Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2013

TÔI PHẢI SỐNG PHẦN 11 VÀ 12

TÔI PHẢI SỐNG (11)

Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ

Vùng bóng đen


Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trờ một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần gây nên. Tôi cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi và tôi có thể sống yên thân để phục vụ giáo dân vùng này được bền lâu. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai việc, câu cá và học đàn Vọng Cổ.

Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi khi cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời. Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông thì không còn gì thú vị hơn. 

Vùng tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi rất đau nhức và lên cơn sốt suốt một ngày, cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi!


Những lần câu được nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi suýt bị rắc rối vì câu cá. 

Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo dưới bến nhà thờ để câu cá, có một người cán bộ lạ mặt đội mũ tai bèo khăn rằn quấn cổ chèo ghe cập vào hỏi: 

- Anh là ai và ngồi làm gì ở đây? 
Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng trả lời: 
- Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá. 
Anh cán bộ hỏi tiếp: 
- Anh câu cá mà cần câu anh đâu? 
Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi, nhưng cách anh ta nói rất nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện đùa giỡn . Tôi trả lời: 
- Anh hỏi gì vậy! Thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à? 
Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi: 
- Cái loại máy có cần ăn-ten và ''dây trời'' này có kêu được máy bay B52 không? 
Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên: 
- Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này? 
Anh cán bộ đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là“cần câu máy”. Thực ra nó chỉ là cái trục để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài bằng chất nhựa dẻo để thả xuống sông câu cá. 
Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên chỉ cho anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu móc vào lưng con tôm đang quơ râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang cầm trong tay không phải là cây ăn-ten của một loại máy truyền tin hiện đại có thể gọi... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52 chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi! 
Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền. 
Tôi thường mời anh tới nhà xứ chơi để đàn hát và dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ chính trị, tôn giáo, xã hội... Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng chó His anh hỏi tôi: 
- Chó His màu gì hả cha? 
Tôi đáp: 
- Màu trắng có đốm màu vàng. 
Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp 
- Màu vàng là thế nào hả cha? 
Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền không thấy được màu sắc là vẽ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp. 
- Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao? 
Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất. 
- Tôi không giải thích được anh Tám ạ! 
Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt. 
Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các “ngón” đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn vọng cổ. Có lần tôi hỏi: 
- Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề! Hay quá là hay, còn tôi đánh đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được? 
Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng: 
- Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi. 
Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh vào tiếng đàn của mình. 
Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất giác nói một mình:” Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào có được tiếng đàn này!” 
Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn. 
Nhớ lại thời gian đó có đôi ba lần tôi cũng đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng. Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang gạo theo nấu cơm. Ban ngày đào đất, ban đêm tôi và một số thanh niên tập trung tại sân nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn hát những bài ca vọng cổ trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ! 
Khổ nỗi, tôi thích vọng cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là “mít ướt”, nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm tôi không cầm lòng được. 
Lúc tôi mới về đó vào tháng 7 năm 1975, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây. 
Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần tới nhà bị mấy anh du kích chặn trên đường. Một anh mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát: 
- Tới lúc này mà anh còn đội kết thằng Kỳ à? 
Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại: 
- Anh nói gì tôi không hiểu! Đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào? 
Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa: 
- Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh muốn bắt chước thằng Kỳ hả? 
Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên một cách ngán ngẩm cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi đi. Lúc nổ máy xe chạy rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ là mất cái kết đen vẫn còn may mắn. Nếu anh du kích nói cái quần tôi đang mặc là loại quần... ”thằng Kỳ”, chắc là hôm đó tôi gặp chuyện ngượng ngùng chết người! 
Nhưng cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã sau đợt học tập “đóng nghĩa vụ”, nó lại trở thành cơn giá băng. Đợt học tập đóng thuế, nhưng được gọi cái tên đẹp là “đóng nghĩa vu’’này, được tổ chức ngay trong một lớp của trường học họ đạo của tôi. Sau đợt học tập, mỗi gia đình được “cách mạng” giao chỉ tiêu đóng thuế cắt cổ. Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp đi như bánh xe cán đinh. 
Có rất nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất, chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu “đóng nghĩa vụ” chóng mặt vừa mới được cách mạng ban cho, căn cứ theo số ruộng vườn đang canh tác. Có mấy bà “mẹ chiến sĩ ” đã lớn tuổi, bực quá chửi thẳng, theo cái kiểu người ta thường ví: “trâu già không sợ dao phay”. Có bà phùng mang, trợn má chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe: “Đéo mẹ chúng bây! Nếu tao biết nông nỗi này thì ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây trong nhà tao”! 
Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn “nghĩa vụ” thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ “cách mạng” sẽ có biện pháp khác, và không ai muốn rơi vào biện pháp đó. 
Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước tôi. 
Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo xứ. Hơn nữa, mẹ già đang đau nặng nên tôi trình bày với Giám mục và được chấp thuận. Tôi được lệnh bàn giao họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà lo lắng cho mẹ. Cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi lúc bấy giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre. 
Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận, tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có đại chủng-viện riêng. 
Sau khi mãn khóa, Thạnh và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này. 
Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau 30 cây số. Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau. 
Thạnh có cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến Tre vào đầu năm 1973. 
Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó. Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động. Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu: 
“Bắt phong trần phải phong trần, 
Cho thanh cao mới được phần thanh cao." 
Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo xong, chánh quyền sở tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép đi đường trong 3 ngày. 
Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc, tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây.
TÔI PHẢI SỐNG     (12)
Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
Tung hỏa mù
Tù nhân trong trại Gia Ray bắt đầu xôn xao, bàn ra tán vào về nguồn tin đó. Các “nhà bình luận thời cuộc” lại có dịp bày tỏ sự hiểu biết của mình về lý do tại sao phải chuyển trại. Tại sao lại đưa về Đồng Tháp mà không thể đưa đi nơi khác? Và ở đó sẽ ra sao? Sau khi bàn đi tán lại đủ điều, họ đưa ra câu kết luận là:“Rất tốt!”
Lúc mới vừa bị dồn lên trong trại này, chúng tôi ai cũng lo ngại sẽ bị đưa ra Bắc. Hai tiếng “ra Bắc” là hai tiếng cấm kỵ. Trong tù ai cũng sợ, cũng kiêng, không ai dám nhắc tới nó. Hai tiếng “ra Bắc” đồng nghĩa với ba tiếng “đến tử địa” nên không ai dám nghĩ là mình sẽ rơi vào trường hợp ra Bắc. Chúng tôi không muốn nhắc tới hai tiếng đó, mặc dù lúc nào nó cũng tiềm ẩn ở một nơi nào đó trong lòng của từng người tù chúng tôi.
 Bây giờ có tin đi Đồng Tháp, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nỗi lo canh cánh bên lòng bây giờ được giải tỏa, như vừa trút bỏ được gánh nặng ngàn cân. Ở Đồng Tháp có điều gì hay thì chưa biết nhưng mọi người đều hân hoan với viễn ảnh là đến đó thì được tha hồ mà dùng nước! Vì Đồng Tháp là vùng sông ngòi, trong khi ở Gia Ray này, một giọt nước quý như một giọt máu. Chúng tôi vui mừng hớn hở và yên tâm chờ đợi ngày được đi Đồng Tháp. Một viễn ảnh tốt đẹp cho kiếp tù đang le lói trong lòng của hơn ngàn tù nhân trong trại lúc bấy giờ.
Vào một buổi trưa Chúa Nhật của tuần lễ đầu tháng Tư, có một anh Công giáo trong đội nhà bếp tới gặp tôi để xưng tội. Sau đó anh kéo tôi ra gần bờ rào trại để nói chuyện riêng. Anh nói với tôi:“Con báo cho Cậu Bảy biết, qua tuần tới, tức là sau lễ Phục Sinh sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, trong số đó có tên Cậu Bảy. Xin cậu hãy giữ kín chuyện này vì nếu tiết lộ con sẽ bị nguy hiểm. Con xin cậu cũng đừng hỏi tại sao con biết việc này, cậu chỉ biết là không phải con làm việc cho tụi nó đâu.” Anh bạn nói với tôi với tất cả sự xác tín. Tôi biết đây là một hung tin, nhưng tôi vẫn hy vọng biết đâu tin này không chính xác. Trong lúc đó, hàng ngày anh em vẫn bàn tán sôi nổi về việc đi Đồng Tháp. Riêng tôi được biết tin bí mật này, nhưng vì tính cách nghiêm trọng của nó và vì lời hứa, tôi phải giữ kín, không hề hở môi ra cho bất cứ ai. Lúc đó đội tôi vẫn đi làm lao động bên ngoài, khai hoang, dọn đất cho các đội trồng rau xanh.
Những ngày sau đó đầu óc tôi lúc nào cũng hoang mang lo lắng về tin ra Bắc mà tôi được biết. Bắt đầu từ Thứ Hai sau lễ Phục Sinh, ngày nào tôi cũng hồi hộp và chờ đợi coi có động tĩnh gì không. Nỗi khổ tâm của tôi lúc bấy giờ là không thể tiết lộ với ai. Trong khi đó hàng đêm, sau khi vào buồng, anh em ngồi tụm năm tụm ba bàn tán về cuộc chuyển trại về Đồng Tháp sắp tới. Điều này càng làm cho tôi khốn khổ hơn, vì biết được một việc có liên quan tới số phận của quá nhiều người, nhưng vì lời hứa, tôi không thể nào tiết lộ được.
 Ngày thứ Hai trôi qua, không có gì xảy ra, rồi ngày thứ Ba...và các ngày tiếp theo trong tuần, ngày nào tôi cũng hồi hộp chờ đợi nhưng vẫn không thấy gì. Tới sáng ngày thứ Bảy vẫn lặng yên như tờ. Tôi rất vui trong lòng vì biết là nguồn tin anh bạn nhà bếp nói không đúng sự thật. Tôi không trách anh ấy, vì trong tù các tin đồn, tù nói tội nghe vẫn là chuyện thường xảy ra. Vả lại tin anh ta báo “ra Bắc” mà không đúng sự thật là một hồng ân đối với tôi rồi. Xế trưa thứ Bảy, chúng tôi cũng xếp hàng, báo số đi lao động buổi chiều như thường lệ. Trong lúc lao động, tôi cảm thấy thật hân hoan vì anh bạn nói chắc chắn là nội trong tuần này sẽ có đợt chuyển tù ra Bắc, mà lại có tên tôi trong danh sách, thế mà bây giờ là chiều thứ Bảy rồi, tôi còn gì phải lo nữa?
 Sau giờ lao động, lúc đó quãng 5 giờ chiều, đội chúng tôi xếp thành hàng 4 trở về trại như thường lệ. Trên đường về trại, tôi thở phào nhẹ nhõm. Một nỗi vui xâm chiếm lấy tôi, một nỗi vui rất lớn mà ít khi nào tôi có được tâm trạng đó. Lòng tôi sung sướng hân hoan trong lúc chân đang đều bước trong hàng trên đường về trại. Tôi nhớ tới ngày mai với một viễn ảnh tươi đẹp. Ngày Chủ Nhật sẽ nghỉ ngơi và thăm viếng, tiếp xúc với anh em, bạn bè.
Suốt tuần qua tôi bị tin “ra Bắc” ám ảnh và dày vò. Lúc nào tôi cũng mệt nhọc như đang đeo gánh nặng hàng trăm cân trên người. Cũng may thời gian lo lắng chỉ có một tuần, nếu tình trạng này kéo dài hơn, chắc tôi sẽ ra nghĩa địa trước khi ra Bắc (nếu có!). Chiều nay tôi mới thực sự thoải mái! Tôi ngước đầu lên nhìn bầu trời xanh và hít một hơi thật dài trong tư thế của một người vừa có niềm vui lớn. Niềm vui của người vừa thoát qua một tai nạn, một tai nạn có thể kết liễu đời mình.
Khi cúi đầu xuống, chợt tôi thấy từ đàng xa, trên con đường vào trại từ hướng ngã ba Ông Đồn có một cái gì rất lạ! Sau khi định thần nhìn kỹ, tôi thấy một đoàn xe tải quân đội đang chạy nối đuôi nhau làm tung lên đám bụi mịt mù trên con đường đất đỏ hướng vào trại. Tôi chới với gần như ngộp thở khi thấy cảnh này! Thì ra những gì tôi đã hồi hộp lo lắng cả tuần nay, bây giờ đã tới. Nó tới vào lúc tôi không ngờ nhất. Trong khi đó, thật vô cùng trớ trêu, một số người trong đội tôi vỗ tay vui mừng, vì nghĩ rằng đoàn xe mà họ chờ đợi từ lâu để đưa họ đi Đồng Tháp, bây giờ mới tới!
Khi chúng tôi vừa nhập trại, chưa kịp lấy thức ăn, nước uống thì có tiếng kẻng tập họp bất thường. Toàn thể tù nhân tập trung ra giữa sân trại cho ban giám thị nói chuyện. Chỉ cần thấy đoàn xe tải đang đậu dọc theo sân, ai cũng đoán biết là sắp có cuộc chuyển trại, và phải là đi Đồng Tháp! Sau khi tập trung chỉnh tề, ông trại trưởng cho biết, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và vì trại này quá đông, do đó không thể lo lắng đầy đủ được cho tất cả mọi người, nên một số sẽ được chuyển đến một nơi mà điều kiện nước nôi rất thoải mái. Cuộc chuyển trại chia làm nhiều đợt và đợt đầu sẽ là các anh có tên trong danh sách. Sau đó cán bộ đọc một danh sách 350 người, trong đó có tên tôi.
Lúc giải tán về các buồng, ai cũng nghĩ là sẽ đi Đồng Tháp nên rất vui mừng. Cả trại nhốn nháo và lộn xộn không tả được. Anh em từ giã nhau, các nhóm sinh hoạt chung thì chia chác đồ ăn, thức uống hoặc đồ dùng. Một số người cảm thấy thiệt thòi vì chưa được đi “Đồng Tháp” trong đợt đầu, vì ở đó có nước máy theo lời cán bộ trại trưởng nói.
 Lúc bấy giờ sự việc đã tới và không cần giữ bí mật nữa, tôi nói với anh em là số tù này bị chuyển ra Bắc, nhưng không mấy người tin vào lời tôi nói. Có người còn cho là tôi cố ý hù dọa anh em, họ gọi tôi la người nằm mơ giữa ban ngày. Đêm hôm đó, cán bộ võ trang tuần canh bên ngoài nghiêm nhặt bằng mấy lần ngày thường. Sở dĩ tôi biết, vì suốt đêm đó anh bạn thân của tôi là Phạm Thế Khải và tôi thức trắng đêm, chờ một cơ hội thuận tiện.
Con đường vô định
Qua ngày Chủ Nhật hôm sau, những người trong danh sách chuyển trại được cấp phát mỗi người một bao tải loại lớn nhất để chứa đồ đạc, áo quần, chăn màn nhưng không được đựng thức ăn và chai lọ. Sau khi cho đồ vào bao và cột miệng thật chặt, mỗi người được phát hai cái thẻ có mang số giống nhau. Một thẻ cột vào miệng bao và thẻ kia giữ trong người. Lúc đi đường mỗi người được mang theo một túi xách nhỏ đựng những thứ lặt vặt cần dùng. Suốt ngày Chủ Nhật hôm ấy, chúng tôi bận rộn thu dọn đồ đạc. Ai vô bao xong, mang để trên hội trường.
 Tới chiều tối chúng tôi được lệnh lên mấy chục xe đang đợi sẵn. Sau khi lên xe, chúng tôi bị còng tay từng đôi một, các tấm bạt che hai bên hông xe được hạ xuống, cài lại cẩn thận và chúng tôi không còn thấy được gì bên ngoài. Khi xe chuyển bánh rời trại thì trời đã tối hẳn, tôi đoán phải là mười giờ đêm, bên ngoài tối đen như mực.
Mặc dù bị nhốt trong xe bít bùng, nhưng theo hướng xe chạy chúng tôi cũng biết là đang đi về hướng Sài Gòn. Một số người trên xe vui mừng hí hửng, luôn mồm phát biểu:“Rõ ràng là xe đang hướng về Đồng Tháp, mình nói có sai đâu!” Xe chạy một thời gian khá lâu thì dừng lại. Chúng tôi vẫn được lệnh ngồi yên trên xe và các tấm bạt vẫn che kín hai bên nên chúng tôi không biết xe đang dừng lại ở địa điểm nào. Một hồi lâu sau, chúng tôi được lệnh xuống xe và lúc bấy giờ mới biết là chúng tôi được chở tới bến Tân Cảng, ngay đầu cầu xa lộ Sài Gòn.
Trên bến tàu rất đông công-an, cảnh-sát mặc sắc phục và trang bị súng ống đạn dược đầy người. Nhìn xuống sông, một chiếc tàu biển loại lớn có tên SÔNG HƯƠNG đang đậu cập cầu tàu. Dưới ánh đèn điện chập chờn, tôi thấy thân hình nó to lù lù trong đêm như một con quái vật dưới lòng sông vừa trồi lên mặt nước. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi thấy lại cái “vật lạ” bằng gỗ trong láng mộc trước kia mà chúng tôi thắc mắc không biết là cái gì, bây giờ được dựng đứng bên thành tàu. Thì ra nó là cây thang bắc lên tàu Sông Hương!
 Chúng tôi được lệnh xuống xe, vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một, xếp thành hàng ngay ngắn trên bến cảng, chờ cán bộ làm thủ tục bàn giao. Một điều rất buồn cười là đến lúc đó, vẫn còn có người khẳng định là tàu Sông Hương sẽ đưa chúng tôi đi Đồng Tháp!
Có lẽ tôi cũng nên dừng lại ở đây để giải thích tại sao “hiện tượng Đồng Tháp” ám ảnh quá mãnh liệt một số trong nhóm tù chúng tôi như thế. Một lần nữa, chúng tôi phải ngả mũ trước thủ đoạn dùng mẹo vặt của người cộng-sản. Người cộng-sản biết rằng các tù nhân rất sợ bị đưa ra Bắc. Nếu để chúng tôi biết có dấu hiệu ra Bắc, chắc chắn sẽ có hậu quả không hay. Ít nhất là sẽ có một số người tìm cách vượt ngục ngay từ trong miền Nam. Yếu tố tâm lý thứ hai là lúc ở trại Gia Ray quá đông người và thiếu thốn đủ các thứ, nhất là nước uống, ai cũng mong được tới một trại nào có đủ nước để dùng thì Đồng Tháp có nhiều sông ngòi là địa điểm lý tưởng để lường gạt. Nhưng cái mẹo vặt của họ là cho một anh cán bộ hạng bét ra tỉ tê với cô gái bán hàng có cảm tình với tù nhân trong trại. Anh ta cho biết là sẽ vắng mặt một thời gian để áp tải một số tù về Đồng Tháp, và cẩn thận dặn cô gái: “đừng tiết lộ với ai tin này”! Chính nhờ lời căn dặn này mà tin đó loan vào trại nhanh hơn và rộng rãi hơn.
Thật đúng như họ mong muốn, chỉ một ngày sau cả trại đều biết và tin là sẽ có một đợt chuyển tù về Đồng Tháp. Tin được đưa về Đồng Tháp làm nhiều người vô cùng phấn khởi và hy vọng. Ngay cả lúc bị đưa tới bến Tân Cảng và sắp sửa bước lên chiếc tàu biển thật to đang chờ sẵn, họ vẫn nghĩ là “phải” đi Đồng Tháp, không thể là một nơi nào khác hơn được! Sự nhẹ dạ và khờ khạo của con người đôi lúc làm chúng ta phải kinh ngạc.
Giã biệt miền Nam
Chúng tôi phải đứng chờ khá lâu trong tâm trạng hoang mang lo lắng. Phần tôi, vì đã biết rõ số phận mình, nên khi đứng trên bến tàu tôi cố gắng mở to đôi mắt như muốn ghi nhận tất cả những hình ảnh của miền Nam thân yêu, mà tôi biết là sẽ rất lâu hoặc chẳng bao giờ tôi còn nhìn thấy lại được. Sau khi chờ đợi chán chê, chúng tôi được lệnh bước lên tàu. Từng đôi một lần theo những nấc của chiếc thang kỳ dị do tù nhân trại Gia Ray đóng và đã có một thời chúng tôi thắc mắc về nó. Sau khi lên tới boong tàu, chúng tôi băng qua một đoạn đường ngắn dẫn tới một ô cửa. Bên trong có cầu thang bằng sắt dẫn xuống phía dưới. Tại đây, chúng tôi được tháo còng, sau đó từng người một lần bước theo cầu thang hình trôn ốc, chỉ vừa đủ cho một người, lần mò đi xuống. Sau khi được mở còng, tôi quay lại nhìn toàn bộ khung cảnh bến Tân Cảng. Mặc dù trong đêm tôi không thấy được nhiều, nhưng tôi cố gắng ghi nhận khung cảnh cuối cùng của miền Nam thân yêu, nơi tôi được sinh ra và lớn lên.
Tôi biết mình sẽ bị đưa ra Bắc, mở màn cho kiếp sống của người tù biệt xứ và tương lai không biết rồi sẽ ra sao? Tôi tự hỏi, không biết mình còn có dịp trở lại miền Nam thân yêu này nữa hay không? Tự nhiên một cơn cảm xúc mạnh vồ lấy tôi, nước mắt tôi dâng tràn khi tôi sắp sửa phải từ giã một giá trị tinh thần vô cùng  quý yêu. Cho tới phút đó tôi mới nhận ra hết ý nghĩa thiêng liêng của những chữ “nơi chôn nhau cắt rốn”. Nước mắt vẫn lưng tròng, tôi quay lại với thực tế, lần bước theo cầu thang bằng sắt có hình trôn ốc lần mò đi xuống bên dưới. Cuối cầu thang là một hầm tàu rộng và đen ngòm, được soi sáng bằng một vài bóng điện nhỏ từ trên cao chiếu xuống. Vách thành tàu bám toàn là bụi than đá và trên sàn cũng vương vãi than vụn.
Thì ra đây là hầm chở than của tàu Sông Hương. Trong góc phía xa có một số thùng làm bằng các tấm ván ghép lại, có quai bằng dây sắt, dùng để các tù nhân tiêu tiểu vào đó. Lúc mới bước xuống, tôi có cảm tưởng là hầm tàu rất lớn, nhưng khi số tù nhân xuống hết, khoang tàu lại trở nên chật chội. Sau khi chúng tôi xuống hết dưới hầm, cánh cửa sắt ngay cuối cầu thang sát với hầm tàu được đóng lại và có dây lòi tói quấn chung quanh, hai đầu được khóa lại bằng ống khóa đồng to tướng.
Cảnh tượng trong hầm tàu thật hỗn độn. Ai nấy lo di chuyển tìm chiếm một góc nào đó làm cơ ngơi riêng. Những nhóm anh em từng sinh hoạt chung trong trại thì tìm nhau để kéo về một góc. Mọi người lúc đó đều bận rộn, kẻ lo lau chùi sàn tàu, người quét tước, dọn dẹp chỗ nằm, tạo ra cảnh rộn ràng như một tổ ong. Lúc này chúng tôi trở thành đám đông hỗn tạp, vô tổ chức. Không còn những “sĩ quan” do ban giám thị trại chỉ định, không còn đội trưởng đội phó, và mọi người trở nên bình đẳng trong thân phận một người tù trong hầm tàu u ám và dơ bẩn này.
Tàu rời bến vào khoảng sau nửa đêm. Sở dĩ chúng tôi biết tàu chạy là nhờ khi nhìn lên bầu trời thấy các vì sao đang di chuyển ngược chiều. Lúc mới vừa xuống hầm, chúng tôi cứ ngỡ là chỉ có nhóm chúng tôi, nhưng khi gõ vào thành tàu làm hiệu, chúng tôi nhận được tín hiệu đáp lại của “phe ta” từ các khoang khác. Như thế, tàu Sông Hương vào Nam “bốc hàng” của nhiều trại tù khác nhau cung cấp. Tổng số tù trên tàu bao nhiêu chúng tôi không thể biết được, nhưng căn cứ vào tầm vóc con tàu, chúng tôi nghĩ là phải hơn 1000 tù nhân trong chuyến đi này.
Hy vọng và Hy vọng
Trong khung cảnh một đám tù nhân láo nháo hỗn độn dưới hầm tàu tối đen như đàn vịt vừa mới bị lùa vào chuồng như vậy, không hiểu từ đâu lại có nguồn tin nói là chúng tôi nằm trong diện trao đổi tù binh và con tàu này đưa tới địa điểm trao trả!
Có mấy anh em có vẻ đạo mạo và tỏ ra am hiểu thời cuộc, đang lôi kéo sự chú ý của rất nhiều người khi họ “xì” ra tin này. Họ cho biết, theo nguồn tin đáng tin cậy, thì hiện nay bên ngoài đang diễn ra cuộc thương lượng giữa Mỹ và chánh phủ Việt Nam về vấn đề Mỹ bồi thường chiến tranh 3 tỷ đô-la cho Việt Nam. Ngược lại phía Việt Nam phải trao cho Mỹ tất cả số tù nhân hiện đang có mặt trong các “trại cải tạo”! Như thế không có nghĩa là quân nhân mà thôi, mà tất cả những ai đang nằm trong các nhà tù cộng sản đều sẽ được trao cho Mỹ. Và địa điểm trao trả sẽ được hai bên thỏa thuận .
Những nhà bình luận thời cuộc trong tù cũng nghiêm túc cho biết, số tù nhân sau khi được trao trả sẽ được đưa thẳng sang Hoa Kỳ. Nghe thế có nhiều anh vỗ tay và reo lên:“ Thế thì nhất! Không ngờ mình đi tù lại hóa ra may, bên ngoài xã hội bao nhiêu người mong đi Mỹ mà không đi được”. Tôi thấy có nhiều người phụ họa để bàn thêm tin này cho tới nơi tới chốn.
Trong khi tôi ngồi ủ rũ nhìn cảnh này, tôi nhớ lại câu nói của người bạn tù làm nhà bếp đã nói với tôi tuần trước:“ Tuần tới sẽ có một đợt chuyển tù ra Bắc, và trong đó có tên Cậu Bảy”. Tôi không biết gì về xuất xứ của nguồn tin “ trao trả tù binh” này, nhưng tôi hồ nghi là nó cũng bắt nguồn từ hãng thông tấn “ Đồng Tháp” mà hiện thời có rất nhiều người đang có mặt trên chuyến tàu định mệnh này bám vào đó như một nguồn hy vọng để sống.
Theo tôi nghĩ, tâm trạng của hầu hết anh em tù nhân trong khoang tàu tối om và dơ bẩn lúc này ai cũng nghĩ mình sẽ đi Đồng Tháp, hoặc đi đến dị điểm trao trả tù binh, hoặc đến nơi nào tốt đẹp hơn theo ý họ muốn.  Nhất định không thể nào có chuyện ra Bắc được, mặc dù đã có những dấu hiệu quá rỏ về sự chuẩn bị cho cuộc Bắc du như những chiếc bao tải đựng“nội vụ”, chiếc tàu biển đen sì như con thủy quái khổng lồ và những cán bộ nhận bàn giao lúc nãy trên bến Tân Cảng nói rặt giọng miền Bắc.
 Xét cho cùng, tôi không chê trách các anh em, vì hoàn cảnh chúng tôi lúc bấy giờ còn gì khác hơn là niềm hy vọng để mà sống. Hơn nữa hy vọng lại không mất tiền mua, thì tội gì mà không nuôi hy vọng?
Biển vẫn đợi chờ
Đêm đó, vì quá mệt nhọc nên đa số lăn ra sàn tàu ngủ say như chết. Tôi cũng cuộn tròn lại như con chó con, nằm trong một góc sàn tàu bằng sắt lạnh buốt và cố dỗ giấc ngủ. Thật lạ lùng, đêm đó tôi ngủ được một giấc rất ngon với một ý định đã được thành hình trong đầu. Ý định này phát sinh ngay từ lúc tôi bước lên nấc chiếc thang gỗ, để leo dần lên tàu Sông Hương.
Sáng ngày, khi tôi giật mình thức giấc thì mặt trời đã lên cao. Ánh nắng chói chang ban mai giữa biển, dọi vào bên phải thành tàu đang ngon trớn trực chỉ về hướng Bắc. Điều buồn cười và đáng nhắc lại ở đây là, mặc dù từ dưới hầm tàu, chúng tôi không được nhìn thấy mặt trời và cảnh vật chung quanh, nhưng căn cứ vào bóng nắng dọi vào thành tàu, thì cho dù một đứa trẻ con vừa có ý niệm phương hướng cũng biết tàu đang đi về hướng Bắc. Thế mà có một số người tù vẫn nhất quyết là tàu đang đi về hướng Nam của vùng “Đồng Tháp”! Thì ra cái mẹo vặt của cán bộ cộng-sản đánh lừa các tù nhân, cộng với sự hy vọng hão huyền về một xứ Đồng Tháp có nhiều sông rạch, cùng với nỗi lo sợ phải bị đưa ra Bắc đã có tác dụng làm lú lẫn tâm trí của một số người, mà tôi nghĩ là trước kia họ cũng có trí khôn rất bình thường! Nhưng số người lú lẫn này khá ít, so với đa số người khác đã biết được thực trạng thân phận của mình.
Từ dưới hầm nhìn lên, tôi thấy cán bộ đứng trên boong tàu, tựa vào hàng rào sắt ngó xuống. Tôi chợt nhớ lại ngày trước, những lần vào thăm sở thú Sài Gòn, khi tới chuồng gấu chó, những khách thăm sở thú đứng tựa vào hàng rào sắt bên trên nhìn xuống đàn gấu đang đi lại bên dưới như thế. Tới giờ rửa chuồng và cho thú ăn, có người cầm vòi xịt nước xuống và ném thức ăn xuống cho bầy thú đang đứng dưới hầm chồm lên chờ đợi đón lấy thức ăn.
Bây giờ chúng tôi cũng vậy, tới giờ dọn vệ sinh, cán bộ đứng bên thòng dây có móc sắt xuống và bảo chúng tôi móc vào quai các thùng phân, thùng nước tiểu, để họ kéo lên. Tới giờ cho ăn, người từ bên trên ném thức ăn xuống, phần nhiều là mì gói, đám tù chúng tôi chụp lấy và chia nhau ăn. Cán bộ tuần tra bên trên cúi đầu nhìn xuống để ra lệnh và quát tháo khi thấy chúng tôi quá ồn ào mất trật tự. Có lúc họ còn dọa nạt và lên cò súng đòi bắn xuống vì có chuyện lôi thôi bên dưới. Nhưng tôi biết họ chỉ dọa thôi, vì số lượng “hàng” đã được bàn giao và ký nhận, nếu anh cán bộ nào lỡ dại bắn chết một “đơn vị hàng”, chắc là anh ta sẽ phải vào thay thế cho đủ số.
 Sau giờ quét “chuồng” và giờ cho ăn của buổi sáng đầu tiên xong, các tù nhân chúng tôi ngồi thành từng nhóm nhỏ rải rác trong hầm tàu. Trên gương mặt mỗi người hiện lên nét mệt nhọc chán chường và ngồi yên lặng nhìn nhau. Thấy bầu khí trong tàu có vẻ căng thẳng, tôi đi tới lui thăm một vài nhóm để tìm hiểu, nhờ đó tôi đoán biết có chuyện sắp xảy ra.
Một vài nhóm đang kéo bè kéo cánh và bàn tính chuyện hỏi tội các tay làm ăng-ten đang có mặt trên tàu. Lúc này đúng là cơ hội lý tưởng để làm chuyện đó, vì trong đám đông hỗn tạp và vô tổ chức này, ai có anh em đông, người đó có sức mạnh. Lúc đó tôi là Linh mục duy nhất trong một hầm tàu đầy người mà quá phân nửa là người Công giáo, nên tiếng nói của tôi được nhiều người lắng nghe cũng không có gì là khó hiểu. Những tay làm ăng-ten trong trại trước kia bây giờ trở nên hoàn toàn thất thế. Họ biết rõ số phận của họ hơn ai hết, nhất là sau khi “đánh hơi” được bầu khí hận thù đang dâng cao, họ lại càng lo sợ hơn.
Tôi thấy mấy anh có tên trong sổ đen đang ngồi co ro một góc, mặt mày tái mét. Mỗi khi có nhóm người hung hăng đi gần tới, mấy anh chàng trước kia từng gây tai họa cho anh em trong trại lại phải cúi đầu né tránh. Hình ảnh này càng làm cho hạng người trước kia, khi có uy quyền đã thẳng tay làm khổ anh em, bây giờ trông càng đáng kinh tởm hơn. Lúc bấy giờ tự nhiên có mấy người tự động di chuyển tới nằm gần bên chỗ tôi. Có vài người bắt đầu bày tỏ thái độ lễ phép và thân ái với tôi với một dụng ý thấy rõ, làm tôi ngượng.
Trù tính kế hoạch
Trong hoàn cảnh đó, tôi đã lên tiếng thuyết phục các nhóm bỏ ý định trả thù các tay ăng-ten. Tuy nhiên, công việc không dễ dàng, vì không phải nhóm nào tôi cũng có ảnh hưởng đối với ho. Dù vậy, sau khi tôi nói còn một việc quan trọng chúng ta phải làm trong lúc này, anh em mới chịu từ bỏ ý định. Liền ngay sau đó, tôi âm thầm quy tụ một số đông, hầu hết là người trẻ, để trình bày một kế hoạch mà tôi đã ấp ủ trong đầu. Việc này tôi cũng đã bàn kỹ với Kỹ sư Dương Văn Lợi. Lúc ở trại Gia Ray, anh Lợi là đội trưởng đội nhà bếp, một người lanh lợi và khẳng khái. Đặc biệt anh có nhiều bạn bè và đàn em hiện đang có mặt trên tàu. Tôi mời anh Lợi cùng ngồi bàn việc.
Ngồi giữa số đông anh em, tôi nói rõ ý mình và xin anh em mỗi người cho biết ý kiến. Tôi vẫn quan niệm rằng, một khi đã bước chân vào tù cộng-sản, thì sẽ không còn biết tương lai vận mệnh đời mình sẽ ra sao. Nhất là với kiểu tù mang danh tập trung cải tạo như thế này, làm gì có thời điểm để hy vọng! Tốt nhất là mình phải tự cứu lấy chính mình.
Tôi đã từng biết dưới chế độ cộng-sản ở Nga ở Tàu và các nước cộng sản khác, những người không đồng ý với chế độ sẽ bị thanh trừng, hoặc đưa lên các trại tập trung và rất nhiều người không bao giờ trở lại. Ở Việt Nam cũng thế. Vì vậy, từ lúc bị bắt vào tù, tôi coi việc vượt ngục là con đường sống. Việc giải thoát những tù nhân khác khỏi sự giam giữ bất công là một bổn phận. Không lúc nào ý định vượt ngục rời khỏi tâm trí tôi, và tôi luôn để ý tìm cơ hội thực hiện ý định này, mặc dù tôi biết đó là việc làm nguy hiểm và phải trả giá cao, có khi là giá của mạng sống mình.
Trong đêm cuối cùng ở trại Gia Ray, trước khi bị đưa xuống tàu ra Bắc là lúc tôi quyết tâm nhất. Nhưng đêm đó cán bộ bên ngoài tuần canh nghiêm ngặt hơn bất cứ lúc nào trước đó, làm tôi và người bạn thân là anh Phạm Thế Khải đành phải bỏ ý định, sau khi đã thức gần suốt đêm rình chờ cơ hội [1]. Khi bước chân lên tàu Sông Hương và biết là sẽ bị đưa ra miền Bắc, tôi càng quyết tâm phải tự giải cứu mình và các bạn tù. Sau khi trình bày lý do và nguyện vọng, tôi đề nghị với anh em kế hoạch đánh cướp chiếc tàu này. Tôi cũng cho anh em biết là kế hoạch này tôi đã bàn thật kỹ với với anh Dương Văn Lợi và một số anh em tín cẩn khác rồi.
Khi tôi trình bày xong, cả nhóm ngồi thinh lặng suy nghĩ trong một lúc. Sau đó tất cả mọi người đều tán thành, và sự nhiệt tình hưởng ứng của họ làm tôi phải ngạc nhiên. Kế hoạch được trù tính như sau: lợi dụng sự sơ hở của cán bộ trên tàu và áp dụng yếu tố bất ngờ, chúng tôi sẽ uy hiếp và cướp quyền điều khiển con tàu. Tôi chủ trương tuyệt đối không giết người, nhưng tất cả cán bộ và hành khách trên tàu sẽ bị giữ làm con tin. Sau đó lái tàu tới một nước tự do gần nhất để thương thuyết, dưới sự giám sát của một cơ quan quốc tế, để trao đổi tất cả số tù nhân trên tàu với những con tin bị bắt giữ.
 Chúng tôi biết đây là một ý định táo bạo đầy nguy hiểm. Nhưng lúc bấy giờ hình ảnh của sự chết dần chết mòn trong một nhà tù nào đó ở miền Bắc khiến chúng tôi nghĩ là nếu phải chết do việc cướp tàu giải cứu tù nhân, vẫn còn nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn cái chết rũ tù ở miền Bắc.
Đi vào chi tiết
Trên nguyên tắc, kế hoạch đã được chấp thuận. Còn lại là phần nghiên cứu các chi tiết, nhưng phải làm cho thật nhanh vì thời gian rất giới hạn. Những chi tiết dự trù, phần lớn tôi và anh Dương Văn Lợi cũng đã bàn và có cách giải quyết. Có những việc phải giải quyết như cưa dây lòi tói khóa cửa cầu thang, vấn đề thang dây, vũ khí cầm tay v.v. Ngay sau đó, tôi cho mời những sĩ quan Hải quân và những người hiểu biết về tàu biển tới để hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan tới việc cấu trúc chiếc tàu biển, vị trí các nơi quan trọng, cách thức điều khiển, truyền tin và tốc độ.
Sau khi có được ý niệm căn bản và những yếu tố khả thi, tôi chọn ngay một ban tham mưu và phân công nghiên cứu từng vấn đề. Tôi mời anh Dương Văn Lợi làm phụ tá và lo về mặt nhân sự. Anh Lợi có người đàn em là Hồ Hoàng Khánh, trước là người nhái,rất khỏe mạnh và tháo vát lo phụ giúp cho anh.
Kế hoạch sẽ thực hiện như sau:  khoảng 6 tiếng đồng hồ trước giờ G của ngày N (sẽ do tôi ấn định), sẽ cưa đứt dây lòi tói khóa cửa cầu thang. Đúng giờ G, nhóm cảm tử 25 người, trong đó có mấy anh võ sĩ, sẽ bò lên trước theo ngả cầu thang. Khi lên trên sẽ ẩn nấp vào các hốc hẻm trên boong tàu, chờ cơ hội vô hiệu hóa thật nhẹ nhàng lính canh, trói tay chân nhét giẻ vào mồm, băng miệng lại. Sau đó tức tốc thả những thang dây xuống. Liền đó, nhóm tham gia, quãng 100 người, bám thang leo lên, lợi dụng yếu tố bất ngờ ban đêm, chia nhau uy hiếp và chiếm giữ những nơi trọng yếu.
 Chủ trương: tuyệt đối không giết người, nếu giết người chúng tôi sẽ thất thế về sau. Nhưng phải uy hiếp cho được quyền làm chủ con tàu và bắt giữ con tin càng đông càng tốt. Sau khi cướp được tàu, các sĩ quan Hải quân sẽ lái qua Phi Luật Tân là quốc gia tự do gần nhất. Chấp nhận chuyện bại lộ. Nhưng tàu sẽ không bị bắn chìm vì có một số rất đông cán bộ, hành khách và cả viên chức cao cấp của bộ Nội Vụ từ Bắc vào Nam lãnh tù. Khi tới Phi, chúng tôi sẽ đặt vấn đề trao đổi người, dưới sự giám sát của một cơ quan quốc tế có thẩm quyền.
Các vật liệu cần thiết đã có: một nửa lưỡi cưa sắt của một bạn tù dấu được trong đôi dép râu. Một số quần dài của nhiều người để nối lại làm thang dây. Một số khá nhiều những đoạn mía thả xuống cho tù ăn, chúng tôi còn để lại dùng làm vũ khí cầm tay. Trong khung cảnh lúc bấy giờ, việc chuẩn bị và bàn tán không thể nào lọt qua cặp mắt và lỗ tai vốn rất thính của mấy tên ăng-ten đang ngồi co ro, im thin thít, mặt mày tái nhợt, quây quần chỗ tôi nằm. Lúc này bọn chúng hoàn toàn thất thế, đành phải ngồi im, và dù có muốn báo cáo lập công, chúng cũng không dám và cũng không có cách nào liên lạc với cán bộ bên trên. Mọi cử động, sự đi lại của đám này đều được chúng tôi canh chừng theo dõi cẩn thận. Tôi biết họ cũng đang theo dõi chúng tôi từng chi tiết một.
Qua hôm sau, ngày 19 tháng Tư, có 2 việc quan trọng phải làm. Trước nhất là thực tập việc cưa dây lòi tói khóa cửa cầu thang, thứ nhì là làm sao cho cán bộ khinh thường và đánh giá thấp đám tù nhân trong khoang tàu chúng tôi. Với chủ trương đánh lạc hướng cán bộ canh gác và tạo tiếng động trong khoang tàu, tôi tổ chức cho anh em hát thật to những bài hát “Giải phóng miền Nam”, “Trường Sơn đông Trường Sơn tây.” Vừa hát, anh em vừa vỗ tay vang rền. Trong lúc đó, người lo việc cưa dây lòi tói khóa cửa tha hồ mà thực tập, không sợ ai nghe được tiếng cưa sắt.
Ngoài ra, để cán bộ khinh thường và đánh giá bọn tù chúng tôi không ra gì, mỗi khi thức ăn được ném xuống, tôi tổ chức cho anh em trong nhóm giành giật, đánh lộn rượt nhau tưng bừng. Trong khi đó người của chúng tôi lên tiếng bẩm báo xin cán bộ giải quyết. Dĩ nhiên là chẳng anh cán bộ nào dại dột mò xuống đây, nhưng họ đứng trên miệng hầm, thò đầu ra chửi bới và dọa nạt. Có lần tôi nghe họ nói vọng xuống:“Bọn các người chỉ có biết giành ăn! Đúng là một lũ vô tích sự, cho chúng mày giết nhau!” Tôi cười thầm:“Những con mồi của tôi đã vào bẫy!” Càng lúc càng có nhiều vụ đánh nhau, giành ăn và rượt chạy tưng bừng trong khoang tàu. Lại có tiếng gọi vọng lên báo cáo, nhưng mãi rồi cán bộ cũng chán, không thèm can thiệp chỉ để “cho bọn mày giết nhau!”
Loại chiến tranh tâm lý này tỏ ra rất công hiệu. Suốt ngày hôm ấy, nhóm chúng tôi hết hát rồi lại vỗ tay tưng bừng, rồi lại đến các vụ giành ăn đánh nhau và báo cáo cán bộ inh ỏi. Có lúc tôi thấy cán bộ bên trên nhìn xuống lắc đầu, và tôi đoán được trong thâm tâm là họ coi nhóm tù trong hầm tàu này chỉ là loại người vô tích sự, chỉ biết giành ăn.  Lúc đó tôi mới thấy yên tâm về yếu tố bất ngờ. Chính yếu tố này sẽ quyết định cho sự thành bại của kế hoạch sắp tới.
Tế sống dũng sĩ
Trong đêm 18, trước lúc đi ngủ, tôi mời tất cả anh em sẽ tham gia kế hoạch ngồi lại với nhau. Sau khi bày tỏ tâm tình và nói lên tính chất nghiêm trọng của việc làm có thể dẫn tới cái chết. Tôi xin anh em, mỗi người tùy theo tín ngưỡng mình, cầu nguyện cho việc sắp thực hành. Xin Đấng Bề Trên phù hộ cho việc làm. Nhưng nếu thấy việc này không thể thi hành được thì xin Đấng Bề Trên can thiệp một cách nào đó để tránh sự nguy hiểm và chết chóc cho nhiều người. Nghe tôi nói, anh em ngồi thinh lặng nhìn nhau trong bầu khí trang nghiêm, nặng nề. Sau khi cho biết việc chuẩn bị tiến hành thuận lợi và kế hoạch có thể tiến hành được. Tôi ấn định ngày N là ngày khởi hành +2, tức là ngày 20, và giờ G là đúng 1 giờ sáng, như thế còn 27 tiếng đồng hồ nữa để chuẩn bị thêm.
Sau khi công bố ngày giờ hành động, tôi thay mặt cả nhóm cử hành nghi thức tế sống 25 dũng sĩ, là những người sẽ xung phong lên trước tiên. Trong bầu khí trang nghiêm, tôi nói:“Chúng ta sắp làm một việc sẽ ảnh hưởng tới mạng sống mình và nhiều người khác. Nhưng chúng ta phải làm vì đó là cách để tự giải thoát mình và nhiều người khỏi sự tiêu diệt thật phi lý của chế độ cộng-sản. Trong số 25 anh em sẽ đương đầu với sự nguy hiểm đầu tiên, có thể các anh sẽ là những người hy sinh trước hết. Vậy, thay mặt cho tất cả anh em cùng quyết tâm tham gia, tôi xin anh em nhận một lạy của tôi như một nghi thức tế sống anh em. Nếu nhờ trời, chúng ta hoàn toàn thành công, các anh sẽ là những người lập công đầu. Nếu thành công nhưng các anh đã hy sinh rồi, chúng tôi sẽ vận động dựng tượng các anh. Nhưng nếu rủi ro thất bại, chúng ta sẽ cùng chết với nhau trong một cái chết có ý nghĩa, chết vì lý tưởng tự do. Cái giá của tự do rất cao, và lúc này chúng ta phải trả cái giá đó bằng chính mạng sống mình.” Nói xong, tôi quỳ xuống chắp tay và lạy một lạy để tế sống 25 dũng sĩ đang có mặt. Tất cả mọi người đều cảm động, ngồi yên cúi đầu, có người rơi nước mắt. Một lúc sau cả nhóm giải tán trong sự căng thẳng để về chỗ nghỉ ngơi lấy sức. Riêng tôi và ban tham mưu còn ngồi lại bàn tính những chi tiết. Mặc dù đã trù tính hết mọi thứ, nhưng tôi vẫn thấy những điều phải bàn dường như nằm trong danh sách dài vô tận.
Trong ngày đầu tiên trên biển, thời tiết thật tuyệt vời. Gió nhẹ, bầu trời trong xanh. Lâu lâu mới thấy có một áng mây trắng nhẹ nhàng lướt qua cửa hầm tàu. Gió hiu hiu thổi. Con tàu đi rất êm, êm đến nỗi nếu không thấy mây bay ngược chiều từ hầm tàu nhìn lên, chúng tôi sẽ không biết là tàu đang di chuyển. Thật đúng như câu nói:“Tháng ba, bà già đi biển”. Đêm 18, sau nghi thức tế sống 25 dũng sĩ, chúng tôi bảo nhau cố gắng ngủ thật ngon để lấy sức cho những việc làm quan trọng sắp tới. Qua sáng ngày 19, thời tiết vẫn đẹp, chỉ hơi khác một điều là ánh nắng ban mai có vẻ gay gắt hơn và trên bầu trời có khá nhiều mây. Nhưng biển vẫn yên và tàu đi êm ái nhẹ nhàng.
 Chúng tôi vẫn sinh hoạt dưới hầm tàu theo kiểu bầy gấu chó trong sở thú Sài Gòn. Tới giờ “dọn chuồng”, cán bộ bên trên thòng dây có móc xuống, chúng tôi móc vào quai các thùng phân, thùng nước tiểu cho họ kéo lên. Sau đó các thùng không lại được thả dây xuống để chúng tôi lấy đặt vào chỗ của nó. Tới giờ cho ăn, cán bộ từ trên ném những gói mì ăn liền xuống, chúng tôi chụp lấy và chia nhau ăn. Thức ăn lúc đó chỉ có mì gói, không còn gì khác. Trưa ngày đầu tiên được ném cho một ít mía và dưa hấu. Nước uống thì rất hạn chế, đựng trong thùng sắt và được thòng dây xuống.
 Sau gần 2 ngày đi đường, hầm tàu dơ bẩn, nước nôi be bét. Tại góc dùng làm cầu tiêu dã chiến, mùi hôi thối từ các thùng phân, thùng nước tiểu không có nắp đậy, xông lên nồng nặc. Hơn ba trăm người tù chen chúc nhau trong cái hầm tàu đen ngòm và dơ bẩn, tự nó đã là cảnh ghê rợn. Cộng với những vụ dàn cảnh đánh nhau, giành ăn và la hét có chủ ý của chúng tôi, khoang tàu lúc đó càng trở nên quái đản và dị dạng hơn.
Càng gần tới lúc thực hiện, tôi càng cảm thấy ruột gan cồn cào và có cảm tưởng thời giờ qua đi quá nhanh. Mới đó mà đã tới trưa ngày 19, chỉ còn hơn 10 tiếng đồng hồ nữa là tới giờ phút quyết liệt. Thần kinh tôi trở nên càng lúc càng căng thẳng mỗi khi nhìn thấy thấy bóng nắng trên  thành tàu càng lúc càng nhích dần lên cao, theo nhịp độ của mặt trời ngã dần về phía Tây. Mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi mỏi mệt và thần kinh căng thẳng, nhưng thỉnh thoảng lại hát thật to, có tiếng vỗ tay kèm theo làm náo động cả khoang tàu. Chúng tôi phải giữ thói quen này, vì theo kế hoạch, đêm hôm đó phải cưa dây lòi tói khóa hầm tàu trong tiếng ca hát vỗ tay để lấn át tiếng cưa sắt.
 Tôi đi một vòng để tiếp xúc và khích lệ tinh thần các anh em, đồng thời kiểm điểm các thứ cần thiết. Những chiếc thang dây bằng những quần dài nối lại đã được chuẩn bị. Những đoạn mía ngắn chừng 50 phân đã được cẩn thận thu xếp và sẽ được cột vào người trong lúc hành động. Một chi tiết mà tôi không bao giờ quên được, đó là trong giờ phút quyết liệt đó, tôi hay đưa tay lên sờ trán và mạch máu ở thái dương bên phải tôi lúc đó căn phồng lên to như một chiếc đũa. Chứng tỏ là tôi đang trong tình trạng căng thẳng đến tột độ.
Ý trời
Khoảng 3 giờ chiều, tự nhiên thời tiết có dấu hiệu thay đổi. Khi nhìn lên, tôi không còn thấy bóng nắng trên thành tàu. Bầu trời có nhiều mây, những đám mây đen nghịt. Một dấu hiệu thay đổi thời tiết thật bất ngờ và thật nhanh. Có cơn gió nhè nhẹ nổi lên và thời tiết bắt đầu lạnh khi vài hạt mưa lất phất rơi. Lúc đầu, khi nhìn thấy cảnh này tôi mừng thầm vì có thể là yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch đêm nay. Nếu trời đêm nay có mưa nhẹ, sẽ làm chúng tôi dễ ẩn nấp. Cơn mưa sẽ che giấu tiếng động và các lính canh tuần sẽ chểnh mảng hơn.
 Tới khoảng 4, 5 giờ chiều, gió càng lúc càng mạnh, mưa nặng hạt hơn và tàu bắt đầu lắc nhẹ. Mặc dù độ tàu lắc rất chậm nhưng cũng làm cho một số người khó chịu, xây xẩm và tìm chỗ nằm. Khi  mưa bắt đầu nặng hạt, thì một sự việc làm tôi ngạc nhiên đến độ kinh hãi khi thấy một cái nắp bằng sắt khổng lo, được điều khiển bằng điện, từ từ bò ra trở thành cái mái che bên trên hầm tàu. Chỉ chừa một khoảng độ chừng vài thước cho chúng tôi có khí để thở. Từ lúc lên tàu và khi có ý định cướp tàu, tôi chưa biết yếu tố này. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, nếu có biến động, bên trên họ sẽ bấm nút đóng kín hầm tàu, chúng tôi sẽ ra sao? Điều này khiến anh em chúng tôi thực sự lo lắng. Một lúc sau, cơn mưa tạnh dần và tôi thấy cái nắp hầm bên trên lại được thụt vào để lộ một bầu trời xám xịt có nhiều mây đen. Những người biết về thời tiết trên biển nói đây là triệu chứng của một cơn bão nhiệt đới. Một loại bão trái mùa thường xảy ra trên vùng biển Đông.
Một lúc về sau, gió bỗng trở mạnh, gào thét, xô đi quật lại vào thành tàu làm con tàu lắc lư chao đảo nhiều hơn. Đám tù chúng tôi trở nên uể oải, mệt nhọc và quá phân nửa số người đã phải nằm dài xuống sàn. Một số người đã bị say sóng và nôn thốc nôn tháo ra sàn tàu. Điều tệ hại xảy ra là lúc “rửa chuồng” chiều hôm đó, khi cán bộ trên thành tàu kéo thùng phân từ hầm tàu lên trong cơn gió mạnh làm tàu tròng trành. Khi kéo thùng phân lên gần tới nơi, bất ngờ anh bị ngã làm thùng phân rơi xuống, bắn tung tóe vào trong hầm tàu! Thật là một thứ tai nạn mà tôi không biết diễn tả làm sao. Chỉ xin dành cho độc giả dùng trí tưởng tượng của mình để cảm thông cho tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ. Nhất là dưới hầm tàu lại không có nước để rửa và không có gì để lau chùi.
 Trong giờ cho ăn chiều hôm đó, chỉ có một số ít ngồi lên nổi để lấy phần ăn, còn đa số nằm sóng sượt như những xác chết chưa chôn. Càng về đêm, gió càng gào thét dữ dội hơn, tàu tròng trành nghiêng ngả và mưa bắt đầu rơi. Nắp hầm tàu lại được trồi ra để che mưa như lúc ban chiều. Nhìn thấy cảnh này, tôi mất hết hy vọng! Tàu đang đi vào cơn bão bất ngờ và cơn bão đã đánh gục gần hết số người trong hầm tàu chúng tôi.
 Quãng chừng 10 giờ đêm, khoang tàu trở nên vắng lặng, những người say sóng nằm lăn lộn ói mửa, có người đang ngủ say. Chỉ còn 3 tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hành động, nhưng những người cố gắng đi lại như tôi và anh Dương Văn Lợi cùng vài anh em trong ban tham mưu cũng bị chao đảo, đứng không vững vì tàu lắc quá mạnh. Tôi nghĩ thầm “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, người muốn không bằng trời muốn!  Sau khi hội ý với một vài người còn lại, tôi tuyên bố bãi bỏ kế hoạch.
Phần tôi, mặc dù rất mệt nhọc và căng thẳng trong 2 ngày qua, nhưng không tài nào chợp mắt được. Tôi thức trắng đêm hôm ấy, nằm nghe gió thét mưa gào, trong lúc con tàu đáng thương chao đảo như một quả trứng nằm trong chậu nước đang có người cầm hai bên bờ thành chậu đong đưa.
Một điều làm tôi vô cùng kinh ngạc và suy nghĩ mãi cho tới ngày hôm nay: gần sáng hôm sau gió bắt đầu giảm. Càng về sáng gió càng nhẹ và tàu bớt lắc lư. Tới rạng ngày thì gió ngừng hẳn, mặt biển lại trở nên yên lặng như  tờ. Cái nắp che trên miệng hầm lại được thụt vào để lộ nền trời cao xanh biếc. Mặt trời lại chiếu ánh sáng êm dịu của ban mai vào thành tàu như trong hai ngày đầu.
 Không ai có thể giải thích hiện tượng bão táp ngắn ngủi đêm qua. Nhưng tôi hiểu ý nghĩa của nó. Từ biến cố đó tôi càng tin mãnh liệt vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa. Vì trong những ngày đó tôi đã cầu nguyện thật tha thiết. Tôi cầu xin Thiên Chúa, nếu điều chúng tôi dự tính không thể thực hiện được thì xin Ngài can thiệp, đừng để hậu quả tai hại xảy ra. Tôi cho rằng cơn bão trái mùa hôm đó là một phép lạ riêng tư cho cá nhân tôi. Phép lạ này đã xảy ra do lòng tin và lời cầu khẩn của tôi, để chặn đứng một việc nguy hiểm có thể làm cho máu đổ ngập khoang tàu.
Ân oán giang hồ
Sáng ngày, những người bị say sóng nằm lăn lóc đêm qua bây giờ tỉnh lại. Sinh hoạt trong hầm tàu trở lại bình thường. Chỉ có một thay đổi lớn là chúng tôi đã bãi bỏ kế hoạch cướp tàu, điều này khiến những người quyết tâm tham gia kế hoạch, nhất là những anh em trẻ tuổi cảm thấy tiếc rẻ. Từ tâm trạng tiếc rẻ, họ trở nên bứt rứt, ngứa ngáy tay chân và biến thành những con người hung hãn. Họ như những võ sĩ tập luyện rất công phu và sẵn sàng thi đấu, nhưng cuộc tỉ thí vì một lý do bất khả kháng phải bị bãi bỏ vào phút chót. Họ chẳng còn biết làm gì nên đã quay sang mục tiêu khác để xả cơn bực tức và sức lực của họ. Mục tiêu đó chính là bọn ăng- ten đang có mặt trong khoang tàu lúc bấy giờ!
Tôi muốn nói rõ hơn về việc này. Ngay từ lúc cả nhóm bước xuống hầm tàu hai ngày trước, đã có làn sóng phẫn nộ dâng cao định hỏi tội bọn ăn-ten trong trại Gia Ray. Lúc đó, những người đã hãm hại anh em trước kia, không còn đường nào thoát thân, chỉ còn cách đến với tôi tìm sự che chở như tôi đã nói ở trên. Trong tình thế đó, tôi đã can thiệp và ngăn cản anh em. Vì nếu không, sẽ có tình trạng đi thái quá và báo thù nhau vì các việc không đâu. Làn sóng phẫn nộ đã tạm thời lắng dịu từ lúc chúng tôi dồn hết tâm trí vào một vấn đề khác. Tôi dùng chữ tạm thời lắng dịu để nói lên rằng, việc ân oán giang hồ đối với hạng người làm mật báo hãm hại anh em trong tù là vấn đề làm nhức nhối nhiều người và không dễ gì có thể bỏ qua được.
 Tôi còn nhớ, ngay trong lúc chúng tôi họp bàn về kế hoạch cướp tàu giải thoát tù nhân, cũng có người đến bên tôi xin, khi thành công sẽ cho thiết lập tòa án ngay trên tàu để xử bọn ăng-ten. Người này còn đưa ra một danh sách thành phần “ác ôn” trong trại Gia Ray mà theo anh, những tên này phải đền tội. Tôi đã gạt ngang ngay ý nghĩ đó và cho biết rằng đó không phải là mục đích của chúng ta, và nó lại càng không phải là việc của tôi.
 Tôi nói lên điều này để những độc giả nào chưa bao giờ phải bước chân vào nhà tù cộng-sản, cảm thông được sự đau khổ và phẫn nộ của những người bị bọn ăng-ten hãm hại như thế nào. Trong một bài khác, tôi có nói đến hành động phản bội và làm tay sai cho cán bộ, để hãm hại anh em của một số tù chính trị miền Nam. Đó là điều làm tôi cảm thấy nhục nhã và đau đớn nhất trong 13 năm tôi sống trong tù cộng-sản.
Buổi sáng hôm đó, không ai có việc gì để làm, không còn vấn đề gì phải bận tâm nên làn sóng “diệt” ăn-ten tự nhiên lại nổi là điều cũng dễ hiểu. Lúc đó không còn cách gì có thể kềm hãm được cơn phẫn nộ của một sống đông đang dâng lên quá cao. Mặc dù tôi đã ngăn cản được một số người, nhất là những anh em Công giáo, nhưng tôi không thể nào ngăn chặn được tất cả. Bắt đầu vào khoảng 9 giờ sáng có vài cuộc cãi vã, sau đó rượt đánh nhau gây rối loạn tại nhiều nơi.
 Phong trào diệt ăng-ten như một cơn dịch, càng lúc càng lan rộng ra và cường độ càng lúc càng dữ dội hơn. Những người bị rượt đánh chỉ còn nước chạy vòng quanh lẩn trốn. Nhưng chạy đâu cho thoát được ra khỏi cái khoang tàu đông nghẹt những người này? Có mấy người bị đánh tơi bời, máu me lênh láng. Họ bị đánh bằng đủ các kiểu, bằng tay chân, bằng ống điếu thuốc lào và bất cứ vật gì có thể dùng làm vũ khí. Tôi còn nhớ lúc đó trong khoang tàu có 2 anh đau chân phải đi chống gậy là anh Tô Tứ Hướng và anh Hùng “Si-cà-que”. Vô tình mấy cây gậy của 2 anh đã trở thành vũ khí đắc dụng cho những người chủ trương diệt ăn-ten.
Tôi không biết hết những ân oán giang hồ giữa họ với nhau trong trại Gia Ray, vì tôi mới chuyển lên đó một thời gian ngắn. Thường là những người bị rượt đánh đều chạy tới tôi để xin che chở. Trong hoàn cảnh ‘chẳng ai bảo ai’ được đó, tôi đã đứng ra công khai giải thích và xin tất cả các anh em dừng tay lại. Sau khi tôi lên tiếng, làn sóng phẫn nộ lắng dịu dần, dĩ nhiên là máu đã chảy ra khá nhiều. Nhưng cũng chính vì sự lên tiếng đó mà về sau này, khi ra tới miền Bắc, tôi đã bị chính những người tôi che chở tố cáo là tôi chủ trương đánh đập họ trên tàu. Tôi đã trả một giá rất đắt về việc này.[1]
Cảng Hải Phòng
Khoảng 5 giờ chiều ngày 20 tháng Tư năm 1977, tàu Sông Hương dừng lại. Chúng tôi biết là mình đã tới một nơi nào đó ở miền Bắc, nhưng vì đang ở dưới hầm tàu nên không định thần được là mình đang ở đâu. Tàu đã bỏ neo khá lâu, nhưng chúng tôi vẫn chưa được lên bờ. Một lúc sau thấy có đoàn người ở các khoang khác bắt đầu lên bến. Từ lòng hầm tàu nhìn lên, tôi nhận ra một số người tôi quen vì cùng ở chung với tôi trong trại Phan Đăng Lưu, nhưng khi tôi chuyển lên Gia Ray, họ còn ở lại và bây giờ cũng có mặt trên chuyến tàu này. Mãi tới chạng vạng tối tù nhân ở khoang tàu chúng tôi mới được lên bờ, và khi lên tới nơi mới biết đó là bến cảng Hải Phòng.
 Khi vừa lớn lên và bước vào tuổi mộng mơ, tôi luôn ôm ấp giấc mộng hải hồ. Tôi mong ước khi lớn lên sẽ trở thành một sĩ quan hàng hải hoặc một thủy thủ của một chiếc tàu biển để có dịp băng mình trên sóng nước đại dương. Nhưng điều tôi mong muốn nhiều hơn là được dừng chân nơi những bến bờ xa lạ. Mặc dù khi lớn lên tôi không thực hiện được giấc mộng hải hồ, nhưng không vì thế mà tôi mất đi tình yêu biển cả, yêu những con tàu vượt sóng nước đại dương và ham thích khi được tới những bến bờ xa lạ.
Hôm nay, vô tình mong ước của cuộc đời tôi trở thành hiện thực, nhưng được thành tựu một cách thật trớ trêu. Trong lần đi tàu biển đầu tiên này, tôi không phải như một thủy thủ mà bị nhốt dưới hầm như thân phận của loài gấu chó trong sở thú Sài Gòn. Giờ đây tôi đang được đặt chân lên một bến cảng xa lạ, nhưng không phải để thỏa chí tang bồng mà là để bắt đầu kiếp sống vô vọng trong thân phận người tù biệt xứ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét