Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ - PHẦN 4 - CHƯƠNG 20 ĐẾN CHƯƠNG 22

PHẦN IV - Chương XX

NAM BẮC CHIA HAI – CHIẾN TRANH VIỆT MĨ (1954-1975)


LẬP LẠI CUỘC ĐỜI

TRÊN ĐƯỜNG LONG XUYÊN - SÀI GÒN
Thời đó con đường Long Xuyên – Sài Gòn không được yên. Có vài khúc quẹo cứ dăm bữa nửa tháng quân kháng chiến lại đặt mìn mà Pháp không có cách gì ngăn được, mặc dù cứ vài ba cây số lại có một đồn canh, vì đêm lính không dám ra khỏi đồn. Nhiều khi quân kháng chiến ngang nhiên đi thành hàng băng qua lộ, cách đồn vài trăm thước, bắt loa khiêu khích mà lính trong đồn nữa mà lính trong đồn cũng làm thinh, vì hễ nổ một phát súng thì đồn bị san phẳng liền. Như có một sự thoả thuận ngầm với nhau: một bên cứ canh gác ban ngày, vô làng xóm bắt gà bắt vịt, bẻ dừa, mận – vừa vừa thôi thì yên; một bên thong thả đi lại ban đêm, đào đường, đặt mìn
Tới chỗ đường bị đặt mìn, đoàn xe đò phải ngừng lại hai ba giờ đợi xe nhà binh tới gỡ mìn, lấp lại đã. Ở mỗi đầu, xe đò, xe du lịch, xe nhà binh dồn lại cả trăm chiếc, thành hai dãy dài cả cây số. Hai ba giờ sau, đường mới khai thông lại được.
Hôm nào có một chiếc cầu sắt sập bị phá hoặc vì chịu không nổi sức nặng của xe nhà binh thì khi qua được bc Mĩ Thuận, mt trời đã sắp lặn, xe không dám chạy ban đêm, đành phảinghỉ lại. Mỗi phía bắc có năm chục chiếc xe, cả xe đò cả xe chở hàng. Khoảng năm chục quán cơm và quán nước, quán nào cũng đốt đèn “manchon” sáng rực, khách khứa tấp nập y như ngày hội. Chiến tranh này như vậy: nơi kia hoang tàn, không một bóng người, một tiếng chim, thì nơi đây náo nhiệt, chen chúc nhau, tiếng ca vọng cổ trong máy thâu thanh vang lên, xen với tiếng cười giỡn oang oang bên bàn rượu. Cô bán hàng nào cũng đeo vàng, đồng hồ, cũng bận lụa, xa tanh. Trong có mấy năm mà bến bc này thịnh vượng gấp mười trước.
Khoảng chín giờ tối, đèn trong quán tắt bớt, hành khách một số ít nằm trong xe, một số đông vô ngủ trong quán hoặc nằm trên các ghế bố sắp thành hai dãy dài cả trăm thước hai bênđường, chiếc nọ cách chiếc kia độ nửa thước. Giá mướn một đêm bằng một phần mười giá mua ghế mới.
Trời chưa sáng thì mọi người thức dậy, xuống sông hay mương vốc nước lên rửa mặt, rồi ăn sáng. Các quán lại ồn ào, tấp nập, và đoàn xe lại nối đuôi nhau chạy về Sài Gòn.
CHUẨN BỊ LẬP NHÀ XUẤT BẢN
Hôm tôi đi may mắn không gặp trở ngại gì ở dọc đường, nên khoảng hai giờ chiều đã tới Sài Gòn.
Nhà ở trong một ngõ sau hãng Sáo Tân Định, xóm này hầu hết là tiểu tư chức và công nhân. Cháu năm đó đã lớn, đậu bằng Trung học đệ nhất cấp của Pháp rồi. Nhà tôi vẫn dạy học cho một chi nhánh trường Aurore của cô bạn. Chi nhánh đó ở tại nhà cũ của tôi - 50 đường Monceau[1], tên mới là Huỳnh Tịnh Của.
Nhà ở sau hãng Sáo “làm ăn” rất bất tiện vì ở trong hẻm. Tôi bàn với nhà tôi xin cô bạn chủ trường Aurore trả lại cho chúng tôi nhà ở Huỳnh Tịnh Của. Họ tốt bụng, bằng lòng trả, mà không đòi tiền sang nhà. Nhà thời đó đã rất hiếm nên có lệ muốn thuê một căn nào, phải đưa một số tiền từ vài ba chục ngàn tới một hai trăm ngàn đồng cho người ở trước thì người ta mới dọn đi, số tiền đó người Pháp gọi là “tiền vào cửa” (pas de porte), mình gọi là tiền sang nhà. Khi mình không ở nữa, “sang” cho người khác thì người này cũng phải cho mình một số tiền.
Nhà Huỳnh Tịnh Của rất hẹp, chỉ có hai phòng 3,5 x 3,5 mét, phía sau là một khoảng 3,5 x 5mét vừa là sân, vừa là bếp, cầu tiêu, phòng tắm. Chúng tôi giữ nguyên hai phòng trước làmnơi cho nhà tôi mở một lớp kèm trẻ em ban tiểu học trường Pháp; một lớp nữa cho lớp mẫu giáo tiếng Việt.
Khoảng 3,5 x 5 mét phía sau, tôi dời bếp, cầu tiêu, phòng tắm ra chỗ đất trống phía sau nhà, rồi bỏ sân, lợp mái thành một phòng rộng non hai hai chục thước vuông, vừa làm chỗ ăn, chỗ tiếp khách, chỗ ngủ, chỗ tôi viết lách và nơi con tôi học.
Tôi chỉ xuất bản sách của tôi thôi, không mua tác phẩm của ai, nên không phải xin phép, không phải đóng môn bài, nhưng tôi cũng đặt tên cho nhà xuất bản. Nhà tôi mở lớp mẫu giáo thì xin phépCả nhà xuất bản lẫn lớp mẫu giáo đều lấy tên tôi.
Năm đó tôi 42 tuổi Tây (43 tuổi ta), lập lại cuộc đời không phải là sớm, nhưng cũng chưatrễ vì từ 40 đến 50 là tuổi già giặn, đủ kinh nghiệm rồi, sức làm việc còn mạnh. Ngoài năm mươi sức bắt đầu suy, phải can đảm mới dám bước vào con đường mới; nhưng từ năm 1975 đến nay, tôi thấy nhiều người quá tuổi đó mà vì hoàn cảnh thúc đẩy, phải lập lại cuộc đời và thành công. Quan trọng nhất là nghị lực chứ không phải tuổi tác.
Trước khi lao vào một con đường mới, ai cũng lo lắng vì trở ngại này, trở ngại khác, nhưng khi đã cương quyết tiến được bước đầu thì ta thấy sự thay đổi cuộc đời không có gì khó khăn cả. Một anh bạn tôi[2] hồi viết báo, ghét và ngại nghề dạy học lắm: phải tới đúng giờ, về đúng giờ, hò hét, soạn bài, sửa bài… nhưng khi tờ báo đình bản, anh miễn cưỡng phải đi dạy học thì chỉ sáu tháng sau anh thấy dạy học thú hơn viết báo và từ đó anh bỏ luôn nghề viết báo.
Ai cũng có thể làm được nhiều nghề: một bác sĩ có thể viết sách, báo, dạy học...; một nhà văn có thể trồng cây, nuôi gà, bán sách, vẽ, chụp hình... Vậy ai cũng có thể đổi nghề dễ dàng, và đổi nghề ri mà thành công người ta thy vui thích, ti khả năng của mình mà tinh thần trẻ lại, cơ thể cũng trẻ lại.
GẶP CÁC BẠN VĂN: HƯ CHU, THIÊN GIANG, ĐÔNG HỒ, NGUYỄN HỮU NGƯ
Khi ở Long Xuyên tôi đã thư từ với hai nhà văn: Hư Chu và Thiên Giang.
Hư Chu tên thật là Nguyễn Kì Thuỵ, sinh năm 1923 ở làng Hành Thiện (Nam Định), một làng nổi tiếng về đỗ đạt. Con một cụ cử, sớm thôi học chữ Pháp, về quê học thêm chữ Hán rồi phiêu bạt, làm khá nhiều nghề: buôn bán, nuôi gà, thư kí, thầu rừng, dạy học, chế trà, nghề nào cũng thất bại; năm 1950, có vợ rồi, vào Sài Gòn thử nghề cầm bút, viết truyệnfeuilleton cho tờ Việt Thanh được ông chủ nhiệm Văn Hoàn có thanh nhãn, biệt đãi, saugiao cho coi sóc phụ trương Văn chương. Từ đó tiếp xúc với nhiều văn nhân, danh ông cànglên. Chính lúc ấy tôi thỉnh thoảng góp với ông một bài tạp luận hoặc phê bình văn chương[3].
Những truyện ông đăng trên Việt Thanh tình tiết li kì, giọng văn cổ kính, du dương, rất trọng điệu bằng trắc, cho nên được một số người để ý tới ngay, như Nhất Linh và vài anh em chúng tôi ở Long Xuyên. Những truyện ấy sau gom lại thành tập Nam Hải truyền kỳ.
Ông chơi thân với Vũ Hoàng Chương, chỉ làm thơ cổ và làm ít thôi, một số bài được các bạn thơ khen là già giặn, hay, có nhiều nhạc như bài Duyên Liêu trai ở đầu tập Nam Hải truyền kì.
----------DUYÊN LIÊU TRAI
-----Phòng vắng chưa nằm đẫy giấc mơ,
-----Vang cười chợt tỉnh có đâu ngờ!
-----Nửa trang kì sử hồ lay gối,
-----Bốn mặt thu phần quỉ đọc thơ.
-----Hẹn một đời sau âu cũng vậy,
-----Tình trăm năm cũ lại bây giờ.
-----Kìa ai dong đuốc xa dần mãi?
-----Eo óc canh gà những ngẩn ngơ
Ông mất hồi mới 50 tuổi (năm 1973) vì đứt mạch máu. Tôi đã ghi sự nghiệp của ông trong bài Hư Chu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 392, tháng 6 năm 1973, khi ông mới mất.
Năm 1953, lên Sài Gòn tôi mới gặp mặt ông. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là con người ấy giản dị mà dễ thương, mà đó cũng là cảm tưởng chung của tất cả bạn văn của ông; ông cởi mở, tự nhiên, thành thực, sẵn sàng giúp bạn; nụ cười của ông tươi, cặp mắt cận thị của ông hiền. Ngay buổi đầu ông đã tươi cười thú thật với tôi: “Cái vốn chữ Hán của tôi có gì đâu anh; tôi chỉ có mỗi một con dao găm, chứ đâu có lưỡi kiếm cây đao nào đâu, múa bậy mà được các anh khen đấy thôi”.
Chúng tôi thành đôi bạn thân từ đó, và năm sau (1954) khi tôi mở nhà xuất bản, ba bốn tháng mới ra một cuốn, thì ông giúp tôi: lái chiếc xe máy dầu Peugeot sơn đen đưa tôi lại các nhà in, cùng tôi giao sách, thu tiền, sửa ấn cảo, tiếp xúc với một hai hoạ sĩ nhờ trình bày bìa cho. Có lời, chúng tôi chia nhau để sống. Luôn hai năm, khi tờ Việt Thanh đình bản, ông túng bấn mà vẫn vui. Ông Văn Hoàn thiếu ông bồn bộn, ông đòi không được mà cũng không giận. Dễ thương ở chỗ đó.
Từ năm 1955, ông dạy Sử Địa cho vài trường trung học tư ở Sài Gòn, không có thì giờ giúpcho tôi nữa. Đời sống ông từ đó ung dung hơn.
Ông Thiên Giang (tên thật là Trần Kim Bảng), khác hẳn Hư Chu, không phải là một nghệ sĩ mà là nhà cách mạng.
Ông cùng tuổi với tôi, gốc ở Quảng Nam, học hết Cao đẳng tiểu học Pháp Việt, theo nhóm Đệ tứ, bị Pháp giam ở Lao Bảo một hai năm, do đó mà sau ông viết một tập hồi kí nhan đề là Lao tù, bán khá chạy. Trong những năm 1947 - 1952[4] ông hợp tác với vài tờ báo, viết chung với Thê Húc, Tam Ích một i tập mỏng hơi có tư tưởng xã hội. Hồi tôi gặp ông thì ông dạy Sử Địa cho vài trường trung học tư thục ở Sài Gòn và cùng với vợ là Vân Trang,coi một hiệu sách ở đường Đinh Tiên Hoàng, khu Đa Kao. Ông có một người em gái, bà Hợp Phố, thỉnh thoảng viết truyện cho trẻ em.
Bà Vân Trang là một nữ sĩ, chuyên viết viết truyện ngắn tả giới phụ nữ nông thôn và tiểu tư sản ở trong Nam, văn giản dị, có duyên, khá có tiếng. Bà là con út trong một một gia đình nhà Nho tiểu điền chủ ở Cần Thơ. Chị cả là vợ nhà văn và chính trị gia Hồ Hữu Tường. Sau bà đó tới bà Tân Sinh. Tân Sinh là tên tiệm sách của bà đường Đinh Tiên Hoàng mà bà Vân Trang coi giùm. Bà Tân Sinh biết làm thơ và chồng viết một tiểu thuyết nhan đề Nọc Nạn, tả bằng một giọng cảm động sự nổi dậy của một nông dân bị điền chủ cướp công khai phá đất ruộng của họ. Rồi tới bà Mộng Trung, người có tài nhất trong bốn chị em, biết đàn ca, viết văn, có nhiều bài đăng trên tạp chí Bách Khoa, bạn thân của nhạc sĩ Trần Văn Khê, đáng tiếc là chết sớm. Bốn chị em người nào cũng thông minh, có khiếu về văn, thật hiếm thấy mộtgia đình như vậy.
Tôi lên Sài Gòn được ít lâu thì ông Thiên Giang dắt tôi lại thăm thi sĩ Đông Hồ ở nhà phát hành và nhà sách Yiễm Yiễm thư trang đường Nguyễn Thái Học. Tôi biết danh ông Đông Hồ từ năm 1929-1930 mà mãi năm đó mới được gặp mặt. Tôi đã ghi lại cuộc gặp gỡ đó trong bài “Trên mười năm cầm bút và xuất bản” đăng trên tờ Bách Khoa năm 1967, rồi sau in lại trong Mười câu chuyện văn chương (Trí Đăng 1975). Dưới đây xin trích một đoạn:
“Cảm tưởng đầu tiên của tôi là phòng khách - hay phòng sách - của chủ nhân tối quá, hẹp quá, ngổn ngang đồ đạc. Nhưng chỉ một lát sau tôi thấy phòng ấy rất thân mật. Nó chỉ cách tiệm sách có một bước chân mà sao không khí ở đây khác hẳn: tôi quên hết ồn ào náo nhiệt ở bên kia bức vách, như vào một thế giới khác. Mấy cô coi cửa hàng ngoài kia khi bước vô đây cũng không còn vẻ giúp nhà buôn nữa mà lễ độ, khép nép như những danh gia tử đệ. Ngày nay nhớ lại không khí ấy, tôi cho phần lớn do tính tình và cách tiếp khách của chủ nhân. Nhiều người đã viết, nói về Đông Hồ, nhưng tôi chưa thấy ai nhắc tới điểm này: ông có lúc như trịnh trọng, nhưng thực ra rất tự nhiên, hồn nhiên nữa[5]; dù là một kẻ đàn em vô danh như tôi mới gặp ông lần đầu tiên, cũng thấy rất thư thái, như biết nhau từ lâu. (Người thứ nhì cho tôi cảm giác đó là ông Vi Huyền Đắc, ông này thì thật xuề xoà, dễ thương). Và tôi nghĩ đó là cảm giác chung của mọi người chứ không phải riêng tôi, vì tôi thấy ông tiếp nhiều người, già trẻ, thân sơ, ai cũng niềm nở như ai.
Có khi ông dí dm nữa. Một nhà cổ nhạc có danh lại thăm ông, ông hỏi ngay: “Hôm nay lại dạy bảo điều gì nữa đây?”. Lần khác, nhà trai lại rước dâu, đã tới giờ “lành” rồi, nhắc hai ba lần mà cô dâu – Yiễm Yễm, con gái ông – chùng chình mãi không ra, nhà trai nhắc nữa, ông cười bảo: “Gấp gì? Đào mà!”. Tôi suýt bật cười. Đào là đào kép.
Lần ấy chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu – mà những lần sau cũng vậy, không lần nào dứt ra về sớm được. Tôi còn nhớ ông bảo tôi:
- Ở Long Xuyên có thể viết nhiều được, chứ lên đây, mà nhất là làm việc xuất bản nữa thì bận rộn suốt ngày, không viết được đâu, chỉ vài ba năm sẽ cạn hứng.
Tôi không tin nhưng cũng không cãi. Nếu lúc đó tôi thưa với ông rằng tôi phải viết trong một căn phòng ba mét rưỡi chiều rộng, bốn mét rưỡi chiều dài, vừa làm phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng học của cháu, một bên là căn bếp khói mù, một bên là lớp học độ hai chục em bé thì chắc ông sẽ khuyên tôi nên mua vé xe mà về Long Xuyên gấp đi cho rồi!”.
Tôi có tính này: trước khi làm một việc gì quan trọng ít nhiều, tôi tính toán kĩ rồi mới quyết định, đã quyết định rồi thì dù ai khuyên gì, tôi cũng giữ quyết định của tôi, vì tôi nghĩ người ngoài không thể nào biết rõ khả năng, hoàn cảnh của tôi bằng tôi. Tôi cho đức tự tin rất cần, không có nó không làm được gì cả, mà tôi tự tin vì nhận định được khả năng mình, không bước vào những khu vực tôi không sở trường, rồi cứ nhắm mục đích đã tự vạch mà tiến đều đều, bền bỉ, không vội vàng mà cũng không ngừng, không ganh đua với ai cả. Raymond Aron trong cuốn Mémoires bảo làm việc gì ông cũng muốn được Prix d’Exellence như hồi đi học. Tôi trái lại, ngay từ hồi đi học không quan tâm tới giải Ưu hạng, nó tới thì cũng vui, không thì không buồn.
Một buổi tối, khi tôi còn ở hẻm sau hãng Sáo, một người thấp, gầy, lưng hơi khòm, ăn mặc lôi thôi, lại chơi tôi, tự giới thiệu là nhà văn, nhà báo, nhà giáo” Nguyễn Hữu Ngư, bút hiệu là Ngu Í; vợ là cô giáo cùng dạy trường Aurore với nhà tôi.
Tôi chưa hề biết ông mà cũng chưa đọc bài nào của ông cả, thấy ông rất tự nhiên, thân mật, hơi khác thường. Ông viết giúp tờ Phương Đông của Hồ Hữu Tường. Tờ này đương làm một cuộc phỏng vấn các nhà văn Bắc, Nam, mỗi nhà đăng trên một số báo vào ngày chủ nhậthay thứ bảy. Lần đó ông lại phỏng vấn tôi, và tờ báo đầu tiên nhắc đến tôi là tờ ông viết giúp.
Lần lần tôi thân với ông, mến ông, nhưng thú thực là không dám gần ông nhiều. Ông rấtthường lại chơi tôi, chứ tôi thì cả năm chỉ lại nhà ông độ một lần.
Tính tình tốt, hay giúp đỡ người; nhờ ông việc gì thì tận tâm, dù giữa trưa cũng gò lưng đạp chiếc xe cũ mà đi liền. Sách báo ông xin được rất nhiều, đem cho tôi đọc tới ngán, mà ôngcũng xin của tôi rất nhiều để tặng các bạn ông.
Ông là con một ông đồ ở Hàm Tân (Bình Tuy), một hội viên trong Đông Kinh nghĩa thục. Hồi học ở Pétus Kí (Sài Gòn), có khiếu về văn, được giáo sư Phạm Thiều khuyến khích,năm 1944-1945 giúp việc cho tờ Thanh niên nên quen nhiều người sau này làm cách mạng, theo kháng chiến như Lưu Hữu Phước[6], Huỳnh Tấn Phát…
Có tài về phỏng vấn: bao nhiêu bài phỏng vấn văn nghệ sĩ đăng trên Bách Khoa đều của ông cả, vì trong toà soạn không có ai quen biết nhiều nhà văn bằng ông, cũng không ai như ông chịu đạp xe đi khắp Sài Gòn tìm các nhà văn, có người hai ba lần mới gặp để phỏng vấn. Những bài hay nhất đã được gom lại thành một cuốn nhan đề là Sống và Viết với[7] do ông tự bỏ vốn ra tự xuất bản năm 1966.
Thỉnh thoảng ông bị khủng hoảng tinh thần, bỏ nhà đi lang thang, nói bậy nói bạ, ai ông cũngchửi: Ngô Đình Diệm, Stalin, các thượng toạ lãnh đạo Phật giáo năm 1963…
Mới đầu, hai năm mới lên cơn một lần, sau sáu bảy tháng một lần, phải đưa vào Dưỡng trí viện ở Biên Hoà độ nửa tháng, một tháng rồi về. Sau ngày giải phóng, bệnh nặng hơn, ông nằm luôn ở Dưỡng trí viện, khi gần mất mới đưa về nhà. Ông mất đầu năm 1978 (?)[8]. Lại điếu ông xong, ra về, tôi bùi ngùi nghĩ bụng: “Xong một kiếp người”.
Trong bài Tựa đề cho tập Qê hương[9] của ông, tôi kể một lần ông lại thăm tôi khi bắt đầu lên cơn:
“Tôi nhớ là một buổi sáng đầu đông (năm 1967). Tôi mới ngồi vào bàn viết thì anh ôm một chồng sách, loạng choạng bước vào, lưng khom khom, đầu đưa ra phía trước. Anh đặt chồng sách lên mặt bàn, kéo ghế ngồi, móc túi lấy ra một gói thuốc rê, xé một mảnh giấy quyến, lặng thinh quấn. Tôi biết rồi, dẹp tất cả công việc lại, sẵn sàng ngồi nghe anh. Trông chiếc sơ mi nhàu nát, cả tuần chưa thay, tôi đoán anh mới ở Châu Đốc, Hà Tiên, Tây Ninh, Chợ Giữa hay Hàm Tân về, chưa biết chừng mới được một ti cảnh sát ở đâu đó thả ra hôm trước. Anh vừa hút thuốc luôn miệng - bình thường anh ít hút - vừa kể chuyện. Đủ thứ chuyện. Từ những mộng thời thanh xuân tới những mộng hiện thời, từ chuyện nhà đến chuyện nước, từ chuyện thơ văn tới chuyện chính trị, rồi chuyện bạn thân bạn sơ, bạn trai bạn gái, chuyện hồi kháng chiến, chuyện bị an trí trong bưng… Hết thảy là những chuyện tôi được nghe anh kể nhiều lần rồi, mà lần này nghe lại, tôi vẫn thấy buồn vô hạn. Tôi gần như không xen vô một lời nào cả, mặc anh thao thao để anh trút bớt nỗi bất bình, nỗi căm phẫn của anh đi. Anh căm phẫn xã hội, anh căm phẫn thời đại, anh căm phẫn mọi người. Anh nhiều lí tưởng, nuôi nhiều mộng cao đẹp mà gặp toàn những điều bất như ý, cứ phải cố nén xuống và sức nén càng mạnh thì sức bùng ra cũng càng mạnh. Có lúc anh nghiến răng, nắm chặt tay vung ra như muốn thoi tôi; có lúc anh mếu máo muốn khóc, rồi bỗng chồm lên, chua chát, cay độc mạt sát phũ phàng người bạn già mà anh quí nhất. Lúc đó tôi chán đời biết bao! Có lúc anh cười gằn ghê rợn rồi ngâm thơ, những bài thơ lục bát hay thất ngôn, ngũ ngôn, thường là bốn câu anh làm rất mau.
Hôm đó ngồi nghe anh suốt hai giờ, tôi thấy buồn lạ lùng, không phải chỉ buồn cho anh, mà còn buồn cho chính tôi, cho tất cả loài người. Hết thảy chúng ta bề ngoài đều rất nhã nhặn, lễ độ, nhưng trong đáy lòng vẫn có những đợt sóng ngầm có thể một sớm một tối phát ra mà không sao ngăn lại được…”.
*
Tôi còn gặp vài nhà văn nữa như Lê Văn Siêu, Nguyễn Duy Cần… ở toà soạn tuần báo Mới(mà tôi viết giúp mấy bài) cũng của ông Phạm Văn Tươi, tại trên lầu nhà sách của ông. Tôi lại thăm Lê Ngọc Trụ ở thư khố Sài Gòn đường Gia Long, thăm học giả Lê Thọ Xuân ở nhà in Maurice gần chợ Bến Thành. Hai ông này rất chú trọng đến chánh tả và nhờ ông Lê Thọ Xuân mà sách của nhà P. Văn Tươi ít mắc lỗi chánh tả, cũng như sách của Yiễm Yiễm thư trang.
KHÔNG DẠY TƯ – CHỈ XUẤT BẢN TÁC PHẨM CỦA TÔI
Ông Lê Thọ Xuân lúc ấy không viết lách gì cả, vừa quản lý nhà in Maurice, vừa làm giám đốc trường trung học tư thục Tiên Long[10], thấy tôi đã dịch mấy cuốn của Dale Carnegie, lại nhà tôi nhờ dạy giúp môn Anh văn. Tôi thú thực dịch Anh văn thì tạm được, chứ nói không được, nên không dám nhận. Ông bảo giáo sư Anh văn ở Sài Gòn đại khái như vậy hết, ai cũng vừa học vừa dạy. Tôi cương quyết từ chối. Ông có vẻ giận, bảo tôi: “Viết văn thì gặm cây bút để sống à?”.
Ông Thiên Giang cũng giới thiệu tôi với ông Phan Ngô, hiệu trưởng một hai trường trung học tư thục có tiếng ở Sài Gòn. Ông Ngô nhờ tôi dạy thay ông môn Việt văn. Tôi cũng từ chối. Lớp học thì đông 70, 80 học sinh không có k luật, phải hò hét từ đầu giờ đến cuối giờ; dạy như vậy chỉ để kiếm miếng ăn thì ở Long Xuyên còn hơn, lên đây làm gì.
Trường trung học tư thục hồi đó phát triển rất mạnh ở Sài Gòn. Trường nào có được vài giáo sư giỏi, nổi tiếng về Việt văn, Pháp văn, nhất là Toán, Lí, Hoá thì thanh niên đổ xô tới xin học. Nhiều ông hiệu trưởng chỉ vài ba năm làm giàu rất mau, như Phan Ngô, Vương Gia Cần… Vài anh bạn mới quen của tôi trong giới giáo sư đề nghị hùn với tôi mở trường Trung học, chia nhau người dạy Văn, người dạy Toán, người nào cũng có danh tiếng ít nhiều, lại có lương tâm, thì chắc trường phải thịnh. Rất có thể mau thịnh đấy, nhưng thịnh bao nhiêu thìcàng phải lo lắng, mệt óc, dễ đau tim, mất ngủ. Tôi không thích kinh doanh, nên cũng từ chối.
Một thầy kí hồi trước giúp việc tôi ở sở Thuỷ lợilúc đó làm cho một nhà chuyên xuất bản sách giáo khoa tiểu học, nhà Việt Hương, đề nghị với tôi mở một nhà xuất bản sách giáo khoa tiểu học và trung học, thầy ấy sẽ tận tâm giúp vì quen nhiều người ở Bộ Giáo dục, nhiều hiệu trưởng trường tư, tôi đáp là không ham làm giàu, chỉ cốt viết và xuất bản ít cuốnmỗi năm đủ sống thì thôi.
Vậy là tôi bỏ qua hai cơ hội làm giàu; sau 1965, khi nửa triệu quân Mỹ ồ ạt đổ bộ lên nước mình, tôi lại bỏ một cơ hội nữa: không cất nhà cho Mĩ mướn như vài người đã khuyên. Số tử vi của tôi (giàu lớn nhờ kinh doanh, như làm thầu khoán chẳng hạn) đã sai chăng? Mà số tử bình của tôi (tuy có tiền của và danh vọng mà sống thanh đạm, một đời giữ được phong vị một hàn nho) đã đúng chăng? Coi Phụ lục ở cuối bộ.
Ngày nay tôi mừng rằng không làm chủ một trường tư, hay một nhà xuất bản lớn, gia sản chỉ có mỗi ngôi nhà ở đường Kì Đồng, chứ nếu tôi làm ăn lớn, có một hai trường học đồ sộ,dăm sáu biệt thự hoặc dăm ba kho sách, một hai tiệm sách lớn, thì chắc chắn là sau này tôi khó được sống yên ổn mà sản nghiệp tiêu tan gần hết.
Vợ chồng tôi, người dạy học, người viết sách xuất bản, đều theo công thức “tiểu công nghệ”, tự sức mình làm hết, không mướn ai, nên không mang tiếng là tư sản bốc lột. Tôi đã theo đúng lời khuyên của ông nội tôi: tự túc và tri túc, luôn luôn nhớ rằng chữ tiền gồm một chữkim mà hai chữ qua[11] (một thứ binh khí), lợi bất cập hại. Tôi cũng theo đúng lời bác Hai của tôi nữa: đời sống vật chất nên dưới mực trung, mà đời sống tinh thần nên trên mực trung. Tôi còn nghĩ rằng đồng tiền do mồ hôi nước mắt làm ra thì mới bền; nếu nó vô rất dễ dàng thì cũng sẽ ra rất dễ dàng, chỉ đáng coi như của phù vân thôi. Các bạn tôi cho tôi là có tân học mà sống như một nhà Nho. Tôi chịu ảnh hưởng đậm của đạo Nho về phương diện đó, và mừng rằng đã được sinh vào một gia đình Nho học.
Sau cùng tôi đi thăm vài nhà xuất bản, hỏi cách thức làm ăn: tìm nhà in, nhà phát hành, bán sách… Tôi lại các nhà Nam Cường, Á Châu, Yiễm Yiễm thư trang, cho hay tôi dự định tự xuất bản lấy sách, và không mua tác phẩm của ai cả. Riêng ông Phạm Văn Tươi, tôi xin ông cho tôi lấy lại bản quyến tất cả những tác phẩm của tôi, khi nào mãn giao kèo. Lúc đó tôi có khoảng chục tác phẩm đã xuất bản hoặc đương in ở tiệm sách của ông. Tôi nói thẳng với ônglà tôi muốn sống bằng cây viết – chán nghề dạy học rồi – chứ không muốn làm nghề xuất bản; và muốn đủ sống bằng cây viết thì tôi sẽ bỏ vốn ra nhờ in các tác phẩm của tôi – chỉ của tôi thôi – rồi đem bán lấy. Ông có vẻ buồn, nhưng hiểu tôi, không phàn nàn gì cả, nhậnsẽ phát hành sách của tôi như sách của ông. Từ đó tới khi ông dẹp nhà xuất bản, trở về nghề thợ may Âu phục, ông đối với tôi rất sòng phẳng, nhã nhặn.
Một ông bạn bảo tôi:
- Một mình anh rút ra khỏi nhà xuất bản P. Văn Tươi mà làm cho nhà đó rung rinh.
Tôi đáp:
- Anh nói quá. Tôi đâu muốn làm nhà xuất bản; phải có kho chứa sách, phải giao thiệp, phải đòi tiền, tính tiền… toàn là những công việc mà nhà văn chúng mình không ai thích cả. Giá có một nhà xuất bản nào thấy cuốn nào của tôi bán chạy thì tự ý tăng tác quyền cho tôi, và mỗi năm rán in cho tôi một cuốn giá trị mà khó bán, miễn đừng lỗ chứ không cần lời, như vậy tôi có thể đủ sống, lại viết theo sở thích của mình được thì tôi còn cầu gì hơn nữa, tự xuất bản làm gì cho thêm bận. Ở bên Pháp đã có trường hợp như vậy: nhà xuất bản Michel Lévy[12] chịu bao tất cả những tác phẩm của Renan sẽ viết và tự ý tăng tác quyền cho Renan nữa, nên Renan ung dung viết lách. Tình hình xuất bản nước mình chưa sáng sủa, chưa có nhà nào theo chính sách đó được, nên tôi phải xuất bản lấy.
Tôi đã giữ đúng chủ trương của tôi: trong mấy năm đầu có năm sáu người đem tác phẩm lại bán cho tôi, tôi đều từ chối. Họ hầu hết mới cầm viết, chỉ có một người là học giả khá nổi tiếng. Còn các bạn văn thân như Hư Chu, Bàng Bá Lân, Đông Xuyên… thì tự bỏ vốn ra in, mượn tên nhà xuất bản của tôi, tôi sẽ bán giùm với sách của tôi, được bao nhiêu tôi sẽ trả họ hết. (Coi thêm bài Trên mười năm cầm bút và xuất bản trong cuốn Mười câu chuyện văn chương đã dẫn ở trên).
Trong công việc làm ăn tôi không tranh với ai, nên không ai tranh với tôi. Chẳng những vậy, tôi còn giúp một số nhà văn: gợi đề tài cho họ viết, hoặc đề Tựa cho họ, giới thiệu họ với một nhà xuất bản.
Năm 1960, tác phẩm của tôi đã khá nhiều (trên 50 cuốn), tôi xuất bản không hết, vì mỗi năm tôi chỉ in ba bốn cuốn (cả mới lẫn cũ) để có đủ tiền chợ thôi; tôi phải nhường lại cho các nhà xuất bản khác; và có hồi trên thị trường có bốn năm chục cuốn của tôi do một chục nhà xuất bản: nhà một hai cuốn, nhà non chục cuốn. Trong một chương sau tôi sẽ nói rõ hơn về điểm đó.
*
Khi lên Sài Gòn, tôi đã định năm đầu xuất bản vài cuốn bán chạy rồi sau mới cho ra cuốnĐại cương văn học sử Trung Quốc mà tôi thích.
Tôi đã có đủ tài liệu để viết cuốn Tự học để thành công, và khi ở sau hãng Sáo, tôi viết ngay cuốn đó, đem chút ít kinh nghiệm của tôi giúp những bạn trẻ ít học mà muốn mở mang kiến thức, và những bạn mới ra trường muốn bổ túc sự học ở trường.
Trong bài Tựa tôi viết:
“Hồi mới làm sở Thuỷ lợi, đi đo đất ở miền Tây Nam Việt, có nhiều thì giờ rảnh, không biết làm gì cho hết ngày, tôi đành phải đọc sách… Gặp sách gì tôi cũng đọc, đọc bậy bạ hỗn độn, vô phương pháp, vô mục đích đọc, đọc từ những phóng sự của Maurice Dokobra, truyện trinh thám của Conan Doyle đến những sách về Phật học, Thông thiên học, và Tiểu thuyết Thứ bảy của nhà Tân Dân...
“Hán tự hồi đó tôi mới biết lem nhem được vài nghìn chữ mà cũng mua của một huê kiều gần cầu tàu CThơ một bộ Văn tâm điêu long! Đem v ghe coi, chẳng hiểu chút gì, đành phải bỏ! (...)
Thành thử trong hai năm trời lênh đênh trên sông rạch, đọc hàng trăm cuốn mà thực sự có ích lợi chỉ có mỗi một bộ, tức bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim mà một ngày mưa dầm, vào trú chân trong một quán tạp hoá ở Bạc Liêu, tôi tình cờ kiếm được trong một tủ kính ở góc tiệm, bên cạnh những hộp nhang và đèn cầy.
Bây giờ nghĩ lại mà tiếc! Thì giờ nhiều mà không biết dùng, chịu đọc sách mà không biết cách đọc… Giá hồi ấy tôi biết phương hướng, tự vạch sẵn một đường để đi tới đích, thì đã chẳng tốn thì giờ mà còn ích lợi gấp mấy. Làm sao trẻ lại được hai chục năm nhỉ?”
Tôi muốn cuốn Tự học bổ túc cuốn Kim chỉ nam của học sinh; cả hai đều chỉ cách tổ chức việc học, một cuốn dùng khi đi học, một cuốn dùng khi ra đời. Vì vậy tôi bàn về những vấn đề rất thiết thực: Có những cách nào để tự học? – Nên đọc sách cách nào? – Nên học ngoại ngữ ra sao? (vì lúc đó sách Việt ít quá, phải đọc thêm nhiều sách ngoại quốc) – Nên viết sách và dịch sách vì như vậy cũng là một cách tự học - Nên dùng thẻ ra sao? …
Có tính cách thực tiễn như vậy, nên cuốn Tự học giúp được nhiều người, được tái bản nhiều lần; nhan đề đổi là là Tự học, một nhu cầu của thời đại, sau khi sửa chữa, thêm bớt nhiều đoạn.
Vì là cuốn đầu tiên tôi tự xuất bản, nên đầu sách tôi có mấy lời “phi lộ”:
“Bốn năm trước, trong bài Tựa cuốn Đắc nhân tâm, chúng tôi đã tự vạch một chương trình hoạt động: viết những sách để giúp các bạn thanh niên bổ túc nền giáo dục hấp thụở nhà trường, vì chúng tôi nghĩ học đường chỉ dạy ta cách học và khi ở trường ra ta mới bắt đầu học, học cho tới suốt đời, học để hành, hành để học.
“Lập nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi có mục đích tiếp tục thực hiện chương trình đó một cách có hiệu quả hơn. Những sách chúng tôi dự định xuất bản thuộc vềnhiều loại, nhưng hết thảy đều có tính cách chung này là không cách biệt với đời sống mà trái lại, rút bài học ở ngay trong đời sống để thanh niên hiểu thêm đời, hầu sống một cách đầy đủ hơn.
Vậy chúng tôi chú trọng đến thực hành hơn là lý thuyết. Chúng tôi lại luôn luôn để ý đến chính tả, giữ câu văn cho được sáng sủa và có tính cách Việt Nam”.
Cuốn đó dày 200 trang, tôi viết bốn tháng mới xong, vì một tháng đau, phải nghỉ viết. Và tôi đưa cho nhà in Việt Hương ở đường Lê Lợi (hồi đó là Bonard) sắp chữ liền.
Sau cuốn đó tôi viết ngay cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Như chương XVI tôi đã nói, cuốn này tôi đã viết xong từ năm 1944, chưa kịp đăng báo thì phải tản cư về Tân Thạnh và một đêm cướp vào nhà ôm cái va li của tôi đi trong đó có bản thảo Đồng Tháp. Tôi rất tiếc, định bụng sẽ viết lại.
Đầu năm 1954, tôi lại sở Thuỷ lợi Nam Việt, gặp các bạn cũ và họ cho tôi tra cứu về các tài liệu của sở về Đồng Tháp, dùng các bản đồ của sở.
Tôi lại Thư khố Nam Kì đường Gia Long, nhờ ông Lê Ngọc Trụ tìm cho những tài liệu sử,địa về Đồng Tháp, nhất là các số Courrier de Saigon năm 1865-66 về cuộc chống Pháp của Thiên Hộ Dương. Tất cả những tài liệu đó tôi đều ghi trong mục sách báo để tham khảo ở cuối sách[13].
Đọc những tài liệu của sở Thuỷ lợi, tôi nhớ lại rành mạch những lần tôi đo đất và kinh lí ởĐồng Tháp, cho nên viết lại lần này tôi thấy dễ dàng và thích như lần trước. Những đoạn có tính cách nên thơ, mà năm 1944 tôi đã say sưa viết, bây giờ dần dần hiện lại trong óc, tôi chỉ việc chép lại, chắc chắn là không đúng hẳn, nhưng cũng không sai mấy. Chẳng hạn đoạnTiếng nói sông Cửu Long mà sau vài sách Việt văn cho Trung học đã trích; đoạn tả các ghe đậu lại ở chỗ giáp nước Thủ Thừa; tả chỗ kinh Lạc Giăng (Largrange) và kinh Cát Bích (4 bis) gặp nhau ở Gẫy mà nhà văn Bình Nguyên Lộc bảo “không đi tới chỗ thì không sao tả được như vậy”; rồi cảnh tìm vàng chung quanh Tháp Mười, cảnh đầm sen ở giữa Đồng Thápmà thi sĩ Quách Tấn rất thích; cảnh uống rượu dưới trăng trên giồng[14] Lâm Vồ; đời sống một em giữ trâu trên giồng khiến tôi nhớ truyện Các vì sao (Les Étoiles) của A. Daudet; cảnh sông Cửu Long, cảnh Chợ Thủ; cảnh trăng và nước ở miền Cao Lãnh (Hàng Châu của Nam Việt) gợi cho tôi nhớ bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, thi sĩ đờiSơ Đường; và truyện Ghen vì hò mà một cô em đọc xong rồi buồn rười rượi, thương thiếu phụ trong truyện, trách tôi: “Anh thật tàn nhẫn, truyện thương tâm như vậy mà anh kết một cách thản nhiên, chỉ tả công dụng của cái phảng, không một lời than thở cho người vợ và trách người chồng”.
Tôi đáp: “Người viết chỉ cốt gợi lòng thương tâm của người đọc, chứ không kể nỗi thương tâm của chính mình. Tôi đã đạt được mục đích rồi đấy và đã không nói thay cô, để cô suy nghĩ, như vậy mới có dư âm trong lòng cô”.
Đồng tháp chỉ dày hơn một trăm trang, vừa là du ký, vừa là biên khảo, tôi viết hai tháng xong, gởi vào trong đó cả tấm lòng yêu cảnh, yêu người Nam của tôi. Viết lại xong, tôi khoan khoái như làm trọn một bổn phận với quê hương thứ hai của tôi. Tôi cũng thích bài Tựa mà tôi mở một các đột ngột.
“Người xưa nói: “Phải có duyên mới viết được một cuốn sách”. Tôi muốn nói thêm: “Cũng phải có duyên mới xuất bản được một cuốn sách”.
Tôi đã có duyên được bổ vào làm ở Nam, ngay trong Đồng Tháp; lại có duyên được một anh bạn cũ (anh Vũ Đình Hoè) gợi ý cho tôi viết, nhờ vậy mới viết được cuốn Đồng Tháp;nhưng rồi vô duyên nên đã không gởi ra Bắc đăng vào tờ Thanh Nghị được, lại vô duyên bị cướp lấy mất bản thảo, nên không xuất bản được.
Nhưng may rủi là cái duyên, cái số phận; có may rủi, có số phận mà cũng có ý chí con người. Tôi đã quyết chí viết lại cuốn đó và đúng mười năm sau tôi đã viết lại được. Một kígiả, tôi quên tên, khi nhã nhặn giới thiệu cuốn ấy với độc giả đã khen nghị lực đó của tôi.
Sở dĩ tôi có nghị lực vì như trong bài Tựa tôi đã nói, viết cuốn ấy tôi có ý tặng các bạn Bắc và Trung để các bạn ấy biết thêm một miền trên đất Việt; nhưng cũng là để tặng các đồng bào miền Nam của tôi nữa.
Non 20 năm sống trên đất Đồng Nai này, tới đâu tôi cũng được tiếp đón một cách chân thành và thân mật.
Một đêm ở trên kinh Phong Mỹ, trong Đồng Tháp, vào đụt mưa trước cửa một căn nhà lá. Lúc đó đã quá hai giờ khuya. Một bà già trong nhà đằng hắn hỏi: “Ai đó?”. Tôi đáp. Tức thì có tiếng lục đục, rồi tiếng quẹt; một tia sáng lọt qua tấm vách lá và một bà cụ mở cửa, mời tôi vào. Căn nhà nhỏ quá, chừng sáu thước vuông, kê mỗi một bộ ván gỗ tạp. Một cô độ mười bảy, mười tám, xếp vội mùng mền, chào tôi rồi đứng nép vào một bên. Tôi ân hận làm mất giấc ngủ của chủ nhân, xin lỗi cụ rồi trở ra đứng trước cửa, nhưng bà cụ không chịu, nhất định bắt tôi vào ngồi nghỉ trong nhà vì ngoài đó “Gió lạnh lắm”.
Hai bà cháu thức trên một giờ, tiếp chuyện tôi cho tới khi mưa ngớt. Đưa tôi ra cửa bà cụ nói:
Tội nghiệp thầy Hai, đường trơn, coi chừng té đó.
(…) Tôi nhớ hoài một bà cụ khác[15] rất nghiêm khắc mà rất nhân từ, đã giúp tôi trong lúc tản cư được yên ổn học hỏi và viết sách. Cụ rất ít nói nhưng có những cử chỉ cảm động vô cùng. Một hôm gần Tết, cụ bảo tôi: “Tôi biết thầy có học Nho, không quên tổ tiên, nên bảo trẻ mua đồ cúng, thầy dọn bàn này đi mà cúng ông bà”. Tôi muốn rưng rưng nước mắt. Hương hồn cụ lúc nầy chắc tiêu diêu ở cõi Phật.
Một thi nhân vịnh Nam Việt có câu:
-----Tối khả hoài nhân duy lão mỗ.
Lời ấy thật đúng. Không ai quên được tấm lòng rộng rãi, thương người của các bà già miền Nam”.
Viết xong tôi cũng cho nhà Ban Mai ở gần chợ Tân Định in liền. Bán khá chạy. Năm 1971 tôi sửa chữa lại[16], nhường bản quyền cho nhà Trí Đăng xuất bản.
Một thanh niên ở Nha Trang đọc cuốn đó rồi nảy ra ý dùng xe đạp đi thăm cao nguyên miền Trung và viết bài đăng trên báo Tự do ngày 15-9-61. Tôi trích dưới đây một đoạn:
“Du ký viết về xứ người thì nước mình không hiếm. Nhưng viết về chính lòng đất thân yêu thì vỏn vẹn chỉ có một cuốn: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê. Mà theo tôi thấy, không có cuốn địa lí nào có thể hấp dẫn thanh niên và gây tác dụng mạnh bằng những thiên du kí (…) Vì nó dễ kích thích tinh thần yêu nước của thanh niên hơn những bài địa lí khô khan ở nhà trường (…)”.
Đa số các bạn văn của tôi cho cuốn đó tuy mỏng nhưng mà là một tác phẩm có giá trị, văn tươi mà hấp dẫn, có chỗ nên thơ, gợi tình yêu quê hương đất nước trong lòng người đọc. Ông Đào Duy Anh ở Hà Nội rất thích cuốn đó, bạn văn nào tới chơi ông cũng đem ra giới thiệu và cho mượn đọc.
Có thể nói nó mở đầu cho loại địa phương chí xuất hiện khá nhiều trong khoảng 1960-1970.
*
Năm 1954 tôi còn viết một cuốn mỏng: Săn sóc sự học con em, độ hơn trăm trang, một tháng rưỡi xong, để bổ túc cuốn Thế hệ ngày mai tôi đã để cho nhà P. Văn Tươi.
Một nhà chuyên bán sách Pháp ở đường Gia Long xin tôi cho ông xuất bản cuốn đó, chịu trả tác quyền rất cao: 20% giá bán. Cuốn này có ích cho những phụ huynh có con ở tiểu học,cũng thực tiễn và sau cũng được tái bản vài lần. Nó đặc biệt ở điểm, nhà sách đó – nhà Văn Chánh thơ xã – cho in ở Paris ba hay năm ngàn bản tôi không nhớ, chữ đẹp, giấy tốt, in có nghệ thuật và giữ đúng lối viết quốc ngữ của tôi hồi đó: những chữ ph in là hết, bỏ dấu sắc trong những vần at, ac, oc, ec… như phát, phúc in là fatfuc.
Nha Thông tin định cấm không cho phát hành, sau nhà Văn Chánh thu xếp cũng êm. Những người chơi sách chắc quí bản in đó vì ngày nay kiếm không ra. Tủ sách của tôi chỉ còn vài bản.
Tôi không hiểu nhà Văn Chánh in tốn kém như vậy, trả tác quyền cao như vậy làm sao có lời được. Lạ nhất là sách không bày bán ở nhiều nơi, không làm quảng cáo gì cả. Có người cho tôi hay ông ta mua sách ở bên Pháp không cốt bán – sách ở tiệm ông ít người mua, nhiều cuốn rất cũ – mà cốt để chuyển ngân, không rõ điều đó đúng không. Ít năm sau nhà đó đóng cửa và tôi không gặp ông ta nữa.
Năm đó tôi còn thêm hai sự may mắn nữa.
Một hôm vào nhà sách Khai Trí, tôi thấy cuốn Méthode de recherche rationnelle des problèmes de Géométrie plane của J. Chauvel, một giáo sư Pháp. Coi kĩ cuốn ấy, tôi thấy phương pháp dạy toán của tác giả rất hợp với phương pháp tôi dùng khi dạy tư ở Long Xuyên: dùng cách phân tích khi chứng minh một định lý và cuối năm dùng cách tổng hợp để ôn lại chương trình. Ông Chauvel đã làm trước công việc tôi định làm, lại làm một cách đầy đủ, rất kĩ, bài tập sắp làm hai loại: dễ và khó; bài nào khó thì có vài lời hướng dẫn, một học sinh trung bình nếu chịu khó thì học cuốn đó sáu tháng có thể thành giỏi toán hình học phẳng. Tôi vui vẻ như gặp một tri kỷ, vội vàng xin phép tác giả dịch để giúp học sinh.
Và tôi cũng dịch liền, nhan đề là Muốn giỏi toán hình học phẳng, nhưng mãi tới năm 1956 mới in xong vì công việc in rất khó, nhà in chưa đủ dấu dùng cho môn toán. Sách bán rất chạy: in 5.000 bản, rồi sau có lúc tới 10.000 bản, trước sau 6 lần trong 15 năm. Học sinh rất thích. Tôi cho hai đứa cháu trong nhà, cuối năm đệ Ngũ và đệ Tứ (thi Trung học đệ nhất cấp) đọc kĩ bài giảng rồi làm hết 450 bài toán trong sách, chúng làm được dễ dàng và từ đó vượt hẳn các bạn về môn hình học.
Mấy năm sau tôi dịch tiếp bộ của Chauvel về môn Hình học không gian và Đại số[17] bán cũng khá chạy, hiện nay vẫn còn có người tìm mua.
Điều may mắn thứ nhì là có cơ hội tốt để tôi thực hiện một điểm trong chương trình mở mang kiến thức của thanh niên. Từ mấy năm trước tôi đã mua được vài bộ Histoire universelle của Wells, Histoire de l’humanité của H. Van Loon… đọc rất hấp dẫn, tôi tính sẽ dịch hoặc tóm tắt. Đầu niên khóa 1954-1955, trong chương trình Trung học đệ nhất cấp có thêm môn Lịch sử thế giới dạy trong 4 năm. Ông Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp đệLục, đệ Ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi phải chép “cua” (cours). Ông đồng ý. Và chúng tôi phân công: tôi viết cuốn đầu và cuốn cuối cho lớp đệ Thất và đệ Tứ; ông viết hai cuốn giữa cho lớp đệ Lục và đệNgũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong; tôi bỏ vốn ra xuất bản; năm 1955 in xong trước kỳ tựu trường tháng chín.
Bộ đó khá chạy, sau tôi nhường cho nhà Khai Trí tái bản.
Một chuyện đáng ghi là vì bộ đó mà năm 1956 bị một độc giả ở Cần Thơ mạt sát là đầu óc đầy “rác rưởi” chỉ vì chúng tôi nhắc qua đến thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người. Chẳng cần nói ai cũng biết độc giả đó là một tín đồ Công giáo.
Sau một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo dục cấm bán và tịch thu hết bộ sử đó vì trong cuốn II, viết về thời Trung cổ, chúng tôi có nói đến sự bê bối của một vài Giáo hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cấp cử nhân tiếp xúc với tôi. Ông này nhã nhặn, khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như đọc bộ sử Pháp của Michelet; rồi nhận rằng sách tôi được bộ Thông tin cho phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, cấm bán được, chỉ có thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi; cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời nhân vật công giáo nào đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi không muốn gây chuyện, chiều lòng ông ta. Ông ta lại hỏi lớp mẫu giáo của tôi đã được phép của bộ chưa. Tôi đáp: Đơn nộp cả năm rồi, giấy tờ đủ cả, tôi đã nhắc Sở Tiểu học đô thành[18] mà người ta cứ làm thinh, không cho phép mà cũng không cấm. Ông ta chỉ gật đầu.
Hồi đó bộ Lịch sử thế giới của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các trường học ngoài Trung dùng nó; ở trong Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ bán hết, tôi không tái bản. Mãi đến sau khi họ Ngô bị lật đổ, nhà Khai Trí mới xin phép tôi để in lại.
Công giáo thời đó lên chân như vậy. Nghe nói một ông tỉnh trưởng ở miền Tây không dám cho Giáo hội Phật giáo cất chùa trong thị xã, và còn bảo: “Công giáo cất nhà thờ, bây giờ Phật giáo cũng xin cất chùa, bộ các người (sic) muốn kình với Công giáo hả?”.
Một hôm bà láng giềng của tôi cho hay: “Ít lâu nay tôi thấy ngày nào cũng có một hai ngườilại ngồi ở quán cà phê bên kia đường, nhìn về phía nhà thầy và nhà tôi, như rình cái gì. Hôm qua một người vào nhà tôi hỏi: “Ông Lê ở nhà bên lúc này đi đâu mà không thấy?” Tôi đáp: “Ông ấy đau, nằm ở phòng trong, chứ đi đâu? Thầy cứ vào trong ấy mà hỏi”. Rồi họ đi.
Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không biết. Vì tôi là công chức thời Pháp mà tản cư lâu quá, về lại không hợp tác với chính phủ Diệm, hay vì bộ Lịch sử thế giới mà họ theo dõi như vậy? Có lẽ vì cả hai.
Hơn một chục năm sau, một giáo sư ở Huế vô thăm tôi, hỏi: “Tại sao hồi đó ông không làm đơn trình bày rằng ông đã dùng sách nào để viết về các Giáo hoàng thời trung cổ đó, rồi xin cho bộ sử của ông được dùng trong các trường?”. Tôi đáp: “Tôi xin làm gì? Không khi nào làm công việc xỏ đó”.
Sau ngày Giải phóng năm 1975, giáo sư đó lại thăm tôi nữa, bảo: “Tôi phục tư cách ông từ hồi đó”.
ĐAU, TRỊ BỆNH
Vậy từ khi lên Sài Gòn, tôi bận nhiều việc mà viết lại nhiều hơn ở Long Xuyên mặc dầu chỗ viết chật hẹp, ồn ào, tối tăm. Chỉ trong hơn một năm tôi có thêm được tám cuốn (bộ Lịch sử thế giới gồm 4 cuốn), cộng với những bản thảo ở Long Xuyên đem lên, như vậy đủ tác phẩmđể xuất bản trong ba bốn năm rồi. Sau ba bốn năm đó tôi lấy lại tác quyền cả chục cuốn P. Văn Tươi xuất bản, hầu hết tái bản được, không sợ thiếu tác phẩm để in. Thế của tôi đã vữngrồi.
Tôi có tính gặp cơ hội là nắm liền, thấy việc đáng làm, phải làm thì làm ngay và làm cho xong, nhờ vậy mà tôi thành công, nhưng cũng vì vậy mà sức tôi suy nhiều. Trong cuốnQuẳng gánh lo đi, Dale Carnegie bảo các nhà kinh doanh hầu hết bị chứng loét bao tử, hoặc đau tim. Tôi không phải là nhà kinh doanh, nhưng vốn đã bị đau bao tử từ khi tản cư ở Tân Thạnh, trong non một tháng, ngày nào cũng núp hầm hay ở bụi tre tránh liên thinh Pháp; rồi lại viết lách suốt ngày trong mấy năm liền, ngày nào như ngày nấy, cho nên cuối năm 1953[19] tôi bị sưng bao tử và loét ở cuống bao tử (duodénum), thêm bệnh lao phổi, khạc ra máu nữa. Tôi phải trị hai bệnh nan y đó một lúc, mà bệnh lao quan trọng nhất.
Ông Thiên Giang trước cũng bị lao, được bác sĩ Nguyễn Văn Tạo ở đường Pasteur trị cho hết, giới thiệu tôi lại đó. Thời đó bác sĩ Tạo có tiếng nhất ở Sài Gòn về lao phổi, thân chủ rất đông. Ông cho tôi trích Streptomycine, uống Rimifon và một thứ thuốc bổ gì đó, bảo tôi phải hoàn toàn tĩnh dưỡng một tháng, không viết lách gì cả. Nhà tôi hồi đó chắc buồn lắm, nhưng tôi, khi biết rằng trong máu, đàm không có vi trùng lao thì không lo gì cả, tin rằng bệnh sẽ trị được.
Hết một tháng rọi phổi lại, không thấy bớt gì cả, vết ở phổi bên mặt vẫn y nguyên bằng một đồng “20 centimes”, bác sĩ Tạo cho tôi uống P.A.S., sau lại chích P.A.S. nữa, nghĩa là dùng những thuốc công hiệu nhất, mới nhất của Tây y thời đó, mà bệnh cũng chỉ giảm rất chậm. Trị sáu tháng ông mới thôi.
Từ đó đến nay, trên hai chục năm, tôi khạc ra máu hai lần nữa, nhẹ hơn, nhưng tôi chỉ uống thuốc Bắc hoặc thuốc Nam (đọt cây chùm ruột) để cầm máu, và uống thuốc bổ, nghỉ ngơi mươi bữa, chứ không đi bác sĩ nữa, mà bệnh cũng hết.
Tôi biết rằng cơ thể tôi quen với vi trùng lao rồi, có sức đề kháng mạnh, và bác sĩ Tạo chắc cũng biết vậy sau sáu tháng trị cho tôi.
Còn bệnh sưng vả loét bao tử thì khó trị hơn nhiều. Khoảng 1954 chưa có nhiều thuốc công hiệu như ngày nay, mấy bác sĩ Pháp cho tôi uống những thuốc như Caved S, Sédo-gastrine Zizine, chích Laristine. Bớt, nhưng không hết hẳn, lưỡi tôi vẫn luôn luôn đóng trắng, lâu lâu lại bị một cơn đau ở dưới mỏ ác, đến toát mồ hôi; đương viết mà lên cơn thì tay run run, phải nghỉ, nằm dài, xoa bao tử. Tôi uống thử ba bốn thứ thuốc nữa, bỏ cơm tẻ, ăn toàn cơm nếp, kiêng cử đồ cay, đồ chua, rau sống, luôn năm sáu năm như vậy. Sau một người bạn giới thiệu thuốc Trecreamalate khá công hiệu; một người nữa cho 100 viên Gélusil tốt hơn Trecreamalate, hai thứ đó chỉ làm dịu cơn đau chứ không trị hết hẳn vết loét. Tôi rán làm việc điều độ, không lo lắng, và chỉ uống Gélusil thôi, nhờ vậy cơn đau thưa hơn, nhẹ hơn. Mới năm ngoái, tôi được biết một thứ thuốc mới, Tagamet, có thể trị tuyệt căn bệnh loét bao tử. Tôi đương uống, đợi hết ba tháng rồi xem thuốc công hiệu như người ta nói không[20].
HIỆP ƯỚC GENÈVE
Vào khoảng tháng 8-1954, sức khỏe của tôi tương đối khá, cuốn Tự học đã in xong, hiệp ước Genève đã kí ngày 20-7. Đại biểu sáu nước: Anh, Pháp, Nga, Trung Hoa, Mĩ, Việt Minh (Phạm Văn Đồng) họp bàn với nhau. Bảo Đại phái Trần Văn Đỗ theo dõi, còn chính Ông ta thì ở tại biệt điện gần Cannes. Không ai để ý tới chính phủ Bảo Đại cả.
Rốt cuộc Việt Nam bị cắt hai: từ Bến Hải (vĩ tuyến 17) trở ra thuộc chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, kinh đô là Hà Nội; từ đó trở vào thuộc chính phủ Quốc gia Việt Nam, kinh đô là Sài Gòn. Sau hạn hai năm thì phải có cuộc trưng cầu dân ý để đi tới sự thống nhất ViệtNam. Việt Minh phải rút hết quân đội ở Lào trong thời hạn bốn tháng, ở Cao Miên trong hạn ba tháng. Quân đội Pháp phải rút khỏi Bắc Kì trong mười tháng.
Mĩ không chịu kí vào hiệp ước. Trần Văn Đỗ lúc đó làm ngoại trưởng của Ngô Đình Diệm (vì Diệm đã thay Bửu Lộc làm thủ tướng từ 7-7) cũng không kí, đánh điện cho Diệm:“Không sao thắng được sự cừu địch của kẻ thù và sự âm hiểm của các bạn giả dối của chúng ta. Người ta dùng những thủ tục bất thường để làm tê liệt hoạt động của phái đoàn mình... Tất cả các thỏa hiệp họ đều kí kín với nhau. Chúng tôi rất buồn vì sự thất bại hoàn toàn của phái đoàn”. Nghe nói ông Đỗ uất ức quá, khóc ở hội nghị.
Khi làm tay sai cho người ta thì tất phải nhục nhã như vậy.
Vậy là chiến tranh chấm dứt sau non tám năm.
Đạo quân viễn chinh của Pháp thiệt mất 92.000 người chết hoặc mất tích, trong số đó có 19.000 Pháp, 43.000 Việt, 30.000 lê dương Phi Châu và Bắc Phi.
Bị thương và đưa về nước: 114.000; tù binh: 28.000.
Về tiền, Pháp tốn kém 3.000 tỉ đồng quan cũ (tức 30 tỉ quan ngày nay), trong số đó có khoảng 600 tỉ do Mĩ viện trợ (theo Louis Saurel trong sách đã dẫn).
Về phía kháng chiến, có sách đoán là số thiệt hại về nhân mạng phải gấp ba.
NHÀ XUẤT BẢN CỦA TÔI BẮT ĐẦU HOẠT ĐỘNG
Ở Nam, Hiệp ước Genève không gây xúc động gì lớn, nhưng ở các thành phố lớn ngoài Bắc thì một số dân chúng hoảng hốt.
Hư Chu và tôi đem Tự học đi chào các nhà phát hành ở Sài Gòn. Theo thường lệ, loại Học làm người như cuốn đó, mỗi nhà mua tiền mặt ngay cho được 100 cuốn, hoa hồng là 40% giá bán ghi trên bìa sách. Phí tổn in mỗi cuốn hết 20%, như vậy mỗi cuốn tôi lđược 40%. Nếu in bao nhiêu bán hết bấy nhiêu, thì chúng tôi được một số lời bằng bốn tiền tác quyền (thường là 10%). Khéo tính thì không khi nào lỗ tiền in, và trung bình mỗi cuốn lời 30% giábán.
Người nào chuyên nghề viết văn ở nước mình hồi đó mà có một số vốn, và tự xuất bản lấy thì có thể sống ung dung được, miễn là mỗi năm phải viết được đều đều hai tác phẩm bán được.
Tự xuất bản lấy lợi như vậy. Về sau có bảy tám nhà văn làm như tôi nhưng hầu hết đều không chuyên nghiệp, mà chỉ viết tài tử được vài ba cuốn, vì mắc làm công chức, giáo sư... nên không thành công.
Năm 1953 sách của tôi bán khá chạy ở Bắc, một người có một sạp nhỏ ở bờ hồ Hoàn Kiếm cho tôi hay nhờ chuyên bán đủ mặt sách của tôi mà lần lần khá lên. Vì vậy sau khi đi chào các nhà phát hành ở Sài Gòn, tôi viết thư và gởi một cuốn Tự học cho một nhà phát hành ở Hà Nội. Ông ta trả lời rằng ngoài đó ai cũng lo bán đổ bán tháo hàng hoá, sản nghiệp đểchạy vào Nam, không ai làm ăn gì cả, nhưng ông ta cũng mua giùm cho tôi 100 cuốn và bảo gi ra ngay.
Vậy nhà xuất bản của tôi ra đời không gặp thời: thị trường sách đã thu hẹp mất non một nửa, ít nhất là một phần ba.
Ít tháng sau tôi phát hành luôn cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Tôi biết cuốn này bán không chạy bằng cuốn trên, nhưng không ế, cho nên chỉ in 2.500 cuốn, giá 29 đồng. Mới phát hành được độ một tuần thì nhà Nam Cường đã bán hết 100 cuốn, bảo tôi giao thêm vì “sách bán chạy như tôm tươi”. Tôi ngạc nhiên, không hiểu tại sao nó được độc giả hoan nghênh như vậy. Sau hỏi ra mới biết chỉ nhờ cái nhan sách. Lúc đó các anh em kháng chiến ở Nam đương tập kết tại hai điểm: Cà Mau và Cao Lãnh thuộc Đồng Tháp Mười để chờ tàu Ba Lan và Pháp chở ra Bắc. Đọc nhan đề sách, độc giả tưởng lầm rằng tôi đã vào Đồng Tháp làm một cuộc phỏng vấn về cuộc tập kết đó. Về nhà họ đọc rồi họ mới thất vọng. Thành thử chỉ trong một tháng đầu bán được ngàn cuốn, đủ vốn in; còn 1.500 cuốn bán lai rai năm sau mới hết.
Ai cũng biết nhan đề sách ảnh hưởng tới sự bán sách. Có người bảo tôi nếu cuốn How to win friends and influence people của Dale Carnegie mà tôi không khéo dịch ra là Đắc nhân tâmbí quyết để thành côngcứ dịch sát làLàm sao kiếm được nhiều bạn và ảnh hưởng tới người khác, thì không chắc bản dịch của tôi bán chạy đâu. Tôi cũng nhận như vậy: nhan đề cần gọn và đập mạnh vào óc độc giả, nhưng nó phải hợp với nội dung, nếu không thì là gạt độc giả, mà độc giả chỉ bị gạt một lần thôi. Quan trọng nhất vẫn là nội dung, nội dung mà dở thì không thể được độc giả hoan nghênh. “Chiếc áo không làm nổi thy tu” thì bìa sách cũng không làm nổi một tác phẩm có giá trị.
PHONG TRÀO DI CƯ
Nửa năm hay một năm sau, khi 140.000 Việt Minh (theo W. G. Burchett) đã tập kết ra Bắc rồi và 860.000 đồng bào Bắc di cư vào Nam đã được định cư rồi thì đời sống ở Nam trở lại bình thường, có phần đắt đỏ hơn, nhưng ổn định: giao thông đã dễ dàng mà buôn bán đã bắt đầu thịnh.
Mấy tháng đầu có tinh thần kì thị giữa người Nam và người Bắc di cư.
Xét chung thì người Nam rất có cảm tình với kháng chiến, rất phục “cụ Hồ”, nhưng có ý chê đồng bào Bắc là “nước nhà độc lập tự do rồi mà sao lại bỏ đi, vô đây làm gì?”.
Đồng bào Bắc đã não ruột vì cảnh xa quê, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ mồ mả tổ tiên, vô đây phải ăn đùm ở đậu, mới đầu còn căng lều sống ngoài trời hoặc chen chúc nhau trong một trường học, mà lại bị chê trách như vậy, bị ngờ vực, khinh bỉ nữa, làm sao không khỏi bực tức. Vì vậy mà họ không tin người Nam, muốn giành những địa vị điều khiển trong mọi công sở vào tay họ. Tôi biết một giáo sư trung học di cư, tới trường đeo kè kè cây súng sáu, hung hăng như muốn bắn bạn đồng sự Nam.
Nhưng lần lần người ta hiểu nhau hơn, sống chung với nhau một cách rất vui vẻ. Thi sĩ Băng Bá Lân chẳng hạn, mới vào Sài Gòn chưa đây một năm mà mê ngay cảnh Nam, người Nam, mê từ giọng nói đớt đến lời nói tự nhiên mà tình tứ của các “cô em” Sài Gòn. Ông tả mối tình của ông trong nhiều bài thơ, bài dưới đây là một:
TÔI YÊU
Tôi yêu tiếng Việt miền Nam,
Yêu con sông rộng, yêu hàng dừa cao.
Yêu xe thổ mộ xôn xao
Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê.
Tôi yêu hàng cỏ[21] nắng se,
Nhà rơm trống trải, chiếc ghe dập dềnh.
Tôi yêu nắng lóa chân thành[22],
Trận mưa ngắn ngủi, gió lành hiu hiu.
--------------------------------Sài Gòn, 1954
Còn những trái dừa Bến Tre nước mát mà ngọt lịm, những trái xoài Cần Thơ, Cao Lãnh má ửng đỏ, mịn như má em bé, thịt ngọt đậm mà thơm thì không người Bắc nào không mê. Tôi đã thấy một bà Bắc mua xoài ở chợ Tân Định rồi ngồi ngay trước chợ, gọt ăn liền, bảo: “Cũng đáng. Bỏ nhà cửa quê hương vào đây mà được ăn những quả xoài này cũng đáng!”. Còn măng cụt, sầu riêng, mảng cầu Xiêm, xa-pô-ti... nữa. Rồi cá tôm đầy sông, đầy rạch miền Tây nữa chứ. Lại thêm trăng thanh gió mát. Ở đây không có nắng thiêu người, cũng không có rét nứt da như ngoài Bắc. Tôi mới hỏi một người cháu tôi, cán bộ ở Bắc vô đây được hai năm: “Cháu thấy đời sống ở đây ra sao?”. Đáp: “Dễ chịu hơn ngoài Bắc nhiều lắm”. Tôi bảo: “Nếu cháu được vô ngay sau ngày Giải phóng hoặc từ 1935 như tôi, thì cháu sẽ còn thích miền Nam này hơn nữa”.
Chỉ hai chục năm sau cuộc di cư năm 1955, cánh đồng Cửu Long này đã Nam hóa non một triệu người Bắc thời đó rồi.


