“Kẻ hèn nhát hỏi: ‘Có an toàn không?’ Kẻ cơ hội hỏi: ‘Có khôn khéo không?’ Kẻ rởm đời hỏi: ‘Có được tiếng tăm gì không?’ Nhưng, người có lương tâm hỏi: ‘Có là lẽ phải không?’ Và có khi ta phải chọn một vị trí không an toàn, không khôn khéo, không để được tiếng tăm gì cả, nhưng ta phải chọn nó, vì lương tâm ta bảo ta rằng đó là lẽ phải.”
Kết quả cuộc bầu lưỡng viện Quốc hội giữa
nhiệm kỳ ở Mỹ ngày 06/11/2018, không chỉ đã phản ảnh cuộc trưng cầu ý dân đối
với Tổng thống Donal Trump, sau 2 năm cầm quyền và 8 năm độc quyền kiểm soát
ngành Lập pháp của đảng Cộng hòa mà còn chuẩn bị sóng gió cho ông Trump phải
vượt qua trong cuộc tái tranh cử Tổng thống năm 2020.
(Kỷ niêm 55 năm ngày mất của cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm: 2/11/1963 - 2/11/2018)
I. “Mối tình Maneli” nghĩa là gì?
Cuộc thương thảo bí mật của em trai cố
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là ông Ngô Đình Nhu với Cộng Sản Hà Nội nhằm thúc đẩy
hai miền Nam - Bắc của Việt Nam né tránh một cuộc xung đột ý thức hệ ngu xuẩn
chỉ có lợi cho Trung Quốc được giới tình báo Hoa Kỳ tặng cho một cái tên là “Mối
tình Maneli” (“Maneli affair”)
Nhân dịp Đảng CSVN vừa bước qua sinh
nhật lần thứ 86, xin được giới thiệu cùng quý độc giả bài thơ ĐẢNG của tướng Trần
Độ, là một trong những bài thơ cuối cùng của ông Trần Độ. Bài thơ này chỉ được
lưu truyền trong giới quân ngũ, nên có lẽ nhiều người chưa có dịp đọc.
"Trưa thứ Tư, ngày 17.10.2018 Nguyễn Ngọc
Như Quỳnh và gia đình đã đáp chuyến máy bay EVA 398 rời Hà Nội, quá cảnh tại
Taipei và sẽ đến Houston trên chuyến bay EVA 52 vào lúc 11 khuya cùng ngày."
Cựu
Trung Tá Nguyễn Văn Minh - Trong lá
thư gửi cho một chiến hữu đề ngày 22-9-1952, cuối thư có bài thơ tứ tuyệt trên
đây, thủ
bút của chí sĩ Ngô Đình Diệm.Chúng tôi xin dùng ba chữ cuối của câu 4 để đề tựa cho bài thơ.
Tôi đến ATêKa, an toàn khu (ATK) để làm báo Sự
Thật đầu 1949.
ATêKa, an toàn khu là gì? Là căn cứ địa đầu
não của Đảng cộng sản Đông Dương và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, nằm ở
chân hai con đèo tên Re và So của dãy Núi Hồng chia đôi hai huyện Định Hoá tỉnh
Thái Nguyên và Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Cùng thời gian bao vây Điện Biên Phủ, Trung
ương mở lớp tổng kết cải cách ruộng đất ở sáu xã thí điểm tại huyện Đại Từ sát
nách An toàn khu, do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo. Sau tổng kết sẽ triển khai chính
thức đợt 1 cải cách ruộng đất. Tôi đã dự.
Từ Điện Biên Phủ, Thép Mới viết cho tôi: “Mày
ở đầu trận tuyến chống phong kiến, tao ở đầu trận tuyến chống đế quốc, cố lên
hả!”. Hảo hớn, phơi phới.
Xong hạn cải tạo lao động, tôi về lại Ban nông
nghiệp báo.
Dưới gốc đa, Phan Quang, mới lên trưởng ban
sau cuộc đánh phá xét lại và chuyến đi Bắc Kinh xức dầu thánh; Hữu Thọ hay
“lính dù Kong Le” (chỗ nào đảng uỷ cần đánh dẹp thì phái anh ta đến) một nhát nhảy
mấy bậc lên ghế phó trưởng ban dưới Phan Quang, phổ biến ba quyết định của Ban
biên tập và đảng uỷ về tôi:
1975. Tháng 4. Đại thắng mùa xuân. Như tên hồi
ký Văn Tiến Dũng viết. Và cho tướng Giáp ra rìa đại tiệc. Báo Nhân Dân dành hai
trang đăng bài Bùi Tín tường thuật “giải phóng Sài Gòn”. Xem đến đoạn Bùi Tín
vào Dinh Độc Lập mở tủ lạnh xem “chúng nó” ăn những gì, tôi không đọc nữa. Kiểm
kê sự ăn uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động
quần chúng căm thù bọn bóc lột. Tức là bấm vào cái huyệt ghen ăn tức ở. Mở trí
khôn cho quần chúng ở cái điểm này mới quý đây!
