôi mắt long lanh thăm thẳm soi mói nhìn tôi ngập ngừng:
- Chắc anh mới đến Đà Nẵng?
Hơi mỉm cười như để thừa nhận, tôi hỏi lại nhẹ nhàng:
- Thế cô đoán tôi là dạng người gì đến đây?
Cô cũng mỉm cười, liếc nhìn vào chiếc ba lô và va li rồi dè dặt:
- Chắc anh là nhà chuyên môn, tới mỏ than Nông Sơn…?
Đầu tôi gật gật, nhìn cô như tỏ vẻ thán phục. (Lời đoán của cô, làm tôi chợt nhớ đến tên bạn thân của tôi là Lê Đức Bình, hiện cũng đang trông coi mỏ than Nông Sơn, tôi nghĩ nếu có dịp sẽ tạt vào thăm hắn.) Tuy vậy, tôi cũng lơ đãng phà hết khói thuốc, rồi quay lại khẽ cảm ơn cô, lửng lơ để tùy cô suy nghĩ.
Về sau, tôi mới biết cô này tên là Hiếu. Cô cũng là nguyên nhân trong vụ một anh trung úy Thủy Quân Lục Chiến đã tát cảnh cáo một ca sĩ khá nổi danh của Sài Gòn ngay tại “bar” nay hơn một tháng trước đó.
Ngay từ lúc bước vào quán, tôi đã thắc mắc, suy nghĩ không hiểu sao người nào ở trên Cục lại cho hẹn đón tôi ở cái quán này? Chừng nửa giờ sau, thắc mắc của tôi đã được trả lời. Tôi thoáng thấy bóng ai như dáng dấp của Phan, ngồi trên chiếc xe “díp” dân sự chạy tới và đỗ lại chéo phía xa bên kia đường. Người trên xe bước xuống, đúng là Phan. Tôi hơi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Thì ra từ bốn, năm tháng trước, Phan nói bận công tác xa, chính là ra Đà Nẵng này.
Giữa tôi và Phan đã quen cảnh gặp nhau bất ngờ, tôi thong thả thanh toán tiền, rồi khoác ba lô, xách va li đi ra. Khi tôi vừa khuất xa cửa quán, chiếc “díp” đã chồ tới sát ngay cạnh tôi. Một cái bắt tay thật chặt, bốn mắt mở to, hoan hỷ nhìn nhau.
Trên đường đi, sau những phút hàn huyên của giai đoạn xa cách. Phan quay sang tôi dặn dò:
- Bây giờ “moa” đưa “toa” đến trọ ở một khách sạn. Tên chủ khách sạn là bạn quen của “moa.” “Moa” sẽ giới thiệu “toa” là bạn. Con trai của một chủ tiệm vàng ở Sài Gòn, ra đây tìm địa điểm mở chi nhánh. Như “toa” biết đấy, người ta dự đoán là thành phố này Mỹ sẽ vào nhiều, cho nên con buôn các nơi, nhất là tụi ba Tầu, đang đổ xô về đây làm ăn.
Tiếp xúc với Phan từ lâu, tôi đã hiểu tính làm việc quá phóng khoáng của Phan, nhiều khi trở thành tùy tiện, thiếu sự điều nghiên thấu đáo. Có thể cho tới khi gặp tôi, nhìn lại con người tôi, Phan đã nghĩ ra là tôi cần phải đóng một vai như vậy mới hợp. Tuy biết vậy, tôi vẫn gật đầu đồng ý, vì Phan hiện đang là người chỉ huy trực tiếp của tôi.
Lát sau, xe tới đậu trước khách sạn Hồng Phát, một khách sạn 6 tầng lầu mới xây; tầng một chuẩn bị mở “buvette.” Phan chạy vào một lúc, rồi cùng trở ra với một người đeo kính trắng, đóng bộ đàng hoàng, khoảng 40 tuổi. Phan giới thiệu tôi, rồi chỉ ông đó:
- Đây là anh Yến, chủ khách sạn này, đồng thời anh còn là chủ một khách sạn lớn nữa ở Sài Gòn.
Phan cười, hất hàm về phía tôi, nói với anh Yến:
- Đó, bạn “moa,” “toa” liệu sắp xếp cho một buồng tiện nghi.
Ông Hồng Phát rất niềm nở cởi mở, ông gọi người quản lý ra hỏi một lúc, rồi quay lại nói với tôi:
- Tôi rất vinh hạnh được quen biết anh. Ở đây buồng số 5 là tiện nghi nhất, nhưng một “xừ” đại tá Mỹ đã ở hơn một tháng rồi, hai ngày nữa y đi. Tôi sẽ ưu tiên dành cho anh. Bây giờ, anh hãy ở tạm phòng 8 cùng lầu 3.
Trong khi hai anh bồi mang va li và ba lô của tôi lên lầu, ông Yến tự tay lấy chìa khóa từ ông quản lý, dẫn Phan và tôi lên theo.
Ngay buổi chiều hôm đó và những ngày hôm sau nữa, tôi hơi ngạc nhiên thấy ông Yến hay chuyện trò, tỏ ra thân mật muốn kết thân với tôi. Nào là sẽ hướng dẫn tôi đi thăm thú thành phố, vân vân… và vân vân.
Khi ông đại tá Mỹ rời đi, tôi đã chuyển về phòng số 5. Những buổi gặp Phan và Yến sau này, tôi đã hiểu họ. Phan hiện là người chịu trách nhiệm tung người ra Bắc, gồm Biệt Kích, người Nhái và những người đi lẻ như tôi v.v…Điểm xuất phát là Đà Nẵng. Một mình Phan một chiếc “Cadillac” mới toanh. Đối với thành phố Đà Nẵng nhỏ hẹp này, Phan là người rất có thế lực. Các giới chức từ Tỉnh Trưởng trở xuống đều nể vì. Ông Yến, tức Lương Hồng Yến; người Tầu. Là một thương gia giầu có, chồng của Thái Lệ Chi, một giai nhân của đất thần kinh. Khổ người và dáng dấp bà Chi hao hao giống bà Trần Lệ Xuân. Chính qua người vợ hương sắc này, ông Yến đã lọt qua nhiều cửa chính quyền, để tiến mãi trên bực thang tiền bạc.
Thấy tôi là bạn của Phan, ông ta nghĩ tôi không những là người có tiền bạc, mà còn có thần thế nữa, cho nên ông ta đã hết mình săn đón. Những buổi chuyện trò thân mật, chính ông đã tâm sự:
- Loại chúng mình luôn luôn là đối tượng mà Cộng Sản muốn tiêu diệt!
Qua câu chuyện và cách ăn nói, mặc nhiên ông ta đã nghĩ tôi cũng trong giới giầu sang như ông ta. Tôi cười thầm, tôi chỉ là loại dân nghèo cùng đinh, làm sao được ờ giai cấp giầu sang như ông bạn! Tuy nghĩ thế, vì vỏ bọc, tôi cũng cười tỏ sự đồng tình với ý kiến của ông ta.
Tôi ra Đà Nẵng được 3 ngày, Phan đưa tôi đến một căn nhà ở gần phía cầu Hàn. Ở đây, tôi lại gặp Brown và Dale. Vì có một số diễn tiến mới, hai ông ra đây trực tiếp thông báo cho tôi. Tôi ngồi nghe và sau đó cùng nghiên cứu, thảo luận lại một số vấn đề về tình hình cũng như tin tức. Ngoài ra, hai ông còn cho tôi biết thêm là hải thuyền tôi đi, phía bên ngoài khơi, sẽ có một tầu của hạm đội 7 đi hộ tống. Hoặc, đang có sự nghiên cứu; lần sau. Nghĩa là trong tương lai, sẽ dùng tầu ngầm, khi đến điểm đổ bộ, dùng xuồng cao su, nhẹ nhàng bí mật tiến vào bờ v.v… Phải nói rằng, ngay lúc đó, tôi chẳng hề tin theo lời Phan. Tôi vẫn nghĩ, đó chỉ là những hình thức dùng để động viên, nâng cao tinh thần, tin tưởng cho người đi hoạt động mà thôi.
Tới hai hôm sau, Phan đưa tôi sang phía biệt khu Hải quân, vào một nơi riêng biệt. Dùng “ca nô” chạy ra phía sau ngọn Sơn Trà để thực tập đổ bộ và chôn dấu vật dụng.
Phần vì đêm khuya, sóng gió lớn ở vùng cửa biển. Phần vì lề lối, tác phong làm việc hời hợt, chiếu lệ. Kiểu “cỡi ngựa xem hoa,” nên khi thấy bị ướt át, run lạnh, Phan cũng giục đi về dù tôi chưa làm xong. Tuy cũng có thực tập về hồng ngoại tuyến vài lần, nhưng cũng chỉ là hời hợt thiếu sự mẫn cán thực tế.
Một tuần lễ ở Đà Nẵng, tôi cũng có ý định gặp lại bạn Lê Đức Bình trong mỏ than Nông Sơn. Nhưng rồi công việc bề bộn cho đến phút chót, nên tôi đã không thực hiện được ý định này. Phan thường căn dặn tôi, để tránh nguy hiểm, không nên đi về phía đầu đường Bạch Đằng từ Grande Hotel trở lên. Vì ở đấy, nhiều người Mỹ thường lui tới có thể xẩy ra những vụ lộn xộn gài mìn, gắn lựu đạn v.v… sẽ nguy hiểm cho mình. Trong thâm tâm, tôi hiểu rằng phía ấy là nơi làm việc của cơ quan tình báo. Phan không muốn tôi đến, chứ giai đoạn đó, hầu hết những building mới xây. Thậm chí, ngay khách sạn Hồng Phát, Grand Hotel, v.v… đã đầy rẫy những người Mỹ từ Hạm Đội 7 mặc thường phục vào mướn thuê phòng rồi.

12. Bão Tố Ngoài Khơi…

Theo quy định, 7 giờ chiều ngày hôm sau. Ngày 28 tháng 4, tôi sẽ xuống hải thuyền đậu ở một nơi riêng biệt bên Biệt khu Hải Quân.
Bên ngoài trời mưa gió. Khung trời Đà Nẵng, chung quanh toàn biển, nên gió thật nhiều. Không gian ẩm thấp, xám xịt. Từng đợt gió mạnh đẩy bạt những hạt mưa nho nhỏ qua khung cửa sổ, hắt vào mãi giường tôi nằm. Cũng chẳng hiểu tại sao, tôi vẫn không muốn đóng khung cửa sổ lại. Cứ nằm đón nhận từng làn hơi ẩm ướt của gió mưa, buông lơi tâm tư bồng bềnh ngược xuôi chìm nổi.
Đã hơn 10 giờ tối, nằm mãi không ngủ được, đầu óc tôi lướt nhanh soát lại tất cả các vật dụng sẽ mang theo. Tôi đã để lại nguyên chiếc va li cồng kềnh với tất cả hành trang của một đời trai độc thân, với bao ân tình kỷ niệm: Từ chiếc đồng hồ đeo tay (đi công tác, tôi đã được cung cấp một đồng hồ khác, loại chống nước của Liên Xô). Chiếc dây chuyền 3 chỉ vàng chưa hề bao giờ đeo. Tiền bạc, toàn bộ giấy tờ; chiếc ví da, cho đến những thư từ, hình ảnh gia đình và bạn bè. Tôi cảm thấy một Đặng Chí Bình như được lột xác, trút bỏ hết tất cả. Nay cả đến hơi hướng của những cảnh đời đầy hương sắc, để trở thành một Lê Viết Hùng, sẽ ngược xuôi trong một cảnh đời khác. Một cảnh đời lầm than cực khổ của những con người lôi thôi lếch thếch. Làm việc như những con vật, quần quật suốt ngày đêm.
Tâm tư tôi đang chìm đắm trong những cảnh sống của khung trời miền Bắc đang đợi chờ, chợt văng vẳng một giọng hát nho nhỏ cao vút đâu đây: “…Mai anh đi rồi, làm sao em ngăn được, thà vui cho trót đêm nay…” Tôi giật mình, bâng khuâng. Câu hát trùng với hoàn cảnh của tôi làm sao! Không hiểu ai đó lại ca vào đúng lúc này? Không thể dằn được sự tò mò. Tôi bật dậy, tiến tới cửa sổ, nhô hẳn đầu ra ngoài nghe ngóng. Tôi xác định được tiếng hát ở lầu trên. Chẳng rõ nguyên nhân nào thúc đẩy, tôi mở cửa, nhẹ chân rón rén lên lầu, bước dần lại căn phòng vẫn còn tiếng hát lả lơi nho nhỏ. Tôi dựa tường, yên lặng lăng nghe. Giọng ca có lúc như nghẹn ngào than van, nhưng có lúc lại vút cao, lanh lảnh tràn đầy mộng ước.
Nhìn đồng hồ, đã gấn 11 giờ đêm, tôi cảm thấy đứng như thế này là một hành động bất nhã. Chỉ vì một bản hát nào đó tôi không biết tên, đã hợp đúng tâm trạng của tôi. Lần bước xuống hẳn dưới nhà. Người bồi và ông quản lý, đang ngồi hút thuốc nói chuyện, thoáng thấy tôi xuống, đều đứng dậy, tưởng tôi cần việc gì. Đắn đo một lúc, tôi hỏi:
- Này, trên phòng 12, ai hát hay thế nhỉ?
Người bồi tên là Lụa, đẩy hẳn cái ghế ra, quay lại. Mắt sáng lên nhìn tôi, giọng Quảng Nam săn đón:
- Trời ơi! Hôm nay thầy mới hỏi, cô là em nuôi tên là Dạ Lý Hương, ca sĩ tài tử đó! Nếu thầy muốn làm quen, mai cháu sẽ giới thiệu cổ cho thầy. Cồ nổi tiếng là cao kỳ, nhưng với thầy, cháu thấy hai người hợp lắm. Cháu bảo đảm, ăn chắc!
Tên Lụa nói líu lo một hồi, cướp hết cả lời ông quản lý. Tôi nghĩ, phần vì hoàn cảnh và điều kiện không cho phép, phần vì còn đang phải dấn thân vào những phương trời giông bão. Không được quyền đa mang những chuyện bận tâm, nên tôi nghiêm hẳn nét mặt, cố nói giọng thật lạnh lùng:
- Cảm ơn anh! Cô ấy đã làm tôi mất ngủ, vì hát giữa đêm khuya!
Nói xong, tôi trở lên phòng, trước 4 con mắt mở to của họ. Lúc này, tiếng hát đã im bặt, nhưng lời ca và giọng hát ấy đã theo tôi về phương trời miền Bắc xa xôi, suốt dài theo năm tháng. Nhất là vào những đêm mưa buồn, không ngủ.
5 giờ chiều hôm sau, Phan đến đưa tôi sang biệt khu Hải Quân. Khi đến gần, một chiếc thuyền đâu khuất trong một vụng nhỏ vắng vẻ. Tuy Phan chưa nói, nhưng qua một số hiện tượng, tôi đã hiểu, đó là chiếc thuyền tôi sẽ đi. Nhìn bề ngoài, chiếc thuyền trang bị như một thuyền đánh cá ở các vùng ven biển. Nhưng theo Phan nói, máy móc được thiết kế thật tốt, có thể chạy từ 10 đến 12 hải lý một giờ. Lúc Phan dẫn tôi xuống thuyền, tôi đã thấy lố nhố 5, 6 người, đa số là thanh niên, mặc toàn quần áo nâu. Hai người làm tôi chú ý hơn cả, đó là một ông già chừng 50-55 tuổi. Dáng mặt đen ròn mạnh khoẻ. Và một người khoảng 40 tuổi mặc may ô tay còn cầm cái mỏ lết, vừa chui từ hầm tầu lên. Thân hình anh ta trông lực lưỡng, to, cao với những bắp thịt cuồn cuộn, chắc nịch như một lực sĩ.
Sau khi cả 6 người dưới thuyền có mặt đầy đủ, Phan chỉ ông già rồi quay lại tôi:
- Đây là bác thuyền trưởng.
Rồi Phan chỉ tiếp anh chàng có thân hình to lớn, khi nãy:
- Đây là anh thợ máy.
Sau đó, Phan khoa tay nói rằng, những người còn lại đều là thủy thủ. Theo lệnh Phan, một anh chạy lên chỗ xe “díp” mang vật dụng của tôi xuống thuyền. Tôi thấy các anh, các bác dưới thuyền, người nào cũng đen xạm, rắn chắc, khoẻ mạnh. Họ đều là người Công Giáo, vì tôi thấy ai cũng đeo tượng Chúa. Và nhất là ở mé thuyền, mấy cỗ tràng hạt còn đang rung rinh theo đà lắc lư của con thuyền. Tất cả đều là người miền Trung. Khi cả Phan và tôi đã chui vào trong khoang thuyền, Phan quay lại hỏi toàn thể:
- Tất cả những đồ cần thiết đã chuẩn bị đầy đủ chưa, anh em?
Bác thuyền trưởng dõng dạc trả lời:
- Thưa đủ!
Phan hất hàm về phía anh thợ máy:
- Tình trạng máy móc thế nào?
Anh ta trả lời, giọng Quảng Bình chắc nịch:
- Thưa, bình thường!
Bây giờ, Phan mới hướng về tôi, nói với toàn thể những người dưới thuyền:
- Đây là ông cán bộ, đi công tác đặc biệt. Các anh em có trách nhiệm phải đưa ông đến điểm đổ bộ đã quy định. Suốt trên đường đi đến mục tiêu, ông có toàn quyền bảo thuyền quay lại, các anh em phải theo lệnh.
Nghe Phan nói, tôi hiểu, nếu lúc đó, bắt đầu vào thực tế, tôi mất tinh thần, tôi sợ, (một điệp viên vào đất địch mà sợ hãi, dứt khoát chỉ làm hư việc,) thì quay về là đúng. Nếu không, đôi khi còn tác hại hơn, không thể nào mà lường được. Anh sợ, anh quay về, chỉ có một điều hại là công tác chưa thi hành được, chứ địch chưa biết gì cả, và anh chỉ bị kỷ luật như đã định mà thôi, chứ nếu anh đã sợ mà anh cứ vào đất địch, chắc chắn anh sẽ không hoàn thành được công tác và dễ bị địch phát hiện. Địch sẽ khai thác những tài liệu anh mang theo, sự di hại còn to lớn biết chừng nào.
Sau đó, tôi theo Phan lên bờ, Phan đặt tay lên vai tôi, thân mật:
- Tinh thần của “toa” thế nào?
Tôi mỉm cười, đập mạnh vào tay Phan một cái, đùa cợt:
- Đấy, tinh thần tôi đấy!
Phan siết chặt tay tôi, rồi không biết Phan nghĩ thế nào, tự nhiên dang tay ôm chặt tôi, không một lời từ giã, hẹn gặp lại hay chúc thành công. Đó cũng là cá tính của Phan khi chia tay.
Trời đã chập choạng, thuyền bắt đầu rời bến. Xa xa, thành phố Đà Nẵng đã lên đèn. Hơn một tuần lễ ở đây, tôi chưa biết nhiều về Đà Thành, vậy mà tôi cũng thấy vương vấn bâng khuâng. Tôi có cảm tưởng con thuyền rời xa dần khung trời tươi sang để đi sâu vào vùng đen tối mịt mù. Thực sự, con thuyền đã khởi hành lúc 7 giờ chiều, trời còn sáng, để đi dần vào màn đêm. Và từ một vùng yên tĩnh trên sông Hàn, để tiến dần vào vùng sóng gió của biển khơi. Con thuyền đã bắt đầu lắc lư, vật vã với những vạt sóng bạc đầu vùng cửa biển.
Tôi đứng dựa mui thuyền. Đã gần nửa đêm, bầu trời rất thấp, hàng trăm ngàn vì sao nhấp nháy. Tôi đưa mắt nhìn một vòng chung quanh. Tôi có cảm tưởng, bầu trời như một chiếc vung khổng lồ úp xuống mặt nước bao la cùng chiếc hải thuyền cô độc, đang âm thầm rẽ song. Giữa mầu xám xịt mênh mông của biển khơi, là những tảng trắng đục của những lớp sóng bạc đầu trông như đá hoa cương. Chiếc thuyền nhấp nhô nghiêng ngả, đập vào đầu những ngọn sóng, gây lên những tiếng bộc bạch chắc nịch. Làm cho con thuyền rung lên, phát ra những tiếng cọt kẹt…cọt kẹt…
Dù tôi đã uống trước hai viên thuốc chống say sóng do Phan đưa, thế mà tôi vẫn thấy người nôn nao khó chịu. Tôi đành phải chui vào trong khoang nằm nghỉ. Đang vật vờ nửa thức nửa ngủ, tôi bỗng nghe tiếng rổn rang, nặng chình chịch của ông thuyền thưởng:
- Buộc lá cờ vàng, đen lên!
Dù người rất mệt vì say song và đã nôn ói hai ba lần, tôi vẫn phải cố bò lên xem chuyện gì. Trời đã sáng, mọi người đang hướng nhìn về phía mặt trời mọc. Một chiếc tầu mầu trắng toát, cách xa khoảng chừng 5 cây số, đang chĩa mũi về chiếc hải thuyền. Quá xa, và cũng do ánh nắng, tôi không trông rõ mầu cờ của chiếc tầu đó. Thấy anh thợ máy đang quỳ phía mũi thuyền, dán mắt vào chiếc ống nhòm. Tôi cố lần ra, khẽ đặt tay vào vai anh. Anh quay lại, hơi ngạc nhiên khi thấy tôi, anh tươi nét mặt:
- Tầu của ta, không sao!
Rồi anh trao ống nhòm cho tôi. Qua ống nhòm, tôi đã nhìn rõ mầu cờ vàng ba sọc đỏ phía cuối tầu. Và, đó cũng là lúc chiếc tầu đang chuyển mũi về phía trái, tức vào bờ. Tôi nhớ chiều hôm trước, lúc ở biệt khu Hải Quân. Phan đã đưa cho ông thuyền trưởng mấy loại giấy tờ, nói là khi nào có tầu của ta kiểm soát, xuất trình giấy lệnh công tác đặc biệt của trung ương. Nhưng, sao lại còn phải kéo lá cờ hiệu, con con mầu đen vàng? Tôi vào hỏi ông già, thì ra đó cũng là mật hiệu của thuyền đi công tác đặc biệt nữa. Mật hiệu này, luôn luôn thay đổi, có khi hàng ngày, có khi hàng tuần.
Mặt trời đã lên cao, nền trời trong xanh, mặt biển thật yên lành. Tuy vậy, phần vì bị nôn mửa, phần vì tôi không hề ăn uống gì, nên người rất mệt. Mặc dù cảnh biển trời rất đẹp, thật hùng vĩ, nhưng tôi vẫn phải chui vào khoang nằm.
Tôi nằm chập chờn, lúc tỉnh lúc mê, nhưng tôi vẫn theo dõi được những diễn tiến của con thuyền. Khoảng gần trưa, thái độ của mọi người có vẻ thận trọng, dè dặt hơn. Cứ 5, 10 phút, lại một người mang ống nhòm ra phía mũi thuyền quan sát một vòng. Từ ông già thuyền trưởng, cho đến các anh thủy thủ, ai nấy đều trầm tư im lặng, ít nói chuyện hẳn đi. Tôi hiểu, con thuyền đã đi vào vùng biển cùa miền Bắc.
Ánh nắng đã nhạt dần, một ngày nữa đã trôi qua. Tôi đã biết, từ bác thuyền trưởng đến các anh thủy thủ, trước đây họ đều là dân chài lưới chuyên môn ở Nghệ An. Họ đã chối bỏ bạo quyền vô nhân, khát máu Cộng Sản, di cư vào miền Nam. Họ là những người dân hiền lành chất phác, suốt đời chỉ biết cặm cụi làm ăn. Họ đã ra đi thoát khỏi bàn tay sắt máu của lũ cộng. Họ tìm đến được thế giới tự do. Nhưng, họ còn thấy trách nhiệm của họ với những bà con, thân thuộc còn ở lại, nên họ đã tình nguyện làm công việc này, để góp phần nhỏ bé, giới hạn do cuộc sống đơn giản, ít học thức của họ. Do đấy, tình cảm thương yêu đồng bào, đồng chí thật chân phương thắm đượm gần gũi. Thấy tôi bị say sóng, không ăn uống gì được, người nào cũng săn sóc, giúp đỡ như ruột thịt anh em. Họ nấu từng bát cháo nóng, đưa từng hộp dầu cao với những cử chỉ thật đậm đà, gần gũi, làm tôi vô cùng xúc động. Lại một đêm nữa trôi đi bình lặng.
Sáng hôm sau, mặt trời phía Đông loé sáng được hơn một tiếng đồng hồ, thì mạn phía Tây Bắc, từng cụm mây đen to tướng đùn lên, dần dần che lấp cả bầu trời. Không khí tự nhiên oi nồng khác thường. Mặt biển óng 1ên mầu vàng nhợt.
Mấy ngày này, tôi chỉ húp được sữa, ngồi một lúc hoa mày chóng mặt, tôi lại phải nằm. Gần về chiều, trời vẫn oi ả, giữa biển khơi mà im gió như trong buồng. Nét mặt mọi người đều lộ vẻ lo âu với những hiện tượng không bình thường của thiên nhiên.
Đột nhiên, một anh thủy thủ tay đang cầm ống nhòm ở mũi thuyền, quay lại mặt nhớn nhác, tay chỉ trỏ phía xa xa, miệng nói léo nhéo, nghe không rõ, vì tiếng máy nổ ồn ào. Mọi người, ngay cả tôi, linh cảm thấy một điều bất thường. Dù mệt, tôi cũng cố cùng mọi người đổ xô ra phía mũi.
Xa xa, từ phía trái, tức phía trong bờ, có hai chấm đen đang tiến dần về phía chiếc thuyền. Tôi giằng lấy ống nhòm từ tay anh thủy thủ. Rõ ràng hai chiếc ca nô đen xì. Vì còn quá xa, nên chưa trông rõ cờ hiệu, nhưng ai cũng hiểu rằng, còn chệch vào đâu được nữa, đó chính là ca nô của bộ đội hải quân biên phòng của Cộng Sản. Không nói ra, nhưng mặt người nào cũng tái đi, lấy cái gì để chống đỡ bây giờ? Chịu trận, như con cá đã nằm trên thớt. Tôi liếc nhanh những vật dụng mang theo, tay tôi sờ trong người, mân mê mấy bọc tài liệu con con. Đầu tôi loé lên quyết định, phút cuối cùng sẽ gửi chúng vào lòng biển cả. Dứt khoát, bằng mọi giá không để tài liệu này lọt vào tay kẻ thù.
Những bước chân chạy khẩn trương rầm rập. Những tiếng nói to dằn mạnh của mấy ngưòi í ới:
- Mở tốc lực tối đa!
- Bẻ lái chạy theo hướng phải!
- Bỏ lưới lên mui, căng ra!
Hai chấm đen càng lúc càng to, càng rõ ra. Qua bản thân mình, tôi hiểu rằng trống ngực của mỗi người đều tăng nhịp đập theo tiếng máy tầu.
Sau khi những xốn xang chuẩn bị của mỗi người tạm ổn, tuy không ai bảo ai, nhưng cứ thỉnh thoảng, mọi người lại quay nhìn về phía hai chấm đen với những đôi mắt trắng nhợt. Anh thợ máy chui vào khoang, lấy bức hình Đức Mẹ treo cao lên phía vách thuyền. Rồi cũng không ai bảo ai, trừ ông già thuyền trưởng đang lái thuyền, mọi người, anh thợ máy và các thủy thủ, đều ngồi xếp chân bằng tròn làm dấu, nguyện kinh. Tôi cũng ngồi dậy đọc kinh cùng mọi người. Tiếng cầu kinh râm ran theo tiếng máy vang rền. Tuy đọc kinh, nhưng thỉnh thoảng một cái đầu, lại ngoảnh về phía hai chấm đen, lúc này đã to bằng hai con trâu mộng.
Mây đen mù mịt, trời càng thẫm dần. Bỗng nhiên pằng, pằng, pằng pằng! Bốn tiếng súng như xé màng tai mọi người, làm cả 7 cái đầu đều quay về phía hai chấm đen một lượt. Tiếng đọc kinh càng to, càng cấp bách hơn. Mọi người đọc kinh “dọn mình chịu nạn.” Khoảng cách của hai chiếc ca nô và chiếc thuyền càng lúc càng ngắn lại. So sức máy của con thuyền với sức máy của hai chiếc ca nô, tôi có cảm tưởng như sức chạy của con gà đối với hai con chó sói.
Đột nhiên, một làn chớp xanh lè nháng lên. Một tiếng nổ làm rung rinh mặt biển, rồi như tiếng gầm của đại bác, rền vang ngang dọc trên bầu trời. Những hạt mưa lạch tạch ngoài mũi, trên mui thuyền. Gió bắt đầu lồng lộn nổi thổi. Sóng cuồn cuộn nổi lên, mưa gió xoáy mịt mù. Chiếc thuyền dựng lên, ngụp xuống, nhấp nhô giữa muôn ngàn núi sóng. Biển trời gầm rú át cả tiếng đọc kinh và tiếng máy của thuyền. Mọi người đều nhìn lại, hai chiếc ca nô đã mờ mịt trong gió mưa.
Thoát cái nạn kẻ thù, lại gặp cái nạn cuồng phong, bão tố của biển khơi. Thuyền đã bẻ lái quay về hướng cũ, vì khi nãy sợ quá nên đã chạy ra hướng đại dương. Mưa bão càng cuồng loạn, tiếng đọc kinh càng lớn. Nhiều lúc, tôi tưởng như chiếc thuyền chìm nghỉm, hoặc vỡ tan ra từng mảnh. Ngồi trong khoang mà mọi người ướt đẫm. Cả chiếc thuyền, chẳng chỗ nào còn khô. Người tôi lúc xô sang góc này, lúc đập vào góc kia. Bác già thuyền trưởng đang xệch miệng gò người đẩy lái thuyền. Một cơn sóng đánh trùm lên, đánh bật văng bác váo trong góc. Ba anh thủy thủ đổ xô ra, một người đỡ bác, hai người kia chộp lẹ vào cần tay lái. Bác già đã vươn ngay dậy được, xông đến tiếp tay cho hai anh thủy thủ đang nghiêng ngả với chiếc bánh lái.
Người tôi lạnh run, mệt lả, vì mấy ngày không ăn. Tôi tưởng chắc phen này sẽ về lòng đại dương, chấm dứt một cuộc đời chìm nổi mưa gió.
Chừng nữa giờ sau mưa tạnh, gió dịu dần, biển khơi đất trời nguôi cơn giận. Màn đêm đã bao phủ cả bầu trời. Tôi đưa mắt nhìn khắp chung quanh, chỉ một mầu xám xịt, chẳng còn thấy bóng dáng hai con trâu điên đâu nữa. Chính chúng cũng đã phải chạy thoát thân, và có lẽ chúng nghĩ rằng, chiếc thuyền bé nhỏ của chúng tôi hẳn đã làm mồi cho cá biển.
Thuyền chạy được 5-6 giờ nữa, lúc này đã gần 12 giờ đêm. Trời lại bắt đầu nổi gió, và mưa cũng trở lên đầy hạt. Gió thật mạnh, quay cuồng, gió quất vào những khe ngách con thuyền. Gầm rít lên như muốn xé tan con thuyền bé nhỏ, cô đơn, giữa sự giận khùng của đại dương bao la.
Trận bão này thật là khủng khiếp. Người nào cũng phải ôm ghì lấy khung thuyền. Ai cũng thấy nếu lỏng tay, không bị gió dữ thì cũng bị những cơn sóng thần sầu như trái núi hất tung người xuống biển. Chung quanh, mọi người chỉ còn nghe thấy tiếng ầm ầm của sóng gió thét gào. Tiếng máy thuyền như im bặt. Có chăng đây đó, thỉnh thoảng là tiếng kêu Chúa, hoặc gọi cha mẹ, ré lên rồi tắt ngủm trong màn đêm.
Giữa lúc cái sống và cái chết ở cạnh nhau này, tôi thấy ông già thuyền trưởng vung cánh tay như vẫy tôi, miệng của ông há to, tôi không nghe thấy tiếng gọi. Tôi vận sức, nắm chặt khoang thuyền, lết lần từng bước về phía ông. Tôi cảm thấy, ông gọi tôi chắc có việc nan giải. Phần vì người ướt như chuột trong cống, lạnh run, phần khác vì sức tôi quá yếu (hai ngày hai đêm không ăn) nên tôi trượt chân, chới với tưỡng đã lao xuống biển nếu tôi không nhanh tay, chộp được một cái cọc ở mé thuyền và cùng lúc đó, hai anh thủy thủ vồ được hai chân tôi kéo lại.
Có lẽ, vì thấy quá nguy hiểm, nên ông già thuyền trưởng vừa gào, vừa ra hiệu cho hai anh thủy thủ khác ra giữ lái thuyền thay ông. Khi ông và tôi đã bò vào được trong khoang, ông nhìn tôi giọng hổn hển ngắt quãng vì rét và vì mệt:
- Đã đến điểm đổ bộ rồi. Chỗ này còn cách bờ khoảng 20 cây số. Với kinh nghiệm chài biển của tôi, trời đang giông bão thế này, nếu thuyền vào bờ, sẽ bị đắm. Vì thông thường, sóng cách bờ 5-10 cây số dữ dội hơn ngoài biển khơi nhiều. Cơn bão hiện nay chưa biết bao giờ sẽ dứt. Vậy hoàn toàn do cán bộ quyết định đi vào hay đi … về?
Thật là một vấn đề nan giải giữa sống và chết. Bao nhiêu công lao khó nhọc, đã đến đây, chả lẽ quay về? Để có thể quyết định được dứt khoát, tôi hỏi lại ông:
- Hay bỏ neo tại đây, chờ hết bão ta vào?
Ông cười, miệng méo xệu, trong khi ba anh thủy thủ mở to mắt nhìn tôi như nhìn một con quái vật. Cuối cùng, ông già nói gằn giọng như ông đang cãi nhau:
- Không thuyền nào bỏ neo ở giữa biển, dù có bỏ neo cũng không tới, mà nếu có tới, trời đang gió bão thuyền sẽ lướt đi theo sóng không đứng yên. Đậu lại, hoặc chết máy lúc này thì chỉ một cơn sóng cũng chìm nghỉm. Chưa nói, nếu sáng mới hết bão, lúc đó ban ngày, đậu đây, chẳng khác nào chiếc mồi mời tầu công an ra mang vô.
Tôi nhìn ông, tuy mệt và rét mà ông vẫn phải nói nhiều, nói dài. Ông đã gợi hết đường ngõ cho tôi rồi. Vì vậy, sau một phút đắn đo, tôi khoát tay, dõng dạc hai tiếng:
- Quay về!
Óc tôi lướt nhanh, nếu chỉ một mình tôi, sống chết cũng vào, vì đã đi thì dứt khoát chẳng quay về. Nhưng ở đây, còn 6 sinh mạng nữa, mỗi người là một chùm liên hệ gia đình, tôi không được quyền liều lĩnh.
Ba anh thủy thủ cùng ngồi trong khoang nghe tôi nói quay về, mắt họ sáng lên, ngực họ như xẹp xuống vì được xì hơi ra. Ông thuyền trưởng quay lại phía lái, chụm hai bàn tay trước mồm làm loa, gào to:
- Bẻ lái quay về miền Nam. Phải coi chừng chiều gió và sóng.
Các anh thủy thủ đúng là đi biển có kinh nghiệm. Chiếc thuyền nhẹ lướt, quay nghiêng, rồi trực chỉ mũi về hướng Nam. Bây giờ, thuyền lại xuôi gió và sóng. Riêng tôi, vì mệt mỏi và những suy tư, nặng chĩu trong lòng, tôi nằm liệt ở trong khoang, chẳng muốn biết gì nữa ở bên ngoài. Tôi nằm thiếp dần, mê man. Sáng hôm sau, trời yên biển lặng, tôi vẫn chỉ mơ mơ màng màng, rồi tôi lại thiếp đi. Mãi cho tới khi anh thợ máy lay tôi dậy. Tôi nhìn miệng anh nói, nhưng giọng Nghệ An thật khó nghe, có lẽ vì mệt quá nên tai tôi ù lên chăng? Thấy tay anh cầm bát cháo con con đang bốc khói, và qua ánh mắt, tôi hiểu anh muốn bảo tôi cố ngồi dậy húp bát cháo này! Thái độ của anh, đã xoa dịu phần nào những nỗi niềm nặng chĩu u buồn trong lòng tôi. Tôi chống tay ngồi dậy, đón nhận tình anh. Tôi chỉ biết nhìn anh bằng ánh mắt biết ơn.
Bên ngoài, ánh nắng chiều đã xiên khoai vào khoang thuyền. Sau khi húp hết được bát cháo nóng, người tôi như thêm phần sinh khí. Tôi bò dậy, chui ra ngoài mũi thuyền, ngồi dựa vào mui. Tôi đưa mắt nhìn ra phía chân trời xa xa, nơi có miền Nam thân yêu đang đợi chờ. Đột nhiên, một ý nghĩ len vào hồn, làm tôi tư lự đăm chiêu. Tôi đã bỏ dở công tác phải quay về. Đường đi không đến, dù rằng chẳng phải do mình muốn, tôi vẫn cảm thấy như có áng mây buồn vương vấn trước mắt.
Cảnh chiều tàn trên đại dương làm cõi lòng tôi sầu nặng. Thêm nữa, đây vẫn còn là đất địch, nên tôi lại chui vào khoang.
Một đêm, một ngày nữa trôi qua. Đến đêm thứ năm, kể từ ngày đi, thuyền mới về vĩ tuyến 17, đến phần đất của miền Nam tự do. Như đã nói trên, vì mang một tâm sự không vui, phần khác vì say sóng không ăn uống gì được, làm người càng mệt, nên trên suốt đường về tôi cứ nằm li bì. Mãi tới gần nửa đêm, tôi nghe loáng thoáng nhiều tiếng ồn ào quát tháo. Một vài vệt đèn “pin” chiếu lấp loáng vào trong khoang thuyền. Một chiếc tầu tuần nào đó thuộc Hải Quân của ta, đến kèm sát để hỏi giấy tờ, dù thuyền đã đánh tín hiệu bằng đèn “pin” trước rồi. Một chiếc ca nô nhỏ, trên lố nhố một số người, cặp vào phía mũi thuyền. Tôi không muốn họ nhìn thấy, tôi kéo chiếc chăn đơn che mặt và vẫn nằm yên. Một lúc sau, thuyền lại tiếp tục đi. Mờ sáng hôm sau, thuyền về tới bến cũ trong Biệt Khu Hải Quân.