[1] Nhà này, sau khi cụ NHL tản cư về Long Xuyên, thì bị tên lính thuỷ chiếm, rồi tên lính thuỷ này “sang” lại cho cô chủ trường Aurore. (Goldfish).
[2] Chắc tác giả muốn nói đến nhà văn Hư Chu. (Goldfish).
[3] Trong danh mục các bài báo ghi trong phần Phụ lục cuốn ĐVVCT, cụ NHL viết: “Việt Thanh (nhật báo), tôi góp ít bài về văn học trên phu trương văn chương năm 1953 (?)”. (Goldfish).
[4] Trong ĐVVCT in là: “1947-62” (chắc in sai). (Goldfish).
[5] Quách Tấn bảo ông tính vốn bình dân, vì đọc nhiều sách cổ, thích nếp sống cổ nhân nên hoá ra trịnh trọng, cầu kì. Lời đó có phần đúng.
[6] Theo BS Đỗ Hồng Ngọc trong bài Làm rõ vài chi tiết về Nguiễn Ngu Í(http://www.dohongngoc.com/web/mot-chut-toi/vai-doan-hoi-ky/lam-ro-vai-chi-tiet-ve-nguien-ngu-i/ ) thì Lưu Hữu Phước là bạn học cùng lớp, cùng trường Pétus Ký với Nguiễn Ngu Í. BS Ngọc còn cho biết vợ của Nguyễn Ngu Í là Nguyễn Thị Thoại Dung. (Goldfish).
[7] Bài viết về tôi trong tập đó là bài thứ nhì ông phỏng vấn tôi, đăng trên Bách Khoa số 215-216, ngày 15.12.1965 và ngày 1.1.1966.
[8] Theo Wikipedia thì Nguyễn Ngu Í mất ngày 18-2-1979. (Goldfish).
[9] Ông muốn cải cách chữ Quốc ngữ, viết chữ “Quê” như vậy.
[10] Tên trường tư thục, trong ĐVVCT in là: Cửu Long. (Goldfish).
[11] Tiền: , kim: , qua:  (Goldfish).
[12] Trong ĐVVCT, tr.116, in sai thành: Michel Léguy. (Goldfish).
[13] Bản của nhà Văn hoá Thông tin, năm 2002 không có mục Sách báo để tham khảo. (Goldfish)
[14] Gò hoặc một khu đất rộng nổi lên cao, thường nhiều cát.
[15] Tức thân mẫu của cụ bà Nguyễn Thị Liệp. (Goldfish).
[16] Có lẽ cụ NHL cũng đã viết thêm đoạn đầu bài Tựa cho nên, trong bản in của Nxb Văn hoá Thông tin - 2002, bài Tựa không còn “mở một cách đột ngột” bằng câu: “Người xưa nói: Phải có duyên…”. (Goldfish).
[17] Cuốn Muốn giỏi toán đại số do cụ NHL soạn, chứ không phải dịch của J. Chauvel. (Goldfish).
[18] Trong ĐVVCT, tr.126, in là: Nha Tư thục và Bình dân giáo dục. (Goldfish).
[19] Sách in là: “năm1958”, không hợp lí, nên tôi sửa lại thành “năm 1953” theo ĐVVCT, tr.127. (Goldfish).
[20] Thuốc khá công hiệu: 1 năm nay tôi không bị cơn đau nào (cước chú 9-1980).
[21] Bản đăng trên Thi Viện chép là: “đồng cỏ”. (Goldfish).
[22] Bản đăng trên Thi Viện chép là: “châu thành”. (Goldfish).

Chương XXI, XXII
Việt Nam chia hai (1954-1965)
Chủ ý tôi là viết về gia đình và đời viết văn của tôi, nhưng không thề bỏ qua thời đại được, cho nên phải xen vài chương ngắn về chiến tranh độc lập và tình hình xã hội. Trong chương này và chương sau tôi sẽ ghi vài nét chính về chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình, tức chiến tranh Việt-Mỹ. Về chiến tranh Việt-Pháp tôi có được tạm đủ tài liệu (đã kê ở cuối chương XIX), về chiến tranh Việt-Mỹ, trái lại tôi chỉ có ba cuốn:
Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)
Indochine - dix ans d’indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)
La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)
Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.
A. Miền Nam
Gia đình Ngô Đình Diệm
Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt Nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mỹ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).
Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mỹ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông Dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mỹ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi ký hiệp định Genève, Mỹ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng.
Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan Thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như Tổng trưởng Nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương Cảng, Mỹ, Pháp, rồi lại qua Mỹ ở khá lâu, được một số chính khách Mỹ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mỹ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, Giám mục ở Vĩnh Long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.
Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là “một người mới”, sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự”. Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức Thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của Quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.
Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lý thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quyền vào hàng Bộ trưởng, ông ta đáp:
- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.
Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.
Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày ký hiệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, trái lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.
Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại
Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn”, hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình Xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ Lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ Lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.
Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm Quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa thuận ngầm giữa Mỹ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?
Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm Tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như Giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mỹ tung Mỹ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.
Thế là trật tự lập lại, Nam Việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.
Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mỹ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mỹ gạt ra ngoài nữa.
Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.
* * * * *
Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng với 98% số phiếu, (Mỹ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.
Vậy là Mỹ đã thắng Pháp, người của Mỹ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mỹ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.
Chính sách nhà Ngô
Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là
• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng Ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không ký vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mỹ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt Nam”. Sự thực thì Mỹ không ký vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.
• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không theo kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.
Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà Mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải ly dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các ký giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn Độ, Gia Nã Đại, Ba Lan) và ủy ban không làm được gì cả.
Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mỹ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn Tỉnh trưởng.
Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.
Ngô Đình Nhu lập đảng Dân Chủ và đảng Cần Lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương Đại sứ ở Mỹ) lập hội Phụ nữ Liên đới, “bà lớn” nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kỳ ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, Bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phải nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. [1]
Những người theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. [2]
Diệm-Nhu theo chính sách “ba Đ”: Đảng (Cần Lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công giáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.
Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ty lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.
Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.
Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.
Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.
Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ được thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.
Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62
Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.
- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà Mau, Đồng Tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.
- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu Bộ trưởng của Diệm) ký một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.
Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mỹ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.
Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mỹ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.
Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc
Năm 1962, Mỹ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mỹ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mỹ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.
Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mỹ Tho). Ngày 2-1 Mỹ-Diệm thấy hai Trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm ba Đại đội, sáu Trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.
Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.
Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63
Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.
Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kỳ thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo quy như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.
Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.
Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.
Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào Tòa đại sứ Mỹ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.
Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm Bộ trưởng Công Dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long Xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.
Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái Đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn Thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.
Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mỹ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.
Tướng Dương văn Minh lên làm Quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, Phó tổng thống thời Diệm, làm Thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng Hai Bà Trưng ở đầu đường Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.
Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà Nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La Mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.
Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964
Bài thứ nhất:
Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.
Bài thứ nhì:
Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Nghé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.
Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đường luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mỹ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mỹ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.
B- Miền Bắc
Pháp mất hết quyền lợi
Chiều ngày 10-10-54 ở Hà Nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long Biên để xuống Hải phòng.
Ngay từ khi ký hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, Ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Việt Nam đã gởi cho Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.
Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà Nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc Việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...
Sainteny được Hồ chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:
• Chính phủ Mỹ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mỹ.
• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ty lớn nhất của Pháp là công ty than Bắc Việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc Việt.
• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc Việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mỹ viện trợ trong những năm 1954-56.
Ngày 13-5-55, hết kỳ hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải Phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.
Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung Hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung Hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kỹ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung Hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kỹ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. [3]
Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ
Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ty Pháp, các nhà buôn Trung Hoa, Việt Nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trữ đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phải lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.
Vì chính sách “hồng hơn chuyên”, sự quản lý xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.
Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.
Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lý dở quá, cũng lỗ, hụt.
Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng Gai và xi măng Hải Phòng mà hãng xi măng Hải Phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lý dở quá, còn than Hồng Gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).
Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những người Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm Bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ”. Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.
Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu
Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lý nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kỹ thuật của Mao Trạch Đông.
• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.
• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...
• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.
Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc Việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung Hoa, Nga, Mỹ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.
Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.
Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.
Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. [4]
Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...
Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh Lưu, Nghệ An (quê hương Hồ chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kỳ thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trongLes deux Việt Nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.
Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả những người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.
Vụ Nhân văn - Giai phẩm
Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.
Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu “Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng”[5], cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn “xét lại” đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...
Nhà cầm quyền Bắc Việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh Lưu. nên bảy tháng sau mới cho “trăm hoa đua nở”. Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).
Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lý luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...
Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoaĐất mớiGiai phẩmđều tự đình bản.
Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi “học tập lao động”, trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sĩ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.
Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật”, chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật”.
Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi ký kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.
Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông Âu là vụ Poznan ở Ba Lan, vụ Budapest ở Hung Gia Lợi; ở Đông Á là Trung Hoa, Việt Nam.
Kinh tế phát triển rất chậm
Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa được hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ được giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nước một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôi heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!
Về kỹ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc Việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái Nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lý kém quá, nên không sản xuất được nhiều.
Dân chỉ được bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mỹ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.
Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam
Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc Việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.
Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:
• tôn trọng hiệp ước Genève. Mỹ rút các cố vấn về, không gửi vũ khí qua miền Nam nữa,
• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,
• thi hành tự do dân chủ,
• thả tất cả tù nhân chính trị,
• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kỳ nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,
• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông Dương, gồm Nam Việt, Cao Miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.
Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.
Bắc Việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mỹ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung Hoa thúc Bắc Việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mỹ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.
Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá... những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một “cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài” mà lại có lợi hơn.
Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mỹ thay Pháp ở Đông Dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mỹ ồ ạt đổ quân lên Nam Việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.
----------------------------------------------------
[1] Một linh mục đăng báo bảo Trung Hoa sở dĩ thành Cộng sản vì theo đạo Nho vì Nho trọng dân mà khinh vua, xúi dân nghèo lật đổ chính quyền.
[2] Theo G. Chaffard trong Indochine, dix ans d’indépendance, thì Bộ Thông tin của Trần Chánh Thành in một tài liệu cho biết kết quả từ 1954 đến 1960 như sau:
- Có 893.291 buổi dạy thuyết Duy Linh, 18.759.111 người theo học, nhờ vậy mà bắt được 516 cán bộ cộng sản nguy hiểm, thu phục được 3.250 cán bộ khác.
- Công an, cảnh sát bắt được 25.700 cán bộ cộng sản, Bảo an đoàn bắt được 22.500 cán bộ khác.
[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại là một chuyện.
[4] Năm 1981, ông được bầu làm Chủ tịch Nhà nước.
[5] Chữ Hán là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, một câu mà học giả đời Hán đặt ra để ca tụng cổ học thời Đông Chu.


Chương XXI

Việt Nam Chia Hai

Chủ ý tôi là viết về gía đình và đời viết văn của tôi, nhưng không thề bỏ qua thời đại được, cho nên phải xen vài chương ngắn về chiến tranh độc lập và tình hình xã hội. Trong chương này và chương sau tôi sẽ ghi vài nét chính về chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình, tức chiến tranh Việt-Mĩ. Về chiến tranh Việt-Pháp tôi có được tạm đủ tài liệu (đã kê ở cuối chương XIX), về chiến tranh Việt-Mĩ, trái lại tôi chỉ có ba cuốn:

- Les deux Viêt nam của Bernard Fall (Payot - 1967)

- Indochine - dix ans d'indépendance của G. Chaffard (Calman Lévy - 1964)

- La seconde resistance - Viêt nam 1965 của W. Burchett (Gallimard - 1965)

Cuốn sau cùng chỉ là một tập phỏng vấn chiến sĩ trong bưng, dùng được rất ít. Cả ba cuốn đều chép đến 1965, giai đoạn 1965-1975 quan trọng nhất, tôi chưa thấy tác giả nào viết, ngay ở Pháp năm 1979 cũng chưa có.

A- Miền Nam

Gia đình Ngô Đình Diệm

Từ 1950, sau khi Mao Trạch Đông nhìn nhận chính phủ Kháng chiến Việt nam và ra mặt giúp đỡ về quân sự, sau khi buộc Hồ Chí Minh phải tái lập đảng Cộng sản - đổi tên là đảng Lao động - thì Pháp cho rằng quân đội viễn chinh của họ có một nhiệm vụ mới: ngăn chặn làn sóng Cộng sản lan xuống Đông Nam Á để bảo vệ thế giới tự do. Mĩ cũng thay đổi đường lối, không còn cảm tình với Việt Minh như hồi 1945 mà tích cực giúp tiền bạc, khí giới cho Pháp (600 tỉ đồng quan cũ như chương trên tôi đã nói).

Sau hiệp ước Genève thì trên danh nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào vẫn ở trong liên hiệp Pháp, nhưng Mĩ tự lãnh nhiệm vụ thay Pháp để ngăn làn sóng Cộng sản ở Đông dương, cho nên viện trợ cho Pháp và Bảo Đại rất nhiều. Công việc chở bằng phi cơ, tàu biển 850.000 người di cư, trợ cấp, giúp đỡ họ định cư đều do đô la của Mĩ cả. Mà bao giờ cũng vậy, kẻ nào bỏ tiền ra thì kẻ ấy làm chủ. Ngay trước khi kí hiệp định Genève, Mĩ đã ép Pháp và Bảo Đại phải thay thế Bửu Lộc mà dùng Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.

Ngô Đình Diệm là một quan lại cũ của triều đình Huế, làm tuần vũ Phan thiết, có tiếng là liêm khiết, cương quyết, dám chống với Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về nước, có nhiều thiện chí, mời ông ta về Huế giữ chức thượng thư bộ Lại (cũng như tổng trưởng nội vụ ngày nay); sáu tháng sau ông ta từ chức vì thấy Pháp vẫn nắm hết quyền, triều đình Huế chỉ là bù nhìn. Năm 1945, sau khi Nhật đảo chánh, hình như ông ta tử chối không giúp Bảo Đại đứng ra lập nội các; rồi theo G. Chaffard, tháng 2-1946, Hồ Chí Minh có mời ông ta hợp tác để lập chính phủ thống nhất quốc gia, ông ta cũng từ chối. Ông có một người anh, Ngô Đình Khôi bị Việt Minh giết. Sau đó ông qua Hương cảng, Mĩ, Pháp, rồi lại qua Mĩ ở khá lâu, được một số chính khách Mĩ để ý, tin cậy (một phần vì họ Ngô theo công giáo). Rốt cuộc Mĩ ép Pháp và Bảo Đại phải dùng Diệm thay Bửu Lộc. Ông có một người anh nữa là Ngô Đình Thục, giám mục ở Vĩnh long, ba người em: Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Luyện đều có bằng cấp cao của Pháp (Nhu ở trường Chartre ra, Luyện ở trường Centrale ra), còn Ngô Đình Cẩn vô học, rất hách và dữ. Chính Diệm thì đã hách lại phong kiến, tin rằng được Chúa giao phó sứ mạng trị dân, diệt Cộng.

Nhưng ở Nam rất ít người nghe nói đến Ngô Đình Diệm, nên Ngô Đình Nhu và Trần Chánh Thành (một người có cử nhân luật theo kháng chiến ít năm rồi về thành) phải họp báo, quảng cáo mạnh cho ông ta, bảo ông là "một người mới", sẽ thành lập một “chính phủ thực sự quốc gia”, để thực hiện một cuộc “cách mạng thực sự". Mặc dầu vậy, ngày ông về Sài gòn với chức thủ tướng, dân chúng thờ ơ, chỉ có khoảng 500 “bạn” ông đón ông ở sân bay, và khi ông đọc lời hiệu triệu của quốc trưởng Bảo Đại, lời ra mắt của ông với quốc dân ở trước dinh Độc Lập thì chỉ độ một ngàn người tới nghe và đa số thất vọng: ông ta ngượng nghịu, lúng túng giọng đều đều như giọng học sinh đọc bài, mà bộ tịch thì là bộ tịch một đại thần nghiêm nghị.

Ông lập một nội các phần lớn gồm anh em, bà con, bạn bè của anh em ông: Trần Trung Dung, Nguyễn Hữu Châu, Trần Chánh Thành... Nhu, em ông, làm cố vấn, quyền rất lớn, lí thuyết gia của chế độ, Cẩn làm cố vấn ở Trung, gần như ông vua một miền. Tôi đã thấy ló cái mòi gia đình trị của họ Ngô, hỏi một ông bạn trong chính quuyền vào hàng bộ trưởng, ông ta đáp:

- Ông ấy mới về, không biết ai, nên phải dùng những người tin cậy, mà tin cậy thì ai bằng em, cháu trong nhà, vả lại em cháu ông ấy “đâu phải là hạng cùi”.

Bạn tôi muốn nói: bọn đó có bằng cấp cao, thông minh, tài giỏi, chứ kém gì ai. Chính ông ấy sau thành nạn nhân của chế độ gia đình trị của họ Ngô.

Diệm về được một hai tháng thì Bắc Việt phải lo việc tập kết 140.000 người ra Bắc trong hạn 100 ngày từ ngày kí hìệp ước Geneve; Nam phải lo vụ định cư cho trên 850.000 người Bắc vào. Hết một năm, chính phủ Diệm vẫn chưa gây được sự ủng hộ của nhân dân, tráí lại nhiều giới còn bất bình nữa. Giới trí thức cho ông là độc tài, quan liêu; giới công chức bảo ông thiên vị người Trung và người Bắc di cư; các giáo phái không ưa ông vì ông theo công giáo; còn dân chúng thì không biết ông vì ông là người Trung chưa có công lao gì với nước cả.

Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại

Sự chống đối mạnh nhất về phía giáo phái. Cao đài, Hòa hảo, cả Bình xuyên nữa, đều bất mãn. Lẽ thứ nhất: hết chiến tranh rồi, Pháp không trợ cấp hằng tháng cho họ nữa, mà trước kia họ có công chống Việt Minh. Họ lại mất lần quyền chúa tể trong vùng của họ, không còn được tự do “làm ăn", hoành hành, như vậy lấy gì để nuôi quân đội. Họ xin cho quân đội của họ được sát nhập vào quân đội quốc gia, còn chính họ thì phải được một ghế gì trong chính phủ. Diệm đưa ra những điều kiện họ không thể nhận được: bắt họ phải bỏ hết quyền lợi lãnh chúa của họ đi (chẳng hạn Bảy Viễn - Bình xuyên - không thu thuế cờ bạc ớ khu Sài gòn - Chợ lớn nữa, không nắm công an Sài gòn - Chợ lớn nữa...), còn quân đội của họ thì phải xé lẻ, mỗi nhóm sát nhập vào quân đội quốc gia ở một miền.

Họ bất bình, liên kết với nhau, đòi lật đổ Diệm, phái người qua Cannes yêu cầu Bảo Đại cử người thay Diệm. Bảo Đại lúc đó tuy làm quốc trưởng mà không về nước là do sự thỏa tbuận ngầm giửa Mĩ và Pháp chăng? Ông ta chịu làm bù nhìn để lãnh một số tiền viện trợ vì biết vai trò của mình chấm dứt rồi chăng?

Chính tướng Nguyễn văn Hinh, quốc tịch Pháp, con Nguyễn văn Tâm, làm tổng tư lệnh quân đội quốc gia cũng ghét Diệm, đứng về phe giáo phái, và có lúc thế của Diệm lung lay, ngay người thân tín của ông ta - như giám mục Ngô Đình Thục - cũng khuyên ông từ chức. Nhưng ông tin ở sứ mạng Chúa trao cho mình, cương quyết chống các giáo phái, chống cả Bảo Đại lẫn Pháp. Nhờ Mĩ tung Mĩ kim ra, ông ta mua chuộc, chia rẽ các tướng Cao đài, lôi kéo được Trịnh Minh Thế về với mình, cách chức tướng Hinh, rồi dẹp được Bình xuyên (5-1955), Bảy Viễn phải bay qua Pháp; đánh tan phe Cao đài chống đối, Phạm Công Tắc phải trốn qua Miên (1956). Trong giáo phái Hòa hảo, Trần văn Soái (Năm Lửa), Lê Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ thấy thế yếu, phải đầu hàng, chỉ còn Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ngang ngạnh, nổi tiếng tráo trở, sớm đầu tối đánh, nên Diệm phải dùng mưu, mời Ba Cụt tới một nơi ở Long xuyên để điều đình, rồi phục kích, bắt sống được Ba Cụt, xử tử.

Thế là trật tự lập lại, Nam việt được thống nhất. Tướng Lê văn Tị thay Nguyễn văn Hinh. Dương văn Minh được lên chức, trọng dụng. Trịnh Minh Thế tử trận, Diệm tiếc lắm. Hồ Hữu Tường, quân sư của Bảy Viễn bị đày ra Côn đảo.

Bảo Đại, Pháp đều không cứu được các giáo phái vì Mĩ chi tiền, bảo sao mà họ chẳng phải nghe? Rồi sẽ tới lúc chính họ cũng bị Mĩ gạt ra ngoài nữa.

Việc dẹp giáo phái đáng kể là một thành công của Ngô Đình Diệm.

*

Dẹp xong các giáo phái, chặt hết tay chân của Bảo Đại rồi, Diệm hạ luôn Bảo Đại. Bảo Đại biết vậy và cũng biết thế mình yếu, chỉ phản kháng một cách yếu ớt: tới phút chót, ngày 18-10-55, tuyên bố chấm dứt sứ mệnh của Diệm thì hai ngày sau có cuộc trưng cầu dân ý của Diệm: dân muốn truất phế Bảo Đại mà nhìn nhận Ngô Đình Diệm hay ngược lại? Ngày 23-10 Diệm thắng vớì 98% số phiếu, (Mĩ khuyên ông ta độ 60% cũng được rồí, ông ta không nghe) và tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa.

Vậy là Mĩ đã thắng Pháp, người của Mĩ đã nắm hết quyền ở Nam. Ngày 20-7-56, hết hạn đóng quân ở miền Nam, Pháp rút 30.000 quân viễn chinh để đưa qua Algérie dẹp nghĩa quân Algérie; lúc đó Mĩ mới hoàn toàn mãn nguyện, ồ ạt đưa cố vấn quân sự qua giúp Diệm.


Chính sách nhà Ngô

Đối với miền Bắc, chính sách của Ngô Đình Diệm là

• từ chối cuộc bàu cử 1956 để thống nhất hai miền, lấy lẽ rằng ngoại trưởng miền Nam là Trần văn Đỗ không kí vào hiệp ước Geneve, nên chính phủ miền Nam không phải thi hành hiệp ước dó. Mĩ ủng hộ Diệm, cho rằng “ở Bắc chưa có những điều kiện thuận tiện cho một bầu cử tự do ở toàn cõi Việt nam”. Sự thực thì Mĩ không kí vào hiệp ước Geneve là đã có ý đó từ 1954 rồi.

• diệt tất cả những cán bộ Việt Minh nằm vùng ở miền Nam, dò xét, đàn áp những người trước có cảm tình với Việt Minh, tuy không thco kháng chiến, nhưng cũng không bợp tác với Pháp.

Công việc này, người của Diệm làm mạnh tay quá. Ở các thành phố còn khá: như trên tôi đã nói, tôi chỉ bị mật vụ dò xét, không được phép mở lớp mẫu giáo, chứ không bị tra hỏi gì hết; một anh bạn tôi ở Long xuyên mặc dầu đã dạy ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu lại có hồi làm quyền hiệu trưởng trường đó nữa, mà xin thôi để mở một lớp luyện thi Trung học đệ nhất cấp tại nhà, người ta cũng không cho. Ở thôn quê, tại những miền Kháng chiến như Cà mau, Đồng Tháp, không khí nghẹt thở hơn nhiều, nhiều người không thể ở được, phải bỏ nhà cửa ruộng nương ra tỉnh, ra quận sống. Nhất là ờ các tỉnh Quảng nam, Quảng ngãi, nơi mà thời chiến tranh Việt-Pháp hoàn toàn là khu giải phóng, bây giờ thuộc quyền của Ngô Đình Cẩn thì dân chúng bị đàn áp tàn khốc: người ta bắt dân phải làm xâu có nơi tám tháng một năm, người ta tịch thu tài sản những gia đình có người tập kết, người ta bắt vợ những người tập kết phải li dị chồng. Có chỗ nhà nào có người tập kết thì tối phải thắp một ngọn đèn đỏ ở trước cửa, y như các nhà thổ (nhà chứa gái mãi dâm) thời Pháp thuộc trước thế chiến. Đâu đâu cũng có phong trào tố cộng, buộc người dân phải tố cáo những người đã hoạt động cho kháng chiến. Đại đa số những người này theo kháng chiến vì tinh thần quốc gia, muốn đuổi Pháp ra khỏi nước, chứ không vì theo chủ nghĩa cộng sản; ngay các kí giả ngoại quốc cũng nhận như vậy, mà chính quyền họ Ngô thì cho rằng cứ chống Pháp là theo cộng. Do đó từ trí thức tới nông dân, ai cũng bất bình; chính phủ Diệm bất chấp Ủy ban kiểm soát Quốc tế gồm Ấn độ, Gia nã đại, Ba lan) và ủy ban không làm được gì cả.

Năm 1958 là năm thịnh nhất của nhà Ngô: bốn phần năm miền Nam đã được bình định, kinh tế cũng hơi thịnh lên nhờ viện trợ của Mĩ; nhưng đáng lẽ thành công rồi phải cởi mở lần lần cho dân dễ thở thì họ lại càng độc tài, càng có tinh thần gia đình trị, ưu đãi công giáo, đè nén Phật giáo: nhiều nơi Phật giáo không được cất thêm chùa, mà linh mục có quyền hơn tỉnh truởng.

Báo chí, sách bị kiểm duyệt gắt, lại thêm việc phát hành do một cơ quan của chính phủ (nhà Thống nhất) giữ độc quyền; mặc dầu vậy, ngôn luận vẫn còn tự do hơn Bắc nhiều.

Ngô Đình Nhu lập đảng Dân chủ và đảng Cần lao, công chức cao cấp nào cũng phải vô một trong hai đảng ấy; rồi lại lập thêm đảng Thanh niên Cộng hòa, đồng phục màu xanh dương. Vợ Nhu, Trần Lệ Xuân (con Trần văn Chương đại sứ ở Mĩ) lập hội Phụ nữ liên đới, "bà lớn" nào cũng phải vô; lại nắm đầu Quốc hội, hống hách sỉ vả bất kì ai dám trái ý mụ. Cẩn làm Chúa miền Trung, bộ trưởng nào ở Sài gòn ra Huế cũng phải vào yết kiến hắn; còn Ngô Đình Thục ở Vĩnh long thì tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng được học điều gì mới cả, chỉ phảỉ nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. (1)

Những ngườí theo học đại đa số thờ Phật, đau lòng mà không dám cãi. (2)

Diệm-Nhu theo chính sách "ba Đ": Đảng (Cần lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ đó mới được tin dùng, cho nên số tín đồ Công gỉáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.

Kinh tế bị họ Ngô và tay chân lũng đoạn: hầu hết các xí nghiệp lớn, công ti lớn bị họ nắm: ở Trung thuộc về Cẩn và bà Cả Lễ, chị của Diệm; ở Nam thuộc về vợ Nhu. Vụ bà Cả Lễ năm 1956 không chịu bán 5.000 tấn gạo theo giá chính thức là 656đ một tấn cho dân miền Trung lúc đó đương đói, mà cho chở lén ra Bắc bán lấy 1.700đ một tạ, làm sôi nổi dư luận, rồi cũng êm.

Rồi những vụ chuyển ngân, những vụ hối lộ, cấp giấy phép xuất nhập cảng nữa.

Người dân ghét nhất là vợ chồng Nhu lên mặt đạo đức, ra lệnh cấm hút thuốc phiện (mà có ai không biết là Nhu nghiện?), cấm đánh bài, uống rượu, cấm có nhiều vợ, cấm khiêu vũ cả trong tư gia.

Lại thêm cuộc cải cách ruộng đất thí nghiệm năm 1956-1957 không làm vừa lòng cả điền chủ lẫn nông dân.

Trong chiến tranh chống Pháp, các điền chủ bỏ ra thành thị hết, Việt minh chia đất của họ cho nông dân. Bây giờ Diệm bắt nông dân phải trả lại cho chủ cũ, nông dân bất bình. Còn điền chủ, tuy lấy lại được đất, nhưng mỗi người tối đa chỉ được giữ 100 héc ta, và chỉ đuợc thu của tá điền 25% số lúa gặt được (trước kia họ được thu 40%) nên cũng bất bình. Do đó, chính sách tuy công bằng, tiến bộ, mà thường có xung đột giữa chủ điền và tá điền, chủ điền nhờ cảnh sát quận can thiệp, nông dân càng phẫn uất, và Việt minh lợi dụng tình thế đó.

Dân nổi dậy chống đối
Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62


Kết quả là từ thành thị đến thôn quê, mười người thì có tới chín người ghét gia đình họ Ngô.

- Ở thôn quê, những cán bộ Việt minh nằm vùng không sống nổi trong làng xóm, phải trốn vào bưng, lôi cuốn theo một số thanh niên. Mới đầu là ở miền Cà mau, Đồng tháp, từng nhóm nhỏ một không liên lạc với nhau. Họ đào vũ khí đã chôn giấu lên, chống lại với cảnh sát và quân đội của Diệm. Họ liên kết với tàn quân của Hòa hảo, nhất là của Ba Cụt, còn sót lại. Một số thanh niên, trí thức ờ Sài gòn cũng theo họ. Lần lần các nơi khác ở Nam, ở Trung cũng có những tổ chức như vậy, đó là nguồn gốc của Mặt trận Giải phóng miền Nam.

- Ở thành thị thì giới trí thức và chính quân đội của Diệm nổi lên chống. Năm 1960, một nhóm 18 nhà trí thức (trong số đó có 10 cựu bộ trưởng của Diệm) kí một tuyên ngôn tố cáo chế độ gia đình trị, độc tài của họ Ngô.

Họ bị bắt giam một thời gian; sau đó có mấy trăm công chức, quân nhân bị thanh trừng (tháng 9-10-1960). Ngày 11-11-60 bọn nhảy dù Vương văn Đông và Nguyễn Chánh Thi, ba giờ sáng đem quân chiếm các điểm quân sự ở Sài gòn, bao vây dinh Độc lập. Cảnh sát theo họ, sinh viên biểu tình ủng hộ họ. Đông muốn tấn công, Thi muốn điều đình với Diệm, chỉ buộc Diệm đưa vợ chồng Nhu đi xa, rồi sửa đổi chính sách. Một số cơ quan đã hạ hình Tổng thống Diệm. Diệm dùng kế hoãn binh, hứa láo, đợi quân của đại tá Khiêm ở Mĩ tho lên cứu. Rốt cuộc Khiêm giải vây được cho Diệm; Thi và Đông phải lên phi cơ trốn ra nước ngoài. Sau đó là một vụ thanh trừng lớn lao trong các công sở và trong quân đội.

Ngày 26-2-62, một cuộc nổi dậy nữa cũng thất bại. Sáng sớm, hai phi cơ dội bom dinh Độc lập. Vợ Nhu bị thương nhẹ. Diệm kịp xuống hầm núp. Dinh bị sập một nửa. Một phi cơ bị súng cao xạ ở dinh hạ, chiếc kia bay thoát được qua Cao miên. Diệm phải dọn qua dinh Gia long. Người Mĩ được báo tin trước vụ đó, không giúp mà cũng không cản. Họ mong rằng vợ chồng Nhu bị giết, nhưng vẫn muốn Diệm sống, và hình như kịp báo cho Diệm để Diệm xuống hầm núp.

Ấp Chiến lược - Trận Ấp Bắc

Năm 1962, Mĩ và Diệm thực hiện chương trình ấp Chiến lược, họ tính lập trên 11.000 ấp để gom 80% dân chúng vào trong những khu họ chỉ định, chung quanh có hàng rào dây kẽm gai. Nông dân phải bỏ ruộng nương, dời nhà cửa vào những ấp đó để họ dễ kiểm soát mà không tiếp tế, che chở cho quân giải phóng được nữa. Mĩ đốt phá, rắc thuốc khai quang những làng, xóm mà nông dân đã phải rời bỏ. Vào ấp chiến lược rồi, nông dân được chia ruộng cho làm, nhưng tối phải về ấp. Họ được phát súng để tự vệ. Nhưng dân càng ghét Mĩ, Diệm và trong nhiều ấp, Việt cộng vẫn len lỏi vào được.

Tinh thần phản kháng của dân càng tăng thì tinh thần quân đội càng xuống, đầu năm 1963 thua Việt cộng một trận lớn ở Ấp Bắc (Mĩ tho). Ngày 2-1 Mĩ-Diệm thấy 2 trung đội Việt cộng xuất hiện thình lình ở Ấp Bắc, tức tốc đem một lực lượng hùng hậu mạnh gấp 5-6 lần gồm 3 đại đội, sáu trung đội, với súng đại bác, nhiều xe tăng lội nước, nhiều trực thăng với lính nhảy dù, phi cơ phóng pháo... để tấn công, mà kết quả là thiệt hại 400 người, còn Việt cộng vừa chết vừa bị thương chỉ độ 30 người.

Washington uất ức về trận đó lắm, thấy rõ tinh thần kém cỏi của quân đội Diệm, bắt đầu chán Diệm, muốn thay đổi Diệm.

Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63

Tháng 5 năm đó xảy ra vụ đàn áp Phật giáo. Hai ngày trước ngày Phật đản, Ngô Đình Cẩn ra lệnh cấm treo cờ Phật giáo ở Huế, lại cấm đài phát thanh thông tin về lễ Phật đản. Dân chúng Huế bất bình, biểu tình trước đài phát thanh Huế. Chính quyền đem xe thiết giáp và lính lại giải tán. Có vài tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ. Có 8-9 người chết, khoảng 20 người bị thương.

Phật giáo miền Trung và miền Nam đòi chính phủ phải cấm ngay những sự kì thị, ngược đãi Phật giáo, bảo đảm cho Phật giáo được hưởng những giáo qui như Ki Tô giáo, phải bồi thường cho gia đình nạn nhân, trừng trị những kẻ chịu trách nhiệm.

Diệm do dự không chịu giải quyết. Chín giờ sáng ngày 11-6 thượng tọa Thích Quảng Đức 84 tuổi, tự thiêu ở góc đường Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt (Sài gòn) giữa một đám 800 nhà sư và tín đồ, làm xúc động cả thế giới. Người Việt nào cũng nguyền rủa anh em nhà Ngô. Sau vụ đó còn cả chục vụ tự thiêu nữa của các thượng tọa, đại đức ở nhiều nơi, từ Nam ra Trung.

Diệm chịu nhượng bộ một chút, hứa tôn trọng tự do tín ngưỡng, thả các tu sĩ bị giam, nhưng vẫn bảo ở Huế do Việt cộng gây ra chứ không phải nhân viên, quân đội của chính quyền. Vụ đó có nhiều bí mật, sự thực ra sao, không thể biết được.

Sáng sớm ngày 21-8 Nhu phái quân lính tới chùa Xá lợi, Sài gòn, bắt các thượng tọa. Thượng tọa Trí Quang trốn kịp vào tòa Đại sứ Mĩ. Ở Huế chùa Từ đàm bị phá. Nhiều giáo sư Đại học Huế, vài người ở chung quanh Diệm từ chức.

Cuối tháng 9, không khí Sài gòn gần như không khí ở Paris trong hồi Terreur (khủng bố) năm 1793-94. Mười gia đình thì chín gia đình theo Phật giáo mà Phật tử nào cũng có thể bị bắt giam nếu có kẻ tố cáo bậy bạ. Nửa đêm mà có xe cam nhông bít bùng tới đậu trước cửa nhà thì cả nhà run lên: hung thần đã tới. Nhà văn kiêm giáo sư Hư Chu bị bắt, vợ con không được thăm. Ông Paulus Hiếu lúc đó đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu làm bộ trưởng Công dân vụ, đuợc Diệm Nhu rất tin dùng, là bạn của Hư Chu khi ông ta từ Long xuyên mới lên Sài gòn, làm tổng giám đốc Ngân khố. Tôi viết thư cho ông ta nhờ ông xét xem Hư Chu có bị oan hay không. Ông ta không trả lời.

Tổng thống Kennedy không thể dùng Diệm được nữa, phái đại sứ Cabot Lodge qua thay Nolting và 13 giờ ngày 1-11-63, quân đội do Dương văn Minh, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính cầm đầu, bao vây dinh Độc lập. Sáng hôm sau, quân lính xông vào thì Diệm và Nhu đã do một đường hầm trốn thoát, nhưng rồi quân lính tìm được họ trong một giáo đường ở Chợ lớn, bắt họ nhốt vào xe thiết giáp, đưa về Tổng hành dinh. Giữa đường họ bị giết.

Lúc đó Ngô Đình Thục ở Rome, vợ và con gái Nhu ở Mĩ. Cẩn ở Huế bị bắt đưa vào Sài gòn, sau bỉ xử tử. Nhà Ngô chấm dứt sau chín năm cầm quyền. Toàn dân thở phào ăn mừng.

Tướng Duơng văn Minh lên làm quốc trưởng, Nguyễn Ngọc Thơ, phó tổng thống thời Diệm, làm thủ tướng. Bọn thân tín của Ngô bị nhốt khám hết, gia sản bị tịch thu. Tượng hai bà Trưng ở đầu đuờng Hai Bà Trưng, phía sông Sài gòn, bị đập phá.

Thời Pháp thuộc, chỗ đó do tượng Rigault de Genouilly, một trung tướng hải quân Pháp đã đánh phá cửa Đà nẵng, dân chúng gọi là tượng Một hình. Sau cách mạng 1945, tượng đó bị hạ. Gần cuối đời, Ngô Đình Diệm cho dựng tượng Hai Bà Trưng thay vào, kẻ điêu khắc, nghe đâu được giải thưởng điêu khắc La mã (Prix de Rome) muốn nịnh vợ chồng Nhu, cho tượng có những nét của vợ và con gái Nhu, dân chúng thấy vậy, ghét lắm, gọi tượng đó là tượng Hai hình.

Thi sĩ Đông Hồ rất ít khi làm thơ thời sự, vậy mà sau khi tượng Hai hình bị đập phá, làm hai bài thơ Đường luật đăng báo Bút Hoa số 3 năm 1964,

Bài thứ nhất:

Tượng ai đâu phải tượng Bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gẫy cổ đứt ngang lưng.


Bài thứ nhì:

Đây Một hình xưa nhục nước non,
Thay Hai hình mới đứng thon von.
Mình ni-lông xát lưng eo thắt,
Ngực xú-chiên nâng ngực nở tròn.
Tường đúc hiên ngang em với chị,
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con.
Dòng sông Bến Ngé dòng sông Hát,
Lưu xú lưu phương tiếng để còn.


Lòng thi sĩ oán mụ Nhu thâm thật. Hai bài đó là những bài Đuờng luật hay nhất về vụ đảo chánh 1-11-63. Xét chung thì bài dưới hay hơn bài trên, nhưng bài trên có hai câu tôi rất thú:

Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!


Bảo Đại bù nhìn của Pháp thì bị dân chúng khinh; tay sai của Mĩ, Ngô Đình Diệm thì bị toàn dân ghét; những “người hùng” (tướng) do Mĩ đưa lên sau này vừa bị khinh vừa bị ghét. Sự thất bại của Tây phương ai cũng thấy rõ.


B- Miền Bắc

Pháp mất hết quyền lợi

Chiều ngày 10-10-54 ở Hà nội không còn một lính Pháp, một ngọn cờ Pháp. Đạo quân viễn chinh của họ đã rút hết qua cầu Long biên để xuống Hải phòng.

Ngay từ khi kí hiệp ước Genève, Phạm văn Đồng, ngoại trưởng của chính phủ Cộng hòa nhân dân Việt nam đã gởi cho thủ tướng Pháp Pierre Mendès France một bức thư xác nhận những liên quan kinh tế và văn hóa giữa hai quốc gia: các xí nghiệp kĩ nghệ, thương mãi của Pháp vẫn tiếp tục hoạt động, không bị ngăn cản chút gì, tài sản của Pháp được tôn trọng, trường học của Pháp vẫn được mở cửa, các cơ quan văn hóa vẫn hoạt động.

Pháp phái Sainteny, người rất được cảm tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở qua Hà nội, để nối lại tình giao hảo với Bắc việt, cứu vãn những quyền lợi kinh tế và văn hóa ở Bắc, như các hoạt động ở mỏ Hồng Gai, nhà máy xi măng Hải phòng, nhà máy dệt Nam định, xưởng lắp xe hơi Renault...; viện Pasteur, viện ung thư, trường Viễn Đông bác cổ, trường trung học Albert Sarraut...

Sainteny được Hồ Chủ tịch tiếp đón niềm nở. Nhưng lần lần tình Việt-Pháp mỗi ngày một nhạt, vì ba nguyên do:

• Chính phủ Mĩ cho rằng Pháp đi nước đôi, chỉ lo bảo vệ ít quyền lợi của họ mà lơ là với việc chống cộng của phương Tây. Anh cũng đứng về phía Mĩ.

• Các nhà kinh doanh Pháp ở Bắc rất nghi ngờ cộng sản, sợ cộng sản quốc hữu hóa các xí nghiệp, đuổi họ về, nên đòi hỏi nhiều bảo đảm làm cho cộng sản bực mình. Rốt cuộc, công ti lớn nhất của Pháp là công ti than Bắc việt phải bán hết xưởng, bàn giấy, máy móc, đường rầy cho chính phủ Bắc việt.

• Chính phủ Pháp không chịu để cho Bắc việt có đại biểu ngoại giao ở Paris (như Sainteny ở Bắc), và cũng không can thiệp để buộc miền Nam phải tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 như đã ghi trong hiệp ước Genève. Pháp không thể vừa lấy lòng Bắc vừa lấy lòng Nam được, mà càng không thể không nhờ Mĩ viện trợ trong những năm 1954-56.

Ngày 13-5-55, hết kì hạn 300 ngày, quân đội Pháp rút khỏi Hải phòng, ảnh hưởng, quyền lợi của Pháp ở Bắc gần như không còn gì.

Trong 5 năm sau (1956-60) Bắc nhờ Trung hoa và Nga viện trợ để kiến thiết. Trung hoa cho vay 120 tỉ quan (cũ) Pháp, Nga cho không 34 tỉ. Bắc thiếu rất nhiều kĩ thuật gia, phải đào tạo gấp quá, kết quả tất nhiên là kém. Lại thêm, quá theo Trung hoa, trọng hồng hơn chuyên, nghĩa là cho những người có công trong kháng chiến, trung thành với tư tưởng cách mạng (hồng) giữ những chức vụ chỉ huy, mặc dầu về kĩ thuật (chuyên) họ không biết chút gì, vì chưa bao giờ được học. (3)

Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ

Mấy tháng đầu, mức sống không xuống thấp lắm nhờ có hàng hóa nhập cảng các công ti Pháp, các nhà buôn Trung hoa, Việt nam để lại. Từ giữa năm 1955, hết những dự trử đó rồi, lại thiếu ngoại tệ để nhập cảng những hàng để tiêu thụ - phảỉ lo mua máy móc trước hết - cho nên toàn dân phải sống khắc khổ.

Vì chính sách “hồng hơn chuyên", sự quản lí xí nghiệp rất kém: không làm kế toán đàng hoàng, cuối năm không tính lời lỗ, nhiều xí nghiệp không biết thu được bao nhiêu, tiêu mất bao nhiêu, mất mát bao nhiêu.

Khi thấy công việc không chạy, người ta không nghĩ cách cải thiện phương pháp làm việc, cứ tuyển thêm người, tuyển thật nhiều mà hầu hết không biết việc, rốt cuộc số tiền trả lương thợ tăng hơn sức sản xuất nhiều. Theo G. Chaffard (sách đã dẫn) thì nhà máy xi măng Hải phòng trong một năm, số thợ tăng 34%, số lương trung bình tăng 24%, như vậy là số tiền trả lương tăng gần 70%, mà sức sản xuất chỉ tăng có 3,5%.

Về canh nông cũng vậy. Hợp tác xã quốc gia (coopérative nationale) có nhiệm vụ tập trung sự sản xuất thực phầm, quản lí dở quá, cũng lỗ, hụt.

Phải mua dược phẩm, vải, xe đạp, nhất là xăng của nước ngoài, mà các nhà máy phốt-phát, trà… chưa sản xuất để bán ra ngoài được, rốt cuộc chỉ trông cậy vào than Hồng gai và xi măng Hải phòng mà hãng xi măng Hải phòng thì như chúng ta đã thấy, quản lí dở quá, còn than Hồng gai thì trong mười lăm năm đầu, bán được bao nhiêu phải trả nợ cho Pháp hết (coi hai trang trên).

Dân chúng bắt đầu thất vọng. Nhất là những ngườỉ Nam tập kết chỉ mơ tưởng tới lúc được về Nam, lúa gạo đầy đồng, cá tôm đầy rạch. Một người đại diện của họ dám nói với Phạm Ngọc Thạch lúc đó làm bộ trưởng Y tế “Chúng tôi tập kết ra đây không phải để làm cu li trong các doanh nghiệp của chính phủ." Nhiều người đòi trở về Nam khi thấy năm 1956 không có tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia như chính phủ đã hứa.

Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh lưu

Cũng trong năm 1956 chính phủ còn bị một sự phản kháng nghiêm trọng của dân chúng vì việc cải cách điền địa. Chính phủ muốn tiến mau đến xã hội chủ nghĩa mà không hiểu hoàn cảnh nước mình, tâm lí nông dân - hoặc hiểu nhưng bất chấp - cho nên áp dụng đúng đường lối và kĩ thuật của Mao Trạch Đông.

• Mới đầu gây cho nông dân căm thù địa chủ. Người ta phái cán bộ trẻ về làng cùng làm, cùng ăn, cùng ở (tam cùng) với những bần cố nông trong làng, gây lòng tin của họ rồi vạch cho họ thấy họ bị điền chủ bóc lột ra sao, phải căm thù, diệt bọn đó, chính quyền sẽ ủng hộ, đừng ngại.

• Bước thứ nhì là chia dân làng thành nhiều thành phần: đại điền chủ, phú nông, bán nông, người làm nghề tự do...

• Qua bước thứ ba, cho hạng bần cố nông đã được học tập như trên, tố cáo rồi xử tội những kẻ thuộc thành phần địa chủ, tư bản.

Trong chương VII tôi đã nói đa số những người giầu nhất ở thôn quê Bắc việt chỉ có năm sáu mẫu ruộng (khoảng 1 héc-ta rưỡi tới hai héc-ta), cả vợ chồng con cái lảm mới đủ sống, không thể coi như các điền chủ, các lãnh chúa ở Trung hoa, Nga, Mĩ châu được. Một số rất ít có vài chục mẫu ruộng, dăm bảy chục mẫu đồi, chỉ bằng hạng điền chủ trung bình trong Nam thôi.

Việt Minh sở dĩ thắng được Pháp là nhờ sự góp sức của toàn dân: không gia đình nào ở nông thôn không có con cháu, anh em đi bộ đội, làm dân công, không giúp lúa gạo cho bộ đội. Chính quyền biết như vậy, nên ban hành một đạo luật riêng bồi thường cho những điền chủ nào không bóc lột, không tàn bạo với dân, hoặc đã có công giúp kháng chiến, mà chỉ trừng trị bọn cho vay nặng lãi thôi.

Nhưng nếu thi hành đúng thì mỗi làng chưa chắc đã có một người bị truất hữu, làm sao có một tỉ số dân bị xử tội cao bằng hay hơn Trung cộng được? Cho nên nhiều cán bộ muốn lập công, xử với dân thật tàn nhẫn; lại thêm nhửng vụ oan vì thù cá nhân, vì hống hách, những bất công khi chia đất, khiến dân chúng bất bình, nổi loạn. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn - trang 184) thì trong vụ cải cách điền địa đó có 50.000 người bị giết và 100.000 người bị đưa vào các trại cải tạo.

Trường Chinh, một đảng viên thân Trung cộng, tổ chức vụ cải cách điền địa đó, bị dân chúng oán nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cách chức ông ta, bắt ông ta tự kiểm thảo, nhưng rồi lại giao cho một chức vụ quan trọng khác. (4)

Chính phủ sửa sai: những người nào bị xử oan thì được trả lại tự do, phục hồi quyền công dân... Tự do tín ngưỡng được tôn trọng. Tài sản của các chùa, giáo đường được trả lại; bỏ cái lệ giam bắt người một cách độc đoán...

Sự sửa sai đó xảy ra khoảng đầu tháng 11, ảnh hưởng chưa kịp lan khắp nước thì từ 10 đến 20-11, hằng ngàn nông dân ở Quỳnh lưu, Nghệ an (quê hương Hồ Chủ tịch) nổi loạn lên chống sự kì thị công giáo và những sự bất công trong vụ cải cách điền địa. Quân đội tới dẹp, hơn một ngàn người chết hoặc bị thương, theo G. Chaffard. Nhưng theo B. Fall trong Les deux Việt nam (Payot 1967) thì có tin rằng gần 6.000 người bị đày đi xa hoặc bị giết.

Sau đó, Võ Nguyên Giáp, đại diện chính phủ, trong một buổi họp trước nhân dân Hà nội, tự thú tất cả những “lỗi lầm nặng” của chính quyền: cán bộ đã hành động một cách máy móc, coi tất cả các địa chủ là kẻ thù, cả nbững người đã theo kháng chiến... Lòng dân lúc đó mới dịu xuống.

Vụ Nhân văn - Giai phẩm

Nhưng ngay tháng sau (12-56) lại xảy ra vụ Nhân văn - Giai phẩm làm cho giới trí thức bất bình.

Cũng lại bắt chước Mao Trạch Đông nữa. Nguyên do là ở Nga, sau khi Staline chết năm 1953, Kroutchev trong đại hội 20 của đảng, cởi mở một chút cho văn nghệ sĩ - người ta gọi là thời “băng rã” (dégel) - và ra chỉ thị cho các nước đàn em làm theo. Mao nghe Kroutchev, tháng 5 năm 1956 đưa ra khẩu hiệu "Trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng" (5), cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong việc sáng tác, miễn là theo đường lối xã hội của đảng. Bọn văn nghệ sĩ mới đầu rụt rè phê bình, sau đả đảo mạnh tác phong “công thức”, sáng tác theo một chiều trong mấy năm trước, sau cùng họ được thể, chống lại đảng. Tới mức đó thì Mao đâm hoảng, lật ngược chính sách, thắt chặt lại hơn trước, tấn công bọn "xét lại" đó và thẳng tay trừng trị Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong v.v...

Nhà cầm quyền Bắc việt lúc đó đương kẹt về vụ Quỳnh lưu. nên bảy tháng sau mới cho "trăm hoa đua nở". Một nhóm giáo sư và trí thức trong hai tạp chí Nhân văn và Giai phẩm mùa xuân liền viết bài tấn công tác phong công thức trong văn nghệ. Tờ Đất Mới của sinh viên hùa theo, chống đường lối chỉ huy trong đại học. Ngay tờ Nhân Dân nhật báo, cơ quan của Đảng, cũng đăng một loạt bài về nguyên tắc chuyên chính và vai trò của đảng chính trị trong một chế độ dân chủ nhân dân (démocratie populaire).

Một số lớn trí thức: học giả, văn sĩ, nghệ sĩ, cựu học, tân học, gặp cơ hội đó, cho phát ra tất cả những uất ức, dồn ép của họ, người thì khách quan, bình tĩnh phân tích những sai lầm như Đào Duy Anh, người thì đả phá với những lí luận sắc bén như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, người thì dùng giọng mỉa mai kín đáo mà cay độc như Phan Khôi; bừng bừng nhất là bọn thanh niên Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm...

Đầu năm 1957, chính phủ thấy họ hăng quá, ra lệnh phá ngầm: Mậu dịch không bán giấy in cho những tờ báo chống đối (họ không sợ, mua chợ đen); khủng bố người phát hành báo (họ cho sinh viên đi bán); Bưu điện không phân phát báo, cán bộ đi từng nhà khủng bố người đọc... Những biện pháp đó đều vô hiệu, cuối cùng chính phủ phải đóng cửa tờ Nhân văn, ông Hồ Chí Minh kí một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí, phạt từ 5 năm đến khổ sai chung thân những kẻ phạm cấm. Những tờ báo Trăm hoa, Đất mới, Giaì phẩm đều tự đình bản.

Năm 1958, ba trăm lẻ bốn văn nghệ sĩ phải đi chỉnh huấn, tự kiểm thảo rồi "học tập lao động", trong số đó có thạc sĩ Trần Đức Thảo (bạn của Sartre, Camus, ở Pháp về phục vụ quốc gia năm 1951, người buộc tội ông là thạc sĩ sử học Phạm Huy Thông), Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, nữ sỉ Thụy An. Phan Khôi vì đã bảy mươi ba tuổi, có công chống Pháp, bị tù hồi trẻ, theo kháng chiến từ đầu, một phần cũng nhờ con là Phan Thao, một cán bộ cao cấp, nên được yên, nhưng gần như bị giam lỏng, không được giao thiệp với ai.

Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường (có một bài diễn văn vạch những sai lầm trong cải cách ruộng đất, rất hay, lọt ra ngoại quốc, dịch ra tiếng Pháp) đều mất chức giáo sư đại học. Gia đình Trương Tửu bị bao vây kinh tế, mãi sau này mới được làm nghề châm cứu. Đào Duy Anh, người ôn hòa nhất trong nhóm học giả viết bài “Muốn phát triển học thuật", chỉ đưa ra ý kiến này: “Tư tưởng không tự do thì không tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận (...) nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề gì, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo thì chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với nhừng người ấy, công tác học thuật trở thành những trò xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là đường cái, thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợỉ dây căng của người làm xiếc. Phải từ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật".

Ông chỉ viết có vậy mà bị treo giò mười lăm năm: bản thảo Tự điển chuyện Kiều bị gìm trên mười năm, sau nhờ Phạm văn Đồng can thiệp, nó mới được in và phát hành năm 1975. Học trò cũ của ông không ai dám lại thăm ông. Ông buồn rầu viết một tập Hồi kí kể những hoạt động chính trị và văn hóa của mình tử hồi hai mươi lăm tuổi để tỏ nỗi lòng ân hận đã lỡ nhúng bút vào vụ Trăm hoa đua nở và để phân trần rằng trước sau ông vẫn trung thành. Tập đó không in, chỉ đưa cho bạn thân đọc. Nhưng từ khi Việt-Hoa xung đột nhau, Mao bị chỉ trích, ông đã thành con người khác.

Năm 1956 thực là năm có nhiều biến cố trong chủ nghĩa xã hội: ở Đông âu là vụ Poznan ở Ba lan, vụ Budapest ở Hung gia lợi; ở Đông Á là Trung hoa, Việt nam.

Kinh tế phát triển rất chậm

Mới chia đất cho dân nghèo năm 1956, dân làm chủ chưa đuợc hai năm thì năm 1958, Phạm văn Đồng đã đưa ra chính sách tập sản (collectivisation) để mau tiến lên xã hội chủ nghĩa, rồi cộng sản chủ nghĩa. Đâu đâu cũng thành lập Hợp tác xã nông nghiệp: mỗi gia đình chỉ đuợc giữ một khoảnh nhỏ để cất nhà, làm vườn. Còn bao nhiêu ruộng đều là của chung hết: cầy bừa, cấy gặt chung, hoa lợi chia theo số ngày làm lụng của mỗi người, sau khi nộp cho nhà nuớc một số, bán cho nhà nước một số khác với giá chính phủ ấn định (rất rẻ). Nông dân bắt buộc phải vô hợp tác xã nhưng không hăng hái làm cho hợp tác xã, chỉ lo săn sóc việc nuôi gà, nuôỉ heo, trồng rau ờ nhà. Cho nên mặc dầu phương pháp canh tác có cải thiện, công trình thủy lợi có phát triển, chỗ nào cũng làm được hai mùa, có nơi ba mùa, còn thêm miền thượng du được khai phá, số lúa và hoa màu có tăng hơn năm đầu chế độ (1955) kha khá đấy, nhưng mức sống của dân năm 1960 vẫn rất thấp, vì dân đã quá đông mà lại tăng lên mau: 3% mỗi năm. Đã vậy, dân còn phải bớt ăn để chính phủ xuất cảng gạo mà trả nợ hoặc thu ngoại tệ!

Về kĩ nghệ, thiếu vốn, thiếu viện trợ, Bắc việt chỉ xây được những lò đúc thép ở Thái nguyên, một xưởng đóng tàu ở Hải phòng, vài nhà máy trà, còn hầu hết là những nhà máy cũ: nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy dệt, nhà máy xi măng, mỏ than... Sự quản lí kém quá, nên không sản xuất được nhiều.

Dân chỉ đuợc bảo đảm hai bửa ăn mỗi ngày thôi, mà không có thực phẩm dự trữ. Vì vậy nhà cầm quyền tính trao đổi thương mãi với miền Nam; miễn miền Nam tách ra khỏi Mĩ, là Nam Bắc có thể đoàn kết với nhau được, giúp đỡ lẫn nhau.

Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam

Ở trên tôi đã nói cán bộ cộng sản và nông dân miền Nam không chịu nổi sự đàn áp của Diệm, bỏ vô bưng từ năm 1957, tự tổ chức lấy chiến khu. Hai năm đầu, họ không được Bắc việt giúp đỡ gì cả, mà lực lượng cũng mỗi ngày một tăng, thắng quân chính phủ Diệm được vài trận nhỏ. Năm 1960 họ mới thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam do một ủy ban lâm thời lãnh đạo.

Cuối năm 1961, một luật sư ớ Sài gòn, Nguyễn Hữu Thọ được mặt trận đón ra bưng và bầu làm chủ tịch. Đầu năm sau, Mặt trận đưa ra chương trình hành động mà những điểm chính như sau:

• tôn trọng hiệp ước Geneve. Mĩ rút các cố vấn về, không gửi vủ khí qua miền Nam nữa,

• thực hiện hòa bình ngay ở miền Nam, không bắt bớ, tra hỏi, khủng bố, đàn áp dân nữa,

• thi hành tự do dân chủ,

• thả tất cả tù nhân chính trị,

• bỏ chính sách độc quyền kinh tế; nhận viện trợ kinh tế của bất kì nước nào, miễn nước viện trợ không đặt điều kiện chính trị,

• theo chính sách trung lập; lập một khu trung lập ờ Đông dương, gồm Nam việt, Cao miên và Lào, ba nước này được hoàn toàn độc lập.

Mỹ không chịu mà còn tăng viện trợ cho miền Nam về quân sự và kinh tế hơn nữa.

Bắc việt mới đầu không giúp đỡ gì cả ngoài một số nhỏ khí giới chuyển vô qua đường Lào. Hồ Chí Minh do dự: Nga muốn sống chung hòa bình với Mĩ, không khuyến khích Bắc đem quân vô Nam, vả lại, Bắc cũng muốn yên ổn dể kiến thiết trong một thời gian; nhưng Trung hoa thúc Bắc việt giúp Mặt trận Giải phóng vì ghét Mĩ, lại thêm các cán bộ tập kết cũng hăng hái đòi trở vô Nam giúp bạn chiến đấu của họ. Rốt cuộc Bắc phải lén đưa quân vô. Theo Bernard Fall (sách đã dẫn tr. 408) thì trước 1960, trong ba bốn năm chỉ đưa vô từ 1.800 đến 2.700 người, năm 1963 khoảng 4.000 người.

Cũng theo Bernard Fall (tr. 466) thì năm 1962 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đều nhận rằng thống nhất ngay Việt Nam lúc đó không có lợi gì vì Nam đã tan rã (các giáo phái, phe công giáo di cư, cả trăm ngàn người mang vũ khí. các châu thành lớn quá..., những cái đó gây ra rất nhiều vấn đề khó khăn), như vậy chỉ tạo thêm một gánh nặng cho Bắc, thà cứ để Nam làm một nước trung lập thịnh vượng như Finlande hoặc Autriche, một "cái cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài" mà lại có lợi hơn.

Nếu quả thực như vậy thì trước sau Hồ Chí Minh không muốn chiến tranh, sẵn sàng muốn thương thuyết, nhưng Mĩ thay Pháp ở Đông dương đâu có chịu giải pháp đó mà Diệm lại càng không chịu. Khi Diệm bị giết, quân nhân lên cầm quyền, Mĩ ồ ạt đổ quân lên Nam việt thì chiến tranh qua giai đoạn khốc liệt.

Chú thích
[1] Một linh mục đăng báo bảo Trung Hoa sở dĩ thành Cộng sản vì theo đạo Nho vì Nho trọng dân mà khinh vua, xúi dân nghèo lật đổ chính quyền.

[2] Theo G. Chaffard trong Indochine, dix ans d’indépendance, thì bộ Thông tin của Trần Chánh Thành in một tài liệu cho biết kết quả từ 1954 đến 1960 như sau:
- có 893.291 buổi dậy thuyết Duy Linh, 18.759.111 người theo học, nhờ vậy mà bắt được 516 cán bộ cộng sản nguy hiểm, thu phục được 3.250 cán bộ khác.
- Công an, cảnh sát bắt được 25.700 cán bộ cộng sản, Bảo an đoàn bắt được 22.500 cán bộ khác.

[3] Năm 1980 Trung Hoa thấy chính sách đó sai, đổi khẩu hiệu là “Hồng thì nhất định phải chuyên”, dù là đảng viên mà không có khả năng kỹ thuật thì cũng không dùng. Nhưng họ thực hiện nổi chính sách mới đó không, lại là một chuyện.

[4] Năm 1981, ông được bầu làm chủ tịch nhà nước.

[5] Chữ Hán là “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh”, một câu mà học giả đời Hán đặt ra để ca tụng cổ học thời Đông Chu.


 Chương XXII
Chiến Tranh Việt Mĩ (1965-1975)

Về giai đoạn này tôi hoàn toàn thiếu tài liệu. Các học giả Âu Mĩ chưa viết về chiến tranh Việt-Mĩ từ 1965 (1) đến 1974; dù có viết rồi thì ở Việt nam chúng tôi cũng không sao có mà đọc được. Còn tài liệu của mình (báo hằng ngày, vài cuốn sử biên niên của Đoàn Thêm (Nam Chi tùng thư) thì sau hai lần chính quyền Cách mạng ra lệnh hủy bỏ sách vở, lần trước vào khoảng cuối 1975 hay đầu 1976; lần sau vào đầu 1978, rất ít gia đình dám giữ, phải bán cho “ve chai” (2) hoặc đun bếp, nên tôi không thể kiếm được. Tôi lại ngại tới thư viện để tra cứu vì thủ tục lúc này rất phiền phức đối với người như tôi. Vả lại những tài lỉệu đó rời rạc, có tính cách một chiều, không đáng tin lắm. Tôi đành nhớ đâu chép đấy, chắc chắn là sai - nhất là về niên đại - chỉ mong ghi lại được hướng của các biến chuyển cùng cái không khí của thời đại, tình hình của xã hội trong mười năm sau khi nhà Ngô bị lật đổ thôi.

Các chính phủ quân nhân

Một số kí giả phương Tây gọi thời đó là thời của “chính sách Diệm mà không có Diệm” (Diemisme sans Diem). Xét chung lời đó đúng; trừ chính quyền Dương văn Minh trong mấy tháng đầu, các chính quyền quân nhân thời sau đều chủ trương diệt Cộng, và lần lần hóa độc tài như họ Ngô, kiểm duyệt sách báo mỗi ngày một gắt, dân chúng vẫn khổ như trước, chỉ khác không có kì thị tôn giáo nữa. Những năm cuối của thời đó các tướng tá vơ vét cho thật mau thật nhiều bằng mọi cách: mua quan bán tuớc, chuyển ngân, buôn lậu vàng và thuốc phiện. Bọn cầm quyền sống cực kì xa xỉ: người ta tiêu không biết bao nhiêu triệu bạc trong một tiệc gả con: một chiếc bánh cưới cao mấy thước phải bắc thang lên để cắt, sâm banh chảy như suối.

Mới đầu dân chúng tin ở chính phủ Dương văn Minh (quốc trưởng), Nguyễn Ngọc Thơ (thủ tướng) nhưng chỉ một hai tháng sau người ta thất vọng: dùng người cũ, không có chính sách gì mới, không phải là một chính phủ cách mạng.

Nguyễn Ngọc Thơ muốn dùng lại lực lượng của hai giáo phái Cao đài và Hòa hảo; Mĩ cũng tin rằng chỉ giáo phái mới thực tâm chống cộng, và hi vọng dùng chính sách đó có thể rút lần cố vấn Mĩ về được.

Johnson lên thay tổng thống Kennedy bị ám sát khoảng hai mươi ngày sau khi Diệm bị giết, giữ đúng đường lối của Kennedy và có vẻ lạc quan, tăng cường viện trợ cho Nam việt, tính cuối năm 1965 sẽ diệt xong Việt cộng.

Theo W.G. Burchett trong sách đã dẫn thì Dương văn Minh tuyên bố muốn trung lập hóa miền Nam như De Gaulle đề nghị. Mĩ chống giải pháp đó, kiếm một “người hùng” - tướng Nguyễn Khánh - để thay Minh. Cuộc đảo chánh thứ nhì xảy ra không tốn một viên đạn. Dương văn Minh và các tướng Đôn, Đính, Kim đều bị Khánh bắt - sau Minh được thả. (Nguyễn Ngọc Thơ đã từ chức từ trước rồi).

Cabot Lodge (đại sứ Mĩ) chỉ muốn Khánh nắm quyền quân sự thôi nhưng Khánh lăm le nắm cả quyền dân sự, tỏ vẻ độc tài, ban hành hiến chương Vũng tàu, bị sinh viên biểu tình phản đối, và Mĩ lại phải “thay ngựa”. Khánh qua Pháp rồi, Mĩ thí nghiệm một chính quyền dân sự, đưa một kĩ sư canh nông ái quốc, khá có tiếng, Phan Khắc Sửu lên làm quốc trưởng, nhưng quân đội chống đối, đưa tướng Nguyễn văn Thiệu lên làm Chủ tịch ủy ban lãnh đạo Quốc gìa, tướng Nguyễn Cao Kỳ làm phó chủ tịch.

Năm 1967, Thiệu và Kì được bầu làm tổng thống và phó tổng thống. Thiệu làm tổng thống bảy tám nãm, lúc thì dùng tướng Trần Thiện Khiêm, lúc thì dùng Trần văn Hương, một giáo sư già về hưu, có tiếng cương quyết, làm thủ tướng.

Chỉ trong mấy năm, Mĩ thay ngựa bốn năm lần mà tình hình cứ mỗi ngày một thêm bi đát.

Mĩ đưa quân sang

Năm 1964, Mặt trận Giải phóng thừa cơ Nam việt lục đục, chiếm được mấy ngàn ấp chiến lược. Chính sách ấp chiến lược là sáng kiến của Anh ở Mã lai. Anh đã thành công vì Mã lai chỉ có 8.000 Cộng sản mà quân đội Anh-Mã tới 450.000; lại thêm số dân trong các ấp chiến lược của họ ít - chỉ bằng 6% toàn dân - họ có thể dễ bảo vệ; còn ở Nam việt: Diệm tính nhốt hơn 9 triệu người, non 2/3 nông dân vào những ấp chiến lược, xây cất vội vàng, không đủ công sự, quân lính, khí giới để bảo vệ, cho nên các ấp sụp đổ rất mau.

Năm 1965, Bắc Việt được sự giúp đỡ cả của Trung hoa lẫn Nga, do đường Hồ Chí Minh (dọc theo dãy Trường sơn trên địa phận Lào) đưa hằng chục ngàn quân vô Nam, năm sau đưa thêm vô 40.000 và số quân của Mặt trận Giải phóng tổng cộng lên tới 282.000 (Bernard Fall – sách đã dẫn) và lúc đó 2/3 Nam việt đã bị Việt cộng kiểm soát.

Để cứu vãn tình thế, Mĩ phải đưa quân vô Nam, năm 1965 khoảng 100.000 người, sau tăng lần lần lên tới trên 500.000, cộng với quân của chính phủ miền Nam thì được trên 1.000.000, như vậy cũng chỉ bằng bốn lần số quân Giải phóng, mà như một chương trên tôi đã nói, Anh ở Mã lai đã phải dùng một số quân gấp 20 lần - có lúc 40 lần - mới thắng được Mã cộng.

Năm 1964 hay 1965, khi hay tin quân Mĩ sẽ đổ bộ lên miền Trung, tôi đã có một đoạn cảnh cáo trong một bài đăng trên tạp chí Bách Khoa, sau cho in lại trong cuốn Một niềm tin, nhưng bị kiểm duyệt đục bỏ, đại ý rằng sự đổ quân Mĩ vào nước mình đó sẽ gây rất nhiều xáo trộn trong xã hội mà người Mĩ sẽ bị dân chúng ghét. Người Mĩ chỉ làm cố vấn thôi thì dân chúng chấp nhận họ được (tổng thống Diệm hiểu điều đó, nên bắt cố vấn Mĩ đi ra đường không được bận quân phục); nhưng khi họ mang vũ khí tảo thanh, diệt người Việt - dù là Việt cộng - thì trong con mắt dân chúng, họ thành quân xâm lăng rồi. Trung hoa và Nga giúp Bắc việt nhưng không đưa quân qua chiến đấu, do đó, Bắc vẫn giữ được chính nghĩa.

Có thể chính quyền Mĩ cũng hiểu vậy nhưng không thể làm khác được vì tình hình Nam việt đã sắp sụp đổ đến nơi.

Ảnh hưởng về phương diện xã hội còn tai hại hơn nhiều. Quân Mĩ vung tiền ra để mua những thú vui nhục thể. Rất nhiều chị ở, chị bếp bán thân cho họ để họ “bao” và cuối tháng lănh một số tiền bằng mười số tiền khi giúp việc cho người Việt. Chúng mướn nhà và chịu trả một số tiền thuê gấp năm gấp mười tiền thuê bình thường. Rất nhiều người Việt chịu ở chật chội trong vài phòng sau nhà, để nhà chính cho Mĩ thuê. Kẻ có tiền thì cất nhà cho Mĩ mướn.

Chúng dâm loạn, nghiện bạch phiến, ăn cắp đồ để bán chợ đen. Chúng lại ngạo mạn, tàn nhẫn: ngồi trên xe nhà binh, xả súng vào trẻ em, liệng đá vào xe qua đường mà cười hô hố, cán người rồi dông.

Mỗi tên lính Mĩ tiêu mỗi tháng không biết mấy trăm đô la ở Việt nam; nửa triệu lính Mĩ mỗi năm đổ cả tỉ đô la vào nước mình; kinh tế phồn thịnh lên một cách giả tạo và trong xã hội xuất hiện một giới biếng nhác, sa đọa mà lại có nhiều tiền, cả quyền thế nữa. Một số thanh niên hóa điếm đàng, hút sách.

Do đó ai biết suy nghĩ một chút cũng oán Mĩ, thấy miền Nam chỉ là “một sân banh cho Mĩ quần nhau với Nga và Trung hoa”; đi lính cho miền Nam không phải là để bảo vệ tự do hay tổ quốc gì cả mà chỉ để đỡ đạn cho Mĩ, cho nên bị kêu nhập ngũ thì trốn, không trốn được thì vận động để được làm ở phòng giấy, khỏi phải ra mặt trận vừa bắn vào đồng bào của mình. Tinh thần chiến đấu rất thấp. Và một số trí thức biết rằng sống dưới chế độ Cộng sản không được tự do, nhưng vẫn mong cho Bắc Việt thắng vì tin rằng xã hội ngoài đó lành mạnh hơn, con người ngoài đó có lí tưởng hơn, nhà cầm quyền ngoài đó trong sạch hơn, có nhân cách hơn bọn tướng tá chính khách trong Nam. Họ không sống ở ngoài đó nên không biết dược sự thật ra sao, và sau này họ mới vỡ mộng.

Vì tinh thần chiến đấu của miền Nam mỗi ngày một sút - nhiều bài ca phản chiến được dân chúng rất thích - cho nên Mĩ dù đổ thêm quân vô, dùng khí giới tối tân, cũng chỉ chống đỡ được thôi chứ không thắng nổi Bắc Việt.

Năm 1965, Mĩ dùng một lực lượng hủng hậu tảo thanh “tam giác sắt” (chiến khu D) cách Sài gòn năm sáu chục cây số về phía bắc để quân Giải phóng hết chỗ núp. Họ đưa rất nhiều quân, xe thiết giáp bao vây khu đó, dùng phi cơ B-52 dội bom 500 ki lô xuống, theo chiều dọc, chiều ngang, không chừa một chỗ nào, như để cầy khu đó lên; lại dùng bom Napalm, hóa chất để đốt phá rừng bụi, rồi mới cho quân vào dò những chỗ có hầm, gặp thì phá hủy, vậy mà Việt cộng vẫn thoát được. Chiến dịch đó thất bại nặng hơn chiến dịch Navarre năm 1953 ở “con đường sầu thảm” nữa.

Trong hai năm sau, có những vụ kịch chiến ờ Pleime, Tây ninh, Chu lai, Khe sanh, hai bên đều tổn thất nặng.

Vụ Mậu Thân

Kinh khủng nhất là vụ Tết Mậu thân (1968). Tối ba mươi tết, dân Sài gòn vừa mới làm lễ rước tổ tiên thì có tiếng súng nổ mỗi lúc một nhiều, và nhà nào nhà nấy vội khóa cửa, đem theo ít quần áo thức ăn, dẩt díu nhau tản cư. Việt cộng đã đột nhập miền Chợ lớn, Bình hòa (Gia định), tiến vào giữa thành phố, bao vây tòa Đại sứ Mĩ trong sáu giờ. Từ trước vẫn có lệ Tết thì hai bên ngưng chiến trong vài ba ngày. Năm đó các tướng tá của mình từ trên xuống dưới quá tin hoặc khinh địch, không đề phòng gì cả, đều rời Sài gòn, đi xa ăn Tết, nên không kịp chống đỡ.

Lần này là một cuộc tổng tấn công: cùng một lúc hoặc cách nhau độ một hai ngày, 36 đến 44 thị trấn từ Huế vào tới Bạc liêu bị Việt cộng đột nhập như vậy. Toàn dân hoảng hốt, tưởng lần này thì Việt cộng chiếm trọn miền Nam rồi, vào ăn tết ở thành, chứ không phải là tuyên truyền như mấy tết trước.

Khắp thế giới ngạc nhiên và phục Việt cộng tổ chức cách nào mà chính phủ miền Nam không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền miền Nam biết. Trái lại mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của miền Nam họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giớỉ biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mĩ thất bại hoài.

Phải mất một tuần hay nửa tháng, Mĩ mới đuổi được quân Việt cộng ra khỏi Sài gòn; Sài gòn thiệt hại không nặng lắm. Ở Huế, tình hình bi đát hơn nhiều. Việt cộng hoàn toàn làm chủ trong một tháng, bắt giết kẻ hợp tác với Mĩ, vùi thây ngay trong vườn hoặc bên lề đường, hoặc trong những hầm tập thể. Họ bắt dân thường tiếp tay họ. Không rõ bao nhiêu người bị giết - có sách nói ít nhất 10.000 người, riêng một hầm chôn thây tập thể cũng đã chứa 1.000 thây người. Sau có nhiều kí giả chép lại vụ đó và một nữ sĩ, Nhã ca, quê ở Huế, viết Dải khăn sô cho Huế, Tình ca cho Huế đổ nát, lời rất xúc động. (3) Hình như không có phóng viên báo ngoại quốc nào có mặt ở Huế lúc đó.

Tại các thị trấn miền nam Trung việt, dân cũng bỏ nhà, tản cư hết. Có nơi heo đói quá, ăn thịt người; gà mổ gỉòi từ các thây ma bò ra. Chưa bao giờ dân tộc mình thấy những cảnh rùng rợn như vậy.

Mọi công việc buôn bán gần như ngưng trệ trong hai tháng vì thiếu phúơng tiện giao thông. Ngay đến quân nhân muốn trở về đơn vị mà cũng phải đợi nửa tháng mới có máy bay.

Khi Việt cộng rút ra hết các thị trấn rồi thì Sài gòn bị cái nạn hỏa tiễn địa-địa Việt cộng từ xa bắn vào. Một số nhà bị hủy ở gần chợ Bến thành và nhiều nơi khác. Khu của tôi yên ổn, nhưng nhà tôi cũng sợ quýnh lên, đòi lại khu Bàn cờ ở với mấy cô em mà khu đó không yên gì hơn khu tôi. Đa số dân chúng đều như vậy, hoảng hốt thì bỏ nhà mà đi, không suy nghĩ gì cả, có khi bỏ chỗ yên lại chỗ không yên. Tôi rất bình tĩnh, cứ ngồi ở phòng viết trên lầu mà dịch Chiến tranh và Hoà bình của Tolstoi cho nhà Lá Bối. Thời đó xe cộ ít qua lại, ngoài đường ít người, khu tôi thật tĩnh mịch, rất thích hợp cho việc viết lách.

Một anh bạn lại chơi hỏi tại sao không xuống ngồi ở tầng dưới để được thêm một cái trần nữa che chở. Tôi đáp: “Các tủ sách để cả ở đây, viết ở đây tiện hơn. Tôi cứ coi như hồi còn ở căn nhà trệt, không lầu ở đường Huỳnh Tịnh Của.”

Sau biến cố Mậu thân, một số bạn tôi như gia đình Thiên Giang, giáo sư Lê văn Hảo ở Huế bỏ ra bưng rồi ra Hà nội.

Mấy năm trước đó, Thiên Giang đã hoạt động cho Cách mạng, muốn rủ tôi theo, tôi từ chối, tự xét chỉ thích hợp với việc trứ tác thôi. Như hầu hết các nhà làm chính trị, ông ta có tinh thần đảng phái (sataire). Từ đó chúng tôi lần lần xa nhau, nhưng tôi vẫn giữ niềm hòa hảo với ông.

Khoảng 1970 hay 1971, một anh bạn khác dụ tôi ra ứng cử tổng thống vì anh ta cho rằng tôi có tiếng tăm trong nước, liêm chính mà lại không bị một vết nào: không hợp tác với Pháp, với Diệm, với Thiệu, không thân với Mĩ. Tôi mỉm cười đáp: “Chịu thôi, không đủ sức khỏe và mánh khóe.” và nghĩ bụng: “Cứ làm một thư sinh độc lập thì còn được một số độc giả mến, chứ ra làm chính trị thì chẳng được việc gì mà còn bị thiên hạ khinh.”

Vừa đánh vừa đàm - Hiệp định Paris

Từ năm 1965, Mĩ đã dùng phi cơ oanh tạc Bắc việt, có ý buộc Bắc phải điều đình. Mãi đến giữa 1968, hai bên mới bắt đầu thương thuyết với nhau ở Parỉs. Mĩ buộc Bắc phải rút hết quân về. Bắc cũng đòi Mĩ phải rút hết quân về. Nam không chấp nhận Mặt trận Giải phóng. Bắc đòi phảí chấp nhận. Từ đó đến 1973 họ vừa đàm vừa đánh. Để làm áp lựp, Mĩ oanh tạc mỗi ngày một mạnh hơn, nhưng càng oanh tạc thì thái độ của Bắc càng cứng rắn, dân chúng càng sát cánh với nhà cầm quyền. Phá hủy khu kĩ nghệ Thái nguyên, Bắc cũng không núng, oanh tạc các đường sắt, đê điều họ cũng không núng; Nga và Trung hoa càng viện trợ khí giới, đại bác. hỏa tiển, phi cơ cho họ.

Cuộc oanh tạc lớn nhất xảy ra năm 1972, sau vụ Bắc việt đại tấn công thành phố Quảng trị, san phẳng thành bình địa. Liên tiếp mười hai ngày, Hà nội bị dội bom. Mĩ còn thả thủy lôi trên các sông Bắc Việt, nhất là biển Hải phòng, không cho tàu Nga ra vô. Trung hoa chỉ lên tiếng phản đối gọi là, còn Nga thì trước sau làm thinh. Một số người ở Sài gòn nguyền rủa Mĩ mà cũng nguyền rủa cả Nga lẫn Trung hoa.

Chúng ta nên để ý: năm 1972, Nixon, tổng thống Mĩ qua thăm Mao rồi thăm Nga, chắc chắn là để tìm một giải pháp cho chiến tranh Việt nam, có lẽ vì vậy mà Mĩ mới dám ngang tàng dội bom Hà nội và phong tỏa hải cảng Hải phòng.

Cả thế giới bất bình với Mĩ: một anh khổng lồ mà ăn hiếp một chú bé, dùng những đòn nặng như vậy, thật vô liêm sỉ. Chính dân chúng Mĩ cũng chê kẻ cầm đầu của họ. Một triết gia Anh, Bertrand Roussell, lập một tòa án ở Na uy (?) để xử tội Mĩ.

Dội bom Hà nội 12 ngày rồi Mĩ ngừng để thương thuyết với Bắc Việt, và ngày 27-1-73, Mĩ, miền Nam Việt nam kí với Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng hiệp định Paris có nhiều nước chứng kiến: Nga, Trung hoa, Pháp, Anh.

Tôi không nhớ rõ nội dung hiệp định đó, đại khái là Mĩ rút hết quân về. Bắc cũng vậy; Nam và Bắc trao đổi tù binh với nhau; ở miền Nam sẽ có một chính phủ lâm thời gồm ba thành phần: người của chính phủ miền Nam, người của Mặt trận Giải phóng và một số người không đứng về phe Nam hay phe Bắc, do hai chính phủ Nam và Giải phóng đề cử, số người đó là thành phần thứ ba.

Những bí mật trong chiến tranh Việt Mĩ

Trong chiến tranh Việt Mĩ có nhiều bí mật tôi không hiểu nổi. Mĩ thay Pháp ở Đông dương để chặn làn sóng cộng sản Trung hoa tràn xuống Đông nam Á. Vậy là mới đầu Mĩ thù Trung hoa, sau tại sao lại thân thiện với Trung hoa? Chỉ vì thị trường hàng tỉ người ở Trung hoa chăng? Hay là còn vì Mĩ biết Trung hoa thù Nga từ 1960, mà Trung hoa yếu hơn Nga, cho nên đứng về phía Trung hoa để cho thế lực của Nga giảm đi?

Nga, Hoa đều phải giúp Bắc Việt để chống Mĩ, nhưng cả hai đều gờm nhau: có hồi Trung hoa không cho khí giới Nga viện trợ đi qua Trung hoa để tới Bắc Việt, còn Nga thì không muốn Bắc Việt lệ thuộc vào Trung hoa nhiều quá. Nhờ uy tín và sự khéo léo của Hồ Chí Minh mà Bắc Việt giữ được tình hòa hảo với hai nước đó.

Hình như Nga có hồi khuyên Bắc Việt nhượng bộ Mĩ. Tại sao? Và chính trong hội nghị Paris, Trung hoa cũng muốn vậy chăng? Có phải là cả ba cường quốc Mĩ, Nga, Hoa đều muốn cho miền Nam trung lập, không lệ thuộc vào nước nào chăng?

Còn nhiều bí mật nữa, các sử gia chưa thể công bố được, mà các phóng viên báo Âu Mĩ chưa hề xuất bản một cuốn nào về chiến tranh Việt Mĩ, cho nên chúng ta đành chịu, không hiểu chút gì về những âm mưu của các nước anh chị để định đoạt thân phận của chúng ta.

Ngay từ 1968. trong bài tựa cuốn Bài học Israel tôi đã viết:

“Thực dân nào, bất kì đông hay tây, cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ trước hết; còn có lợi cho họ thì họ giúp, hết lợi thì họ bỏ và đàn áp. Do thái bị Anh bỏ rồi Nga bỏ; Ai cập bị Mĩ bỏ, rồi Nga bỏ (…)

“Càng đọc lịch sử thế giới tôi càng thấy đi theo thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại. Phải là một dân tộc có thực lực, có bản lãnh cao, có tài chống đỡ giỏi thì mới có thể khỏi bị họ lợi dụng, nhưng nếu lỡ mà gắn bó với họ thì sớm muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ. Còn các nước nhược tiểu thì chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn cờ quốc tế. Có lẽ chính Israel cũng hiểu như vậy nên năm 1967 họ đòi trực tiếp thương thuyết với Ả rập, không muốn Nga, Mĩ làm trung gian.

“Nội một điều này cũng đủ cho ta suy nghĩ. Từ sau thế chiến đến nay, cường quốc nào cũng đua nhau chế tạo võ khí cho thật tinh xảo, có sức mạnh tàn phá mỗi ngày một khủng khiếp. Năm nào cũng có những phát minh mới, thành thử võ khí nào tối tân nhất cũng chỉ ít năm hóa cổ lỗ. Họ có liệng xuống biển không, có phá hủy không, hay phải tìm cách “tiêu thụ” mà tiêu thụ ở đâu? Có ở trên đất họ không?”


Đoạn đó, năm 1979, đầu chiến tranh Việt Hoa, môt cán bộ Nam bảo tôi, bây giờ đọc nó mới thấm thía. Và cuốn Bài học Israel được nhiều người tìm mua ở chợ sách cũ mà không còn.

Đầu năm 1972, thấy Nixon sắp bỏ rơi miền Nam, tôi chua chát viết bài “Sau 18 năm tiếp xúc với người Mĩ” đăng trên tạp chí Bách Khoa. Xin dẫn dưới đây một đoạn:

“Họ (người Mĩ) đã tiêu hai trăm tỉ Mĩ kim, hi sinh năm chục ngàn thanh niên, trút hàng triệu tấn bom, làm cho non triệu người mình bi giết, hằng vạn hằng ức mẫu vườn ruộng, hằng ngàn làng mạc bị tàn phá, gây biết bao tang tóc, mấy trăm ngàn phế binh, cô nhi quả phụ, non mười năm rồi mà vẫn chưa giải quyết nổi chiến tranh này (…), rốt cuộc phải tìm cách thương thuyết.

Thương thuyết mấy năm không xong, bây giờ một mặt họ lo vuốt ve Trung cộng (mới mấy năm trước là kẻ thù số 1 của họ) hi vọng tìm một giải pháp cho Đông dương, một mặt họ cấp tốc Việt hóa chiến tranh để rút lui. Họ hai trăm triệu người, một dân tộc hùng cường nhất thế giới, trút hết cả gánh nặng bảo vệ “tiền đồn thế giới tự do” như họ nói, bảo vệ “tân biên cương” của họ như họ chủ trương, lên vai 17 triệu dân Việt nam, mà lại tính cắt hết viện trợ kinh tế nữa, như vậy có khác gì họ chạy làng, đánh trống bỏ dùi không? Lương tâm họ ở đâu nhỉ? Thể diện của họ ở đâu nhỉ?”


Giọng gay gắt như vậy mà sở kiểm duyệt không bỏ một chữ, chỉ vì niềm phẫn uất của tôi là tâm trạng chung của mọi người.

Thơ văn, cả nhạc phản chiến nữa xuất hiện rất nhiều, mà phản chiến tức là phản Mĩ, chính quyền mới đầu còn cấm, sau làm thinh. Ai cũng ghét bọn lính Mĩ; chúng có nhiều tiền. nhiều vật dụng, nhiều đồ xa xỉ (đồ P.X.: dầu thơm, thuốc lá thơm, quần áo. máy thu thanh, tủ lạnh...) tới đâu là mở những hộp đêm ở đó, gây cái nạn trụy lạc, mãi dâm, gái bán “bar”, trai “phi xì ke” (ma túy); chúng ăn cắp, ăn quịt, bán chợ đen… Ngay những kẻ rút rỉa tiền của chúng cũng khinh, ghét chúng. Chúng quả là một đoàn quân chiếm đóng và hành động như một đoàn quân chiếm đóng. Mĩ thất bại ở Trung hoa và Việt nam, nguyên nhân chính ở đó. Mà các thực dân da trắng không nhiều thì ít như vậy hết, tệ nhất là Mĩ. Nếu phe tư bản không thay đổi chính sách thì dần dần đệ tam thế giới sẽ theo phe Cộng hết mặc dầu dân chúng không ưa chế độ độc tài của Nga, Trung hoa.

Mĩ rút về, quân Nam tan rã. Chiến tranh chấm dứt

Đúng là Mĩ chạy làng. Họ vội vã rút hết quân về, và khi không còn một lính Mĩ nào ở Việt nam nữa thì Bắc, Nam lại choảng nhau. Chủ trương Việt nam hóa chiến tranh của Nixon đã được thực hiện.

Mới đầu Nixon cũng cho phi cơ từ Phi luật tân hay đảo Guam trợ chiến với quân đội của Thiệu; nhưng khi nửa triệu quân Mĩ còn ở trên đất miền Nam, quân đội của Thiệu đã không có tinh thần thì bây giờ làm sao có tinh thần được? Thiệu xin thêm viện trợ tiền bạc và võ khí, quốc hội Mĩ không cho, Thiệu nổi khùng, chửi Mĩ thậm tệ hơn một giờ trên đài truyền hình.

Ngày 10-3-75 Việt cộng tấn công Ban mê thuột, ngày 11-3 Ban mê thuột thất thủ.

Ngày 15-3, Thiệu họp các tướng. quyết đinh bỏ Pleiku, Kontum một cách vội vàng, để lại hàng núi chiến cụ. Hai trăm ngàn dân bị bỏ rơi, mạnh ai nấy tự tìm cách thoát thân; Cộng quân chặn đường pháo kích; hai vạn dân bỏ mạng, hằng ngàn người kiệt sức, chết dọc đường.

Ngày 19-3 Quảng trị di tản.

Hôm sau, An lộc thất thủ, sau một thờí gian bị bao vây ngày đêm bị đại bác, hỏa tiễn nã vào.

Kế đó là Huế, Quảng ngãi, Đà nẵng, Qui nhơn, Nha trang bị Cộng quân chiếm một cách rất dễ. Cũng có một vài tướng rán chống cự, nhưng quân lính không tuân lệnh thì chỉ còn cách đào tẩu để thoát thân.

Đà lạt bỏ ngỏ, Phan rang đầu hàng, Phan thiết tan rã.

Ngày 21-4 Xuân lộc thất thủ (trước đó bốn ngày, Nam vang lọt vào tay Khmer đỏ). Thiệu từ chức, Trần văn Hương lên thay. Ít bữa sau Thiệu dắt vợ con qua Đài loan, đem theo không biết mấy tấn vàng.

Ngày 26-4 Trần văn Hương yêu cầu lưỡng viện bàu người khác thay ông để thương thuyết với Mặt trận Giải Phóng.

Hôm sau đại tướng Dương văn Minh được bàu lên thay Hương.

Ngày 30-4 Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, kêu gọi buông súng cho đỡ chết dân. Mười hai giờ trưa, tướng Trần văn Trà ngồi xe thiết giáp tiến vào dinh Độc lập. Chiến tranh chấm dứt.

Có sách hay báo nói: trong chiến tranh Việt Mĩ này, miền Nam chết khoảng 200.000 quân, miền Bắc chết non 1.000.000 quân; thường dân cả hai miền chết trên một triệu. Trong số này chắc không kể những thường dân miền Nam chết trong khi chạy loạn tháng 3 và tháng 4-1975. Bi đát hơn cuộc chạy loạn của dân Paris tháng 6-1940 nhiều.

Từ miền thượng xuống miền đồng bằng, từ Huế vô Phan thiết, Biên hòa, trên khắp các lộ xe hơi, xe căm nhông chật đường, nhích từng thước một; dân chúng dắt díu, bồng bế nhau chạy. Vợ hay con chết ở dọc đường, đành phải vùi nông ở ngay bên đường rồi chạy... Chạy để tránh cuộc tàn sát ở Huế tết Mậu thân mà người ta không sao quên được. Tới bờ biển Qui nhơn, Nha trang, Phan thiết… người ta nhảy ùm xuống biển, cố lội ra mấy tầu của Mỹ. Người trên tầu cũng là dân tị nạn, xô đẩy, có khi chém vào tay kẻ ở dưới biển đòi leo lên. Trẻ em chết đói, chết khát, chết bệnh ở trên bãi biển, cha mẹ gạt nước mắt, vủi thây chúng xuống cát.

Ở các phi trường, cảnh còn hỗn độn hơn nữa. Người ta bỏ lại hết các va li quần áo, tiền của, vàng bạc để cố leo lên phi cơ, mà cũng bị hất xuống, thế là của cải mất hết mà vẫn không thoát thân. Phi trường Tourane như vậy, phi trường Nha trang, Biên hòa đều như vậy, mà ngay phi trường Tân sơn nhất cũng vậy. Nghe nói có người bám lấy đuôi một chiếc xc Jeep để vào phi trường, bị xe kéo lết cả câv số.

Không có trận Điện Biên Phủ ở miền Nam - tướng Mĩ hứa từ trước như vậy và họ giữ đúng - nhưng còn nhục nhã gấp chục lần Điện Biên Phủ nữa vì họ chịu thua trước rồi, có chống cự tới cùng đâu. Thà như quân Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn được tiếng anh dũng. Chính người Mĩ cũng nhận chưa bao giờ nước Mĩ thất bại lớn như vây. Nguyên nhân thất bại cũng như Pháp mà lại mang tiếng phản bạn.

Vậy là hiệp định Paris kí ngày 27-1-73, chưa ráo nét mực đã bị xé. Ai xé trước? Lỗi tại ai? Không biết. Chỉ biết trong mười hai tháng đầu sau hiệp định, trung bình ở Việt nam chết thêm 1.000 người mỗi tuần nữa.

Năm 1976 có thuyết cho rằng tướng Võ Nguyên Giáp không cho quân Bắc tiến vô quá Đà nẵng, nhưng rồi không cản được. Có thực vậy không? Cũng không biết. Vận mạng của bốn năm chục triệu dân Việt do cái gì quyết định? Không ai biết được.

*

Chiển tranh Việt-Mĩ chấm dứt sau 15 năm nếu kể từ ngày Mặt trận Giải phóng chính thức thành lập (1960), dài gần gấp hai chiến tranh Việt-Pháp.

Theo P. Singh trong Le jeu des puissances en Asie (Marabout 1974) thì chiến tranh đó làm thiệt hai triệu mạng người (chắc cho cả hai bên) và ở Việt nam cả Nam lẫn Bắc, Mĩ đã liệng trung bình nửa tấn bom xuống mỗi héc-ta đất.

Mĩ đã đổ vào chiến tranh đó trên 200 tỉ đô la.



Chú thích

[1] Mĩ thay Pháp ở Việt nam từ 1954, nhưng chỉ thực sự đưa quân vào miền Nam từ 1965.

[2] Danh tử này như danh từ “đồng nát” ở Bắc, chỉ những người đi từng nhà mua đồ phế thải.

[3] Sau ngày 30-4, Nhã Ca phải đi trại cải tạo, mới được về năm 1979.
  
Chương XXII
Chiến tranh Việt Mỹ (1965-1975)
Về giai đoạn này tôi hoàn toàn thiếu tài liệu. Các học giả Âu Mỹ chưa viết về chiến tranh Việt-Mỹ từ 1965 [1] đến 1974; dù có viết rồi thì ở Việt Nam chúng tôi cũng không sao có mà đọc được. Còn tài liệu của mình (báo hằng ngày, vài cuốn sử biên niên của Đoàn Thêm (Nam Chi tùng thư) thì sau hai lần chính quyền Cách mạng ra lệnh hủy bỏ sách vở, lần trước vào khoảng cuối 1975 hay đầu 1976; lần sau vào đầu 1978, rất ít gia đình dám giữ, phải bán cho “ve chai” [2] hoặc đun bếp, nên tôi không thể kiếm được. Tôi lại ngại tới thư viện để tra cứu vì thủ tục lúc này rất phiền phức đối với người như tôi. Vả lại những tài liệu đó rời rạc, có tính cách một chiều, không đáng tin lắm. Tôi đành nhớ đâu chép đấy, chắc chắn là sai - nhất là về niên đại - chỉ mong ghi lại được hướng của các biến chuyển cùng cái không khí của thời đại, tình hình của xã hội trong mười năm sau khi nhà Ngô bị lật đổ thôi.
Các chính phủ quân nhân
Một số ký giả phương Tây gọi thời đó là thời của “chính sách Diệm mà không có Diệm” (Diemisme sans Diem). Xét chung lời đó đúng; trừ chính quyền Dương văn Minh trong mấy tháng đầu, các chính quyền quân nhân thời sau đều chủ trương diệt Cộng, và lần lần hóa độc tài như họ Ngô, kiểm duyệt sách báo mỗi ngày một gắt, dân chúng vẫn khổ như trước, chỉ khác không có kỳ thị tôn giáo nữa. Những năm cuối của thời đó các tướng tá vơ vét cho thật mau thật nhiều bằng mọi cách: mua quan bán tước, chuyển ngân, buôn lậu vàng và thuốc phiện. Bọn cầm quyền sống cực kỳ xa xỉ: người ta tiêu không biết bao nhiêu triệu bạc trong một tiệc gả con: một chiếc bánh cưới cao mấy thước phải bắc thang lên để cắt, sâm banh chảy như suối.
Mới đầu dân chúng tin ở chính phủ Dương văn Minh (Quốc trưởng), Nguyễn Ngọc Thơ (Thủ tướng) nhưng chỉ một hai tháng sau người ta thất vọng: dùng người cũ, không có chính sách gì mới, không phải là một chính phủ cách mạng.
Nguyễn Ngọc Thơ muốn dùng lại lực lượng của hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo; Mỹ cũng tin rằng chỉ giáo phái mới thực tâm chống cộng, và hi vọng dùng chính sách đó có thể rút lần cố vấn Mỹ về được.
Johnson lên thay Tổng thống Kennedy bị ám sát khoảng hai mươi ngày sau khi Diệm bị giết, giữ đúng đường lối của Kennedy và có vẻ lạc quan, tăng cường viện trợ cho Nam Việt, tính cuối năm 1965 sẽ diệt xong Việt cộng.
Theo W.G. Burchett trong sách đã dẫn thì Dương văn Minh tuyên bố muốn trung lập hóa miền Nam như De Gaulle đề nghị. Mỹ chống giải pháp đó, kiếm một “người hùng” - tướng Nguyễn Khánh - để thay Minh. Cuộc đảo chánh thứ nhì xảy ra không tốn một viên đạn. Dương văn Minh và các tướng Đôn, Đính, Kim đều bị Khánh bắt - sau Minh được thả. (Nguyễn Ngọc Thơ đã từ chức từ trước rồi).
Cabot Lodge (Đại sứ Mỹ) chỉ muốn Khánh nắm quyền quân sự thôi nhưng Khánh lăm le nắm cả quyền dân sự, tỏ vẻ độc tài, ban hành hiến chương Vũng tàu, bị sinh viên biểu tình phản đối, và Mỹ lại phải “thay ngựa”. Khánh qua Pháp rồi, Mỹ thí nghiệm một chính quyền dân sự, đưa một kỹ sư canh nông ái quốc, khá có tiếng, Phan Khắc Sửu lên làm Quốc trưởng, nhưng quân đội chống đối, đưa tướng Nguyễn văn Thiệu lên làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó chủ tịch.
Năm 1967, Thiệu và Kỳ được bầu làm Tổng thống và Phó tổng thống. Thiệu làm Tổng thống bảy tám năm, lúc thì dùng tướng Trần Thiện Khiêm, lúc thì dùng Trần văn Hương, một giáo sư già về hưu, có tiếng cương quyết, làm Thủ tướng.
Chỉ trong mấy năm, Mỹ thay ngựa bốn năm lần mà tình hình cứ mỗi ngày một thêm bi đát.
Mỹ đưa quân sang
Năm 1964, Mặt trận Giải phóng thừa cơ Nam Việt lục đục, chiếm được mấy ngàn ấp chiến lược. Chính sách ấp chiến lược là sáng kiến của Anh ở Mã Lai. Anh đã thành công vì Mã Lai chỉ có 8.000 Cộng sản mà quân đội Anh-Mã tới 450.000; lại thêm số dân trong các ấp chiến lược của họ ít - chỉ bằng 6% toàn dân - họ có thể dễ bảo vệ; còn ở Nam Việt: Diệm tính nhốt hơn 9 triệu người, non 2/3 nông dân vào những ấp chiến lược, xây cất vội vàng, không đủ công sự, quân lính, khí giới để bảo vệ, cho nên các ấp sụp đổ rất mau.
Năm 1965, Bắc Việt được sự giúp đỡ cả của Trung Hoa lẫn Nga, do đường Hồ Chí Minh (dọc theo dãy Trường sơn trên địa phận Lào) đưa hằng chục ngàn quân vô Nam, năm sau đưa thêm vô 40.000 và số quân của Mặt trận Giải phóng tổng cộng lên tới 282.000 (Bernard Fall - sách đã dẫn) và lúc đó 2/3 Nam Việt đã bị Việt cộng kiểm soát.
Để cứu vãn tình thế, Mỹ phải đưa quân vô Nam, năm 1965 khoảng 100.000 người, sau tăng lần lần lên tới trên 500.000, cộng với quân của chính phủ miền Nam thì được trên 1.000.000, như vậy cũng chỉ bằng bốn lần số quân Giải phóng, mà như một chương trên tôi đã nói, Anh ở Mã Lai đã phải dùng một số quân gấp 20 lần - có lúc 40 lần - mới thắng được Mã cộng.
Năm 1964 hay 1965, khi hay tin quân Mỹ sẽ đổ bộ lên miền Trung, tôi đã có một đoạn cảnh cáo trong một bài đăng trên tạp chí Bách Khoa, sau cho in lại trong cuốn Một niềm tin, nhưng bị kiểm duyệt đục bỏ, đại ý rằng sự đổ quân Mỹ vào nước mình đó sẽ gây rất nhiều xáo trộn trong xã hội mà người Mỹ sẽ bị dân chúng ghét. Người Mỹ chỉ làm cố vấn thôi thì dân chúng chấp nhận họ được (Tổng thống Diệm hiểu điều đó, nên bắt cố vấn Mỹ đi ra đường không được bận quân phục); nhưng khi họ mang vũ khí tảo thanh, diệt người Việt - dù là Việt cộng - thì trong con mắt dân chúng, họ thành quân xâm lăng rồi. Trung Hoa và Nga giúp Bắc Việt nhưng không đưa quân qua chiến đấu, do đó, Bắc vẫn giữ được chính nghĩa.
Có thể chính quyền Mỹ cũng hiểu vậy nhưng không thể làm khác được vì tình hình Nam Việt đã sắp sụp đổ đến nơi.
Ảnh hưởng về phương diện xã hội còn tai hại hơn nhiều. Quân Mỹ vung tiền ra để mua những thú vui nhục thể. Rất nhiều chị ở, chị bếp bán thân cho họ để họ “bao” và cuối tháng lãnh một số tiền bằng mười số tiền khi giúp việc cho người Việt. Chúng mướn nhà và chịu trả một số tiền thuê gấp năm gấp mười tiền thuê bình thường. Rất nhiều người Việt chịu ở chật chội trong vài phòng sau nhà, để nhà chính cho Mỹ thuê. Kẻ có tiền thì cất nhà cho Mỹ mướn.
Chúng dâm loạn, nghiện bạch phiến, ăn cắp đồ để bán chợ đen. Chúng lại ngạo mạn, tàn nhẫn: ngồi trên xe nhà binh, xả súng vào trẻ em, liệng đá vào xe qua đường mà cười hô hố, cán người rồi dông.
Mỗi tên lính Mỹ tiêu mỗi tháng không biết mấy trăm đô la ở Việt Nam; nửa triệu lính Mỹ mỗi năm đổ cả tỉ đô la vào nước mình; kinh tế phồn thịnh lên một cách giả tạo và trong xã hội xuất hiện một giới biếng nhác, sa đọa mà lại có nhiều tiền, cả quyền thế nữa. Một số thanh niên hóa điếm đàng, hút sách.
Do đó ai biết suy nghĩ một chút cũng oán Mỹ, thấy miền Nam chỉ là “một sân banh cho Mỹ quần nhau với Nga và Trung Hoa”; đi lính cho miền Nam không phải là để bảo vệ tự do hay tổ quốc gì cả mà chỉ để đỡ đạn cho Mỹ, cho nên bị kêu nhập ngũ thì trốn, không trốn được thì vận động để được làm ở phòng giấy, khỏi phải ra mặt trận vừa bắn vào đồng bào của mình. Tinh thần chiến đấu rất thấp. Và một số trí thức biết rằng sống dưới chế độ Cộng sản không được tự do, nhưng vẫn mong cho Bắc Việt thắng vì tin rằng xã hội ngoài đó lành mạnh hơn, con người ngoài đó có lý tưởng hơn, nhà cầm quyền ngoài đó trong sạch hơn, có nhân cách hơn bọn tướng tá chính khách trong Nam. Họ không sống ở ngoài đó nên không biết dược sự thật ra sao, và sau này họ mới vỡ mộng.
Vì tinh thần chiến đấu của miền Nam mỗi ngày một sút - nhiều bài ca phản chiến được dân chúng rất thích - cho nên Mỹ dù đổ thêm quân vô, dùng khí giới tối tân, cũng chỉ chống đỡ được thôi chứ không thắng nổi Bắc Việt.
Năm 1965, Mỹ dùng một lực lượng hùng hậu tảo thanh “tam giác sắt” (chiến khu D) cách Sài gòn năm sáu chục cây số về phía bắc để quân Giải phóng hết chỗ núp. Họ đưa rất nhiều quân, xe thiết giáp bao vây khu đó, dùng phi cơ B-52 dội bom 500 ki lô xuống, theo chiều dọc, chiều ngang, không chừa một chỗ nào, như để cầy khu đó lên; lại dùng bom Napalm, hóa chất để đốt phá rừng bụi, rồi mới cho quân vào dò những chỗ có hầm, gặp thì phá hủy, vậy mà Việt cộng vẫn thoát được. Chiến dịch đó thất bại nặng hơn chiến dịch Navarre năm 1953 ở “con đường sầu thảm” nữa.
Trong hai năm sau, có những vụ kịch chiến ờ Pleime, Tây Ninh, Chu Lai, Khe Sanh, hai bên đều tổn thất nặng.
Vụ Mậu Thân
Kinh khủng nhất là vụ Tết Mậu Thân (1968). Tối ba mươi tết, dân Sài gòn vừa mới làm lễ rước tổ tiên thì có tiếng súng nổ mỗi lúc một nhiều, và nhà nào nhà nấy vội khóa cửa, đem theo ít quần áo thức ăn, dắt díu nhau tản cư. Việt cộng đã đột nhập miền Chợ Lớn, Bình Hòa (Gia Định), tiến vào giữa thành phố, bao vây tòa Đại sứ Mỹ trong sáu giờ. Từ trước vẫn có lệ Tết thì hai bên ngưng chiến trong vài ba ngày. Năm đó các tướng tá của mình từ trên xuống dưới quá tin hoặc khinh địch, không đề phòng gì cả, đều rời Sài gòn, đi xa ăn Tết, nên không kịp chống đỡ.
Lần này là một cuộc tổng tấn công: cùng một lúc hoặc cách nhau độ một hai ngày, 36 đến 44 thị trấn từ Huế vào tới Bạc liêu bị Việt cộng đột nhập như vậy. Toàn dân hoảng hốt, tưởng lần này thì Việt cộng chiếm trọn miền Nam rồi, vào ăn tết ở thành, chứ không phải là tuyên truyền như mấy tết trước.
Khắp thế giới ngạc nhiên và phục Việt cộng tổ chức cách nào mà chính phủ miền Nam không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền miền Nam biết. Trái lại mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của miền Nam họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại hoài.
Phải mất một tuần hay nửa tháng, Mỹ mới đuổi được quân Việt cộng ra khỏi Sài gòn; Sài gòn thiệt hại không nặng lắm. Ở Huế, tình hình bi đát hơn nhiều. Việt cộng hoàn toàn làm chủ trong một tháng, bắt giết kẻ hợp tác với Mỹ, vùi thây ngay trong vườn hoặc bên lề đường, hoặc trong những hầm tập thể. Họ bắt dân thường tiếp tay họ. Không rõ bao nhiêu người bị giết - có sách nói ít nhất 10.000 người, riêng một hầm chôn thây tập thể cũng đã chứa 1.000 thây người. Sau có nhiều ký giả chép lại vụ đó và một nữ sĩ, Nhã Ca, quê ở Huế, viết Dải khăn sô cho HuếTình ca cho Huế đổ nát, lời rất xúc động [3]. Hình như không có phóng viên báo ngoại quốc nào có mặt ở Huế lúc đó.
Tại các thị trấn miền nam Trung Việt, dân cũng bỏ nhà, tản cư hết. Có nơi heo đói quá, ăn thịt người; gà mổ giòi từ các thây ma bò ra. Chưa bao giờ dân tộc mình thấy những cảnh rùng rợn như vậy.
Mọi công việc buôn bán gần như ngưng trệ trong hai tháng vì thiếu phương tiện giao thông. Ngay đến quân nhân muốn trở về đơn vị mà cũng phải đợi nửa tháng mới có máy bay.
Khi Việt cộng rút ra hết các thị trấn rồi thì Sài gòn bị cái nạn hỏa tiễn địa-địa Việt cộng từ xa bắn vào. Một số nhà bị hủy ở gần chợ Bến thành và nhiều nơi khác. Khu của tôi yên ổn, nhưng nhà tôi cũng sợ quýnh lên, đòi lại khu Bàn cờ ở với mấy cô em mà khu đó không yên gì hơn khu tôi. Đa số dân chúng đều như vậy, hoảng hốt thì bỏ nhà mà đi, không suy nghĩ gì cả, có khi bỏ chỗ yên lại chỗ không yên. Tôi rất bình tĩnh, cứ ngồi ở phòng viết trên lầu mà dịch Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoi cho nhà Lá Bối. Thời đó xe cộ ít qua lại, ngoài đường ít người, khu tôi thật tĩnh mịch, rất thích hợp cho việc viết lách.
Một anh bạn lại chơi hỏi tại sao không xuống ngồi ở tầng dưới để được thêm một cái trần nữa che chở. Tôi đáp: “Các tủ sách để cả ở đây, viết ở đây tiện hơn. Tôi cứ coi như hồi còn ở căn nhà trệt, không lầu ở đường Huỳnh Tịnh Của.”
Sau biến cố Mậu Thân, một số bạn tôi như gia đình Thiên Giang, giáo sư Lê văn Hảo ở Huế bỏ ra bưng rồi ra Hà Nội.
Mấy năm trước đó, Thiên Giang đã hoạt động cho Cách mạng, muốn rủ tôi theo, tôi từ chối, tự xét chỉ thích hợp với việc trước tác thôi. Như hầu hết các nhà làm chính trị, ông ta có tinh thần đảng phái (sataire). Từ đó chúng tôi lần lần xa nhau, nhưng tôi vẫn giữ niềm Hòa Hảo với ông.
Khoảng 1970 hay 1971, một anh bạn khác dụ tôi ra ứng cử Tổng thống vì anh ta cho rằng tôi có tiếng tăm trong nước, liêm chính mà lại không bị một vết nào: không hợp tác với Pháp, với Diệm, với Thiệu, không thân với Mỹ. Tôi mỉm cười đáp: “Chịu thôi, không đủ sức khỏe và mánh khóe” và nghĩ bụng: “Cứ làm một thư sinh độc lập thì còn được một số độc giả mến, chứ ra làm chính trị thì chẳng được việc gì mà còn bị thiên hạ khinh”.
Vừa đánh vừa đàm - Hiệp định Paris
Từ năm 1965, Mỹ đã dùng phi cơ oanh tạc Bắc Việt, có ý buộc Bắc phải điều đình. Mãi đến giữa 1968, hai bên mới bắt đầu thương thuyết với nhau ở Paris. Mỹ buộc Bắc phải rút hết quân về. Bắc cũng đòi Mỹ phải rút hết quân về. Nam không chấp nhận Mặt trận Giải phóng. Bắc đòi phải chấp nhận. Từ đó đến 1973 họ vừa đàm vừa đánh. Để làm áp lực, Mỹ oanh tạc mỗi ngày một mạnh hơn, nhưng càng oanh tạc thì thái độ của Bắc càng cứng rắn, dân chúng càng sát cánh với nhà cầm quyền. Phá hủy khu kỹ nghệ Thái Nguyên, Bắc cũng không núng, oanh tạc các đường sắt, đê điều họ cũng không núng; Nga và Trung Hoa càng viện trợ khí giới, đại bác. hỏa tiễn, phi cơ cho họ.
Cuộc oanh tạc lớn nhất xảy ra năm 1972, sau vụ Bắc Việt đại tấn công thành phố Quảng Trị, san phẳng thành bình địa. Liên tiếp mười hai ngày, Hà Nội bị dội bom. Mỹ còn thả thủy lôi trên các sông Bắc Việt, nhất là biển Hải Phòng, không cho tàu Nga ra vô. Trung Hoa chỉ lên tiếng phản đối gọi là, còn Nga thì trước sau làm thinh. Một số người ở Sài gòn nguyền rủa Mỹ mà cũng nguyền rủa cả Nga lẫn Trung Hoa.
Chúng ta nên để ý: năm 1972, Nixon, Tổng thống Mỹ qua thăm Mao rồi thăm Nga, chắc chắn là để tìm một giải pháp cho chiến tranh Việt Nam, có lẽ vì vậy mà Mỹ mới dám ngang tàng dội bom Hà Nội và phong tỏa hải cảng Hải Phòng.
Cả thế giới bất bình với Mỹ: một anh khổng lồ mà ăn hiếp một chú bé, dùng những đòn nặng như vậy, thật vô liêm sỉ. Chính dân chúng Mỹ cũng chê kẻ cầm đầu của họ. Một triết gia Anh, Bertrand Roussell, lập một tòa án ở Na Uy (?) để xử tội Mỹ.
Dội bom Hà Nội 12 ngày rồi Mỹ ngừng để thương thuyết với Bắc Việt, và ngày 27-1-73, Mỹ, miền Nam Việt Nam ký với Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng hiệp định Paris có nhiều nước chứng kiến: Nga, Trung Hoa, Pháp, Anh.
Tôi không nhớ rõ nội dung hiệp định đó, đại khái là Mỹ rút hết quân về. Bắc cũng vậy; Nam và Bắc trao đổi tù binh với nhau; ở miền Nam sẽ có một chính phủ lâm thời gồm ba thành phần: người của chính phủ miền Nam, người của Mặt trận Giải phóng và một số người không đứng về phe Nam hay phe Bắc, do hai chính phủ Nam và Giải phóng đề cử, số người đó là thành phần thứ ba.
Những bí mật trong chiến tranh Việt Mỹ
Trong chiến tranh Việt Mỹ có nhiều bí mật tôi không hiểu nổi. Mỹ thay Pháp ở Đông Dương để chặn làn sóng cộng sản Trung Hoa tràn xuống Đông Nam Á. Vậy là mới đầu Mỹ thù Trung Hoa, sau tại sao lại thân thiện với Trung hoa? Chỉ vì thị trường hàng tỉ người ở Trung Hoa chăng? Hay là còn vì Mỹ biết Trung Hoa thù Nga từ 1960, mà Trung Hoa yếu hơn Nga, cho nên đứng về phía Trung Hoa để cho thế lực của Nga giảm đi?
Nga, Hoa đều phải giúp Bắc Việt để chống Mỹ, nhưng cả hai đều gờm nhau: có hồi Trung Hoa không cho khí giới Nga viện trợ đi qua Trung Hoa để tới Bắc Việt, còn Nga thì không muốn Bắc Việt lệ thuộc vào Trung Hoa nhiều quá. Nhờ uy tín và sự khéo léo của Hồ Chí Minh mà Bắc Việt giữ được tình Hòa Hảo với hai nước đó.
Hình như Nga có hồi khuyên Bắc Việt nhượng bộ Mỹ. Tại sao? Và chính trong hội nghị Paris, Trung Hoa cũng muốn vậy chăng? Có phải là cả ba cường quốc Mỹ, Nga, Hoa đều muốn cho miền Nam trung lập, không lệ thuộc vào nước nào chăng?
Còn nhiều bí mật nữa, các sử gia chưa thể công bố được, mà các phóng viên báo Âu Mỹ chưa hề xuất bản một cuốn nào về chiến tranh Việt Mỹ, cho nên chúng ta đành chịu, không hiểu chút gì về những âm mưu của các nước anh chị để định đoạt thân phận của chúng ta.
Ngay từ 1968. trong bài tựa cuốn Bài học Israel tôi đã viết:
“Thực dân nào, bất kỳ đông hay tây, cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ trước hết; còn có lợi cho họ thì họ giúp, hết lợi thì họ bỏ và đàn áp. Do Thái bị Anh bỏ rồi Nga bỏ; Ai Cập bị Mỹ bỏ, rồi Nga bỏ (...)”
“Càng đọc lịch sử thế giới tôi càng thấy đi theo thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại. Phải là một dân tộc có thực lực, có bản lãnh cao, có tài chống đỡ giỏi thì mới có thể khỏi bị họ lợi dụng, nhưng nếu lỡ mà gắn bó với họ thì sớm muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ. Còn các nước nhược tiểu thì chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn cờ quốc tế. Có lẽ chính Israel cũng hiểu như vậy nên năm 1967 họ đòi trực tiếp thương thuyết với Ả rập, không muốn Nga, Mỹ làm trung gian”.
“Nội một điều này cũng đủ cho ta suy nghĩ. Từ sau thế chiến đến nay, cường quốc nào cũng đua nhau chế tạo võ khí cho thật tinh xảo, có sức mạnh tàn phá mỗi ngày một khủng khiếp. Năm nào cũng có những phát minh mới, thành thử võ khí nào tối tân nhất cũng chỉ ít năm hóa cổ lỗ. Họ có liệng xuống biển không, có phá hủy không, hay phải tìm cách “tiêu thụ” mà tiêu thụ ở đâu? Có ở trên đất họ không?”
Đoạn đó, năm 1979, đầu chiến tranh Việt Hoa, một cán bộ Nam bảo tôi, bây giờ đọc nó mới thấm thía. Và cuốn Bài học Israel được nhiều người tìm mua ở chợ sách cũ mà không còn.
Đầu năm 1972, thấy Nixon sắp bỏ rơi miền Nam, tôi chua chát viết bài “Sau 18 năm tiếp xúc với người Mỹ” đăng trên tạp chí Bách Khoa. Xin dẫn dưới đây một đoạn:
“Họ (người Mỹ) đã tiêu hai trăm tỉ Mỹ kim, hy sinh năm chục ngàn thanh niên, trút hàng triệu tấn bom, làm cho non triệu người mình bi giết, hằng vạn hằng ức mẫu vườn ruộng, hằng ngàn làng mạc bị tàn phá, gây biết bao tang tóc, mấy trăm ngàn phế binh, cô nhi quả phụ, non mười năm rồi mà vẫn chưa giải quyết nổi chiến tranh này (...), rốt cuộc phải tìm cách thương thuyết.
Thương thuyết mấy năm không xong, bây giờ một mặt họ lo vuốt ve Trung Cộng (mới mấy năm trước là kẻ thù số 1 của họ) hy vọng tìm một giải pháp cho Đông Dương, một mặt họ cấp tốc Việt hóa chiến tranh để rút lui. Họ hai trăm triệu người, một dân tộc hùng cường nhất thế giới, trút hết cả gánh nặng bảo vệ “tiền đồn thế giới tự do” như họ nói, bảo vệ “tân biên cương” của họ như họ chủ trương, lên vai 17 triệu dân Việt Nam, mà lại tính cắt hết viện trợ kinh tế nữa, như vậy có khác gì họ chạy làng, đánh trống bỏ dùi không? Lương tâm họ ở đâu nhỉ? Thể diện của họ ở đâu nhỉ?”
Giọng gay gắt như vậy mà sở kiểm duyệt không bỏ một chữ, chỉ vì niềm phẫn uất của tôi là tâm trạng chung của mọi người.
Thơ văn, cả nhạc phản chiến nữa xuất hiện rất nhiều, mà phản chiến tức là phản Mỹ, chính quyền mới đầu còn cấm, sau làm thinh. Ai cũng ghét bọn lính Mỹ; chúng có nhiều tiền. nhiều vật dụng, nhiều đồ xa xỉ (đồ P.X.: dầu thơm, thuốc lá thơm, quần áo. máy thu thanh, tủ lạnh...) tới đâu là mở những hộp đêm ở đó, gây cái nạn trụy lạc, mãi dâm, gái bán “bar”, trai “phi xì ke” (ma túy); chúng ăn cắp, ăn quịt, bán chợ đen... Ngay những kẻ rút rỉa tiền của chúng cũng khinh, ghét chúng. Chúng quả là một đoàn quân chiếm đóng và hành động như một đoàn quân chiếm đóng. Mỹ thất bại ở Trung Hoa và Việt Nam, nguyên nhân chính ở đó. Mà các thực dân da trắng không nhiều thì ít như vậy hết, tệ nhất là Mỹ. Nếu phe tư bản không thay đổi chính sách thì dần dần đệ tam thế giới sẽ theo phe Cộng hết mặc dầu dân chúng không ưa chế độ độc tài của Nga, Trung Hoa.
Mỹ rút về, quân Nam tan rã. Chiến tranh chấm dứt
Đúng là Mỹ chạy làng. Họ vội vã rút hết quân về, và khi không còn một lính Mỹ nào ở Việt Nam nữa thì Bắc, Nam lại choảng nhau. Chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh của Nixon đã được thực hiện.
Mới đầu Nixon cũng cho phi cơ từ Phi Luật Tân hay đảo Guam trợ chiến với quân đội của Thiệu; nhưng khi nửa triệu quân Mỹ còn ở trên đất miền Nam, quân đội của Thiệu đã không có tinh thần thì bây giờ làm sao có tinh thần được? Thiệu xin thêm viện trợ tiền bạc và võ khí, quốc hội Mỹ không cho, Thiệu nổi khùng, chửi Mỹ thậm tệ hơn một giờ trên đài truyền hình.
Ngày 10-3-75 Việt cộng tấn công Ban Mê Thuột, ngày 11-3 Ban Mê Thuột thất thủ.
Ngày 15-3, Thiệu họp các tướng. quyết đinh bỏ Pleiku, Kontum một cách vội vàng, để lại hàng núi chiến cụ. Hai trăm ngàn dân bị bỏ rơi, mạnh ai nấy tự tìm cách thoát thân; Cộng quân chặn đường pháo kích; hai vạn dân bỏ mạng, hằng ngàn người kiệt sức, chết dọc đường.
Ngày 19-3 Quảng Trị di tản.
Hôm sau, An lộc thất thủ, sau một thời gian bị bao vây ngày đêm bị đại bác, hỏa tiễn nã vào.
Kế đó là Huế, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang bị Cộng quân chiếm một cách rất dễ. Cũng có một vài tướng rán chống cự, nhưng quân lính không tuân lệnh thì chỉ còn cách đào tẩu để thoát thân.
Đà lạt bỏ ngỏ, Phan Rang đầu hàng, Phan Thiết tan rã.
Ngày 21-4 Xuân Lộc thất thủ (trước đó bốn ngày, Nam Vang lọt vào tay Khmer đỏ). Thiệu từ chức, Trần văn Hương lên thay. Ít bữa sau Thiệu dắt vợ con qua Đài Loan, đem theo không biết mấy tấn vàng.
Ngày 26-4 Trần văn Hương yêu cầu lưỡng viện bàu người khác thay ông để thương thuyết với Mặt trận Giải phóng.
Hôm sau đại tướng Dương văn Minh được bàu lên thay Hương.
Ngày 30-4 Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, kêu gọi buông súng cho đỡ chết dân. Mười hai giờ trưa, tướng Trần văn Trà ngồi xe thiết giáp tiến vào dinh Độc lập. Chiến tranh chấm dứt.
Có sách hay báo nói: trong chiến tranh Việt Mỹ này, miền Nam chết khoảng 200.000 quân, miền Bắc chết non 1.000.000 quân; thường dân cả hai miền chết trên một triệu. Trong số này chắc không kể những thường dân miền Nam chết trong khi chạy loạn tháng 3 và tháng 4-1975. Bi đát hơn cuộc chạy loạn của dân Paris tháng 6-1940 nhiều.
Từ miền thượng xuống miền đồng bằng, từ Huế vô Phan Thiết, Biên Hòa, trên khắp các lộ xe hơi, xe căm nhông chật đường, nhích từng thước một; dân chúng dắt díu, bồng bế nhau chạy. Vợ hay con chết ở dọc đường, đành phải vùi nông ở ngay bên đường rồi chạy... Chạy để tránh cuộc tàn sát ở Huế tết Mậu Thân mà người ta không sao quên được. Tới bờ biển Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết... người ta nhảy ùm xuống biển, cố lội ra mấy tầu của Mỹ. Người trên tầu cũng là dân tị nạn, xô đẩy, có khi chém vào tay kẻ ở dưới biển đòi leo lên. Trẻ em chết đói, chết khát, chết bệnh ở trên bãi biển, cha mẹ gạt nước mắt, vủi thây chúng xuống cát.
Ở các phi trường, cảnh còn hỗn độn hơn nữa. Người ta bỏ lại hết các va li quần áo, tiền của, vàng bạc để cố leo lên phi cơ, mà cũng bị hất xuống, thế là của cải mất hết mà vẫn không thoát thân. Phi trường Tourane như vậy, phi trường Nha Trang, Biên Hòa đều như vậy, mà ngay phi trường Tân sơn nhất cũng vậy. Nghe nói có người bám lấy đuôi một chiếc xc Jeep để vào phi trường, bị xe kéo lết cả cây số.
Không có trận Điện Biên Phủ ở miền Nam - tướng Mỹ hứa từ trước như vậy và họ giữ đúng - nhưng còn nhục nhã gấp chục lần Điện Biên Phủ nữa vì họ chịu thua trước rồi, có chống cự tới cùng đâu. Thà như quân Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn được tiếng anh dũng. Chính người Mỹ cũng nhận chưa bao giờ nước Mỹ thất bại lớn như vây. Nguyên nhân thất bại cũng như Pháp mà lại mang tiếng phản bạn.
Vậy là hiệp định Paris ký ngày 27-1-73, chưa ráo nét mực đã bị xé. Ai xé trước? Lỗi tại ai? Không biết. Chỉ biết trong mười hai tháng đầu sau hiệp định, trung bình ở Việt Nam chết thêm 1.000 người mỗi tuần nữa.
Năm 1976 có thuyết cho rằng tướng Võ Nguyên Giáp không cho quân Bắc tiến vô quá Đà Nẵng, nhưng rồi không cản được. Có thực vậy không? Cũng không biết. Vận mạng của bốn năm chục triệu dân Việt do cái gì quyết định? Không ai biết được.
* * * * *
Chiến tranh Việt-Mỹ chấm dứt sau 15 năm nếu kể từ ngày Mặt trận Giải phóng chính thức thành lập (1960), dài gần gấp hai chiến tranh Việt-Pháp.
Theo P. Singh trong Le jeu des puissances en Asie (Marabout 1974) thì chiến tranh đó làm thiệt hai triệu mạng người (chắc cho cả hai bên) và ở Việt Nam cả Nam lẫn Bắc, Mỹ đã liệng trung bình nửa tấn bom xuống mỗi héc-ta đất.
Mỹ đã đổ vào chiến tranh đó trên 200 tỉ đô la.
-------------------------------------
[1] Mỹ thay Pháp ở Việt Nam từ 1954, nhưng chỉ thực sự đưa quân vào miền Nam từ 1965.
[2] Danh từ này như danh từ “đồng nát” ở Bắc, chỉ những người đi từng nhà mua đồ phế thải.
[3] Sau ngày 30-4, Nhã Ca phải đi trại cải tạo, mới được về năm 1979.


Chương XXIII - XXIV
GIA ĐÌNH TÔI

VỢ DẠY HỌC, CHỒNG VIẾT SÁCH
Cuối năm 1954 chúng tôi đã lập xong cơ sở làm ăn rồi: một trường học mới đầu có hai lớp, sau bỏ lớp mẫu giáo để làm kho chứa sách; và một nhà xuất bản mỗi năm chỉ ra ba bốn cuốn. Từ đó công việc cứ tiến phát đều đều. Vợ dạy học, chồng viết sách, không mướn một người nào ngoài chị bếp; mọi việc tự làm lấy hết theo lối tiểu công nghệ gia đình.
Nhà tôi kèm những trẻ trường tiểu học của Pháp, mới đầu chỉ dăm em, sau tăng lên có lúc tới bốn chục em, phải chia làm hai buổi: sáng và chiều.
Công việc đó làm không quen thì rất mệt. Tôi đã có vài ba lần thay nhà tôi trong nửa tháng, thấy bận gấp hai, gấp ba một công chức nhiều việc. Học sinh tuy chỉ độ trên dưới hai chục, nhưng chia làm ba bốn cỡ, từ lớp 10 tới lớp 7 (lớp 7 của Pháp là lớp thi lên trung học); lại
thêm các em học ở nhiều trường khác nhau. Phải giảng lại bài cho mỗi em, chỉ cách làm bài rồi sửa cho mỗi em, bắt các em học bài rồi trả bài nữa, mà không có tới ba em bài làm và bài học giống nhau. Cho nên trong ba giờ liên tiếp, tôi không được nghỉ một phút. Nhà tôi dạy quen, mà mùa hè, buổi chiều dạy xong cũng thấy uể oải. Nhưng được nhiều cái vui: dạy có kết quả, học sinh và cha mẹ học sinh đều quí; và tiền thù lao cũng khá hậu, bằng ba lần một giáo sư trung học.
Tôi thì suốt ngày đọc sách và viết sách. Ba bốn tháng một lần, khi có sách mới ra thì đi “chào” các nhà phát hành mất một ngày; rồi nhà nào muốn mua thêm thì làm cái toa xin giao sách, tôi chỉ việc coi toa mà lấy sách, tính tiền rồi nhờ chị bếp đi giao và thu tiền. Nếu số sách nhiều thì tôi đi giao lấy.
Tôi vẫn viết tiếp các sách loại học làm người, loại giáo dục, tổ chức, văn học...; rồi do tò mò tìm hiểu về triết học Trung Hoa, kinh tế, tiểu sử danh nhân, văn học thế giới. Tôi lại hợp tác với vài ba tờ báo định kì, góp ý với độc giả về các vấn đề thời sự. Công việc viết lách này tôi sẽ nói kĩ trong các chương sau. Ở đây xin kể ít việc quan trọng gia đình tôi từ 1955 đến 1975.
THÊM BẠN ĐỜI
Ngay từ hồi mới hỏi nhà tôi – đầu năm 1937 - tôi đã cho nhà tôi hay mối tình bạn bè giữa cô Nguyễn Thị Liệp và tôi. Trong thời tản cư, dạy học tại nhà cô Liệp ở Long Xuyên, nhà tôi cũng cho cháu Nhật Đức về ở với tôi vài vụ nghỉ hè để tôi dạy thêm. Vậy là cả nhà tôi lẫn cháu đều biết cô Liệp.
Năm 1956, bà cụ thân sinh cô Liệp qui tiên được 9 năm rồi, tôi lặp lại lời cầu hôn từ hai chục năm trước, cô vì chiều lòng tôi mà miễn cưỡng nhận lời. Tôi hỏi ý nhà tôi, nhà tôi không do dự, chấp nhận liền mặc dù rán nén sự miễn cưỡng. Hôn lễ cử hành ở Long Xuyên, rất đơn giản, bác Ba tôi làm chủ hôn bên nhà trai.
Trong ba người chỉ có tôi là đóng vai trò không đẹp, ích kỉ, khiến cho hai người kia đều buồn. May là cả hai người đều có học, đều dạy học để tự túc được mà mỗi người ở một nơi, nên buồn vài năm rồi cũng quen, và từ năm 1972, hai người thân với nhau như chị em; bây giờ thì ai cũng nhận rằng việc mà hai người năm 1956 đành phải chấp nhận như một số phận, bốn năm năm nay (từ 1975) đã thành một cái may, một hạnh phúc chẳng những cho ba chúng tôi mà còn cả cho con trai và các cháu nội tôi nữa. Tôi sẽ trở lại việc đó.
Làm lễ cưới rồi, tôi vẫn ở Sài Gòn điều khiển nhà xuất bản, hai ba tháng lại về Long Xuyên nghỉ nửa tháng. Nhà ở Long Xuyên có vườn rộng, cây cao bóng mát, rất hợp cho tôi vì viết lách làm cho trí óc tôi thường căng thẳng, sinh ra mất ngủ, đau bao tử. Trong bài tựa cuốn Sống đẹp (dịch cuốn The importance of living của Lâm Ngữ Đường), tôi đã kể: “Một lần sau hai năm chuyện tâm vào một công việc rất mệt trí, đến nỗi bệnh cũ - loét bao tử - của tôi trở nên nặng, tôi đành bỏ dở công việc, đem theo bản Pháp văn L’importance de vivre của cuốn đó về Long Xuyên dưỡng bệnh. Trong cảnh nghỉ ngơi nhàn nhã như vậy tôi mới thưởng thức hết cái hóm hỉnh, sâu sắc của Lâm, và một chương tả trời xanh cùng tiếng chim hót đã làm cho tôi thấy vũ trụ đẹp thêm lên bội phần: một dây mướp rủ từ cành xoài xuống, đã gần tàn, chỉ còn mỗi một bông vàng rực đong đưa dưới gió, cảnh thực là bình thường, quê mùa mà sao hôm đó tôi thấy vui lạ, rực rỡ lạ. Nhờ nó một phần mà trí óc tôi dịu xuống và khi trở về Sài Gòn tôi làm việc lại được”.
Ở Long Xuyên, nếu là mùa nước lớn bắt đầu rút, tôi thích ra ngồi ở công viên Nguyễn Du - nay không còn nữa - xem chài cá linh: một loài cá nhỏ từ Cao Miên xuống, khi kho rục xương thì ngon như cá mòi của Pháp. Chỉ hai người với một chiếc ghe nhỏ là trong một buổi chài được cả chục thùng thiếc cá; nếu là mùa xuân, chúng tôi thích dạo theo các bờ rạch tìm hương xoài, hương bưởi và cái thú “giang thượng chi thanh phong” của Tô Đông Pha.
Ở Sài Gòn và Long Xuyên tôi không phải lo gì về việc nhà cả; ngay cả những việc xã giao, giỗ tết, tôi cũng không cần để ý tới; nhờ vậy tôi rảnh để chuyên viết. Và tôi vẫn thường nói với bạn bè rằng một nửa số tác phẩm của tôi là do công của hai người nội tướng kiêm ngoại tướng của tôi. Tôi chỉ biết chúi đầu vào sách vở thôi, hết viết thì đọc, ngưng đọc thì viết.
CON TÔI QUA PHÁP
Năm 1957, cháu Nhật Đức đậu Tú tài Pháp, ban toán, hạng bình thứ được bộ Giáo dục cho một nửa học bổng qua Paris học để thì vào trường Cao học Thương mại Paris (Hautes Études Commerciales de Paris). Không hiểu vì lẽ gì, bộ Nội vụ ngâm đơn du học của nó rất lâu, khi nó tới Pháp thì tựu trường đã được tháng rưỡi rồi, nó đành phải học ở Toulouse. Toán, Vật lí, nó học được nhưng không giỏi, chỉ xuất sắc về Pháp văn. Ở Sài Gòn cũng như ở Pháp, nó thường vào hạng hai ba người đầu lớp về môn luận Pháp văn. Trong mấy năm đầu tôi chỉ gởi cho nó vừa đủ tiền để tiêu, muốn tập cho nó tiết kiệm; mãi khi nó lên Paris, học có phần tiến bộ, tôi mới gởi cho nó dư một chút. Nuôi con, tôi không để cho nó thiếu thốn, tạo cho nó hoàn cảnh tốt nhất để học, nhưng bắt nó phải gắng sức, quen chịu cực một chút để rèn nghị lực.
MUA NHÀ KÌ ĐỒNG
Năm 1960, sau bảy năm làm việc, chúng tôi đã để dành được khoảng một triệu đồng, mua được ngôi nhà 12/3c Kì Đồng, tốn khoảng 900.000 đồng, kể cả tiền mua, tiền trước bạ, tiền sửa sang, xây thêm một phòng làm lớp học trên lầu và tiền sắm đồ đạc. Tôi không nhớ vàng hồi đó giá bao nhiêu, có lẽ 5, 6.000đ/lượng.
Chúng tôi dọn lớp học và nhà xuất bản lại đó và ở đó tới nay hai chục năm rồi.
Thi sĩ Đông Hồ và nữ sĩ Mộng Tuyết biết tôi thích loại cây lớn có hương, tặng tôi hai gốc hoàng lan (trong này gọi là hoa công chúa). Hai năm sau, một gốc trổ hoa, tôi hái hai đóa chín đầu tiên tặng ông bà.
Thi sĩ tặng tôi tập thơ Trinh trắng với bài thơ:
----Kì sắc nhược cúc chi hoàng,
----Kì hương nhược lan.
----Hoa nở nụ đầu,
----Niềm trinh ý trắng,
----Hái hoa phong tặng,
----Hương lắng tờ mây,
----Hoa cho thơm tuổi thơ ngây,
----Thơm tay người hái, thơm tay người trồng.
----Nay một bông, mai một bông,
----Yêu hoa xin giữ tấm lòng cho nhau.
--------------------------------------(24-11-1962)
Năm 1954, hồi mới lên Sài Gòn, tôi tặng một anh bạn Pháp, thi sĩ Paul Schneider, bút hiệu là Xuân Phúc, một cuốn sách, anh cũng tặng lại tôi một bài thơ mà tôi nhớ
hai câu:
-----”La main qui donne la fleur,
-----En garde toujours le parfum”.
ý cũng y như của Đông Hồ.
Khi nhận được thi phẩm Trinh trắng, mới lật tờ bìa, thấy sực nức hương lan: một bông lan tôi tặng đã được thi sĩ dán lên trang đầu, với sáu chữ nét mực còn lóng lánh trên sáu cánh hoa:
-----”Lộc Đình danh sĩ huệ tồn”.
Đóa hoa khô đó, thi sĩ mất rồi (năm 1969) mà vẫn còn thơm.
Việc tặng hoa đó, nữ sĩ Mộng Tuyết đã chép lại trong bài Hoa nói đăng trên Văn hóa nguyệt san số 5, 6 năm 1964.
Hai cây hoàng lan đó nay đã chết một, cây còn lại cũng cằn cỗi, tôi trồng một cây con của nó để sau này thay nó.
Hư Chu cho tôi một tấm tranh sơn dầu vẽ cảnh biển, tôi treo trong phòng viết.
Nguyễn Hữu Ngư cho tôi một cây ngọc lan, trong một cơn dông, bị trốc rễ, chết. Sau thi sĩ Hoài Khanh, nhà xuất bản Ca Dao, cho tôi một gốc khác thay vào.
Thiên Giang cho tôi một cây đại đỏ, cũng không thọ.
Nay Hư Chu và Nguyễn Hữu Ngư đã khuất bóng, còn Hoài Khanh và Thiên Giang.
Các bạn đó đều biết tính tôi chỉ yêu cảnh thiên nhiên, nhất là loài hoa có hương, chắc đã đọc bài Hương và sắc của tôi trong tập Hương sắc trong vườn văn.
CHUYỆN BUỒN TRONG GIA ĐÌNH
Năm 1963, con tôi ở trường Cao học Thương mãi Paris ra, có chỗ làm ngay. Tôi bảo nó ở lại bên đó tập sự ba bốn năm, có chút kinh nghiệm rồi hãy về. Nhưng hai năm sau, tôi thấy tình hình trong nước còn găng hơn trước, nếu về sẽ bị kêu nhập ngũ, cho nên khuyên nó cứ ở lại Paris và để má nó qua thăm nó. Nhà tôi định nhân chuyến đi đó, xem trong số các gia đình Việt Nam quen biết ở Pháp, có thiếu nữ nào hiền lương, có nghề thì hỏi cho nó.
Nhà tôi qua được vài ngày thì nó cho má nó hay rằng đã có một ý trung nhân người Pháp và xin phép vợ chồng tôi để cưới. Nhà tôi nghe xong khóc ròng; nhưng nó vẫn không đổi ý. Tính nó độc lập, cương quyết, việc gì cũng quyết định lấy rồi cho cha mẹ hay chứ không hỏi ý kiến trước. Nó đặt chúng tôi trước một sự đã rồi. Tôi nổi giận, bảo nó lớn rồi, tôi không có quyền cấm nó, nhưng tôi nhất định không dự vào việc đó, mặc má con nó muốn làm gì thì làm. Thiếu nữ Pháp đó là con một kĩ sư li dị với vợ, tục huyền với một người Việt lai Pháp. Nó đương học khoa tâm lí ở đại học Sorbone.
Làm lễ cưới cho tụi nó xong, nhà tôi trở về Sài Gòn liền. Trước sau tôi tuyệt nhiên không liên lạc với gia đình bên vợ của nó, nhưng nhà tôi thư từ đều đều với con dâu. Tình giữa mẹ chồng và nàng dâu mỗi ngày một thân và vài năm sau nhà tôi coi nó cũng gần như con.
Năm 1966, vợ nó sinh con gái đầu lòng tên là Thu Lan, năm sau lấy xong các chứng chỉ cử nhân, nó được bổ dụng vào việc coi thư viện cho một trường Trung học ở Paris. Như vậy là chồng nó nuôi nó ăn học hai năm.
Năm 1971, nó lại sinh một đứa con gái nữa tên là Xuân Mai. Năm sau, 1972, nhà tôi xin phép chính phủ qua thăm cháu nội. Chính phủ không cho, lấy lẽ rằng con tôi được học bổng mà học xong không về giúp nước. May quá, có một đám cưới nhà tôi không quen cả nhà trai lẫn nhà gái, chỉ do lời giới thiệu của một bà bạn mà nhà gái nhờ nhà tôi đưa cô dâu ở Sài Gòn qua cho chú rể ở Paris. Lần này thì chính phủ cho phép.
Nhà tôi chỉ tính qua một tháng, tôi sẽ dạy thế, và cô Liệp ở Long Xuyên lên săn sóc tôi y như năm 1965, khi má Nhật Đức qua Paris lần trước.
Nhưng cũng lại như lần trước, là má nó qua được vài ngày thì nó cho hay vợ chồng nó tính li dị nhau và xin tôi cho má nó ở lại lâu lâu trông giùm hai đứa cháu nội. Tôi nổi giận dữ dội, bảo nó trước kia nó đã tự ý lựa vợ, tự mưu hạnh phúc cho nó, bất chấp ý kiến cha mẹ; thì bây giờ nó cũng phải chịu lấy hậu quả sự quyết định của nó, chứ tại sao lại cầu cứu tới má nó, bắt má nó bỏ nhà cửa, công việc dạy học bên đây, làm vú em cho con nó; rồi bắt lây tới cô Liệp, bỏ nhà cửa ở Long Xuyên mà lên đây săn sóc cho tôi. Tôi mắng nó là đã Âu hóa mau quá, chỉ thờ cá nhân chủ nghĩa, không biết tới gia đình, không còn tình cảm con người nữa. Nó chỉ làm thinh, và má nó đành phải ở lại bên đó trông nom hai đứa cháu, cô Liệp đành phải ở lại Sài Gòn với tôi, tưởng chỉ trong vài năm, không ngờ tới tám năm, đầu 1980 mới được về ở hẳn Long Xuyên.
Cô bực mình lắm, nhưng biết suy nghĩ: trong vụ đó, con tôi, má nó và tôi, ai cũng đau lòng, nên cô không phàn nàn gì với tôi cả, chỉ một lần kể lể tâm sự để trút nỗi uất hận, giải tỏa nỗi lòng với một cô em ruột má Nhật Đức. Cặp này rất tốt với chúng tôi. Chồng là Trần Quí Nhu, bác sĩ, giám đốc cơ quan trị bệnh cùi ở miền Nam; vợ là Trịnh thị Mộng Đơn (trong nhà gọi là cô Kim) cũng là bác sĩ, chuyên về bệnh ngoài da, có phòng mạch riêng, giúp không công cho cơ quan chồng điều khiển. Cả hai đều có lí tưởng, thương bệnh nhân và muốn tận diệt bệnh cùi trong nước.
Ngày cô Liệp mới lên Sài Gòn năm 1972, cả hai vợ chồng lại thăm chúng tôi rồi lái xe đưa chúng tôi vô thăm trại cùi ở bệnh viện Chợ Quán, thử máu, rọi phổi cho chúng tôi, coi chúng tôi như anh chị ruột mà chúng tôi cũng coi lại họ như em ruột. Mỗi khi chúng tôi có việc gì thì hai vợ chồng đều vui vẻ, tận tâm giúp, có khi không đợi chúng tôi nhờ nữa. Hai đứa con - một con đẻ, trai; một con nuôi, gái - cũng coi chúng tôi như bác ruột. Hiện nay gia đình đó ở California, Mĩ, thỉnh thoảng thư từ với chúng tôi. Cô chú ấy đã an ủi nhà tôi nhiều lắm trong mấy năm đầu ở Sài Gòn. Lần lần, nỗi buồn bực nguôi đi, nhà tôi đối với mấy người em của má Nhật Đức rất thành thật, thân tình, coi sóc giỗ tết bên má Nhật Đức như bên tôi, khiến ai cũng phục má Nhật Đức cảm động.
Người Âu Mĩ lớn rồi thì ra ở riêng, cả tháng có khi cả năm không lại thăm cha mẹ một lần; cha mẹ già thì đưa vào nhà dưỡng lão. Một ông già nọ khi bước chân vào nhà dưỡng lão, quay lại nhìn đứa con trai, nghe nó dặn nhỏ: “Ba đừng nói hở tên gia đình mình ra nhé”. Mỗi vụ hè có hằng ngàn người ở Paris đem cha mẹ lại gởi một bệnh viện rồi hết hè, họ “quên” không tới đón về, bỏ mặc cho chính phủ làm gì thì làm. Mấy ông bạn tôi ở Pháp lâu năm đều phàn nàn về lòng bạc bẽo của con cái, nhất là những đứa con trai có vợ ngoại quốc. Mười đứa thì có tới chín đứa không nuôi cha mẹ. Tôi mới nghe nói vợ một học giả quá cố Việt Nam rất có tiếng tăm, chỉ có mỗi một người con gái có chồng Pháp vào hạng khá giả, mà bị con gái hất hủi, cấm không cho vô nhà, vì chỉ làm phiền vợ chồng nó, và bà cụ đã gần tám mươi tuổi đành phải lại ở nhờ một người cháu, không biết được bao lâu và sẽ bị cháu đuổi nữa không?
Văn minh Âu Tây tuy có những nét rực rỡ thật, nhưng như vậy không thể gọi là văn minh kiểu mẫu, trừ khi, như nữ sĩ Pearl S. Buck nói: “Kiểu mẫu đó là chủ nghĩa cá nhân”.
Không có thời nào mà người già cô độc như thời này, từ Âu qua Á, ở Âu thì như vậy, còn ở Việt Nam - tôi không biết ở Trung Hoa, Triều Tiên ra sao? - thì người già phải giữ cháu cho con, sắp hàng mua thực phẩm cho con, nấu cơm cho con. Mấy bà bạn già của tôi ai phàn nàn phải làm “vú đực” cho cháu. Con làm kĩ sư, bác sĩ, giám đốc mà chẳng giúp cha mẹ già được đồng nào, cha mẹ phải bán đồ hoặc làm việc để có tiền trợ cấp cho chúng nữa.
Vợ chồng Nhật Đức li thân với nhau 2, 3 năm rồi tòa mới nhận đơn xin li dị, và tới năm 1977 mới được phép li dị. Lúc đó miền Nam đã sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai đứa cháu tôi theo luật của Pháp, ở với mẹ một thời gian, với cha một thời gian. Con tôi chưa chịu cưới vợ khác, thành thử nhà tôi vẫn phải ở lại săn sóc hai đứa cháu. Cũng may là ba bố con chúng đều quí và nể nhà tôi, vẫn còn tình gia đình và tới nay vẫn còn giữ được vài nếp phương Đông.
Ý CHÍ VÀ ĐỊNH MỆNH
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mọi việc như đã được an bài từ trước mà cái rủi lại hóa cái may.
Nếu năm 1956 tôi không cưới cô Liệp thì năm 1972 má Nhật Đức không thể ở lâu bên đó săn sóc cho cháu mà bỏ tôi ở một mình bên đây, tất phải về ngay, mặc cho con tôi xoay sở lấy; mà về rồi thì bây giờ khó thích ứng với đời sống mới này, lại phải xin qua Pháp nữa. Vợ qua mà chồng không qua thì dở dang, buồn cho cả hai, mà nếu tôi qua nữa thì thêm gánh nặng cho con tôi, lại có thể không chịu nổi khí hậu bên đó nữa.
Nếu năm 1965 con tôi nghe lời chúng tôi mà cưới vợ Việt trong một gia đình có giáo dục thì vợ chồng chúng có thể bất hòa với nhau chứ không đến nỗi phải li dị.
Lạ lùng nhất là năm 1972, nhà tôi xin qua thăm con và cháu bên Pháp, chính phủ Thiệu Kỳ lấy lẽ rằng con tôi học thành tài không chịu về giúp nước nên không cho; sau ngẫu nhiên có người nhờ nhà tôi đưa con dâu qua Paris, chính phủ mới cho phép, nếu không gặp sự may mắn đó thì không thể qua thăm con được.
Vậy việc rủi thứ nhất cho má Nhật Đức năm 1956; việc rủi thứ nhì cho cả vợ chồng tôi và con tôi (nó cưới vợ trong một gia đình không tốt); việc rủi thứ ba năm 1972 (nó phải li thân với vợ), ba việc rủi đó đều thành việc may cho má Nhật Đức năm 1975.
Nghĩ vậy tôi hơi ân hận đã quá giận dữ với con. Đời nó như bị cái gì đó chi phối, nó tưởng nó làm chủ tương lai của nó được, tự tạo hạnh phúc được mà rồi nó thất bại. Đời má nó cũng như bị cái gì chi phối, mới đầu xấu mà sau hóa tốt, cái rủi hóa cái may. Cơ hồ con người đã không làm chủ được mình, ý chí dù mạnh cũng vô ích, kinh nghiệm của cha mẹ không giúp gì được cho con thì tôi còn rầy con tôi làm chi nữa.
Nó có khiếu về sinh ngữ hơn là về toán, vào trường Cao học Thương mãi là hợp với khả năng của nó. Muốn thành công về ngành đó thì người Việt phải có khả năng dễ thích ứng với phương Tây, phải ăn nói như người Âu, suy tư như người Âu nữa. Vậy nó mau Âu hóa là điều dĩ nhiên (và nhờ Âu hóa, nay nó thành công trong nghề), chẳng nên trách nó. Âu hóa mà nó còn giữ được tình với má nó, với tôi một phần nào nữa thì kể cũng đáng mừng.
Nhưng tôi có vẻ bi quan quá chăng? Không tin rằng ý chí con người thắng nổi định mạng thì còn có nên làm gì nữa không, có nên dạy con nữa không? Tôi không cực đoan như vậy mà cho rằng vận mạng không quyết định hết, ý chí cũng đáng kể. Ý chí có thể làm cho vận tốt hơn lên hoặc bớt xấu đi. Mà giáo dục cũng vẫn quan trọng: cùng gặp một hoàn cảnh, người có giáo dục và người không có giáo dục phản ứng khác nhau xa. Giáo dục không thay đổi hẳn được bản tính con người, nhưng có thể cải thiện nó được phần nào. Con tôi nhờ được sự giáo dục của vợ chồng tôi nên được bạn bè khen là nghiêm trang, biết quí mẹ. Nó giống tôi không ham làm giàu mà thích đọc sách, làm việc đàng hoàng và liêm khiết, tự trọng. Và bổn phận của cha mẹ là phải giáo dục con; nhưng chỉ nên nghiêm khắc vừa phải, không nên quá. Tôi hồi trước có những lúc quá nghiêm với vợ con, với học trò. Cả bây giờ nữa chứ! Tính tôi nóng quá, nhất là những lúc tôi đau.
***
Chương XXIV
Xã hội miền Nam trong thời Mỹ
Trong chương XVI, tôi đã nói xã hội phương tây trong ba thế kỷ nay trải qua bốn giai đoạn phát triển kinh tế:
1. giai đoạn dự bị
2. giai đoạn phát triển mạnh
3. giai đoạn thành thục
4. giai đoạn đại chúng tiêu thụ mạnh mẽ tức giai đoạn của châu Âu và Nhật hiện nay, của Mỹ từ hai, ba chục năm trước.
Chương XIV chúng ta đã biết ở nước mình, giai đoạn dự bị bắt đầu vào khoảng 1925-30: vài nhà như Bạch Thái Bưởi, Trương văn Bền... đã ra kinh doanh, mở nhà máy, hãng buôn, hãng tàu, hãng xe vận tải, xây cất và xã hội của ta ở các thành thị đã có một bộ mặt mới trong khi ở thôn quê vẫn là nếp sống thời đại nông nghiệp. Sự phát triển đó mới được mươi năm thì đã phải ngưng lại vì thế chiến thứ nhì. Sau thế chiến tới chiến tranh Việt-Pháp, quân Pháp chiếm các thành thị, nhưng một phần vì thiếu an ninh, một phần vì thiếu nguyên liệu, thiếu vốn, một phần nữa vì phải lo đối phó với quân cách mạng, nên tình trạng phát triển kinh tế không tiến được bao nhiêu: không dựng được nhà máy nào lớn, chỉ thêm được một số công ty xây cất và công ty thương mãi.
Năm 1953 Pháp thua, lần lần rút ra khỏi miền Bắc; Mỹ thay thế Pháp ở Nam để ngăn chặn làn sóng cộng sản, mới đầu chỉ giúp Ngô Đình Diệm cố vấn, võ khí, tiền bạc, rồi từ 1965 thấy tình hình nguy ngập, phải đổ quân lên miền Nam từ 100.000 lên tới nửa triệu, và trước sau Mỹ đã tốn khoảng 200 tỉ đô la mà vẫn không cứu nổi miền Nam.
Trong tám chín năm liền, đô la, thực phẩm, thuốc men, đồ dùng, vải, máy móc... đổ vào như suối. Họ cũng dựng cho ta được một số nhà máy tối tân như nhà máy dệt, nhà máy giấy... (hầu hết là những kỹ nghệ biến chế, chứ không sản xuất, chế tạo); tiến bộ nhất là khu vực xây cất: phi trường, xa lộ, cao ốc... và một người Ba Lan trong Ủy hội Kiểm soát Quốc tế qua Sài gòn năm 1973 phải nhận rằng Sài gòn lớn hơn, có những dinh thự, cao ốc tối tân hơn kinh đô của họ.
Như vậy so với thời Pháp đã là tiến bộ nhiều, nhưng chúng ta cũng chỉ ở trong giai đoạn nhì của phương tây, nghĩa là chỉ mới bắt đầu phát triển mạnh - mạnh mà không đều, vì vẫn hoàn toàn thiếu kỹ nghệ nặng, thiếu nhà máy chế tạo xe hơi, máy bay, cả những máy tầm thường như máy thâu thanh, máy bơm, máy cày...
Trái lại, về phương diện khác, vì có trên nửa triệu quân nhân Mỹ vung tiền ra tiêu xài (các P.X. cơ quan cung cấp nhu yếu phẩm cho họ, bán rất nhiều đồ với một giá rất rẻ), nên chúng ta được thấy bộ mặt của xã hội hậu kỹ nghệ và một số người làm việc cho Mỹ cũng được hưởng thụ gần như người Mỹ.
Vậy là về phương diện sản xuất, xã hội Việt Nam mới ở đầu giai đoạn 2, mà về phương diện hưởng thụ lại bước qua giai đoạn 4. Đó là một mâu thuẫn trong tình trạng xã hội của mình, một xã hội lạc hậu mà do chiến tranh, bị làn sóng văn minh vật chất tràn vào, gây nhiều biến chuyển tai hại, cuốn theo nhiều giá trị truyền thống.
Nhân số bộc phát - Nạn đói
Thời nay có một sự cách biệt ghê gớm giữa các nước đã đạt tới giai đoạn hậu kỹ nghệ, lợi tức trung bình hằng năm của mỗi người dân là 5.000 đô la, với các nước kém phát triển, lạc hậu như nước ta mà lợi tức chỉ là 50 đô la.
Những nước sau chịu hậu quả tai hại của sự bộc phát nhân số, hậu quả đó là nạn đói.
Những tiến bộ về canh nông, kỹ nghệ, nhất là những tiến bộ về y khoa làm cho tử suất giảm mạnh trong khi sinh suất đứng nguyên, do đó nhân số tăng lên rất mau, hiện nay hai lần mau hơn năm 1930, sáu lần mau hơn năm 1650. Năm 1650, phải 200 năm nhân số trên địa cầu mới tăng lên gấp đôi; năm 1850 phải 80 năm, năm 1930 chỉ cần 45 năm, hiện nay chỉ trong khoảng 30-35 năm. Các nhà chuyên môn trong cơ quan kinh tế và xã hội của Liên Hiệp Quốc tính rằng tới năm 2.000 nghĩa là chỉ trong 20 năm nữa thôi, thế giới có từ 6 đến 7 tỉ người. Tôi đoán là từ bảy đến tám tỉ, vì theo báo chí tây phương, hiện nay (1981) đã đến 6 tỉ rồi.
Ở Việt Nam, khoảng 1930 cả nước có độ 20 triệu dân, riêng Nam bộ có độ năm triệu. Ngày nay (1980), toàn quốc có 55 triệu dân (mặc dầu có hai chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, giết hại vài ba triệu mạng người, cả chiến sĩ lẫn thường dân). Trước thế chiến chúng ta xuất cảng được nhiều gạo vào hạng 2 hạng 3 ở Đông Á; hiện nay phải ăn độn ngô khoai, sắn, bo bo. Còn chất protéine trong thịt cá thì chúng ta thiếu tai hại, trung bình mỗi tháng mỗi người chỉ được 50 gam thịt. Người nào không đói thì cũng thiếu chất bổ, thiếu ăn, do đó dễ sinh bệnh, ốm yếu, không chống nổi với bệnh mà chết.
Nạn nhân mãn, nạn đói đó, tôi đã nhiều lần nêu lên trên tạp chí Bách Khoa và trong cuốnNhững vấn đề của thời đại từ 1973, 1974, nhưng rất ít người lưu tâm tới, cứ tin chắc rằng hết chiến tranh người ta sẽ khai phá những khu đất bỏ hoang và có thể nuôi được vài trăm triệu người (!), có gì mà lo. Người la không biết rằng không phải đất nào hiện nay còn bỏ hoang cũng có thể trồng trọt được dễ dàng. Sự thực, tất cả những đất nào có thể trồng trọt được trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại đều đã trồng trọt hết rồi. Còn những đất chưa trồng trọt nay muốn khai phá thì tốn kém vô cùng. Không thể cứ chia lô: phát cho dân nghèo, giúp họ một số vốn nhỏ hoặc cho mỗi người mươi ki lô gạo mỗi tháng trong sáu tháng hay một năm rồi ít năm sau sẽ thấy cánh đồng mơn mởn tươi tốt. Phải có những nhà chuyên môn nghiên cứu xem đất hợp với loại cây nào, có thể đưa nước vào được không; phải đắp những đường nối với lộ chính, phải đào kinh để khai thông. phải trừ phèn, trừ muối, phải có thuốc trừ sâu, có cách trừ chuột, phải có phân bón... Một nhà chuyên môn Âu tính sơ sơ, phải tốn cho thế giới mỗi héc-ta trung bình là 5.000 quan năm 1970 (hay 1965?), không biết bằng mấy chục ngàn bạc ngân hàng Việt Nam năm 1980. Khi lôi dẫn con số đó ra. có người bảo với số tiền đó thì có thể trồng lúa được trên sườn núi Himalaya. Tôi không biết sườn núi Himalaya ra sao, nhưng tôi biết rằng muốn biến đổi khu rừng nước mặn Cà Mau, cánh đồng nước phèn Tháp Mười thành ruộng lúa không phải là việc dễ; bắt tay vào việc ngay bây giờ, tới đầu thế kỷ XXI chưa chắc đã thành công, mà lúc đó thì dân số của ta tăng lên đến 80-90 triệu rồi, sự sản xuất của hai khu vực đó nuôi được bao nhiêu triệu dân, đủ bù vào số tăng dân số không?
Hạn chế sinh đẻ. Mất các giá trị cổ truyền
Đất đai không đủ nuôi người thì phải giảm miệng ăn đi nghĩa là phải hạn chế sinh đẻ. Ở các nước phát triển mạnh, mặc dầu dư ăn, nhưng vẫn thiếu chỗ ở, người dân đã biết tự hạn chế sinh đẻ: mỗi cặp vợ chồng trung bình chỉ có từ hai đến ba con; ở nước ta, rất nhiều gia đình có năm sáu con, có khi mười, mười hai con, trung bình là bốn con.
Hạn chế sinh đẻ thì phải dùng những phương pháp ngừa thai, sẽ làm xáo trộn phong tục, luân lý cổ truyền. Đức hiếu sẽ không còn hoặc sẽ phải thay đổi: không có con trai không còn là bất hiếu nữa, con gái được đặt ngang với con trai; không còn quan niệm: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”; sự thờ phụng tổ tiên sẽ giảm đi nhiều, một ngày kia sẽ không còn; đức trinh tiết có thể sẽ thành một tật xấu, rồi đây người ta sẽ bắt chước Mỹ, trở lại chế độ kết hôn thử, đổi vợ đổi chồng thời sơ khai, như trong cuốn Couples của John Updike xuất bản ở Mỹ năm 1968, bán chạy như tôm tươi. Hầu hết giới trí thức trong một thị xã nhỏ nọ mặc nhiên đổi vợ đổi chồng với nhau. Một nhân vật còn bảo anh em, chị em ruột giao hoan với nhau thì không phải là loạn luân mà là tự nhiên như loài gà, loài chó, loài mèo. Họ viện lẽ phải tôn trọng tự do cá nhân, hạnh phúc cá nhân, mà tha hồ phóng đãng về nhục dục, nhưng họ không hiểu rằng nếu không điều độ, không tự chủ thì không thể có hạnh phúc được mà dân tộc nào quá phóng túng, thiếu tư cách thì sẽ suy vong rất mau. Tới mức đó thì không còn gia đình, tổ quốc nữa, chỉ còn cá nhân.
Xã hội miền Nam trong những năm 1964-74, tại thôn quê vẫn còn ổn định giữ được truyền thống cũ; nhưng tại những châu thành lớn hơn như Sài gòn, trong giới thanh niên. đã có những sự bất ổn, mất thăng bằng về tinh thần và như Fourastié - một kinh tế gia và xã hội học gia Pháp - nói: “bị đặt vào giữa một quá khứ ‘lạc hậu’ và một vị lai không biết sẽ ra sao, mất những truyền thống luân lý, tôn giáo cũ mà chưa tìm được một triết lý nào thích hợp cho thời đại mới, (họ) chỉ biết sống cho qua ngày tùy theo những đòi hỏi đoản kỳ không liên lạc gì với nhau”.
Họ không còn tin tưởng gì cả, không ham học, không ham làm việc, không ham thành công, nếu phải làm việc cho đủ sống thì họ làm tà tà; họ mất đức lo xa, cần kiệm của thời đại nông nghiệp, mất tinh thần ganh đua của thời đại kỹ nghệ, họ chỉ thích hưởng lạc lúc nào hay lúc đó; họ hít, hút, chích các thứ ma túy để thoát ly thực tại; mà ma túy thì đầy đường, do các tướng tá dùng phi cơ chở từ nước ngoài vào bán cho lính Mỹ và cho họ. Họ thành Hippy.
Thị dân tăng lên quá mau - Nền kinh tế trái luật kinh tế
Sự bộc phát nhân số còn hai hậu quả nữa:
- sự khan hiếm nguyên liệu: người ta lo rằng các mỏ dầu lửa, mỏ than, sắt, đồng, kẽm... sẽ cạn một ngày gần đây, nếu không cạn hẳn thì cũng ở rất sâu trong lòng trái đất khai thác rất tốn; ngay cả nước nữa cũng sẽ thiếu vì loài người tiêu thụ những nguyên liệu đó mỗi ngày một nhiều lên;
- sự nhiễm uế của hoàn giới: đất đai, sông ngòi, không khí... bị nhiễm uế do xe hơi và nhà máy trút ra; thêm nạn đổ rác thành đống hôi thối ở giữa thành thị hoặc ven thành thị; nạn dùng các chất trừ sâu bọ như chất DDT hiện nay chỉ mới cấm dùng ở Mỹ; nạn phóng xạ của các nhà máy nguyên tử lực...
Những hậu quả đó ở nước mình hiện nay chưa đáng lo vì kỹ nghệ chưa phát triển, cho nên tôi không xét ở đây mà chỉ xin nói về hai hiện tượng bất thường trong các thành phố miền Nam:
- dân phố trong các thành phố tăng lên quá mau, không kém Âu, Mỹ.
Trong thời đại nông nghiệp, 90% số người hoạt động trong nước chuyên về canh tác, mục súc để lo thỏa mãn nhu cầu cấp thiết nhất là ăn; nhu cầu đó các nhà kinh tế học gọi là nhu cầu sơ đẳng và những hoạt động canh tác, mục súc gọi là hoạt động sơ đẳng. Trong nước chỉ có khoảng 5% số người hoạt động để chế tạo các đồ dùng như quần áo, con dao, lưỡi cày, cái giường, cái chén và xây cất nhà cửa mà các nhà kinh tế học gọi là hoạt động nhị đẳng; sau cùng 5% nữa lo thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mọi người, gọi là nhu cầu tam đẳng và những hoạt động của họ (trị dân, dạy học, buôn bán, phục vụ nghệ thuật...) gọi là hoạt động tam đẳng. Thời đó thành thị rất nhỏ, dân trong thành thị chỉ bằng 5-6% dân trong nước.
Qua thời đại kỹ nghệ, kỹ thuật tiến bộ, nhiều nơi sản xuất đủ thực phẩm rồi, nghề nông không còn lợi nữa, nông nhân hóa dư ở thôn quê, hoạt động của số dư đó chuyển qua nhị đẳng; đâu đâu cũng có những cuộc di cư ra thành thị kiếm ăn, số người trong các hoạt động sơ đẳng giảm đi, từ 90% xuống còn 40, 30, 20% tổng số người hoạt động, mà số công nhân trong hoạt động nhị đẳng tăng từ 5% lên tới 20, 30, 40% tổng số người hoạt động trong nước; đồng thời số người hoạt động tam đẳng cũng tăng lên theo. Thành thị đã hóa lớn, chiếm 30-40% dân trong nước.
Hiện nay ở các nước kỹ nghệ phát triển mạnh nhất như nước Mỹ, hoạt động sơ đẳng chỉ chiếm 5%, hoạt động nhị đẳng độ 20-30%, còn 60-70% là hoạt động tam đẳng; dân trong các thành phố chiếm trên 50% dân trong nước. Có những thành phố trên 10 triệu dân, còn những thành phố 1-2 triệu dân thì vô số.
Người ta tiên đoán rằng tới cuối thế kỷ, ở những nước đó, 75% số dân trong nước sẽ sống trong thành phố, hai thành phố ở gần nhau (nghĩa là cách nhau bốn năm chục cây số như Sài gòn, Long an chẳng hạn) sẽ nối liền với nhau, thành một thành phố khổng lồ. Và vấn đề giao thông trong các thành phố đó thành một vấn đề rất khó giải quyết cho chính quyền. Đã có một số người lo rằng rồi đây đất không đủ để xây cất, nên lập những kế hoạch, dựng những thành phố nhỏ trên mặt biển, trên không hoặc dưới đáy biển nữa.
Ở miền Nam nước ta, trong hai chiến tranh Việt-Pháp, Việt-Mỹ, các thành phố lớn như Sài gòn, Mỹ tho, Cần thơ cũng phát triển mạnh nhưng không phải vì Kỹ nghệ phát triển, vì số công nhân tăng lên mà vì nông dân chạy loạn, phải bỏ vườn ruộng, ra thành sống cho qua ngày, một số ít thành thợ thuyền, còn đa số sống về dịch vụ, về hoạt động tam đẳng.
Cuối thế chiến vừa rồi, dân số Sài gòn-Chợ Lớn chỉ vào khoảng nửa triệu, (Hà Nội chưa được 200.000 người); năm 1974 dân số lên tới hai hay ba triệu (kể cả Gia Định). Cuối thế chiến, ngồi xe từ Sài gòn vào Chợ lớn còn thấy những khu đất trống dài cả cây số, ngay khúc từ Cầu Bông (Đa Kao) vô Bà Chiểu cũng còn là đất trống; rồi khu Bàn cờ, khu Kỳ đồng tôi ở hiện nay, khu Chuồng Ngựa... toàn là đất sình lầy cả, nay nhà cửa san sát, không còn một khoảnh có thể xây cất thêm được nữa. Trong hai chục năm (1954-74), cao ốc, cư xá mọc lên rất mau; đường xá ngang dọc chằng chịt, chỉ sáu tháng sau trở lại có khi không tìm ra được nhà cửa của bạn bè, bà con nữa.
Trong số non hai triệu dân từ các tỉnh đổ về Sài gòn-Chợ Lớn đó, già nửa là nông dân. Họ làm thuê, ở mướn, buôn bán lặt vặt, làm thủ công, lao công, tức các dịch vụ nhỏ. Không ai làm thống kê xem những năm 1970-74, trong số người hoạt động ở miền Nam, có mấy chục phần trăm là nông dân (sơ đẳng), là thợ thuyền (nhị đẳng) và còn bao nhiêu làm dịch vụ. Tôi đoán phỏng hoạt động nhị đẳng ít người nhất (nhiều lắm là 15-20%), hoạt động sơ đẳng may ra được 40%, còn lại 40-45% là hoạt động tam đẳng, nghĩa là những người không sản xuất được gì chiếm tới non nửa. Vậy là từ giai đoạn 1 của tây phương, giai đoạn dự bị, chúng ta vượt giai đoạn 2, mà nhảy qua giai đoạn 3, giai đoạn thành thục, không phải về phương diện sản xuất, mà về phương diện tỉ số lao động trong mỗi ngành. Như vậy trái với luật kinh tế. Nền kinh tế giả tạo đó không thể thịnh được, tồn tại lâu được. Nguyên do chỉ tại chiến tranh, nhất là tại người Mỹ đổ đô la vô miền Nam này nhiều quá. Ảnh hưởng tai hại đó còn kéo dài lâu, chưa thể lường được. Từ sau ngày 30-4, chính quyền đã không giải quyết nổi, mà tình trạng còn bi đát hơn nữa vì không kiếm được việc cho dân làm.
Sản xuất kém mà tiêu thụ mạnh
Đã không sản xuất mà dân thành thị lại tiêu thụ mạnh như Âu Mỹ. Về phương diện tiêu thụ, chúng ta tiến vượt bực, bỏ hai giai đoạn 2, 3 mà nhảy vọt lên giai đoạn 4, giai đoạn hậu kỹ nghệ (cũng gọi là kỷ nguyên thừa thải: ère d’abondance).
Khi tôi còn đi học, tất cả gia đình tôi sống trong nền văn minh nông nghiệp.
“Trong thời đại nông nghiệp, con người chỉ lo sao cho khỏi đói trước đã, cho nên nhà cửa, quần áo, đồ dùng... phải tiết giảm đi, thứ nào cần thiết lắm mới sắm, mà sắm thì lựa thứ bền chắc nhất, không cần đẹp. Bền chắc là giá trị số 1.
Nhà cửa chẳng hạn, các cụ nếu có tiền thì lựa toàn danh mộc, không bị mối, bị mọt. (...) Như ngôi nhà của cụ ngoại tôi tại Hả nội. tôi không biết cất năm nào dưới triều Tự Đức, tới anh em chúng tôi đã là bốn đời rồi, cột bằng gỗ vẫn còn tốt (...) (Hiện nay tôi đã có cháu nội mà ngôi nhà ấy vẫn còn vững, vậy là nó có thể dùng được trăm rưởi năm nữa) [1]
Quần áo các cụ may ít thôi nhưng cũng dùng toàn những vải thật bền: “ăn chắc mặc bền” (...) Chiếc áo bông của mẹ tôi, bận được suốt đời của người. Và có rất nhiều gia đình thôn quê vào hạng khá giả, giữ được chiếc áo the, chiếc quần hay váy sồi từ hồi cưới, chết thì liệm theo. Sồi hồi đó dày gần như hàng “săng tung” của Pháp.
Còn bàn ghế trong nhà thì thứ nào cũng lão bốn năm chục tuổi là ít. Vì cái gì cũng phải cho bền. nên thợ làm rất kỹ. Ông bác tôi chỉ muốn đóng một chiếc bàn, bốn chiếc ghế, một cỗ thọ mà không mướn thợ trong miền, nhắn cho được một chú thợ cả già từ phủ khác tới rồi nuôi cơm trong nhà cả tháng. Dĩ nhiên gỗ phải lựa cả năm trước, rồi ngâm, phơi cho khỏi mọt và thật khô”. [2]
Ngày nay ở các nước kỹ nghệ phát triển, người ta sản xuất được mọi thứ rất mau và rất nhiều, thành thử sản xuất là việc dễ, tìm cách tiêu thụ mới khó. Thợ ăn lương ít hơn một anh chàng rao hàng. Ngành quảng cáo được trọng vì nó giúp cho sự tiêu thụ bằng cách tạo thêm nhu cầu cho con người.
“Nhu cầu của tôi ngày nay chắc nhiều gấp mười nhu cầu của cha tôi trên nửa thế kỷ trước. Ông cha chúng ta chỉ cần cơm ba bát, áo ba manh, bây giờ chúng ta cần có cơm, có sinh tố, có sữa, kẹo; xà bông phải hai ba thứ, khăn có khăn mặt, khăn mùi xoa, khăn tắm, giày phải vài ba đôi, dép cũng vậy, (áo phải có cả chục bộ, có bà có cả trăm bộ); nhà phải có bếp ga, có tủ lạnh, có máy thu thanh, máy ti vi; tháng nào cũng phải mua dăm cuốn sách, chưa kể nhật báo, tuần báo, báo ta, báo Pháp, báo Mỹ..., toàn là những nhu cầu do khoa quảng cáo tạo ra cho ta hết (...)”
“Nhu cầu lại tạo ra nhu cầu. Chẳng hạn có xe hơi thì không dùng hai cẳng nữa, bắp chân, bắp đùi tóp đi, thịt nhão nhẹt, lại phải tạo ra một đồ thể thao: nằm ngửa ra, hai chân đạp như xe đạp để luyện bắp thịt ở chân. Có xe hơi thì không lẽ chỉ lái tới sở và từ sở về nhà. Phải đi du lịch, thế là thêm biết bao nhiêu nhu cầu phụ thuộc vào việc du lịch (...) Nhiều xe quá, đường phố mắc nghẽn, lại phải mở đường cho rộng, đặt đèn xanh, đèn đỏ, xây những đường trên không và dưới hầm. Cứ mỗi nhu cầu chỉ tạo thêm hai nhu cầu khác thôi thì trong nửa thế kỷ, nhu cầu tăng theo cấp số nhân, gây ra biết bao việc cho nhân loại.
Vậy mà sức sản xuất vẫn cao hơn sức tiêu thụ, người ta phải nghĩ cách tăng sức tiêu thụ lên nữa, để cho xưởng khỏi phải đóng cửa, thợ khỏi thất nghiệp (...) Người ta phải thay đổi lối sống, thay đổi quan niệm về tiêu thụ. Xưa kia, bền bỉ là giá trị số 1; ngày nay nó bị coi rẻ. Nếu một chiếc đồng hồ dùng được cả đời người thì thợ đồng hồ thất nghiệp hết. Phải chế tạo nhiều kiểu, đành rồi (...) mà còn phải làm sao gây cho người ta ý nghĩ rằng đồng hồ chỉ dùng trong dăm ba năm thôi, dù nó vẫn chạy thì cũng phải liệng đi (nhất là đừng sửa nó khi nó mới hư một bộ phận, mà phải mua chiếc khác mới hơn)”.
“Giá trị số 1 ngày nay không còn là bền nữa mà là mới, mỗi ngày mỗi mới: nhật nhật tân. (Thời người ta mới chế tạo được thứ sợi nylon để dệt quần áo, thấy nó bền quá có thể dùng hoài, không bao giờ đứt, mòn được, người ta đâm hoảng, phải tìm cách nhúng vào át-xít hay gì đó để cho quần áo mau rách hơn). Tóm lại, xưa người ta sản xuất để tiêu thụ, ngày nay người ta tiêu thụ để cỏ thể sản xuất thêm. Xưa, tiết kiệm là một đức thì nay (thời văn minh tiêu thụ - ère de consommation) lãng phí mới là một đức, hơn nữa là một bổn phận đối với quốc gia, đồng bào”. (Phải lãng phí để thợ có việc làm, nhà buôn có đồ bán, mà đồng bào mới sống được, kinh tế quốc gia mới thịnh, mà kỹ thuật mới tiến bộ).
Đã từ lâu rồi, chúng ta thấy những ly, chén đĩa, khăn lau miệng bằng giấy dùng một lần rồi liệng đi. Trước 1975 tôi đã thấy vài thiếu nữ dạo đường Lê Lợi với những bộ áo bằng giấy không biết của Mỹ hay nước nào chế tạo. Những cây viết bi chúng ta dùng bây giờ, hết mực rồi liệng đi. Đã có những cái bật lửa hết “ga” thì liệng đi. Ở Mỹ, từ cả chục năm trước người ta dùng những ống chích, kim chích một lần rồi liệng đi, khỏi phải nấu lại để khử trùng.
Có người đã gọi văn minh ngày nay là văn minh dùng cái gì một lần rồi cũng liệng đi. Có nơi người ta cất nhà chỉ để ở mươi năm rồi phá đi, cất lại cho mới hơn, hoàn thiện hơn.
Thói chỉ dùng một lần rồi liệng đi gây cho con người tâm trạng này: không muốn mua cái gì hơi đắt tiền, mà chỉ muốn thuê: thuê nhà, thuê xe, thuê đồ đạc, Tivi, tủ lạnh, quần áo, đồ trang sức v.v... Do đó thêm một kỹ nghệ mới, kỹ nghệ cho thuê (industrie de location).
Họ sản xuất nhiều, họ phải tiêu thụ mạnh, phải lãng phí. Còn ta, trong những năm 1964-74, chúng ta chẳng sản xuất được gì cả, mà sống với người Mỹ cũng lây thói lãng phí của họ. Tôi biết nhiều cô giáo, cô ký lương không bao nhiêu mà tháng nào cũng may một chiếc áo mới, tủ áo có vài chục cái áo, cả chục cái quần, giày dép bốn năm đôi. Còn các bà tướng, bà tá, bà nghị viên, bà bộ trưởng... thì nghe nói tủ áo có cả trăm bộ áo. Họ bận làm sao hết được? Chỉ là vì có thứ hàng mới nhập cảng thì không mặc thứ hàng cũ nữa, cũng như các ông hoàng Ba Tư, Ả Rập có kiểu xe Plymouth, Mercédès 1974 thì không lái kiểu xe 1973 nữa. Ngay phụ nữ trong giới lao động cũng sắm cả chục chiếc áo, toàn thứ tốt. Thời đó thợ kiếm ăn dễ dàng, tiền công cao hơn công chức hạng trung. Nhiều khi chúng ta không thể chống lại được thói lãng phí đó. Chính tôi năm 1955, mua một cái máy thâu thanh kiểu cũ, lớn như cái tủ; chỉ ba bốn năm sau phải mua thêm một cái máy transistor vì nó tiện hơn nhiều, dời từ phòng này qua phòng khác, mang đi xa được, và có nó rồi thì cái cũ không dùng tới nữa, bán không ai mua, cũng phải liệng đi thôi. Máy ghi âm cũng vậy, cứ hàng năm lại có một kiểu mới hơn, tiện hơn, hoàn hảo hơn, hễ có tiền thì ai mà không muốn thay cái mới.
Cái hại là chúng ta sản xuất không bằng một phần 1.000 của Mỹ mà xài như Mỹ, quen thói lãng phí của Mỹ. Honda chạy đầy dường, không ai chịu đi bộ nữa. Thanh niên, học sinh không kiếm được một đồng mà uống la ve, hút thuốc thơm. Các bà các cô thì mỗi tháng hay nửa tháng đi “gội đầu” (nghĩa là uốn tóc lại) một lần ở một tiệm uốn tóc. Các chị bếp cũng bôi dầu thơm Immortel; bà chủ thì dùng Chanel. Còn nhiều xa xỉ nữa mà tôi không nhớ hết, thú thực cũng không biết hết, vì tôi không ra khỏi nhà, không dự các cuộc hội họp, thật lạc hậu.
Sài gòn thời Mỹ có cái bộ mặt như một thành phố Âu Mỹ, khiến một nhân viên Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Hòa bình phải khen là tân tiến hơn nhiều thành phố của họ.
Cũng may, chúng ta chỉ chịu ảnh hưởng đó của Mỹ trong mươi năm rồi Mỹ rút lui; bây giờ phải tập sống khắc khổ trở lại như ông cha bảy tám chục năm trước, hồi đầu thế kỷ. Và cái hại có khi thành cái may: nhờ nhà nào cũng dư rất nhiều quần áo nên hiện nay dân chúng Sài gòn, lục tỉnh nữa, chưa đến nỗi rách rưới lắm; và cũng nhờ có nhiều đồ đạc nên lúc này bán lần đi (người ta gọi là “bán món” - tức bán từng món một) để sống, cũng đỡ đói được ít năm. Thôi thì mượn câu này của Lưu Cơ đời Minh, tác giả bài Tư Mã Quý chủ luận bốc để tự an ủi vậy: “Tích nhật chi sở hữu, kim nhật vô chi, bất vi bất túc” (Trước kia có mà nay không, không phải là không đủ) để tự an ủi vậy.
Đời sống quay cuồng
Vì nhu cầu mỗi ngày một tăng, vì phải tranh đấu để sống - có khi chẳng phải để sống mà để hơn ông anh vợ hay ông hàng xóm, nên đời sống hóa bận rộn lạ lùng. Sau bảy năm xa cách, năm 1953 trở về Sài gòn, tôi thấy đời sống ở đây thay đổi quá và đã ghi cảm tưởng của tôi trong bài tựa cuốn Tổ chức gia đình:
“Các cụ hồi đầu thế kỷ, bây giờ có sống lại mà đứng ở đường Lê Lợi trong các giờ tan sở chắc phải hoảng lên và la:
- Có giặc cướp hay đám cháy nào thế này? Sao mà thiên hạ chạy tán loạn, mặt đăm đăm như vậy?
Chỉ đứng độ năm phút. nhìn lớp sóng người qua lại, nghe tiếng chuông tiếng còi, các cụ cũng đủ choáng váng và hồi hộp. Nếu các cụ lại sống chung với chúng ta một buổi sáng thôi, thấy chúng ta mới 6 giờ đã dậy tập thể dục, rửa mặt, tắm gội, húp vội một ly sữa ròi bổ nhào ra ngoài phố, tới đầu đường liệng một đồng bạc, giựt một tờ báo, leo lên xe buýt; tới 12 giờ rưỡi mới về, vẻ mặt bơ phờ, nuốt mấy miếng cơm rồi lăn ra ngủ, nếu các cụ thấy vậy thì chắc các cụ mau mau từ biệt chúng ta để vào rừng ở dù chúng ta có đem hết những tiện nghi, xảo diệu của khoa học để dụ dỗ các cụ ở lại, cũng luống công vô ích”.
Cuộc sống đó cứ mỗi ngày một thêm ồ ạt, hấp tấp, tới năm 1974 thì đã gần bằng những thị trấn lớn ở Âu châu. Không biết tới cuối thế kỷ này ở những kinh đô như Paris, Tokyo, New York, London, Berlin... sẽ ra sao, chứ bây giờ tôi thương hại cho lũ con cháu tôi ở Âu Mỹ quá. Chúng bận rộn vội vã từ sáng sớm, sáu bảy giờ tối mới về nhà, không có thì giờ săn sóc con cái, chuyện trò với người thân nữa. Bạn chúng có người 6 giờ sáng phải lên xe lửa để 8 giờ tới sở, chiều 4 giờ lại ngồi xe lửa hai giờ nữa để về nhà. Mỗi ngày mất bốn giờ ngủ gục trên xe.
Người Âu Mỹ nghỉ mỗi tuần hai ngày thứ bảy và chủ nhật, nhưng hai ngày đó họ cũng không ở nhà mà lái xe hơi đưa nhau đi chơi ở vùng ngoại ô thành phố vì họ ngán không khí thành phố quá. Họ hấp tấp đi, hấp tấp về, rốt cuộc hai ngày nghỉ cũng như hai ngày làm việc.
Tôi mới đọc cuốn Travailler deus heures par jour - Adret - Editions du Seuil 1977, thấy tình cảnh một số thợ thuyền ở Paris, mới đáng thương: để có đồng lương đủ sống, họ phải làm việc 48 giờ một tuần, mỗi ngày 8 giờ, cứ mỗi tháng thay phiên nhau kíp làm buổi sáng, kíp làm buổi chiều, kíp làm ban đêm, sức kiệt đi, thần kinh căng thẳng, không còn sức, thì giờ để vợ chồng ái ân với nhau nữa.
Nghỉ hè một tháng, người ta lại “vù” đi du lịch, lên núi, xuống biển, ngày cuối cùng mới về nhà. Nhà đối với họ không còn là cái “foyer”, cái “sweet home”, cái tổ ấm nữa, mặc dầu nó rất giống cái chuồng bồ câu như Lâm Ngữ Đường đã nói. Tôi không hiểu họ đọc cuốn The Importance of living của Lâm, có thèm đời sống của phương Đông thời chưa nhiễm văn minh của họ không. Tôi chắc có, nên cuốn đó mới được đứng vào hạng “best seller” (bán chạy nhất) ở Mỹ.
Nhà đối với ho chỉ là chỗ để tối về ngủ, mà mỗi tuần có kẻ chỉ về ngủ ba bốn đêm, còn thì họ mắc đi tỉnh này tỉnh nọ, nước này nước khác; họ dời chỗ hoài, có người gọi họ là bọn “nouveaux nomades”, bọn nay đây mai đó của thời đại mới.
Ở Mỹ cứ mỗi ngày xây đắp thêm 300 cây số đường sá. Có kẻ đi từ tỉnh này qua tỉnh khác để chữa răng, để may quần áo. Ở Thụy điển mỗi năm có 1.200.000 du khách ngoại quốc. Và một em gái ở Mỹ khóc: Con đã chín tuổi rồi mà chưa được thấy châu Âu. Họ mắc một thứ bệnh nặng: bệnh xê dịch.
Cảm giác bất an - Thời đại kỹ nghệ điện tử
Thay đổi đồ dùng, thay đổi chỗ ở, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi vợ chồng... cái gì cũng phù du, tạm thời, do đó mà con người có cảm giác bấp bênh, bất an.
Ở nước ta chưa đến nỗi như vậy, nhưng vì tình hình thế giới cứ căng lại giãn, lạnh lại nóng từ sau thế chiến đến nay, cứ phập phồng vì thế chiến thứ ba, vì họa nguyên tử; nhất là vì tình hình trong nước, chiến tranh liên tiếp ba chục năm, trải biết bao “triều đại”, thấy bao cảnh tang thương, cảnh sụp đổ, cảnh lên voi xuống chó, phá giá đồng bạc... cho nên cũng sinh ra ưu tư. Thuốc an thần bán đã gần chạy như châu Âu, và người ta đã bắt đầu thấy thiếu nhiều y sĩ chuyên trị thần kinh.
Làm sao không có cảm giác bất an cho được? Kiến thức của loài người trong 25 năm tăng lên gấp 4 lần. Những điều tôi học hồi xưa nay hóa ra lạc hậu hết, nhất là môn toán. Con tôi phải học thuộc lòng bảng cửu chương như tôi, nhưng con nó sẽ khỏi phải học như nó vì có cái máy tính điện tử nhỏ bằng bàn tay giá chỉ độ 100 quan làm thay bốn phép và thêm một vài phép nữa cho chúng. Các trường đại học Âu Mỹ mỗi năm mỗi mở thêm nhiều môn học, sinh viên muốn lựa môn nào tùy ý. Nghe nói người ta có thể sẽ bỏ những kỳ thi đại học nữa. Cũng chẳng cần tới giảng đường: cứ ở nhà tự học bằng ti vi, bằng máy điện tử, tùy theo chương trình, nhịp tiến của mình.
Đồ gì cũng chỉ dùng trong ít năm rồi liệng bỏ. Sách cũng vậy. Một tác giả nổi tiếng được dăm năm là nhiều, một lác phẩm bán được ba bốn năm là khá lắm rồi.
Hiện nay ở nước ta, gia đình còn là nơi vững bền, ổn cố nhất trong xã hội; ở thôn quê, vợ chồng, cha mẹ, con cái còn thắm thiết gần như xưa, nhưng rồi đây với trào lưu hôn nhân tự do, hôn nhân thử, trào lưu dùng thuốc và dụng cụ ngừa thai, trào lưu thoát ly gia đình, cả ở Âu lẫn Á, ở các nước tư bản lẫn các nước xã hội chủ nghĩa, thì gia đình sẽ ra sao?
Ở phương Tây, còn thêm một nguyên nhân lo lắng, bất an nữa: đời tư của cá nhân bị kiểm soát chặt chẽ.
Mới trên ba chục năm trước (1947), Wiener viết một cuốn sách (nhan đề là Cybernétics) về kỹ thuật các hệ thống tự điều khiển, rồi mươi năm sau các máy tính điện tử bắt đầu được phổ biến ở Mỹ, ngày nay các máy điện tử (ordinateur) lan tràn khắp châu Âu và vài xứ châu Á, mở màn cho một cuộc cách mạng nữa, cho một thời đại, thời đại kỹ nghệ điện tử (technétronique).
Chỉ trong vài chục năm nay các máy điện tử phát triển, tiến bộ ghê gớm: trước kia phải dùng một hệ thống máy chật mấy căn nhà thì nay chỉ cần dùng một cái máy nhỏ xíu mỗi chiều vài li (?); trong mười năm, giá máy giảm đi ngàn lần.
Người ta phải tạo một môn học - môn informatique - để dạy cách sử dụng các máy đó và môn này cũng phát triển song song với máy; hiện nay đã có một tự điển gồm một vạn thuật ngữ. Tôi không hiểu môn đó, nhưng đọc báo chí, tôi đoán công dụng của máy như sau: ta biết được một điều gì đó, chẳng hạn ta gởi vào ngân hàng bao nhiêu tiền, hôm nào rút ra bao nhiêu, hôm nào bỏ thêm vô bao nhiêu v.v..., máy ghi hết cho ta; nửa năm hay một năm sau, ta muốn biết còn bao nhiêu tiền thì chỉ bấm một cái nút, máy cho ta biết liền; hoặc ta muốn rút ra một số lớn hơn số ta còn trong trương mục thì máy tự động báo cho ta biết rằng ta không còn đủ tiền. Máy nhớ giùm cho ta, tính toán giùm ta, lại có thể cho ta biết nên làm ra sao nữa. Đó là thí dụ đơn giản nhất. Máy có thể làm những việc phức tạp, khó khăn gấp ngàn, gấp triệu lần như thế.
Hiện nay hết thảy các nước tiến bộ ở Mỹ, Âu, cả Nhật nữa đều dùng máy điện tử trong việc hành chánh và trong kỹ nghệ, thương mãi. Sinh viên đại học cũng dùng rồi. Ở nước ta năm 1979 đã thấy bán lậu những máy tính nhỏ, những đồng hồ điện tử.
Ở Pháp năm 1978, nhà Julliard xuất bản cuốn L’informatisation de la société. Cuốn đó là bản báo cáo của hai nhân viên quan trọng trong bộ tài chánh gởi lên Tổng thống Valéry Giscard d’Estaing về ảnh hưởng của máy điện tử tới xã hội.
Đại khái thì về:
- hành chánh sẽ có sự phân tán trách nhiệm, các cơ quan thấp sẽ đươc một phần tự trị, nhiều cơ quan phải rút bớt nhân viên như sở Bưu chính (tư nhân có thể tự in lấy báo), sở Công an, sở Thuế...; dân chúng sẽ đòi được cùng với nhà cầm quyền lập các kế hoạch cho quốc gia;
- kỹ nghệ, sản xuất sẽ tăng mạnh. nhưng nhân viên văn phòng không tăng;
- thương mãi cũng vậy, phát triển hơn, nhưng nhân viên giảm đi. nhất là tại các ngân hàng;
- kinh tế: sẽ có nhiều người thất nghiệp, để giảm số người đó, sẽ phải rút bớt giờ làm việc đi.
Dịch vụ (hoạt động tam đẳng) sẽ tăng lên: nhiều thì giờ rảnh, người ta sẽ đọc sách, chơi nhạc, bơi lội, du lịch...; kỹ nghệ chuyên chở sẽ phát triển...
- giáo dục: sinh viên có máy điện tử nhỏ, riêng, có thể tự học, nhanh hay chậm tùy sức mỗi người, họ không cần nhớ nhiều nữa mà cần có óc tưởng tượng, có sáng kiến, khéo dùng những điều máy điện tử chỉ cho họ.
Tóm lại là máy điện tử sẽ tạo một lối phát triển mới, một xã hội mới. Phát minh đó quan trọng hơn tất cả các phát minh từ trước tới nay, kể cả phát minh chữ viết thời thượng cổ. Về mặt lợi ích thì rất nhiều, nhưng hại thì cũng có thể rất lớn: chính phủ nào cũng có thể kiểm soát từng hành vi của mỗi người dân, chẳng hạn ông lớn nào đã chuyển bao nhiêu tiền hôm nào qua ngân hàng nào ở ngoại quốc, đã nói với “đào” những gì, đêm nào, tại đâu... hết thảy đều được máy ghi lại, phân loại rồi khi nào cần dùng thì chỉ bấm một nút là máy “trình” ngay cho chính phủ. Tới lúc đó thì không còn chút tự do cá nhân nào nữa như Aldous Huxley và G. Orvell đã tiên đoán trong hai cuốn Le meilleur des mondes và 1984.
Tác giả (tôi quên tên) cuốn Une société sans défense (một xã hội mà cá nhân không có cách tự vệ) bảo muốn ghi lý lịch của trên 200 triệu dân Mỹ (lý lịch mỗi người khoảng 12 trang) thì chỉ cần 1.400 mét băng từ khí (bande magnétique); và hiện nay ở Mỹ đã có 70 triệu người (tức 1 trên 3 người) lý lịch bị thâu băng rồi.
Một ngày kia con người ở khắp nơi, từ lúc sinh tới lúc tử sẽ bị dò xét, ghi các tội lỗi, tật xấu, các hành dộng, cả tư tưởng nữa... và bị băng từ khí của máy điện tử cột tay cột chân, bịt miệng, y như xác ướp trong các kim tự tháp Ai Cập.
Chúng ta hiện nay chưa phải lo như dân chúng Mỹ, nhưng đã thấy rằng khoa học càng tiến bộ thì chính quyền càng có nhiều phương tiện kiểm soát, đàn áp cá nhân, và cá nhân càng biến thành con số không trước quyền lực vô biên của bộ máy cai trị.
Tóm lại quân đội Mỹ qua nước ta chỉ trong khoảng mươi năm, mới cho ta thấy tận mắt vái nét về văn minh tiêu thụ, văn minh hậu kỹ nghệ của họ mà ta đã có cảm giác bất an về mọi phương diện:
- bất an vì nhân số tăng mau mà thực phẩm sẽ thiếu,
- bất an vì các giá trị cổ truyền sẽ sụp đổ, con người không biết bám víu vào đâu,
- bất an vì các thị hiếu, các đồ dùng thay đổi hoài,
- bất an vì kinh tế bấp bênh,
- bất an vì đời sống quay cuồng. lúc nào cũng bận rộn, trí óc không được thảnh thơi,
- bất an vì các tự do cá nhân mỗi ngày một mất thêm, đời ta mỗi ngày bị kiểm soát chặt chẽ hơn.
Làm sao chống được với làn sóng bất ổn, bất an, quay cuồng của thời đại đó để khỏi bị nó nhận chìm?
Trong bài Chúng la phải làm gì? (Bách Khoa số 424 ngày 1-3-75) tôi đã đưa đề nghị: phải thay đổi nhân sinh quan, xét lại quan niệm về hạnh phúc, định lại giá trị và mục đích. Phải sống bình dị, trở về thiên nhiên, không tính hạnh phúc theo lợi tức như người Mỹ, vì hạnh phúc không thể mua được, đánh giá bằng tiền được. Phải trở về với một số giá trị cổ truyền, giữ một số tục lệ, lễ nghi để chặn bớt sự thay đổi quá mau của thời đại, nhất là giữ tình gia đình, tình họ hàng, tình bạn bè, nói chung là tình cảm con người.
Alvin Toffler trong cuốn Le choc du futur (Mediations - 1973) còn khuyên: không theo thời thượng, mà trọng những đồ cũ; không mua những đồ nào chỉ dùng một lần rồi liệng đi; không dự những tổ chức, những cuộc hội họp vô ích; và nếu ở sở phải thường thay đổi công việc thì ở nhà cứ rán giữ những công việc hằng ngày, giữ một thời khắc biểu không thay đổi.
Sống như vậy có thể sẻ bị nhiều người cho là cổ hủ, lạc hậu, nhưng chúng ta không nên sợ dư luận. mà phải có bản lãnh sống theo ý mình và như Tofller nói, “xã hội nào cũng sẽ cần những nhóm người biết đứng riêng ở ngoài sự đổi mới”.
Phong hóa suy đồi
Cuối chương XIV tôi đã nói trong thập niên 30, tuy có phong trào vui vẻ trẻ trung, nhưng chỉ một số ít thanh niên vì đua đòi, theo “mốt” mà chơi bời, bê tha, chứ xã hội và gia đình vẫn giữ được truyền thống của phương Đông.
Trong thế chiến II, một phần vì kinh tế suy, đời sống khó khăn, một phần nữa vì tình hình thế giới, khiến ai cũng thắc mắc về tương lai của dân tộc, của bản thân, nên phong trào đó tự nhiên xuống lần, thanh niên hóa đứng đắn hơn.
Thế chiến vừa chấm dứt, tiếp ngay là cuộc kháng Pháp, tinh thần toàn dân lên cao, ai cũng mong giành lại độc lập và tự do trước hết. Người ở thành thị thì bỏ nhà cửa, tài sản ra bưng sống như nông dân, cực khổ mà vui vẻ. Ngay một số phụ nữ quen đài các cũng hóa ra đảm đang, buôn thúng bán mẹt để mưu sinh trong khi chồng con theo kháng chiến. Sau vài ba năm, vì lý do này hay lý do khác, một số phải trở về thành, nhưng sống giản dị, cần kiệm, một phần vì lo xây dựng lại, một phần vì phải giúp đỡ bà con ở vùng tự do. Vả lại, đồng bào còn phải đổ máu mà mình sống cuộc đời sa hoa thì lương tâm không yên. Nhiều người bỏ sở. kiếm sạp bán báo, bán vải, hoặc bán phở, bán bún. Vì tất cả những lẽ trên, tôi cho rằng thời kháng Pháp là thời dân tộc mình có đạo đức nhất. Khi quốc gia lâm nguy, chúng ta càng tỏ ra xứng đáng với tổ tiên.
Sau khi non sông chia hai, trong mươi năm đầu (1954-64), riêng ở miền Nam, xã hội không thay đổi bao nhiêu, vì ai cũng lo kiến thiết lại. Chỉ từ khi trên nửa triệu quân Mỹ đổ vào miền Nam, xã hội mới xáo động mạnh. Đầu chương XXII, tôi đã kể qua cái họa bọn lính Mỹ gây ra chỉ vì chúng vung tiền ra nhiều quá, khiến cho dân mình sa đọa, y như ở Trung Hoa trong những năm 1945-49.
Mỹ mướn thư ký trả lương gấp ba, gấp năm chính phủ mình, thuê nhà cũng vậy; mướn người ở gái, trả công gấp mười chủ Việt, nếu chịu bán thân cho chúng, được chúng “bao” thì không có giá nào cả, có thể một sớm một chiều, từ một gái quê thành bà nọ, bà kia. Một bọn người ham tiền, bán linh hồn cho quỷ: có những ông phán dời bàn thờ tổ tiên xuống một căn nhà sau, bên cạnh bếp, để nhà trên cho Mỹ mướn; có những thiếu phụ, thiếu nữ bỏ chồng, bỏ cha mẹ để theo Mỹ trắng, Mỹ đen mà được ăn sung mặc sướng; đàn ông thì bỏ sở, xin làm cho Mỹ, rồi theo gái bán “bar”, lợi dụng gái để buôn lậu... Tiền kiếm dễ dàng quá, người ta tha hồ huy hoắc trong những “snack bar” (quán ăn cho Mỹ), những “bia ôm” (quán bán bia mà cô bán hàng để cho khách ôm dưới ánh đèn mờ mờ), những nhà “tắm hơi”, những quán cà phê có nhạc giật gân, phía trong chiếu “film con heo”. Chỗ nào có lính Mỹ đóng thì chỉ vài ba ngày, những ổ trụy lạc đó mọc lên rồi, làm ăn rất thịnh vượng. Do đó mà sinh ra đủ các tệ đoan: nghiện xì ke, ma túy, ăn cắp, hổi lộ, đĩ điếm; gia đình tan rã, em tố cáo chị theo Việt cộng, vợ phản chồng, giết chồng...
Bê bối nhất là bọn quân nhân; tướng tá mua quan bán chức, một ghế Tỉnh trưởng, Quận trưởng giá bao nhiêu đó, mua được rồi thì đua nhau ăn hối lộ, làm sao cho trong một năm hay sáu tháng “gỡ gạc” lại đủ vốn; tất nhiên, như mọi thời, có kẻ bắt vợ làm điếm cho Mỹ để được thăng chức. Họ buôn lậu vàng, ma túy; họ xin hoặc chiếm đất lập đồn điền, cất nhà. Ở Long Xuyên họ lấp một cái hồ trong một khu yên tĩnh nhất để chia nhau cất biệt thự (cuối 1976 đã bị tịch thu). Họ thành một giai cấp bạo phát, hống hách.
- Trong thời Ngô Đình Diệm, như tôi đã nói, Công giáo phát triển rất mau; từ khi Diệm bị giết. Phật giáo phát triển còn mạnh hơn nhiều: chùa mọc lên như nấm (ngay trước nhà tôi, trong hẻm Kỳ Đồng, người ta dựng xong một ngôi chùa cây trong một đêm), cả những người không bao giờ bước chân tới chùa cũng tự xưng là Phật tử, các Thầy được kính như Phật sống; dĩ nhiên hạng chân tu rất hiếm. Vị trụ trì một ngôi chùa nọ bảo tôi: “Có ở trong mền, mới thấy mền có rận. Không một nhà sư nào dưới sáu mươi tuổi mà không phạm giới; trong ngũ giới - sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngôn, uống rượu - họ chỉ tránh được giới cuối cùng”. Tôn giáo nào cũng vậy, nhất là Phật giáo rất tự do, không có qui chế chặt chẽ, hễ phát mạnh quá thì chỉ có lợi cho giáo đường mà giáo lý phải suy, vì người ta phải theo những luật của các tổ chức kinh doanh, phải làm vừa lòng một số tín đồ, lập các đàn chay, hội hè, phải cúng sao, giải hạn... càng ngày càng xa đạo lý nguyên thủy. Một số thượng tọa thời đó được chính quyền kính nể, vì có công lật đổ chế độ nhà Ngô, nên họ muốn gì được nấy; ai theo họ thì được họ ủng hộ để giành quyền hành. Trong dân gian đã có câu: “Nhất đĩ, nhì Thầy, tam tướng, tứ?...” (tôi quên). Câu đó tóm được tình trạng xã hội sau năm 1963.
Trường học công còn giữ được chút kỷ luật, nhưng càng về sau trường thi càng mất trật tư, thí sinh ngang nhiên đánh phép, có thí sinh quân nhân vô phòng rồi, đặt súng sáu trên bàn để dọa giám thị, rồi mở sách ra chép bài, thậm chí một số giám thị không dám gác phòng thi nữa, và một giáo sư giám khảo bị thí sinh giết ở giữa thị xã Nha Trang vì nghiêm khắc với chúng. Do đó học sinh cũng không chịu học, chỉ luyện cách lén đem tài liệu vào phòng thi để “quay phim”.
Trường tư thì khỏi phải nói: không còn được là nơi bán chữ nữa mà chỉ là nơi bán chứng chỉ, học bạ. Học sinh làm chúa trong lớp, giáo sư cứ giảng mà chúng cứ nói chuyện, đùa nghịch với nhau.
- Thời càng loạn thì những môn bói, lý số càng được nhiều người tin. Chiến tranh liên miên mấy chục năm, xã hội lại bất công, có khả năng, có gắng sức cũng vô ích, vậy thì biết tin ở gì bây giờ? Các “mét” coi chữ ký, chỉ tay, các cô bói bài tây, các thầy bói, gần như không khu nào không có. Báo chí đua nhau đăng mục Tử vi hằng ngày (!); các sách tử vi, tử bình, bói xuất hiện nhan nhản, bán chạy hơn cả sách báo khiêu dâm. Sự mê tín cơ hồ như bất tử. Xã hội còn bất công, còn những kẻ nghèo khổ, bị áp bức thì không sao dẹp mê tín được. Họ phải mê tín để có chút hy vọng. Từ 1945 đến nay, tôi thấy cái lý trí của loài người, kể cả hạng người gọi là trí thức, yếu ớt một cách thảm hại, luôn luôn bị tình cảm chi phối.
Biết bao nhiêu người vì lẽ này hay lẽ khác không chịu chấp nhận thực tế, đêm ngày chỉ mơ tưởng một cuộc thay đổi để trở lại đời sống cũ, xã hội cũ. Họ theo dõi kỹ thời cuộc, đi đây đi đó để ngóng tin tức, đọc báo, bắt các đài thông tin ngoại quốc, chỉ rình những tin hợp với ước vọng của họ, gạt bỏ những tin khác, có khi lại giải thích tin tức một cách rất vô lý, theo ước vọng của họ, bất chấp sự thực, bất chấp lô-gíc. Chẳng hạn được tin Việt Nam sẽ “xuất khẩu” 15.000 công nhân qua Đông Âu, họ hoan hỉ, bảo: “Đúng rồi. Chính thể này sắp sụp đổ rồi. Chúng lo di tản trước, những đảng viên trung kiên, ‘gạo cội’ nhất, rồi tới phút chót, chúng sẽ chuồn cho dễ; chứ đâu phải là xuất khẩu công nhân; tụi Đông Âu đâu có cần công nhân của một nước lạc hậu như mình”.
Hai câu sấm: “Mã đầu dương cước anh hùng tận, Thân dậu niên giai kiến thái bình” của Trạng Trình, những năm 1956-57 (Bính Thân, Đinh Dậu), đi đâu cũng nghe thấy người ta nhắc tới; hai năm Thân, Dậu sau (1968, 1969) người ta lại lôi ra để hi vọng chiến tranh sắp chấm dứt, sắp thái bình; rồi năm ngoái (1980) tôi lại được nhiều người bảo năm Canh thân này hai câu ấy mới ứng, “vì trong sấm giảng của Thầy Tư Hòa Hảo cũng bảo ‘năm năm sáu tháng cơ hàn’ mà từ ngày 30 tháng tư năm 1975 tới tháng 10 D.L. này, đúng 5 năm 6 tháng, sẽ hết cơ hàn, hết nạn cộng sản”. Tôi bảo câu của Thầy Tư phải sửa là “năm năm tháng tháng cơ hàn” thì mới đúng, họ làm thinh.
1980 đã qua, 1981 cũng sắp qua, tôi không biết họ có tìm được câu sấm nào khác không, nhưng tôi chắc chắn 10-11 năm nữa tôi lại sẽ được nghe hai câu sấm Trạng Trình nữa, nếu tôi còn sống.
Không kiếm được câu sấm Việt nào, họ tìm cả sấm của Nostradamus của Pháp; nếu cũng không có nữa thì họ lục những bài giáng bút - nhiều vô số - trong các buổi cầu cơ của khắp các đàn xa gần, để có một chút hi vọng trong một thời gian.
Họ là những người ghét thực tế, rồi đâm ra trốn thực tế, sợ sự thực, luôn luôn sống trong mộng, tưởng tượng ra một bọt bèo để bám vào, mong khỏi chết đuối; bọt bèo đó tan hay chìm, họ lại tưởng tượng bọt bèo khác, cứ như vậy luôn ba chục năm, từ 1945 đến nay. Họ là những người đáng thương nhất trong thời đại này.
Lính Mỹ chỉ đóng ở những thành phố lớn như Sài gòn, Tourane, Cần thơ, Huế, Đà lạt, và những nơi quan trọng về quân sự như Biên hòa, Vũng Tàu, Cam ranh.... nên chỉ ở những nơi đó xã hội mới sa đọa nhiều. Còn ở những tỉnh nhỏ như Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc, nhất là ở thôn quê, trong những gia đình tiểu tư sản (thầy kí, thầy giáo, tiểu thương) và nông dân, thì truyền thống vẫn giữ được
Mà chúng cũng chỉ đóng ở miền Nam có mươi năm, sau ngày 30-4, trong nửa năm đầu, nạn trụy lạc gần như mất hẳn. Nhưng chỉ cuối năm 1975, sau khi đổi tiền lần đầu, người Nam thấy một số khá đông cán bộ ở Bắc vô, ở bưng về cũng thối tha, hối lộ, ăn cắp, đĩ điếm, thèm khát mọi khoái lạc, nên đã bắt đầu coi thường họ; và chỉ hai ba năm sau, họ cũng sa đọa gần như thanh niên Sài gòn, chỉ thiếu cái tật “phi xì ke”, và chính quyền phải vội vàng chặn lại. Nghe nói thanh niên Hà Nội cũng bị lây nữa, nhưng nhẹ hơn.
Đó là lỗi của xã hội. Một xã hội muốn cho lành mạnh, có đạo đức thì phải ổn định, mà muốn ổn định thì phải công bằng, ai cũng có công ăn việc làm, đủ ăn đủ mặc. không có kẻ giàu quá, kiếm tiền dễ quá, cũng không có kẻ nghèo quá, làm tối tăm mặt mũi mà vẫn xác xơ, phải ăn độn quanh năm với rau muống, mỗi năm không được một bộ quần áo.
Xã hội Việt Nam từ 1945 trở về trước tương đối ổn định vì sự cách biệt giữa người giàu quá và kẻ nghèo quá không đến nỗi lộ liễu, chướng mắt. Từ 1965, ở miền Nam, quân đôi Mỹ ồ ạt vào, làm mất sự ổn định: nhiều kẻ dựa vào Mỹ kiếm tiền rất dễ, làm giàu rất mau, huy hoắc không thể tưởng tượng được, mà họ thường thiếu tư cách, cho nên phong hóa phải suy đồi. Hiện nay (1981), ở Nam cũng có một số cán bộ và con buôn, nhờ hổi lộ, buôn lậu mà làm giàu, trong khi đa số người lương thiện có học chịu cảnh thất nghiệp, bữa cơm bữa cháo, xã hội do đó không ổn định, lành mạnh được. Nhà cầm quyền chắc hiểu điều đó mà chưa tìm được biện pháp nào hữu hiệu. Nhưng quốc gia ổn định nhất, dân có đạo đức nhất là những nước tài sản của dân gần quân bình, ai cũng đủ ăn hay dư một chút. như Finlande, Suède, Norvège... Nhà cũng vậy: giới tiểu tư sản thường có đạo đức nhất vì họ không giàu quá mà cũng không nghèo. Nghèo quá thì sinh ăn trộm, gian tham, thiếu tư cách, mà giàu quá thì hóa trụy lạc. Bàí học đó chúng ta nên nhớ.
Chú thích:
[1] Đoạn này trích trong Mười câu chuyện văn chương, bài kỷ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn. Chỗ nào sửa lại, tôi đặt trong dấu ngoặc đơn.
[2] Coi chú thích trên.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét