Thứ Ba, 12 tháng 2, 2013

THẦN TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM

Thần Tướng NGUYỄN KHOA NAM
Tiểu Sử Tướng NGUYỄN-KHOA-NAM

Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đình văn học, tôn sùng đạo Phật.

Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc dòng Tuy Lý Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.

Ông là con trai giữa trong gia đình có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ còn lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài Gòn và đã hồi hưu. Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Ông tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Phòng từ năm 1951.

Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đã bị gọi động viên, gia nhập Khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953. Mãn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đã gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đã tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt.

Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đã tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật. Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy. Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm sau, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.

Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc Hành Quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngãi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư Đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.

Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đã chiến thắng trận đánh đồi Ngok Van 1416 ở Kontum, tiêu diệt một trung đoàn chủ lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quý này lúc còn mang cấp bậc trung tá.

Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của tổng thống Hoa Kỳ.
Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài Gòn tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài Gòn - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này.

Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 thì được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ.

Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách là Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã quyết định không đầu hàng địch và đã tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết một vị tướng lãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi.

THẮP NÉN HƯƠNG TƯỞNG NIỆM TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM

Đức độ tài năng đã rõ ràng
Báo đền nợ nước, NGUYỄN KHOA NAM
Núi sông bức tử vào tay giặc
Thà chết vinh danh, chẳng nhục hàng!


Ngô Minh Hằng

1975 - Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam

Chiều chiều ra đứng ngã sau;
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Điếu thuốc Ruby quân tiếp vụ đã gần tàn nhưng ông vẫn cầm, một thói quen mà những người chung quanh bắt gặp thường xuyên nơi Tướng Nguyễn Khoa Nam, hai ngón tay cầm thuốc lúc nào cũng vàng khè, bao thuốc mặc dầu đang hút dở dang nhưng lúc nào cũng vuông vắn không nhầu nát, khi không tham dự hành quân bao thuốc được đựng cẩn thận trong hộp nhựa mỏng rẻ tiền, chứa được bao thuốc và hộp quẹt, bán sẵn ở các tiệm tạp hóa, nhưng khi hành quân thì hộp nhựa đựng bao thuốc, được cho vào túi đựng băng cá nhân đeo tòng teng ngay trên khoen giây TAB trước ngực, cho nên mặc dù đang lội bộ trong vùng rừng núi miền Trung hay ở những vùng sình lầy Nam Phần, hoặc ở tại hậu cứ, lúc nào bao thuốc cũng không bị nhầu nát, đó là một trong những thói quen ngăn nắp của Thiếu Tá Nguyễn Khoa Nam Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù,(Chiến Đoàn Trưởng hay Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù vẫn phải lội như những chiến sĩ Nhảy Dù khác); Một ngụm bia 33 nhạt nhẽo như câu chuyện tình muôn thuở của ông, có lẽ câu chuyên tình này ông chỉ tâm sự với rất ít người, cũng như ít người thấy ông uống rượu hay bia, tôi có dò hỏi một số ít người thân cận nhưng không một ai hay biết, mà đa số chỉ biết về một cô dược sĩ hay đến cư xá Lữ Gia, Sài Gòn; Thăm ông mỗi khi ông về đây nghỉ, sau này tôi có gặp người yêu của ông, là cô N... cô N cũng có xác nhận câu chuyện tình chung này, nhưng câu chuyện tình của ông không phải là bài viết này, đó là bài viết khác tôi chỉ viết khi được cô N... đồng ý, hiện nay cô đang sống tại Hoa Kỳ, có lẽ cô đang sống tại Hawaii, nếu thuận lợi tôi sẽ cống hiến quí vị câu chuyện tình không có đoạn kết, câu chuyện tình đầu và cũng là tình cuối của vị Tướng chung tình này, (với hình ảnh chụp từ năm 1957 tại nhà người yêu ở Tây Đô, cùng với ba má cô N và họ hàng nhân ngày ra mắt). Ông rất ít nói tánh tình điềm đạm, và có lẽ không nói lớn, ngoại trừ phải đứng trước hàng quân. Ông chung thủy với gia đình, với họ hàng, với thôn xóm, với cấp trên, với cấp dưới, với quân đội, với Quốc Gia Dân Tộc và ngay cả với người yêu; Vì hiểu tính tình và tư cách của ông cho nên khi nghe tin ông tự sát tôi không ngạc nhiên.

Nội tổ của ông là cụ Nguyễn Khoa Đăng có công giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc nam tiến vào thời vua Lê chúa Trịnh; Quan Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng có công dẹp giặc cướp ở Truông Nhà Hồ (phá Tam Giang) hai địa danh này nói lên sự hiểm trở của đất đai miền Trung cho nên không ai không biết tên trên sử sách, với giòng dõi Võ Tướng.
Nhớ lúc lên đường ra tiễn chân anh,
Dâng lên khóe mắt mẹ nói đôi lời ,
Diệt thù lập công cho xứng tài trai
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai
Con đi chinh chiến để nước yên vui
Lam Phương
Ông nhập ngũ theo lệnh động viên vào khóa 3 Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức năm 1953, cùng năm đó ông tốt nghiệp và trình diện TĐ7 ND/VN, đồn trú tại trại Quần Ngựa, Hà Nội, ông được giao cho chỉ huy một trung đội Nhảy Dù từ ngày đó; Theo dòng thác dân tộc. Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta phải phân chia làm hai: Miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của Cộng Sản Việt Nam, Miền Nam thuộc quyền cai trị của Thực Dân Pháp, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới của hai miền, các đơn vị Nhảy Dù Việt Nam lúc đó còn thuộc quyền chỉ huy của người Pháp, nên phải di chuyển xuống miền nam vĩ tuyến 17.

Tháng 8 năm 1954 Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Trịnh Xuân Nghiêm được không vận vào Nha Trang cùng với TĐ3ND và TĐ5ND .
Tháng 9 năm 1954 vì nhu cầu thành lập BCH Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam và Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, trong lúc đó Liên Đoàn Nhảy Dù Việt Nam không được tuyển mộ thêm quân số, cũng như không được tăng cường quân số từ các đơn vị khác thuyên chuyển đến, cho nên TĐ7ND phải giải tán, ông được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn Trợ Chiến Nhảy Dù, sau đó được bổ nhiệm là Đại Đội Trưởng đại đội Kỹ Thuật Nhảy Dù thuộc tiểu đoàn này.
Tháng 1 năm 1957 sau khi du học Hoa Kỳ ông được thuyên chuyển về Phòng 3 Lữ Đoàn Nhảy Dù, (lúc này Liên Đoàn Nhảy Dù được đổi tên thành Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, gồm 6 Tiểu Đoàn Nhảy Dù và hai Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Nhảy Dù) tại đây ông trách nhiệm về hành quân của Lữ Đoàn .
Năm 1960 thuyên chuyển về làm Trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.
Năm 1963 được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
Năm 1964 được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
Năm 1965 được bổ nhiệm làm Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù.
Tháng 12 năm 1965 Lữ Đoàn Nhảy Dù Việt Nam vì nhu cầu chiến trường được bành trướng thành Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam.
Năm 1966 ba Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Được đổi tên thành Lữ Đoàn. Tháng 10 năm 1966 ông chỉ huy ba tiểu đoàn Nhảy Dù gồm TĐ3ND, TĐ6ND và TĐ8ND tham dự cuộc hành quân song song với Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ. Trong lúc bọn phóng viên phản chiến đang thêu dệt làm nhục QLVNCH, nói rằng chúng ta không chịu chiến đấu trong lúc các đơn vị Đồng Minh tích cực chiến đấu, đó chính là đề tài cho sinh viên Hoa Kỳ biểu tình Phản Chiến, chống đối chiến tranh Việt Nam. Nhưng tại ngọn đồi chiến thuật 1418 Dakto (KonTum) Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã rửa nhục cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là chiến thắng vẻ vang trận này, TĐ8ND Việt Nam đã được Tổng Thống Hoa Kỳ L. B. Johnson trao tặng Huy Chương Danh Dự, chính cá nhân Đại Tá Nguyễn Khoa Nam LĐT/LĐ3ND được phía Việt Nam trao tặng Anh Dũng Bội Tinh với ngành Dương Liễu, về phía Hoa Kỳ cũng trao tặng huy chương Silver Star. Cho đến ngày nay các đơn vị Nhảy Dù Hoa Kỳ vẫn còn ca tụng chiến thắng này của chúng ta.
Năm 1969 trong lúc LĐ3ND đang tham dự hành quân phối hợp LĐ1Không Kỵ thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ (các quân nhân phục vụ trong đơn vị Không Kỵ là quân nhân Nhảy Dù, đơn vị này trực thuộc Quân Đoàn 18 Nhảy Dù) tại biên giới Miên Việt thuôc tỉnh Tây Ninh, ông được thượng cấp thuyên chuyển ra khỏi Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam; Làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh .
Năm 1974 vì tình hình đòi hỏi các cấp Tư lệnh Quân Đoàn cũng như Sư Đoàn phải có đầy đủ khả năng cũng như uy tín và Trung Kiên nên ông được điều động làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
Năm 1975 ngày 30 tháng 4, Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông đã bình tĩnh cho lệnh cuối cùng, để quân nhân thuộc cấp tự định liệu lấy đời mình, nhưng ông chính vì lòng trung tín mà ông phải tuân theo lệnh thượng cấp, sau đó ông vào phòng tư lệnh dùng súng tự sát để trở về với những anh hùng Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản. . . (tác giả Mũ Đỏ Đặng Trần Hào Nhớ về Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam)
Ngày Tàn Của Cuộc Chiến
Lê Nguyên Bình
(Trích Ðặc san Nguyễn Khoa Nam )
LTS: Tác giả bài dưới đây, Ðại tá Lê Nguyên Bình, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Ðại tá Bình đã có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đã xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do.

Ðọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đã có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu vãn nổi tự do thì âu cũng là tại lòng Trời còn muốn đày đọa dân Việt vậy.
Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng võ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ý đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập vòng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài.
Ðội hình hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen xì với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô tình trôi, cuốn theo vài xác chết.
Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đã được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người xì xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp.
Ðột nhiên, những "coup départ" khai pháo từ phi trường Bình Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Ðiền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập. Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành vì bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông.
Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền hòa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975.
Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một vòng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Ðúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ vòng đai Alpha, từ phi trường Bình Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngã ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đã từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn vòng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An.
Lập căn cứ ở Quân khu 4 ?
Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đã đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. Tình hình chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, vòng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài Gòn dần dần bị thu hẹp. Vì những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, vì Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc phòng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước.
Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế sình lầy của vùng Ðồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn còn nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Ðịa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ tìm thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đã bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đã không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Ðông. Ðến khi tàn quân chạy ra Ðài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đã tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xã hội bền vững đến bây giờ.
Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch còn có Ðài Loan, mình thì có gì? Phú Quốc? Hòn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Hòa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những phòng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang thì việc phòng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ý kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam thì được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Hòa Hảo đã gặp trở ngại ngay từ bước đầu vì trước đó Thiếu tướng Nam đã có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Hòa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đã gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong lòng những người bạn Hòa Hảo.
Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với tình hình an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có trình bầy tường tận về nghị quyết "Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa" để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc phòng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đoán tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài Gòn thất thủ.
Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Ðó là cuốn phim "Chiến thắng Hạ Lào" liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi còn nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Ðại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn còn nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt còn non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. Hình ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nhìn Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nhìn lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông còn xúc động hơn tôi vì ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi: "Nếu đời mình như thế là hết!"
Ngày hôm sau, để nhận định thêm tình hình, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lý Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Ðại tá Ðặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết tình hình trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch còn nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nhìn anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Ðại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đã lựa chọn thà tự sát còn hơn đầu hàng địch.
Chúng ta là quân nhân ...
Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Ðài phát thanh Sài Gòn yêu cầu toàn bộ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đã âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đã tan thành mây khói. Ðêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xã Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mã lực của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Ðại Ngãi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ.
Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; vì dù họ có ở lại cũng không đóng góp được gì cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đã trở thành một đoàn cân não trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH.
Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về tình hình có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nhìn ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu vì tôi biết ông cũng cảm thông với những gì tôi muốn nói.
Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về phòng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Ðây là lần cuối tôi gặp ông vì nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành.
Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương vì sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người còn hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, hòa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch.
Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện. 10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay mình đối diện với các sĩ quan trực thuộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn.
"Các sĩ quan thân mến," ông nói, "Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân thì phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết."
Nói xong, ông rời phòng hội để về văn phòng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối: "Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?" Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện vãn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn: "Biết làm sao được bây giờ hả anh." Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đã thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng tìm cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được vì biết ông sẽ từ chối. Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về phòng.
Bấy giờ, tôi còn nhớ rõ, Trung uý Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đã cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm gì? Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về phòng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bục đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đã kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Lòng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách gì để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam lòng đầu hàng chúng. Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình phải tìm cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Ðại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để tìm phương thoát hiểm. Tôi trình bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho mình khi chúng chiếm được phần đất này. Tôi đề nghị anh cùng tìm cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi tìm phương tiện di chuyển.
Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đò máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành trình đầy cam go, tổn thất đã đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đã tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đã nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, lòng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên...
Lê Nguyên Bình
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam : Những Phút Tâm Tình Cuối Cùng
Cuối năm 1973, tôi được lệnh bổ nhiệm về Liên đoàn 67 Truyền tin tại Cần Thơ. Lúc đầu, Thiếu tướng Nam không đồng ý cho tôi rời khỏi Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông bảo: "Anh ở đó chứ đi đâu". Tôi thưa với ông rằng: "Thưa Thiếu tướng, tôi đã phục vụ ở Sư đoàn ròng rã 7 năm trời.
Trong binh chủng Truyền tin chỉ có 3 Liên đoàn. Thiếu tướng giữ tôi lại SĐ7BB, e sau này tôi mất cơ hội". Suy nghĩ một chốc, ông đồng ý và hỏi ai là người thay thế tôi.
Tôi trình rằng nếu ông đồng ý thì Cục Truyền tin sẽ cử anh Bùi Văn Hạp, trung tá hiện đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Truyền tin SĐ7 BB (người cùng khóa 3, cùng trung đội với thiếu tướng Nam) thay thế tôi. Tướng Nam đồng ý. Tôi về Cần Thơ được 6 tháng thì thiếu tướng Nam cũng về Cần Thơ nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV. Một người bạn bảo tôi chạy trời không khỏi nắng.
Buổi lễ bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV được tổ chức tại sân cờ Bộ Tư lệnh. Sau khi một sĩ quan tuyên đọc lệnh bổ nhiệm Tân Tư lệnh - Trung tướng cựu Tư lệnh trao quân kỳ Quân đoàn IV cho tân Tư lệnh. Không có thượng cấp chủ tọa, không diễn văn, không huấn thị. Một buổi lễ bàn giao "ngắn, gọn" và "độc đáo". Buổi lễ tuy vắng bóng cấp trên của Quân đoàn nhưng thân hào, nhân sĩ, các vị lãnh đạo tinh thần dự lễ rất đông. Sau buổi lễ bàn giao, ông bắt tay vào công việc mới. Từ nay, công việc của ông không còn hoàn toàn thuần túy quân đội mà còn liên hệ đến các lãnh vực khác như hành chánh, ngoại giao, chính trị. Tuy rất bận nhưng thỉnh thoảng ông cũng đến thăm Liên đoàn của tôi, đóng tại gần cầu Bình Thủy.
Lần thăm viếng đầu tiên, sau phần thuyết trình, ông muốn đi thăm doanh trại và cơ sở. Ông hài lòng và có ý định dùng bản doanh Liên đoàn 67 Truyền tin làm bản doanh Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm để chỉ huy và điều hợp các tiểu khu Kiến Phong, Sadec, Long Xuyên, Châu Đốc. Do gợi ý của ông, những hôm sau, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó và Đại Tá Nguyễn Đình Vinh, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn đến thăm đơn vị tôi. Công việc chỉ mới dự định, chưa thực hiện thì mất nước.
Một hôm, ông đến thăm, ghé vào cư xá, tôi sống một mình vì vợ con tôi vẫn còn ở Mỹ Tho. Trông thấy trong phòng khách có tượng Phật Quan Âm và tượng Đức Mẹ bằng thạch cao. Ông hỏi tượng Phật ở đâu mà đẹp vậy, thỉnh cho ông một chiếc được không. Tượng Phật Quan Âm do vợ tôi mua tại một cửa hàng mỹ thuật tại Sài Gòn. Đơn vị tôi có trách nhiệm cung cấp các mạch liên lạc điện thoại và viễn ấn cho các thành phố, các căn cứ quân sự của Hải, Lục, Không Quân thuộc 15 tỉnh miền Tây. Tháng nào cũng có anh em trong đơn vị bị thương vong do bị mìn, bị bắn sẽ, bị trúng đạn pháo nên vợ tôi thỉnh tượng Phật Quan Âm để cầu an. Còn tượng Đức Mẹ thì do các bà xơ thuộc một tu viện trước mặt Liên đoàn tặng làm kỷ vật. Tôi thiết trí một bàn thờ, mẫu mã đơn giản nhưng gọn đẹp, một bộ đèn bằng gỗ trắc và thỉnh tượng Phật về đặt tại phòng khách dinh Tư lệnh. Ngày an vị Phật, ông mời thầy Tuyên úy Phật Giáo và một số quan khách đến cầu an và dự cơm chay tại tư dinh. Ngờ đâu, sau ngày 30-4-1975, ông đã kết liễu cuộc đời tại phòng khách, trước bàn thờ Phật.
Đêm 29 tháng 4, Cộng Sản tấn kích Rạch Sỏi, Sóc Trăng, Trà Vinh. Các mạch liên lạc với Sài Gòn bị trở ngại vì đài viễn thông Núi Lớn ở Vũng Tàu bị pháo gây thiệt hại. Tôi nhận được điện thoại của Thiếu tướng, ông hỏi lý do vì sao liên lạc với Sài Gòn bị khó khăn. Tôi trình cho ông biết lý do và báo đã chuyển mạch liên lạc Cần Thơ - Sài Gòn qua ngã Đồng Tâm.
Sáng 30-4-1975, lúc 6 giờ rưỡi sáng, Quân đoàn mời các đơn vị trưởng hay phụ tá đến họp tại Bộ Tư lệnh. Các đơn vị trưởng phần lớn đều còn ở lại. Đại tá Nguyễn Đình Vinh được chỉ định làm quyền Tham mưu trưởng Quân đoàn IV. Tôi ngồi cạnh anh Huỳnh Ngọc Diệp (khóa 3 Thủ Đức), đại tá Tỉnh trưởng Cần Thơ, anh Lê Nguyên Bình, đại tá Trưởng Phòng 2 Quân đoàn và anh Nguyễn Bá Trang, đại tá Hải Quân. Anh Trang và tôi cùng học chung khóa Chỉ huy Tham mưu năm 1972. Tôi hỏi anh Trang rằng anh sẵn tàu sao không đi? Anh trả lời: "Bậy nào - Để chờ xem Tư lệnh quyết định thế nào đã - Mặt mũi nào mà bỏ chạy". Sau này tôi gặp lại anh và cả người anh của anh là đại tá Nguyễn Bá Trước, gốc Dù, cựu tỉnh trưởng Phước Tuy và có thời kỳ làm Tham mưu trưởng SĐ7BB. Các anh đều bị đưa ra cải tạo ở miền Bắc như chúng tôi.
Tướng Nam vừa bước vào phòng họp thì tùy viên báo cho ông là Tổng Thống Dương Văn Minh muốn nói chuyện với Tư lệnh Quân đoàn IV qua điện thoại. Tướng Nam rời phòng họp. Liền sau đó Trung tâm Hành quân Quân đoàn mở đài Sài Gòn. Đài phát đi lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh: "Quân đội VNCH ngưng chiến đấu để chờ bàn giao". Đại tá Hiền vật vã khóc: "Đầu hàng rồi tụi bây ơi! Nhục ơi là nhục!" Thật thấm thía, đau khổ không thể nào kể xiết. Rồi đây, bản thân và gia đình sẽ ra sao? Đất nước, dân tộc đi về đâu?
Tướng Nam trở lại phòng họp, nét mặt ông lộ vẻ buồn, rất buồn. Giọng nói còn xúc động, ông nói với chúng tôi: "Chúng ta là quân nhân. Quân nhân phải thi hành lệnh thượng cấp. Nay Tổng Thống ra lệnh ngưng chiến đấu, ở vị trí tại chỗ, chờ bàn giao. Thôi chào anh em và anh em trở về đơn vị". Ông lại nói tiếp: "Tôi không chủ trương ra đi. Với cương vị của tôi, ra đi lúc nào cũng được, nhưng nghĩ đến anh em chiến sĩ ngoài mặt trận, gia đình vợ con binh sĩ và đồng bào nên tôi không ra đi." Đây là lần chót tôi gặp ông.
Tôi lên xe trở về đơn vị, tâm thần bất định, nửa muốn chết nửa tham sinh. Lời vợ tôi vẫn còn văng vẵng: "Anh đi đi, ở lại tụi nó giết cho bây giờ". Giữa đường, tôi có thấy hai anh Huỳnh Ngọc Diệp và Lê Nguyên Bình. Khi ra Bắc cải tạo, không thấy các anh ấy, tôi biết rằng các anh đã vượt thoát và tôi mừng cho các anh ấy.
Sáng 1-5-1975, lính gác bảo là "cách mạng" muốn gặp đơn vị trưởng. Tôi vẫn mặc quân phục đầy đủ ra tiếp họ. Một nhóm bộ đội, trong đó có vài người mang túi vải trên vai, cán bộ chỉ huy, một người trạc dưới 50 tuổi, nói giọng Huế, giới thiệu là Tám Thanh. Đơn vị anh ta đến tiếp quản khu vực Liên đoàn của tôi. Họ tập họp binh sĩ các cấp lại, cấp giấy tờ cho về nhà, trừ cấp chỉ huy, lấy lý do họ cần chúng tôi để "bàn giao". Hai hôm sau, cũng chính ông cán bộ tên Tám Thanh này cho biết trong đơn vị có người tự sát. Khi mở cửa nhà kho, chúng tôi thấy thi thể một hạ sĩ quan đã tự sát bằng lựu đạn. Đang dự tính tháo ván trên vách đóng thành quan tài để chôn ngay tại đơn vị thì một hạ sĩ quan tài xế xuất hiện, thấy chúng tôi bị giữ tại đơn vị, anh ta mua ít bánh mì tặng chúng tôi làm lương thực. Anh ta báo rằng, ở Trung đội Chung sự còn bốn quan tài, người ta lấy một chiếc để chôn Thiếu tướng Nam, còn 3 chiếc có thể xin mấy ông cách mạng viết giấy giới thiệu, lãnh quan tài về chôn bạn mình. Nghe tin, tôi bàng hoàng xúc động. Thượng cấp đã đi rồi và thuộc cấp cũng lấy cái chết để bảo toàn danh dự.
Sau 5 ngày bị lưu giữ tại đơn vị, bộ phận tiếp quản thấy không có gì xẩy ra, họ cấp cho tôi giấy trở về nhà. Trước khi trở về Mỹ Tho, tôi ghé lại nhà một người quen và được biết sau khi tự sát, thi hài Thiếu tướng Tư lệnh được đưa về Quân y viện Phan Thanh Giản Cần Thơ. Đêm hôm ấy, hai bác sĩ, một trung tá thuộc Trung tâm Tiếp huyết, và một đại úy cháu của tướng Nam đến viếng thi hài của ông thì bị lính Việt Cộng bắn, Trung tá chết và Đại úy bị thương nặng. Anh Hoàng Như Tùng, trung tá Bác sĩ, giám đốc Quân y viện Phan Thanh Giản đích thân giải phẩu và điều trị cho vị sĩ quan, sau này tôi mới biết là bác sĩ Nguyễn Khoa Lai. Anh Hoàng Như Tùng, nay định cư ở Houston - Texas là bạn học của tôi khi chúng tôi còn học trung học ở trường Khải Định - Huế. Chính anh Hoàng Như Tùng đứng ra chôn cất thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Thi hài ông được an táng ở Nghĩa trang Quân đội Cần Thơ. Việt Cộng xóa dòng chữ "Nghĩa trang Quân đội" và viết lên đó những dòng chữ "Mồ chôn quân giặc". Thân nhân các người quá cố thấy tủi thân nên chờ ban đêm, họ lén đào các mộ người thân đem đi cải táng nơi khác - Việt Cộng đã xả súng bắn vào nhóm người đó gây thêm một số thương vong.
Khi tôi còn ở trại cải tạo số 8 đoàn 776 Hoàng Liên Sơn, bỗng một hôm gặp bác sĩ Hoàng Như Tùng. Anh từ một trại cải tạo ở Sơn La được chuyển xuống Yên Bái. Lẽ ra các bác sĩ chỉ bị cải tạo ở trong Nam. Trường hợp của bác sĩ Tùng, anh phải ra Bắc là vì Cộng Sản nghi các chết của thiếu tướng Nam có "vấn đề". Họ nghi xác đó là Nguyễn Khoa Nam giả. Hơn nữa, khi tiếp nhận thi hài của thiếu tướng Nam, trong hoàn cảnh đó, anh dám nói lên một câu: "Đời ông ấy để lịch sử phê phán".
Sau khi được tha từ trại cải tạo về, đời sống gia đình quá khó khăn. Kinh tế gia đình kiệt quệ, nhà cửa và tài sản đều bị tước sạch, tôi thì bị Công An theo dõi ngày đêm, các con tôi mang một lý lịch chính trị của cha nó đen xì. Chúng tôi từ một trại tù nhỏ được chuyển về một nhà tù lớn. Và không cứ gì gia đình tôi phải gánh chịu cuộc sống bi đát đó. Cả một dân tộc sống trong đau thương. Tôi nghe người ta bàn tán rằng tướng Nguyễn Khoa Nam hiện đang ở trên một chiếc tàu ngoài biển khơi, chỉ huy đoàn quân phục quốc. Rồi còn để thuyết phục lòng tin của mọi người, người ta còn bảo đài BBC loan tin như vậy. Tôi biết Thiếu tướng đã mất, nhưng khi mọi người chỉ còn dựa vào tên ông như là một hy vọng vào niềm tin để sống, tôi chia xẻ và cảm thông với họ.
Shakespeare, qua các nhân vật của một vở kịch, có viết rằng, mỗi người xuất hiện trên sân khấu một lần, diễn xuất một cách vụng về rồi biến mất. Điều này có thể đúng với tôi, với nhiều người khác nhưng không đúng với Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Ông không diễn xuất vụng về, trái lại, ông diễn xuất rất đạt, rất thành công. Ông không biến mất - Ông vẫn trường tồn. Ông được nhiều người ca tụng là anh hùng. Theo tôi, ông có những cái gì khác hơn anh hùng. Anh hùng dựa vào dân tộc, dựa vào lịch sử mà trường tồn, được xem như người chiến thắng, được bỏ qua những lổi lầm. Còn ở ông còn toát ra những gì thanh cao, khí tiết. Ông là kết tụ của tinh thần bất khuất Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu - ninh thọ tử bất ninh thọ nhục - thà chết chứ không chịu nhục. Ông là tiếp nối của truyền thống hào hùng tiết tháo của Võ Tánh, Hoàng Diệu - tướng chết theo thành. Cái chết của ông thật lặng lẽ, âm thầm và cô đơn nhưng lại chuyển vào mạch sống của dân tộc. Ông đã để lại cho lịch sử khúc ca chính khí.
Tôi viết lên những dòng này vào giữa đêm khuya, trong phòng vắng. Đến đây, tôi ngừng viết, đọc lại những gì ghi trên giấy, nước mắt bỗng tuôn tràn trên gò má. Tôi khóc cho ông, người thầy của tôi và cho những người nằm xuống. Nhưng tôi cũng khóc cho tôi, cho những người thân, cho những bạn bè đã hứng chịu những hệ lụy bi đát sau ngày tàn cuộc chiến. Tôi khóc vì cảm động trước đắng cay mà đồng bào tôi đang sống trong màn đêm bạo tàn ở ngay chính trên quê hương của mình.
Tôi viết những dòng này, trước ngày húy nhật thứ 30 của ông để dâng lên ông lòng kính trọng. Tôi không ca tụng ông vì danh ông lớn quá, ca tụng cũng bằng thừa. Tôi chỉ ghi lại vài mẩu chuyện rất người của một con người bình thường, nhưng đã vươn lên cao, nếu không nói là vĩ đại. (tác giả Lê Chu, Arlington – Texas)
Lá Thư gửi anh NAM
Nguyễn Văn Hai
Giáo Sư Tiến Sĩ, nguyên Phó Viện Trưởng kiêm Khoa Trưởng Đại Học Khoa Học, Viện Đại Học Huế
Anh Nam kính mến,
Chúng tôi vừa coi xong cuốn video "Chiến Tranh và Hòa Bình" của hãng Asia. Một đoạn video gây chúng tôi nhiều xúc động nhất là buổi phỏng vấn anh Phước về cái chết đầy khí tiết của Anh, một vị Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vào giờ phút buồn thảm nhất của lịch sử đất nước. Một chi tiết đến hôm nay chúng tôi mới biết và làm tôi ngạc nhiên đến sửng sốt là Anh thọ trì thần chú Thủ Lăng Nghiêm đã từ lâu. Sửng sốt là vì thật không ngờ từ lâu Anh đã suy ngẫm nhiều về chân tướng cuộc đời, phát tâm tin Phật Pháp thâm diệu, sống ung dung thanh thản giữa một thế giới lắm tai ách và khổ đau.

Thực ra, Anh là người đã rất nhiều lần gây cho tôi những giây phút bàng hoàng sửng sốt. Duyên nghiệp cho tôi được cái vinh dự cùng Anh học một lớp và ở chung một ký-túc-xá suốt năm năm ở trường Trung Học Khải Định. Lúc bắt tay Anh lần đầu khi Anh sắp leo lên chiếc giường ngủ đặt sát cạnh giường tôi đêm trước ngày khai giảng niên khóa 1940 - 4, tôi có ngay cảm tưởng từ hôm nay tôi may mắn có thêm một bạn đồng song hiền lành, chăm học, dáng ngoài đúng điệu một thư sinh. Nhưng tôi để ý Anh có một nụ cười bí ẩn, mãi đến nay tôi vẫn còn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Thường Anh ít nói mà chỉ cười, cười kiểu "ngậm kim". Có khi tôi tưởng Anh cười nhạo báng, có khi tôi tưởng Anh cười đồng ý, và có khi tôi cho là Anh cười để tránh nói ra những cảm nghĩ làm mất lòng người khác.

Bây giờ tôi kể lại để Anh nhớ một hai câu chuyện hồi còn ở trường Anh đã gây cho tôi bàng hoàng sửng sốt. Thường ngày vào giờ Vẽ, tôi ngồi gần Anh trong phòng Họa, ở sát ngay Nhà Chơi của Trường. Cả lớp đều biết Anh có tài hội họa, vẽ truyền thần và phong cảnh. Kể ra, vốn tự biết mình vụng về không vẽ nên thân, tôi tìm ngồi gần Anh là cốt học mót nơi Anh cách vẽ, chứ thầy Tôn Thất Đào đâu có đủ thời giờ trong một tiếng đồng hồ đi chăm sóc từng trò một trong một lớp có đến 50 tên. Một năm nọ, vào kỳ thi lục cá nguyệt, thầy Đào ra đề tài cho vẽ tùy ý một cảnh hoạt động ngoài trời. Thế là tôi lúng ta lúng túng, hết gôm rồi lại xóa, làm mòn gần hết viên tẩy, thay tờ giấy vẽ này sang tờ giấy vẽ khác, rốt cuộc năm mươi phút trôi qua mà chẳng vẽ ra cái cảnh nào nên hồn cả. Anh thương tình, biết tôi tự ái, không bao giờ mở miệng cầu viện, mới hỏi: Cậu ưng mình vẽ hộ cho cậu không? Không đắn đo suy nghĩ, tôi cảm ơn lòng tốt của Anh và đưa cho Anh một tờ giấy vẽ còn nguyên. Thế là chỉ trong năm hay bảy phút gì đó, Anh đã họa xong giùm tôi một hoạt cảnh "Đá banh." Tôi mừng thầm có cứu tinh phò trợ chuyến này chắc tai qua nạn khỏi. Ngờ đâu, khi nhìn vào tờ giấy vẽ trước khi đem lên nạp thời trời đất ơi! Anh đã vẽ một thằng bé chổng mông rách quần trên sân cỏ!!! Vì đã hết giờ và không còn cách nào hơn, tôi đành đem bức họa "quỷ khóc thần sầu" ấy lên nạp. Tôi nghĩ lại tất cả là lỗi tại tôi, đã có ý gian thì phải cúi đầu mà lãnh đủ quả phạt. Buồn cười là câu chuyện không chấm dứt như dự tưởng. Sau hơn ba năm dạy tôi môn Vẽ, thầy Đào thừa hiểu tôi không bao giờ đủ tài năng sáng tác ra một bức họa để đời như vậy. Thầy không cho tôi là người có tội nên phê vào tờ giấy vẽ đề tên tôi điểm 19 trên 20. Còn điểm bức họa của Anh thì chỉ được 18 trên 20 mà thôi. Tôi được một trận cười ra nước mắt, nhưng Anh thì đón nhận bài của mình vẫn với cái nụ cười "ngậm kim" muôn thuở!
Sau đây là một câu chuyện khác, nhưng lần này xin nhường cho Phan Thụy Dung, một người bạn học khác của Anh kể hay hơn tôi nhiều: Một hôm trong lớp học xuất hiện một giáo sư Việt Nam, thầy B. H., dạy tiếng Nhật vừa được ghi thêm vào chương trình trung học. Học trò bên ngoài ngoan ngoãn học ngoại ngữ mới, thật ra bên trong chẳng mấy người hăng hái sốt sắng vì mặc cảm hết tiếng Tây đến tiếng Nhật đang đè nặng. Tất nhiên đám học trò có phản ứng và sự việc xảy ra đã làm cả lớp thích thú:
Hôm đó thầy B.H. giảng cách dùng tiếng Nhật khi nói về "đàn ông" và "đàn bà," đại khái nói về "đàn ông" thì dùng chữ "Watakusi," về "đàn bà" thì dùng chữ "Watasi." Một anh bạn đứng dậy giơ tay nói: Thưa thầy, như rứa là "đàn bà" thì không có "ku" phải không? Cả lớp được một dịp cười hả dạ. Tui không bao giờ quên được anh bạn đó, người đã dùng óc hài hước để hóa giải mặc cảm nói trên. Người học sinh có óc hài hước đó lại là một con người tài ba, sau này đã thành công trong đời, đã lên đến đỉnh cao trong binh nghiệp và khi không giữ được nước, đã noi gương trung liệt của Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản, v.v... làm rạng danh một dòng họ lớn ở đất Thần Kinh: họ Nguyễn Khoa. (Trích trong Tiếng Sông Hương "Kỷ Niệm 100 Năm Trường Quốc Học").
Anh Nam ơi! Rồi duyên nghiệp đưa tôi trở thành con rể trong gia đình bên ngoại Anh, và qua nhà tôi, tôi trở thành người em cô cậu của Anh. Tin Anh tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù sau khi mãn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức làm tôi kinh ngạc hết sức. Đúng ra, theo phong cách của Anh, Anh phải là một văn nhân, một nghệ sĩ. Nay Anh lại tự ý muốn trở thành quân nhân quả cảm của một binh chủng có tiếng oai hùng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, điều này làm tôi mến phục Anh vô cùng!
Anh nhớ không, sau Tết Mậu Thân, tôi có dịp cùng một số sinh viên Đại Học Huế lên thăm tiền đồn của Dù bảo vệ Huế đóng trên núi ở phía Tây kinh thành. Lại một lần nữa Anh làm tôi bàng hoàng sửng sốt khi thấy nơi chốn Anh ăn nằm không có chút gì khác biệt giữa cương vị của một vị Đại Tá cao cấp với một anh binh Nhì thuộc cấp.
Trong thời gian Anh đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi được gặp Anh một lần ở Sài Gòn và hỏi về chuyện một Giáo Sư trường Đại Học Dược Khoa muốn theo Anh để nâng khăn sửa túi. Nhưng rồi Anh không nói có, Anh cũng chẳng nói không, mà chỉ cười cái cười ngậm kim như thuở nào!
Anh Nam ơi! Trong trại tỵ nạn ở Subic Bay, chúng tôi bàng hoàng sửng sốt khi nghe tin Anh đã tự sát để đền nợ nước và để tránh khỏi đầu hàng quân địch. Anh lại gây trong lòng chúng tôi một sự sót xa kính phục vô cùng tận không lời nào tả xiết.

Cuối cùng, nhờ được biết Anh thọ trì Thần chú Thủ Lăng Nghiêm từ lâu, nên nay chúng tôi mới rõ trong thời kỳ trước 1975, Anh đã thần thông thấy, biết trước mọi điều bất hạnh sẽ xảy ra cho đất nước, nhưng với trí tuệ giải thoát, Anh vẫn sống an nhiên tự tại, quan niệm sanh tử tức Niết Bàn, thảy thảy đều không. Nay tuy Anh đã đi vào cảnh chân như tịch tịnh, đời đời hậu thế sẽ không bao giờ quên đề cao gương trung liệt của Anh.

Thương kính nhớ Anh vô cùng
Nguyễn văn Hai & gia đình

Hai tay nâng mảnh khăn tang
Trăm năm thôi vĩnh biệt Chàng từ đây
Vì đâu đến nước non này
Lệnh kia sao lại trói tay anh hùng ?


Trước hờn bức tử non sông
Thiên thu đâu lẽ thẹn cùng cỏ cây
Mịt mù bốn phía trời mây
Tiếng gầm đại bác, tiếng cày xe tăng
Phút giây oan nghiệt bất bằng
Giận cơn hồng thủy cuốn phăng sơn hà
Âm thầm, Chàng bỏ lại ta......
Giữa trăm ngàn nỗi xót xa nghẹn ngào !
Kỳ đài, cờ rũ trên cao
Ngỡ ngàng nghe lệnh chiến hào bỏ không
Đau thương nhìn lại xác chồng
Chàng đi theo nước, em không trách Chàng !
Xé manh áo, quấn khăn tang
Lên đầu con trẻ, hai hàng lệ rơi
Xa nhau.....Vĩnh biệt nhau rồi......
Mà không nói được một lời từ ly !!!
Mắt thần chẳng khép làn mi
Một dòng máu đỏ, tứ chi lạnh dần
Ôm chồng, thân ngã vào thân
Tứ bề pháo giặc xa gần ầm vang

Hai tay nâng lá cờ vàng
Phủ lên cho ấm lòng Chàng, lòng ta !
Tên Chàng dù chẳng sử hoa
Nhưng hồn Chàng đã nhập hòa núi sông
Vô Danh Vạn thuở Anh Hùng !
trích thơ Ngô Minh Hằng
(tác giả Nguyễn Văn Hai)
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Rạng Danh Anh Hùng
Phạm phong Dinh
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc về một dòng họ danh gia vọng tộc ở đất Thần Kinh Huế. Một trong những vị tổ của họ Nguyễn Khoa là ngài Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng trí dũng song toàn làm quan dưới triều Chúa Nguyễn. Ông nổi tiếng vừa là một võ tướng tài ba, vừa là một văn quan chính trực nổi tiếng xử án như thần. Một trong những công nghiệp lớn lưu truyền trong sử sách của ngài là việc dẹp tan giặc cướp ở Truông Nhà Hồ, mở đường cho dân chúng qua lại buôn bán, thăm viếng
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ Truông Nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang.
Lời tự tình nhớ thương của người con trai Đàng Ngoài đã được người con gái Đàng Trong tha thiết nhắn gửi ra:
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ Nội Tán cấm nghiêm.
Ngài Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng còn được người đương thời sùng bái vì đức độ thanh liêm và phép xử án công minh. Như một câu chuyện cảm động sau về nỗi oan tình của một người vợ trẻ bị buộc tội đầu độc mẹ chồng, chờ ngày bị xử chém. Ngài Nội Tán dâng lệnh Chúa Nguyễn đi tra xét dân tình đã ghé qua làng và giở lại vụ án bí ẩn. Nhìn nét mặt tiều tụy và thân thể còm cõi bỏ ăn uống vì nhớ thương chồng con nằm co người như một cái xác chết trong khám lạnh của người thiếu phụ, ngài Nội Tán tin chắc nàng bị hàm oan. Nhưng làm cách nào để minh oan cho nàng? Thiếu phụ bị làng nước buộc tội là đã tẩm độc trên lá trầu têm cho mẹ chồng, người mẹ chồng ăn xong ngã ra chết. Ngài Nội Tán thẫn thờ đi giữa những hàng trầu bóp trán suy nghĩ. Chợt ngài trông thấy một con rắn độc trườn mình trong những dây trầu, thỉnh thoảng nó thè lưỡi liếm những giọt sương đọng trên cuống lá trầu. Thì ra con rắn mới chính là thủ phạm làm chia rẽ phượng loan và suýt làm rơi một cái đầu. Người mẹ chồng bị chết vì ăn phải nọc độc của rắn dính trên cuống lá. Vụ án được sáng tỏ, thiếu phụ được minh oan, vợ chồng đoàn viên hạnh phúc. Từ đó về sau người Việt mỗi khi ăn trầu thường hay ngắt bỏ cuống lá để ngừa trường hợp trúng độc.
Những cụ tổ dòng họ Nguyễn Khoa từ đời này sang đời khác đều có công nghiệp giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi trong cuộc Nam tiến, đánh dẹp loạn lạc, đem lại thanh bình cho dân chúng. Được hun đúc từ truyền thống bảo quốc an dân của tiền nhân, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nổi danh là một trong những tướng lãnh tài năng và có đức độ nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nguyên quán tổ tiên là ở làng An Cựu Tây, thuộc huyện Hương Thủy, nhưng Thiếu Tướng Nam lại được sinh ra ở Đà Nẵng ngày 23.9.1927. Ông có một người chị là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm và một người em trai là ông Nguyễn Khoa Phước. Ông cụ thân sinh của Thiếu Tướng Nam là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Giáo Dục Đà Nẵng, cụ nghỉ hưu năm 1941 và trở về Huế. Bà cụ thân sinh của Thiếu Tướng Nam họ Công Tôn Nữ thuộc dòng dõi Tuy Lý Vương, vị vương gia nổi tiếng hay thơ hay chữ đời vua Tự Đức. Văn như Siêu Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường. Thiếu Tướng Nam lớn lên là một người con hiếu thảo, đạo đức và là một học sinh hiền lành chăm học. Trong khoảng năm 1933 đến 1939 cậu bé Nam được gửi theo học Trường Ecole des Garcons Đà Nẵng, tốt nghiệp lên học nội trú Trường Lycée Khải Định Huế. Trong tuổi học sinh đầy hoa mộng, chàng thanh niên có vóc dáng cao to cân đối ấy đã hướng niềm vui thanh cao vào nghệ thuật hội họa và có lần đã trưng bày nhiều tác phẩm của mình trong một cuộc triển lãm.
Trong khoảng thời gian hai năm 1946 - 1947 chiến tranh nổ lớn sau khi quân đội Pháp trở lại Việt Nam, gia đình của chàng thanh niên Nguyễn Khoa Nam theo làn sóng tản cư ra khỏi thành phố. Ở độ tuổi 19 tràn đầy nhiệt huyết và lòng yêu nước ông xin phép gia đình gia nhập tổ chức Thanh Niên Tiền Phong, nhưng bà cụ thân sinh đã khuyên nhủ ông thong thả chờ đợi một thời gian nữa. Là người con chí hiếu ông tuân lời cha mẹ, trong lúc chờ đợi ông tiếp tục phát triển tài năng hội họa của mình, tập vẽ tranh sơn dầu, bột phấn và màu chì, cùng tự làm những khung tranh cho mình. Chàng thanh niên tài hoa ấy còn nhận ra rằng mình có năng khiếu về âm nhạc và có một kiến thức rất vững chắc về nhạc lý. Tinh thần của ông còn tiến đến một mức cao hơn, khi ông an lạc thụ nhận những lời dạy và giáo lý nhiệm mầu trong kinh sách của Phật giáo, đọc nhiều sách triết học và Nho giáo, theo đuổi một cuộc sống thanh cao và đầy tính nhân bản, ngay cả khi đã khoác áo nhà binh và chìm đắm trôi nổi trong những cơn bão lửa chiến tranh. Cùng với vị tướng tư lệnh đức độ như cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam nổi tiếng là vị tướng từ ái, thương lính yêu dân. Cả hai vị tướng đều ăn chay trường, cùng được quân dân miền Tây hết mực kính trọng và yêu thương. Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu hay đơn vị chiến trường nào người đều không muốn làm phiền thuộc cấp vì chuyện ăn uống. Lắm lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đã xong cho một bữa trưa, hay bao giờ ông cũng xuống câu lạc bộ cùng dùng cơm với mọi sĩ quan khác, có gì ăn nấy. Bà con thân quyến hay thân hữu đến thăm ông thì được, nhưng để xin ân huệ đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống của người quá dung dị, không vợ con, không gì hết, đơn giản đến mức trở thành những huyền thoại.
Năm 1947 gia đình Thiếu Tướng Nam trở về lại Huế, ông tiếp tục hoàn tất chương trình trung học đệ nhị cấp và được cho theo học khóa học về hành chánh sau đó. Đến năm 1953 ông được bổ làm Chủ Sự , nhưng chưa được bao lâu thì nhận được lệnh nhập ngũ bảo vệ tổ quốc. Đến đây cuộc đời của viên Chủ Sự trẻ tuổi mở ra một khúc quanh quan trọng, quân đội quốc gia non trẻ Việt Nam đón nhận một tài năng, quân sử ghi lại những trang chiến đấu hào hùng của một tướng lãnh xuất sắc. Sinh viên sĩ quan Nguyễn Khoa Nam theo học Khóa 3 Sĩ Quan Bộ Binh tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Tháng 10.1953, tân Thiếu Úy Nguyễn Khoa Nam tốt nghiệp và quyết định tình nguyện về binh chủng Nhảy Dù lúc ấy đang trên đà lớn mạnh. Hai cụ thân sinh của người đã qua đời, cho nên người quyết định dâng hiến cuộc đời cho quân đội và binh chủng Nhảy Dù. Sau một khóa học đặc biệt về nhảy dù, Thiếu Úy Nam cùng đơn vị được điều động ra Bắc. Trong vòng một năm, sự chiến đấu quả cảm và tài năng Thiếu Úy Nam đã được xác định bằng chiếc lon mới Trung Úy năm 1954. Trung Úy Nam cùng toàn bộ các đơn vị Nhảy Dù trở vào Nam, sau khi Hiệp Định Geneva chia đôi đất nước đã ký ngày 20.7.1954. Trung Úy Nam gặp lại người em là ông Nguyễn Khoa Phước sau nhiều năm xa cách, ông Phước lúc ấy chỉ mới 20 tuổi có lần hỏi khi nào thì anh mình mới lập gia đình. Trung Úy Nam mỉm cười hiền lành và từ tốn trả lời: "Anh là lính Nhảy Dù, nếu anh kết hôn sẽ làm cho người ta trở thành góa bụa tội nghiệp lắm". Trong thân quyến họ hàng nhiều người cố giới thiệu nhiều cô gái xinh đẹp, đức hạnh nhưng Trung Úy Nam đều nhẹ nhàng từ chối.
Năm 1955 Trung Úy Nam được đề bạt lên nắm một đại đội thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, tham dự chiến dịch tảo trừ lực lượng Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn. Lữ Đoàn Dù lúc ấy đang đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Đỗ Cao Trí mà sau này nổi danh là viên đại tướng kiệt xuất nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đánh thắng được quân Bình Xuyên và truy quét tàn quân đến mãi tận vùng Rừng Sát, các lực lượng võ trang khác của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo chịu về hợp tác và hợp nhất với Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, chuẩn bị trận chiến đấu sinh tử chống lại cuộc chiến tranh do Hà Nội phát động, dùng con tốt Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mở đường xâm chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ. Sau chiến thắng Bình Xuyên, Đại Úy tân thăng Nguyễn Khoa Nam được gửi đi học một khóa kỹ thuật đặc biệt 8 tháng tại quân trường PAU bên Pháp. Năm sau Đại Úy Nam trở về nước và nhận một chức vụ khiêm nhường là Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Nhảy Dù, đại đội đồn trú trong khuôn viên Trại Hoàng Hoa Thám, Sài Gòn. Cuộc đời binh nghiệp của Đại Úy Nam vụt chói sáng sau chín năm làm việc ở hậu cứ, được vinh thăng Thiếu Tá và được đề bạt làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Làm Tiểu Đoàn Trưởng của một tiểu đoàn với những vị chỉ huy đầy huyền thoại trước và sau ông như Phạm Văn Phú, Trương Quang Ân, Ngô Quang Trưởng, Lê Quang Lưõng,...Thiếu Tá Nam cùng tiểu đoàn miệt mài hành quân trên khắp bốn vùng chiến thuật, rồi năm 1967 vinh thăng Trung Tá lên nắm Lữ Đoàn 3 Dù và được tưởng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Là con người đạo đức, giàu lòng nhân ái khi ngày ngày phải đối diện với mọi nỗi mọi hình thái kinh khiếp của chiến tranh, Trung Tá Nam từng u sầu nói với ông Phước: "Chiến tranh mang đến chết chóc và tang thương. Lính Việt Cộng mười lăm mười sáu tuổi nằm chết đầy trên núi, đơn vị anh cũng có hàng tá chiến sĩ bị thương, thật là đau xót.
Chắc chắn là vợ con họ sẽ đau khổ biết dường nào. Khi trở về hậu cứ anh sẽ tìm cách giúp đỡ những gia đình ấy". Từ khi còn là Thiếu Úy cho đến sau này lên đến Thiếu Tướng, người hết sức yêu thương và chăm lo cho đời sống của binh sĩ thuộc cấp. Người là một Phật tử, phát nguyện ăn chay 15 ngày trong một tháng, cố gắng tôn trọng những giới răn, tránh sát giới nhưng vẫn làm tròn bổn phận của một người lính bảo vệ đất nước. Vì vậy dưới sự chỉ huy hiệu quả của Trung Tá Nam, Lữ Đoàn 3 Dù đã đánh thắng một trận vang dội trên đồi Ngok Van, được vinh thăng Đại Tá cùng với chiếc huân chương Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc. Đại Tá Nguyễn Khoa Nam đã dẫn dắt Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù về Sài Gòn trong những ngày Mậu Thân binh lửa năm 1968, góp phần vào chiến thắng chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên toàn lãnh thổ, tiêu diệt hầu như toàn bộ lực luợng võ trang của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Quãng đường chông gai chiến đấu cho nền tự do của tổ quốc đối với Đại Tá Nam vẫn còn dài thăm thẳm, khi binh đội miền Bắc ngày càng ồ ạt và công khai theo đường mòn Hồ Chí Minh tràn xuống chiếm lấy miền Nam. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tín nhiệm tài năng của vị Đại Tá Dù, ông quyết định bổ nhiệm Đại Tá Nam về miền Tây làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh trong năm 1969 và một thời gian ngắn sau vinh thăng lên Chuẩn Tướng. Định mệnh đã đưa người hùng quân lực về Sư Đoàn 7 Bộ Binh và để chuẩn bị đưa người lên một vị trí cao hơn, lừng lẫy hơn rồi đi vào lịch sử ngàn đời. Làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 hay Sư Đoàn 21 Bộ Binh có nghĩa là đang ở trong vị thế sẽ được đề bạt lên chức vụ Tư Lệnh Quân Khu bất cứ lúc nào, như trường hợp Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Năm 1972, Chuẩn Tướng Nam vinh thăng Thiếu Tướng, ông nhận trách nhiệm nặng nề bảo vệ các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang, trong khi Sư Đoàn 21 Bộ Binh và Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 Bộ Binh hành quân lên Bình Long tăng viện Sư Đoàn 5 Bộ Binh và giải tỏa An Lộc. Tướng hùng thì phải có binh mạnh, có anh hùng thì cũng có hào kiệt, các vị Trung Đoàn Trưởng của SĐ7BB đều là những sĩ quan xuất sắc, trong đó có Đại Tá trẻ tuổi Đặng Phương Thành, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 12 đã lập nhiều chiến công cho quân đội. Đại Tá Thành đã đánh thắng lớn trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn giặc trong tháng 4.1975, giữ vững Quốc Lộ 4. Khi Đại Tá Thành đi tù cộng sản ngoài Bắc, nhân khi ông vượt ngục bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục treo Đại Tá Thành lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết.
Trong tháng 11.1974 Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đề bạt lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV & Quân Khu IV thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi. Thiếu Tướng Nam vô cùng an tâm và hài lòng khi biết vị Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh thay thế ông là Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, một con người kiệt xuất và nhiều huyền thoại. Chắc là ông có được kể cho nghe câu chuyện Chuẩn Tướng Hai cùng hai vị sĩ quan Biệt Động Quân đã đáp máy bay C123 và nhảy xuống chiến trường Khe Sanh đầu năm 1969 ra tận chiến hào tiền tuyến để thăm nom và khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân trấn thủ. Một tin vui khác cũng đến với vị tân tư lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, người hùng An Lộc nhận lệnh về trình diện ông với chức vụ Tư Lệnh Phó Quân Khu IV. Thiếu Tướng Nam cũng đặt hết tin tưởng vào Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, nguyên Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh, trung đoàn mà đã đương đầu trực tiếp với chiến xa T54 địch, bắn cháy 4 và bắt sống 1 chiếc trong ngày đầu tiên đỏ lửa trên các đường phố An Lộc tháng 4.1972. Và Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, trấn thủ vững vàng khu vực trách nhiệm. Năm vị tư lệnh cùng với ban tham mưu mạnh và đầy tài năng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV đã tạo nên một bức tường thép vững chãi bảo vệ quân khu IV. Cho nên trong lúc tình hình các quân khu I, II và III nguy ngập thì tại quân khu IV quân địch bực tức bó tay không cách nào có thể làm xoay chuyển thế trận để chiếm lấy miền Tây.
Tướng Dương Văn Minh trong ngày 30.4.1975 ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng và bàn giao các vị trí cho giặc, trang sử chiến đấu oanh liệt và hào hùng cho nền tự do của tổ quốc của quân dân Việt Nam Cộng Hòa bị lật sang trang một cách tức uất. Trong lúc những chiếc khăn rằn và những chiếc áo xanh màu rêu mốc của cộng quân tràn ngập khắp phố phường thủ đô Sài Gòn sau 10 giờ sáng ngày 30.4.1975, thì dưới Quân Khu IV, các vị tướng lãnh vẫn còn chưa chịu đầu hàng dễ dàng như vậy. Vài ngày trước đó Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng đã cùng soạn kế hoạch phòng thủ Quân Khu IV, chỉnh đốn binh lực, tu sửa doanh trại, công sở tại Cần Thơ để làm thủ đô phòng thủ và đón chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ Sài Gòn di tản về tiếp tục chiến đấu. Bản kế hoạch điều động và phối trí các đơn vị được giao cho một đại tá trong ban tham mưu quân đoàn để liên lạc với các đơn vị đã không đến tay các đơn vị trưởng để được thi hành. Người đại tá này đã bỏ ngũ và biến mất, có lẽ ông ta đã di tản được ra khỏi Việt Nam. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng chỉ có thể lắc đầu, thời gian và tình thế không còn thuộc về phía Việt Nam Cộng Hòa, nói chính xác hơn Miền Tây trong ngày 30.4.1975.
Vận nước đã đến lúc tang thương như thế này, thành mất thì tướng phải mất theo thành, cho tròn tiết tháo và dũng khí người làm tướng. Hai vị Tướng đứng dưới cột cờ trong sân Bộ Tư Lệnh, thần thái vẫn ung dung và từ giã nhau sau cái bắt tay vĩnh biệt. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ thăm những chiến hữu thương binh của ông lần cuối cùng. Những ánh mắt u sầu của những chiến sĩ bất hạnh nhìn vị Tư Lệnh, hy vọng người sẽ bảo bọc chở che cho trong những giây phút thê thảm ấy. Thiếu Tướng Nam mắt đẫm lệ nhìn những người chiến sĩ thân thương của ông, người rùng mình không dám nghĩ đến những chuyện ghê rợn mà quân cộng sẽ đối xử với những người thất trận thương phế này, sau khi ông đã vĩnh viễn đi thật xa sang một thế giới khác. Có một lần khi người xem cuộn phim Đường 9 Nam Lào tịch thu được trong một cuộc hành quân, với cảnh Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị cũ của ông, bị sa vào tay giặc, Thiếu Tướng Nam thở dài nói với một sĩ quan ngồi gần bên: "Nếu rơi vào hoàn cảnh như vậy, chắc mình phải tự sát". Giờ đây cái ý tưởng không chịu cúi đầu sống nhục trong cùm xích cộng sản và lấy cái chết để báo ơn Tổ Quốc trở lại và hiện rõ hơn bao giờ hết. Mối thương cảm vận nước, chiến hữu và thương binh đã làm cho đôi mắt của người sưng húp lên.
Khi Thiếu Tướng Nam trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế buổi tối cùng ngày, ông nhận được tin Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tự kết liễu tại văn phòng Tư Lệnh Phó, ông điện sang bà quả phụ Thiếu Tướng Hưng an ủi. Người tự biết giờ ra đi của mình cũng chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi nữa thôi. Có một viên thiếu tá địch xin vào gặp Thiếu Tướng để tiến hành việc bàn giao, vẫn giữ uy phong của một vị Tư Lệnh, người đã dõng dạc trả lời: "Chúng tôi sẽ thu xếp, nhưng các anh không được phép bạo động. Nếu trái lại, tôi sẽ không bảo đảm ngay chính mạng sống của anh". Đến nửa đêm, Thiếu Tướng Nam trân trọng vận bộ quân phục tác chiến màu xanh ô liu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh ngồi ngay ngắn trong chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa súng lên bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái. Trên bàn có một chiếc cặp đựng một ít giấy tờ cá nhân cùng 40.000 đồng, số tiền lương khiêm nhường của một vị Tướng. Ngoài ra trong túi áo người còn có một quyển kinh Phật gói trong bao plastic.
Ngày hôm sau một vài sĩ quan còn ở lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn vào chào kính vị chỉ huy anh dũng và tìm cách mai táng thi thể Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Trung Tá Bác Sĩ quân đội Hoàng Như Tùng, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản cùng một số chiến sĩ làm lễ hạ huyệt và mai táng Thiếu Tướng Nam trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1.5.1975. Ngày 2.5.1975 cụ bà Diệu Khâm cùng người con gái xuống Cần Thơ và dựng mộ bia cho người. Cho đến tháng 3.1994 bà hiền nội ông Nguyễn Khoa Phước, trong lúc ông Phước còn trong nhà tù miền Bắc, đã xuống Cần Thơ bốc mộ và hỏa thiêu hài cốt Thiếu Tướng Nam đựng trong hũ đem về thờ trong chùa Gia Lâm nằm trên đường Lê Quang Định, Gò Vấp, tỉnh Gia Định cho mãi đến ngày nay.
Lịch sử rốt cuộc đã trả lại công lý và sự thật cho những oan khuất mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã ngậm đắng nuốt cay mang mễn từ một phần tư thế kỷ qua. Các nhà viết quân sử thế giới, kể cả ông Henry Kissinger trong thời điểm hiện nay đều cùng thừa nhận Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu rất anh dũng và là một nhân tố tích cực chống giữ an toàn cho vùng Đông Nam Á, để những nước này có những cơ hội trở thành những con rồng con hổ ở Á Châu. Những vị thần tướng nước Nam Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, v.v.. là những ánh sao chói chang của lịch sử, là niềm tự hào của đất nước chúng ta và những thế hệ con cháu Việt Nam cho đến ngàn đời sau. (tác giả Phạm Phong Dinh)
Người Anh Trong Khóa
Lê Chu, Trung Tá Truyền Tin QLVNCH, bạn cùng khóa với Tướng Nguyễn Khoa Nam
Đã 26 năm trôi qua kể từ ngày Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ giã cõi trần. Thế nhưng, mỗi khi nhớ lại những năm tháng phục vụ trong Quân Đội dưới quyền chỉ huy của ông, tôi có cảm tưởng những sự việc đó dường như mới xẩy ra ngày nào, rất gần đây thôi. Kỷ niệm về khoảng thời gian sống cạnh ông vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi.
Chúng tôi cùng nhập ngũ một ngày - 1/4/1953 - cùng một nơi, Huế - theo lệnh động viên, thuộc tài nguyên Sĩ Quan Trừ Bị Khóa 3 Thủ Đức. Khi trình diện Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu, tôi đã gặp ông và một số các anh khác mà tôi đã biết từ trước như các anh Lê Liêm, Phạm Đình Chi, Võ Sum, Lê Cao Phan, Trần In, Phan Cảnh Tuân, Lê Quang Thị v.v... Tôi xem các anh ấy như những người anh - lúc ấy, tôi là người trẻ tuổi nhất - 22 tuổi.
Vào những năm 1950 đến 52, thỉnh thoảng tôi có gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam ở Huế. Lúc nào ông cũng ăn mặc gọn ghẽ nhưng rất chỉnh tề, dáng điệu khoan thai, lời ăn tiếng nói dịu dàng, từ tốn, hòa nhã. Trông ông, tôi không thấy nét khắc khổ của các bậc tu hành, cũng không thấy nét trầm tư của một triết gia. Ông vui vẻ nhưng không bộc lộ sự tinh nghịch của tuổi trẻ như chúng tôi.
Từ Huế, đoàn chúng tôi trên 100 người, đáp tàu hỏa vào Đà Nẵng. Chúng tôi dừng chân ở đây hai hôm để chờ tàu Gascogne cập bến Đà Nẵng đưa chúng tôi vào Sài Gòn. Thị Trưởng Đà Nẵng lúc bấy giờ là ông Lê Tá đã tiếp đoàn chúng tôi một cách chân tình và niềm nở.
Khi chúng tôi nhập trường, ở đấy đã có mặt các anh miền Nam. Và hai hôm sau, các anh từ miền Bắc, đông nhất trong khóa, đáp tàu Saint Michel từ Hải Phòng mới vào đến Sài Gòn. Chúng tôi được phân phối đi các đại đội. Khóa 3 Thủ Đức chia làm 5 đại đội, gồm 21 trung đội. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam thuộc Đại Đội 4 còn tôi ở Đại Đội 5, học ngành Truyền Tin.
Tuy khác đội, nhưng sau những giờ luyện tập ở bãi tập và học lý thuyết, tôi vẫn thường gặp ông ở nhà ăn và câu-lạc-bộ nhà trường, chuyện trò vui vẻ. Cuối tuần, chúng tôi được nghỉ học, có xe đưa rước về Sài Gòn thăm thân nhân. Tôi có vài dịp đi dạo phố Sài Gòn, xem chiếu bóng và đi ăn nhà hàng với ông. Qua giai đoạn một, xong phần huấn luyện tổng quát, chúng tôi bắt đầu vào giai đoạn hai, học vào từng ngành. Tuy không được rảnh rỗi như trước, nhưng tôi vẫn còn gặp ông. Mãn khóa, tôi ở lại trường tiếp tục học phần chuyên môn. Ông chọn binh chủng Nhảy Dù. Trước ngày mãn khóa, mỗi khi gặp nhau, anh em chúng tôi thường trao đổi ý kiến, xem nên chọn nơi nào. Những lúc ấy, ông không hề tiết lộ ý định của mình. Thế nên khi thấy ông chọn binh chủng Nhảy Dù, anh em chúng tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì chúng tôi cứ nghĩ rằng gia nhập binh chủng Dù phải là những người xông xáo, có tí máu liều - xin lỗi quý vị bên Nhảy Dù. Đằng này, con người ông vốn quá mực thước. Nhưng dự đoán của chúng tôi sai. Ông đã thành công trong binh nghiệp, từ Tiểu Đoàn Trưởng đến Lữ Đoàn Trưởng Dù cho đến chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
Năm 1956, hai năm sau khi chúng tôi giã từ quân trường, tôi gặp lại ông ở Huế. Trông ông vẫn như trước, tuy da có xậm, nét mặt rắn rỏi, bớt đi phần nào dáng thư sinh ngày trước. Tôi tháp tùng phái đoàn các đơn vị ở Huế đến Phú Bài đón chào ông Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Trần Trung Dung đến viếng thăm Bộ Tư Lệnh Đệ Nhị Quân Khu. Trước khi máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống Phú Bài, có vài chiếc máy bay vận tải DC3 chở binh sĩ Nhảy Dù từ Sài Gòn đáp xuống. Trung Úy Nguyễn Khoa Nam có mặt trong đoàn quân ấy. Đơn vị Nhảy Dù đến Huế biểu diễn nhảy dù trên sông Hương cho bà con cố đô xem. Chúng tôi mừng rỡ khi gặp lại nhau. Đang chuyện trò vui vẻ thì máy bay ông Bộ Trưởng đáp xuống, chúng tôi tạm chia tay.
Cuối năm 1968, tôi gặp lại ông sau mười hai năm xa cách. Ông đang chỉ huy một đơn vị Dù hành quân giải tỏa áp lực địch sau cuộc tấn kích đợt 2 Mậu Thân. Ông đóng bản doanh tại Phú Lâm, đang bận rộn với công tác hành quân, thành thử không có thì giờ chuyện trò lâu dài.
Đầu năm 1970, lần thứ ba sau khi chúng tôi rời quân trường, tôi gặp lại ông ở mặt trận đồng bằng sông Cửu Long. Tôi đã thay đổi cách xưng hô với ông lúc nào không biết. Không còn gọi ông thưa Anh mà thưa Đại Tá và sau cùng thưa Thiếu Tướng. Tôi là sĩ quan tham mưu và kỹ thuật phục vụ tại Sư Đoàn 7 Bộ Binh và Quân Đoàn IV-Quân Khu 4 và ông là cấp chỉ huy. Tuy cùng xuất thân một khóa ở Thủ Đức, ông là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi ròng rã sáu năm, nhưng trước hết và trên hết ông là bậc thầy của tôi. Ông đã để cho chúng tôi, những người có cơ hội phục vụ dưới quyền chỉ huy của ông - những tấm gương sáng về cung cách phục vụ Quân Đội và Đất Nước. Qua ông, chúng tôi đã thấy được những nét nhân dũng cao quý của một người chiến sĩ, một cấp chỉ huy. Qua cung cách điều quân cũng như đối nhân xử thế, chúng tôi kính phục ông. Trong quân đội, thuộc cấp tuân hành lệnh của thượng cấp là do quân kỷ nhưng sự kính phục thì nó đến từ con tim và khối óc. Cấp chỉ huy có thể đạt được sự vâng lời của thuộc cấp nhưng chưa hẳn đã thu được sự cảm mến và kính phục của người dưới quyền. Tướng Nguyễn Khoa Nam, lúc sinh thời, không thích ai nói về ông, nhất là những lời khen. Ông vốn rất mực nhu mì và phần nào kín đáo. Thế nên, cho dù qua năm tháng dài sống cạnh ông, tôi có một số kỷ niệm về ông, tôi vẫn giữ kín không hề thổ lộ. Nhưng nay, gần đến ngày 30 tháng 4, ngày đen tối của đất nước và cũng là ngày ông từ giã cuộc đời, nghĩ rằng ông đã thuộc về lịch sử, tôi viết vài giòng để tưởng nhớ đến ông.
Kính mong hồn thiêng của ông tha thứ cho tôi về việc làm trái ý của ông lúc sinh thời (tác giả Lê Chu).
Kỷ Niệm Về Nguyễn Khoa Nam
Vĩnh Bội
Tôi đặt bút xuống mặt bàn, nhìn một vòng quanh Thư Viện Quốc Gia Paris. Nhiều mái đầu tóc điểm hoa râm hay bạc trắng như tôi - đến đây để tìm lại những cội nguồn - đang chăm chú dán mắt vào những chồng sách cũ kỹ, úa vàng màu thời gian.

Ừ nhỉ! Cũng vào một buổi trưa hè oi bức như hôm nay! Tôi thở dài... nhớ về bao nhiêu kỷ niệm thuở niên thiếu. Thời gian qua như bóng mây, thoáng chốc mà đã gần 50 năm trôi qua. Giờ đây, bằng hữu trong nhóm chúng tôi đứa còn đứa mất, mỗi đứa mỗi nơi, chỉ còn lại mình tôi trơ trọi, lạc lõng giữa kinh thành xa lạ này.
Nhớ lại ngày Tổng Khởi Nghĩa mùa Đông năm 1946! Huế đã đổi khác nhiều quá. Một sự im lặng nặng nề đến ngạt thở, bao trùm cả hè phố, thỉnh thoảng chỉ bị lay động bằng những hồi còi của đoàn lính lê dương đi tuần. Chúng tôi, phần đông thuộc ba lớp đệ nhất trường Khải Định, cùng với các bậc đàn anh như Cao Văn Khánh (sau này mệnh danh là con hùm xám Pleiku), Đoàn Huyên (sau trở thành thượng tướng Việt Cộng), đã lên đường theo tiếng gọi của đất nước trong thời binh lửa. Là những thanh niên yêu nước sinh vào thời chiến, chúng tôi hăng hái bước nhịp nhàng theo điệu Tiến Quân Ca ra biên khu chiến đấu chống Pháp, không muốn ngậm ngùi quay nhìn lại để thấy:
"Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng"
(Chính Hữu)

Những ý nghĩ vẩn vơ dẫn đưa tôi về với Nguyễn Khoa Nam. Chúng tôi trở lại mái trường xưa vào đầu mùa Hè năm 1950 sau bốn năm xa cách. Tình cờ vì một sự dồn lớp sao đó, tôi và Nam đã chọn được ngồi hàng ghế cuối, để dễ bề nói chuyện thỏa thích mà không ai chú ý.
-Bội ơi, tau muốn làm báo, mi có chịu không?
Tôi trả lời câu hỏi bất chợt của Nam:
-Tau có viết báo khi mô mà nói!
Tôi vẫn hình dung rõ ràng trong trí, dáng người mảnh khảnh, nho nhã có nụ cười hiền hòa, gương mặt xương xương, nước da trắng, môi hồng như con gái, đôi mắt trong sáng, nhưng không kém phần ranh mãnh ấy.
-Tau muốn lấy tên tờ báo là "Mấy Anh Mấy Chị."

Tôi lại càng ngạc nhiên hơn, đưa mắt nhìn Nam như thầm hỏi, thì anh phá lên cười:

-Mi biết không, buổi sáng đi học qua chùa Ba La, khi mô tau cũng thấy một mụ ăn mày, ngả nón xin tiền. Mụ ấy nói: "Thưa mấy anh mấy chị!" Mụ nói rát cổ nhưng chẳng ai cho đồng xu teng nào.
Rồi Hè trôi qua, tôi rời Huế, không biết tờ báo "Mấy Anh Mấy Chị" có thành hình không, duy chỉ biết sau đó, mình về đây để lại dự khán nhiều lớp thanh niên khác ra các chiến trường khốc liệt như Hòa Bình, Na Sản, rồi Điện Biên Phủ.
Mười năm trôi qua, tôi trở về Việt Nam vào năm 1960. Mặc dầu bận rộn trong công việc kỹ thuật, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng được nghe nói đến Nguyễn Khoa Nam. Anh đã hoàn toàn đổi khác, và nay trở thành một vị chỉ huy quân đội lừng danh...
Tôi mở cuốn "Vietnam qu'as tu fais de tes fils?" (Việt Nam, anh đã làm gì các con anh?) do Pierre Darcourt, phóng viên kiêm sử gia Pháp, kể lại cuộc phỏng vấn Tướng Nam như sau:
"Tướng Nam siết mạnh tay tôi khi ông tiếp tôi tại văn phòng Tư Lệnh. Vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV, người chiến sĩ Dù, 48 tuổi, màu da sạm nắng, có vóc dáng rắn chắc. Ông được huấn luyện cực khổ trong trường nhảy dù của Pháp, rồi sau này được Mỹ huấn luyện về hành quân trực thăng vận." Pierre Darcourt viết tiếp: "Điều đầu tiên làm cho ta chú ý đến ông là vẻ mặt của một chiến sĩ cao quý.
-Tướng Nam, tôi đến để tìm hiểu tình hình quân sự.

-Tôi xin nói về tình hình của Quân Khu IV. Những đơn vị địa phương quân và nghĩa quân được cắt giữ gìn lãnh thổ; do đó tôi còn đầy đủ 3 sư đoàn chính quy để hành quân và đánh mạnh vào những đơn vị Cộng Sản xâm nhập từ Cao Miên. Ngày hôm qua và hôm nay, chúng tôi chạm nặng với một trung đoàn của Công Trường 5 Bắc Việt. Chúng tôi cũng tịch thu được trên 100 vũ khí đủ loại, kể cả đại bác không giật, súng cối, súng phóng hỏa tiễn và luôn cả đại liên phòng không nữa.

-Ông làm thế nào để giải thích được sự sụp đổ ở miền Trung?
Tướng Nam vươn vai, đứng lên đi bước một trong văn phòng. Sau mấy phút im lặng, ông lại ngồi xuống ghế và nói tiếp:
-Ông Thiệu bị ám ảnh vì chuyện bị người Mỹ bỏ rơi. Tôi tin là ông Thiệu muốn làm cho tình hình đột nhiên hóa ra bi thảm, hy vọng rằng cuối cùng, Tổng Thống Ford sẽ vượt qua được một vài giới hạn nào đó để tiếp tục yểm trợ cho chúng tôi. Nhưng ông Thiệu tính lầm, và chúng ta đã tốn quá nhiều giấy mực bàn về chuyện này. Cách tốt nhất để gây áp lực với Quốc Hội Hoa Kỳ và Toà Bạch Ốc là chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Ngay cả phía Bắc Việt cũng không tin rằng họ dễ thành công đến như vậy. Bằng chứng rõ nhất là mãi đến tuần qua, 4 công trường chiến lược của miền Bắc mới vượt tuyến 17 xâm nhập miền Nam.

Tướng Nam nắm tay tôi và nói thêm:
-Chúng tôi đã làm việc với ông Thiệu gần 10 năm nay. Ông không còn được sự tín nhiệm của các tướng lãnh. Ông ban hành các mệnh lệnh mà không cần tham khảo ý kiến của ai. Tôi nghĩ ông không thể thắng lướt được các biến cố. Mọi người đang nổi giận vì quân đội bị hạ nhục.
-Thế ông tính sao đây? Lật đổ ông Thiệu chăng?
Tướng Nam bật lên tiếng cười chua chát:

-Dù sao, cũng không phải tôi đâu? Tôi chỉ là một người lính chuyên nghiệp. Nhiệm vụ tôi là đánh giặc và tôi sẽ tiếp tục đánh trận. Chính trị là chuyện bẩn thỉu. Tôi không muốn lội vào vũng bùn nhơ nhớp đó..."
Tôi với tay lấy một quyển sách do vị cố đạo Cardière viết vào 28 tháng 4 năm 1915 trong chồng sách để trên bàn. Vị cố đạo Pièrre Cardière đã viết:
"Trong phiên họp để thuyết trình về việc tìm kiếm những ngôi mộ cổ của dòng họ Nguyễn Khoa tại làng Tứ Tây, phía Đông Nam núi Ngự Bình, tôi có nhờ ông Nguyễn Khoa Đạm, giáo sư Hán Văn trường Quốc Tử Giám, và ông Nguyễn Khoa Kỳ, Tư Vụ bộ Hình, dịch các bia mộ, đồng thời sưu tầm gia phả dòng họ Nguyễn Khoa. Tôi tìm được tên một vị tướng trong tộc Nguyễn Khoa là Nguyễn Khoa Kiên. Trong Đại Nam Chánh Biên Liệt Truyện sơ tập, và Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên cũng đã viết về một danh tướng tên là Nguyễn Khoa Kiên."
Cardière viết thêm: "Nguyễn Khoa Kiên thuộc đời thứ bảy dòng họ Nguyễn Khoa, sanh năm Giáp Tuất 1754 và mất năm Ất Vị 1775 - đúng 200 năm trước ngày Tướng Nguyễn Khoa Nam tự vẫn." Việt Nam ta có câu: "Con dòng cháu giống." Pháp thì nói: "Bon sang ne sais pas mentir." Còn tôi, vì là con nhà Phật nên tin ở thuyết luân hồi: Phải chăng Tướng Nguyễn Khoa Nam là hiện thân của danh tướng Nguyễn Khoa Kiên, 200 năm về trước?

Cuốn sách tham khảo cuối cùng vừa được xếp lại thì tôi cũng mệt nhoài, choáng váng. Ngả lưng ra ghế bành, ngước nhìn lên trần vòng cung cao vút kiến trúc và chạm trổ theo thời đại Trung Cổ, như điện Panthéon nơi chôn cất các vị anh hùng, danh nhân nước Pháp, đầu óc tôi đi vào không tưởng và trí tưởng như vẫn đang đàm thoại với người quá khứ:
-Bội ơi, ngó ôn mệ tau có oai không ?
-Thì đại ca cũng rứa, có thua chi mô! (tác giả Vĩnh Bội)
Nguyễn Khoa Nam, mặt trời tháng 4
Việt sử ghi rằng khi Pháp chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây Nam Phần, cụ Phan Thanh Giản không giữ được thành đã uống thuốc độc tự tử. Về sau Cần Thơ thành lập trường trung học lấy tên là Phan Thanh Giản.
30 tháng 4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Khu IV nhận trách nhiệm không giữ được miền Tây đã dùng súng lục tự vẫn. Trước đó Tư Lệnh đã đi một vòng lần cuối thăm những người lính của ông tại Quân Y Viện Phan Thanh Giản.

Bên giường bệnh, một thương binh mà vết thương còn chảy máu đã nắm lấy tay vị tư lệnh mà nói rằng:
- Xin Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em.
Nước mắt chảy dài trên mặt vị Thiếu Tướng của Quân Đoàn IV. Ông nói:
- Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Đó là lời của ông Nam nói với anh thương binh và đồng thời ông nói với cả QLVNCH. Ông đã ở lại vĩnh viễn. Ông là Mặt Trời Tháng 4.
Nguyễn Khoa Nam không phải là con người của huyền thoại. Ông là con người rất gần gũi với chúng ta. Sinh năm 1927 tại Thừa Thiên, đã đỗ tú tài và đi làm công chức tại Huế từ 1951. Sau đó động viên Khóa 3 Trừ Bị Thủ Đức 1953 và đeo lon Thiếu Úy tham dự các cuộc hành quân miền Bắc trong hàng ngũ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù.
Năm 1965, ông đã lên Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đánh trận Quảng Ngãi nhận đệ tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Năm 1967, ông thăng cấp Trung Tá chỉ huy Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù thắng trận Kontum với đệ tam đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Trong quân đội không có sĩ quan cấp Trung Tá nào có Bảo Quốc Đệ Tam ngoại trừ người đầu tiên là Trung tá Đỗ Cao Trí và người thứ hai là Nguyễn Khoa Nam.
Năm 1970, với cấp bậc Đại Tá ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại Mỹ Tho.
Năm 1974, ông lên làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV với cấp bậc Thiếu Tướng.
Cho đến tháng 4-1975, ông vẫn sống cuộc đời độc thân và gần như dâng hiến tất cả cuộc đời cho quân đội và đất nước.
Trong suốt hơn 20 năm chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, Hà Nội luôn luôn xưng tụng các anh hùng vô sản nhưng trên thực tế trong hàng ngũ các tướng lãnh của phe cộng sản chưa hề có cấp lãnh đạo nào nêu gương dũng liệt. Phần lớn là các huyền thoại về cấp dưới đã hy sinh trong gian khổ. Ngay cả khi bị bắt bởi quân đội Pháp thời trước hay QLVNCH sau này thì chính sách của đảng luôn luôn là hy sinh đàn em và bảo vệ cán bộ.
Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa qua ngày 30 tháng 4-1975, các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai đã ghi tên trong quân sử bằng hành động tuẫn tiết rất can trường.
Do những tình cờ của lịch sử, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dâng hiến cho đất nước những người con uy dũng của cả ba miền: Lê Nguyên Vỹ của đất Thăng Long, Nguyễn Khoa Nam của Phú Xuân, và Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai của Thành Gia Định.
Sau cuộc chiến, hàng chục ngàn sĩ quan các cấp đã bị lùa đi cải tạo nhưng sau nhiều năm, gần như không một ai của phòng tuyến quốc gia bị khuất phục theo cộng sản.
Nhân ngày 30 tháng 4 của 29 năm sau, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị câu chuyện về những giờ phút cuối cùng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Con người dù đã chết nhưng gương sáng vẫn chói lọi như Mặt trời tháng 4.
Bài viết này được trích đoạn từ bút ký đặc biệt của Trung úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Giao Chỉ San Jose.
Tôi là Trung úy Lê Ngọc Danh, xuất thân Thủ Đức, đã tham dự các cuộc hành quân tại Trung Đoàn 10 Bộ Binh, bị thương nhiều lần. Cơ duyên tình cờ về làm tùy viên cho ông Tư Lệnh từ lúc còn ở Sư Đoàn 7 vào năm 1973 rồi đến cuối năm 1974 thì theo ông về Quân Khu IV tại Cần Thơ.
Trong suốt thời gian làm việc gần tướng Nguyễn Khoa Nam, ông xem tôi như người nhà, đứa con trong gia đình, không bao giờ la rầy hay nặng tiếng. Tôi đã ở với ông cho đến giây phút cuối và xin kể lại từ tháng 4-1975 như sau:
Tháng 4-1975
Tình hình chiến sự vào tháng 4-1975 rất căng thẳng. Vùng 1, Vùng 2 đang đánh lớn còn Vùng 3 và 4 vẫn còn nguyên vẹn. Tư Lệnh đi họp liên tục, lúc thì ở Tổng Tham Mưu, ở Dinh Độc Lập gặp Tổng Thống, lúc ở Dinh Phó Tổng Thống. Thời gian còn lại, Tư Lệnh thường đến thăm các tiểu khu và sư đoàn trực thuộc, nhiều nhất là các tiểu khu Long An, Định Tường, Kiến Tường và Châu Đốc.
Vào đầu tháng 4, Việt cộng tấn công mạnh, nhằm vào Quốc Lộ 4 thuộc hai tiểu khu Định Tường và Long An. Sư Đoàn 7 Bộ Binh chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Định Tường còn Sư Đoàn 22 Bộ Binh rút từ Vùng 2 về chịu trách nhiệm khu vực Tiểu Khu Long An.
Vào buổi trưa, Tư Lệnh đến Tiểu Khu Long An để thị sát tình hình tại đây, VC đã pháo một quả hỏa tiển 122 ly rơi xuống giữa cầu Long An nhưng không gây thiệt hại gì. Địch càng ngày càng tấn công mạnh dọc Quốc Lộ 4, Tư Lệnh ngày đêm đến các đơn vị hay gọi điện thoại khích lệ tinh thần chiến đấu của tất cả sĩ quan cùng binh sĩ. Tư Lệnh đã khen thưởng các đơn vị thuộc Vùng 4 vì không hề bỏ chạy trước địch quân, không để mất một căn cứ nên cho tới bây giờ VC vẫn không chiếm được một vị trí nào cả.

Vào một đêm, địch pháo kích trên 10 hỏa tiễn 122 ly vào thành phố Cần Thơ, mục tiêu chính là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV và tư dinh Tư Lệnh. Pháo địch xuất phát từ hướng Đông của Chi Khu Bình Minh thuộc Tiểu Khu Vĩnh Long, bay qua dinh Tư Lệnh rớt bên xóm nhà đèn cách dinh độ 300 thước, kết quả tổn thất nhẹ về phía dân chúng.

Tình hình càng ngày càng căng thẳng, dân chúng di tản bằng tàu thủy hay máy bay có nhiều chuyến chở về Quân Đoàn IV đổ dân xuống vùng Tri Tôn, Sa Đéc.
Trong lúc này, công việc của Tư Lệnh rối bời vì lớp lo phòng thủ, lớp lo thăm viếng an ủi dân đã di tản về vùng ngoại ô. Thiếu Tướng ra lệnh các tiểu khu ra sức cứu trợ nạn nhân chiến cuộc. Tư Lệnh chỉ thị các đơn vị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Quân Đoàn IV và nhất là giữ gìn Quốc Lộ 4 đừng để VC cắt đứt. Tư Lệnh đặc biệt đến thăm Tiểu Khu Châu Đốc, đi bộ thăm vòng đai phòng thủ quy mô của tiểu khu.
Những ngày kế tiếp, Tư Lệnh họp liên tục với các tiểu khu và sư đoàn. Trong lúc tình hình hỗn loạn, nhiều máy bay trực thăng từ hướng Sài Gòn lũ lượt bay về phi trường Trà Nóc và một số bay ra hướng Phú Quốc.
Sáng ngày 24 tháng 4, Tư Lệnh đi họp ở Bộ Tổng Tham Mưu. Qua sáng 25 tháng 4, họp ở Tiểu Khu Định Tường, trong phiên họp này có tướng Trưởng tham dự.
Ngày 27 tháng 4, Tư Lệnh ra lệnh giới nghiêm, các đơn vị ở thế sẵn sàng chiến đấu, không được rời vị trí.
Sáng 28 tháng 4, Tư Lệnh tiếp cố vấn Mỹ tại văn phòng Tư Lệnh.
Sáng ngày 29, Tư Lệnh vẫn đi bay thị sát, buổi chiều 29 về họp với tương Mạch Văn Trường ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh gần phi trường Trà Nóc. Trên đường về, tôi thấy dân chúng lao xao, nhớn nhác, chạy lung tung. Có người đi hôi của tại Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ rút đi bỏ lại, giấy vương vãi đầy mặt Đại Lộ Hòa Bình, quần áo, ly tách, đồ hộp, lon bia vất tứ tung.
Áp lực địch vẫn đè nặng ở Quốc Lộ 4, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp Tư Lệnh báo cáo tình hình nguy ngập và xin giật sập cầu Long An. Tư Lệnh không cho và ra lệnh các đơn vị tiếp tục phòng thủ. Tư Lệnh viết nhật lệnh đưa Thiếu tá Đức, Chánh Văn Phòng chuyển đến phòng Chiến Tranh Chính Trị để đọc trên Đài Phát Thanh và Đài Truyền Hình Cần Thơ để trấn an dân chúng và anh em binh sĩ.
Vào buổi chiều, tôi thấy được hình Tư Lệnh và kèm theo là bản nhật lệnh của ông, nội dung ngắn gọn nhằm trấn an dân chúng không được bạo động.
Sau khi nghe đọc nhật lệnh trên TV, Tư Lệnh buồn buồn chấp tay sau lưng, tư tới đi lui trong phòng làm việc ở Bộ Tư Lệnh. Sau đó, tướng Hưng, Tư Lệnh Phó vào gặp Tư Lệnh bàn luận về thời cuộc.
Đêm 29, VC tấn công mạnh ở phi trường thuộc Tiểu Khu Vĩnh Bình. Địch đã nhiều lần đánh rát vào phi trường nhưng bị đẩy lui và thiệt hại nặng. Tư Lệnh bảo tôi gọi Trung tá Sơn, Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Vĩnh Bình để ông nói chuyện. Trong lúc VC tấn công mạnh vào phi trường, tiểu khu xin máy bay yểm trợ nhưng không có máy bay.
Sáng sớm 30 tháng 4, Tư Lệnh bay xuống họp ở Tiểu Khu Định Tường. Cuộc họp chấm dứt nhanh chóng xong ông bay về Cần Thơ.
Thành phố Cần Thơ sáng ngày 30 tháng 4 rất vắng vẻ, dân chúng và xe cộ thưa thớt. Mặc dù địch tăng cường những cuộc tấn công mạnh và tình hình chung đang rất bất lợi cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, tinh thần chiến đấu của binh sĩ thuộc Quân Đoàn IV vẫn hăng say, các đơn vị không nơi nào bỏ vị trí, không nơi nào bị địch chiếm đóng.

Bất chợt, tiếng của Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng cộng sản vang lên trên đài phát thanh. Lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện có đại ý như sau: “Tất cả các đơn vị trưởng và anh em binh sĩ ở yên tại chỗ, bàn giao vị trí cho Chính Phủ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.” Tôi vội xô cửa vào phòng làm việc của Tư Lệnh và nói:
- Tổng thống Dương Văn Minh đã...
Chưa hết câu, Tư Lệnh nhỏ nhẹ cắt ngang lời tôi:
- Qua đã nghe rồi.
Tôi lặng người, quay lưng chầm chậm bước ra ngoài.
Từ lúc này, Tư Lệnh Phó thường vào gặp Tư Lệnh trong văn phòng qua lối cửa chánh. Lần thứ hai, Đại Tá Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Long An xin gặp gấp Tư Lệnh trên điện thoại. Ông muốn xin giật sập cầu Long An để cắt đường tiến quân của VC về Vùng 4. Một lần nữa, Tư Lệnh bảo tôi chuyển lời: “Cầu để yên không được phá sập.”

Khoảng gần trưa 30 tháng 4, tôi được báo cáo là Thiếu Tá Chánh Văn Phòng rời văn phòng bỏ đi theo Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh cùng một số sĩ quan theo lộ trình dọc sông Hậu Giang ra biển. Tôi vội xuống hầm làm việc mới của Tư Lệnh để báo cho ông rõ. Căn hầm này là phòng làm việc thừ hai của Tư Lệnh, nằm ngay dưới chân phòng làm việc chính thức, được xây lúc Vùng 1 và 2 đang xảy ra việc đánh lớn. Hầm rộng và cao, thiết trí giống như phong làm việc ở tầng trên, có lối đi xuống từ văn phong Tư Lệnh. Bước vào hầm, tôi thấy Tư Lệnh đang ngồi viết tại bàn làm việc. Tư Lệnh, như thường lệ, đưa tay kéo lệch cặp mắt kính trề xuống sống mũi, ngước nhìn tôi hỏi:
- Có gì không?
- Trình Thiếu Tướng, Thiếu Tá Chánh Văn Phòng và Đại Tá Tỉnh Trưởng Phong Dinh đã bỏ đi cùng với một số sĩ quan bằng tàu theo sông Hậu.
Tư Lệnh vẫn điềm nhiên, không tỏ chút gì giận dữ, ông nói:
- Đi hả? Đi làm chi vậy?
Nói xong, Tư Lệnh tiếp tục xem giấy tờ, thái độ trầm tĩnh như không có gì quan trọng xảy ra. Tôi bước lên cầu thang về phòng làm việc của mình, lúc này tôi mở Radio 24/24 để theo dõi tình hình ở Sài Gòn. Đang lắng nghe Radio, Tư Lệnh bấm chuông gọi tôi vào và bảo:
- Gọi Đại tá Thiên gặp tôi.
- Dạ.
Rồi Tư Lệnh chỉ định Đại tá Thiên nhận chức vụ Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Phong Dinh kể từ sáng hôm đó. Tức là sau khi đã có lệnh đầu hàng.
Trưa 30 tháng 4, sau khi đi ăn cơm trưa ở Câu Lạc Bộ Cửu Long về, Tư Lệnh đi thẳng vào phòng làm việc. Qua lỗ kiếng nhỏ thông qua phòng làm việc, tôi thấy Tư Lệnh đang soạn một số giấy tờ để trên bàn. Tư Lệnh nhìn từng trang một, rồi từ từ xé nhỏ bỏ vào sọt rác.

Khoảng 2 giờ chiều, Tư Lệnh xuống hầm làm việc. Tôi không biết Tư Lệnh làm gì bởi vì phòng làm việc này kín mít. Tư Lệnh bấm loa gọi tôi:
- Danh, xuống đây tôi bảo.
Tôi xuống cầu thang vào gặp Tư Lệnh. Ông đang ngồi ở Sofa nhìn về hướng bản đồ Vùng 4, thấy tôi, Tư Lệnh nói:
- Danh tháo bỏ tất cả ranh giới và những mũi tên trên bản đồ. Những đường ranh và những mũi tên làm bằng những băng keo màu xanh đỏ.
Tôi từ từ tháo bỏ, nhìn tổng quát, tôi thấy bản đồ chia ra từng ô nhỏ, những mũi tên xanh đỏ châu đầu vào nhau, những răng bừa màu xanh với những mũi tên đỏ chĩa vào. Có thể đây là bản đồ về Hành Quân Mật sẽ thực hiện vào giờ chót theo như tin đồn. Tôi tháo gỡ tất cả những mẩu băng keo bỏ vào sọt rác, tháo xong tôi nói:
- Trình Thiếu Tướng, em đã tháo xong.
- Được rồi.
Vào khoảng 4 giờ chiều, viên Quân Cảnh ở phòng chờ đợi lên gặp tôi nói:
- Có hai ông VC mặc đồ thường phục, trên dưới 50 tuổi xin vào gặp Tư Lệnh.
Tôi nói:
- Anh bảo họ chờ một chút để tôi trình Tư Lệnh.
Tôi gõ cửa vào gặp Tư Lệnh và nói:
- Trình Thiếu Tướng, có hai VC mặc thường phục xin vào gặp Thiếu Tướng.
- Được, mời họ vào.
Xuống phòng khách, tôi thấy hai người Việt cộng đang chờ ở đây, một người cao ốm nước da trắng, tóc hoa râm độ trên 50 tuổi, ăn mặc thường phục giống như thầy giáo. Một người hơi thấp, nước da ngăm đen cũng mặc thường phục. Họ đi tay không, không mang giấy tờ và vũ khí.
Tôi hướng dẫn hai người này lên bậc tam cấp vào phòng làm việc của Tư Lệnh. Tư Lệnh chào hỏi và mời ngồi nơi Sofa, tôi bước nhanh ra phòng làm việc gọi người hạ sĩ quan mang trà vào. Tôi mang vội khẩu súng Colt 45 và lấy khẩu AR15 lên đạn và bước nhanh vào phòng làm việc Tư Lệnh. Tôi đứng sau hai ông VC này cách khoảng 4 thước, với tư thế sẵn sàng nổ súng. Tôi sợ hai ông này ám sát Tư Lệnh nên gườm tay súng chuẩn bị nếu thấy hai ông này có hành vi lạ là tôi bắn liền. Tư Lệnh ngồi đối diện với họ, đang nói chuyện rất nhỏ tôi không nghe được. Bất chợ Tư Lệnh ngước lên, nhìn tôi và bảo:
- Danh đi ra ngoài để tôi nói chuyện.
Tôi ấp úng trả lời:
- Dạ... em ở đây với Thiếu Tướng.
- Được rồi, không sao đâu. Em ra ngoài đi.
- Dạ.
Tôi ra lại phòng làm việc, súng vẫn gườm thủ thế, mắt nhìn về hướng văn phong theo kẽ hở của cánh cửa đang hé mở. Tôi thấy Tư Lệnh với họ vừa uống trà vừa nói chuyện. Cuộc nói chuyện kéo dài trên 10 phút. Tư Lệnh và hai người chỉ nói chuyện không đưa ra sổ sách hay giấy tờ gì cả. Sau đó, hai người VC đứng dậy từ giã, Tư Lệnh bắt tay, rồi hai người theo cửa trước xuống bậc tam cấp ra về. Tư Lệnh ngồi trên ghế, gương mặt thật buồn. Một lát sau, ông đứng dậy đi qua đi lại trong phong. Thời gian trôi qua thật chậm, căng thẳng và ngộp thở. Tôi suy nghĩ lung tung: Nếu VC chiếm được Vùng 4 thì Tư Lệnh sẽ ra sao? Tại sao Tư Lệnh vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra? Bây giờ còn đi ngoại quốc kịp không? Còn máy bay không? Hay là Thiếu Tướng có người thân phía bên kia? Những câu tự hỏi đã xoay trong óc tôi. Bất chợt, tôi nghe tiếng la ó vang dậy ở ngoài đường. Nhìn ra ngoài đường, tôi thấy một đoàn người rất đông chạy ngang qua cửa Bộ Tư Lệnh, xuống cầu Cái Khế. Họ vừa chạy vừa la hét vui mừng, thì ra đó là những người tù vừa được thoát trại giam. Tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn cho kỹ, tôi thấy bọn tù trên dưới 50 người, quần áo xốc xéch, có người mặc quần cụt, có người cởi trần vừa chạy vừa nhảy lên vừa reo hò vui vẻ nhưng họ không phá phách.
Khoảng 6 giờ rưỡi, Tư Lệnh sửa soạn về tư dinh, Thiếu Tướng nói với tôi:
- Danh chuẩn bị xe để đi thăm bệnh viện Phan Thanh Giản.
- Dạ.
Xe chở Tư Lệnh từ văn phòng đi thẳng vào bệnh viện. Tư Lệnh dến từng giường hỏi thăm thương binh, kẻ nằm người ngồi, băng tay băng đầu, có người mất một chân, chân còn lại quấn dây băng treo lên trên giá. Tư Lệnh đến bên thương binh này hỏi:
- Em tên gì?
- Dạ em tên...
- Em ở đơn vị nào? Có khỏe không?
- Dạ khỏe, em là Địa Phương Quân ở Tiểu Khu Vĩnh Bình.”
Tư Lệnh nói tiếp:
- Em nằm nghỉ dưỡng bệnh.
Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
- Vết thương của em đã lành chưa?
- Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
- Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
- Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
- Em cố gắng điều trị... có Qua ở đây.
Tư Lệnh bước nhanh ra cửa bệnh viện, khi ra đến ngoài sân Tư Lệnh dừng lại quay mắt nhìn về bệnh viện. Tư Lệnh đứng yên bất động khoảng một phút rồi bước vội ra xe không nói gì nữa cả. Trên suốt đường về tư dinh, Tư Lệnh không nói một lời nào khiến tôi cảm thấy sự im lặng quá nặng nề.
Về đến tư dinh, tôi thấy Quân Cảnh vẫn còn gác ở cổng, tôi đi một vòng xung quanh, những vọng gác vẫn còn người gác, tuy nhiên tôi thấy ít lính đi tới đi lui như mọi hôm, có lẽ họ đã bỏ đi bớt.
Sau khi cất khẩu Colt đeo trên người, tôi xuống nhà bếp gặp Trung sĩ Hộ quản gia xem hôm nay anh nấu món gì vì hôm nay thăm bệnh viện về trễ. Gặp anh Hộ, tôi nói:
- Anh Hộ, bắt một con gà làm thịt và luộc để Thiếu Tướng dùng!
- Dạ con gà nào Trung Úy?
- Đàn gà nòi Thiếu Tướng nuôi đó! Anh chọn một con!
Lúc này đã hơn 8 giờ tối, về hướng Cồn Cát cách một con sông phía sau dinh, thỉnh thoảng VC bắn bổng những loạt AK đạn lửa bay đỏ xé màn đêm đen nghịt, càng lúc VC bắn càng nhiều. Con gà, anh Hộ làm thịt và nấu xong. Tôi đích thân ra sau Trailer mời Thiếu Tướng vào ăn cơm. Tư Lệnh ngồi vào bàn ăn và nói:
- Danh ngồi ăn cơm cho vui.
Đi các đơn vị hay tiểu khu, tôi ăn cơm chung với Tư Lệnh còn ở dinh, Tư Lệnh thường ăn cơm một mình, vừa ăn cơm vừa xem truyền hình rất lâu. Hôm nay, lần đầu tiên Tư Lệnh mời tôi ăn cơm chung ở dinh, tôi thấy có điều gì khác thường, hơn nữa sự việc xảy ra tùm lum, bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tư Lệnh thấy thịt gà xé nhỏ, còn nước luộc gà làm canh, Tư Lệnh hỏi:
- Thịt gà đâu vậy?
Tôi gượng cười nói:
- Dạ mấy con gà Thiếu Tướng nuôi ở sau. Em bảo anh Ngộ làm thịt một con để Thiếu Tướng dùng.
- Làm thịt chi vậy? Ăn cơm thường là được rồi. Thôi, ăn kẻo nguội!
Tư Lệnh không ăn cơm, chỉ dùng vài muỗng canh, vài miếng thịt gà. Còn tôi thì no hơi, ăn hết vô, qua loa vài miếng rồi vội buông đũa và nói:
- Dạ, em ăn xong, Thiếu Tướng dùng tiếp.
Thiếu Tướng nói:
- Ăn tiếp chứ. Sao Danh ăn ít vậy? Thịt còn nhiều.
Vừa nói, Tư Lệnh gắp bỏ cho tôi một miếng thịt xé phay dài. Trời! Ăn gì nổi. Bình thường chắc là ăn thấy ngon, bây giờ ăn thịt gà cũng như nhai gỗ mục. Miệng đắng nghét, tôi cố gắng nuốt trôi hết miếng thịt này, xong xin phép Thiếu Tướng ra phòng làm việc.
Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy vắng lạnh, một sự vắng vẻ đáng sợ, một số anh em quân nhân đã bỏ đi, số còn lại một vài người đã mặc thường phục, một số vẫn còn mặc đồ lính. Còn hướng phòng Trung úy Hỉ, sĩ quan bảo vệ cũng vắng ngắt, có lẽ anh cũng đã bỏ đi rồi (nhà Trung úy Hỉ ở gần phi trường Trà Nóc). Còn Trung úy Việt cùng vợ hai con vẫn còn ở tại nhà cạnh bờ sông. Việt và tôi gặp nhau chỉ biết lắc đầu, rồi Tư Lệnh đến bàn làm việc của tôi nói:
- Có liên lạc với Tướng Hưng không hè?
- Dạ điện thoại bị mất liên lạc, có tiếng lạ em không dám gọi.
Ngưng một chút rồi tôi nói tiếp:
- Dạ, Thiếu Tướng muốn nói chuyện với Tư Lệnh Phó?
- Qua muốn nói chuyện.
Tôi nói với Tư Lệnh:
- Để em đi lại Dinh Tư Lệnh Phó nói mở máy PRC25 để Thiếu Tướng nói chuyện.
Tư Lệnh làm thinh, tôi bảo anh Thông tài xế lấy xe Jeep chở tôi qua Dinh Tư Lệnh Phó nằm đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng Phong Dinh. Sắp sửa rẽ phải vào Dinh Tư Lệnh Phó thì tôi thấy phía bên trái trước Dinh Tỉnh Trưởng có một tên VC với khẩu AK ở tư thế sẵn sàng, để súng cạnh sườn, mũi súng chĩa lên trời. Anh Thông tài xế kêu tôi và chỉ:
- VC đã vô tới rồi.
Tôi bảo tài xế:
- Quay trở lại đi! Không ổn rồi.
Tài xế lái nhanh về Dinh Tư Lệnh và đóng cửa dinh lại. Tôi xuống xe bảo các anh em binh sĩ còn lại kéo khoảng 4, 5 vòng kẽm gai rào chặn từ cổng vào hướng cột cờ. Rào xong, tôi vào Trailer báo Tư Lệnh:
- Trình Tư Lệnh, VC đã vào đến Dinh Tỉnh Trưởng. Em thấy có một tên VC cầm súng AK đứng trước Dinh Tỉnh Trưởng.
Tư Lệnh lặng thinh không nói gì cả. Khoảng hai phút sau, tôi nói với Thiếu Tướng:
- Em đi lần nữa, để Thiếu Tướng nói chuyện với Tư Lệnh Phó.
Tư Lệnh nhỏ nhẹ nói:
- Thôi đừng đi! Coi chừng nó bắt.
- Dạ không sao.
Nói xong, tôi cởi bỏ áo lính, vẫn mặc quần lính mang giày với áo thun vội ra sân gọi anh tài xế.
- Anh Thông đâu? Đến tôi nhờ một chút.
Tôi la lên, không một tiếng trả lời. Anh Hộ quản gia nói:
- Em vừa thấy anh Thông ra cổng.
“Anh đã bỏ đi rồi.” Tôi nghĩ thầm. Bất chợt, một binh sĩ khác hỏi tôi:
- Trung Úy cần gì em giúp.
- Anh muốn đến Dinh Tư Lệnh Phó.
- Được rồi, để em đưa ông thầy đi.
Anh lính lấy chiếc Honda màu đỏ chạy đến và nói:
- Đi Honda tiện hơn Trung Úy.
Rồi anh chở tôi về hướng Dinh Tư Lệnh Phó, rẽ vào dinh, anh đậu cách đấy khoảng 10 mét bên lề đường.
Dinh Tư Lệnh Phó trước và sau có cổng ra vào bằng cửa sắt, xung quanh xây tường cao độ 2 mét. Cửa trước đối diện với Dinh Tỉnh Trưởng, cửa sau quay ra mặt đường. Cửa trước và sau đều đóng và khóa chặt, từ cửa trước nhìn vào tôi đi sát hông tường bên phải, có một cây ổi mọc từ phía trong xòa nhánh phủ ra bên ngoài. Trong dinh im lặng không một tiếng động, tôi gọi lớn:
- Nghĩa ơi Nghĩa, Phúc ơi Phúc, tao là Danh.
Tôi gọi 4, 5 lần nhưng vẫn không có tiếng trả lời. Tôi linh cảm điều gì không ổn nên gọi tiếp vài lần nữa rồi quay lưng định trở về. Nhưng tôi nghĩ thầm: “Không lẽ mình bỏ cuộc sao?” Tôi nói với qua với anh lính đậu bên kia đường:
- Anh ráng chờ tôi một chút.
Bất chợt có tiếng nổ đùng, có tiếng xôn xao, tiếp theo tiếng khóc. Tôi chạy lại vách tường có nhánh cây ổi xòe ra, tôi quyết định đu nhánh ổi này nhảy vào. Tay phải níu nhánh ổi, tay trái vịn vào vách tường miệng liên tục la lớn: “Tôi Trung úy Danh đây, đừng bắn. Tôi Trung úy Danh, đừng bắn.” Miệng la tay níu nhánh ổi leo vào, tôi lên được đỉnh tường rồi theo đà cây ổi tuột xuống đất. Vừa gặp tôi, anh Nghĩa vừa khóc vừa nói:
- Chuẩn Tướng Hưng tự sát chết rồi Danh.
- Lúc nào?
- Mới đây, chắc có lẽ hồi nãy Danh nghe tiếng súng nổ.
Anh nói tiếp:
- Chuẩn Tướng đang ăn cơm, nghe tiếng động, ông bỏ bàn ăn đứng dậy, bà Tướng chạy theo ông ngăn lại. Tư Lệnh Phó vào phòng đóng cửa lại và bắn vào ngực tự sát.
Đến cửa, thấy cửa phòng hé mở, tôi xô nhẹ cánh cửa bước vào, thấy Tướng Hưng nằm bất động trên giường, bà Hưng đang ôm chầm Tư Lệnh Phó khóc, còn hai đứa con nhỏ đứng kế bên vô tư lự như không có gì xảy ra, kế bên những anh lính đang sụt sùi khóc. Tôi quay ra nói với anh Nghĩa:
- Thôi Danh đi về.
Tôi không nói anh Nghĩa mở tần số máy PRC25 nữa, Chuẩn Tướng Hưng đã chết rồi. Vì tình hình rối ren, bận rộn, tôi không nhờ ai mở cửa mà trèo cây ổi lên đầu tường rồi nhảy ra ngoài. Xuống đến mặt đất, tôi suy nghĩ lung tung: “Tại sao Tư Lệnh Phó tự sát? Nếu Tư Lệnh hay được thì ra sao? Hay là lúc tôi la to gọi anh Nghĩa, Phúc, ở đây tưởng VC vào tới nên Chuẩn Tướng đã tự sát? Hay là...” Tôi vừa suy nghĩ vừa cúi đầu bước dần tới chỗ anh lính đậu xe Honda lúc nãy. Trời! Xe và người biến đâu mất. Tôi đảo mắt nhìn quanh vẫn không thấy bóng dáng anh. Chắc anh bỏ đi rồi. Tôi không trách anh, anh đã giúp tôi như vậy cũng đủ lắm rồi. Tôi lội bộ từ đây cặp theo Đại Lộ Hòa Bình đi thẳng về Dinh Tư Lệnh, trên đường phố vắng hoe không một bóng người lai vãng, chỉ có những mảnh giấy vụn vất bừa bãi đầy đường, thỉnh thoảng bay tứ tung theo cơn gió.

Tôi đi bộ mất khoảng 15 phút mới về đến dinh, anh lính gác vẹt từng vòng kẽm gai cho tôi vào rồi kéo lại vị trí cũ. Tôi đi nhanh về phía sau vào Trailer để trình Tư Lệnh mọi sự việc vừa xảy ra tại tư dinh Tư Lệnh Phó. Vừa thấy Tư Lệnh, tôi nói ngay:
- Trình Thiếu Tướng, em đến Dinh Tư Lệnh Phó, đến nơi thì ông vừa tự sát chết. Tư Lệnh Phó đã bắn vào ngực.
- Tướng Hưng chết hả? Chết làm chi?
Tư Lệnh chỉ nói vậy. Tôi trở ra về nơi làm việc. Ngồi trên Sofa suy nghĩ liên miên: “Tư Lệnh Phó đã tự sát, chắc Tư Lệnh sẽ tự sát theo.” Tôi xuống nhà gặp Trung úy Việt và cho anh biết việc Tư Lệnh Phó đã tự sát. Tôi và Việt thắc mắc về những gì sẽ xảy ra tiếp: Tư Lệnh Phó đã tự sát, còn Tư Lệnh không biết thế nào? Hai đứa tôi suy nghĩ mãi mà không tìm ra được câu trả lời.
Lúc này khoảng 11 giờ đêm, vì lo lắng cho Tư Lệnh nên cứ độ 15 hay 20 phút, tôi lại vào Trailer một lần. Mỗi lần liếc nhìn vào, tôi thấy Tư Lệnh nằm nghỉ nhưng giày vẫn còn mang, tôi lại đỡ lo phần nào. Lần khác, Tư Lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
- Có gì không?
- Em vào xem Thiếu Tướng có sai bảo gì không?
Tư Lệnh nói:
- Sao em không đi ngủ đi! Khuya rồi.
Tôi nhỏ nhẹ nói:
- Trình Thiếu Tướng, nếu VC vào dinh, tụi em được phép đánh không Thiếu Tướng?
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
Tôi rời Trailer đi ra ngoài. Khoảng 10 phút sau, Tư Lệnh ra phòng làm việc của tôi trao cho tôi một gói hình chữ nhật dài độ 2 tấc, rộng 1 tấc, dầy 5 phân và nói:
- Danh cất tiền này để dành mà xài. (Có thể đây là tiền lương của Thiếu Tướng không dùng đến nên để dành.)
Đưa gói giấy cho tôi xong, Tư Lệnh đi vào Trailer. Tôi tò mò nên hé mở gói giấy này xem, bên trong toàn giấy bạc 500 đồng, tôi đoán chừng hơn 400 ngàn đồng và tôi để gói giấy vào ngăn kéo nơi bàn làm việc. Tôi tiếp tục rón rén vào Trailer để quan sát, tôi sợ Tư Lệnh tự sát.
Khoảng 12 giờ 30 khuya, Tư Lệnh ra gặp tôi nói:
- Sao Danh không đi ngủ? Thức cả đêm à.
- Dạ em ngủ không được.
Tư Lệnh móc trong túi ra một khẩu súng nhỏ, ngắn hơn gang tay và nói:
- Danh cất khẩu súng này dành để hộ thân.
Tôi nhận khẩu súng bỏ vào ngăn kéo chung với gói tiền lúc nãy. Tôi xuống nói chuyện với anh Việt và anh Hộ:
- Thiếu Tướng đã cho tôi súng, không hiểu Tư Lệnh có ý định gì?
Chúng tôi bàn luận với nhau và có linh cảm là Thiếu Tướng đang sắp xếp việc gì đó.
Khoảng sau 1 giờ sáng, một anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
- VC tự động mở cửa vào dinh.
- Anh bảo họ chờ tôi một chút.
Tôi vội vã vào Trailer để gặp Tư Lệnh. Thấy Tư Lệnh đang nằm nghỉ, tôi trình:
- Trình Thiếu Tướng, bọn VC đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
Tôi đi nhanh ra trước cổng dinh, lúc bấy giờ tôi vẫn mặc áo thun, quần lính, mang giày. Gần đến cổng dinh, tôi thấy lố nhố khoảng 6, 7 người đang vẹt vòng rào kẽm gai đi vào hướng cửa dinh. Đến gần, tôi thấy 4 nam, 1 nữ vấn tóc lủng lẳng phía sau ót và một em bé độ 10 tuổi. Nam trang bị 1 khẩu AK, một người mang khẩu Carbin, một người mang súng lục (súng loại cảnh sát xử dụng) số còn lại tay không, không mang giấy tờ hay máy móc gì cả. Nhóm người này tuổi dưới 40 đã vào đến vòng kẽm gai thứ ba từ ngoài vào, còn hai vòng kẽm gai nữa mới vào đến cửa dinh. Tôi vẹt kẽm gai và gặp họ tại đây. Một người trong nhóm quay qua hỏi tôi:
- Anh làm gì ở đây?
Tôi không dám nói là tùy viên sợ bọn chúng bắn nên trả lời trớ đi:
- Tôi làm quản gia.
Người mang khẩu AK hỏi tiếp:
- Anh cấp bậc gì?
- Tôi Trung Sĩ.
Bất chợt người mang AK lên đạn chỉa mũi súng vào phía sườn tôi và nói như ra lệnh:
- Đi!
Lúc bấy giờ, tôi hồn phi phách tán, nghĩ thầm “chết là cái chắc.” Một người trong nhóm nói:
- Ở đây nó làm lớn không hà, tính nó đi!
Bọn chúng đi từ từ hướng vào cửa dinh, đến gần cột cờ, đứa trẻ con ôm chầm lấy khẩu súng đồng thời Pháp, súng đặt dưới chân cột cờ để làm kiểng, đứa trẻ reo lên:
- Súng ngộ và đẹp quá.
Chị bới tóc tiếp theo
- Nhờ có dịp này mới được vào dinh Tướng.
Tôi tự nhiên cảm thấy lòng mình se lại. Bất chợt, nhóm người này dừng chân, người mang khẩu AK hất mặt ra dấu cho tôi đi qua hướng nhà bếp, ngang qua phòng ngủ của tôi. Chết rồi! Chắc bọn chúng bắn mình ở đây. Tôi chầm chậm bước đi, đầu ngoái lại nhìn cửa vô dinh. Tôi thấy Tư Lệnh đẩy nhẹ cánh cửa lưới chắn ruồi trước cửa phòng làm việc của ông rồi bước ra. Bọn người này bảo tôi dừng lại, ba người bước vào phòng (một người tay không, một người mang khẩu B38, một người mang khẩu Carbin). Số còn lại lảng vảng phía ngoài, người mang AK vẫn hướng súng về phía tôi. Khoảnh khắc, Trung sĩ Hộ từ phòng Thiếu Tướng bước ra cho biết Tư Lệnh đang nói chuyện với VC và bảo tôi:

- Thiếu Tướng bảo Trung Úy lấy thuốc lá hút.
Có cớ vào gặp Tư Lệnh, người mang AK bỏ thõng súng xuống, tôi lặng lẽ bước đi, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ là nó có thể bắn tôi từ đằng sau tới. Vô sự, thế là thoát nạn, vào phòng tôi mở ngăn tủ lấy gói thuốc Capstan đầu lọc mời Thiếu Tướng một điếu, 3 người kia mỗi người một điếu. (Tư Lệnh hút thuốc 555 nhưng thỉnh thoảng cũng hút thuốc Capstan đầu lọc.) Tôi thấy Tư Lệnh ngồi trên Sofa băng dài, người VC không mang vũ khí ngồi trên ghế nhỏ đối diện với Tư Lệnh, người mang khẩu B38 ngồi dưới sàn nhà, tay cầm khẩu súng để trên đầu gối mũi súng hướng về phía Tư Lệnh, còn người mang khẩu Carbin đứng ngay cửa phòng trong tư thế tác chiến.
Xong nhiệm vụ, tôi bước ra ngoài. Người mang AK bên ngoài vẫn ở thế tác chiến nhưng không để ý đến tôi nữa. Sau khoảng mười phút nói chuyện, nhóm VC này rời dinh ra về. Tôi vào phòng thấy Tư Lệnh vừa đứng dậy bước ra ngoài với khuôn mặt có vẻ buồn. Nhìn trên Sofa, tôi thấy điếu thuốc của Thiếu Tướng còn cháy dở dang độ 1/3 điếu nằm trên Sofa bốc khói làm lủng một lỗ nhỏ, tôi nhặt lấy vất đi.
Cuộc nói chuyện này chỉ đơn phương, không có viết giấy tờ hay ký tên gì cả cũng không có máy móc khi hai bên gặp nhau. Tư Lệnh trở vào Trailer nằm nghỉ. Một lúc lâu, tôi vào lần nữa thấy Tư Lệnh nằm yên, chắc Tư Lệnh đã ngủ vì mệt. Trong suốt đêm 30 tháng 4, Tư Lệnh và tôi hầu như không ngủ. Vào khoảng 3 giờ sáng, tôi trở dậy, rón rén vào phòng Tư Lệnh lần nữa, thấy Tư Lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức vì trong lúc nằm nghỉ, ông vẫn mang cặp kính đen. Tôi cũng quá mệt nên ra phòng làm việc ngã lưng trên Sofa một chút, nghe vang vang bên tai những loạt AK nổ liên hồi, chắc đối phương nổ súng mừng chiến thắng.
Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi bỗng nghe tiếng chuông “boong, boong, boong.” Tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy đã hơn 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5. Tôi bước đến bàn thờ Phật, thấy ba cây nhang Tư Lệnh đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút.
Đứng trước bàn thờ Phật, Tư Lệnh với quân phục chỉnh tề, đang nghiêng mình xá Phật. Tôi vội đi nhanh về phòng mình làm vệ sinh cá nhân, xong mặc quân phục vào và đến đứng nghiêm chào Thiếu Tướng. Thiếu Tướng vẫn đưa tay lên cỡ tầm ngực đáp lại và hỏi:
- Đêm qua, Danh ngủ được không?
- Mệt quá, em có nằm nghỉ được một chút.
Tư Lệnh vẫn ngồi trên Sofa nơi phòng thờ Phật, tôi đi sang phòng làm việc. Một lúc sau, Tư Lệnh đến bên tôi hỏi:
- Gặp Tướng Trường được không hè?
Lúc này khoảng 6:30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.
- Dạ... dạ. Tôi ấp úng trả lời tiếp:
- Hồi chiều tối hôm qua ở trên lầu em thấy Tướng Trường chạy xe Jeep ngang qua dinh.

Tư Lệnh hỏi:
- Có phải Tướng Trường không?
- Em ở trên lầu hơi xa, em thấy giống Tướng Trường.
- Thôi đừng đi tìm, kẻo bị chúng bắt.
- Dạ.
Rồi Tư Lệnh đi vào Trailer. Một lát sau, Tư Lệnh bước ra hai tay xách hai cái vali gặp tôi và anh Việt ngay ở cửa ra vào phòng thờ Phật. Tư Lệnh đưa cho tôi cái vali màu cam và đưa Trung úy Việt cái màu đen. Tư Lệnh nhìn chúng tôi, giọng buồn buồn:
- Danh giữ cái này, Việt giữ cái này.
Tư Lệnh chỉ nói ngắn gọn như thế mà không nói thêm gì, hình như cổ ông nghẹn lại. Tư Lệnh vội bước đi, được vài bước, Tư Lệnh quay lại nói thêm:
- À, quên chìa khóa.
Rồi Tư Lệnh đi thẳng về phía Trailer, một lúc sau, ông trở ra trao cho tôi hai chìa khóa và nói.
- Cái này của Danh, cái này của Việt.
Tôi linh tính sắp có điều gì xảy ra nên Tư Lệnh mới dặn dò và chia phần cho tôi và Việt như vậy. Tuy thế, chúng tôi không dám hỏi. Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xa qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy. Tôi không hiểu Tư Lệnh có định đi ngoại quốc không? Nếu muốn, có lẽ Tư Lệnh cũng đi hết kịp rồi. VC vào đây có bắt Tư Lệnh không? Có làm hỗn hoặc bắn Tư Lệnh không? Nếu sự việc xảy ra thì phải giải quyết làm sao? Tôi đang miên man suy nghĩ, Tư Lệnh xoay lưng chầm chậm theo bậc thang xuống tầng dưới.
Từ ngoài nhìn vô bàn Phật, Tư Lệnh ngồi trên ghế Sofa phía bên phải, đôi mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Anh Việt bước ra cửa về nhà thăm vợ con còn Trung sĩ Hộ đang thập thò trước cửa. Tư Lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông “boong, boong, boong” xong xá ba xá nữa rồi ông về ngồi trên Sofa như cũ, hai tay để trên thành gỗ Sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì xảy ra. Bất chợt, Tư Lệnh xoay qua bảo tôi:
- Danh ra ngoài bảo Việt dẫn vợ con đi đi.
- Dạ.
Tôi thầm nghĩ Tư Lệnh và tôi độc thân chắc Tư Lệnh nghĩ cách khác. Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng Trung úy Việt. Tôi vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ “đùng” phát ra từ hướng bàn thờ Phật, tôi hốt hoảng xoay người chạy trở lại thì Trung sĩ Hộ đã chạy ra la thất thanh:
- Đại Úy ơi! Đại Úy ơi! Thiếu Tướng tự sát chết rồi.
Trong lúc sợ hãi, anh Hộ quýnh lên gọi tôi là Đại Úy. Tôi chạy nhanh vào phòng thờ Phật thấy một cảnh tượng hãi hùng trước mắt mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Tư Lệnh ngã ngửa hơi lệch về phía sau Sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, mắt ngước nhìn lên trần nhà. Khẩu Colt 45 vẫn còn trong tay buông thõng xuống lòng Tư Lệnh nhưng những ngón tay cầm súng đã nới lỏng, phát đạn xuyên màng tang phải qua trái. Tư Lệnh chưa chết hẳn, nhưng nói không được, thân hình ông run lật bật, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng “khọc, khọc, khọc” từng chập và từ từ nhỏ dần. Anh Hộ thấy vậy vội ôm lấy Thiếu Tướng nói:
- Thôi mình chở Thiếu Tướng đi bệnh viện.
Tôi cũng ôm chầm lấy xác ông vừa khóc vừa nói:
- Chắc trễ rồi, vết thương ở đầu vô phương cứu chữa, hơn nữa Thiếu Tướng đã quyết định tự sát. Hèn chi hôm qua Thiếu Tướng đi thăm anh em thương binh ở Bệnh Viện Phan Thanh Giản rất lâu và nói với anh em thương binh là: “Qua ở lại với các em.”
Anh Hộ nói tiếp:
- Em đâu dám đến gần Thiếu Tướng. Đứng ở ngoài cửa, em chỉ thấy lưng Thiếu Tướng. Em thấy Thiếu Tướng móc gì từ trong túi ra, em tưởng Thiếu Tướng lấy thuốc hút, nào ngờ Thiếu Tướng móc khẩu súng và tự sát liền, em chạy lại đâu kịp.
Vừa nói anh Hộ vừa khóc nức nở. Chúng tôi vẫn ôm choàng lấy Tư Lệnh khóc ngất. Trong lúc bối rối và hoảng hốt, tôi đâu còn tâm trí để xem đồng hồ, tôi đoán lúc đó vào khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Vâng. Đúng như vậy. Tôi là một sĩ quan cấp Úy còn ít tuổi, sống độc thân. Nhờ vậy tôi đã được Tư Lệnh chọn ở bên cạnh ông.
Giờ đây gần 30 năm qua, tôi vẫn còn nhớ mãi từng giây phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4-1975.
Với tư cách là Tư Lệnh của chiến trường miền Tây, ông Thiếu Tướng của tôi, vị niên trưởng Thủ Đức đã hết lòng với quân đội và đất nước cho đến cả sau khi nghe lệnh đầu hàng. Ngay cả việc chỉ định Đại tá Thiên thay chức Tỉnh Trưởng Cần Thơ vào trưa 30 tháng 4 cũng nhằm mục đích cần có người trách nhiệm để tình hình ổn định.

Ông là vị tướng đầy lòng nhân ái nên không muốn đổ máu thêm vô ích. Ông không cho phá cầu. Ông không tức tối với những người bỏ đi. Ông không muốn có người chết thêm sau khi Tổng Thống đã đầu hàng.
Sau này tôi mới biết rằng sau khi nghe lệnh Sài Gòn đầu hàng, Tư Lệnh đã có ý định sẽ tự vẫn. Vì vậy ông đã bình tĩnh đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản vào buổi chiều. Tại nơi đây tôi đã từng theo ông đến thăm viếng nhiều lần, nhưng lần này ông đã khóc và hứa với những thương binh là ông sẽ ở lại.
Và điều đặc biệt là chính tôi không rõ Tư Lệnh đã nói gì để mà Việt cộng đã hai lần vào gặp ông nhưng đều lặng lẽ lui ra.
Trong quân đội chúng tôi học được bài học về đặc lệnh truyền tin vẫn gọi vị Tư Lệnh là Mặt Trời. Tiếng chuông niệm Phật của ông vào đêm 30 tháng 4 vẫn còn nghe vẳng bên tai. Tôi còn nhớ mãi lúc 3 thầy trò đứng khóc trên lan can nhà lầu vào sáng 1 tháng 5 năm 1975 (tác giả Trung úy Lê Ngọc Danh Tùy viên của tướng NKN tới ngày cuối cùng của cuộc chiến)
V. Kết Luận:
Sự tích, huyền thoại về chín vị thần tướng nêu trên là điều có thật. Những sự tích đó đã và sẽ đi sâu vào tâm khảm của mọi người dân Việt. Và đó là những tấm gương chói ngời cho ngàn đời sau noi theo trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc Việt Nam chống lại đoàn quân xâm lược từ phương Bắc.
Cuộc chiến tranh Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương 1 và 2 xảy ra từ năm 1946, tạm ngưng tiếng súng năm 1975, và tiếp tục những năm sau đó bằng nhiều hình thức khác. Bản chất không đơn thuần là một cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam. Đây là cuộc chiến bảo vệ nòi giống và văn hóa của dân tộc Việt Nam do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (viết tắt QLVNCH) gánh vác chống lại sự bành trướng, xâm lăng của quân xâm lược Tầu cộng phương Bắc (kẻ thù truyền kiếp của tộc Việt), với cánh tay nối dài là đảng cộng sản Việt Nam.
Do đó, ý thức hệ thần thoại cao quý này được hình thành để nêu cao tấm gương trung liệt của Cửu Đại Thần Tướng Việt Nam thời cận đại cũng như quân nhân các cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung là một điều cần thiết.
Chúng tôi thành kính thắp nén hương lòng kính dâng đến anh linh của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Cửu đại thần Tướng Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến vệ quốc 1946-1975. Nguyện cầu anh linh chư vị sớm siêu thăng nơi miền tiên cảnh.
Một nén hương lòng khác kính dâng anh linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong các tại tù cộng sản Việt Nam sau ngày 30/04/1975. Đồng thời tưởng niệm những chiến sĩ VNCH đã hy sinh cho tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến phục quốc.
Xin tỏ lòng biết ơn đến các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh một phần thân thể cho Tổ quốc Việt Nam. Cầu chúc các anh gặp nhiều may mắn hơn trong cuộc sống hiện tại nơi quê nhà hay tại hải ngoại.
Xin gởi lời kính trọng đến các bậc sinh thành cũng như hiền phụ đã nung đúc, trưởng dưỡng, cũng như đã đóng góp những hy sinh lớn lao trong cuộc sống hằng ngày để người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa có thể vững tay súng giữ gìn bờ cõi đất nước trong gần 30 năm chiến tranh vệ quốc.
Chân thành cảm ơn các tác giả có bài viết trong bản sưu khảo này, đã giúp chúng tôi hoàn thành được bộ sự tích vô cùng bổ ích.
Cuối cùng, nguyện cầu anh linh chư vị thần tướng, chư vị anh hùng tử sĩ độ trì dân tộc Việt sớm ngày đẩy lui nội ư (Việt cộng) ngoại hoạn (Tầu cộng) để Việt Nam có thể chuyển mình và vươn lên cùng nhân loại trong thế kỷ thứ 21.
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo, Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc, hiệu đính nhân dịp tưởng niệm 35 năm ngày quốc tang, quốc hận 30/04/1975 - 30/04/2010 (Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam và Tinh Thần Trúc Lâm Yên Tử tại Âu Châu)
Thư mục:
- Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam - Giáo sư Nguyễn Đăng Thục; Việt Điện U Linh Tập - Lý Tế Xuyên.
- Các diễn đàn QLVNCH 


















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét