V. Tuân Tử
298 – 238 trước Công Nguyên
1. SƠ YẾU CUỘC ĐỜI.
Tuân Tử tên
Huống , tự Khanh, cũng tự Tôn Khanh. Đời Hán đặt tên sách của Tuân Tử là
"Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi lại xưng hô "Tuân
Tử". Tuân Tử người nước Triệu, sanh vào năm nào không được rõ, chỉ biết
"Niên giám Tuân Tử", bắt đầu ghi chép sự tích của Người từ năm Triệu
Huệ Văn Vương nguyên niên, tức 298 tr. KN. TL và mất vào năm thứ 25 Sở Khảo
Liệt Vương, tức 238 tr. CN. Đại để là, trước 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm về
việc trau dồi học vấn, khoảng trước sau 50 tuổi đi du hành qua các nước, từ 60
tuổi trở đi, những năm đầu làm huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những năm sau
thì mở lớp dạy học, y như Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Đúng vào năm 50 tuổi,
Tuân Tử đến nước Tề. Tuy được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử
làm "Tế tửu , một danh hiệu vinh dự trong buổi "quốc yến", nhưng
rốt cuộc chẳng được trọng dụng. Sau khi rời Tề sang Tần, Tuân Tử được gặp tể
tướng Phạm Tuy. Lúc đó Tần là một cường quốc, thường ỷ thế mạnh đe dọa chư hầu.
Phạm Tuy hỏi cảm nghĩ của khách ra sao, đối với Tần. Đáp lại câu hỏi đó, trước
hết, Tuân Tử ca ngợi Tần là một nước có tập tục tốt, núi non đẹp, hơn nữa là,
quan lại dốc lòng vì dân, triều đình làm việc mau mắn. Nhưng tiếp theo thì vuốt
mặt chẳng nể mũi, thẳng lời phê bình nước Tần hãy còn khiếm khuyết đạo Nho.
Chiếu theo tiêu chuẩn của Tuân Tử thì, thiếu đạo Nho tức là thiếu Lễ nghĩa, mà
lễ nghĩa là linh hồn của quốc gia. Tuân Tử khen điều hay, chê điều dở của Tần
một cách thẳng thắn, chẳng ngại mếch lòng ai như vậy là thái độ nhận chân
nghiêm túc, phải là phải, trái là trái của con người Nho học. Song cũng vì thế,
nên Tuân Tử đã thiếu dịp may thi thố tài đức, thực hiện lý tưởng chính trị của
mình, đành phải trở về cố quốc. Ở Triệu là nơi nước nhà, Tuân Tử từng biện luận
phép dụng binh với Lâm Vũ Quân, trước mặt Triệu Hiếu Thành Vương. Lâm Vũ Quân
dựa vào nguyên tắc "xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị" của Tôn Tử binh
pháp, cho ràng kẻ dùng binh giỏi, bao giờ cũng "quyền mưu thế lợi "
và "công đoạt biến trá", nghĩa là không từ bỏ bất cứ thủ đoạn gian
trá nào. Ngược lại, Tuân Tử có quan điểm khác hẳn, Người nhấn mạnh kẻ giỏi về
quân sự là biết "thiện phụ dân", tức là dựa vào sức mạnh của dân một
cách hiệu quả. Tuân Tử cho rằng, được dân ủng hộ mới nắm chắc phần thắng, cho
nên "thiện phụ dân", là cái vốn quý nhất của người điều khiển chiến
tranh.