Tất cả những người Cộng Sản, Quốc Gia,
Không đảng phái, các tôn giáo... bị tù đày, bị đàn áp, bất công và oan ức do
các chế độ thực dân, độc tài, độc đoán, đô/c đảng và cguyên quyền.
Các chiến sĩ kiên cường đang đấu tranh cho một nền dân chủ - đa nguyên.
Các bạn trẻ thân yêu trong cả nước sắp đưa tổ quốc vào kỷ nguyên dân chủ, tự
do, hòa hợp và phát triển.
Mấy tháng
qua, một số bè bạn ở Paris và một số tỉnh ở Pháp cũng như một số nhà báo Anh,
ý,... hỏi tôi rằng: Sống dưới chế độ cộng sản, ông đã rút ra được những bài học
gì sâu sắc nhất? Quả vậy tôi đã gắn bó với chế độ chính trị do đảng cộng sản
lãnh đạo hơn 46 năm, tôi là đảng viên cộng sản từ tháng 3. 1946, đến nay vừa tròn
45 năm. Tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9.
1945 đến tháng 10. 1982, tức là hơn 37 năm. Nhìn lại cả một quãng đời vừa trải
qua, quả thật có nhiều điều sâu sắc và thấm thía.
Hơn ba
mươi năm chiến tranh đã in dấu sâu đậm lên cuộc sống của cả dân tộc Việt Nam
ta, của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi khởi đầu không ai nghĩ chiến sự sẽ
kéo dài, kéo dài mãi đến như vậy. Về sau người ta chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại
chịu đựng với ý nghĩ rằng độc lập và tự do là điều quý nhất, có độc lập, tự do
rồi sẽ có tất cả, mọi hy sinh đều là cần thiết cho mục tiêu cao cả ấy.
Nhìn lại những cuộc đấu tranh lâu dài trên đất nước mình, nhìn lại cuộc đời cầm
súng của mình trong 37 năm có lẻ, tôi thấy những gì sâu sắc nhất?
Tôi đang
sống những ngày căng thẳng và chật vật. Mọi cuộc dấn thân đều phải thấu hiểu
trước và chủ động chấp nhận. Những nỗi đau và bất hạnh của nhân dân thối thúc
tôi có thể làm được gì thì phải làm hết sức mình. Những thảm họa mang tầm vóc
dân tộc trẻ em gầy ốm, tỷ lệ chết khi sinh của các em quá cao (57/1000 cao gấp
sáu lần ở Pháp và Mỹ), nạn thất học lan tràn, hàng 300, 000 học sinh bỏ học,
hơn 70, 000 giáo viên bỏ dậy, hệ thống bệnh viện xuống cấp, người bệnh phải
chung nhau hai người một giường, thiếu thuốc men. Nạn tham nhũng, ăn hối lộ của
mọi cửa đè nặng lên cuộc sống người dân lương thiện. Tất cả những điều ấy không
cho phép tôi do dự, tính toán cho riêng mình. Tôi tin là mình đã làm theo lẽ phải
và lương tâm.
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi
chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi
viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần
trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã
trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những
chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Huế
đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Cả thành phố chỉ
còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối, đạn pháo Việt Cộng nã đều vào
cầu Trường Tiền và khách sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba bánh,
xe xích lô đi hôi của.
Ði
lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối cầu Trường Tiền mặc dù cầu
này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ
còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà
không có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói với mấy thằng lính đệ tử.
Lên
đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì
số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc,
căng thẳng.
Huy
mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
"Súng
tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận."
"Còn
gì nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn?"
"Thì
ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới."
Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ
mẹ, có xuống không?"
"Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ
mẹ, một."
"Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ
mẹ, hai."
"Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh
mà."
"Ðụ
mẹ, ba."
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển.
12 345 Kỳ Cuối Tập “Hồi ký” này tôi đã viết xong từ năm 2000,
nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do... hèn, chứ
chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi thêm một
dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”.
Như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã...
chết!
Nhạc sĩ Tô Hải
Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại, thấy
ngòi bút của mình sao vẫn còn rụt rè, vẫn còn lấp lửng. Mới biết mình vẫn còn
chưa hết sợ sức mạnh tàn bạo của nền “chuyên chính vô sản” mà mình từng nếm
trải. Nhất là sợ rồi đây vợ con mình sẽ phải chịu đựng những đòn thù bẩn thỉu
của bầy dã thú đội lốt người, nếu chẳng may những gì mình viết ra rơi vào tay
chúng.
Đúng lúc tôi chập
chững bước vào lớp Đồng Ấu (Enfantin) trường tiểu học là lúc bố tôi được bổ
nhiệm về làm phó chủ sự bưu điện tỉnh lẻ, tỉnh Thái Bình. Thời gian ấy Thái
Bình là tỉnh đói nghèo nhất nước và cũng là nơi được người Pháp cai trị với bàn
tay sắt nhất! Lý do: quá nhiều vụ nổi loạn!
Về sau, khi đã trưởng thành, tôi mới vỡ lẽ vì sao mảnh đất “bị
gậy khắp nơi tung hoành” ([1]) này lại sinh ra quá nhiều con người khác nhau,
cách mạng thì cách mạng đến cuồng tín, đối kháng thì đối kháng đến cùng cực!
Cũng từ môi trường này, xuất hiện những gương mặt lá phải lá trái, đổi trắng
thay đen đến không ngờ: những người gặp vận may, những tên cơ hội, cách mạng
giả hiệu, cả những “con rối” được cách mạng tạo nên để sau này làm khổ cho cả
ngàn vạn con người!
Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là quân đội
miền Nam sau thất bại Ban Mê Thuột, đã chẳng còn một tí tinh thần chiến đấu
nào. Với số quân và vũ khí do Mỹ để lại, nếu trong tay bất kỳ một tướng nào có
tí lý tưởng, có tí thể diện của con nhà võ, miền Bắc đâu có thể “chẻ tre”,
“thần tốc” đến thế! Nói cho ngay: Chính “phía bên kia” đã... gác súng, không
chiến đấu nữa. Y như một trận bóng mà một bên đã tự nguyện cởi áo rời sân cỏ!
Chẳng thế mà Lê Linh, một vị tướng tư lệnh Quân Đoàn 4 đã nói rất thật với đám
văn nghệ chúng tôi: “Chúng tớ chỉ có chạy và chạy thẳng về Sài Gòn! Quân,
tướng, đơn vị xáo trộn, thất lạc nhau lung tung! Y như một tấm giẻ rách! Làm
quái gì có ai chỉ huy ai mà cứ cãi nhau hoài.” Câu nói muốn nhắc đến hai cuốn
sách chửi nhau về ai thật sự có công của hai vị tướng miền Nam và miền Bắc mà
thắng lợi thuộc về ông tướng... miền Bắc.
Tới hôm nay, 24-9-2006, tôi đã sống thêm được
4 năm nữa để bước vào tuổi 80 đến không ngờ!
Kể từ ngày quyết dứt bỏ nỗi Hèn Nhát đáng
khinh để bắt tay vào viết cuốn Hồi Ký Của Một Thằng Hèn (1995), rồi lại bổ sung
một chương Tôi Đã Hết Hèn (2002) tới nay là đúng 4 năm nữa, tập hồi ký vẫn chưa
được công bố!
Tôi giấu kín nó như...thuốc phiện lậu trong
nhà và cẩn thận đề bằng bút dạ ngoài cái túi đựng nó “Để xuất bản năm 2010”.
Đây cũng là cái năm mà tôi tin tưởng:
—1/ Chủ nghĩa cộng sản quái quỉ này đã...“mồ
không yên mả không đẹp” bởi cái hố mà nó tự đào không đủ sâu đến nỗi nhân dân
đã đẩy nó xuống, nó vẫn bốc mùi đểu cáng thối tha đến mức ngày nào cũng có hàng
vạn người quật chúng lên để rắc vôi bột!
—2/ Tôi đã...chết rồi! Nghiã là nếu chẳng may
cho đất nước này, tới năm 2010 mà bọn lưu manh còn tại vị thì chúng cũng chẳng
thể bỏ tù tôi với các tội “phản quốc”, “gián điệp” cho nước ngoài...như chúng
đã bỏ tù các vị Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương. Lê Hồng Hà... !