13. Chuẩn Bị Chuyến Sau…

Gần hai giờ sau, khoảng 8 giờ sáng, mặt trời đỏ như một miếng tiết bò to tướng, ở dưới nước từ từ chui lên, làm cảnh vật sáng lung linh một mầu đỏ ửng.
Phan đã đỗ xe trên đường ngay phía trước thuyền, đang đứng nói chuyện với ông già thuyền trưởng và mấy anh thủy thủ. Tôi mở cửa khoang chui ra. Phan quay lại nhìn thấy tôi, mắt Phan mở to rồi nhấp nháy. Dù đã được nghe báo trước, nhưng chắc Phan cũng không ngờ người tôi xuống nhanh như vậy, khi mới chỉ có cách 5 đêm 4 ngày. Lý do chính là trong 4 ngày 5 đêm đó, tôi chỉ húp được ba, bốn bát nước cháo, và lại trải qua nhiều giờ phút căng thẳng. Phan tiến lại nắm nhẹ tay tôi, chỉ hỏi một câu:
- “Toa” có mệt không?
Cho tới lúc lên xe, Phan thấy tôi ít nói hẳn đi. Nếu là người khác, có thể sẽ tưởng rằng, sau một chuyến đi căng thẳng, tinh thần tôi bị xuống. Nhưng, có lẽ Phan đã hiểu nét trầm tư của tôi, nên đã đập vào vai tôi, vừa cười vừa nói:
- Ồ, “L’homme propose, Dieu dispose”(*) mà! “Toa” nghĩ ngợi làm gì!
Đã 5 ngày không rửa mặt, lại đang mặc bộ quần áo miền Bắc, dép râu, mũ cối, nên tôi chui ra băng sau. Mở chiếc va li của tôi, mà Phan đã mang theo từ cơ quan sang cho tôi, để thay đồ.
(*) “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”
Trên đường về thành phố, Phan nói:
- Bây giờ “toa” chưa thể về Hồng Phát được. “Moa” đã tạm thuê cho “toa” một phòng trong khu vắng vẻ; “toa” hãy về đấy tắm rửa, cạo râu, ăn uống cho lại sức. Chiều mai, “moa” sẽ trở lại đón “toa” về Hồng Phát.
Buồng số 5 đã lại có một người Mỹ khác đến thuê. Nghe quản lý nói họ chỉ ở vài ngày, nên tôi phải tạm ở buồng 14 trên lầu tư. Tầng này cũng có vài anh Mỹ ở mấy buồng, tuy thỉnh thoảng gặp nhau ở lối đi khi ra vào. Họ và tôi cũng chỉ mỉm cười để chào nhau, chứ không nó năng gì.
Hai ngày sau Phan cho biết:
“Công tác sẽ lại tiến hành vào ngày 28 tháng 5.”
Như vậy, tôi có gần một tháng để nghỉ ngơi, để lấy lại sức và tinh thần. Theo quy ước, ngày đi thường phải là những ngày cuối tháng. Tôi băn khoăn hỏi Phan vì sao đài khí tượng của ta, lại không biết gì về những cơn bão đột xuất?
Phan trả lời:
- Với trình độ và phương tiện của đài khí tượng của mình hiện nay, mình chỉ dự đoán tương đối chính xác về thời tiết trong một thời gian 30 giờ và trong một phạm vi bán kính 300 cây số. Mà điểm đổ bộ lại ở ngoài tầm quá xa và thời gian cũng cách hàng 50-60 giờ, nên thật khó!
Sau khi tôi làm báo cáo gửi đi được 3 ngày, tường trình những nét diễn tiến cơ bản của chuyến đi, có lẽ ở Sài Gòn, những người trên Cục cho rằng cần phải khích lệ, động viên tinh thần tôi, nên một hôm Phan đến bảo sẽ đưa tôi đi gặp một nhân vật của Cục muốn tiếp xúc. Phan đưa tôi tới quán nước “Diệp Hải Dung” khi gần tới nơi, Phan dặn:
- “Toa” vào một mình, tìm một bàn trống, cứ gọi theo ý mình. “Toa” ngồi chờ, sẽ có người đến gặp.
Tôi vào quán, một lúc sau, thoáng nhìn chéo góc đường, tôi thấy một người mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, thắt cà vạt. Ông ta khoảng ngoài 40, lái một chiếc xe “díp” dân dự còn mới, bên cạnh là ông Lý, một người miền Bắc tôi có gặp vài lần.
Đậu xe ở một góc xa, người đó và ông Lý xách chiếc cặp đen theo sau, tiến vào quán. Trong quán, cũng đã đông người, hầu hết là thành phần trẻ.
Do sự hướng dẫn của ông Lý, hai người đến bàn tôi. Vì không muốn người chung quanh để ý, nên họ chỉ cười nhẹ và bắt tay tôi, chứ không nói gì cả. Khi đã ngồi, gọi thức uống xong, ông Lý hơi cúi ra giữa bàn nói nho nhỏ nhưng ra vẻ quan trọng:
- Đây là ông Cục phó, có nhã ý muốn ra gặp anh. Vậy, anh cần giải quyết hay đề bạt ý kiến gì, anh cứ nói?
Sau khi nghe ông Lý giới thiệu, tôi nhớ lại qua vài câu chuyện với Phan ở Sài Gòn lúc trước. Tôi đã biết đây là ông Nguyễn Khắc Bình, vì vậy, một lần nữa, tôi hơi nghiêng đầu tỏ vẻ được vinh hạnh gặp ông. Với hàng ria mép xén tỉa cầu kỳ, đôi mắt sâu long lanh thật sắc và làn môi hơi mím lại của ông làm tôi thấy toát ra từ ông ta một nét cương nghị. Có lẽ vì thấy tôi mãi chưa nói gì, ông mỉm cười thân mật:
- Trong người anh có được khỏe không?
- Cảm ơn ông, tôi bình thường.
Tôi chậm rãi trả lời. Mặt ông nghiêm lại, nhưng mắt ông sáng lên, ông nói rành rọt:
- Đọc bản báo cáo tường thuật chuyến đi của anh; chúng tôi thấy anh quyết định quay về như vậy là đúng. Điều đó, chứng tỏ anh là người thận trọng, cân nhắc. Vậy, sau chuyến đi vừa rồi, anh có những cảm nghĩ gì?
Tôi nhìn ông ta:
- Thưa ông, cảm nghĩ thì nhiều, nhưng có một ý nghĩ đã lấn át tẩt cả. Chuyến đi không thành, phải quay trở lại, dù rằng ngoài ý muốn, lòng tôi vẫn nằng nặng không vui.
Ông ta gật gật đầu, mấy ngón tay để trên bàn cũng đập nhè nhẹ theo nhịp gật. Ông mỉm cười, quay lại ông Lý như chia xẻ nhận xét:
- Chính điều đó đã thể hiện chí khí của anh. Lâu nay, chúng tôi nhìn về anh đã không sai! Bây giờ anh cần gì không? Cục sẽ sẵn sàng giải quyết cho anh!
Tôi còn đắn đo nhìn ông ta, chưa muốn trả lời vội, ông Lý đã nhỏ nhẹ thúc đẩy tôi:
- Tiện có ông Cục phó ở đây, anh có gì khó khăn, dù là còn trong ý nguyện, anh đừng ngại gì cả.
Tôi ngần ngừ là vì chưa muốn trả lời ngay, chứ không phải tôi muốn nói mà còn rụt rè. Tôi nghiêm trang nhìn hai ông:
- Tôi xin ghi nhớ sự quan tâm của hai ông đối với tôi. Hiện nay, về mặt cá nhân tôi, tôi không cần gì cả. Nhưng, về công tác, tôi muốn đề nghị với ông một vấn đề.
Mắt ông Bình hơi sáng lên, những bắp thịt phía hai quai hàm của ông động đậy liên hồi, rồi như ông khích lệ:
- Anh nói đi.
Tôi im lặng, thận trọng một lúc nữa, rồi nhìn thẳng ông:
Qua thực tế của chuyến đi phải quay về vừa rồi, tôi thấy rằng: Sự quan sát theo dõi khí tượng của ta chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định, mà điểm đổ bộ của tôi lại vượt quá xa về cả không gian lẫn thời gian. Do đó, chúng ta không chủ động thực thi được công tác, không những bởi ngăn chặn của đối phương đã đành, mà còn bởi cả thiên nhiên nữa. Vì vậy, tôi xin đề nghị ta kéo lùi điểm đổ bộ vào Nghệ An hay Hà Tĩnh. Tuy đất lạ và sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, nhưng tôi tự thấy, tôi có thể vượt qua. Tôi chỉ cần tìm về được trục chính Quốc Lộ 1 là tôi có thể về tới Hà Nội.
Sau này, tôi đã thấy hậu quả về lời đề nghị đó, chưa nói gì về nội dung, ngay qua thái độ đề nghị của tôi, tôi bắt đầu rơi vào cái bệnh chủ quan, coi thường địch rồi.
Trong khi nghe tôi nói, ngón tay của ông Cục phó vẫn nhẹ đập trên mặt bàn càng lúc càng mau hơn; ông gật nhẹ đầu, rồi như nhiệt huyết của ông được tăng độ, ngón tay ông miết dài trên mặt bàn như dứt khoát:
- Đó là những ý kiến đi sát vào vấn đề, rất thực tế. Anh hãy về viết ngắn gọn, trình bày mạch lạc những ý kiến anh đề nghị, rồi đưa cho ông Phan hay ông Lý đây chuyển về Cục. Chúng tôi sẽ nghiên cứu ngay để giải đáp sáng tỏ đề nghị hữu lý của anh.
Ông nhìn tôi một lúc, rồi gặn hỏi lần nữa:
- Ngoài ra, anh cỏn cần đề nghị gì cho cá nhân anh?
Tôi vẫn lắc đầu nhè nhẹ:
- Xin để khi công tác trở về.
Dù tôi đã nói như vậy, nhưng ông Bình muốn thể hiện thiện cảm của ông cũng như Cục đối với tôi, ông vừa đứng dậy:
- Tôi đã chỉ thị cho ông Lý đây, bất cứ lúc nào anh gặp khó khăn gì muốn được giải quyết, anh cứ nói với ông.
Trong khi ông Lý vào quầy trả tiền nước, ông Bình bắt tay tôi thật chặt và nói nho nhỏ nhưng rất thật tình:
- Khi được báo cáo anh đi công tác trở về, tôi sẽ ra đây đón anh!
Tôi mỉm cười vì thoáng nhớ lại lời nói của ông Cục trưởng ở trường bay Tân Sơn Nhất hơn 20 ngày trước đây. Sao lại giống nhau thế! Một ông thì tận hải thuyền, một ông thì ở Đà Nẵng. Một vương vấn buồn len lỏi vào lòng tôi.
Trên đường trở về khách sạn Hồng Phát, và cả đêm hôm ấy, lòng tôi vẫn đầy vơi nhiều chuyện về đất nước và con người. Để gạt đi những nỗi niềm nặng trĩu trong lòng, nhớ đến anh bạn Lê Đức Bình. Sáng hôm sau, tôi đến số 80 đường Độc Lập, văn phòng đại diện của mỏ than Nông Sơn, gửi một lá thư nhờ chuyển ngay. Cuối tuần đó, Bình ra Đà Thành liền. Anh đến Hồng Phát gặp tôi, anh mang theo hai người bạn, giới thiệu là Xuân và Sỹ. (Bình với tôi cùng tên, khi còn ở trại Pavie la Mothe, để phân biệt, anh em gọi tôi là Bình “Follis”, vì lúc đó tôi thường đi chiếc xe máy dầu của Đức hiệu này. Còn Lê Đức Bình vì có mái tóc quăn, nên anh em gọi là Bình “Xuân”.)
Phải nói, tình bạn bè đã sưởi ấm lòng tôi. Sau mấy ngày đây đó bên nhau tâm sự anh nằng nặc đòi tôi phải vào mỏ, đê thăm nhà và vợ con anh. Anh phải về làm việc ngay, vì chỉ xin nghỉ được có 1 ngày. Tôi làm sao có thể nói cho anh biết được chuyện gió mưa của tôi, nên đã hẹn với anh vào dịp khác, cái dịp “Tết Công Gô” sau này.
Ở lại Đà Thành còn Xuân, Sỹ với tôi. Một mình Xuân một chiếc Vespa đời 62 của Ý và một chiếc Peugeot 203. Các anh cũng là những người trong giới tài hoa son trẻ của Thành Đà. Điều thích thú là, các anh và tôi đồng một sở thích: Thiên nhiên. Cho nên từ đấy, hết đi Cửa Đại, Lăng Cô, Mỹ Khê, Thăng Bình để ngắm biển cả bao la, những hoàng hôn lộng gió, những bình minh điệu kỳ mang nhiều sức sống; lại đến Ngũ Hành Sơn, Tam Kỳ, để chiêm ngưỡng cảnh núi đồi hùng vĩ. Bao nhiêu những thắng cảnh của Hòn Ngọc miền Trung! Ôi, quê hương ta, tuy nghèo nàn, lam lũ đạm bạc nhưng muôn đời vẫn đẹp mãi trong lòng tôi!
Năm ngày sau khi tôi nộp bản báo cáo đề nghị, một buổi sáng, Phan đến cho tôi biết là đề nghị của tôi đã được Cục chấp nhận. Rồi, Phan hân hoan nói tiếp:
- Như vậy thì trở ngại giảm đi rất nhiều, lần này “toa” chỉ phải đi một ngày rưỡi và một đêm rưỡi, nghĩa là trong khoảng 36 tiếng thôi.
Thấy tôi ra dáng băn khoăn muốn hỏi ở đâu, Phan liền vỗ vai tôi, nói rành rọt:
- Yên tâm, vùng này là cuối tỉnh Nghệ An, giáp giới Hà Tĩnh. Đó là quê hương của đám thủy thủ, họ là thổ công ở đấy. Họ sẽ đưa “toa” vào một chỗ hoàn toàn an ninh, tha hồ “toa” nghỉ ngơi thỏa đáng cho khoẻ, rồi mới tìm vể Quốc Lộ 1.
Một phần do bản tính làm việc theo lối đại cương của Phan, phần khác, chính tôi cũng đã bắt đầu chủ quan, lơ là với những công việc mà đáng lẽ tôi phải nghiên cứu thấu đáo, cho nên tôi đã không hỏi kỹ là thuộc huyện nào, xã nào, địa hình, địa vật ra sao…Những điều cần được sáng tỏ, tôi lại không hỏi Phan, mà lại chú ý sang một điểm khác:
- Này, những người đưa thuyền họ thật chất phác. Họ phụng sự lý tưởng một cách đơn giản như lời của họ vậy, không cần phải hò hét ồn ào.
Phan cười ré lên, rồi bệ vệ đứng dậy, vừa tiến lại chiếc tủ của tôi vừa nói:
- “Toa” nhận xét đúng đấy!
Rồi như lơ đãng, cầm lọ thuốc bổ, Phan quay lại hỏi tôi:
- “Toa” uống cái loại thuốc này, thấy người khoẻ không?
Thấy tôi gật đầu, Phan rút bút ghi tên thuốc, nói:
- “Moa” sẽ bắt chước “toa” uống một trăm viên xem sao.
Sau đó chỉ là những chuyện phiếm, không còn liên quan gì đến công tác nữa. Hình ảnh của những người đưa thuyền vẫn vương vấn trong tôi, một lần nữa tôi lôi Phan về với họ:
- Ông Phan này, cái người thợ máy, trông tay chân như lực sĩ ấy nhỉ?
Phan lại cười, giơ ngón tay cái ra trước mặt:
- Y là số “dách” đấy, “moa” vẫn gọi y là “Tạc giăng”. Bất kể ngày đêm, nguy hiểm thế nào, hễ yêu cầu, y xông vào ngay.
Rồi như để ngắt câu chuyện ở đấy, Phan đứng dậy và bắt tay tôi ra về.

14. Chuyến Đi Định Mệnh…

Sớm, muộn, rồi ngày tháng cũng đến mức ấn định. Sau một trận mưa đêm hôm trước, sáng hôm 28/5, khung trời Đà Nẵng không một vần mây. Phố phường cảnh vật như được lau chùi, rửa sạch từ đêm. Khí hậu đầu Hè dịu mát như mùa Thu.
Đã hẹn trước, 11 giờ Phan đến đón tôi, tôi đã lại lột xác của Đặng Chí Bình, một thanh niên của miền Nam tự do đầy hương sắc, để trở thành một Lê Viết Hùng, học sinh lớp 10 bằn xương bằng thịt của vùng Vĩnh Linh khô cằn, lạc hậu, mảnh đất tuyến đầu của cái gọi là xã hội chủ nghĩa.
Hôm đó, cũng là buổi ra đi, buổi giã từ Đà Thành và cả miền Nam hiền hòa nhiều ân tình, để đi về một phương trời đầy chông gai nguy hiểm, lòng tôi thật nhẹ nhàng lâng lâng, Có lẽ một phần vì là chuyến đi thứ hai, đã giảm đi sự xốn xang hồi hộp của buổi ban đầu, nhưng vì còn một phần nữa, nằm sâu kín trong tâm tư tôi. Đêm hôm trước, nằm nghe tiếng mưa rơi, tôi đã liên tưởng đến những quãng đời khi tôi còn sống ở Sài Gòn. Từ hình ảnh những người ruột thịt thân thương, những bạn bè đầy nghĩa tình, đến những người trong Cục, tất cả đều rõ ràng như một cuốn phim lướt nhanh trước mặt. Tôi hiểu, ít nhiều đã có một số người trông chờ nơi tôi. Rồi, như một niềm thúc đẩy, ngay từ hồi đêm, tôi đã nâng quyết tâm và tự nhủ thầm, phải làm được một điều gì để không ngượng với tấm thân trai, khi đất nước còn trong cảnh chia hai xẻ ba như thế này. Đã ra đi, bằng mọi giá, mọi cách, phải đến bờ: Dù chẳng hay ho, thì cũng phải húng hắng được một vài.
Khi chúng tôi ra đến bến cũ, trong biệt khu Hải Quân, đã 11 giờ 30, mặt trời gần đứng bóng. Chiếc hải thuyền vẫn đậu bến xưa một mình trong chỗ hẻo lánh của Biệt khu.
Ngay từ còn xa, thoáng thấy xe Phan và tôi đến, dưới thuyền đã lố nhố mấy anh thủy thủ quen mặt, quần áo nâu sồng, nét mặt người nào cũng tươi tỉnh như khung trời Đà Nẵng. Khi xe ngừng hẳn, một anh đã quen như lần trước, vội chạy lên bờ, xách chiếc ba lô và vật dụng của tôi xuống. Chỉ mới một lần cùng chia xẻ hiểm nguy mà tình thân thương đồng đội đã nhanh chóng nẩy mầm giữa tôi và các anh các bác. Những chiếc bắt tay nồng hậu, những ánh mắt long lanh gần gũi như ruột thịt anh em! Bến cũ người xưa, công việc làm lại.
Nhớ lại ban sáng, khi tôi đưa bản quy ước đón tôi (Cục và Phan muốn chính tôi viết, tôi sẽ nhớ lâu. Cục sẽ giữ bản viết này), tôi đã khẳng quyết vào ba đêm: 22, 23, và 24 của tháng Sáu. Mỗi đêm hai tiếng, từ 1 giờ đến 3 giờ sáng. Đổ bộ ở điểm nào, sẽ đón ở điểm ấy. Phải phòng hờ ba đêm để dự trù trước những trục trặc trở ngại về phía tôi là chính. Có thể nhỡ xe, nhỡ tầu, trốn chạy, v.v… nghĩa là trăm nghìn thứ chưa thể biết trước. Theo quy định, cứ từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, trong ba đêm ước định, tôi sẽ dùng chiếc máy con hồng ngoại tuyến, hình dạng giống như cái ống nhòm hai ống kính, chạy bằng pin, dùng máy ngày nhìn ra biển. Chiếc máy cứ 30 giây, nháy sáng lên một lần, ánh sáng màu hồng xanh. Tia sáng máy này thật nhỏ, thậm chí trong đêm tối, nếu có người chỉ đứng cách xa 10 mét cũng không thấy gì. Thuyền ở ngoài khơi, cách xa hàng chục cây số, trong đêm tối, cũng dùng loại máy này nhìn vào bờ, sẽ nhìn thấy điểm sáng loé lên xanh như làn chớp, từ đó, thuyền theo điểm nháy sáng mà vào. Tôi có cảm tưởng, chúng tôi như những cô nàng và những anh chàng đom đóm bật tín hiệu để tìm nhau trong đêm khuya. Chỉ có khác là khoảng cách quá gần và quá xa.
Tôi đang bần thần nghĩ ngợi, đưa mắt nhìn những người thủy thủ đang mỗi người một việc chuẩn bị cho con thuyền sắp rời bến. Ông Phan đứng nói chuyện với ông già thuyền trưởng quay lại khẽ đập lên vai tôi, cười:
- Làm gì mà mặt thần ra thế?
Tôi quay lại, cũng cười, nói với Phan mà cũng như nói với ông già:
- Tôi linh cảm thấy chuyến này đi dứt khoát, phải đến bờ.
Cả hai, ông già và Phan, cùng cười. Rồi không ai bảo ai, đều ngửng lên nhìn trời, đầu hơi gật như thừa nhận lời tôi nói là có giá trị. Chẳng hiểu vì quên hay cố ý, lần này Phan lên bờ không bắt tay tôi, chỉ đứng giơ tay vẫy vẫy, khi con thuyền từ từ quay mũi rời bến.
Tâm lý của con người thật cũng lạ! Mới khi ra đây, tôi thấy lòng thanh thoát lâng lâng, thế mà lúc con thuyền rời bến, thấy Phan đứng trên bờ với chiếc xe díp. Bóng dáng Phan mặc quần áo trắng nốp, nổi bật giữa mầu xanh của cỏ cây, tôi cảm thấy ngút ngàn xa vời vợi, như hình ảnh của cả miền Nam cũng mất dần, mất dần; nhất là lúc đó một giọng hát trữ tình của một người con gái phát ra từ chiếc radio nào đó của mấy dẫy doanh trại phía mé sông, đang nỉ non réo rắt, trải dài trên sông nước buổi trưa Hè. Tôi không biết bản nhạc này, nhưng không hiểu tại sao, tôi đã nghe bản nhạc đó không bằng tai mà bằng nội tâm, lúc như tha thiết nhắn nhủ, lúc như oán trách giận hờn giống một bài ca tôi thuộc:
“Bến ấy…ngày xưa…người đi…vấn vương…biệt ly…
“Ra đi … bến xưa…ngày ấy…
“Anh như… bóng mây…hồng trôi…
“Về chốn xa vời…lòng nặng…nhớ thương…”
Thuyền đã ra xa. Tiếng hát của chiếc máy phát thanh chỉ còn văng vẳng lẫn vào tiếng máy thuyền. Tự nhiên, mắt tôi nhắm lại, tay tôi bấu chặt vào mui thuyền, rồi như có tiếng hát khác âm vang từ đáy lòng, tôi tưởng tai tôi nghe rõ:
“… Quên đi … sầu biệt ly, anh còn … đi theo gió,
“Hát buồn … nữa chi … để nhớ … người đi …”
Mặt trời đã xế về hướng Tây, vài con hải âu trắng toát đang chao đảo ngang dọc trên nền trời xanh lơ. Thỉnh thoảng, một con lại bay sà xuống, lướt qua mạn thuyền, chiếc mỏ ngúc ngắc nghiêng ngó, nửa như muốn ngừng đáp xuống, nửa như muốn chào tiễn biệt con thuyền … viễn xứ.
Nhìn về phương Nam mờ mờ chân mây, vài vạt mây màu vàng óng nằm phơi dài trên mặt nước. Không khí chiều Hè trên đại dương vẫn ẩm sệt, hăng hăng, mằn mặn. Bóng chiều của chiếc thuyền ngã dài và nhọn hoắt như một con dao, đang phạt băng băng những ngọn sóng bạc đầu. Gió càng về chiều càng lộng, khiến con thuyền càng nhấp nhô lên xuống. Trong sách vở trước đây, các văn nhân thi sĩ tả cảnh hoàng hôn trên biển cả thật là tuyệt vời. Tôi có ý định sẽ cứ đứng thế này mãi mãi, để chờ cho mặt trời chìm dần và lặn sâu xuống nước, xem thế nào. Nhưng, người tôi đã nôn nao ngất ngư bởi con thuyền rồi, vì vậy, tôi đành bỏ cái dịp ngàn năm một thuở đối với tôi này, để chui vào khoang thuyền nằm bẹp. Lúc tôi đang chuẩn bị cái thế để nằm sao cho đỡ say sóng, thì anh thợ máy, hai tay đen nhẻm dầu mỡ, từ dưới hầm thuyền chui lên. Nhìn chiế lưng và đôi bàn tay đồ sộ của anh, tôi đanh định nở một nụ cười để chào anh “Tạc giăng” dễ mến lần trước. Tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, khi anh quay lại nhìn tôi. Anh có một khuôn mặt trẻ măng với một thân hình lực lưỡng đầy sinh lực. Anh ngập ngừng hơi mất tự nhiên. Một anh thủy thủ đang ngồi dựa một góc khoang đọc sách, có lẽ vừa nãy đã thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, nên dù tôi chưa hỏi, anh đã hất hàm về phía anh thợ máy, giọng Nghệ An nghe như hát:
- Anh lần trước, vì có chuyện gia đình, nên không đi, đây là em trai anh ấy.
Thảo nào! Như cùng đúc trong một chiếc khuôn, không những giống nhau về cơ thể mà lại còn cả về nét chất phác hiền lành. Tôi mỉm cười và gật đầu chào, như muốn trao anh niềm cảm mến. Tôi muốn nói chuyện với anh nhiều, nhưng một con sóng giật chiếc thuyền làm tôi đổ nằm xuống. Tôi đành nằm bẹp luôn! Một đêm rồi lại một ngày nữa trôi qua, tôi vẫn rã rượi nằm yên trong khoang, vừa say sóng vừa không ăn gì, tôi chỉ uống được hai ly sữa. Tôi chỉ nhớ mơ hồ vào lúc buổi trưa hôm nay, tuy thuyền đi trên mặt biển chỉ có trời với nước mênh mông, thế mà không khí oi nồng, mồ hôi của tôi ra ướt cả quần áo làm người tôi càng bứt rứt khó chịu.
Những tiếng hò hét quát tháo làm tôi tỉnh hẳn người ra, tôi bò giật dậy, định cố bò ra xem có chuyện gì, nhưng người tôi lảo đảo, hoa mày chóng mặt. Một anh thủy thủ thấy tôi như vậy nên nhanh chân lại đỡ. Tôi vịn tay anh, hỏi giật giọng:
- Chuyện gì thế?
- Có một chiếc thuyền lạ cùng đi hướng mình, nhưng cách xa từ phía trong bờ, nó bám mình hơn hai tiếng đồng hồ rồi!
Để sáng tỏ thêm tôi hỏi tiếp:
- Mắt thường có nhìn thấy không?
- Nhìn kỹ thì chỉ thấy một điểm trắng xám lẫn vào trong sóng, nhưng nhìn bằng ống nhòm, thì rõ là một chiếc thuyền có vẻ to hơn thuyền mình.
- Vừa rồi ông thuyền trưởng hò hét cái gì thế?
Anh thủy thủ nhìn tôi một lúc, rồi dè dặt:
- Anh thợ máy muốn quay mũi thuyền chạy tránh ra khơi nhưng ông già quyết định vẫn thẳng tiến!
Nghe qua sự việc, nếu tôi không mệt mỏi, chóng mặt, tôi phải quan sát cụ thể, rồi có ý kiến. Nhưng, phần vì quá mệt nhọc (ngay từ hôm trước, những khi lịm thiếp đi không kể, lúc nào tỉnh dậy, nôn oẹ mật xanh, mật vàng. Tôi chỉ mong làm sao cho chóng tới điểm đổ bộ, để tôi lên bờ, dù là nguy hiểm. Chứ cứ dập dềnh với sóng gió suốt ngày đêm như thế này, tôi còn thấy sợ hơn.) Phần khác, thấy hiện tình chưa quan trọng lắm, nên tôi nằm vật ra sàn. Tuy vậy, vì sự sống còn, tôi nằm mà bao tâm trí vẫn tập trung nghe ngóng, theo dõi thái độ của ông già thuyền trưởng và các anh thủy thủ.
Mãi đến gần 1 giờ, vẫn chẳng thấy động tĩnh gì khác. Tiếng máy thuyền vẫn bành bạch nổ rền lẫn vào tiếng ì ào của sóng biển. Để cho yên tâm khỏi khắc khoải nghe ngóng, tôi cố chống tay bò dậy, ra hiệu cho một anh thủy thủ đang ngồi gần đấy, anh tưởng tôi muốn ăn, nên đến hỏi:
- Ông muốn uống sữa?
Tôi lắc đầu, hỏi ngay điều tôi muốn:
- Chiếc thuyền lạ bây giờ ra sao?
Anh sáng mắt lên, nói gọn lỏn:
- Nó biến vào bờ rồi.
Chỉ vì lòng thấp thỏm về chiếc thuyền lạ, nên tôi mới nhỏm dậy hỏi, nghe anh nói xong như vậy, tôi lại vật ra nằm. Trời tối đã lâu, lúc này đã chín giờ, tôi vẫn vẩn vơ nghĩ lại chuyện buổi trưa. Tuy nằm mà người cứ lắc lư, nhấp nhổm như đưa võng. Kể cũng lạ, tôi rất khoái cưỡi ngữa phi nước kiệu, mà lại không nằm võng được. Tôi nghĩ có lẽ khi xưa bố mẹ đẻ ra và lúc nhỏ đã không cho tôi nằm võng chăng?
Tiếng máy vẫn đều như một bản nhạc đơn điệu đưa dần tôi vào giấc ngủ mê man vì mệt mỏi. Mãi cho đến khi có ai lay chân, tôi choàng dậy. Ông thuyền trưởng già, vẻ mặt khẩn trương, thì thào:
- Dậy đi, ông cán bộ, đã đến nơi rồi, chuẩn bị để vào bờ!
Tôi tỉnh hẳn ra, trời vẫn còn xám xịt, mịt mờ. Con thuyền vẫn nhấp nhô, tiếng sóng đập vào mạn thuyền bành bạch chắc nịch. Phía ngoài mũi thuyền, 4, 5 anh thủy thủ đang lúi húi người bơm chiếc xuồng cao su, người nắp máy nổ. Tôi hiểu giờ phút nghiêm trọng đã đến. Tôi muốn đứng dậy chui ra ngoài, mà người lảo đảo xiêu vẹo. Bác già đã đỡ cho tôi, trong khi cả hai anh thợ máy và 4 anh thủy thủ đang hạ chiếc thuyền cao su xuống nước. Giữa mặt biển bao la, ánh sáng chỉ lờ mờ, không trông rõ mặt người. Thái độ của mọi người đều vội vã, lộ hẳn nét lo âu, căng thẳng.
Ba anh thủy thủ và anh thợ máy đã xuống xuồng cao su. Do sóng lớn, thuyền cao su và hải thuyền cứ nhồi lên thụt xuống ngả nghiêng, nên mọi người phải đỡ tôi và chuyển những vật dụng tôi mang theo đưa xuống xuồng cao su. Người tôi vẫn mệt lả, đến nỗi trong lúc đỡ tôi xuống xuồng cao su, bác thuyền trưởng già và anh thủy thủ còn lại trên hải thuyền đã nắm chặt tay tôi thầm thì: “Chúa phù hộ cho anh,” mà tôi không trả lời đáp lại ân tình của họ.
Xuồng cao su đang tiến dần vào bờ. Tiếng máy ro ro rất nhỏ, lẫn vào tiếng sóng, dù ở cách mươi mét cũng không nghe thấy, nhưng có sức đẩy thật mạnh. Chiếc thuyền vẫn lướt sóng tiến dần vào đất liền. Do giờ phút quyết định đã đến, và cũng do nước biển bắn vào mặt tôi, tôi tỉnh hẳn lại, không còn thấy mệt như trên hải thuyền. Tôi muốn biết khoảng cách đến bờ còn bao xa, nên quay lại hỏi một anh ngồi cạnh. Các anh đều khoắng tay rối rít ra hiệu đừng lên tiếng, rồi một anh nghé vào tai tôi thì thầm:
- Hải thuyền xa bờ khoảng 5 cây số.
Tôi nhìn cả 4 anh, chẳng rõ mặt người nào. Tôi chỉ biết anh thợ máy, qua dáng dấp to lớn của anh đang cầm lái. Mặt nước lấp lánh như có trăm ngàn con đom đóm đang đùa bỡn trong những ngọn sóng bạc đầu, lung linh như hàng ngàn những đóa kim cương khổng lồ.
Nhìn về phía bờ xa xa chỉ một mầu đen kịt, tôi tự hỏi trong chỗ đen tối mịt mùng ấy, cái gì đang chờ tôi? Trăm ngàn cái chưa thể biết, ai trả lời được? Tôi cúi nhìn đồng hồ, 01 giờ 15 phút. Quả các anh là những người đi biển đêm có kinh nghiệm. Trước mắt, tôi vẫn thấy chỉ là một mầu đen bao la, thế mà các anh đã tắt máy, rồi hai anh một bên, dùng bốn mái chèo con, nhẹ nhàng đều nhịp đẩy chiếc xuồng đi. Chừng 10 phút, tôi đã thấy mờ mờ phía trước một vệt trắng to, thuyển đã vào bãi cát.
Hai anh đã lội xuống nước. Tôi một tay xách vội chiếc ba lô nặng trĩu vật dụng, một tay xách đôi dép râu. Nhanh nhẹn, một anh phía sau đã đỡ chiếc ba lô cho tôi, còn hai anh phía dưới đã giúp tôi (phải nói, hai anh đã bế tôi đặt hẳn lên chỗ cát khô) để tôi khỏi lội vài mét nước sát bờ. Khi họ giao chiếc ba lô cho tôi xong, bỗng một anh nắm chặt cánh tay tôi, thì thào:
- Anh đi, chúng tôi về!
Rồi các anh vội vàng lên xuồng, quay mũi chèo ra. Mãi lúc tôi định được thần trí, chiếc thuyền cao su chỉ còn mờ mờ phía ngoài đại dương.

15. Vào Đất Địch…

Đã bước chân lên bờ, mà người tôi vẫn còn quay cuồng mệt lả, tôi nằm luôn tại chỗ ngoài bãi cát trắng dăm phút cho lại sức. Bây giờ chỉ còn một mình, tôi nhìn vào phía trong, vẫn đen kịt một mầu, không thấy một hình dáng nhà cửa, cây cối. Tuy người chưa hết rã rượi, nhưng theo cái bản tính tự nhiên của sự sinh tồn, tôi vội vơ chiếc ba lô, tay xách đôi dép râu, chúi đầu tiến vào phía trong, chỗ mầu đen, để ẩn nấp nằm nghỉ. Chứ đây là giữa bải cát trắng lồ lộ, nằm làm sao yên. Chạy được vào chục mét, tôi thấy bãi cát có những khoảng, đốm loang lổ mầu đen. Tôi bước chân lên, thì ra là cỏ! Chẳng biết là thứ cỏ quái quỷ gì mọc trên cát lại toàn là gai, đâm vào chân tôi đau nhói. Vội vàng ngồi xuống, tôi thụt chân vào đôi dép râu, rồi tiếp tục lần mò chạy vào sâu nữa, qua hết bãi cát, đất sỏi càng lúc càng dốc lên. Bỗng, tôi bước hụt chân, cả người lẫn chiếc ba lô nặng chịch đều lộn tùng phèo xuống một hố đầy lá và cành cây khô. Sườn tôi đập vào một hòn đá đau điếng, nhưng vì hốt hoảng, căng thẳng, tôi vẫn thục mạng bò lên khỏi hố. Tôi cứ tưởng chiếc hố là cái bẫy của kẻ thù có gài mìn, nó sắp nổ.
Cứ ôm chiếc ba lô lúi húi xê dịch sâu mãi vào phía trong cho đến một lúc người quá mệt, tôi ngồi thụp xuống, ghé sát mặt đất, căng mắt ra nhìn vào màn đêm đen kịt. Nhìn lên nền trời xam xám, bóng mờ mờ của một cây to trước mặt. Tôi lầm lũi tiến về chiếc cây. Tôi đã tỉnh dần, nhìn đồng hồ đã hai giờ hơn. Trời vẫn tối như mực, giơ bàn tay trước mặt không nhìn thấy. Tôi chỉ còn dùng tai, vểnh lên nghe ngóng. Chỉ nghe những tiếng xào xạc của lá cây lẫn vào tiếng rì rào của sóng biển xa xa.
Dựa gốc cây mươi phút đã đỡ mệt, tôi lần mò lấy tay sờ soạng mặt đất chung quanh, xác định điạ hình, đào chôn những thứ tôi không cần mang theo. Đất cát nên tương đối mềm. Tôi lần mò lấy chiếc xuổng con trong ba lô. Đã mấy lần thực tập chôn giấu vật dụng trong đêm, tôi hiểu điều quan trọng nhất là không để rơi ra ngoài một hòn đất mới nào. Một chiếc túi to may sẵn, bao nhiêu đất cát đào lên, đều đổ vào đấy.
Trong lúc loay hoay làm việc, tôi nghĩ đến các vỏ bọc trong kế hoạch khai báo khi bị rơi vào tay địch mà Sài Gòn đã huấn luyện cho tôi. Ngay từ khi đó, tôi thấy Cục Tình Báo miền Nam đã đánh giá cộng sản thật ngây thơ. Vỏ bọc 2 và 3 làm sao cộng sản tin được. Sài Gòn không thấy làm như vậy sẽ gặp hai khuyết điểm: thứ nhất, nó sẽ không tin vào một vỏ bọc nào hết. Thứ hai, chắc chắn thân tôi sẽ nhừ đòn của chúng. Cho nên, lúc này tôi quyết định bỏ hẳn vỏ bọc 2 và 3. Tôi đã chôn mấy chục lọ thuốc Tây của vỏ bọc 2, cả lương khô, bi đông lọc nước, chiếc máy hồng ngoại tuyến, 200 đồng tiền miền Bắc, thuốc lá “Đại Tiền Môn”, diêm quẹt. Những thứ này xét ra không thực tế, lại vừa kềnh càng lỉnh kỉnh, vừa càng dễ bị phát hiện. Tôi chỉ mang theo hai trăm đồng với một chiếc túi dết, cùng một số quần áo lót, nghĩa là những thứ đã cũ của miền Bắc. Những tài liệu, đựng trong một cái túi tí con, tôi đã khâu phía bên trong quần lót. Tài liệu này, ngay từ khi rời Đà Nẵng tôi đã luôn mang theo trong mình. Dù vậy, tôi vẫn thỉnh thoảng phải cho tay vào sờ, vì đó là linh hồn của chuyến đi.
Vì đã có kinh nghiệm, nên chỉ hơn một tiếng đồng hồ tôi đã chôn giấu hoàn hảo. Làm xong, đưa tay sờ độ dày của lá khô bên cạnh, tôi xoa chỗ chôn vật dụng cho bằng như cũ.
Nhìn đồng hồ 3 giờ 30 phút, quá hồi hộp, căng thẳng thần kinh trong khi làm việc tôi không để ý, bây giờ tôi mới thấy chỗ sườn đau ê ẩm, nhoi nhói. Tôi sờ tay vào không thấy sưng. Tôi tự nhủ, kệ nó, rồi nó sẽ khỏi. Lúc này, tôi mới thấy đói và thấm mệt. Tôi gối đầu lên túi dết, dự định nằm một tý để lấy sức. Vừa mệt, vừa thiếu ngủ tôi thiếp đi lúc nào không hay. Khi tai tôi thoáng nghe tiếng người gọi nhau í ới, tôi giật mình thức giấc. Bò nhổm dậy, tôi mở to mắt, vểnh tai lên, hướng về có tiếng người khi nãy. Tôi nhìn đồng hồ mới 4 giờ 30. Trời vẫn còn tối đen. Tôi ngạc nhiên, hay là tôi mơ. Tôi vẫn nhớ đinh ninh lời ông Phan nói: “Nơi đây có thể nghỉ ngơi hàng tuần thoải mái,” nghĩa là khu vực này không có người ở. Với khả năng thính giác của mình, tôi tin là đã nghe đúng, vì vậy tôi tiếp tục nghe ngóng. Nhưng chỉ là tiếng gió rì rào lẫn vào tiếng xào xạc của vài chiếc lá khô rời cành.
Mãi chả thấy gì, vẫn cái im lặng của đêm trường. Một tiếng cú ở đâu xa rúc lên trong đêm khuya, nghe dài lê thê như tiếng thở than của những kiếp người nhiều cực nhọc gian khổ. Tôi lại nằm xuống như cũ. Chưa được mười phút, đột nhiên một tiếng cười dòn ngặt nghẽo của một người con gái, lẫn vào trong gió làm tim tôi thắt lại. Tôi nhỏm bật dậy, tiếng một người đàn ông nghe rõ mồn một:
- Để cái liềm đấy cho tui!
Không còn nghi ngờ gì nữa, với phản xạ tự nhiên, tôi vội vơ lấy cái túi dết và lủi dần, xa hướng có tiếng nói.
Trời sáng dần, mờ mờ, tôi đã nhìn ra cảnh vật. Ngay chỗ tôi ngồi là một chỗ nghĩa địa, lưa thưa một số ngôi mả, lác đác chung quanh vài bụi cây nhỏ cành lá khô cằn như thiếu nước, bụi nào cao nhất cũng chỉ chừng 2 mét. Cả một khu vực, chỉ có một cây to duy nhất chỗ đêm qua tôi đã lần mò tới được. Lướt tầm mắt về những phía xa xa, bao quanh phía trong, toàn là những lũy tre làng ngang dọc. Như vậy, ở đây thật gần xóm làng!
6 giờ, xa xa phía làng, một đoàn người trai gái, liềm hái đang đi về phía tôi. Nhìn quanh, chẳng còn chỗ nào kín đáo để ẩn núp. Gần chỗ tôi đang đứng, chỉ có duy nhất một bụi cây nhỏ, đường kính chừng 2 mét và cao cũng khoảng 2 mét là cùng. Cấp bách quá rồi, tôi đành chui vào đấy, trong khi đoàn người vẫn đang đi tới. Con đường mòn đi qua chỉ cách chỗ bụi cây tôi nấp chừng 6 mét. Trong bụi lại có một ổ kiến vàng to tướng, kiến bò vào chân, vào người tôi cắn nóng ran. Tôi chỉ dám lấy hai tay xoa khe khẽ, không dám làm mạnh vì sợ rung cành lá.
Khi đoàn người đi ngang qua bụi cây, tôi tường như nghẹn thở. Nếu có ai đó buồn đi tiểu, rẽ vào bụi cây này, ôi thôi, cuộc đời tôi sẽ… đi đứt! Điều làm tôi hoang mang không ít nữa là họ nói tiếng ríu rít như chim, nhiều tiếng tôi không hiểu được. Tiếng Nghệ An tôi đã biết; ở đây, không phải tiếng đó. Như vậy, đây chỉ có thể là Hà Tĩnh. Thực ra, tôi cũng chỉ suy đoán chứ chưa dám khẳng quyết, vì Phan đã nói rõ ràng:
“Chỗ Bình đổ bộ thuộc tỉnh Nghệ An giáp với Hà Tĩnh. Đây là vùng quê hương của họ, họ là thổ công của vùng này. Bình hãy yên tâm!”
Còn một điều nữa, một phần do tinh thần tắc trách của Phan, nhưng phần chính là do tôi. Do tinh thần chủ quan xem thường địch. Tự tin vào khả năng của mình sẽ qua mặt chúng được, cho nên tôi đã không hỏi vùng tôi đến là làng nào, xã nào, huyện nào khi quyết định thay đổi điểm đổ bộ khác. Đó là một khuyết điểm trầm trọng của tôi, người đi vào đất địch để hoạt động.
Nhưng qua thực tế, dù tôi có hỏi kỹ để biết rõ chăng nữa, tôi vẫn bị tình trạng hoang mang như lúc này. Nghĩa là, tôi cảm thấy hải thuyền đã không đưa tôi đến đúng chỗ quy định, mà Phan đã giao ước với họ. Ngồi trong bụi cây, càng suy nghĩ mặt tôi càng nóng lên. Như thế này, thật là đầy cam go, gay cấn: Một người trai Bắc lạ, ở giữa một vùng mà chưa biết đích xác thuộc tỉnh nào, chứ đừng nói làng xóm địa phương.
Lúc này, đoàn người đã xuống ngay một thửa ruộng cách chỗ tôi nấp chừng 200 mét để gặt lúa. Họ cười nói, chuyện trò ầm ĩ. 7 giờ, rồi 8 giờ. Mặt trời chói chang, đỏ như lửa đang bò lên cao từ hướng Đông. Đến đây, tôi mới nhớ lại chiếc mũ cối, vì vội vàng, lại rũ rượi vì say sóng, tôi đã để quên trên hải thuyền. Thật là lúng túng nhiều mặt. Ở trong bụi mãi đâu có được. Trời nắng, khi họ nghỉ gặt, giải lao, họ sẽ kéo vào nơi bóng mát nghỉ ngơi. Tôi bấn cả người lên, ngó ngấp chung quanh. Giá có cách gì bới đất để chui xuống! Phần bị kiến cắn nhiều, lại còn sợ hãi, nên căng thẳng làm tôi tê người đi.
Nhìn lại phía cây to, chỗ tôi chôn giấu vật dụng, cách bụi cây tôi đang nấp chừng 30 mét. Do đêm tối sờ soạng, tôi đã để rơi mấy hòn đất ra ngoài, mà tôi không biết. Hơn nữa, lá phủ ngụy trang chỗ chôn cũng chưa ổn như mình nghĩ. Người tinh ý nhìn thấy, sẽ tò mò, phát hiện ra ngay. Làm sao đây? Đây cũng là chuyện sống chết, tôi phải tìm mọi cách để giải quyết. Tôi lựa một góc khuất do bụi cây che với nơi ruộng của đoàn người đang gặt. Tôi bỏ túi dết lại trong bụi, nằm sấp, bò về phía cây to.
Tôi nhặt những hòn đất vương vãi đút dần vào túi quần, xáo lại những chỗ lá khô cho đồng nhất, rồi tôi bò về bụi, móc những hòn đất bỏ ra.
9 giờ rồi. Mồ hôi tôi ra ướt đẫm áo, vừa vì tinh thần căng thẳng, vừa vì cái nóng oi nồng của mùa Hè. Mới còn sớm mà sao gió thổi từ hướng Tây nồng nực, gió cũng nóng. Lúc này tôi phải quyết định, dù có bị bắt liền tại đây. Muốn hay không tôi cũng phải chui ra ngay khỏi cái bụi cây quỷ quái này. Vì còn một điều gay cấn nữa, khi sớm, vì sợ và vì bị kiến cắn, tôi không để ý. Bây giờ, trời sáng rõ tôi mới thấy trên đầu và chung quanh tôi, toàn là sâu róm! Trong cuộc đời tôi, không hiểu sao loại này tôi ghê sợ nhất. Tôi chẳng biết sợ thứ gì, dù trong rừng gặp hổ hay rắn. Ngay khi còn đi học ở Sài Gòn, có lần tôi đã trèo vào chuồng cá sấu để sờ da nó. Một vài người bạn thân chẳng có thể làm gì được để bắt tôi phải chiều theo ý họ, trừ khi họ có con sâu róm. Chính tên Đặng Trí Hoàn đã cầm một cành điệp có con sâu róm, đuổi tôi chạy dọc suốt mấy phố chung quanh trại học sinh, để xẩy ra một tai nạn giữa hai người đi xe đạp, trên đường phố, đầu năm 1957.
Nghĩ lại lúc ngồi trong bụi cây, bây giờ tôi còn nổi gai ốc lên. Sau này, lúc cộng sản khai thác cung, nếu chúng biết được nhược điểm ấy của tôi, cứ đưa sâu róm dí vào người, không biết lúc ấy tôi sẽ như thế nào. Tôi chui ra khỏi bụi cây ngay! Tay vuốt lại quần áo ngay ngắn, khăn mặt vắt vai, một bên khoác túi dết, tôi đường hoàng đi ra.
Tôi đã có chủ định, cứ phải vào làng. Hiện giờ, tôi chưa xác định được Quốc lộ 1 nằm về hướng nào phía bên trong. Tôi đưa mắt nhìn khắp phía xa xa, trong cái màu xanh bạt ngày của cây và núi, tôi cố chú ý, cũng chẳng thấy vật gì di chuyển. Lúc đó khoảng 9 giờ 30 sáng. Nhìn về phía đoàn người đang gặt, tôi tươi mặt, vừa cười, vừa giơ tay ra hiệu chào và tiến về phía họ. Vài cô gái tự nhiên cười ré lên, tay vẫy vẫy gọi:
- Anh ơi! Đi đâu đấy, xuống đây gặt lúa với chúng em!
Một số thanh niên cũng cười. Tôi cứ tiến bước về phía họ, rồi tay khoắng lên lia lịa, nói to:
- Chào các bạn, vui quá, lúa năm nay có khá không?
Tôi đi đến nữa chừng, rồi vờ chợt xem đồng hồ tay, tôi ngửng lên, tay chỉ về phía làng:
- Chết đã 9 rưỡi rồi, tôi phải vào gặp ông chủ tịch đã!
Mồm nói, chân tôi quay lại phía làng, vừa đi tới vừa ngoái lại, đưa tay vẫy vẫy:
- Chiều nhé, tôi còn ở lại đây đến chiều!
Các cô rối rít léo nhéo, vẫy gọi tôi. Đi dăm chục mét, tôi quay lại cũng vẫy, mấy chiếc bàn tay giữa ruộng cứ giơ mãi lên vẫy tôi. Đã đi xa, qua được “ca” này, tôi cũng thêm phấn chấn tinh thần. Làm sao họ có thể biết được rằng, tôi vừa ngoài biển vào đây đêm vừa qua. Từ nơi bụi cây, dẫn vào làng là một con đường đất đỏ, dài chừng độ 700 mét. Trời nắng chang chang, đầu lại không mang mũ nón, thật là bất tiện. Trên đường đi tới, sẽ càng khó khăn thêm ra.
Vào tới gần làng, tôi thấy trước một chiếc cổng tre là một người đàn ông cởi trần, mặc chiếc quần đùi đen, khoảng năm chục tuổi, ngồi ngay xuống vệ cỏ. Tay ông ta cầm chiếc roi tre, đập đập vào cây khoai nước dưới ruộng như đùa nghịch chơi một mình. Ngay từ xa còn cách khoảng 200 mét, tôi đã thấy lão nhìn phía tôi rồi, thế mà giờ đây tôi đi gần đến, lão vẫn coi như không biết. Thái độ của lão già làm tôi hơi chờn. Theo lẽ thông thường, trong một xóm làng vắng vẻ, thấy một người lạ đi đến, phải trố mắt ra nhìn mãi mới phải. Khi tôi tới, còn độ 2, 3 mét, tôi phải lên tiếng trước xem sao:
- Chào bác, bác ngồi chơi? Cháu vừa ngồi ngoài đó! (tay tôi chỉ về hướng đoàn người đang gặt phía xa) nói chuyện với các anh chị vui quá. Ở ngoài đó cháu mới uống nước đấy, thế mà vào tới đây đã khát rồi. Cháu vào xin bác ngụm nước nhé?
Miệng tôi nói, chân như có vẻ định đi vào cổng. Tôi đã thấy một căn nhà tranh con lụp xụp, với vại nước để bên cạnh chiếc cầu ao bằng 3 thân tre ghép lại. Tôi chào và nói bấy nhiêu lời, mà lão chẳng trả lời tôi một tiếng. Lão ngước nhìn tôi, rồi đứng dậy đi về phía trong làng, nói mấy tiếng cộc lốc:
- Uống nước thì đi theo tui!
Tôi đã tưởng lão câm, bây giờ lão mới nói. Vậy, từ nãy giờ lão là con người tôi đáng sợ. Lão cứ im lặng đi trước, tay vẫn cầm cái roi tre vung vẩy. Tôi phải phá tan cái không khí nặng nề này:
- Vụ mùa năm nay có khá hơn năm ngoái không bác? Năm ngoái cháu về, chỉ thấy tương đối thôi, bác nhỉ?
Im lặng một lúc, rồi lão trả lời tôi, giọng nhát gừng:
- Cũng khá!
Thật khó bắt chuyện! Thôi cứ đành đi theo lão, rồi sẽ tùy cơ ứng biến. Mà lão dẫn đi uống nước xa thế! Mãi gần giữa làng. Tới nơi, tôi nhìn thấy một sân gạch rất rộng, trên đó mấy người đang gò lưng kéo con lăn lúa bằng đá. Mấy đống khoai lang to tướng bên cạnh sân. Mấy thanh niên nam nữ đang chọn khoai từ đống này sang đống kia. Tôi hiểu ngay, thằng cha già này dẫn tôi vào chỗ chết.
Tôi bỏ lão, sà ngay vào chỗ đống khoai to. Tôi trầm trồ khen những củ khoai lớn và hỏi chuyện mấy người thanh niên đó. Tuy tôi nói chuyện, mắt vẫn không rời lão già chó chết. Lão đi vào căn nhà con phía bên kia sân, trong đó, tôi thấy mấy thanh niên mặc quần áo nâu, mấy khẩu CKC dựng ở mé vách. Tôi đoán là du kích! Lão già ghé tai một người nói gì đó, và người này nhìn về phía tôi. Phải chủ động, tôi chào mấy người nhặt khoai, rồi đi về phía nhà du kích. Lão già mắc dịch trở ra đường cũ, về ngay. Khi đi qua sân lúa, tôi cúi xuống nhặt một bông lúa lên nhấm. Tôi biết mấy tên du kích đang theo dõi, không bỏ sót một hành động nào của tôi. Tôi vẫn đủng đỉnh ở giữa sân, toi còn nói như đùa với mấy người kéo lúa:
- Như thế này là đốt giai đoạn đấy!
Tôi và mấy ngưòi ấy cùng cười vang. Tôi vừa đi vào nhà, vừa gật đầu chào mấy anh du kích. Thấy thái độ tự nhiên của tôi, một anh có vẻ là chỉ huy, cầm cái tích sứt vôi, rót vào một trong 3 cái chén mẻ, cáu ghét đen xì, đang để lỏng chỏng trên chiếc bàn mộc bám đầy bụi đất. Anh vừa cười vừa nói:
- Mời đồng chí uống nước!
Tôi cầm chén nước và xách luôn cả tích nữa. Uống hết, tôi rót tiếp, miệng như nói một mình:
“Tại anh Đạt đây! Hôm qua, tôi đã bảo tôi không uống được nữa, anh cứ cố ép, làm từ sáng đến giờ uống bao nhiêu nước. Còn ngủ nhỡ giờ nữa chứ!”
Anh du kích chỉ huy (trong 3 người, tôi chỉ thấy anh ta nói, nên đoán vậy) chừng độ 25 tuổi, nhìn tôi có vẻ hơi ngập ngừng:
- Thế này không phải, đề nghị đồng chí cho chúng tôi xem giấy tờ?
Tôi tươi nét mặt, nhìn anh, tay cho vào túi sau rút ví, miệng nói:
- Hoan nghênh tinh thần cảnh giác cao của các đồng chí!
Tôi mở ví, rút tờ giấy thông hành, nhưng cố ý dềnh dàng cho họ xem thấy bìa giấy nghĩa vụ quân sự, và một số giấy tờ khác. Anh ta cầm xem, tôi coi như không để ý, chỉ tay ra sân nói với hai anh kia:
- Năm nay, vùng mình khá hơn năm ngoái nhiều!
Trong khi đó, tôi thấy thái độ của anh xem giấy tờ có vẻ ngần ngừ. Thực ra, lúc này ruột tôi cũng đang co thắt lại, chả biết giấy tờ có chính xác không, và tình huống này sẽ dẫn tới đâu. Tuy vẫn nhìn ra sân, nhưng tôi không bỏ sót một cử chỉ nào của họ. Tôi thấy anh đó nói nhỏ gì với một anh du kích khác, hình như có nói đến xã trưởng, rồi anh kia nói không có nhà. Sau đó lại nói đến cơ quan, lại nghe hôm nay Chủ Nhật, rồi tôi chỉ nghe thoáng thấy tiếng “Phong”. Lúc tôi quay lại, anh du kích chỉ huy cầm giấy, mỉm cười nói với tôi, có vẻ ngài ngại:
- Tôi đề nghị anh (bây giờ y gọi tôi là anh, vì giấy tờ là học sinh) theo anh này lên gặp ông chủ tịch.
Tôi sáng mắt lên, vẻ ngạc nhiên, nói:
- Có phải lên nhà ông Phong phải không?
Anh đó mở mắt to nhìn tôi, rồi gật đầu. Tôi quay lại, vừa kéo tay anh du kích sẽ dẫn tôi đi, vừa nói to:
- Hay quá! Tôi cũng đang định đến nhà ông ấy đây. Vậy thôi, nào ta đi!
Thái độ này của tôi đã làm không khí cởi mở hơn. Anh du kích cầm giấy tờ đi trước, không mang súng. Tôi thấy tình hình không căng lắm.Trên đường đi, tôi tìm mọi cách để kể chuyện trò vui vẻ với anh du kích. Chủ đích trong lòng, tôi chỉ muốn hỏi anh ta đây là làng gì, xã gì, huyện hay tỉnh gì mà thấy điều kiện không thể cho phép. Đã nhiều lần lên tiếng ngập ngừng lên đến cổ họng, rồi lại đành kìm nuốt xuống, chỉ sợ hở cái đuôi ra thì nguy. Đường trong làng vắng vẻ quạnh hiu, lác đác đây đó vài mái nhà tranh trông lụp xụp tiêu điều lẫn vào lũy tre, nghe thật vắng lặng hiu hắt. Trái ngược với trái tim tôi, đang đập thùm thụp như trống làng vào đám.
Tới gần một chiếc ngõ có cổng gạch, anh du kích rẽ vào, tôi biết ngay là nhà tên chủ tịch (không biết là huyện hay xã). Nhìn vào trong, tôi thấy một cái sân gạch, một bà cụ mặc váy nâu, đang khòm lưng hý hoáy cầm chiếc chổi quét ở góc sân. Hai căn nhà làm nối vào nhau thành hình thước thợ, tuy cũng là nhà tranh nhưng rất khang trang sạch sẽ so với những nhà khác trong làng, vỉa hè bó gạch. Khi vào tới sân, một con chó mực con bé tí từ trong nhà bếp ra hè, đứng ngửng đầu lên sủa húng hắng. Bà cụ vừa ngửng lên, mắt hấp háy nhìn chúng tôi, mồm vừa xùy chó. Tôi sà đến chỗ bà cụ, để một tay lên vai cụ, rồi niềm nở:
- Thưa cụ, cụ còn nhớ cháu không ạ, cụ dạo này có được khoẻ không?
Tôi nói to cho tên du kích cũng nghe thấy. Bà cụ đưa đôi mắt kèm nhèm nhìn tôi ngập ngừng:
- Không dám, chào anh, anh đến chơi!
Trong khi đó, mắt và tâm trí tôi còn đang bám sát từng thái độ, cử chỉ của tên du kích. Đó mới là chính, thái độ của y ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mạng của tôi. Tên du kích bước lên nhà trên, rồi đi vào trong buồng. Tôi hỏi bà cụ:
- Ông Phong còn ngủ à cụ?
Bà cụ nói chậm rãi, một cách mệt nhọc:
- Nó, hôm qua đi họp mãi khuya mới về!
Tôi bỏ bà cụ, lên ngay nhà trên để tranh thủ thời cơ. Khi tôi bước vào nhà, thấy tên du kích đang kéo cái điếu bát định hút thuốc. Tôi chưa từng bao giờ hút thuốc lào trước đây, nhưng bây giờ, để tạo không khí chan hòa quen thuộc, tôi cũng sà đến, vê một điếu và hỏi:
- Ông Phong hãy còn ngủ kia à?
Y đã ngậm miệng vào chiếc se điếu, tay đang bật lửa, nên y chỉ gật đầu. Khi y hút xong, thì một người khoảng 35 tuổi, mặc quần đùi màu xám bộ đội đã bạc, đi chân đất, áo sơ mi cháo lòng, da cũng trắng mai mái (chứng tỏ ít ra nắng) đang ở trong buồng bước ra. Mắt còn ngái ngủ, tay đang cầm tấm giấy thông hành của tôi. Tôi quay lại, mặt tươi lên, lớn tiếng:
- Anh Phong, chà bây giờ còn ngủ kia à? Hôm qua tôi ghé xuống Đạt, uống say quá, bây giờ mới ra đây!
Phong như tỉnh hẳn, mở to mắt nhìn tôi, rồi anh ngập ngừng, ngọ nguậy rồi toét thành nụ cười, giơ tay bắt tay tôi. Ánh mắt anh ta thoáng chút ngỡ ngàng. Chắc anh đang băn khoăn lục óc, chả biết đã gặp anh này ở đâu. Rồi có lẽ đổ tại trí nhớ của mình tồi, mặt anh bình thường trở lại, nói một cách xuề xòa:
- Hôm qua họp khuya quá!
Anh ta để tờ giấy xuống bàn, rồi co hai chân lên, ngồi xổm trên ghế. Tên du kích thấy thái độ của tôi với ông Phong như vậy, nên anh ta chào Phong và tôi trở về sân hợp tác xã. Tay đã cầm điếu thuốc, nên tôi đành kéo cái điếu lại, cố gắng hút. Dù tôi không dám rít mạnh, phải kìm ghê lắm, nếu không thì ho, thế mà cũng say đáo để. Phong kéo điếu, bắt đầu hút. Hết say, mặt tôi xụ hẳn xuống nói như phân trần:
- Đấy, anh xem, trước đây tôi khoẻ như vậy, thế mà gần một năm nay, cứ tự nhiên xây xẩm mặt mày.
Thấy nét mặt y trầm tư, tôi nhẹ giọng vẻ thân mật nói tiếp:
- Anh Phong à, tôi học hành như anh đã biết đấy, rất chăm mà cứ học trước quên sau. Cái bệnh tim chó chết này như vậy. Nhiều lúc tôi không muốn sống nữa.
Phong vẻ cảm động, quay lại nhìn con người phờ phạc mệt mỏi (mấy đêm ngày say sóng, không ăn) của tôi, nói như an ủi:
- Làm gì mà bi quan thế! Có bệnh, khoa học ngày nay tiến bộ chữa, sẽ khỏi.
Tôi cười buồn:
- Thực thế! Mới hôm qua ở bến xe, thấy đông người, tự dưng tôi xây xẩm mặt mày. Nếu không có người đỡ, tôi đã ngất, ngã vỡ đầu rồi. Có cái mũ thì cũng lại để quên trên xe. Anh Chí bí thư đoàn đã giục tôi nhiều lần, thậm chí, chính anh phải xin giấy giới thiệu cho tôi ra Hà Nội chữa bệnh, nhân kỳ hè này.
Phong hút thuốc xong, chả để ý gì đến tấm giấy thông hành để trên bàn. Phong vừa cho chân xuống đất định đứng dậy, vừa nói:
- Này, để tôi gửi tiền mua hộ tôi 3 cục “pin” nhé!
Tôi khẽ đập vào tay y, cười:
- Ồ! Anh lạ! Tôi có tiền đây, để tôi mua về rồi hãy tính. Có cần mua gì nữa không, tôi mua một thể?
Phong nghĩ ngợi một lúc rồi lắc đầu. Tôi chậm rãi nói, như thân tình quen thuộc:
- Lúc về, thế nào tôi chả phải ghé vào đây (nhưng thực ra lúc đó, tôi chưa biết đây là đâu), tôi vừa nói vừa cầm tờ giấy thông hành cho vào ví.
Phong còn tiễn tôi ra hè, bắt tay. Tôi chạy lại chỗ bà cụ, cầm tay bà cụ nói:
- Cụ ơi! Cháu đi đây!
Bà cụ lại ngừng quét, ngửng đôi mắt nhập nhèm:
- Phải, anh đi!
Sau này nhiều lúc nghĩ lại, tôi cũng thấy buồn cười. Phong chờ cái thằng chó chết, mãi chả thấy mua “pin” về. Tôi ra khỏi cổng, thấy con đường trước mặt thì cứ đi, chứ cũng không biết con đường sẽ dẫn đến đâu.
Lúc này đã gần 12 giờ trưa, mặt trời càng chói chang như thiêu đốt. Nóng hừng hực, không một ngọn gió, thế mà lòng tôi mát rượi nhẹ nhàng. Chỉ một chút xíu nữa thôi, thì đời tôi đã tịch ở ngay mảnh đất này, nơi tôi đổ bộ. Cho tới nay, tới lúc tôi đang ngồi viết những giòng nỗi niềm này, tôi cũng vẫn chưa biết rõ ràng đấy là đâu. Trên con đường đất trắng bệch vì lâu ngày không mưa, hai bên toàn là ruộng đã gặt rồi, đất cũng đã khô nứt nẻ. Xa xa ngược chiều, một bà cụ đầu đội bó củi đang đi lại. Giữa cánh đồng vắng buổi trưa, tôi quan sát trước sau chả thấy một bóng người, vì thế khi gặp bà cụ, tôi chào vồn vã:
- Trời ơi! Nắng quá cụ ơi! Các cháu đâu không đi làm cho cụ; mà cụ phải vất vả thế này?
Bà cụ thật già, tội nghiệp! Bà cụ này còn già hơn bà cụ nhà tên chủ tịch. Bà cụ hổn hển nói khi tôi đỡ bó cây thanh hao con khô đã rụng hết lá:
- Chúng nó đi hết rồi. Ngày nào tôi cũng phải vào núi để lấy củi đun bếp.
Thấy bà cụ đã quá già, tôi đánh bạo:
- Cụ ơi, cứ đi thẳng đường này là ra đường cái hở cụ?
Bà cụ quay lại, nhìn về phía xa xa, tay cụ vẩy vẩy:
- Cứ đi một thôi nữa là tới đường cái.
Tôi hỏi tiếp:
- Đường nhựa chứ cụ?
Bà cụ gật đầu. Tôi thấy không nên hỏi thêm nữa, sợ khi bà cụ vào làng, lão Phong hoặc du kích hỏi bà cụ là tên đó hỏi cái gì, bà cụ nói ra thì chết. Tôi phải phòng hờ như vậy, vì chỗ này tuy đã xa làng, nhưng giữa đồng trống, biết đâu chả có những con mắt đang theo dõi. Cẩn tắc vô ưu, không chơi dại! Vì vậy, tôi đỡ bó củi lên đầu cho bà cụ, chào rồi đi lẹ.
Bây giờ tôi mới chú ý, xa xa đã nhìn thấy ô tô chạy. Nhìn trải dài cánh đồng bao la xa tắp, tôi thấy vài người đang đi dưới ruộng khô hướng ra phía đường cái, có người đội cái “rương” mà đỏ cạch. Họ đi tắt qua cánh đồng. Tôi cũng bắt chước họ, xuống ruộng nhắm thẳng phía đường cái, bước tới. Một mình lang thang trên cánh đồng rộng, óc tôi miên man nghĩ ngợi. Tôi nghĩ đến lão Phong chủ tịch. Chắc bây giờ lão đang lục óc xem đã gặp tôi ở đâu! Vậy lão chỉ còn trách cái óc tồi tệ của lão, lão ta đã gặp tôi trong lúc nào đó mà quên rồi. Hội hè họp hành, thiếu gì trường hợp.

16. Đường Ra Hà Nội …

Trời trong xanh, vài vầng mây trắng lờ lững trôi về phương Nam, hình như muốn ngừng lại nói với tôi:
- Chào mừng chú mày, ta sẽ về Nam báo cho mọi người biết, chú mày đã thoát được một “ca” đặc biệt!
Hai con cò trắng từ phía núi bay sà đỗ xuống mảnh ruộng trước mắt. Tôi đưa mắt nhìn đây đó. Thỉnh thoảng giữa ruộng khô cũng có một vũng nước con đục ngầu. Tôi vục tay mò thấy mấy chú cá rô con, dăm mười con tép nhẩy loi choi. Nếu mà nhà gần đây, tôi đi khắp cánh đồng, chắc sẽ được một bữa ê hề tép kho.
Tôi cứ tung tăng, chân nhẩy choi choi nhởn nhơ trên cánh đồng một mình. Gió thoảng mùi nồng nồng của đất, của những gốc rạ còn lại. Lòng tôi thênh thang mở rộng như cánh đồng này. Chân tôi bước đều, đầu tôi lan man nghĩ đến chiếc bi đông và những viên thuốc lọc nước của Harry cho. Tôi chẳng cần! Chôn tại chỗ, đeo theo càng lỉnh kỉnh. Lúc này, tôi đã thấy khát nước thật sự, nhưng tôi vẫn bằng lòng.
Đã gần tới đường cái, đã nhìn rõ dăm ba mái nhà rải rác dọc theo con đường. Thỉnh thoảng một đám bụi mù cuộn tung, đẩy một chiếc xe đi phía trước. Mặt đường nhựa nhưng đầy ổ gà bụi đất. Gần tới đường cái, tôi phải đi vào con đường nho nhỏ sau mấy căn nhà, mới lên đường nhựa. Những căn nhà ở sát mặt đường cũng lụp xụp nghèo nàn, không hơn gì những căn nhà trong làng. Nhiều nhà vắng người, những tấm phên liếp bằng nứa che kín cửa. Những cây cà cây ớt, vài đám rau muống cằn cỗi đầy bụi đường, trong những mảnh vườn con con phía sau nhà, đã nói lên cảnh đời của những người dân địa phương.
Thật may, ngay gần đấy, tôi nhìn thấy cột cây số đầu sơn đỏ, thân trắng, một phía đề “Kỳ Anh 18cs”, một phía đề “Quảng Bình 32cs”. Vậy là Quốc lộ 1 rồi! Như thế, rõ ràng đây là tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đây đến ranh giới Hà Tĩnh-Nghệ An phải hàng 30, 40 cây số nữa. Thế có chết con người ta không chứ! Không biết các anh, các bác vì đêm tối mịt mùng nên lầm chỗ, hay vì sợ quá nên vất đại, bỏ của chạy lấy người, bỏ cái nợ để chạy thoát thân? Chẳng biết các anh các bác nghĩ thế nào. Chính tôi cũng như các anh, các bác, lại còn phải sắp lên bờ một mình nữa, biết bao hiểm nguy đón chờ. Như vậy, phải chăng tôi đi vào chỗ chết như thế này, là việc riêng tư của tôi hay sao?
Thấy một quán nước bên đường, ở đầu làng với một cô bé chừng 11, 12 tuổi, mắt toét bán hàng và mấy bác nhà quê đặt quang gánh trước chõng hàng, tôi đường hoàng ghé vào. Tôi mua một tấm mía và hai quả chuối ăn. Trong bụng mấy ngày không ăn, nên tôi muốn ăn cả chục quả, nghĩa là hết chỗ chuối đang bầy đó, nhưng sợ rằng mọi người để ý, nhất là chiếc biển gỗ con đã sứt nẻ, hàng chữ đỏ quạch treo ngay trên vách, phía chéo trước mặt tôi: “Phòng gian, phòng gián, bảo mật.” Vừa nhai mía, tôi vừa nhìn tấm biển. Bàn chân tôi rung rung, như đang chia sẻ với niềm rạo rực, hân hoan của dạ dầy. Lần đầu tiên tôi mua hàng trên đất Cộng Sản.
Thỉnh thoảng một chiếc xe ô tô chạy qua, đi vào hoặc đi ra thường chạy tuột luôn. Tôi nhớ lại, qua cuộc phỏng vấn anh lái xe ở trại tiếp đón đồng bào vượt tuyến bên Gia Định, tôi đã biết xe không đón khách dọc đường. Vậy nên, giữa đường, nếu anh giơ tay vời, xin đi không đúng là hành động của người dân miền Bắc trong thời gian ấy. Ngoài một vài chiếc đò cũ rích, còn hầu hết là xe GMC hoặc Molotova hay Commanca của bộ đội.
Ăn xong, tôi tiếp tục đi, lúc này đã hai giờ trưa, trời càng nóng dữ. Dọc theo đường không có một bóng cây, chỉ lưa thưa vài bụi cây con hai bên vệ đường, cũng cằn cỗi mốc meo, đầy bụi bặm. Từ mặt đường, hơi nóng hừng hực bốc lên. Tôi đành cuốc bộ, đầu không nón mũ, đi về phía Kỳ Anh. Qua cách lựa lời thăm hỏi, em bé bán hàng đã cho tôi biết, phải về Kỳ Anh nghỉ trọ ở đó, sáng hôm sau mới có xe đi Vinh. Tôi cũng được biết xã này là xã Kỳ Phương. Từ đây về Kỳ Anh còn 18 cây số nữa. Cái nắng thật kinh khủng, tôi tưởng đến khô người đi. Tôi phải lấy chiếc khăn mặt đội lên đầu, rồi cố rảo bước đi dưới cái nắng đốt da đốt thịt. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao gió cũng nóng. Học địa dư và thời tiết ngày xưa, vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Từ tháng 5 đến tháng 8 có những ngọn gió Lào thổi qua dẫy Trường Sơn nóng vô cùng, gió nóng đến độ có thể làm héo lá cây.
Tôi đi được chừng 2 cây số, xa xa có một cây to duy nhất ở bên đường. Chiếc bóng râm đen đen choáng hẳn một gioi đất, đang đong đưa ngúc ngắc trên mặt đường nóng bỏng, như muốn mời gọi kẻ lữ hành dừng chân trên đường dài đầy nắng lửa.
Trong bóng râm, đã có một chị phụ nữ mang đôi quang gánh với hai chiếc thúng không, đang ngồi nghỉ. Trông thoáng chị khoảng hai mươi lăm, ba mươi tuổi. Chiếc khăn vuông đen buộc chặt mớ tóc dài trên đầu, làm cho bộ mặt rám nắng của chị như sạm lại. Tôi kéo chiếc khăn lau mồ hôi mặt, rồi cũng ghé vào bóng mát. Tụt một chiếc dép ra lót đít rồi cũng ngồi nghỉ, cách xa chị chừng 2 mét. Tôi ngồi yên lặng, tay cầm chiếc khăn phe phẩy, mắt đăm đăm dõi nhìn giậu mồng tơi trước ngôi nhà con con phía bên kia đường. Giậu mồng tơi không còn lá, chỉ có vài cái ngọn rụt, cằn lưa thưa, còn toàn là dây đỏ quạch, héo tong teo như sắp chết khát. Tuy không quay lại, nhưng tôi biết chị phụ nữ đang nhìn tôi, rồi chị nói bâng quơ:
- Trời nóng quá!
Lúc này tôi mới quay lại nhìn chị. Bàn tay sạm nắng đưa lên nhẹ vuốt mấy sợi tóc mai, môi chị ngập ngừng hơi mỉm cười như chào làm quen một người lạ. Thấy vậy, tôi cũng cười, rồi cũng nói không có chủ từ:
- Nóng đến khô người đi!
Chỉ có hai người, trời nóng, đường vắng, có lẽ thấy tôi có vẻ cởi mở, nên chị nhìn tôi rụt rè nói tiếp:
- Cuộc đời cực nhọc vất vả quá!
Tôi hơi ngạc nhiên, đăm đăm nhìn chị. Chị cúi xuống một lúc, nghiêng người với chiếc khăn con mầu đất, vắt ở đầu quang gánh lau mồ hôi, rồi lại ngửng lên nhìn tôi, dè dặt thăm dò:
- Chẳng biết đến bao giờ dân mình mới đỡ khổ? Bao nhiêu thóc lúa trồng lên cứ phải nhập kho nhà nước hết; còn dân ăn khổ quá!
Câu chuyện và điều kiện đã dồn tôi vào phải đóng vai một cán bộ để giải thích:
- Bây giờ dân mình cực, vì đang giai đoạn thắt lưng buộc cụng để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mọi người hãy tạm chịu khổ.
Tuy chị nghe tôi nói như thế, mặt chị vẫn còn đầy vẻ băn khoăn. Im lặng một lúc, rồi chị hỏi tiếp:
- Thế lúa gạo đem đi đâu?
Đã trót thì trét luôn, tôi ra vẻ hơi ngạc nhiên, trả lời:
- Ô hay, mình làm gì đã chế được máy móc, vì thế, mình phải đem gạo đi đổi lấy máy móc chứ. Hơn nữa, vì nghĩa vụ quốc tế, ta còn phải có trách nhiệm giúp đỡ nhân dân những nước bạn nữa!
Giữa lúc đó, từ phía Quảng Bình, một anh đang cọc cạch đạp chiếc xe đạp đi tới. Sau xe, đèo một số lủng củng những đồ phụ tùng xe đạp đã cũ rỉ. Dáng bộ anh. Từ nét mặt tới cử chỉ, không thể là một tên Cộng Sản. Tuy thế tôi vẫn ngồi yên, mắt lơ đãng nhìn xa xa phía chân trời. Anh đỗ xe, lục đục mãi mới dựng được, vì chiếc chân xe đã quá già. Anh lật chiếc mũ lưỡi trai trên đầu, đen nhẻm đầy dầu mỡ, chắc cũng cùng tuổi đời với chiếc xe. Anh vừa đi vào bóng râm, giữa chị phụ nữ và tôi, vừa quạt lia lịa tìm một chỗ ngồi, mồm kêu “nóng quá!”. Giọng anh trọ trẹ, tôi khó xác định. Chị phụ nữ lên tiếng:
- Anh ở Quãng Bình ra hỉ?
Anh gật đầu và nói:
- Tôi về Vinh.
Thấy thế, tôi hỏi ngay:
- Anh sẽ đạp xe về Vinh?
Anh cũng chẳng nhìn tôi, mắt anh vẫn để vào chiếc xe đạp màu sơn đã loang lở, chỉ còn một chiếc thắng, đầy bụi đất. Anh vừa lắc đầu vừa nói:
- Tôi đến Kỳ Anh nghỉ, sáng mai mới đi xe đò về Vinh.
Tôi hơi mừng, vì đã có bạn đồng hành, tôi vội vàng đon đả:
- Tôi về Hà Nội chữa bệnh đây, tôi cũng sẽ đi qua Vinh.
Một lúc sau, chị phụ nữ đứng dậy, quay lại mỉm cười gật đầu chào anh đi xe đạp và tôi, rồi rảo bước trên đường. Tôi trông theo mãi chiếc quanh gánh, nhấp nhô một quãng thật xa, rồi rẽ vào một con đường nhỏ phía bên kia quốc lộ, Sau đó, anh đi xe đạp cũng đứng lên, quay lại nói với tôi:
- Tôi đi trước nhé! Có khi về Kỳ Anh sẽ gặp.
Quen như xe đạp ở miền Nam, tôi định nhờ anh đèo, hoặc tôi sẽ đèo anh cùng đi. Nhưng khi nhìn lại chiếc xe đạp anh dẫn ra đường, tôi có cảm tưởng chính nó cũng đã phải lặc lè mang một mình anh, nên tôi kìm lại, chỉ tươi cười:
- Ừ! Có thể chúng mình gặp lại nhau ở Kỳ Anh thì vui!
Anh gò lưng đạp chiếc xe lọc cọc trên con đường nóng bỏng, gặp ghềnh như nỗi niềm của người dân sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt của loài người!
Còn lại một mình, đường không một bóng người, tôi chưa muốn đi ngay vì chiếc dép râu cọ vào làm chân đã lột da, đau và xót. Đi giầy đã quen, bây giờ xỏ dép râu, lại phải đi bộ xa nên tôi cứ dùng dằng mãi rồi mới đứng dậy đi. Vừa đi, tôi vừa nhìn cảnh vật nhà cửa hai bên đường. Đất Hà Tĩnh thật nghèo nàn khổ cực. Cây lúa ở ruộng chỉ cao chừng 30 phân, mỗi cây chừng 5, 6 bông nho nhỏ, vì ruộng không những thiếu nước mà còn toàn là cát. Tôi nghĩ rằng, người dân ở đây làm được một bát gạo thi phải đổ một bát mồ hôi. Thế mà, chỉ được hưởng một phần mười của bát gạo đó thôi, do cách quản chế bóc lột tinh quái của Cộng Sản. Tôi cứ đi khoảng 2, 3 cây số, thấy một chiếc bụi bên đường lại chui vào trốn nắng. Suốt hai bên đường, hàng chục cây số không có một cây to nào, toàn những bụi cây khô cằn thấp lè tè. Cái đất kinh khủng, cây và cỏ cũng khó mọc.
Một lần, tôi đang ngả người nằm nghỉ cạnh một bụi cây ở mé đường, mặt đường nắng chói chang, hơi nóng hừng hực từ mặt đường nhựa bốc lên làm tôi lóa cả mắt. Óc tôi đang miên man tính những chặng đường phải đi tới, bỗng nhiên một tiếng “soạt” như ai ném một hòn đá vào một bụi cây ở gần đấy. Tôi ngồi bật dậy, lắng nghe, lướt nhanh mắt toàn bộ chung quanh, vẫn im vắng. Không thể có người nào ở giữa đường trống nóng như thiêu này. Dù vậy, tôi phải biết nguyên nhân của tiếng động vừa rồi. Tôi khẽ trườn sang phía bụi cây có tiếng động. Sau khi quan sát, tôi thò tay bới đám lá rậm. Bỗng vụt! Một con chim màu nâu, to bằng con chim ngói bay ra. Tôi chả biết chim gì, nhưng thấy nó bay không bình thường, tôi lướt nhanh đuổi theo, và vồ được. Nó thở hổn hển, mỏ vãi máu. Tôi sờ khắp người nó, không có một chỗ nào bị thương. Sau, tôi suy đoán, có thể vì trời nóng quá sức, nó không thể bay tới những nơi có nước. Vì vậy, tôi nhường chiếc khăn che đầu, bọc che nắng cho nó và mang theo.
Đi gần hai cây số nữa, tới một chiếc cầu, nhìn xuống dưới cầu, mãi dưới đáy có một dòng nước nhỏ như con suối con. Cả chim và tôi đều cần nước. Tôi mon men tìm cách xuống tới giòng suối. Tôi vừa len lỏi vừa nhìn lên chiếc cầu cao tít trên mặt đường. Có thể mùa mưa, mùa nước, đây là một dòng sông. Tôi xuống rửa mặt, rồi cho cả người và chim uống nước. Đúng là nó bị khát nước quá, nó uống tới đâu, tình dần tới đó. Thế mà chẳng hiểu vì sao nó lại không bay đi. Tôi phải mang nó theo mãi gần tới Kỳ Anh. Mặt trời đã ngã kuất sau dẫy Trường Sơn. Những chòm xóm hai bên đường đã lác đác bóng người ra ngoài. Đến một con đường đầu làng, thấy một em bé chừng 9-10 tuổi, hai chân toàn bùn đất. Tay đang cầm một chiếc thừng dẫn một con trâu gầy bên vệ đường, tôi gọi và giơ con chim ra hiệu, cho em. Em nhìn con chim một lúc rồi lắc đầu không muốn lấy. Tôi hơi lấy làm lạ về thái độ em bé nhà quê, nghèo này. Ngay khi tôi còn bé, có được một con chim như vậy thật là thích thú. Vậy tại sao em lại không lấy? Tôi đành mang con chim đi một đoạn đường nữa, gặp một bác nông dân gánh hai chiếc thúng, tuy có hai cái nia con đậy, nhưng dáng đi của bác nhẹ tênh. Bác đang đi ngược chiều với tôi phía bên kia đường. Khi ngang qua, từ bên này đường, tôi giơ con chim ra gọi bác, hỏi bác có lấy con chim này không. Bác nhìn tôi một lúc, như xem tôi nói đùa hay nói thực rồi mới gật đầu.
Về con chim, lúc đó chả có một ý nghĩ gì. Chỉ vì tính yêu thiên nhiên và thích chơi đùa nghịch ngợm, nên dù đang trên đường vào sâu trong lòng địch, tôi đã đuổi bắt. Nhưng sau này, tôi kể chuyện cho các anh, các bác trong tù, họ đều nói:
- Đó là cái điềm của cậu đấy, may mà cậu cho con chim ấy đi, nên còn sống. Nếu cậu ăn thịt con chim ấy thì cậu không còn dịp nào kể chuyện lại cho chúng tôi nghe nữa đâu, vì cậu đã hai năm mươi rồi. Người ta kỵ nhất: Chim sa, cá nhẩy.
Nghe để mà nghe, chứ tôi không thể tin được những chuyện vô cớ như thế. Từ óc thực tế, tôi luôn luôn nhìn sự việc trên cơ sở lý luận khoa học. Nhưng con người cũng thật mâu thuẫn. Vì cứ tù mãi, chịu đựng những ngày tháng lê thê cùng cực gần hết cả cuộc đời. Thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến con chim ấy.
Đi một đoạn đường nữa, xa xa đã thây một khu chừng vài chục mái nhà tranh, trông thật nghèo nàn lụp xụp. Một chiếc biển gỗ to, đóng ngang trên hai cái cột, dựng ở cạnh đường. Trên tấm biển ghi HUYỆN KỲ ANH bằng chữ mầu trắng trên nền đỏ, nước sơn đã long lở bạc mầu. Lác đác đây đó một số người đi lại. Người ta gọi đây là phố huyện.
Lúc này đã hơn 6 giờ chiều, ánh nắng không còn, người ta ra ngoài đường nhiều hơn. Tôi tiến dần vào phố huyện, vừa đang quan sát thăm dò nghe ngóng, để tùy theo tình hình tìm chỗ trọ. Thì may quá, tôi thoáng thấy anh đi xe đạp đã gặp ở gốc cây, gần xã Kỳ Phương đang từ trong đó đi ra phía tôi. Thật nhẹ cả lòng! Tôi tiến đến chận đầu anh, cười niềm nở:
- Đi đâu mà ra đây?
Đôi mắt anh nhìn tôi ngỡ ngàng, xa lạ. Rồi như chợt nhớ ra, anh vồ cả hai tay vào vai tôi, vồn vã hỏi:
- Bây giờ mới tới đây à?
Tôi trả lời:
- Ừ! Trời nắng quá, tôi đợi mát, đi dần.
Qua thái độ trên của anh, tôi thấy anh toát ra một con người hiền lành thật thà mà còn vô tâm nữa. Tôi nhắc lại câu hỏi khi nãy:
- Anh đi đâu ra đây, xe đạp đâu rồi và trọ ở đâu?
Mắt anh long lanh, miệng anh rối rít, tay chỉ về phía một dãy chòi con con chéo đấy:
- Xe tôi gửi ở nhà trọ. Tôi vào trong kia đi tiêu một chút, chờ tôi một tý thôi, rồi tôi ra mua thuốc lá cho mà hút. Chúng mình về cùng trọ một chỗ nói chuyện cho vui.
Tôi còn chân ướt chân ráo, ngơ ngác chưa biết trọ ở đâu, cách thức trọ ra sao, giờ gặp anh thì nhất rồi còn gì! Chừng năm phút sau, anh ra. Anh kéo tay tôi dẫn vào một cửa hàng tạp hóa nhỏ treo một tấm biển: Bách Hóa Tổng Hợp. Anh mua một hào được 6 điếu thuốc Trường Sơn. Nếu mua cả gói thì 3 hào. Anh vỗ vai, đưa tôi một điếu. Thái độ của anh tỏ vẻ như đây là một ân tình đặc biệt anh dành cho tôi. Đã mấy ngày không ăn cơm, lại vừa cuốc bộ một đoạn đường dài, lúc này mới thấy đói và mệt, nên tôi hỏi anh:
- Anh đã ăn cơm chiều chưa?
Anh lắc đầu, tay chỉ vào phía trong:
- Chưa, tý nữa vào kia, chúng mình cùng đi ăn.
Tôi kéo anh trở lại hiệu bách hóa:
- Tiện, tôi cũng mua một hào thuốc để hút.
Nhà trọ là hai căn nhà tranh nhỏ, mỗi nhà có hai dẫy giường dài bằng những cây nứa bổ đôi ghép lại. Những chiếc chiếu cói đã cũ mèm, rách nhiều chỗ. Vì thế, nằm giường nhưng như nằm trên đống củi, vừa đau người lại vừa ọp ẹp. Đưa giấy thông hành nộp cho bà chủ trọ. Hai hào thì không có mùng, bốn hào thì có mùng. Trí nói:
- Chúng mình hai người một mùng thôi, đỡ tốn.
Tôi đồng ý. Lúc này, tôi đã biết tên anh là Trí. Anh cũng gọi tôi là Hùng theo giấy tờ. Khi sang tới quán cơm quốc doanh, cũng là chỗ bán hàng cơm duy nhất ở phố huyện, tôi có ý định mời Trí ăn cơm. Tôi còn đang do dự, Trí đã quay lại hỏi:
- Hùng định ăn 2 hào hay 4 hào? Hãy xếp hàng sau tôi.
Tôi chưa biết rõ thế nào, nên trả lời:
- Để cho vui, tôi sẽ ăn theo anh, anh ăn gì tôi ăn nấy!
Thấy Trí lấy 4 hào ra cầm tay, tôi cũng lấy 4 hào. Đã mấy ngày nay chưa có hạt cơm nào trong bụng, tôi đinh ninh rằng sẽ phải chén hai đĩa mới thỏa. Đây cũng là lần đầu tiêu nếm cơm xã hội chủ nghĩa, đỉnh cao trí tuệ loài người. Tay tôi vừa cầm đĩa cơm theo Trí ra một chiếc bàn trống, vừa nhìn đĩa cơm. Hai phần là cơm, một phần là sắn khô thái mỏng. Những miếng sắn, có lẽ lâu ngày, hoặc khi phơi không được nắng nên mầu đen đen. Cả cơm và sắn nấu lẫn lộn thành một thứ cơm xam xám. Một miếng cá khô bằng hai ngón tay và nửa lá rau riếp. Trên mỗi đĩa cơm đã cắm sẵn một cái thìa nhôm. Tôi theo Trí đến một mé vách có treo một cái ống bương to đựng đũa để lấy một đôi đũa tre.
Bàn nào cũng trống trơn, chẳng có nước mắm hay ớt. Tôi lựa xúc chỗ cơm không cho vào miệng. Nó vừa chát vừa đắng ngắt. Nhìn Trí, nhìn người khác, họ vẫn ăn ngon lành, ấy là nhiều người họ ăn loại hai hào, đĩa cơm chỉ rưới tí nước mắm thôi đấy. Mình đã lịch sự, cao cấp hơn, có cá, thế mà, tuy bụng đói, tôi phải cố gắng tọng vào, nhai như mọi người, cho có vẻ hòa đồng. Miệng nhai nhóp nhép, tâm tư tôi chạnh tưởng về một cảnh đời ở một phương trời bên ấy. Chỉ mới hai ngày trước đây thôi, những người họ đang ăn uống phè phỡn, thừa thãi thức ngon vật lạ, họ có thấy được đầy đủ giá trị của cuộc sống? Hai không gian, hai cảnh đời, tuy cùng chung một mảnh dư đồ nước non!
Tôi đã cố gắng ăn, nhưng cũng chỉ được nửa đĩa. Tôi sợ họ thấy lạ, nên tôi ghé sang Trí ôm bụng, mặt nhăn nhó:
- Không hiểu sao, tôi đang ăn, đau bụng quá!
Tôi vẫn xoa bụng, trong khi Trí băn khoăn bảo tôi hãy ăn cố đi. Tôi vừa đẩy đĩa cơm sang Trí, vừa lắc đầu:
- Tôi đau lắm! Quen rồi, đã đau mà còn ăn nữa, lại càng đau thêm. Trí ăn hộ đi!
Ngần ngừ một lúc, rồi Trí ăn ngon lành. Tôi cứ giả vờ ngồi ôm bụng nhăn nhó. Khi về tới nhà trọ, trời đã tối. Nóng vô cùng. Trí dẫn tôi ra mua hai cái quạt giấy, mỗi cái một hào. Mỗi người đều trả riêng. Thực ra tôi không thiếu tiền, nhưng tôi phải giữ ý với Trí.
Bắt đầu thân, khi vào trong mùng. Trí than cuộc sống ở đây khổ cực quá. Trí rút ví lấy cho tôi xem một cái ảnh vợ anh đang bế hai đứa con nhỏ. Nằm bên nhau, Trí và tôi tâm sự. Tôi được biết, Trí cùng vợ con và bố mẹ ở Thái Lan về nước năm 1956. Bây giờ, nhà nước đưa về Bến Thủy (Vinh). Bố mẹ Trí làm nghề đánh cá, còn Trí sửa chữa xe đạp. Trí khoe, ngày còn ở Thái Lan, cuộc đời thật thảnh thơi, chẳng bao giờ phải lo nghĩ đến chuyện ăn uống. Thường có nhiều bạn bè chơi bời, chuyện trò thân mật. Chủ Nhật ngày nghỉ thường rủ
nhau đi chụp ảnh, rất vui. Bây giờ nghèo nàn vất vả quá. Có cái gì cũng cứ phải bán dần để ăn, cuối cùng còn ít nào phải mua vội một chiếc nhà tranh để ở. Trí nói rất quý tôi, cứ căn dặn khi đi Hà Nội chữa bệnh trở về, thế nào cũng vào chơi. Trí sẽ giới thiệu bố mẹ và vợ, rồi nhất định phải giết một con gà cho ăn (7 năm đã tiêm nhiễm phong cách xã hội chủ nghĩa, giết gà là một chuyện ghê gớm và đặc biệt).
Sáng hôm sau, chúng tôi ra lấy giấy tờ. Trí cũng định đi xe đò với tôi, nhưng chờ mãi 8 giờ chưa có xe. Mấy người có xe đạp họ rủ nhau đi trước. Đoạn đường 52 cây số từ Kỳ Anh tới thị xã Hà Tĩnh. Trí đi theo họ nên từ giã tôi, căn dặn, tả nhà cửa v.v… là thế nào đi về cũng ghé vào. Tôi đồng ý. Tôi ở lại cùng bao nhiêu người khác chờ xe để đi thị xã Hà Tĩnh. Mãi tới 10 giờ mới có một chiếc xe kiểu “Dodge 4” xọc xạch, cổ lỗ sĩ có thể từ thời 1954, thùng xe đã phải chấp vá lung tung, không mui. Một đồng rưỡi một vé ra thị xã Hà Tĩnh. Hành khách chen chúc, không có ghế, toàn đứng nêm vào nhau. Đường xóc vô kể. Trên xe, người cứ ngã nghiêng xiêu vẹo. Phụ nữ ngồi, đàn ông đứng, thật hỗn độn. Tôi đứng cạnh một anh Hải Quân chừng 23, 24 tuổi. Nhiều lúc xô mạnh như những người say rượu vì đường quá xấu, nên đôi khi phải ôm chầm vào nhau.
Khi tới Hà Tĩnh, tôi thấy thị xã gì mà như phố huyện ngày xưa, toàn nhà tranh, thỉnh thoảng mới có một cái nhà xây cũng cóc gặm và đen nhẻm do những năm tháng nghèo nàn, nên không hề sửa sang. Tôi và anh Hải Quân đi với nhau. Anh rất có cảm tình với tôi. Phần tôi, bất cứ lúc nào, ở đâu, cũng đóng vai một học sinh ở Vĩnh Linh. Tôi theo anh thì tuyệt quá! Đi với một Hải Quân (tên anh là Hảo, anh mặc đồng phục Hải Quân,) vừa không phải bỡ ngỡ từ cảnh vật xa lạ tới mọi cách sinh hoạt đi đường. Lại còn được một “vỏ bọc” vững vàng, ít bị để ý. Anh cho tôi địa chỉ viết thư, đơn vị anh đóng ở Vinh, anh bảo:
- Chỗ đơn vị đóng thường bí mật, chỉ giao thiệp thư từ với người nhà, tuyệt đối không được cho một ai biết. Đây là địa chỉ người quen ở Vinh, thỉnh thoảng tôi ra nhận thư. Tôi muốn làm bạn với Hùng. Khi Hùng chữa bệnh về, thế nào cũng viết thư cho tôi nhé. Suốt quãng đường từ thị xã Hà Tĩnh ra thị xã Vinh, tôi với anh là một cặp. Đi với Hảo tôi rất thoải mái. Có lúc Hảo thân mật:
- Đơn vị đóng ở Bến Thủy từ hai năm nay được lệnh tăng cường “phòng gián bảo mật” vì miền Nam nó đang tung gián điệp ra ngoài Bắc.
Tôi hỏi:
- Thế ta đã bắt được vụ nào chưa?
- Thế Hùng không nghe ta bắn rơi chiếc C-47 ở Cồn Thoi hay sao?
Tôi gật đầu:
- Tôi muốn hỏi là bắt được ở trong nội địa cơ?
Y lắc đầu:
- Cái đó, mình làm sao mà biết được.
Đến Bến Thủy, khi còn ở phía bên này sông, tôi thoáng thấy Trí trong căn nhà tranh nhỏ Trí đã tả. Trí đứng ở cửa cố nhìn lên xe tìm tôi, nhưng tôi nép vào chỗ khuất. Đến phà Bến Thủy, Hảo bắt tay từ giã tôi. Tôi theo xe về thị xã Vinh. Về tới Vinh, trời đã cập quạng, khoảng 7 giờ rưỡi gì đó. Tôi theo những người đi trọ ở một nhà trọ tập thể để mai lấy vé đi Hà Nội.
Nhìn thoáng thành phố Vinh, ngoài một số xí nghiệp, nhà máy ở vùng ven, trong thành phố thật quê mùa, một nửa là nhà tranh. Khách bộ hành trên đường phố, nếu không đi dép râu là đi… đất. Trong khi xếp hàng nộp giấy thông hành lấy vé trọ, trời thì tối, tôi đứng sau một anh bộ đội mang ba lô và mang lon Trung sĩ. Tại một chiếc bàn nhỏ, trên đặt một ngọn đèn chai, một cậu chừng mười lăm, mười sáu đang xem giấy tờ của từng người rồi bán vé. Người nào nó xem giấy, nó cũng hạch hỏi nào là:
- Đến Vinh để làm gì?
- Năm nay đã đến Vinh mấy lần?
- Gốc quê ở đâu?
- Còn giấy tờ gì nữa? v.v…
Mọi người xếp hàng sốt ruột. Khi gần tới viên Trung sĩ, thấy nó cứ hạch hỏi người trước anh mãi, anh ta bực quát:
- Cái thằng này, mày làm cái gì mà mày hạch hỏi người ta nhiều vậy? Mày làm như ở đây có gián điệp không bằng!
Tôi cười thầm, “gián điệp đang đứng ngay sau mày đây!”
Cũng nhờ anh đó quát tháo, những người sau đỡ bị vặn hỏi. Nhà trọ bến xe Vinh cũng là nhà tranh, nhưng hai dẫy dài hơn. Cũng một giá tiền, hai hào không mùng và bốn hào có mùng. Cũng sàn nứa ọp ẹp lùng bùng như ở Kỳ Anh. Cái mùng cá nhân đen xì, rách lung tung và sực mùi hôi khăn khẳn của nhiều người và nhiều ngày không giặt. Đêm đó rệp cắn ngứa ngáy suốt đêm, tôi thật khó ngủ. Khoảng một giờ đêm, thấy ngưòi ta hét lên kêu mất trộm inh ỏi ở dẫy bên, tôi cũng phải sờ lên cái túi gối ở đầu, rồi buồn cười nghĩ thầm:
“Là một điệp viên thừa sống, thiếu chết, vào được đất địch rồi, ngủ, có cái túi dết vật dụng lại để bị mất trộm.”
Sáng hôm sau, mới 5 giờ sáng đã có tiếng loa gọi khách dậy ra lấy giấy tờ. Đã quen thuộc, nên tôi ít phải ngỡ ngàng khi lấy vé xe lên Hà Nội. Xe đò đi Hà Nội có ghế ngồi, mặc dù cũng cóc gặm rách như tổ đỉa. Đoạn đường từ Vinh lên Hà Nội, có lúc hành khách phải xuống xe đi bộ qua cầu, vì cầu cũ kỹ không chịu nổi sức quá nặng khi chở cả người, như cầu Lèn Thanh Hóa, cầu Quất Ninh Bình, v.v… Đường đi thật ghê, thậm chí có lúc xe xóc đầu hành khách va cả lên mui xe. Tôi nghĩ những người thợ vặn những con tán (vít) của xe thật tài.

17. Gặp Z-5…

Sáu giờ chiều ngày 31 tháng 5 năm 1962, xe tới Kim Liên, Hà Nội. Mặt trời mùa Hè đã lặn khi xe còn cách Hà Nội hơn 10 cây số, thế mà những dáng hình quen thuộc của đất thanh lịch ngàn năm hãy còn sáng rõ, khi chiếc xe đò chở tôi vào bến Kim Liên. Bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu kỷ niệm của thời niên thiếu năm xưa như ùa về bủa kín hồn tôi. Đó là phút giây giao cảm buổi đầu còn trên xe khi nhìn thấy Hà Thành. Chân tôi rời khỏi xe, theo dòng người chảy ra phố phường, những ngoại cảnh chung quanh đập vào mắt tôi. Con người, xe cộ, biểu ngữ, tôi cảm thấy thật xa lạ đẩy đưa dần tới sự tò mò và cuối cùng là sự cảnh giác của nghiệp vụ. Phải rồi, đây là đất Cộng Sản, đất kẻ thù. Mươi phút, tâm tư chìm lắng vào hố sâu của hoài cảm đến nỗi tách rời thực tế, tôi phải nghĩ đến an ninh của tôi.
Tôi đang hướng về ga Hàng Cỏ. Làm một vài động tác nghề nghiệp để quan sát chung quanh, rồi tôi rẽ ngang về phía hồ “Ha Le” trong lúc trời tối dần. Tôi cố ý lắt léo về nơi vắng vẻ để xác định an ninh. Đến đây, tôi xin nói về một điểm thiên bẩm mà trời đã cho cơ thể tôi. Thông thường, thị trường của con ngươi là 160 độ. Như vậy, 10 độ ở phía trái và 10 độ ở phía phải “chết,” nghĩa là khi con ngươi đang nhìn thẳng chính giữa, bất cứ vật gì di chuyển trong phạm vi 80 độ phía bên trái và 80 độ phía bên phải, người đó đều thấy. Trừ người nào có bộ mắt lồi, thì có thể thị trường của mắt rộng hơn.
Vậy mà, đôi mắt của tôi, chẳng hiểu thế nào, không phải lồi, đôi khi người ta còn nói là sâu nữa. Qua thử mắt thực tập, thị trường của tôi là 170 độ, có nghĩa là mỗi bên tôi chỉ có 5 độ “chết.” Chính vì thế, trên đường phố, tôi thường trông thấy người quen trước. Ngay khi thực tập theo dõi và chống theo dõi ở Sài Gòn, Brown, Dale và Phan đã khen ngợi nhiều lần. Dù phố thường đông đúc, hay địa hình phức tạp, (trừ khi tôi chủ quan, mất cảnh giác,) tôi cảnh giác thì bao nhiêu người hầu như tôi phát hiện hết.
Sau khi xác định không có hiện tượng gì khả nghi cả, tôi đã bắt đầu chủ quan và nghĩ rằng, từ chỗ đổ bộ ở Kỳ Phương, Hà Tĩnh, biết bao hiểm nguy gay cấn, chỉ một chút xíu nữa mình bị bắt, thế mà cuối cùng đều đối ứng linh hoạt thoát được hết.
Trời đã tối, theo lời Phan dặn thì tôi không nên mò gần về khu phố tôi đã ở trước kia, vì trong khi đi đường, bất chợt có thể gặp một người quen xưa, một người họ hàng, v.v… Họ sẽ ngạc nhiên rằng tại sao thằng Bình đã di cư từ 1954 mà bây giờ lại gặp ở đây. Từ đấy, có thể tôi sẽ bị phát hiện. Nhưng lúc này, do chủ quan, coi thường đối phương, tôi nghĩ là các ông ấy theo nguyên tắc cứng ngắc, nên quá lo xa, chứ khi ở Hà Nội tôi mới 16 tuổi, bây giờ đã 23-24. Lớn lên mặt mũi thay đổi nhiều, dù người quen có gặp chăng nữa, ai mà nhận được. Vả lại, Hà Nội bây giờ toàn là dân quê ở đâu mới về. Còn một yếu tố nữa, đó là vì lòng tôi cũng xúc động khi nhìn lại cảnh cũ. Nó như có hồn, cuốn hút ve vuốt lòng tôi. Từ hồ Ha Le chân cứ thả bước, mắt nhìn từng nhà, từng hẻm phố, từng gốc cây. Cảnh cũ còn đây, người xưa không thấy. Hồn lâng lâng, tôi bước mãi vào nơi cảnh quen, người lạ cho tới khi đến phố Tràng Thi rồi Tràng Tiền.
Ôi! Hồ Gươm! Hình ảnh hồ Gươm nằm trong ký ức suốt những tháng năm nổi trôi ở miền Nam, bây giờ đã hiện ra trước mắt. Vẫn chiếc Tháp Rùa âm thầm nghiêng bóng đen sẫm với vài vệt vàng sáng lung linh dưới mặt hồ của những ánh đèn đường chung quanh. Tôi rẽ sang Gô Đa, về Chế Linh, hướng về đền Ngọc Sơn, đến Bà Kiệu. Phố phường đông đúc hơn. Khi tôi qua rạp Phillamoniqufe, nhìn xa xa đầu hàng Dầu, thấy tấm biển đề:“Nhà Trọ Số 5 Hàng Dầu”
Chân đã mỏi, người đã mệt và cũng đã 7 giờ 30 tối rồi. Tôi quyết định vào xin trọ nghỉ đêm để lấy sức. Ngày hôm sau làm gì hãy hay. Nhìn bên ngoài, căn nhà một tầng, ngói và tường đen sạm, nứt nẻ vì gánh nặng thời gian.
Tôi đi vào, ngọn đèn điện nhỏ, bụi và mồ hóng phủ gần kín, hắt ánh sáng yếu ớt làm cho căn phòng sáng mờ mờ. Tại chiếc bàn kê trong góc, một lão già đang hý hoáy ghi chép. Tôi đoán là chủ nhà. Khi tôi đến gần, ông ta ngẩng lên, cặp kính lão trễ xuống. Tôi dùng từ không lịch sự như Cộng Sản:
- Cháu muốn trọ một đêm.
Ông ta cũng nhát gừng:
- Một đồng, đưa giấy thông hành đây!
Tôi rút giấy đưa liền. Ông ghi, rồi đưa cho tôi một miếng bìa con, vuông 5 x 5 phân, mầu vàng, mang số 4. Ông giữ giấy thông hành của tôi để nộp cho công an khu phố (theo nguyên tắc của các nhà trọ.)
Tôi cấm tấm bìa đó vào trong nhà. Dưới ánh điện vàng khè không đủ sáng vì mồ hóng, tôi thấy hai dãy giường cá nhân, gồm 8 cái. Mới có 3 người, hai anh bộ đội và một bác có vẻ nông dân. Tôi vào nữa là 4. Tìm được số giường, tôi vất chiếc túi dết, ngả người một tí cho đỡ mỏi. Mấy ngày nay không tắm rửa, tôi phải đánh răng và tắm một cái cho tỉnh người. Sau khi vào đi giải, tôi đã thấy chỗ tắm. Tôi lại xách túi dết ra phố. Tôi tính mua cái bàn chải và hộp thuốc đánh răng, và cái gì để nhét vào dạ dầy trước đã chứ. Tôi đi ra phía bờ hồ và rẽ về phía hàng Đào, hàng họ bầy bán ở vỉa hè. Tôi mua một cái bánh mì ỉu 5 hào trong cái thúng con của một cô bé ngồi bán, một cái áo may ô, một mũ cát. Lúc về, tôi cũng mua một góc thuốc lá Trường Sơn. Thế là toàn thứ thực của xã hội chủ nghĩa.
Về tới nhà trọ, có người đã ngủ. Tôi tranh thủ vào tắm, đánh răng và nhai chiếc bánh mì có lẽ đã từ hai, ba ngày trước. Ăn xong, tôi vào súc miệng, mở vòi nước làm mấy hơi. Tôi ra giường ngả lưng, đốt điếu thuốc Trường Sơn. Thế là cuộc đời cũng vi vu!
Nằm trong màn, lúc đó đã 10 giờ, chung quanh mọi ngưòi đã ngủ cả. Tôi suy nghĩ, tính toán. Thời gian ở Hà Nội rất ngắn, so với bao việc phải làm. Vậy, ngay từ sáng mai, tôi cứ tìm đường đến nhà thương Việt Đức xem sao, nhất là đóng đúng vai trò đi chữa bệnh. Còn một điều nữa, trước đây ở Hà Nội, còn quá nhỏ, tôi lại ở Hàng Bạc, nên chỉ đi nhà thờ lớn Hà Nội. Nhà thờ “X,” Phúc Xá thượng, hạ ở đâu, thực sự tôi chưa biết. Tôi chỉ nhớ mang máng bãi Phúc Xá, dưới gầm cầu Long Biên (hồi xưa có một lần theo mấy người bạn ra đó đá banh.) Tôi cũng phải ra đó thăm dò xem thế nào.
Sáng hôm sau, ngày mồng 1 tháng 6, tôi ra bờ hồ chỗ bến xe điện mua tờ báo Thủ Đô ngồi đọc và nhìn đủ hạng người qua lại. Hầu hết mọi thành phần, mọi lứa tuổi, từ các em học sinh cho đến các bác xích lô đạp, trên mũ hoặc ở cánh tay đều có đeo hay quấn một băng giấy mẫu, trên có hàng chữ: Đả đảo Ngô Đình Diệm bán nước. Chỉ một số ít, cá biệt mới không đeo mà thôi. Người đi bộ, người đi xe, v.v… ai tôi cũng thấy đeo. Điều này, nói lên sự kiện miền Bắc đang tăng cường chiến dịch tuyên truyền chửi bới miền Nam, mà mũi dùi chính là ông Ngô Đình Diệm.
Trời mùa Hè trong xanh, mặt trời chiều sáng không gian cũng không làm mờ nhạt được ấn tượng đầu tiên tôi nhìn Hà Nội. Tất cả là một mầu xám xịt, từ những dòng người đông đúc xuôi ngược trên những phố phường với áo mũ, không mầu xanh thì đen, hoặc nâu, và dép nếu không Bình Trị Thiên (râu) màu đen thì ba ta màu xám hay xanh. Đến nhà cửa xỉn lại vì rêu hoặc dơ bẩn, mà tôi nghĩ rằng từ ngày tôi rời Hà Nội đến nay đã hơn 8 năm, nay tôi trở về, chưa một lần quét vôi lại hay sang sửa.
Về âm thanh, thực là một thành phố chết, im lìm vắng lặng. Trên đường phố đầy người, nhưng toàn là xe đạp. Giữa trung tâm thủ đô, nơi sầm uất nhất, mà thỉnh thoảng mới thấy một chiếc ô tô. Tôi đưa mắt nhìn một vòng chung quanh hồ Hoàn Kiếm chu vi 2.300 mét. Cả một vòng như vậy, cứ trung bình 10 phút mới nhìn thấy một chiếc ô tô chạy, mà nếu không là molotova, thì cũng lại là commanca của bộ đội hay công an. Xe tư nhân hầu như không có. Thành phố yên vắng vì không có tiếng động cơ của xe cộ, cũng như của nhà máy. Khác biệt hẳn với Sài Gòn.
Sau đó, tôi quẹo lên phố Hàng Đào. Đang mải nhìn một tên công an túm tay một đứa nhỏ chừng 12 tuổi, kéo đi trên đường phố Hàng Bông. Một số ngưòi cũng nhìn theo và họ nói là ăn cắp. Tôi thấy một đoàn xe từ phía chợ Đồng Xuân đi xuống gồm 5, 6 chiếc Simca, Citroen, Peugeot. Chiếc đi đầu cầm cờ Việt cộng và Lào.
Đoàn xe đi chầm chậm, vì phố xá hẹp, nên tôi nhìn rõ Kongle và Võ Nguyên Giáp ngồi trong xe. Chà! Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt cộng hôm nay đón Bộ Trưởng Quốc Phòng Lào! Các xe sau chở một lũ lóc nhóc Tướng và Tá, mặt tên nào cũng vênh vênh. Lúc đó tôi nghĩ, anh chàng Kongle bốc đồng đang bị lũ quái, cáo già ve vuốt, thổi! Mặt y dương dương, hớn hở. Sớm muộn, chúng sẽ cho anh chàng ăn mắm ngoé mà thôi!
Ngay từ đêm trước khi còn nằm ở Hàng Dầu, tôi đã đặt thành nguyên tắc. Ít ra, cứ mỗi ngày một lần, tôi phải kiểm tra xác định về an ninh của mình. Vì vậy, lúc này nhớ đến, tôi vờ hỏi mua mấy ống khóa, để có điều kiện quay ngang, quay dọc. Cầm ống khóa lên soi, mục đích nhìn hết mọi bộ mặt chung quanh tôi, trong phạm vi 30 đến 50 mét. Rồi sau đó, tôi quặt vào một ngõ hẽm sang phố Hàng Quạt. Đường Hàng Quạt thật vắng người, nhìn thấy một hàng bán nước chè ở vỉa hè. Chính vì tôi muốn nhìn lại phía sau toàn phố, nên tôi cố ý đi qua hàng nước vài bước, rồi như là muốn uống nước. Tôi quay trở lại, ngồi xuống chiếc ghế dài con trước hàng, lật một chiếc chén trên chõng để bà hàng rót nước. Nhờ những động tác này, tôi đã nhìn được hết mọi bộ mặt ở phố Hàng Quạt. Không có bộ mặt nào tôi đã nhìn thấy trước ở bên phố Hàng Đào. Yên tâm, trả tiền 5 xu nước xong, tôi đi về phía nhà thương Việt Đức.
Khi gần tới nhà thương, từ xa tôi quan sát, thấy mỗi người vào đều rút giấy đưa cho người gác cổng. Tới nơi, tôi làm theo, đưa tấm giấy thông hành và tời giấy giới thiệu. Tôi nói:
- Em là học sinh, mới ở Vĩnh Linh ra, xin vào chữa bệnh.
Tất nhiên, mặt tôi sịu xuống và chảy dài ra vì bệnh tật buồn phiền. Y xem giấy, nhìn tôi thông cảm nên chỉ nói nhẹ:
- Đi vào chừng 50 mét, rẽ trái sẽ thấy khu nội khoa.
Tôi cảm ơn, cầm giấy đi vào. Tôi vẫn cảnh giác, khi bắt đầu rẽ trái, mắt tôi lướt nhanh ra cổng, xem có gì khác thường không? Yên tâm, tôi tiến bước, khi nhìn thấy tấm biển ghi: “Khoa Nội‟ trước mấy dẫy nhà to, tôi tiên vào chỗ phòng đợi, đã có khoảng 40, 50 người chờ. Hỏi thăm mấy người đợi, tôi đưa giấy giới thiệu cho cô y tá trực. Cô đọc giấy xong nhìn tôi hỏi:
- Thẻ học sinh anh đâu?
Tôi lấy ví rút thẻ trao cho cô. Cô nhìn thẻ rồi chăm chú nhìn tôi. Tôi thấy cái nhìn khác thường, dù vậy tôi vẫn tỏ ra bình thản nhìn cô. Một lúc sau cô mới chậm rãi trả lời:
- Bệnh tim thì sang khu B bên kia.
Cô chỉ tay. Thế mà làm người ta hết hồn! Không phải thì nói ngay lúc nãy, còn bày đặt hỏi thẻ học sinh!
Tôi cầm giấy ra phía dẫy ghế sau ngồi, tính toán cân nhắc. Thứ nhất, chủ trương của tôi hôm nay chưa phải để đưa tài liệu, mục đích chỉ đến xem những đường lối và cách thức sinh hoạt khám bệnh ra sao thôi. Tôi có bệnh thực đâu mà khám! Hơn nữa, tôi chỉ biết Z-5 là bác
sĩ nội khoa ở Phủ Doãn, tức Việt Đức ngày nay, chứ chưa rõ chuyên trách về môn gì: ruột, gan, tim, phổi …?
Tôi đang ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, tính toán, chợt tai tôi nghe thoáng:
- Bác sĩ Thọ có ở trong phòng không?
Thót người, tôi liếc nhanh về phòng trực. Thì ra một nam y sĩ hỏi cô y tá. Tôi chỉ thấy cô gái gật đầu và ngưòi y sĩ mở cửa bên ra hàng hiên. Phản xạ cấp thời, cân nhắc tình thế, tôi lợi dụng một đám đông, chỗ góc gần hàng hiên, tôi lẫn vào và đi theo ông y sĩ ngay.
Cả một dẫy dài, bao nhiêu cửa phòng. Đến một cửa phòng, ông y sĩ mở cửa, tôi đi thoáng qua liếc vào, phòng số 8. Tôi như bị điện giật. Dù nhìn rất nhanh qua cánh cửa vừa đóng lại, tôi đã thoáng thấy bộ mặt của một người mặc áo “blouse” trắng, đeo kính trắng, ngồi ở một bàn giấy to, trong một phòng rộng. Tuy đầu đã bạc, nhưng đúng hình dáng với tấm ảnh 4 x 6 mà Cục đã đưa cho tôi xem, giữ một tuần ở Sài Gòn.
Thời cơ đến, tôi phải quyết định lẹ. Tôi vẫn cứ đeo túi dết đi về phía cuối hành lang. Thỉnh thoảng, một người mặc “blouse” trắng đi lại, họ chả để ý đến tôi. Tôi tìm một buồng vệ sinh, nhưng nhìn khắp, chả thấy đâu. Tôi đành cứ đi, tôi lựa cho tay vào trong quần rờ và nắn sờ tìm tài liệu “X”, phải hai, ba lần mới thấy, tôi rút ra. Lúc tôi quay lại, từ buồng số 8 ông y sĩ lúc nãy đẩy cửa bước ra.
Thời cơ ngàn năm một thủa, tôi phải liều. Tôi đẩy cửa bước vào. Người đeo kính trắng đó ngửng lên nhìn tôi, mắt ngạc nhiên. Tôi thấy trong phòng còn ba bàn giấy nữa, hai bàn có người, một bàn không. Hai người kia cũng ngửng lên nhìn tôi. Tôi nói cố ý cho họ cùng nghe:
- Thưa bác sĩ! Mẹ cháu vẫn cứ sốt, vì vậy …
Đúng lúc ấy, hai người kia lại cúi xuống sổ sách. Tôi hạ giọng:
- “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi.”
Trong lúc hồi hộp, tôi chả nhớ là bao nhiêu chữ. Ông nhìn tôi, đôi mắt mở to, bàn tay ông đang cầm bút rung lên. Mặt ông lộ vẻ hết sức xúc động. Tôi lo quá. Ông này làm sao thế! Ông không đọc lại mật khẩu. Nhanh trí, tôi hiểu ngay là ông bị đột ngột quá. Có thể từ bao năm nay ông mong chờ, ông đã sống với cuộc sống bình thản, giờ đây bất chợt quá chăng? Nếu tình trạng đó, để lâu không lợi. Tôi vội cảm ơn bác sĩ rồi đi ra. Khi ra đến cửa, tôi cố ý quay lại đóng cửa, thế nào ông cũng nhìn theo. Đúng như vậy. Lúc đó hai người kia không nhìn thấy tôi, tôi giơ tay vẫy nhẹ, và mắt cũng làm hiệu là ra theo tôi.
Tôi đóng cửa và ra ngoài. Tôi đi theo hành lang vào phía trong, vì nếu đi ra ngoài phía phòng đợi, có thể tôi không vào được nữa.
Tôi ra ngoài như vậy, vì có hai vấn đề. Thứ nhất, nếu không phải đấy là Z-5, hoặc là Z-5 nhưng bây giờ vì lý do nào đó, ông sợ, ông không muốn lôi thôi nữa, ông sẽ không ra. Thứ hai, nếu ông theo ra, tùy cơ, tôi sẽ đọc lại mật khẩu. Trường hợp ông không trả lời đúng theo quy ước, tôi sẽ lựa theo tình thế biến chế đi, rồi tôi phải chuồn lẹ.
Khi tôi đi tới cuối hành lang, cửa phòng số 8 mở ra và ông đi ra. Tôi quay lại, ông đi về phía tôi. Thái độ và nét mặt ông lúc này đã bình tĩnh, tuy mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi. Tôi coi như không nhìn thấy và đi trở lại phía ông. Ngang qua ông, tôi mới tươi nét mặt nhìn và để một tay lên cánh tay ông, nhẹ giọng:
- “Nhờ bác sĩ chữa bệnh tim nhịp đập một trăm hai mươi.”
Ông mỉm cười:
- “Tôi chỉ chữa tim nhịp đập một trăm ba mươi.”
Tôi nhẹ người, liếc nhanh hai đầu hành lang, tôi cho tay vào túi quân lấy tài liệu, nhét vội vào tay ông. Ông định cất tiếng hỏi điều gì nữa, nhưng tôi bỏ đi ngay ra phía phòng đợi, không cần nghe gì thêm. Khi gần tới phòng đợi, tôi nhăn nhó mặt, để tay vào phía trái tim trước ngực, và đi qua phòng trực rồi ra cổng. Tên gác cổng mỉm cười với tôi. Tôi cũng cười đáp lại và đi tuốt ra phía bờ hồ.
Lòng tôi lúc đó thật hân hoan phơi phới. Nghĩ lại, tôi thấy thực là may mắn. Thành công bất ngờ!
Nếu sau khi cô y tá xem giấy tờ, tôi không ngồi đợi, làm sao tôi nghe được ông y sĩ hỏi về ông Thọ? Phải chăng như thế một xác xuất may mắn nào đó đã nâng đỡ những nỗ lực của ta trong cuộc đời? Một cơn gió mát thổi lướt qua hai bên má tôi mềm mại dịu dàng như bàn tay của một bà tiên: “Ta chúc mừng chú mày!”
Bờ hồ! Những gợn sóng lăn tăn rất đều khoảng cách của làn nước trong xanh, đang đuổi nhau vào bờ gây lên những tiếng động nho nhỏ triền miên nhịp nhàng, giữa một màu đỏ rực chan hòa của hoa phượng vĩ. Chung quanh hồ hầu như toàn hoa phượng. Những chùm hoa đỏ ối, nằm đè lên những tàng lá xanh xanh, soi bóng rạp sát mặt hồ. Hoa lá nhún nhẩy lắc lư đùa giỡn với gió Hè thổi qua từ phía sông Hồng.
Đã 11 giờ, tôi trở về phía Cầu Gỗ, tính tìm một hàng cơm nào đó để ăn một bữa cơm đầu tiên ở Hà Nội.
Khi tới gần nhà thủy tạ, tôi thấy một “kiosque” bán bia, nước ngọt, với ba, bốn bàn kề ngoài trời sát bờ nước, trống trơn vắng vẻ không có khách. Nhìn những chai bia “Hà Nội”, tôi thấy lòng mình nổi hứng bất tử. Tôi sà vào một bàn. Một cô gái trong “kiosque” mỉm cười, ra phía bàn tôi:
- Anh dùng gì?
Tôi đáp cộc lốc:
- Một bia “Hà Nội!”
Cô ta trở vào, vài phút sau mang một chai bia đã mở nút và một cái cốc có hai cục đá con. Tôi cầm chai bia, vừa rót vào ly vừa nói thầm với chính mình:
- Hôm nay, gọi là đặc biệt một chút để thưởng công!
Chà, bia “Hà Nội” gì mà lạt thế! Tôi nhấp một ngụm nữa. Vị bia chỉ thấy hơi một chút “gas”, nhạt thếch. Tôi có cảm tưởng như một chai “33” ở Sài Gòn đổ nước lã vào thành hai chai mà uống, chắc cũng còn thơm ngon hơn thế này. Vậy mà đến 6 hào cả đá (không đá 5 hào). Thôi, gọi là cũng có một chút hơi men trong người để tâm hồn bốc khói.
Uống xong, tôi thả bước về Cầu Gỗ. Khi đến đầu phố Cầu Gỗ và Tạ Hiền, tôi thấy một đám đàn bà con gái ở góc đường. Mấy người đó tươi nét mặt nhìn tôi, hỏi tíu tít:
- Anh có gì bán?
- Này, này đưa tôi xem nào!
Một chị cứ giằng lấy cái túi dết của tôi, định kéo riêng ra một chỗ để coi. Lúc đó tôi cũng hơi lạ. Sài Gòn đâu có cảnh ấy. Hẳn rằng, cảnh nghèo túng đói ăn, thường nhiều người phải moi móc đồ nhà đi bán, nên mới có kiều con buôn vặt, đứng đón đầu phố. Tôi nói “Chẳng có gì” rồi đi luôn ra phía chợ Hàng Bè.
Chợ Hàng Bè bây giờ, trông chẳng khác một cái chợ quê ngày xưa: Dăm ba cái sạp gỗ với toàn rau muống, rau lang, rau cần,…Chợ mà chẳng có một hàng thịt, hàng cá tươi nào, chỉ có cá khô. Tôi đi qua chợ, vào phố Hàng Bè, nhìn cheo chéo thấy một quán cơm và 3, 4 chiếc xích lô đỗ trước cửa. Theo ý nghĩ ngây thơ khi còn ở Sài Gòn, của tôi về Cộng Sản: Hà Nội ngày xưa với bao nhiêu kẻ giầu người nghèo. Người giầu thì giầu quá, sung sướng quá. Ngược lại, người nghèo thì nghèo quá, suốt đời cực nhọc lầm than mà không đủ ăn. Chắc khi Cộng Sản về, giới giầu có bị đánh đổ, bị ghét bỏ, tẩy chay, còn những người nghèo khổ như con ăn, con ở, xích lô, thợ thuyền cả đời đem bát mồ hôi đổi lấy miếng cơm mà Cộng Sản gọi là giai cấp cần lao, dân nghèo thành thị hay bần cố nông gì đấy, có lẽ sẽ có rất nhiều quyền lợi, cuộc sống phải thay đổi. Cuộc đời của những người này, như cảnh chị Dậu trong Tắt Đèn của nhà văn Ngô Tất Tố; dưới chế độ Cộng Sản, sẽ xa rồi…Những ngày tăm tối, để đón nhận bình minh của đảng mang về cho giai cấp mình.
Mang trong đầu ý nghĩ như vậy, nên thấy một hàng cơm có nhiều bác xích lô, tôi vào ăn, để xem đời sống của các bác ra sao. Nhìn bên ngoài cửa kính của một quầy nhỏ, tôi thấy dăm, sáu đĩa con con bầy 3, 4 miếng đậu rán một đĩa, đĩa có mấy miếng dứa xào, v.v… Tôi bước vào. Hai dẫy bàn kê dọc theo nhà, trên bàn trống trơn. Bốn dẫy ghế dài kê theo bàn; góc này một anh xích lô tay đang cầm đôi đũa ngồi không; chỗ kia một bác vận quần đùi ngồi chồm hổm trên ghế, để lòi cái cục… cũng có đôi đũa trước mặt. Phía dẫy bàn bên kia, ba người cũng là xích lô ngồi ngả nghiêng túm hụm lại, trước mặt cũng có ba đôi đũa để trên bàn, đang bàn tán hỏi nhau:
- Thế nào, từ sáng đến giờ bao nhiêu rồi?
- Tao mới được 7 hào, chưa đủ tiền thuế, đói thì ăn đã, chiều tính, còn mày?
- Tao được mỗi cú xuống Phà Đen 1 đồng 2. Nắng quá, uống mẹ nó hai hào nước! Ăn hai củ khoai hồi 5 giờ sáng, bay hết mẹ rồi. Phải kiếm cái đút bụng đã, tính sau.
Anh thứ ba tiếp:
- Hôm nay vớ bở, tao được 2 cú đồng 8. Tao phải bỏ riêng 1 đồng nộp thuế. Còn 3 hào, chén đã. Từ giờ đến tối, tao phải cố làm sao được 2 đồng rưỡi.
- Vợ mới mà, hết ý!
Tôi cũng đến ống đũa lấy một đôi, về một góc ngồi. Giữa lúc ấy, một bà đội khăn vấn, từ nhà dưới đi lên ôm một cái thúng, trong có một nồi cơm to, khói bay nghi ngút, chung quanh nồi có chèn bao tải, có lẽ để giữ cho cơm nóng lâu. Cả 5 người đứng dậy, đến chồng đĩa, mỗi người lấy một cái, cùng đưa đến chỗ bàn, bà hàng đang dùng đũa cả đánh cơm ra. Một đứa bé từ trong nhà đưa theo ra một chai nước mắm và một ống đừng thìa nhôm để chỗ cạnh bà hàng. Mỗi đĩa cơm, lưa thưa vài miếng sắn khô (trông ngon hơn ở Hà Tĩnh nhiều) chừng độ 2 bát cơm. Bà hàng cầm chai nước mắm xóc xóc, vẩy đều vào đĩa cơm, lấy một cái thìa cắm vào giữa, đưa cho một người, người đó trả hai hào. Hết 3 người rồi, còn 2 ngưòi nữa. Tuy tay họ vẫn còn cầm đĩa, nhưng chưa lấy cơm, như chờ cái gì. Đang vẩn vơ suy nghĩ, nhìn ra phía cửa có thêm hai bác xích lô nữa đi vào, thì có tiếng cãi nhau, và có tiếng bà hàng cơm quát to:
- Những cái anh này! Của đâu mà lắm thế! Đưa tiền đây, còn để cho người ta bàn hàng chứ!
Tôi nhìn lại, thấy hai anh xích lô cầm hai đĩa cháy đầy, mắt nhớn nhác, liếc ngang, liếc dọc, thỉnh thoảng bỏ một miếng cháy vào mồm nhai rau ráu. Thì ra, các anh giành nhau mua cháy, nên chờ từ nãy, mua cháy được nhiều hơn.
Hai anh đi về phía gần bàn tôi, vừa đi vừa bốc ăn như đói lắm, mắt hau háu nhìn mọi chỗ. Từ nãy, tôi vẫn liếc nhìn chiếc tủ kính có mấy đĩa món ăn. Tôi muốn ăn, nhưng chưa thấy ai kêu, vì họ ăn toàn cơm với nước mắm, nên tôi hơi e dè. Tôi lấy đĩa, đưa cho bà hàng. Sau khi bà hàng đơm cơm xong, tôi hỏi:
- Thức ăn kia bán thế nào?
Bà hàng nhìn tôi một lúc, như xét nghiệm xem loại người nào mà dám hỏi thức ăn:
- Năm hào một đĩa.
- Cho tôi một đĩa.
Thế là đĩa cơm của tôi bớt được một phần nước mắm. Bà cúi ra mở tủ, tôi chỉ đĩa lòng gà xào dứa.
Tôi cầm về bàn. Hai anh ăn cơm cháy mở to mắt nhìn mãi vào đĩa thức ăn của tôi. Chẳng biết vì khi nãy tôi đã uống bia hay vì cơm sắn khô đắng, tôi ăn vẫn thấy khó nuốt. Phần vì đói, phần để cho mọi người chung quanh không thấy khác thường, tôi cố tỏ vẻ ăn liên hồi. Miệng nhai nhưng đầu tôi vẫn băn khoăn, mắt nhìn mọi người ăn một cách ngon lành. Phải rồi! Mình vửa ở một nơi ăn những thứ ngon xong, chứ lâu rồi thì cũng như họ. Ăn được hai phần ba đĩa cơm, tôi buồn nôn vì đĩa lòng gà đã nguội, hơi tanh tanh, lại thấy có mấy cái lông gà con con trong một miếng ruột gà. Tôi lại phải giả vờ ôm bụng. Hai anh ăn cháy, từ nãy vẫn cứ nhìn tôi, rồi nhìn đĩa cơm và đĩa thức ăn. Tôi vừa bỏ thìa và đũa xuống, mắt hai anh đã sáng lên, nhìn tôi cười. Tôi cũng mỉm cười rồi xoa bụng, kêu trống không:
- Không biết tại sao đang ăn lại đau bụng?
Hai anh xô lại chỗ tôi rất lẹ, một anh một đĩa cơm thừa, anh kia đĩa ruột gà ăn dở.

18. Linh Mục “A”, Nhà Thờ “X”

Tôi bước ra khỏi hàng cơm, tâm tư nặng chĩu những suy tư về những kiếp người trong xã hội “ưu việt”. Tôi liên tưởng tới một hình ảnh cũng một bác xích lô gần xóm tôi ở Sài Gòn. Một buổi chiều, tôi đang ngồi học, nhìn qua cửa sổ, vẳng nghe tiếng cót két của chiếc xích lô không khách. Bác đang thủng thẳng đạp về, bên cạnh xe đeo lủng lẳng miếng thịt heo và con cá lóc. Người vợ và đứa con trong nhà chạy ra hớn hở, chưa kịp hỏi han, đã bị bác xích lô giục: “Làm mấy món nhậu ngay! Con Tư, sang bà Bẩy lấy cho ba chai đế!”
Cùng một cảnh đời, nhưng hai không gian, hai hình ảnh. Tôi quẹo về Hàng Dầu, rồi theo phố Mã Mây lên Hàng Chiếu. Tôi phải tránh khu phố Hàng Bạc, mặc dù trong lòng tôi cứ da diết muốn tìm về phố cũ, nhưng tôi vẫn còn e dè. Đến Hàng Chiếu, tôi đi ngược lên Hàng Đậu, rồi lên cầu Long Biên. Chủ trương của tôi là nghe ngóng, thăm dò về Phúc Xá Thượng và Hạ xem linh mục A thế nào. Trước khi lên cầu Long Biên để sang Gia Lâm. Tôi lại làm một số động tác nghiệp vụ để xác định an toàn. Sau khi xác định không có chiếc “đuôi” nào, tôi lên cầu.
Chiếc cầu lịch sử nổi danh của Việt Nam ngày nay đã ọp ẹp vì gánh quá nặng thời gian, đã nhìn ngắm quá nhiều biến thiên của đất nước. Trước đây, xe cộ chạy hai chiều. Nhưng bây giờ, cứ hết chiều này qua rồi mới tới lượt chiều kia. Vì thế, xe ứ đọng hai bên đầu cầu hàng dẫy dài. Nhìn những chiếc xe đủ kiểu nhưng cũng nặng nề, ì ạch như tuổi đời chiếc cầu xế chiều. Bên dưới, giòng sông Hồng vẫn cuồn cuộn đỏ máu phù sa như kiêu hãnh nói lên với thế nhân, trong lòng mình còn mang nhiều máu giặc Thanh hồi nào. Sang tới Gia Lâm, tôi thấy Gia Lâm ngày xưa náo nhiệt là thế. Sao giờ vắng vẻ đìu hiu thế này, tôi có cảm tưởng như một phố huyện chiều Đông của một tỉnh miền sơn cước.
Đến nhà thờ Gia Lâm ở trung tâm thị trấn, nhìn vào trong sân, tôi thấy đầy sân, một bên là ngô, một bên là lúa, có hai người đội nón đang cầm cào đảo lúa. Còn nhà thờ mốc meo, đóng cả 3 cửa im ỉm. Mỗi cửa lại có một miếng ván đóng chéo từ dưới lên trên, có nghĩa là cửa không mở nữa.
Tôi bâng khuâng, bàng hoàng cho tình trạng giáo dân miền Bắc. Tôi vào hẳn trong sân, bốc một nắm ngô xem hạt. Một người ngẩng lên nhìn tôi là một bác già, chừng 57 tuổi. Tôi gật đầu chào bác:
- Ngô này năm nay, hay năm ngoái hở bác?
- Hai năm rồi đấy cậu ạ! Phơi cái này, rồi đổi cái mới vào.
Ông già hiền lành cởi mở, tôi thấy dễ mến. Ông nói:
- Tôi đảo hết chỗ này, mời cậu vào uống nước.
Chừng 5 phút sau, ông ghếch chiếc cào vào hè, mở nón, lấy khăn vừa lau mồ hôi, vừa đi về phía một căn nhà cửa đang mở:
- Mời cậu vào chơi!
Tôi theo vào. Trong nhà treo nhiều hình ảnh thờ to: Đức Mẹ và các thánh. Thấy nhà cửa như vậy, tôi nhìn bác và hỏi:
- Thưa bác, vậy bác theo công giáo?
Ông già niềm nở:
- Tôi là trùm họ ở đây!
Tôi săn đón:
- Cháu cũng là công giáo đây!
Ông tỏ vẻ càng hân hoan, tôi gạ:
- Nhà thờ đây có cha không ạ?
Ông lắc đầu:
- Từ lâu không có cha, bây giờ nhà thờ làm kho của hợp tác xã, và tôi trở thành người coi kho.
Tôi cười:
- Vậy sướng quá rồi còn gì! Giàu nhà kho, no nhà bếp!
Ông cũng cười. Thấy ông là trùm họ, hiền lành vẻ chất phác, nên tôi vồn vã nhiều chuyện, trong đó tôi lựa hỏi về Cha A. Ông cho biết, hiện cha còn ở nhà thờ “X”, chỉ một tuần vào thứ Bẩy buổi sáng, cha về Phúc Xá Thượng và Hạ để làm lễ sớm mà thôi. Thấy đã thỏa được những điều mình cần biết, tôi xin phép ông già đi ngay, ở lâu không có lợi. Lúc đó đã 3 giờ chiều.
Trên đường đi về, khi xuống hết dốc Bến Nứa, tôi thấy một em gái chừng 12 tuổi, mặc áo sơ mi trắng, có vẻ sạch sẽ, tôi hỏi:
- Em ơi, có biết nhà thờ “X” ở đâu không em?
Em chỉ tay và nói:
- Anh đi rẽ ra Quan Thánh là nhìn thấy.
Hôm đó là thứ Tư, tôi nghĩ nhà thờ hôm nay vắng vẻ, không tiện vào, nhưng cứ đi qua nhìn xem sao. Tôi rảo bước hướng về phố Quan Thánh. Khi đi ngang qua nhà thờ, bên ngoài có trồng hoa, tôi nhìn vào thấy cả 3 cửa phía cuối nhà thờ đều đóng. Bên ngoài có 7, 8 cậu có vẻ là học sinh, mang theo sách vở, mỗi cậu một chỗ đang xem sách. Thấy thế, tôi rẽ vào. Trên lối đi qua chỗ vườn hoa, thấy một ông già, mặc quần áo nâu đang hý hoáy làm cỏ dưới những cây bích đào, cây hồng.v.v…Tôi vào chỗ các cậu, ngồi sà xuống, cầm một quyển sách toán xem và hỏi một cậu:
- Các cậu học chăm quá nhỉ?
Một cậu cười:
- Sắp thi mới học!
Thì ra đây là các cậu học sinh lớp 10 (vỏ bọc của tôi) đang tíu tít học thi (lúc này còn chương trình, hệ 10 năm.) Tôi mở cuốn sách Hình và Đại, thấy chương trình toán, năm cuối lớp đệ Tam và đầu đệ Nhị. Như thế, riêng về toán chương trình thấp hơn gần một năm so với trong Nam. Mục đích là xem nhà thờ, nên tôi chào các cậu đi ra. Đến chỗ bác làm vườn, tôi lên tiếng:
- Bác làm cỏ đấy ư?
Bác ngẩng lên cười, gật đầu. Tôi ngồi xuống nâng một bông hồng lên xem:
- Bông này đẹp quá bác ơi!
Ông nói:
- Mùa Xuân, có mưa Xuân mới đẹp.
Tôi hỏi luôn:
- Cha A có nhà không bác?
Ông lắc đầu:
- Cha đi từ sáng, có lẽ sắp về.
Tôi liếc nhìn vào ngõ nhà chung sâu hun hút, nói lảng sang chuyện khác. Chỉ 5 phút sau, tôi nghe tiếng mô tô rồ máy đi vào cổng nhà thờ. Một linh mục mặc áo chùng thâm, tóc cắt “tăng gô”, da mặt hồng hào khỏe mạnh, chạy xe chầm chậm vào khu nhà chung. Tôi hỏi bác làm vườn:
- Cha A đấy ư?
Ông già lại gật đầu. Cha A đi chiếc xe mô tô “bê can” 2 máy. Dáng dấp người rất khỏe mạnh. Trên đường phố Hà Nội rất ít thấy mô tô, ngoại trừ mô tô của công an hay bộ đội. Như vậy, người cũng phải có một cái thế nào đó, mới xoay được xăng để chạy. Tôi hỏi bác làm vườn một hai câu nữa, về hoa cỏ rồi ra về, tính một ngày khác sẽ đến. Trên đường về, tôi rẽ ra phía chợ Đồng Xuân, lúc đó đã 6 giờ chiều. Ở Hàng Giấy, Hàng Đường người đi lại tấp nập, đông đúc. Nhìn thấy nhà sách Nhân Dân bên kia đối diện với chợ Đồng Xuân, tôi ghé sang.
Ngay từ khi còn đi học, tôi đã rất ngưỡng mộ các nhà văn, nhà thơ. Tôi quan niệm rằng: Các ông là những người tiền phong, đi trước tư tưởng quần chúng, suy nghĩ, tìm tòi, phát triển nhiều tư tưởng mới để giáo dục, chỉ đường, hướng dẫn tư tưởng quần chúng đến chỗ thiện, mỹ của con người. Tiêu biểu của thế hệ sát tôi là các nhà văn Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Lê Văn Trương, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, v.v…; các nhà thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Tú Mỡ, Thế Lữ, Tchya, v.v… Văn thơ của các ông tôi đã đọc và rất thích, rất ngưỡng mộ. Một số người ở lại miền Bắc theo Cộng Sản. Vậy, văn thơ của các ông ấy bây giờ ra sao. Từ tâm trạng ấy, tôi vào các hiệu sách, một trong những hiệu sách lớn của Hà Nội, tôi chỉ nhìn thấy một vài tác phẩm mới như “Đời Cô Lựu”, “Bão Biển” của những nhà văn nhà thơ mà tôi đã được đọc thơ văn của họ thời tiền chiến, còn hầu hết trong núi sách: nếu không viết về hợp tác xã, đoàn viên thanh niên, công nông trường, nhà máy… Thì cũng lại là triết của Karl Marx, Lenine, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ… Mở một cuốn sách nào ra, cũng chỉ đọc được một vài trang, rồi tôi không muốn xem nữa. Tôi thấy thật nghèo nàn về tư tưởng, không có hồn, nhạt phếch.
Vì là văn nghệ chỉ đạo cho nên bất cứ một câu chuyện gì, nội dung gì cũng gò bó theo một khuôn thước nhất định. Kể cả phim ảnh, nhạc, kịch cũng vậy. Cứ xem hay đọc vài mươi tờ, đã đoán được đoạn cuối, sự việc sẽ giải quyết ra sao rồi, chán ngấy!
Tôi mua cuốn “Bão Biển” và “Đời Cô Lựu”. Một cuốn “Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi” của Võ Nguyên Giáp. Tôi mua những loại sách báo này có nhiều mục đích: Trang bị cho vỏ bọc của tôi, cũng xem qua trong nói những gì. Với chỉ mật, tôi sẽ ghi những dữ kiện cần thiết. Mua sách xong, tôi rẽ về Hàng Quạt ăn cơm. Đêm đó tôi ngủ ở nhà trọ Hàng Quạt.
Sáng hôm sau, mồng 3 tháng 6, như vậy là tôi đã đến Hà Nội đã được 2 ngày rưỡi. Tôi đã hoàn thành một phần tư nhiệm vụ. Như thường lệ, tôi ra bến xe điện bờ hồ, mua một khúc bánh mì, tờ báo “Thủ Đô”, đến một ghế xi măng ngồi ăn và nhìn ra hồ.
Theo tin hỏi được từ ông già làm vườn nhà thờ X, 5 giờ chiều nay, Cha A có giải tội hàng tuần. Vậy từ giờ cho đến 4 giờ 30 chiều làm gì? Tôi chợt nghĩ đến Nhà Hát Lớn Hà Nội và phố Tràng Tiền, xưa gọi là phố Tây, nơi sang trọng có nhiều người ngoại quốc, nên các cửa hàng ở đó cũng theo lề lối Âu Tây. Nghĩ như vậy, tôi đứng lên, kín đáo quan sát tất cả các bộ mặt chung quanh trong phạm vi 100 mét.
Tôi đi về phía phòng thông tin cũ, rẽ vào một ngõ hẹp rồi quẹo xuống vườn hoa “Con Cóc”. Đến đây, tôi tìm một ghế đá ngồi để xác định an ninh bằng một phương pháp chuyên môn. Không có một hiện tượng nào tôi phải chú ý cả. Yên tâm, tôi ngoặt ra bờ hồ, qua nhà bưu điện, đến nhà hàng “Gô Đa”, vào Tràng Tiền. Tôi đang đi, miên mang suy nghĩ, bỗng tôi chú ý đến hai cô gái môi son. Mặt đánh phấn, chí chóe cười đùa, đang đèo nhau trên một chiếc xe đạp. Hai cô lại mặc “duýp” mới chứ! Đó là một hiện tượng không bình thường ở Hà Nội thời ấy. Tôi đưa mắt nhìn toàn cảnh phố phường lúc đó. Đường phố có vẻ nhộn nhịp hơn. Sáu, bảy chiếc xe du lịch cũ kỹ chạy trên đường. Một chốc, tôi lại thấy những chiếc xe đó quành lại, cứ vòng đi vòng về. Đây đó, tôi thấy nhiều cô gái mặc áo dài đi trên phố, cũng như xe đạp dưới đường. Những chiếc áo dài xanh, đỏ vẫn còn hằn nếp gấp, chứng tỏ đã lâu ngày, có khi hằng năm, hôm nay Chủ Nhật mới sử dụng. Những cô gái này cứ quành đi quành về trên đường phố Tràng Tiền.
Tôi tự hỏi, họ làm gì thế? Mắt tôi chợt nhìn, xa xa mãi tít tận thềm nhà Hát Lớn, một đám người lố nhố đang điều hành một máy quay phim.
À, một cái bịp của Cộng Sản đây! Những đoạn phim này nếu đưa vào Sài Gòn, vùng “giải phóng”, sang Thái Lan, Tân Đảo, hay nơi nào khác… thì đây: Hà Nội, thủ đô của xã hội chủ nghĩa, dân chúng, xe cộ vui tươi, sầm uất nhé! Họ đâu biết rằng cảnh phố phường vui tươi ấy chỉ có một lúc này. Nhưng, nếu ai có nói với họ không phải như vậy, Cộng Sản đóng phim bịp đấy, thì họ cũng không tin. Thấy chỗ nhà hát lớn như thế, tôi không tiện đến đó nữa. Tôi lang thang xuống phố Huế rồi rẽ sang Tràng Thi quẹo về bờ hồ, ngược lên phố Huyện ra Hàng Trống, Hàng Gai. Hà Nội không có một hiệu ảnh tư nào cả. Những hiệu ảnh lớn ngày xưa, trước 1954, bây giờ còn sót hiệu nào, cũng chỉ thấy đề tấm biển nhỏ: “Ở đây nhận rửa phim và tô màu” (Vậy, nếu ai không biết, vào hiệu bảo “chụp cho tôi cái ảnh”, đúng người đó mới ở trên trời rơi xuống.)
Những hiệu ảnh khác bây giờ, hoặc đóng cửa, hoặc chuyển thành một nơi sản xuất hàng thủ công. Toàn bộ mấy khu trung tâm của Hà Nội, tôi chỉ thấy hai chỗ chụp ảnh quốc doanh của nhà nước. Một hiệu ở Tràng Tiền và một ở góc chéo Bờ hồ gần quán mụ Béo ngày xưa. Giữa thủ đô của một nước, nhìn những hiệu may lớn ngày xưa, một vài cửa hiệu vẫn còn tấm biển quảng cáo tuy đã long lở sơn. Nào đâu những tấm biển của ngày xưa “Cai cúp tốt nghiệp ở Paris,” nào “Chuyên viên may mặc, có nhiều năm kinh nghiệm ở Marseilles,” v.v… Bây giờ, thường thường ở cửa kính trước hiệu, đeo hay dán một cái biển nhỏ dài chừng 50 phân, rộng 15 phân. Bằng gỗ hay bằng một tấm bia: “Ở ĐÂY, NHẬN VÁ VÀ LỘN CỔ ÁO.” Nghĩa là, không còn cái cảnh có vải sẵn để may cắt quần áo. Tôi đi nhiều, khắp đây đó trên đường phố Hà Nội, hiệu lớn cũng như hiệu nhỏ, thường thấy cái biển đề như vậy đập vào mắt tôi. Nếu có máy ảnh, tôi sẽ chụp khung cảnh hiệu và tấm bảng này. Chỉ điều này thôi, đã nói lên nhiều sự việc về kinh tế cũng như cuộc sống, của người dân thành phố Hà Nội, dưới chế độ Cộng Sản.
Thỉnh thoảng nhìn thấy những ngưòi mồ hôi nhễ nhại, kéo những chiếc xe ba bánh trên đường phố, tôi cứ bần thần suy nghĩ. Trước đây, khi còn ở Sài Gòn, tôi thường ngây thơ lý luận: Xã hội loài người luôn luôn tiến lên, 10 năm sau sẽ khác hẳn 10 năm trước. Điều này là tất yếu ở mọi nơi, mọi nước. Vậy, thời con người thay con vật kéo xe, kéo cầy đã phải qua rồi, trừ những hoàn cảnh, những lúc đặc biệt nào đó. Còn nói chung, sinh hoạt bình thường ngoài đường phố, thì trên thế giới này hiện nay. Dù ở một nước ban khai lạc hậu nào đó, cũng không còn cái cảnh người làm thay con vật. Cảnh người kéo xe ba gác ở Hà Nội bây giờ, là một trong những thực tế đã mở mắt cho tôi, để tư duy, kiến thức của tôi được mở rộng dần. 4 giờ 30 chiều. Tôi phải xúc tiến việc đến với linh mục A. Theo kế hoạch thời gian, tôi phải nằm lỳ ở đấy ít ra 10 ngày để tuyển mộ và huấn luyện cho kịp với ngày 16 hay 18 trao tài liệu “M” theo như quy ước.
Tôi tản bộ lên phía nhà thờ X. Khi gần tới nơi, tôi nhìn thấy một cửa phụ phía dưới nhà thờ mở một cánh, và loáng thoáng một vài ông bà già đi vào. Tôi cũng đi vào nhà thờ. Khoảng 15, 16 người, quỳ rải rác ở các hàng ghế trong nhà thờ rộng thênh thang. Hầu hết là các ông bà đã có tuổi. Tôi tiến đến quỳ cạnh một ông già đầu tóc bạc phơ, gần dẫy ghế phía cuối. Một lúc, tôi ghé gần ông già, hỏi:
- Thưa cụ, hôm nay cha có giải tội không?
Ông già phều phào nói nhỏ:
- Có, tí nữa cha ra.
Chừng 10 phút sau, cha từ phía sau ra trước bàn thờ, quỳ xuống cúi đầu đọc kinh. Một lúc, người đi xuống. Trong khi đó, ở dưới này một số bà và một ông đứng dậy, ra phía tòa giải tội đứng xếp hàng. Tôi cũng theo đến tòa giải tội đứng vào hàng. Khi đến lượt, tôi tiến lại tòa giải tội, quỳ xuống. Sau khi làm vài thủ tục bắt đầu của buổi xưng tội, để tranh thủ thời gian, tôi nói luôn:
- Thưa cha, con vừa ở Sài Gòn ra, con có mang theo một lá tâm thư của cha Hoàng Quỳnh gửi cho cha. Vậy, con có thể đưa cha bằng cách nào cho thuận tiện?
Im lặng một lúc, cha nói:
- Tí nữa khi giải tội xong, tôi quỳ ở phía dưới nhà thờ. Anh cứ đưa tự nhiên.
Tôi băn khoăn:
- Thưa cha, như vậy có điều không tiện chăng?
Cha nói:
- Không sao cả! Ở đây, giáo hữu vẫn thỉnh thoảng đưa thư xin lễ cho tôi.
Qua cách đối ứng, và cách nói chuyện của cha, tôi thấy cha là một người rất bình tĩnh, điềm đạm. Vì cha ở trong phòng giải tội, tôi không thể nhìn được nét mặt của người như thế nào, khi bất chợt cha gặp một người ở Sài Gòn ra. Tôi nói tiếp:
- Thưa cha, con sẽ gặp cha để thưa chuyện với cha nhiều. Nhưng, con muốn trước đó, cha hãy đọc lá thư của cha Hoàng Quỳnh đã. Vậy, thường ngày cha có làm lễ sớm không?
- Sáng mai, tôi làm lễ sớm từ 5 giờ, xong lễ, anh lên gặp.
- Con sợ, tí nữa ra ngoài đưa thư không nói được gì. Vậy thưa cha, gặp cha ở đây thuận tiện, hay ở Phúc Xá Thượng hay Hạ, tiện?
- Cứ ở đây, tiện hơn.
Tôi vờ cuối đầu đọc kinh ăn năn tội như mọi người, rồi ra. Tôi quỳ ở hàng ghế cuối, chờ.
Sau hai người nữa, hết người xưng tội. Cha ra, quỳ ở trên tôi khoảng 6, 7 hàng ghế. Chờ cha làm dấu xong vừa đứng dậy tôi cầm thư tiến đến. Gần chung quanh không có ai, tôi nói khẽ:
- Sáng mai, con sẽ đến cha!
Rồi, tôi xuống cuối nhà thờ và ra ngoài. Tôi ra lối cổng nhà thờ, sát ngay hè phố. Gọi là cổng, nhưng không có cánh cửa, đó là một lối xe ra vào rộng, giữa hai bờ tường xây dọc theo hè phố. Mắt tôi thoáng thấy phía bên phải, một vật gì loáng thụt vào một bờ tường, cách tôi khoảng 10 mét. Phản xạ tự nhiên của nghề nghiệp, lẽ ra tôi quặt theo phía trái theo hè phố để về Hàng Than, nhưng để xác định cái bóng lúc nãy, tôi bước thẳng xuống đường, để sang hè phía bên kia.
Lợi dụng một chiếc xe từ phía trái đi lại, quay lại, tôi vờ chú ý nhìn chiếc xe, khi xe đi ngang qua mặt, tôi nhìn theo. Rất nhanh, tôi đã thấy một tên đội mũ cá két xám, đeo kính râm, chừng 30 tuổi. Y đang vờ nhìn về phía phải y, để tôi không thấy mặt.
Căng thẳng bắt đầu! Tôi hoàn toàn vờ như không hề biết, cứ thong thả tiến về phía Hàng Than. Tuy vẫn thủng thẳng bước, nhưng lòng tôi đầy phán đoán, cân nhắc. Để xác định rõ, tôi đi về phía chợ Đồng Xuân. Hôm nay, khu mặt tiền chợ có vẻ đông hơn hôm trước, có lẽ vì trời còn sớm. Tôi lại vào hiệu sách, vờ lựa chọn, tìm một cuốn. Khi tôi cố ý với một quyển sách trên kệ cao, tôi đã thoáng thấy tên đó đứng bên kia cửa chợ. Lợi dụng việc chọn sách và mua một cuốn về nông nghiệp, cũng như khi ra quầy trả tiền, tôi đã quan sát hết mọi bộ mặt, quần áo, dáng dấp những người chung quanh mà tôi có thể nhìn thấy. Xong, tôi theo Hàng Giấy xuống Hàng Đường rẽ vào Hàng Bồ, qua Mã Mây, vào quán cơm Hàng Bè lần trước. Cơm nước lúc này, làm sao ăn ngon cho được nữa! Bao nhiêu thính giác, thị giác và trí óc của tôi đang quay cuồng với tên mang kính râm. Nhìn chéo sang góc chợ, tôi thấy tên kính râm đang lảng vảng tiến vào hàng cơm, tôi lại thấy một tên đi xe đạp, mặc áo công nhân xanh, chừng 25 tuổi, tôi đã thấy y ở Đồng Xuân. Hai tên.
Tôi cố gắng nhồi cơm vào, chứ tôi còn biết mùi vị gì. Ăn xong, tôi về nhà trọ Hàng Quạt để đi ngủ. Giường tôi nằm giữa hai chiếc giường, mà hai người nằm đó tôi đã biết mặt từ hôm trước. Nói chung, khu tầng dưới tôi nằm, có 9 giường. Hôm trước, chỉ có 3 giường trống là số 1, 2, và 5. Tôi nằm giường 4.
Khi tôi vào đi tắm, lúc đó là 8 giờ tối, tôi chuẩn bị lại hết những gì cần thiết. Trong mình tôi chỉ còn 3 tài liệu: 2 của linh mục B và C, 1 tài liệu “M”. Tắm xong ra, tôi thấy giường số 5 có một anh cũng đeo ba lô bộ đội mới vào thuê. Tôi về giường, mỉm cười gật đầu chào, anh cũng gật đầu mỉm cười với tôi. Anh ta chừng 26, 27 tuổi, người trắng trẻo. Trong khi tôi loay hoay sắp xếp giường và túi dết. Anh cũng lục đục tìm thế nằm. Một lúc tôi lên tiếng:
- Không hiểu sao, nhà thương ở đây xin nằm điều trị khó thế anh nhỉ?
Anh nói:
- Tùy theo bệnh. Tôi cũng ở Bắc Ninh về chữa bệnh đây.
Tôi hỏi ngay:
- Anh bị bệnh gì?
Anh thủng thẳng:
- Đau dạ dầy.
Trong óc tôi đặt ngay một nghi vấn. Được, tao sẽ có nhiều cách để biết về mày. Chữa bệnh hay theo dõi tao, rồi tao sẽ biết! Đêm hôm đó, phải thú thực, tôi không tài nào ngủ nổi, mệt lắm thì chỉ nhắm mắt. Đầu óc căng thẳng. Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu suy nghĩ, tính toán. Địch, nghĩa là phản gián Hà Nội đã phát hiện ra tôi? Hay đây chỉ là công an ngầm hình sự theo dõi lưu manh, buôn lậu? Vì khâu nào bị lộ? Chúng bắt đầu phát hiện ra mình từ lúc nào? Vì sao?
Tôi nhớ lại, lúc sáng khoảng 8 giờ rưỡi, 9 giờ, ở bờ hồ bến xe điện, tôi đã xác định là không có “đuôi”. Vậy, có thể địch phát hiện ra tôi từ nhà thờ X. Nếu từ nhà thờ X, có hai lý do khả nghi: Thứ nhất, có thể từ ông già làm vườn. Ông là người đã bị công an tình báo Hà Nội mua hoặc đặt vào để theo dõi, giám sát mọi hinh vi của Cha A. Thứ hai, Cha A ở giữa lòng Hà Nội, lại là một linh mục có khả năng, cương cường, nhiều lần chúng mua chuộc không được. Như vậy, chính chúng thường xuyên đặt người nhòm ngó cha rồi.
Vì chính quyền miền Nam đang tăng cường tung gián điệp, biệt kích ra miền Bắc, cụ thể như anh Hảo Hải Quân đã tâm sự với tôi. Hơn nữa, từ Hà Tĩnh tới Hà Nội, đâu đâu tôi cũng thấy khẩu hiệu: “Phòng gian, phòng gián, bảo mật.” Dân chúng đã được giáo dục học tập, thấy một hiện tượng lạ, một người lạ phải đến báo cáo cho công an. Như vậy, tất nhiên, Cục phản gián Cộng Sản đã bí mật rải người canh gác cả 5, 6 nhà thờ ở Hà Nội có linh mục ở. Chúng thừa đoán được là, nếu gián điệp mò về hoạt động, nhà thờ chính là những nơi gián điệp cần bắt mối, liên lạc. Có thể, tại tất cả địa phương, nhà thờ, xứ đạo có linh mục, chúng đều có lệnh cho từng địa phương tùy nghi để bố trí theo dõi, giám sát những hành vi của các linh mục, và những người lạ đến giao thiệp, gặp gỡ. Riêng Hà Nội là trung tâm đầu não của đảng, cũng như của chính quyền, vấn đề này càng được đặt ra đúng tầm quan trọng của nó.
Tôi mới đến nhà thờ X lần thứ II. Lần đầu, có thể tôi đã đến trong một lúc sao nhãng nào đó của nhân viên phản gián. Hoặc, nhờ có một số học sinh đang học thi, tôi đồng dạng, nên qua mắt được chúng, chúng vô tình không để ý. Lần này, đến nhà thờ, chỉ có một số ông bà già, còn thanh niên trẻ tuổi không ở công trường, xí nghiệp, nhà máy, thì cũng đội nọ, đoàn kia, họp hành làm gì có thì giờ mà đi nhà thờ. Ngay ngày Chủ Nhật cũng chỉ họa hằn.
Bao nhiêu vấn đề làm tôi căng óc suốt đêm. Nhiều vấn đề chưa giải đáp được sáng tỏ, phải đợi những ngày tới. Tôi thấy trước mắt, muốn chống đối, đấu tranh với kẻ thù lúc này, phải cần có đầu óc minh mẫn, sáng suốt. Như vậy, cần phải khỏe, không ngủ được, không thể khỏe. Do đấy, tôi gạt hết, quyết tâm ngủ ít ra một tiếng, để ngày hôm sau ứng phó với kẻ thù.

19. “Đuôi!!!”…

Bẩy giờ sáng hôm sau, tôi mới dậy. Tên đau dạ dầy cũng dậy lúc đó. Tôi nhăn nhó:
- Đêm qua, tôi tưởng gần chết! Tim tôi nhiều lúc nghẹt lại tưởng mê man, xỉu đi. Khi ở nhà, đôi khi tôi cũng bị như vậy. Hôm nay, tôi phải vào nhà thương xem sao. Tuổi trẻ mà nhiều khi không muốn sống nữa!
Y nói:
- Hãy cố gắng đi, có khi vào Việt Đức sẽ chữa khỏi. Khoa học ngày nay, chữa được nhiều bệnh lắm.
Tôi hỏi:
- Anh đi nhà thương nào?
Y trả lời:
- Hôm nay tôi chưa đi, còn bận đến nhà người anh họ.
Lúc vào rửa mặt, tôi xem trong túi dết: Không còn đồ gì đáng ngại. Trước khi buộc túi, tôi cố ý để đuôi bàn chải ló hơn đuôi hộp thuốc đánh răng đúng nửa phân và quấn vào cái quần lót; giữa cuốn “Đời Cô Lựu” và cuốn của Võ Nguyên Giáp, tôi kẹp một miếng giấy bé bằng đốt ngón tay út giữa hai cái bìa, rồi xếp lại. Khi buộc túi dết, tôi thắt nút quai chèo, dây dài thò dài hơn đúng 3 lần giây ngắn. Xong, tôi đem ra bàn trực gửi, rồi đi.
Như thường lệ, tôi cũng ra bến xe điện mua một cái bánh mì nhỏ như mọi khi, sau khi quan sát hết một chu vi có thể được do mắt tôi. Tôi hơi nghi bộ mặt và thái độ của mấy người, hai anh chàng hôm trước không thấy. Ăn xong, tôi đi về phía nhà thương Việt Đức. Tôi quyết định không trở lại linh mục A nữa, trừ trường hợp tôi cắt được đuôi, hoặc có thời cơ thuận tiện.
Tôi quẹo xuống Trường Thi, đi qua một đường hẻm và một phố nhỏ, đến một cái ghế đá ở Trường Thi, tôi ngồi nghỉ. Thỉnh thoảng tôi lại để tay lên ngực nhăn nhó. Rất lẹ, tôi đã thấy hai chú, mà tôi đã nghi ngay trên bờ hồ. Á chà! Lại có một cô gái chừng 18 tuổi. Mặt non choẹt, có hai mớ tóc đuôi sam, đang ngồi ở một hàng nước vỉa hè cách xa chỗ tôi đến 250 mét. Dáng dấp ấy, tôi đã thấy đứng ở bến xe điện. Được, xem chúng mày bao nhiêu đứa! Cô gái cứ cúi xuống, hai tay lúc lắc đan len. Như thế, hiện nay là 3 đứa.
Tôi vào một cửa hàng quốc doanh, mua một chiếc khăn mặt 5 hào, rồi đi trở về nhà thương Việt Đức. Khi gần tới nhà thương, tôi coi như lần đầu tiên đến đây. Tôi phải hỏi thăm một người đi đường, họ chỉ cho. Tôi lớ ngớ như bộ điệu của một anh chàng ở tỉnh, chưa hề tới lần nào, từ cách đưa giấy tờ, cho tới khi vào trong. Dù không cần quan sát, tôi cũng hiểu mọi cử chỉ hành động của tôi; ít nhất có 6 con mắt không bỏ sót. Tôi cố ý tránh, không bén mảng tới mấy dẫy nhà của Z-5.
Tôi hỏi thăm những người y tá để đến thẳng khu phòng khám, chữa về tim. Điều phiền toái là tôi lại không có bệnh. Vì thế, tôi chỉ đến phòng đợi, hỏi han vớ vẩn về tim, có nằm điều trị được không v.v… Khi họ hỏi tôi có giấy giới thiệu không? Tôi lại lắc đầu. Loanh quanh một lúc, thế mà cô ả đan len cũng mò vô, và một anh chàng nữa.
Khi ra cổng bệnh viện, ngay khi vừa tới mép cổng, tôi đã thấy anh chàng mặc áo nâu cùng xuống Tràng Tiền với tôi, đứng mãi bên trong giậu găng của một ngôi nhà xa tôi đến 300 mét, thò mỗi cái mặt ra. Ngay chéo bên kia phố, một anh xích lô đầu đội mũ công nhân, mà tôi đã để ý từ dưới Trường Thi, đang lúi húi nắn cái lốp (vỏ) xe. Tôi biết rồi, đừng vờ nữa!
Như thế là những 4 người. Điều này đã nói lên tình hình rất căng. Không thể còn lỏng lẻo mơ hồ nữa.
Tôi về bờ hồ, sang phía đền Ngọc Sơn. Chỗ có nhiều cây to, có các quán nước ngoài trời, vào một bàn, mua một chai nước ngọt, ngồi nhìn ra hồ. Tôi ngồi nơi vắng lặng như vậy, cho tinh thần được thoải mái để cân nhắc, tính toán. Lúc này, tôi không cần để ý tới người theo dõi cho mệt. Cái cần thiết, tôi đã biết rồi. Mức độ căng thẳng tôi cũng đã nhìn thấy. Vậy, chỉ còn đào sâu tính toán cho kỹ. Rồi theo đó giải quyết.
Vẫn làn gió hồ hiu hiu thổi nhẹ, vẫn những bông phượng vĩ đỏ ối quanh hồ, nhưng hôm nay tôi không cần biết, trước mắt mà coi như không thấy. Tôi chưa kết luận, nhưng những hiện tượng vừa qua trong hai ngày cho thấy, phải tới 90% là phản gián Hà Nội đã phát hiện ra tôi. Nếu chúng là phản gián, chúng đã xác minh được tôi rồi. Tôi không phải là người sống ở miền Bắc, tuy có giấy thông hành đầy đủ tên tuổi, quê quán do công an huyện ký. Chúng chỉ cần nhắc điện thoại là biết rõ rồi. Tôi làm gì có tên trong sổ cái.
Nếu chúng là phản gián, tôi phải tin chắc nguyên tắc này, chúng sẽ chưa bắt tôi. Chúng cần bí mật theo dõi, để xem tôi đi những đâu, làm gì, giao thiệp với những ai…? Trừ phi tôi định chuồn. Vậy tôi yên tâm, chưa sợ chúng bắt. Tôi cần tỉnh táo, bình tĩnh để đối ứng. Từ nguyên tắc trên, đôi khi chúng lại tạo điều kiện cho tôi đi lại, hoặc ra vào một cách dễ dàng hơn, ở một cơ quan nào đó mà tôi muốn. Có như vậy, chúng mới biết được tôi định làm gì và giao thiệp với ai? Mặt khác, chúng sẽ bố trí nhân viên phản gián sao cho:
- Không bỏ sót một việc gì mà không biết, dù nhỏ nhặt của con mồi. Nếu có quay phim thì càng tốt.
- Tuyệt đối khéo léo, không để cho con mồi biết là đã bị phát hiện.
- Cố tránh đừng để con mồi thấy mặt nhiều lần, nó sẽ nghi ngờ.
- Bám riết, không được để mất con mồi. Phải tinh ý, đoán trước được ý đồ của con mồi định làm.
Những điều trên, có lúc tưởng như mâu thuẫn với nhau, vì thế, để giải quyết, chỉ còn một cách duy nhất là tăng cường đầy người theo dõi, vòng trong, vòng ngoài, v.v… Mục đích của chúng là phải biết rõ về tôi, và tìm hết mọi mắc lưới của tôi. Biết khả năng của địch ưu, cũng như nhược, để tùy cơ ứng biến theo điều kiện của tôi. Về phía tôi, tôi nhận thấy, điều đầu tiên và quan trọng nhất là: Bằng mọi giá, mọi cách dứt khoát không để cho chúng biết là tôi đã biết chúng. Dù sau này, sự việc diễn tiến như thế nào, điều đó chỉ có lợi cho tôi mà thôi. Tôi sẽ phải tạo điều kiện cho đối phương mất cảnh giác rồi bất ngờ cắt “đuôi”. Nếu có thời cơ tôi sẽ trở lại linh mục A. Nắm vững là chúng chưa bắt mình, vậy thôi phải triệt để lợi dụng yếu tố này. Kéo dài thời gian, tung hỏa mù, để trao tài liệu “M”. Tương kế tựu kế, tôi sẽ dẫn đối phương về một chiều hướng khác. Tôi phân tích, cân nhắc, đặt ra những phương hướng trên. Trước mắt, tôi cứ như thế, rồi tùy theo diễn tiến của thực tế, sẽ bổ sung hoặc thay đổi.
Một điều tôi buốt ruột đau lòng lúc này, là hộp thuốc hóa trang đã để lại miền Nam. Tôi đã học và thực tập hóa trang nửa tháng trời. Lỗi này không do tôi, mà do các ông dậy tôi. Các ông đã chuyển hết đồ của tôi đi trước. Tôi tin nơi các ông, nên tôi đã không kiểm soát lại. Âu đây cũng nói lên một khía cạnh, về tinh thần tắc trách của cán bộ miền Nam. Tôi sẽ trình bầy thêm sau này.
Tôi ý thức được sự nghiêm trọng trong lúc này. Đi hoạt động trong vùng đầu não của địch; đã bị lộ, chẳng khác gì con cá nằm trên thớt. Dù vậy, với bản tính coi thường nguy hiểm của mình, nên tương đối tôi vẫn bình tĩnh. Đây là lúc thử nghiệp vụ giữa miền Nam và miền Bắc. Ở miền Nam tôi chỉ là loại tép riu thôi, nhưng ra đây, tôi cũng dám đùa dỡn với các ngài! Khi đã có chủ định tôi cảm thấy an tâm, bình thản hơn. Ngay sau đó, tôi trở về bến xe điện. Đi Hà Đông chơi, vừa để nhìn rõ được mức độ theo dõi, tôi vừa xem cảnh xây dựng đổi mới của xã hội chủ nghĩa, sau hơn 8 năm thống trị.
Chủ trương đã như vậy trong lòng, nên cách đi đứng cũng như cách lên xe điện. Tôi tỏ ra là một người rất chậm chạp, đôi khi còn nhút nhát nữa, như: Ở bến xe điện, tôi ngồi ở ghế xi măng, vờ cứ cắm cúi xem báo, chờ cho xe điện bắt đầu chuyển bánh. Tôi mới giật mình đứng dậy chạy theo, chới với, lúng túng, rồi đành nhìn theo xe điện chạy, tiếc ngẩn ngơ, nhỡ tầu v.v… Mục đích là để cho những người theo dõi tôi, mang một ấn tượng, thằng này dáng bộ chậm chạp, nhát nữa. Họ đâu biết rằng, với tốc độ xe điện ở Hà Nội, hoặc xe buýt ở Sài Gòn, bất cứ lúc nào tôi cũng có thể nhẩy lên hay nhẩy xuống được.
Lúc đó đã một giờ chiều, ngày 4 tháng 6. Chẳng hiểu cô gái ấy ăn cơm ở đâu, bây giờ cũng thấy đứng ở cuối toa xe điện theo tôi vào Hà Đông. Hai người lên xe điện, còn các người kia tôi không thấy. Khi tầu điện ra khỏi thành phố, tôi muốn quan sát lại phía sau, xem có xe nào đuổi theo không. Biết rằng có bốn con mắt đang để ý tôi ở trên tầu. Mắt tôi cứ vờ như đang chú ý đến một người đang gánh rạ dưới đường. Xe điện chạy qua, và tôi phải ngoái lại nhìn theo người gánh rạ. Tôi đã nhìn thấy hai anh chàng ngồi trên một cái Mô bi, đang cúi gò người chạy theo tầu, thật vất vả. Một chiếc Commanca nữa ở phía sau. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy kiểu xe và hình dáng người trên xe. Chốc nữa vào Hả Đông là tôi sẽ biết ngay.
Chà, khu Cao Xà Lá (Cao Su, Xà Phòng, Thuốc Lá)! Đọc ở trên báo, nghe ở trên đài, tôi tưởng khu này do Trung Quốc giúp xây dựng lớn lắm kia. Thế mà cũng gọi là khu Liên Hợp Trung Quy Mô! Biết họ nói bốc, tôi đã trừ hao đi rồi, thế mà vẫn còn thấy ngạc nhiên. Nhìn toàn khu, chỉ như một cái hãng tư trung bình của miền Nam.
Tôi đã nhìn thấy số của chiếc xe Commanca: HN5037. Trên xe có 3 bộ mặt. Tuy tôi chưa chắc, nhưng hiện tượng thì nghi. Nó đã chạy vượt trước xe điện. Vào tới Hả Đông, hành khách xuống, tôi cũng xuống theo. Tôi đi lang thang mấy phố. Nói mãi cái nghèo của Cộng Sản thành nhàm. Tôi chỉ thấy Hà Đông như nhà quê, cái thành phố mà ngày xưa, đầu 1954, tôi và người em họ Phan Gia Ân thường đèo nhau vespa đi vào chùa Trầm, vào trại vải chơi đùa trong thời hoa mộng. Tôi có cảm tưởng lúc đó Hà Đông là một cô gái 18, đôi mươi của hương sắc. Còn bây giờ là một bà lão 60-70 tuổi móm mém. Cuộc đời thăng trầm đã làm cho cô thất cơ lỡ vận, bần hàn, cực nhọc. Quanh quẩn, đến một đầu phố, tôi đã thấy từ xa trong một góc đường, chú HN5037 đang đậu im phăng phắc. Chốc nữa tao về Hà Nội, mày mà mò theo là tao nhớ mày!
Tôi trở ra bến xe, về Hà Nội. Xe điện đi được nửa đường, lúc ngừng ở một bến phu, chú HN5037 chạy vượt qua. Tôi nhận được mặt thêm 3 người nữa, đồng thời lúc này tôi cũng khẳng định chúng 100% là phản gián Hà Nội. Tuy vậy, mức độ chúng đánh giá về tôi, tôi chưa xác định được. Với sự hiểu biết của tôi, điệp viên có nhiều loại, nhiều trình độ: Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Lý Thừa Văn, v.v… Chẳng đã có thời gian hoạt động tình báo đấy ư? Ở bờ bên kia Bến Hải, khoán 300 đồng sang khu phi quân sự Bắc, mua hay lấy một tờ báo Nhân Dân. Như vậy, cũng là hành động của một điệp viên (điều này, chính ông Hương đã kể). Từ ý nghĩ trên, tôi chẳng cần giữ vỏ bọc là học sinh ở Vĩnh Linh nữa. Học sinh gì mà chúng phải vận dụng đến 7 người một ngày, cả xe Commanca đi theo như thế?
Biết người, biết mình một tí. Chúng đã biết tỏng tôi rồi; chúng chỉ không biết tôi ra đây để làm gì thôi. Vì thế, chúng sẽ còn phải mất nhiều tâm sức với tôi. Xe điện về tới bờ hồ thì đã chiều, tôi đi ăn cơm rồi về nhà trọ. Đưa thẻ lấy túi dết. Chưa cần mở ra, tôi đã biết có người mở túi dết của tôi ra rồi. Không sao cả, ngay khi tôi ở hàng cơm ra, tôi đã thấy trên một cửa sổ nhà đối diện, một người chụp ảnh tôi. Cũng không sao cả! Dù tôi muốn hay không, bây giờ cái thế đã như vậy rồi, sợ cũng chả được nữa. Không sợ mấy, tôi còn được cái khoái ngắm cảnh khi cưỡi trên lưng cọp.
Đêm ấy, tôi vẫn ngủ quán trọ Hàng Quạt. Tên đau dạ dầy cũng vẫn ở đó. Tôi đã biết nó khi đi ăn cơm. Lúc ở bờ hồ rẽ về, từ xa tôi đã thấy nó đứng nói chuyện với một trong số người theo dõi tôi từ hôm qua đến bây giờ. Nó chủ quan, nghĩ rằng tôi không thể biết tên kia. Ngoài đường phố người đông như hội, gặp người quen là chuyện thường. Nhưng vì tôi đã biết tên kia, nên biết về nó. Do vậy, tôi đi tắm, xong về giường nằm. Nó không hỏi, tôi cũng chả cần nói, dù có mỉm cười gật đầu chào nhau. Đêm qua tôi mất ngủ. Đêm nay, tâm hồn đã xác định rõ, vì thế, tôi cần ngủ cho lại sức đã. Thời gian chờ còn hơn 10 ngày nữa mới tới 16-18: Ngày quy định trao tài liệu “M”. Trong thời gian này, tôi phải tung hỏa mù bằng cách:
- Sẽ dẫn chúng đi lung tung để lợi dụng nhìn được nhiều cảnh vật của Hà Nội, biết thêm nhiều điều hữu ích khi trở về Sài Gòn. Trong khi đó, nếu có thời cơ, tôi cắt “đuôi” ngay.
- Ngoài ra, tôi còn phải tỏ ra là một người có tính tiểu tư sản lãng mạn, lưu luyến cảnh cũ (mặc dù có nhận nhiệm vụ về miền Bắc theo dõi sư đoàn 308, nhưng trong lòng không thích hoạt động. Cụ thể, là không hề chú ý tới những nơi đóng quân, cũng như những bộ đội, xe cộ quân sự gặp trên đường đi qua). Lâu ngày, nhớ Hà Nội, về thăm, chứ không thích hoạt động, thế thôi.
- Trong quá trình đi linh tinh như vậy, tôi phải để ý tìm một địa thế thuận lợi để cắt “đuôi”.
Tuy trong lòng tính như thế, nhưng nằm xuống, tôi cũng không làm sao ngủ nổi. Cứ vẫn vơ nghĩ suy, hết sự việc này, lại sự việc khác tiếp nối kéo đến. Ngay khi còn ở Sài Gòn, trước những ngày đi, tôi vẫn tâm niệm là: Ra đi, đẹp nhất là hoàn thành nhiệm vụ trở về. Thứ nhì là …chết! Khi không may mà chết, chả có gì để nói nữa, vì chết rồi còn biết gì nữa đâu. Hòa cả làng! Trường hợp thứ ba là trường hợp xấu nhất, tức là bị bắt. Phải chịu đắng cay, khổ đau rồi cũng chết. Tuy thế, qua bao nhiêu sách báo, truyện tôi đã từng đọc. Trong nhà tù, có biết bao nhiêu những nhân vật quái kiệt, tài ba, những con người xông xáo, muốn làm những việc khác thường, nhưng không gặp thế, gặp thời. Vậy là dịp tôi được gần gũi những bộ óc uyên bác, sẽ học hỏi được nhiều; từ đấy, tư duy và kiến thức của tôi được mở rộng. Giòng suy nghĩ cứ chảy dài vào đêm thâu đổ dần vào giấc ngủ muộn.
Sáng hôm sau, Hà Nội mưa dầm dề. Những trận mưa mùa Hè như đổ nước xuống. Tôi ngồi dậy, nghe tiếng mưa rơi và gió thổi bên ngoài, tôi liên tưởng đến một ý thơ của một thi nhân người Pháp, Verlain thì phải, đúng với tâm trạng của tôi lúc này: Mưa gió ngoài phố phường, như mưa gió trong lòng tôi. (Il pleut sur la ville, comme il pleut dans mon coeur). Mắt tôi chợt thoáng bắt gặp một bộ mặt quen thuộc, ngồi nghiêng nghiêng trên giường số 9. Gớm thật, những hai tên cùng ngủ với tôi. Tôi đi đánh răng, vừa rửa mặt vừa nghĩ ngợi: Mưa gió thế này đi đâu? Tôi chợt nghĩ, chúng nó bám mình riết quá!
Trên nguyên tắc, chúng nó sẽ chưa bắt tôi. Nhưng điều gì có thể chắc chắn là chúng chưa bắt? Nhỡ ra vì một lý do bất thường nào đó, chúng lại vồ thì sao? Vậy, tôi phải phòng hờ cả những trường hợp ngoại lệ. Hai lá thư của các linh mục B và C, tôi xét thấy không thể thực hiện được. Hơn nữa, hai linh mục này cũng chỉ là thứ yếu trong công tác của tôi. Tôi quyết định hủy. Sợ vào chỗ rửa mặt lâu, chúng nó đặt vấn đề, rồi theo vào. Tôi vờ ra cất bàn chải và khăn mặt cho chúng thấy, rồi tìm giấy để chúng biết là tôi đi cầu. Vào nhà xí, sau khi quan sát mọi ngóc ngách, không chỗ nào để bên ngoài có thể nhìn được tôi, trừ lỗ khóa ở cửa. Tôi tụt quần dài treo vào quả nắm là xong, yên tâm. Tôi xé hai lá thư bọc ny lông ra, đọc lại một lần nữa, rồi đánh diêm đốt, cho xuống thùng phân.
Như vậy, trong người tôi chỉ còn tài liệu “M”. Tôi phải để trong một tư thế, nếu thấy có hiện tượng bị bắt giữ, tôi sẽ vo viên búng đi nơi khác bằng một động tác mau lẹ bất ngờ. Còn chì mật, chắc chắn muôn đời chúng cũng không tìm ra, dù để ngay trước mặt, chúng cũng không thể biết là cái gì.
Ngoài trời, mưa đã ngớt hạt, trời sáng dần, tôi đeo túi dết ra phòng trực lấy giấy tờ. Vừa ra tới cửa, tôi liếc nhanh lên một khung cửa sổ của căn nhà lầu phía bên kia phố, thấy hai bộ mặt lạ của một người đàn ông và của một người đàn bà chừng 30 tuổi.
Tôi đi ngược lên phố Lãn Ông, rồi rẽ về Hàng Buồm, vào ngõ Hàng Giầy. Mấy hôm nay tinh thần tôi căng thẳng, nên ăn uống chả ra làm sao cả. Hôm nay, tôi muốn ăn bát cháo. Nơi đây nổi tiếng cháo ngon của Hà Thành thanh lịch của mấy hiệu: Sinh Ký, Tư Ký. Tôi vẫn cố tránh, chưa dám về phố Hàng Bạc. Vì thế nhiều lần tôi cứ phải đi vòng qua. Bây giờ, tôi cũng không phải quá giữ gìn về cách tiêu tiền, dù rằng tôi cũng không tiêu gì quá lố. Khi chúng chưa phát hiện ra tôi, tôi vẫn đóng vai một học sinh ở thôn quê, nên phải tỏ ra dè xẻn chắt chiu. Cũng vẫn là hiệu cháo Sinh Ký nổi tiếng ngày xưa của Hà Nội, mà bây giờ bát cháo thịt bò nhạt nhẽo như nấu cơm nguội. Cháo bò nhưng có lẽ thịt trâu, với 5, 6 mẩu thịt con đen xì. Nhất là cái “dầu cháo quẩy” thật buồn cười, bé tí, khô, cứng ngắc, ăn có vị ngô, trông như hai ngón tay út dính vào nhau.
Tôi quan sát hết một lượt, không thấy bộ mặt nào quen. Mãi chéo phía xa, gần ngã tư Tạ Hiền – Lương Ngọc Quyến là hai bộ mặt, một đàn ông và một đàn bà, tôi đã thấy trên cửa sổ trước nhà trọ Hàng Quạt. Họ tỏ vẻ như đang bàn nhau chuyện gì. Cách xa tôi đến 200 mét, nhưng đôi mắt hai người vẫn thỉnh thoảng hướng về tôi. Bên kia đường, ngay trước hiệu cháo, một ông chừng bốn chục tuổi, mặc áo sơ mi cụt tay mầu xám bộ đội, đang vờ hý hoáy chữa cái tay thắng xe đạp, vẫn đưa mắt về tôi.
Trong hiệu cháo có mươi người khách. Những người khi tôi bước vào đã có ở đấy rồi, tôi loại. Vào sau tôi, 3 người. Người ngồi mãi góc là một thanh niên, có vẻ học sinh, chừng 20 tuổi, cũng đội cái mũ cối. Tôi không bao giờ nhìn thẳng anh ta, mà chỉ nhìn bằng thị trường mắt của mình, tôi thấy anh ta chú ý tôi không bình thường. Ngay ngoài hè, một phụ nữ khoảng 20, tay xách cái làn cói đang mặc cả mua mấy bắp ngô luộc. Đôi mắt sâu hoắm, nhiều lần cũng liếc tôi như có chủ ý.
Với cái khứu giác của nghiệp vụ, tôi đã thấy 3 người, hai người thì chắc chắn, còn người thứ ba, nghi ngờ. Ra khỏi hiệu cháo, tôi trở lên Hàng Bồ, theo Mã Mây xuống Hàng Dầu, rồi đến trước đền Bà Kiệu. Hôm nay, tôi lên cầu Thê Húc vào thăm đền Ngọc Sơn.
Cảnh chùa vắng vẻ, lác đác dăm bẩy người, với một lũ trẻ con 6, 7 đứa nó đùa đuổi nhau. Nhìn Chấn Ba Đình mốc meo, sứt mẻ đứng chơ vơ như nỗi niềm tăm tối của những kiếp người, đang lê thê sống ở miền Bắc, tôi cũng chạnh lòng đăm chiêu. Thoáng nghe 6, 7 em nhỏ, vì sao đó chửi nhau thật là thô tục, tôi không ngờ. Tại sao, một em nhỏ 10, 12 tuổi lại có những câu tục tĩu như vậy? Đứa nào cũng thế! Một chị phụ nữ chừng 26, 27 tuổi, dáng dấp như một giáo viên hoặc một thư ký của một hợp tác xã ở nông thôn, nghe các em chửi nhau như vậy, nên đứng dậy nói như giáo dục:
- Này các em, sao các em là con trai, mà chửi nhau bẩn thỉu thế? Thiếu nhi Thủ Đô là cháu ngoan Bác Hồ mà! Chị mới ở nông thôn ra, chị đọc báo vẫn thấy thiếu nhi Thủ Đô, luôn xứng đáng là ngọn cờ, của cả nước cơ mà!
Tôi thấy chị rất nhiệt tình và có ý thức. Nhưng các em, trái lại, lúc đầu chúng đứng nhìn và nghe chị nói; nửa chừng, một đứa rồi hai, ba đứa văng “Con cặc…, im mẹ nó mồm đi!”. Một đứa khác: “Con đĩ mắt toét, biết củ l… gì”. Thậm chí, hai em khác móc đất ở mép nước ném chị ta, và nói: “ngoan con cặc… đây này!”
Chính tôi cũng ngạc nhiên và xông đến mắng:
- Các em không được hỗn!
Với thái độ và ánh mắt của tôi, chúng phải chạy nhưng còn chưởi lại. Chị nhìn tôi, tôi nhìn chị, thông cảm. Tôi đi ra khỏi đền, lại quẹo xuống Tràng Tiền. Lúc đó đã 11 giờ, tôi vào vườn hoa Chí Linh mở tờ báo Quân Đội Nhân Dân ra đọc. Một lúc, tôi mới ngửng lên, vươn vai, vặn vẹo lưng cho đỡ mỏi người. Đó cũng là lúc tôi đã nhìn thấy hết: Chị xách làn cói, ngồi cách tôi 3 ghế, quay lưng lại phía tôi. Lão hơn 40 tuổi đang đứng xấp vào một chòm cây, thập thò cái mặt xa tôi hơn 200 mét. Đôi vợ chồng (cứ gọi như thế) ngồi ở một ghế đá đường Đinh Tiên Hoàng, quay lưng lại phía tôi, đang nhìn ra phía hồ, xa tôi phải đến hơn 300 mét. Anh chàng có vẻ học sinh đội mũ cát, đang chăm chú đọc sách, ngồi dưới chân bức tượng phun nước, cách tôi hơn 100 mét.
Đến đây, tôi khẳng định có 5 người. Như thế, cứ mỗi ngày chúng lại đổi người. “Sao chúng nó lắm người thế!”, tôi tự nhủ. Bốn ngày nay, trong gần 20 người tôi đã thấy mặt. Chỉ có tên đội mũ cát két đeo kính râm của buổi đầu tiên là dễ nghi ngờ nhất, còn hầu hết, trông không có dáng gì là công an ngầm hay tình báo. Chính tụi sau, có thể nghiệp vụ thấp, nhưng đầy nguy hiểm, chúng nó chẳng khác gì quần chúng bình thường đi ngoài phố.
Để thử khả năng nghiệp vụ của phản gián miền Bắc, tôi đứng dậy đi loanh quanh trong vườn hoa, mắt lơ đãng nhìn cây lá. Cứ thả bước nhàn du, khi gần tới tên có vẻ học sinh, đang ngồi trên một ghế xi măng, bất chợt tôi ngồi ngay xuống bên cạnh. Y không thể nghĩ, tôi lại đến bên y ngồi, vì vậy, y lúng túng vội xoay người và nghiêng lưng về phía tôi. Tôi ngồi xuống đấy, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn vòi nước phun từ nơi bức tượng. Tôi hiểu nguyên tắc của người đi theo dõi. Là cố tránh, đừng để cho con mồi thấy mặt mình. Bởi vì, khi đến chỗ khác, lúc khác, mà con mồi lại gặp bộ mặt ấy, thì từ chỗ không biết cũng phải cảnh giác mà nghi ngờ. Nhưng trong trường hợp vừa qua, nếu là người già nghiệp vụ, hãy cứ ngồi yên, một lúc sau làm như mỏi người mới từ từ xoay thế. Thậm chí, đã trót còn phải gợi chuyện, nghĩa là đôi khi còn phải làm trái với nguyên tắc của nghiệp vụ, con mồi mới khỏi nghi ngờ. Giả sử, con mồi suy nghĩ rằng, nếu nó theo dõi mình, đời nào nó lại nói chuyện với mình.
Ngồi mươi phút, tôi đứng lên, đi xuống rạp Eden cũ, bây giờ đổi tên là rạp “Công Nhân”. Hôm nay có phim “Rắn Crơ Ba”, phim Liên Xô. Lần đầu tiên tôi vào xem phim của Cộng Sản Liên Xô. Xem trình độ nghệ thuật Thứ Bảy của Cộng Sản Nga ra sao.
Vì hôm đó là chiều Thứ Bẩy nên cũng đông. Giá vé 4 hào. Lẫn ngay trong đám đông, cô ả xách làn cói vất vả xếp hàng, chen lấn. Tôi thoáng thấy “hai vợ chồng”, chúng chẳng lấy vé. Chúng chỉ đưa ra một cái gì đó, có thể là một cái thẻ, mà vì đông khuất tôi kkông nhìn thấy, rồi người xé vé để chúng vào. Vào rạp, tối như bưng, tôi biết chúng nó phải vất vả để nhìn tôi. Còn tôi, biết rồi nên mặc chúng, tôi chú ý nội dung phim. Tôi hiểu, ít nhất còn 3 đứa nữa gác bên ngoài. Có lẽ, ở Hà Nội thời gian đó, duy nhất ở rạp xi nê, mà phải là hôm phim hay. Đông người, may ra mới có thể cắt đuôi, với điều kiện phải có thuốc hóa trang, và một bộ quần áo chưa bao giờ mặc trước đấy.
Nếu lúc này tôi có lọ thuốc đó! Trong bóng tối lờ mờ của rạp xi nê, tôi sẽ vờ đi tiểu tiện vài lần, như bị đái “rắt” rồi lần bôi xoa thuốc ngay từ ngoài, 10 phút sau da mặt đã kéo nhăn. Cởi sẵn khuy quần, khuy áo. Nghĩa là phải chuẩn bị sẵn sàng trước. Lúc rạp sắp mãn, vào nhà “xí” thay áo mũ thật nhanh. Nếu cần vất luôn túi dết, gắn bộ râu giả lên, để trở thành một người khác, chen trong đám đông đi ra. Đã biết hết mặt 5 tên theo dõi mình rồi, lúc đó chỉ lủi nhanh về hướng không có chúng mà chuồn. Chỉ cần như vậy là gây nên một chuyện thần kỳ, nghĩa là, đột nhiên con mồi biết mất.
Lúc này, phần vì tôi không có loại thuốc đó, phần khác, tôi chưa tích cực cắt đuôi, vì muốn dềnh dàng chờ ngày 16, 18. Đấy cũng là một tính toán sai lầm của tôi, mà sau này, thời gian và sự việc mới giải đáp cho tôi. Ở Sài Gòn, tôi đã từng xem màn ảnh ở rạp Rex hoặc Đại Nam. Bây giờ, thấy màn ảnh bé tí, nhỏ con một bề khoảng 2 mét, bề kia 1 mét hai, không có phụ đề chữ Việt, mà còn có giọng nói của một cô gái ở loa phóng thanh, mà ở miền Bắc khi ấy người ta gọi là “thuyết minh”.
Nội dung phim. Một ổ gián điệp Đức đang hoạt động trong lòng địch là đất Ba Lan. Lúc này, Nga đang chiếm đóng Ba Lan. Tình báo Nga và Ba Lan, do nhân dân giúp đỡ nữa, đã dùng mưu mô, lừa lọc, cuối cùng bắt trọn ổ gián điệp Đức.
Tôi thấy nhạt nhẽo, chán phè, nhất là cảnh gián điệp Đức lơ là, ngây thơ mắc vào những cái bẫy cũng ngây thơ của Nga. Toàn bộ cuốn phim, không có một tình tiết lắt léo, tinh vi nào đáng kể, so với những phim tình báo trước đây tôi xem ở Sài Gòn. Thế mà quần chúng cũng trầm trộ ca tụng. Quần chúng Hà Nội bây giờ, đa số ở các tỉnh mới về từ 1954.
Tan rạp, tôi kéo “đuôi” lang thang về mãi Ngã Tư Sở. Thấy một nhà trọ có vẻ sang hơn, tôi vào thuê một buồng. Tôi vẫn đưa giấy thông hành. Tôi nghĩ, dù chủ nhà trọ có phát hiện giấy giả, tôi vẫn không sao, tôi vẫn được thuê như thường. Bởi vì, sẽ có lệnh bí mật bắt chủ nhà trọ đồng ý, không được hỏi han làm khó dễ gì tôi cả. Tiền buồng 1 đồng rưỡi. Tôi ngủ đỡ khổ, và bắt chúng nó, những chiếc đuôi, tốn nhiều công, của hơn. Lúc nãy khi đi đường, tôi đã mua một đôi dép Thái Lan và chiếc mũ xanh công nhân. Phần vì chân tôi đi dép râu vẫn chưa quen, rất đau, cái quai cao su thôi ra đen xì cả chân. Hơn nữa, dép Thái Lan và mũ công nhân là hai mật hiệu khi tôi trao tài liệu “M”. Bây giờ, tôi phải mang trước cho bình thường.
Sau khi tắm rửa, đêm đó tôi nằm một mình một buồng, cảm thấy thật dễ chịu. Đem sách ra đọc một lúc, rồi tôi nằm suy nghĩ, tính toán: Mai, Chủ Nhật cứ đến Nhà Thờ Lớn đi lễ xem thế nào? Cứ ghé về Hàng Bạc, xem phố cũ thay đổi ra sao? Ghé luôn Lương Ngọc Quyến, xem bà dì họ thế nào (nhưng sẽ không vào nhà). Tôi hiểu, tất cả những người có nhiệm vụ theo dõi tôi, sau giờ quy định bàn giao con mồi cho người khác, mỗi người phải làm một bản báo cáo, tường thuật tỉ mỉ mọi chi tiết đường đi nước bước của con mồi theo thứ tự thời gian và không gian. Nghiệp vụ càng già dặn, càng phát hiện được những điều sâu sắc, thậm chí cả những động tác vờ vịt, động tác giả của con mồi, nếu cử chỉ ấy có lồng trong một ẩn ý gì. Ngoài ra, mỗi cuối bản báo cáo tường thuật, phải có một câu nhận định: Theo ý anh, con mồi đã có hiện tượng gì nghi ngờ có người theo dõi không?
Những tên nghiên cứu và ra lệnh ở nhà, đối chiếu nhiều bản báo cáo, tường thuật để nắm được cái chung, từ đấy chúng sẽ có những biện pháp thích nghi theo những diễn tiến của sự việc.

20. Kiếp Người, Kiếp Vật!…

Sáng hôm sau, tôi vẫn đội mũ cát nhưng đi dép Thái Lan. Còn đôi dép râu tôi đút gầm giường. Đôi dép này mang từ Sài Gòn ra. Khi không thấy tôi đi, tôi biết chắc tụi phản gián tỉm được đôi dép đó. Không có cóc khô gì trong ấy cả.
Bắt đầu ra khỏi cửa khách sạn, tôi ghi nhớ bất cứ một bộ mặt, hoặc không thấy mặt thì dáng dấp, dù trong một ngách ở xa xôi, hoặc đứng trong cửa sổ, trừ khi cửa đó khép để khe hở để theo dõi. Nhưng, khi tôi đã nghi một khe hở của một chiếc cửa nào, đi chừng 100 mét, tôi sẽ mượn cớ nào đó quay lại, nhìn thấy khe hở ấy khác đi là tôi đặt vấn đề rồi. Cho nên, hầu như tôi không bỏ sót một cái đuôi nào mà tôi không biết. Nếu tôi chưa biết chắc rõ bao nhiêu cái đuôi, tôi chỉ dẫn vào những ngõ vắng, hoặc ngõ hẹp, là phải lộ hết.
Khi tới Ngõ Huyện, tôi vào làm bát phở. Ăn xong, tôi “cố ý” vô tình để quên chiếc mũ cát. Tôi biết, chiếc mũ này, người khác nào đó sẽ tưởng tôi quên, cầm lấy. Nhưng, không những không được, mà có khi còn liên lụy. Chiếc mũ ấy phải về tay một, trong những cái đuôi của tôi, để rồi về tới cơ quan phản gián của Hà Nội.
Tôi đến cuối nhà thờ, mới vờ bất chợt vỗ tay lên đầu, và ngơ ngác vội vàng quay lại hiệu phở. Cái mũ đã mất, tôi tỏ vẻ ngẩn ngơ tiếc của, rồi tiếp tục đi trở lại phía nhà thờ. Điều đó sẽ góp một phần nhỏ, trong kế hoạch của tôi đối với chúng sau này. Tôi là người đãng trí.
Hôm nay Chủ Nhật mà Nhà Thờ Hà Nội thật vắng vẻ, lưa thưa một vài người đi lễ. Cuối nhà thờ chỉ mở một cánh cửa bên. Trong nhà thờ có tất cả khoảng bảy, tám mươi người, đa số là các ông bà già, còn thanh niên phụ nữ, trẻ con khoảng mười sáu, mười bảy em. Giữa cảnh vắng vẻ và trong ánh sáng lờ mờ vì nhiều cửa đóng, óc tôi trầm ngâm liên tưởng đến những hình ảnh buổi thiếu thời, những ngày Chủ Nhật, tôi cũng đi lễ nơi đây. Ồn ào náo nhiệt, chuông trống tưng bừng, rộn ràng, một thời phồn thịnh huy hoàng của giáo dân miền Bắc.Tôi đăm chiêu nhìn mấy chục người, đang gục đầu lâm râm than thở. Tôi chợt nhớ đến mấy câu trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của bà Huyện Thanh Quan:
“Lối xưa xe ngựa, hồn Thu Thảo.
Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương. ………..
Đá vẫn trơ gan, cùng tuế nguyệt.
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ, soi kim cổ.
Cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường.”
Nhìn cảnh này, ruột tôi cũng đứt từng khúc như bà Huyện năm xưa. Cùng một cảnh, hai thời đại, một tâm hồn. Tan lễ, tôi đứng tựa lưng vào hàng rào sắt, nơi tượng Đức Mẹ đứng giữa sân phía cuối nhà thờ.
Nhìn những ông bà già lầm lũi ra về, mắt tôi thoáng thấy bà dì họ. Bà có tên là bà Đốc Cắn. Chồng bà chết từ khi tôi chưa biết cuộc đời. Bà không có con, chỉ có con nuôi. Vì tiếc mấy ngôi nhà của anh chị em bà ở Hàng Bạc và phố Lương Ngọc Quyến, bà đã ở lại Bắc. Không ngờ, tất cả mấy ngôi nhà này đều thuộc về Cục Quản Lý Nhà Cửa của nhà nước.
Bà dì tôi vẫn mập như xưa, nhưng tóc đã ngả mầu và da đã nhăn. Nét đăm chiêu mang nhiều tư lự. Khi bà đi ngang qua, bà có nhìn thấy tôi, nhưng con mắt của bà nhìn tôi như trăm ngàn người khác qua đường. Phải, làm sao bà có thể nhận ra thằng cháu của bà được. Bởi vì, có đập bể đầu ra, bà cũng không thể ngờ tôi lại ra Hà Nội. Phần tôi, ý thức được vấn đề là tôi đến gặp bà, thì sau này bà phải vào gặp công an. Tôi chỉ nhìn bà bằng con mắt lê thê và đè nỗi niềm xúc động đầy vơi của mình xuống. Tôi theo đường Lý Quốc Sư ra Hàng Bông, về Hàng Gai. Tới đấy, tôi thấy một chị du kích áo nâu, quần đen thắt ống. Vai đeo khẩu CKC, đang nắm tay một em nhỏ chừng 12, 13 tuổi, kéo về phía đồn cảnh sát bờ hồ. Những người đi đường hỏi, chị nói: “Thằng này và mấy thằng nữa đứng nấp trong ngõ, chờ những em gái chạc tuổi đi qua, xông ra bóp … vú.” Tôi nghe mà không hiểu được, tại sao một xã hội suy đồi đến độ kỳ lạ như vậy?
Đến đầu Hàng Đào, bỗng dưng tôi thấy mấy bà ôm thúng bán mấy nải chuối, bà thì mấy trái dứa… ôm quang thúng chạy tóe khói ra. Một anh cảnh sát chừng 22, 23 tuổi đang đuổi theo bà. Anh cảnh sát đã nắm được quang gánh. Bà đó chừng 40, 45 tuổi vừa thở hổn hển, hai tay cứ vặn vẹo vào nhau:
- Thưa anh, anh tha cho em, nhà em chỉ có vài nải chuối và mấy quả dứa chín này đem bán, về mua gạo cho các cháu nhỏ. Lần sau em không dám đem đi bán nữa.
Tai tôi nghe mà lòng quặn thắt lại. Óc tôi càng mở rộng để hiểu cuộc đời và những kiếp người. Tôi bỏ đi dọc theo Hàng Đào, đến Hàng Ngang. Hàng Bạc đây rồi! Nhớ đến hai câu thơ:
“Cho hay, cảnh cũ ưa người nhỉ?
Ai thấy, mà ai chẳng ngẩn ngơ”
Tôi thấy lòng thổn thức bâng khuâng, vơi đầy khi nhìn phố cũ. Lạ thật! Cũng đường phố ấy, cũng những căn nhà ấy ngày xưa, mà bây giờ tôi lại nhìn thấy bé nhỏ, lũn tũn như những chuồng chim bồ câu. Phố xá thì bé con, ngắn một tị.
Chân tôi cứ thả bước, lòng tôi cứ chìm nổi đầy vơi. Tôi đi sát nhà Tân Hưng, chiếc biển hiệu đã gỡ. Còn hai chữ “Tân Hưng” kẻ vào tường trước đây, hãy còn mờ mờ. Tôi liếc nhìn vào trong nhà, thấy được ngăn ra từng gian, bằng những tấm cót, có những bà nhà quê xa lạ. Ô kia rồi! Mãi trong sân, tôi thoáng thấy chị Thuận. Trông chị mà tôi rất ngạc nhiên: Chị là hoa khôi Hàng Bạc 1952 cơ mà (đầu 1954 chính chị và em trai chị là Hòa đã kể lại), khi ấy tôi chỉ là một cậu bé 15, 16 tuổi. Tôi cũng đã biết, chị được bao nhiêu những tay công tử hào hoa của Hà Thành đắm say, ngưỡng mộ.
Con gái Hàng Bạc xưa nay nổi tiếng đài các trâm anh, vừa giầu, lại vừa đẹp, cành vàng là ngọc. 1953, cô Mi nhà Ngọc Chương lại là hoa khôi Hàng Bạc. Dù còn nhỏ, tôi vẫn thấy các cô đẹp như tiên. Thế mà bây giờ tôi nhìn chị Thuận như một bà gái xề, nửa tỉnh, nửa quê đang đút cơm cho con ăn. Giữa lúc ấy, tôi thấy anh Kỳ, chồng chị Thuận. Trông anh già và gầy nhỏng, đi đôi guốc lộc cộc, tay dẫn hai đứa con gái nhỏ ở ngoài phố về. Anh Kỳ đấy ư? Một người mà trước kia không bao giờ mặc pyjama hay đi dép ra đứng ở cửa hiệu. Nhà anh thường có 4, 5 người ở, đài các thanh lịch lắm. Giờ đây, sau 8 năm, những người giầu có ngày xưa là đây.
Những hình ảnh này cho tôi thấy: Dưới chính quyền “xã hội chủ nghĩa”, người giầu trở thành người nghèo. Người nghèo trở thành người cùng cực hơn. Kia, nhà Trường Nguyên; đây Chấn Hưng, Bảo Hưng Long; Lại đây nữa: Bảo Thịnh, Đức Hưng, Bảo Thành, v.v…Toàn thấy những người nhà quê. Nhà nào cũng quây cót. Sau này tôi hiểu, tùy theo nhà anh bao nhiêu người, chỉ cho anh ở một phần theo số người. Phần còn lại, thuộc chính phủ, sẽ cho người khác ở.
Nhìn rạp hát Kim Chung, mà ngày xưa tôi hay chui vào xem chạc. Cũng là rạp hát ngày xưa đó, sao bây giờ trông nhỏ bé thế! Phải rồi, mình đã sống ở Sài Gòn, đã đi xa nhìn những thành phố lớn. Sau lâu ngày, trở lại nhìn Hà Nội, thành phố cổ xưa, nên mới có cái cảm giác như vậy.
Ngắm nhìn những chữ đồng, chữ xây “granite” của các cửa hiệu, bây giờ vỡ chữ nọ thiếu chữ kia, với mầu rêu loang lổ của các ngôi nhà như dư âm của một thời vang bóng. Đi theo đường Tạ Hiền, qua rạp Quảng Lạc, vào ngõ Sầm Công, đến đền Bạch Mã, quẹo lên chợ Bắc Qua, rồi Hàng Chiếu. Tôi kéo lê thê 5 cái “đuôi” đi khắp tứ tung, cho chúng nó phán đoán. Có trời biết được ý định của tôi!
Ra tới chợ Bắc Qua, thấy một đám đông túm hụm, có cảnh sát, tôi ghé đến. Một chị chừng 25, 26, mắt đỏ hoe đang nức nở, giọt ngắn, giọt dài đứng bên cạnh cái thúng gạo, phải nói là thúng cát lẫn gạo. Thì ra, một anh chàng nông dân chân đất, cắp một thúng gạo nặng, đậy cái bao tải rách vẻ sợ sệt, lén lút, đến gạ bán cho một chị đi đong gạo. Anh lấm lét nói là công an đang theo dõi bắt anh bán gạo, anh phải vội bán rẻ để chuồn về quê ngay. Chị này tưởng món hời, phải cần nhanh tay chụp lẹ. Thúng gạo nặng đến 15 ký mà anh chỉ lấy 10
ký với 2 đồng cho cái thúng. Anh nói, anh không dám mang thúng về, sợ hợp tác xã nghi ngờ. Công an đầy đường, đâu có dám xem gạo kỹ, dịp may gặp món hời phải vồ sớm, còn đắn đo gì. Sau khi anh kia và chị “khẩn trương” chia tay, chị hớn hở đội gạo về. Đến Hàng Chiếu, mấy ngón tay giữ thúng trên đầu, thọc sâu xuống những hạt gạo no lành của một ngày may mắn, nhưng cảm giác thấy khác thường. Chị bỏ thúng xuống và bới lên. Chỉ có một lớp gạo ở trên, cón toàn cát bên dưới!
Sự việc này cho tôi thấy, ở một xã hội quá nghèo nàn, người ta chỉ có thể lừa lọc nhau đến như vậy là cùng. Nhìn trị giá của một sự lường gạt, đã đánh giá được mức độ cuộc sống người dân của xã hội ấy. Tôi vào một quán cơm ở Hàng Chiếu, quán này có vẻ đông người, gần 20 người ăn uống. Tôi tìm một chỗ ngồi. Tôi ngạc nhiên, thấy hai thanh niên mặt mũi sáng sủa nhìn tôi cười. Tôi cúi gầm ăn, đầu suy nghĩ, tôi chưa hề quen biết mấy người này, vậy vì sao? Câu hỏi của tôi đã được giải đáp ngay sau đó. Khi tôi vừa đứng dậy, còn một chút cơm thừa, một chút thức ăn thừa, hai người xô đến, mỗi người giành một thứ.
Tiện đó, tôi kéo “đuôi” vào thăm chợ Đồng Xuân nổi tiếng của Hà Nội thủ đô, như Bến Thành Sài Gòn. Ngoài cửa, có một chỗ bán hoa của hợp tác xã, còn hầu hết mỗi người mỗi cái thúng hay cái mẹt bán hoa quả hoặc những thứ lặt vặt. Chốc chốc lại ôm chạy quanh vì công an đuổi. Chợ bấy giờ là phụ, là không hợp pháp. Nhà nước đã có những cửa hàng lương thực của từng khu phố. Mọi thứ từ muối, mắm, đậu, hành, v.v… nghĩa là tất cả về thực phẩm đều có phiếu, tùy theo gia đình cán bộ hay nhân dân. Trong nhân dân lại tùy theo có đặc ân hay không, và tùy theo số người… Có những phiếu nhất định mỗi tháng, mỗi gia đình được mua bao nhiêu. Ngay từ thời gian này, đã có tình trạng, có phiếu mà không có hàng, càng về sau, càng trầm trọng hơn. Tôi nhìn đồng hồ, 2 giờ. Tôi chợt nghĩ đến nhà trọ Ngã Tư Sở, ở đó có ban công và sân thượng phơi quần áo, rất tốt. Quần áo tôi, hai bộ đã quá bẩn, hôm nay về tắm rửa giặt quần áo. Ngày mai, đi sở thú. Tôi vào chợ mua hai cục xà bông và trở về nhà trọ. Khi về tới nơi, tên quản lý nói, buồng cũ đã có người thuê, chỉ còn phòng số 10. Tôi nói, phòng nào cũng được, nhưng óc tôi nghĩ ngay, như vậy đã có sự sắp xếp. Được, ta sẽ lên phòng xem sao.
Sau khi vào phòng đóng cửa, bất chợt 5 phút sau, tôi mở ngay cửa. Dọc suốt hành lang, hai bóng người rụt nhanh vào phòng số 4, chéo phía đối diện. Hai thanh niên, một tôi đã quen mặt. Trót mở cửa phòng, tôi phải vờ đi ra phía sân thượng, sờ sờ mấy cái dây phơi, ra vẻ định sẽ phơi quần áo ở đấy.
Vào phòng lần này, tôi lật chiếu, xem gầm giường, một vài góc khả nghi, chiếc bàn, chiếc ghế… Tôi quan sát toàn bộ. Nếu ở những nước tiên tiến, có thể có những máy ghi âm, máy ảnh tự động. Nhưng ở miền Bắc thời ấy, trình độ lạc hậu, làm quái gì đó, cùng lắm chỉ ở chỗ kín đáo chụp trộm ảnh và tìm điều kiện có khe nứt nẻ nào đó, ngồi nhòm vào buồng là cao. Dù nghĩ vậy, nhưng tôi cũng cứ xem kỹ, kỹ để biết về địch thôi, chứ tôi cũng chả có gì. Trong người tôi chỉ còn tài liệu “M”, đừng hòng bao giờ tôi lấy ra xem, lâu lâu, tôi chỉ lấy cớ gãi, để sờ, sợ rơi mất. Tôi vẫn băn khoăn, đã có sự chỉ định xếp đặt phòng cho tôi, vậy phải có vấn đề gì. Nhìn toàn bộ phòng, không thể có điều kiện gì từ ngoài nhìn vào phòng. Tôi chú ý từng lỗ đinh, từ lỗ khóa. Tôi xem lại lần nữa. À, đây rồi! Có thế chứ! Chúng nó cũng quỷ quái đấy: Bốn góc bàn tôi sờ rồi, không có gì. Thì ra giữa gầm bàn (bàn không có ngăn kéo), chúng dùng keo gắn một chiếc máy ghi âm nhỏ kích thước 12 x 8 x 1,5 phân. Có thế, tôi mới an tâm. Kệ nó đấy, tính sau. Tắm giặt đã.
Khi vào đi tắm, tôi vừa giặt vừa thẫn thờ suy nghĩ. Như thế này, chúng nó đã đánh giá mình cao quá. Mình có máy móc chó gì đâu, có ai đến giao thiệp với mình đâu. Kể ra, nếu tôi thích chuyện trai gái, mang một cô em về làm trò cho cái máy ghi âm, chúng cũng được một băng mùi mẫn miễn phí. Trong quá trình đi đường, nhiều cô loại gái kiếm tiền cứ cười cười với tôi, như ở vườn hoa Chí Linh, Tràng Tiền, góc Cầu Gỗ, Cột Đồng Hồ…
Tắm rửa, giặt quần áo xong thì đã 5, 6 giờ. Giặt cả hai bộ, tôi còn mỗi cái quần đùi để mặc, ra đứng ở ban công nhìn chéo ra phố. Tôi thoáng thấy một bộ mặt đứng sâu trong cửa sổ một căn gác chéo nhà bên cạnh. Tôi vờ làm vài động tác thể thao để nhìn kỹ. Bộ mặt quen? À, tên kính râm, đội mũ cát két lần đầu tiên tôi phát hiện ở nhà thờ X. Hôm nay không đội mũ, không đeo kính nên hắn làm tôi ngờ ngợ. Tôi rất ngạc nhiên và lạ lùng. Tôi có cảm tưởng khó hiểu là tại sao, bất cứ nhà nào chúng cũng vào được? Ở xã hội tự do đâu có thể như vậy. Đồng thời, tôi cũng cảm thấy một không khí rình rập, bao quát lúc nào cũng ở chung quanh tôi. Từ cảm giác này, mắt tôi lơ đãng nhìn mấy con sẻ đang ríu rít ở một mái nhà trước mặt, tôi cũng thấy hình như chúng cũng có chất Cộng Sản. Thậm chí, mấy cái cây vô tri đứng im lìm cạnh ngôi nhà, tôi cũng thấy chúng có chất gì của Cộng Sản. Cái chất của soi mói, lọc lừa, lường gạt, không lương thiện. Cùng một bầu không khí của Tổ Quốc quê hương, nhưng quang cảnh, người và vật ở xã hội này không hợp với tôi. Tôi không có cảm giác gần gũi thân thương, quen thuộc như ở miền Nam.
Thấp thoáng người ở cửa sổ lại chụp ảnh tôi. Tôi đã thấy 5 lần, còn sau lưng hoặc tôi không biết, không kể. Hôm vào nhà thương Việt Đức kỳ sau, tôi cũng bị chụp 2 lần. Chụp làm gì nhiều thế! Có thể, chúng để làm chứng cớ, tài liệu sau này chăng? Thôi vào đi ngủ! Vào buồng tôi nghĩ ngay tới cái máy ghi âm. Nếu không vì những chủ trương sau của tôi, tôi đã đến chửi cho nó một mẻ, hoặc cũng cho nó mấy phát… rắm. Nhưng tôi đành nằm im coi như không biết. Chính vì tôi tỏ ra luôn luôn chủ quan lơ là, nên nhiều khi, thấy những cái “đuôi” của tôi rất lộ liễu đến độ ngờ nghệch. Hay có thể vì tôi đã biết mặt rồi, nên tôi có cảm giác thế chăng? Đường phố đầy người đi lại, nếu tôi không biết chúng rồi, cũng khó mà biết ai với ai. Chẳng lẽ thấy “gà hóa cuốc”, gặp ai cũng tưởng như họ theo dõi mình hay sao? Tôi cứ vẫn vơ suy nghĩ rồi ngủ lúc nào không hay.
Hôm sau, tôi đón xe điện ra bờ hồ. Khi đi qua Hàng Da, nhìn chữ “Pharmacie Thẩm Hoàng Tín” to tướng nhưng đã mờ nhẻm vì thời gian, tôi chợt nhớ tới sư bà Đàm Hương. Hiệu thuốc tây bây giờ đóng cửa im lìm. Mấy cái cửa sổ trên gác, đóng những thanh gỗ cọc cạch che kín mít. Chỉ nhìn thế, tôi cũng đã thấy sự tàn lụi của cái pharmacie rồi, nghĩa là cửa hiệu không còn được mở nữa.
Tới bờ hồ, tôi lại mua tờ báo Thủ Đô. Đây là tờ báo có tính cách địa phương, nội thành nên có vài tin lặt vặt hàng ngày, trong khi những tờ Nhân Dân, hay Quân Đội Nhân Dân không bao giờ nói tới. Thực vậy, tôi đi trên đường phố thấy bao nhiêu chuyện cắp trộm, lừa đảo vẫn xảy ra thường thường, nhưng không bao giờ thấy có trên báo. Ngay trên đài truyền thanh (nói qua đường dây) cũng họa hoằn mới nghe thấy một vài sự việc để ngăn chận tội ác và những chuyện xấu của xã hội.
Đây cũng là một cái đặc biệt của miền Bắc. Khắp Hà Nội, từ nội đến ngoại thành, ở những đầu phố, hoặc chỗ thường xuyên tụ tập đông người như bến xe, trước nhà bách hóa, v.v… thường có treo loại ống loa hai tầng để phổ biến tin tức cũng như thông báo (gọi là truyền thanh). Rồi tới giờ quy định mới mở điện bắt vào đài phát thanh. Còn radio thì thật là hiếm, nếu không có là không có. Radio và máy ảnh phải đăng ký hàng tháng. Mua phim chụp ảnh phải làm đơn xin phép, nói rõ lý do, hoặc phải có giấy của cơ quan giới thiệu. Cho nên, hầu như không một người dân nào có máy ảnh (đồ quốc cấm) nếu đi ra những vùng chung quanh Hà Nội, các bạn sẽ thấy đây đó, nhìn bất cứ hướng nào, cũng thấy hầu như mỗi nhà đều có những cần câu bằng tre chọc thẳng cao lên trời, trông như những lông của con nhím khổng lồ, xù ra khi gặp kẻ thù. Đó là dây ăng ten của ga len ghép đơn giản mấy cực để nghe đài gần. Chỉ nghe được đài Hà Nội và nghe nhỏ tí. Thứ này trẻ con trong Sài Gòn vẫn chơi (loại này thì không phải đăng ký).
Ở bờ hồ, dù chẳng cần thiết lắm nữa, nhưng do thói quen nghề nghiệp, tôi vẫn quan sát toàn bộ những khuôn mặt chung quanh tôi. Tôi lại thấy chéo mãi phía hiệu kem trước nhà Thủy Tạ, cô gái chừng 18 tuổi có hai cái đuôi sam. Trông đôi má mủm mỉm đỏ hây, thế mà đòi là phản gián theo dõi tôi. Được! Hôm nay, tôi dẫn cô lên sở thú. Qua cô ta, tôi đã thấy cách bố trí người theo dõi của Cục phản gián Hà Nội. Người nào cũng theo tôi một ngày, ít nhất một tuần sau tôi mới gặp lại. Cộng sản làm như vậy để con mồi khỏi nghi ngờ, mất cảnh giác. Cho tới hôm nay, hơn 40 bộ mặt quen thuộc rồi. Tôi nghĩ thầm: Hà Nội sao lắm nhân viên phản gián thế! Rồi đây, những ngày tới còn bao nhiêu nữa?
Tôi lên xe điện đi sở thú. Tôi lững thững đi bộ như một kẻ nhàn du đi vãn cảnh. Hôm nay, tôi định sẽ ghé thăm núi Nùng, nơi tương truyền là mồ chôn giặc Thanh cướp nước, cũng như gò Đống Đa, Thái Hà Ấp vậy. Lưa thưa, rải rác một số người, vài hàng quà bánh. Cả sở thú chỉ vỏn vẹn 5, 6 chuồng thú, quá ít so với ngày xưa. Không biết thú đưa đi đâu hết? Tôi đến chỗ một chú cọp đang nằm ngủ, chỗ này đông nhất, hơn 10 người kể cả trẻ con đang đứng ngắm ông ba mươi nằm nhắm mắt. Nhìn con hổ nằm ngủ trong chuồng, với cảnh đám người đứng xem. Tôi đang bâng khuâng nhớ đến bài thơ bất hủ “Cọp Nhớ Rừng” củ Thế Lữ, bất chợt một tiếng rầm rung cây lá, con cọp bật dậy, chồm lên hồng hộc. Mọi người chung quanh giật mình. Nhiều đứa trẻ sợ quá hét lên, bám lấy người lớn. Cả cô đuôi sam cũng xanh mặt, cuống cà kê dúm người lại.
Chẳng hiểu vì sao? Tôi nhìn lại phía xa cách đấy hơn 300 mét, trên cũng con đường để đi ngang qua trước chuồng cọp này, một anh mặc quần áo bộ đội đang lôi cương một con ngựa. Con ngựa chồm hai vó trước, không những dứt khoát không nghe theo anh bộ đội để đi nữa, mà còn kéo anh ta đi ngược trở lại. Tôi chợt hiểu con cọp đang nằm nhắm mắt, mũi đánh hơi thấy mùi ngựa, đồng thời con ngựa cũng đánh hơi thấy chúa sơn lâm, nên sợ quá không dám đi nữa, dù còn cách đến hơn 300 mét.
Tôi nhìn cô bé đuôi sam, mặt cô ta đỏ lên rồi quay đi. Tôi nghĩ bụng thế mà đòi đi ngành tình báo. Lúc tôi nhìn về phía con ngựa, tôi thấy ở một gốc cây gần đó, một đôi “nhân tình” ngồi bên nhau có vẻ ngây ngất tâm sự, nhưng con mắt của họ tôi nghi quá. Trong căn nhà nhỏ của một quán nước có cửa sổ hướng về tôi, nơi chiếc bàn mãi trong góc quán, tên đeo kính râm, đội cát két đang ngồi hút thuốc lá, mắt lơ đãng nhìn đi đâu, trước mặt là ly nước; và một anh mặc quần áo xám bộ đội, đang gác chân lên chiếc xe đạp, nhìn ra hồ sen, cách chỗ tôi gần 100 mét. Tôi đã thấy anh ta ở bờ hồ.
Tôi trèo lên núi Nùng hướng mắt về trường Bưởi, bâng khuâng nghĩ đến Sài Gòn, đến những bạn bè thân quen, những họ hàng ruột thịt và những người trong Cục. Họ có biết tôi đang nằm trên thớt của kẻ thù, đang ngày đêm căng thẳng với kẻ thù, từng phút từng giờ hay không? Hay họ đã quên rồi? Hai nẻo đường đi, một mình tôi đi trên đường hướng về nơi đen tối mịt mù. Tâm tư nặng chĩu nỗi niềm, tôi tìm một ghệ cỏ ngồi dựa lưng, đôi mắt lim dim, lắng nghe tiếng gió rì rào.
Loanh quoanh mãi 3 giờ chiều, tôi mới quay bước trở về. Tôi cũng chẳng đón xe điện, cứ lững thững đi dọc theo đường Quan Thánh. Tai vẫn nghe tiếng guốc lộc cộc đều đều của cô gái đuôi sam, sau tôi khoảng ba, bốn mươi thước. Tự nhiên, tôi muốn đùa giỡn, đồng thời cũng muốn thử nghiệp vụ của cô gái này. Phố lưa thưa một số người đi. Tôi thả bước chầm chậm, tiếng guốc vẫn lách cách theo sau. Đến một quãng phố có một bờ tường xây dọc theo hè phố, và còn chừng 30 thước nữa là một phố cắt ngang. Bất chợt, tôi đi sát bờ tường rồi rảo bước, tôi thoáng nghe tiếng guốc cũng nhanh hơn. Đến đúng chỗ góc phố, tôi quẹo và nép khuất vào một trụ tường, một tay đưa lên ngực, một tay ôm mắt như chóng mặt xây xẩm, lưng tựa vào tường.
Cô ả hơi bất chợt nên vội vàng đi nhanh hơn. Khi tới góc phố, đinh ninh là tôi rẽ theo phố ấy, nhưng bây giờ thấy tôi biến đâu mất. Cô ta hốt hoảng bước thẳng xuống đường. Như thế đã đủ, trong một phút đã hiểu tài nhau rồi. Tôi hơi nhích ra một tí cho có vẻ tự nhiên, để cô trông thấy. Mặt tôi vẫn nhăn nhó, tay vẫn xoa xoa ngực bên trái. Khi trông thấy tôi, mắt cô ả sáng lên long lanh như mừng rỡ. Tôi uể oải chầm chậm lê chân theo phố đó. Đến một hàng nước chè bên hè, tôi ngồi đại xuống, lật ly nước chè cho bà hàng rót, rồi đầu cứ cúi gầm như sắp ốm bệnh. Tôi uể oải chầm chậm lê chân theo phố đó. Đến một hàng nước chè bên hè, tôi ngồi đại xuống, lật ly nước chè cho bà hàng rót, rồi đầu cứ cúi gầm như sắp ốm bệnh. Chừng một lúc, tôi nhấc chân cho sẳn ra ngoài ghế, rồi bất chợt quay ngoắt ra đường, dựa lưng vào bàn nước.
Ở trong cửa, ngay nhà đối điện, cô gái đuôi sam đang ngồi ghế nhìn thẳng sang phía tôi. Cô vội vàng cầm tờ báo trước mặt giơ lên, làm ra vẻ đang đọc để che mặt. Thật đáng buồn cho cô, tờ báo lại ngược, không biết cô đọc làm sao? Cô bị lúng túng chỉ vì tôi cố tạo cho cô tưởng rằng tôi đang ốm bịnh. Dáng điệu chậm chạp đang gục đầu, nhưng bất ngờ quay lại. Đây là việc làm của một người thiếu chín chắn, sau này tôi ân hận mãi ở trong tù. Tôi vẫn còn lạ lùng là tại sao, nhà nào họ cũng vào được? Chẳng lẽ nhà dân ai cũng biết họ là công an mật? Hay họ có dấu hiệu gì đặc biệt, để nhà dân nào cũng phải cho họ vào?
Tôi rẽ về lối chợ Đồng Xuân, đã 4 giờ 30 chiều, thấy một đám đông ồn ào, tôi ghé lại. Tôi không thấy cảnh sát, chỉ thấy người ta đang chỉ trỏ 6 hộp sửa bò “Nestlé” (hiệu con chim, của Pháp) còn mới. Hộp nào cũng mở hé ra, toàn nước bùn đất. Một ông đỏ mặt tía tai, hai tay chống mạng sườn, chõ mồm chửi vào đám đông: “Ông mà bắt được mày, thì ông vặn cổ ra!”. Tôi chẳng hiểu đầu đuôi xuôi ngược. Hỏi người đứng đấy, họ cũng lắc đầu. Sau tôi nghe loáng thoáng đâu: Nó ngâm nước, bóc nhãn hộp sữa ra, đục hai lỗ nhỏ rồi rút hết sữa, cho bùn nước vào, lấy sáp bịt lỗ rồi dán giấy lại như mới.
Tôi đã thấy những chuyện như vậy, ở Hà Nội bây giờ không có gì là lạ lắm nữa, nên bỏ đi. Khi tôi xuống tới bờ hồ, mặt trời đã nằm dài trên những chòm cây phía Tây. Ánh nắng xiên khoai chọc tút mãi vào những hốc sâu hoắm, của cây đa già đền Bà Kiệu. Chiều hôm nay gió lộng, cả ngày trời Hà Nội nóng như nung, nên buổi chiều, bờ hồ thật đông đúc, đầy cả người. Trước lúc về nhà trên đường từ xí nghiệp, nhà máy tan ra. Công nhân thường ghé đây 5, 10 phút để đón ngọn gió hồ chiều. Cho vơi đi phần nào những giờ lao động mệt nhọc.
Tôi ghé vào hiệu “Bách Hóa Tổng Hợp” ở bờ hồ. Đây là căn nhà to, ba tầng của một người đã di cư vào Nam, được sửa lại làm nhà bách hóa lớn nhất Hà Nội. Ai đã từng ở tỉnh xa ra Hà Nội mua hàng, cũng đều ghé vào đấy.
Tôi rất lạ! Rất nhiều loại hàng tốt, cần thiết bày trong tủ kính có đề giá bán hẳn hoi, nhưng lại để mảnh giấy con ghi: “không bán”. Vừa đi vừa suy nghĩ mãi. Lúc tôi leo cầu thang lên tầng hai, tầng ba, thỉnh thoảng tôi cũng thấy người ngoại quốc đi vào. Chả biết là người Liên Xô hay là người các nước “xã hội chủ nghĩa” Đông Âu? Phải chăng, Cộng Sản chỉ cốt bày hàng để tuyên truyền, hay vì hàng cần thiết, nên họ đã chia nhau mua hết? Các hàng vớ vẩn thông thường thì nhiều.
Mặc dù tiếng loa luôn nhắc nhở khách hàng coi chừng kẻ gian móc túi, vậy mà chỉ trong vòng nửa giờ, tôi đã thấy một người kêu ầm lên mất ví, và lại một lần ở tầng hai, thấy ồn ào, bảo đuổi bắt tên ăn cắp. Tôi cũng phải sờ tay để ý vào cái ví của tôi, kẻo lỡ có ít tiền nó mượn mất, thì thật khó khăn. Một ý nghĩ làm tôi mỉm cười: Gián điệp lại bị cắp móc ví! 6 giờ 30, tôi thấy hơi mệt vì đã đi cả ngày, tôi ghé về Cầu Gỗ ăn cơm, rồi ra xe điện về Ngã Tư Sở.
Vào buồng, lúc sắp ngủ, vì tối, tôi rờ tay dưới gầm bàn vẫn thấy còn chiếc máy, không hiểu có thay băng chưa? Đợi sáng mai, tôi xem mới biết.
1     2     3         5     6     7     8     9     10     11     12     13     14     15     16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét