Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

HỒI KÝ NGUYỄN HIẾN LÊ - PHẦN 3 - CHƯƠNG 16 ĐẾN CHƯƠNG 19

PHẦN III - Chương XVI
TRONG CHIẾN TRANH VIỆT – PHÁP (1945-1954)

TẢN CƯ VỀ TÂN THẠNH

Hôm đó chúng tôi rời căn nhà 50 đường Monceau, có ngờ đâu tám năm sau mới trở lại.
Trời trong trẻo, mát mẻ. Trên đường xuống Phú Nhuận, có nhiều nhà treo cờ thanh thiên bạch nhật: hôm đó là ngày quốc khánh (lễ Song thập 10-10) của Trung Hoa, quân cách mạng thắng quân nhà Thanh ở Vũ Xương năm 1911. Đa số xe đạp cắm một cây cờ Trung Hoa nhỏ bằng giấy trước ghi đông. Trung Hoa đã leo lên địa vị cường quốc thứ năm trên thế giới; người ta cho rằng cờ của họ là lá bùa hộ mạng khi gặp quân Anh, Pháp.

Gần tới ngã năm Phú Nhuận tôi thấy một chiếc “xe cá” chở đầy sách gấp mười số sách của tôi, trong lòng vừa phục mà vừa thương hại: chở gởi đi đâu? xa không? cực khổ quá!
Ba anh em chúng tôi chỉ có hai cái va li nhỏ, một giỏ đồ vặt, cố mắc vào xe đạp, rồi thay phiên nhau đẩy. Một đứa cháu 12 tuổi giúp việc nhà, lẽo đẽo theo sau. Lác đác có từng nhóm người tản cư cũng như chúng tôi, không ai có vẻ buồn rầu, lo lắng cả. Gặp nhau người ta còn mỉm cười với nhau nữa.
Vào khoảng trưa chúng tôi tới Thủ Đức, vào một khu vườn cao su cách chợ hơn một cây số, chỗ để hai chiếc xe ngựa lớn, có mui, có cửa, của sở Thủy lợi. Người coi vườn chào tôi, đưa chìa khóa xe cho tôi. Tôi hỏi thăm tình hình trong miền, người đó đáp: “Yên ổn lắm, nhưng những nhà ở gần đường lộ cũng ngại quân Anh, Pháp sẽ lên đây. Họ tính lùi vào trong xóm, ở xa đường một chút... Còn đường về miền Tây, ông có tin tức gì không?
Tôi bảo: “Nghe nói quân Pháp đã xuống đến Tân An rồi, con đường Sài Gòn - Tân An nghẽn. Vì vậy tụi tôi phải đi vòng lên đây để kiếm đường về miền Tây”.
Người đó khuyên tôi lên chợ Lái Thiêu rồi kiếm ghe quá giang về Mĩ Tho. Chúng tôi theo ý kiến đó, nghỉ lại trong xe, nấu cơm lấy mà ăn; sáng hôm sau lại lên đường. Người coi vườn tiễn chúng tôi một quãng, chỉ cho chúng tôi một bụi cây ở xa, bảo: “Người ta nói Phan Văn Hùm bị giết ở bụi cây đó. Ông biết Phan Văn Hùm không?”.
Tôi đáp: “Nghe tiếng chứ không biết mặt. Tại sao ông ấy bị giết?”.
- “Không ai biết. Thời buổi này mà!”.
Chia tay người đó rồi, tôi mới hỏi Tân Phương:
Phan Văn Hùm là một nhà cách mạng trong nhóm Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, chắc là theo Đệ tứ Quốc tế, được nhiều người mến. Mà nhóm Đệ tứ có Trần Văn Thạch ở trong Ủy ban Hành chánh Nam Bộ thì ai giết Phan Văn Hùm? Tôi chắc là người ta đồn bậy.
Tân Phương làm thinh, có vẻ suy nghĩ.
Cũng ngày đó, chúng tôi lại được tin Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Ngãi trên đường từ Huế về Sài gòn. Tôi xúc động mạnh vì tôi rất quí ông ta. Ông gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị, bình dân, khắp thành phố Long Xuyên không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là giới thợ thuyền. Căn nhà của ông ở gần Cầu Máy, một khu lao động, tuy bằng gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí.
Hai chiến sĩ đệ tứ bị giết trong khoảng nửa tháng hay một tháng thì khó có thể cho là bịa được, mà cũng khó bảo là ngẫu nhiên được. Mấy năm sau tôi mới được biết cả hai vụ đó có thật, chỉ sai một điểm là Phan Văn Hùm bị giết ở gần quê ông (Búng, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một), chứ không phải ở gần Thủ Đức.
Bốn giờ chiều chúng tôi mới tới chợ Lai Thiêu, may gặp một nhân viên của tôi cũng tản cư về đó và làm trong Ủy ban hành chánh xã. Thầy kiếm nhà cho chúng tôi tá túc. Nhà ở giữa một khu vườn măng cụt và sầu riêng, có đường mương ngang dọc, săn sóc rất kĩ.
Thầy lại xin cho chúng tôi một giấy chứng nhận của Ủy ban hành chánh và sáng hôm sau tìm cho tôi một chiếc ghe về phía Mĩ Tho. Thầy làm việc với tôi đã mười năm, tính tình hiền lương; tôi tiếc là từ buổi đó đến nay tôi không được gặp lại thầy nữa.
Lái Thiêu cũng sợ quân Anh, Pháp sắp tới, nên rất nhốn nháo. Nhân viên các ủy ban và thanh niên đi đi lại lại, người nào cũng vội vàng, dân chúng chen chúc nhau ở trụ sở hành chánh để xin giấy tờ đi đường. Thiếu giấy, phải dùng mặt sau của các công văn thời trước. Con dấu thì bằng gỗ. Ai cũng có thể làm giấy chứng nhận giả được.
Náo nhiệt nhất là cảnh chợ. Trên bờ, dưới sông, tấp nập kẻ qua người lại và ghe xuồng đủ cỡ... Mọi người lo mua đồ tích trữ: từ gạo, than đến thuốc uống, cả nồi niên, chiếu, nóp... Rõ ràng là cảnh sắp loạn lạc, chia li.
*
Chiếc ghe chúng tôi mướn được là ghe thương hồ, bán hết đồ, trở về Mĩ Tho. Chúng tôi đi chung với một gia đình khác làm ăn ở Lái Thiêu, di tản về quê ở Tân An. Ghe đi vòng lên Đức Hòa rồi theo một con kinh vào Đồng Tháp. Khỏi Đức Hòa một chút, một chị nông dân Thanh niên tiền phong bảo ghe ghé bờ để xét. Chị bận một bộ đồ hàng Tân Châu - tôi đoán là bộ tốt nhất của chị - lưng dắt dao găm, nhưng coi mặt không dữ tợn. Thấy tôi mang một cuốn sách khá dày, chị mở ra coi mà lại cầm ngược - chị chưa biết chữ Quốc ngữ - hỏi tôi:
- Anh mang sách gì vậy?
Tôi đáp:
- Sách về nghề đốc công thủy lợi của tôi.
- Sách Tây hả?
- Phải.
- Thời buổi này mà anh còn giữ sách Tây à? Anh đi theo tôi vô Ủy ban xã.
Tôi lên bờ theo chị. Ghe phải đậu lại. Chúng tôi đi qua một cánh đồng rộng, tới xóm làng, lại đi một đỗi nữa mới tới trụ sở ủy ban ở trong một Nhà việc. Ủy ban gồm sáu bảy người đương bàn về kế hoạch phục kích quân Pháp ở một dốc cầu. Trông thấy tôi vào, một người chạy ra hỏi:
- Ủa. Ông đi đâu đây?
Lại gặp may nữa: cũng là một nhân viên cũ sở Thủy lợi.
Thầy đó cầm cuốn sách của tôi, đưa viên chủ tịch coi. Tôi được thả. Thầy còn ân cần đưa tôi ra khỏi xóm, bảo tôi:
- Ông đừng nên giữ một cái gì có màu xanh, đỏ, trắng của cờ Pháp, người ta cho là ám hiệu liên lạc với địch đấy.
Về tới ghe, ai nấy đều mừng. Tối đó ghe đậu ở một xóm bên bờ kinh. Đồng quê hồi đó còn yên ổn, không có trộm cướp. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau tôi mới tới một chợ quê cách Tân An độ mươi cây số về phía tây, ghe đậu lại. Chủ ghe, một giáo viên hồi hưu, đãi chúng tôi một bữa cháo vịt rất thân mật. Sáng hôm sau - ngày thứ năm từ khi rời Sài Gòn - chúng tôi lại dắt xe ra đường lộ Tân An - Trung Lương, rồi thuê xe ngựa đi từng chặng tới Mĩ Tho. Quân Pháp mới tới thành phố Long An, chưa tiến xa hơn nữa; nên trên đường xe cộ dập dìu.
Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi tới Mĩ Tho. Không khí căng thẳng, thành phố rất náo nhiệt. Chúng tôi lại Ủy ban Hành chánh Nam bộ (đã rút về Mĩ Tho từ trước) để trình diện, nhưng ai nấy bận việc tíu tít, không tiếp chúng tôi được. May sao gặp được ông bạn cũ Nguyễn Ngọc Thơ tản cư theo ủy ban. Ông cho tôi hay có tin hôm sau quân Pháp sẽ tới tấn công Mĩ Tho, ủy ban đã ra lệnh đào đường lộ, ngã cây để chặn đường; còn ủy ban thì cũng sắp phải dời đi nơi khác, rồi ông khuyên tôi sáng hôm sau còn chuyến tàu thủy chót về Long Xuyên, đừng bỏ lỡ cơ hội đó.
Chúng tôi lại một trường tiểu học, vô một lớp học, sắp đặt hành lí, kê bàn làm chỗ ngã lưng rồi đi nghe diễn thuyết về hôn nhân - diễn giả khuyên thanh niên đợi 25 tuổi hãy kết hôn - lại ăn cơm xã hội của thị xã. Tối trở về trường, tắm xong, ngủ thẳng một giấc tới sáng.
Thức dậy, không kịp ăn sáng, chúng tôi ra bến tàu, mua giấy đi Long Xuyên. Khi tàu rời bến, chúng tôi mới nhẹ người.
Năm giờ chiều hôm đó tới Long Xuyên. Như vậy từ Sài Gòn đi Long Xuyên mất sáu ngày. Chúng tôi ghé nhà cô Nguyễn Thị Liệp và nhờ người nhà nhắn với bác tôi ở Tân Thạnh (Đốc Vàng) rằng chúng tôi đã tới Long Xuyên.
Thị xã Long Xuyên có vẻ buồn hiu. Ủy ban hành chánh đã ra lệnh tiêu thổ kháng chiến: đập phá các công sở, đốt hết các hồ sơ; tư gia thì phải dỡ mái ngói, gở tất cả các cánh cửa, để địch không có chỗ ở. Lệnh chỉ được thi hành một phần thôi: mới có vài cơ sở bị phá, một số nhà dỡ một phần mái; nhưng đồ đạc quí thì đã chở lần lần đi gởi ở trong làng, xa thị xã, những chỗ chắc địch sẽ không tới.
Ở Long Xuyên hai ba ngày thì có ghe nhỏ ở Tân Thạnh qua đón chúng tôi. Hồi đó đã gần cuối mùa lụt, nước trong đồng rút mạnh ra Tiền Giang, Hậu Giang; ghe gặp toàn nước ngược, cả giờ chỉ tiến được vài ba cây số. Chiều hôm đó chúng tôi phải nghỉ lại nhà một người quen ở giữa đường Long Xuyên - Mĩ Luông; sáng hôm sau mới đi tiếp. Trên bờ, thấp thoáng trong các vườn xoài, dừa, một đám khoảng vài chục thanh niên vác tầm vông vạt nhọn, đương tập quân sự. Người nào cũng bận bà ba đen, đi chân không, nét mặt hăng hái, vui vẻ. Nghe họ hô “một hai, một hai” và tiếng chân họ nện trên mặt đất, lòng tôi cũng sôi lên.
Tới Mĩ Luông, ghe phải đi men bờ, ngược lên gần chợ Thủ rồi mới qua sông. Ngồi ghe lâu quá, tù túng, mấy anh em tôi lên đi bộ cho ghe được nhẹ. Giữa đường từ Mĩ Luông tới chợ Thủ, chúng tôi được biết ba tín đồ Hoà Hảo bị giết ngày 17-10-1945 ở sân vận động Cần Thơ: Nguyễn Xuân Thiếp, hiệu là Việt Châu, người thứ nhì là em trai út Thầy Tư Hòa Hảo, người thứ ba là con trai của Trần Văn Soái, Tổng tư lệnh quân đội Hòa Hảo.
Chúng tôi bàng hoàng, lặng lẽ cúi đầu đi, không ai nói một lời. Tôi nhớ lại buổi trưa đó, anh Việt Châu từ biệt tôi đi Cần Thơ để hòa giải, hai bên vui vẻ và tự tin, chắc thành công: mọi sự chia rẽ lúc đó chỉ có lợi cho địch, mà anh tuy theo Thầy Tư nhưng vẫn có cảm tình với Việt Minh thì khó khăn nào mà không giải quyết được. Dè đâu, lần chia tay đó lại là lần vĩnh biệt.
VIỆT CHÂU
Chỉ vì tin đó mà chuyến về hết vui. Bác trai tôi rầu rầu trách chúng tôi: “Sao ở trên đó lâu vậy? Ở nhà mong mãi”.
Cả nhà xúm lại. Chúng tôi kể tin tức Sài Gòn, Long Xuyên, những nỗi khó nhọc khi đi đường đường, mà không dám nhắc tới tin buồn kia.
Bác tôi nói trước:
- Khi nó hỏi ý bác có nên giúp thầy Tư Hòa Hảo không, bác bảo giúp thì giúp, nhưng chỉ nên lãnh công việc xã hội, đừng làm chính trị. Nó không nghe lời bác. Có tin cho hay khi nó tới Cần Thơ, người ta ngờ nó xuống để kích động tín đồ, bắt giam nó liền, không chịu nghe nó phân trần. Rồi tín đồ thấy nó bị bắt lại càng làm dữ, tình hình mỗi ngày thêm găng và kết quả như vậy. Ra pháp trường, nó không một lời nào nhắn gia đình gì cả, ung dung ngâm bốn câu thơ rồi hô: “Việt Nam muôn năm”. Thật là có tinh thần Nguyễn Trung Trực.
Việt Châu (Nguyễn Xuân Thiếp) tính tình giống bác tôi, có khí tiết mà mềm mỏng, khéo xử sự, biết lo cho gia đình mà có tài làm thơ, nên bác tôi mến nhất. Anh sanh năm 1918, biết chút ít chữ Pháp, chữ Hán và nhà coi sóc ruộng nương. Năm 1940 hay 41, mới 23 tuổi đã xuất bản tập thơ Lông ngỗng gieo tình (truyện Mị Châu, Trọng Thủy) được một số thi sĩ ở Bắc khen, rồi ít năm sau viết xong một tập thơ nữa trên ngàn câu về Dương Qui Phi, chưa xuất bản. Thỉnh thoảng có thơ văn đăng trên báo; lại giữ phụ trương văn chương một tờ nhật báo ở Sài Gòn, có nhiều bạn thơ ở Bắc, Nam, thường thư từ với Trần Huyền Trân, một thi sĩ theo Việt Minh từ trước 1944.
Trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại (Khai Trí - 1967), Trần Tuấn Kiệt có chép sơ lược tiểu sử và trích ít bài thơ của anh. Thơ anh trôi chảy, bóng bảy, lãng mạn như các nhà thơ trẻ tuổi hồi đó, nhưng cũng có bài tả những cảnh chưa ai tả, như bài Hoa Ô môi mà trong cuốnThi ca Việt Nam hiện đại đã trích đăng.
Mới 28 tuổi đã lìa đời, nếu không sự nghiệp thi văn của anh còn tiến nhiều. Từ 1945 đến 1974, năm nào “tổ đình” - đình thờ gia đình thầy Tư ở làng Hòa Hảo, được tín đồ coi như thánh địa - cũng làm giỗ anh với hai người tử vì đạo với anh.
Nhưng có điều là do thời cuộc, thơ anh ngay vợ con anh cũng không giữ được. Anh có hai người con trai, một người theo nghề võ, một người viết báo, nhưng không ai biết làm thơ.
TÂN PHƯƠNG
Chín năm sau bác tôi lại bị một cái tang nữa. Người con trai lớn tên là Nguyễn Xuân Tăng (bút hiệu là Tân Phương) đẹp trai, nhưng ẻo lả, chết một cách thật vô nghĩa.
Bác sĩ rọi phổi bảo là bị bệnh lao. Thời đó (khoảng 1950), Tây y đã có những thuốc rất công hiệu để trị lao: Streptomicine, Rimifon, P.A.S. Anh ấy mới chích một mũi Steptomicine rồi nhất định không chịu chích nữa (có lẽ vì sợ chích) mà tự dối mình là chỉ ho thường thôi chứ không bị lao, rồi uống thuốc Nam, thuốc Bắc, không chịu đi bác sĩ. Bệnh mỗi ngày một nặng, vài ba năm sau, khi toát mồ hôi lạnh, yếu quá rồi, vợ mới vội đưa ngay lên bệnh viện Grall ở Sài Gòn, thì phổi đã bị vi trùng lao đục rỗng, vài ngày sau chết tại bệnh viện. Năm đó anh mới 39 tuổi. Thật uổng một đời thông minh.
Giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, làm thông dịch viên cho cơ quan Domei của Nhật. Mới tự xuất bản được một tập nhỏ nhan đề là Vers une dictature đại ý là muốn cho thế giới hết loạn thì phải cho Hội Vạn quốc (Société des Nations) có đủ binh lực và quyền hành để buộc các nước lớn nhỏ trên thế giới phải tuân lệnh. Tập đó ra năm 1938 hay 1939, trước khi thế chiến nổ. Thỉnh thoảng anh có viết chuyện ngắn, làm một bài thơ đăng báo. Anh viết kĩ, văn gọn, có khí, đôi khi bóng bẩy.
Tôi còn giữ được truyện ngắn Tình trong bức tường (đăng trên nguyệt san Tiểu thuyết Thứ bảy – số tháng 9 năm 1944) tả mối tình tuyệt vọng của một thanh niên hơi có học, nghèo, làm thợ nề mê con gái một điền chủ, mà không dám ngỏ lời, kín đáo chép tâm sự bỏ vào một cái chai lén giấu trong bức tường của ông điền chủ khi chàng xây tường.
Thơ anh cũng đăng trên nguyệt san đó, bài thơ Trương Lương cũng được nhiều người tán thưởng.
KHÔNG KHÍ LÀNG TÂN THẠNH
Không khí làng Tân Thạnh đã thay đổi nhiều. Trên đường chỉ thấy thanh niên nam nữ đa số là gia đình nông dân. Các hương chức và điền chủ ít ai ra khỏi nhà. Ghe xuồng bớt qua lại, tuyệt nhiên không thấy một chiếc ghe hầu, một chiếc ca nô. Một hai miễu ông Tà bị lật đổ, nhưng chưa hất xuống rạch. Ở đình người ta làm lễ, nhưng rất sơ sài; một hai nhà cách mạng theo phong trào mới tới dự, nhưng bận áo bà ba và không vái. Vài nhà cách mạng khác bỏ làng, theo kháng chiến. Gần cuối năm 1945, vài gia đình ở nơi khác tản cư về đây, trong số đó có gia đình cô giáo Liệp[1] và gia đình một thầy giáo nữa ở Long Xuyên.
Chủ tịch Ủy ban Hành chánh xã là một thanh niên học tới trung học, ở bên cạnh nhà bác tôi và có họ hàng với bác gái tôi. Mấy anh em tôi lại trình diện với ông ta và tôi cũng đi canh gác một hai đêm với thanh niên ở bến đò gần nhà.
Trong làng ai cũng biết nhau và có họ hàng xa gần với nhau nên ít có sự nghi kị. Chỉ có mỗi một lần vào mùa xuân năm 1946 vài anh bộ đội đóng đâu ở phía Phong Mĩ vào nhà bác tôi đòi khám xem có súng ống không vì họ biết anh Tân Phương làm việc với Nhật. Họ chỉ xét qua loa rồi ra. Sau đó anh ấy lánh qua bên chợ Thủ sống với vợ con. Còn anh Việt Châu thì không ai nhắc tới cả. Mãi hai năm sau, khi thầy Tư Hòa Hảo đã bị thủ tiêu (lúc này tôi đã qua Long Xuyên rồi), ủy ban xã mới mời bác tôi vô trụ sở, giam mấy ngày để điều tra, rồi thả, vì biết bác tôi từ 1939 không hề ra khỏi làng, không hề biết mặt thầy Tư.
Mùa đông năm 1945, một chiếc ghe chở muối từ Bạc Liêu lên bán ở Long Xuyên, ghé Tân Thạnh cho tôi biết: vợ con tôi vẫn bình an ở nhà người em ruột tại Long Điền. Em rể nhà tôi trước làm Xã trưởng làng đó, nay lại làm Chủ tịch ủy ban nhân dân xã. Tôi yên tâm. Tạm sống xa nhau như vậy vì tôi tin chiến tranh sẽ mau kết thúc.
Nhưng đợi tới cuối năm, tình hình vẫn chưa có gì thay đổi. Tết đó thật buồn, chợ Tết lèo tèo, nhà nào cũng cúng qua loa. Không có dưa hấu, quít, mứt. Chỉ gói một nồi bánh tét, mổ thịt một vài con gà.
TÔI HỌC ĐÔNG Y
Về Tân Thạnh được vài tháng, không có công việc gì làm, để khỏi buồn, tôi xin bác tôi dạy cho tôi đông y.
Tôi học bộ Y học toản yếu gồm sáu quyển của Lưu Thánh Tuyền. Tôi đọc rồi bác tôi cắt nghĩa. Thỉnh thoảng có bệnh nhân xa gần lại nhờ bác tôi trị (làm phúc), nhờ vậy tôi có dịp tập coi mạch.
Sau chín mười tháng tôi nhận được một số bệnh, biết chút y lí, phân biệt được hàn nhiệt, hư thực trong những trường hợp dễ, sử dụng được một số toa thuốc cơ bản, cổ điển: loại bổ, loại tán (làm cho tà khí tan đi), loại hàn (thuốc mát), loại nhiệt (thuốc nóng), loại công (công phá, như thuốc xổ); thuộc được tính chất độ một trăm vị thuốc thường dùng; biết gia giảm những vị nào cho hợp với bệnh nhân; lại biết nấu thục địa, sao, tẩm một số thuốc.
Đọc các sách thuốc khác như bộ của Hải Thượng Lãn Ông, tôi đã hiểu được nhưng chưa thể làm y sĩ được vì thiếu nhiều kinh nghiệm. Sự hiểu biết của tôi chỉ dùng được cho người trong nhà, về những bệnh thông thường.
Tôi thấy y lí của phương Đông, sự phân biệt hàn nhiệt, hư thực thật tinh tế và có lợi. Tôi lấy thí dụ bệnh ho do phải cảm hay thời tiết thay đổi, nếu phân biệt được hàn nhiệt, thì chỉ vài thang là hết, trong khi các bác sĩ thử hết thuốc nước này, thuốc hoàn khác mà bệnh không dứt. Mới mười năm trước đây, đọc một số báo Pháp hay Mĩ thấy một bác sĩ chỉ dùng cách này mà trị được một bệnh ho dai dẳng: bảo bệnh nhân vẩy nước trong phòng cho không khí ẩm thấp, mát mẻ; vài ngày sau bệnh nhân hết ho. Trường hợp đó đông y cho là do nhiệt mà ho.
Bệnh đi tiêu chảy, đông y phân biệt hàn nhiệt và cách trị khác nhau. Bệnh lị Đông y phân biệt hàn nhiệt, tây y phân biệt dysenterie amibienne và dysenterie bacillaire. Hai cách phân biệt đó có điểm nào giống nhau không?
Đông y có một kinh nghiệm lâu dài (trên mấy nghìn năm) và rộng rãi (trên miền Đông Á rộng bằng cả châu Âu không kể Nga) tất có nhiều điều đáng cho tây y tìm hiểu. Ngày nay ai cũng biết công dụng của tử hà sa (nhau), đồng tiện (nước tiểu trẻ em), cam thảo (để trị loét bao tử) mà người Trung Hoa đã tìm ra được hàng ngàn năm trước; phương Tây đương nghiên cứu khoa châm cứu của Trung Hoa và hình như bây giờ đã có bác sĩ nhận rằng thận có nhiều công dụng khác quan trọng ngoài công dụng tiết ra nước tiểu, rằng Đông y có lí khi bảo trẻ em và người già cần bổ thận. Nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu rõ quan niệm khí (khí huyết), quan niệm thận thủy và thận hỏa… của Trung Hoa. Nghiên cứu theo khoa học để tìm hiểu Đông y là việc làm lí thú và có ích cho nhân loại.
Tuy nhiên chúng ta phải nhận rằng Đông y chỉ giúp cho Tây y được thôi chứ không thể nào tiến mau như Tây y được. Tây y dùng thuốc hóa học, chế tạo được rất nhiều thuốc mới mà giá lại rẻ; Đông y gần như chuyên dùng thảo mộc, mà trồng thảo mộc đã lâu, lại phải tùy đất, tuỳ thời tiết, phải bào chế, giá thuốc quá đắt, ít người mua nổi.
Nhất là phương pháp dạy, nghiên cứu của Đông y cổ lỗ quá, cần phải canh tân.
CÁC KHOA HỌC HUYỀN BÍ CỦA TRUNG HOA
Trong những năm 1939-1940 tôi đã đọc một hai cuốn Tử vi viết bằng tiếng Việt. Năm 1945 về Tân Thạnh tôi đọc thêm sách Tử bình bằng chữ Hán. Năm 1974 tôi lại được đọc cuốnBát tự Hà Lạc của Học Năng, một bạn già của tôi quê ở Thanh Trì (Hà Nội) có cả Hán học lẫn Tây học, đã lần hiệu trưởng nhiều trường tiểu học.
Tôi đọc chỉ do tò mò muốn biết mấy môn học huyền bí đó của Trung Hoa. Hơn hai chục năm trước, một anh bạn “làm cách mạng” thấy tôi đọc sách tử vi, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại tin những sách vô lí như vậy?
Tôi đáp:
- Anh thiếu tính thần khoa học rồi. Phải tìm hiểu một môn học rồi mới phê bình nó được chứ. Ở đời thiếu gì cái vô lí mà có thực. Một người thân ở xa bị tai nạn, đúng lúc đó mình ở nhà bồn chồn, lo lắng cho người đó; hiện tượng cách cảm (télépalhic) đó, lấy logique mà xét thì thấy vô lí, nhưng vẫn có thực. Anh vẫn thường bắt tin tức thế giới trong máy thâu thanh; nửa thế kỉ trước, ai mà không cho như vậy là vô lí, không thể có được.
Anh bạn đó làm thinh.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau:
“Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết.[2]. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được.
(...) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đóphần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”. (trang 174-175).
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai.
So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy:
Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh.
Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ... cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương..., nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa?
Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được.
Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinhDịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm).
Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con... Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu.
Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kì dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa.
Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số[3]. Tất cả các sách số đều khuyên vậy: “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Đó là bài học tôi rút được khi rảnh, đọc chơi môn lí số của Trung Hoa.
*
Tôi lại đọc môn bói nữa trong bộ Bốc phệ chính tôn và Dã hạc.
Môn bói trong hai cuốn đó đều dùng quẻ Dịch một cách tài tình. Khi ta đã chấp nhận một số định đề, nguyên tắc rồi thì cứ áp dụng luật ngũ hành tương sinh tương khắc mà suy đoán mọi việc sẽ xảy ra. Bói và Tử bình có lẽ là hai khoa hợp logique nhất trong các khoa học huyền bí của Trung Hoa, khiến tôi mê mải đọc. Đem ra thực hành thì tôi thấy có một số quẻ đúng một cách kì dị như hai quẻ tôi đã dẫn trong cuốn Luyện lí trí (tr. 177), một quẻ về bệnh của mẹ tôi, một quẻ về việc buôn bán của một bà chị tôi; đúng về tốt xấu là chuyện thường (vì chỉ có tốt với xấu, như vậy dù có đúng cũng chỉ được 50%), nhưng còn đúng cả về ngày và tháng nữa thì thật lạ lùng.
Nhưng sau tôi thấy nhiều quẻ sai be bét: người chết rồi thì bảo là chưa chết; miếng đất đoán là sẽ mua được mà rốt cuộc không mua được. Đoán rất đúng sách, chỉ tại quẻ không nghiệm thôi. Chính một bạn tôi có mấy chục năm kinh nghiệm về khoa đó cũng nhận rằng có người xin quẻ thường nghiệm, có người trái lại; lại có người lúc thì nghiệm lúc thì không. Hình như quẻ nghiệm hay không còn tùy nhân điện của người xin quẻ, của người gieo tiền, hoặc tùy tâm trạng người đó, tùy lúc, tùy giờ hay tùy cái gì đó nữa.
Riêng tôi chỉ thấy sai nhiều nên không tin khoa đó nữa, cứ xét nhân sự mà quyết định mọi việc; nhưng vẫn nhận là kì dị, huyền bí chứ không phải là chuyện nói láo mà chơi.
Trong tủ sách bác tôi còn có một bộ Địa lí hám giá, tôi cũng lấy ra coi, chỉ xin bác tôi giảng cho ít thuật ngữ, một vài qui tắc rồi đọc lấy được.
Khoa này còn huyền bí hơn các khoa trên nữa. Cổ nhân đã nói muốn làm thầy địa lí (tức khoa phong thủy, để mả chỗ nào cho kết (phát) thì phải có “lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu”. Tôi không có lòng thần, cũng không có mắt thánh, cho nên dù được các bác tôi dắt đi coi vài kiểu đất kết, chỉ cho “mạch” phát từ đâu, đi theo hướng nào, tụ ở đâu, đâu là tay long, đâu là tay hổ v.v... tôi cũng chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ, ở một miền hoang vu, nhận những chỗ cao thấp trên mặt đất thì còn có thể thấy được long mạch; chứ trên một cánh đồng đã khai phá cả mấy trăm năm, cả ngàn năm rồi, gò đồi đã san phẳng, hồ ao đã lấp hoặc đào thêm, đường đi đã chằng chịt như bàn cờ, thì căn cứ vào đâu để bảo đó là long mạch. Cho nên khoa địa lí tôi chỉ đọc qua thôi và tin rằng sẽ không còn ai học nó nữa.
TRỒNG DÂU NUÔI TẦM
Tôi làm tất các việc lặt vặt trong nhà: nhổ cỏ, quét sân, xách nước, giã gạo, bữa củi... Khi tản cư tôi còn được 700 đồng. Tôi hùn nuôi tằm, không lời mà cũng không lỗ. Tôi nghĩ nếu trồng dâu, có sẵn dâu để nuôi tằm thì vừa tiện vừa có lời. Tôi bèn cuốc một công đất ở bên cạnh nhà, đầu mùa mưa 1946 qua chợ Thủ mua từng bó thân dâu đem về chặt rồi giâm, cắm. Nhưng thiếu kinh nghiệm: Tân Thạnh ở ngang chợ Thủ, tuy chỉ cách con sông Tiền Giang mà đất hai nơi rất khác nhau: chợ Thủ là đất bãi, trồng dâu tốt, còn Tân Thạnh là đất đồng, đất sét, dâu mọc rất chậm, mới cao được vài tấc thì gặp mùa nước lớn, lá dâu vàng úa lần lần rồi ngọn chìm dưới nước. Thế là bỏ luôn cả việc nuôi tằm.
PHÁP BẮN PHÁ TÂN THẠNH – TÔI MẤT BẢN THẢO
Mùa xuân năm đó, luôn nửa tháng, sáng nào cũng khoảng 9, 10 giờ là máy bay Pháp lượn trên mấy làng Tân Phú, Tân Thạnh..., sà xuống tưởng như gần sát ngọn sao, ria liên thanh xuống. Nhiều nhà đào hầm ở dưới bụi tre để núp. Đàn bà, con nít và các ông già bà già ăn cơm sớm rồi di tản vào trong đồng từ 8, 9 giờ sáng, 3, 4 giờ chiều mới về. Nhà chúng tôi di tản qua chợ Thủ, chỉ có tôi và một người nữa ở lại coi nhà. Nhà cài then cửa trước, cửa sau, hễ máy bay tới thì ra núp ở bụi tre. Có hôm chúng bắn rát quá, tôi hồi hộp, quặn đau ở bụng. Bệnh loét bao tử của tôi có lẽ phát từ hồi đó. Trong xóm không có người nào bị thương, nhưng vài nhà bị mấy chục viên đạn vào nóc, vách.
Máy bay tới bắn phá được ít lâu thì quân Pháp và “partisan” (lính Việt đánh thuê) tới đóng đồn ở làng Tân Phú và làng Tân Thạnh, hai đồn cách nhau độ ba cây số. Mỗi đồn có một hạ sĩ quan Pháp và dăm ba lính Việt. Mới tới chúng hiếp dâm một chị nông dân rồi bắn chết, vất thây xuống sông. Chúng vào khám xét một số nhà, bắt gà, vịt…
Tới mùa nước lên, cả miền đó như mặt biển, nước mấp mé tới sàn, đường sá đều ngập hết, đi đâu người ta cũng phải dùng xuồng. Vậy mà tên Pháp coi đồn cũng chịu khó lội nước theo bờ rạch từ đồn nọ đến đồn kia để xét giấy tờ của các chủ nhà. Coi vẻ nó uể oải, một nhọc lắm, còn tên lính Việt đi theo thì như thường. Cuối mùa nước chúng rút đi đâu không biết, đồn bỏ hoang.
Một đêm, hồi chưa có đồn Pháp, ba bốn tên cầm đuốc vào nhà bác tôi, đập cửa bảo để xét nhà. Bác tôi không ngờ là cướp, mở của; chúng trói bác tôi bắt ngồi một chỗ, rồi đi lục một lát, sau thấy chiếc va li của tôi, chúng xách đi; ngoài ra không lấy gì khác. Trong va li đó chỉ có ít thước vải, vài cuốn sách và bản thảo. Cũng may tiền tôi không cất trong đó. Tôi không tiếc vải, chỉ tiếc hai bản thảo về cải tổ giáo dục và về Đồng Tháp Mười.
Chủ ý bọn đó không phải là để cướp nhà bác tôi mà để bắt cóc một ông Hội đồng, con ông phủ Nghĩa ở Tân Phú, có tiếng là giàu nhất trong quận. Từ mấy hôm trước ông ta đã bỏ nhà, lại trốn trong nhà bác tôi, suốt ngày không ra khỏi phòng riêng vậy mà chúng cũng hay được. Đêm đó ông ta ngủ ở nhà sau, thấy động ở nhà trước, nhanh chân nhảy ngay xuống dưới sàn núp, bọn cướp không thấy. May cho ông ta mà rủi cho bác tôi - bị thương nhẹ vì chúng hành hung - và cho tôi. Bản thảo Đồng Tháp Mười trả về cho Đồng Tháp Mười và chắc chúngdùng để vấn thuốc.

[1] Tôi không biết trước hay sau khi tản cư về làng Tân Thạnh, gia đình cô Liệp còn tản cư vô làng Vĩnh Trạch, quận Núi Sập (nay là huyện Thoại Sơn), ở nhà một ông họ Cao, cách chợ Long Xuyên khoảng 12 cây số. (Goldfish).
[2] Chính là tôi và ba em tôi (chú thích năm 1980)
[3] Nghĩ vậy cho nên theo Tử vi thì vận năm 1953-1963 của tôi rất xấu, vậy mà năm 1953 tôi vẫn đổi nghề, không dạy học nữa mà chuyên viết văn, xuất bản (coi ở sau) và từ đó tôi phát đạt.

Chương XVII

CÁC CUỘC THƯƠNG THUYẾT VIỆT - PHÁP

MỘT NĂM CHỜ ĐỢI: 1946
Như trong chương IX tôi đã nói, năm Tuất trước (Giáp Tuất 1934) là năm buồn nhất trong tuổi trẻ của tôi: không có việc làm trong 5 tháng, để cho qua ngày, tôi cặm cụi học chữ Hán. Năm Tuất này (Bính Tuất 1946) còn buồn gấp mấy năm đó nữa. Cũng thất nghiệp vì tôi đã quyết tâm còn chiến tranh với Pháp thì không trở về nghề Công chánh, về sở Thủy lợi; và để cho qua ngày tôi lại cặm cụi học chữ Hán. Nhưng lần trước còn tin chắc sớm muộn gì cũng được bổ dụng; lần này thì không biết được sẽ làm gì để mưu sinh; vốn liếng chỉ còn 500 đồng (lỗ mất 200 đồng vào việc trồng dâu rồi), nghề Đông y thì mới biết sơ sài, chưa đủ để làm thầy; tương lai thật mù mịt. Lần trước nằm dài ăn báo mẹ thì còn được; lần này năm dài ăn báo hai bác tôi thì thật khó coi; vì chiến tranh hai bác tôi cũng túng thiếu, chỉ làm được mấy chục công đất ở sau nhà, số thu hoạch chỉ vừa đủ gạo để ăn.
Lại thêm cảnh gia đình tôi nữa: nhà tôi và cháu ở nhờ người em gái ở Long Điền, cũng phải tản cư với gia đình cô em. Miền đó nhiều người Thổ (Miên), chúng nổi dậy, uống rượu say, đi cướp phá, tìm những chỗ chứa của, gập người Việt nào cũng “cáp duồng” (chặt đầu). Cái nạn Thổ ở Nam Việt thật tai hại: thời bình chúng ngoan ngoãn, lễ phép, mà thời loạn chúng thành giặc. Ngay ở Tân Thạnh cũng trong năm 1946, mấy lần có tin đồn Thổ ở Svay Rieng (Cao Miên) băng qua Đồng Tháp, tính đánh phá, đốt nhà, cướp lúa, cướp trâu bò ở mấy làng chung quanh chỗ tôi ở, dân chúng phải đề phòng, tổ chức chống cự.
Những đồ tư trang nhà tôi gởi gia đình cô em giữ, bị Thổ phát giác chỗ chôn giấu (chúng tưới nước, chỗ nào nước hút mau là đất mới lấp, đào lên là thấy liền), do đó mất hết.
Mùa xuân năm 1946, nhà tôi phải từ biệt cô em, dắt cháu lên Sài Gòn, thì nhà ở đường Monceau bị lính thủy Pháp chiếm, đồ đạc không còn gì. Vậy là hai bàn tay trắng, không có chỗ ở. May gặp được một cô bạn mở một tiệm may quần áo cho trẻ con Tây ở đường Sabourain (nay là đường Lưu Văn Lang) gần chợ Bến Thành, lại giúp cô ấy trong việc may cắt, tiếp khách, như vậy tạm yên chỗ ăn chỗ ở.
Yên chỗ rồi, nhà tôi về thăm tôi ở Tân Thạnh, cho hay tình hình như vậy, và bảo ở Sài Gòn có phong trào đả đảo người Bắc của chính phủ Nam Kì quốc do tên thầy tu D'Argenlieu, Cao ủy Pháp dựng lên, thủ tướng là bác sĩ Nguyễn văn Thinh. Thinh sau tự treo cổ để đền tội với quốc dân. Như vậy tôi không thể lên Sài Gòn được. Đành chờ một thời gian nữa, và vợ con một nơi, tôi một nơi.
Thêm một nỗi buồn nữa là em trai tôi một lần qua chợ Thủ, đắm xuồng, không vớt được thây. Năm đó chú ấy mới 33 tuổi ta, đúng như số tử vi đã cho biết. Còn yểu hơn cha tôi nữa. Để lại một đứa con gái mới được mấy tháng.
Anh Tân Phương đã qua chợ Thủ ở với vợ con và giữa năm cũng lên Sài Gòn. Các người tản cư đã hồi cư hết rồi. Gia đình cô Liệp cũng đã trở về Long Xuyên. Chỉ còn một mình tôi ở lại Tân Thạnh.
Lâu lâu có ai đi Long Xuyên mới đem về cho một vài tờ báo mà biết được qua loa tin tức. Tháng nào, tuần nào cũng mong tình hình sáng sủa. Đầu năm có tin phái đoàn Việt Nam (ở Bắc) qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau, tôi le lói có chút hi vọng; ít tháng sau thất vọng, cuối năm thì hoàn toàn thất vọng: chiến tranh đã nổ lớn ở Bắc Việt, chính phủ mình đã rút ra khỏi Hà Nội để trường kì kháng chiến (20-12-1946).
Trước Tết, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui, làm đôi câu đối này:
------ Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu;
------Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch ra như sau:
------Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
------Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
Và bác tôi cũng cho tôi câu đối:
------Phú quí mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn;
------Thư hoa chân ái, sổ thiên văn tự lưu phương.
Cũng ông bạn trên dịch là:
------Phú quí chẳng màng, giữ tấm băng trinh thời loạn;
------Sách hoa riêng thích, thơm trang giấy mực đời sau.
Tết này buồn não lòng, chỉ ngâm câu thơ cổ:
------ “Nhất niên tương tận dạ,
------Thiên lí vị qui nhân”.[1]
------
------ (Một đêm năm gần hết,
------Ngàn dặm người chưa về)
Và luôn cho tới ngày nay, ba mươi lăm cái Tết nữa rồi, không có cái Tết nào tôi hoàn toàn vui cả: khi đoàn tụ gia đình thì chiến tranh chưa chấm dứt, khi chiến tranh chấm dứt thì gia đình lại không đoàn tụ được. Cho nên ngày Tết tôi cũng coi như ngày thường, cũng đóng cửa gần như không tiếp khách, để viết lách cho tiêu sầu. Nhớ lại, chỉ những Tết hồi còn đi học là lưu lại nhiều kỉ niệm đẹp nhất. Hai câu thơ cổ dẫn trên, bác Hai tôi đọc cho tôi nghe một đêm 30 Tết, hồi 8 giờ tối, anh em tôi ở Hà Nội mới về tới nhà, khiến người lo lắng, tưởng có tai nạn gì.
CHIẾN SỰ 1945-1946
Dưới đây tôi ghi vắn tắt ít tin chiến sự và biến cố xảy ra ở Việt Nam từ ngày tôi rời Sài Gòn cho tới cuối năm 1946.
Ở Nam (dưới vĩ tuyến 16)
Ngày 5-10-1945, Leclerc một viên tướng giỏi của Pháp, biết nhận định tình hình, tới Sài Gòn thì Pháp có tất cả 35.000 quân, được Anh giúp đỡ để cho tái chiếm lại miền Nam.
Trong tháng 10, quân Anh “chiếm” Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một.
Pháp một mặt tiến lên Tây Ninh, tính diệt lực lượng Cao Đài; một mặt xuống Long An (Tân An), Mĩ Tho (25-10), Vĩnh Long, Cần Thơ, rồi Sa Đéc, Long Xuyên (1-1946), Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau; một mặt nữa cho quân đổ bộ lên Nha Trang rồi tiến vô Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết, cuối năm 1945 lên tới Ban Mê Thuột, Djiring, Đà Lạt.
Như vậy đầu tháng 2-1946, Leclerc tự cho là công việc “bình định” ở miền Nam của ông ở miền Nam đã xong, vì chỉ trừ từ đèo Cả đến Tourane, còn bao nhiêu tỉnh lị, một số lớn quận lị nữa từ đèo Cả tới Cà Mau và ở miền Tây Nguyên đã bị quân Pháp chiếm đóng và lập lại lần lần các cơ quan hành chánh.
Nhưng Leclerc sáng suốt hiểu rằng như vậy chỉ để cứu vãn uy tín của Pháp thôi, và phải thương thuyết ngay với Việt Minh ở Bắc, chứ 35.000 quân Pháp của ông không thể dẹp nổi kháng chiến Việt Nam.
Sở dĩ ông tiến mau được như vậy vì quân đội mình dùng chính sách tiêu thổ kháng chiến, rút lui để bảo toàn lực lượng rồi đánh du kích.
Trần Văn Giàu mới đầu chỉ huy cuộc kháng chiến, sau bị triệu về Bắc. Tướng Nguyễn Bình từ Bắc vô thay, tổ chức lại quân đội và vừa phục kích quân Pháp, vừa trừ Việt gian, nhất là bọn hương chức Pháp đặt lên. Như vậy Pháp chỉ thực sự làm chủ các tỉnh lị và quận lị thôi, không dám ra khỏi vài cây số, cũng không dám tiến xa quá một hai trăm thước hai bên đường lộ.
Lần lần, ủy ban kháng chiến cũng lập ủy ban hành chánh xã, huyện, tỉnh ở thôn quê; và Nam bộ trở lại tình trạng non một thế kỉ trước, dưới triều Nguyễn, khi quân Pháp mới chiếm xong lục tỉnh: Các làng xóm ban ngày thuộc về “đàng tân”, ban đêm thuộc về “đàng cựu”; đàng tân bây giờ là các công chức theo Pháp, đàng cựu là quân kháng chiến; và cũng như thời xưa, một số đàng tân bây giờ ủng hộ ngầm đàng cựu.
Ở Bắc (trên vĩ tuyến 16)
Ngày 2-9-1945, chính phủ Việt Minh làm lễ tuyên bố độc lập thì đúng một tuần sau, quân của Lư Hán lục tục tới Hà Nội. Tất cả là 180.000 người thốc thếch, rách rưới, ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông đi bộ qua, một số dắt theo cả vợ con, không ra thể thống quân đội của nước hùng cường thứ năm trên thế giới. Mới tới, Lư Hán đã định hối suất một đồng bạc Trung Hoa ăn hai đồng Việt Nam, như vậy họ tha hồ mua bất kì món gì họ thích với một giá rất rẻ.
Họ tới với mục đích là để giải giới quân Nhật, mà thực sự là để vơ vét. Tội nghiệp cho dân Bắc, vừa mới qua nạn đói chết cả triệu người thì lại bị cái nạn cướp bóc của mấy trăm ngàn tên lính Trung Hoa Quốc Dân Đảng này.
Một người Việt Nam như Nguyễn Hải Thần trong Đồng Minh hội, Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân đảng, theo Lư Hán qua; nhưng Tưởng Giới Thạch không có ý thực tâm ủng hộ họ, và Lư Hán chỉ muốn dùng họ để gây khó cho Việt Minh mà thủ lợi riêng. Việt Minh lúc đó thật bối rối, phải đương đầu với cả Trung Hoa lẫn Pháp, mềm dẻo với cả hai. Họ vội vàng tổ chức bầu cử Quốc hội ngày 6-1-1946, giải tán đảng Cộng sản, mỏ rộng nội các.
Mĩ có chút cảm tình với chính phủ. Nga không ủng hộ gì cả. Còn Trung Hoa thì theo Bernard Fall trong cuốn Les deux Việt Nam (Payot-1967), ngay từ 1944, khi tổng thống Mĩ Rosevelt muốn tặng cả Đông Dương cho Tưởng, Tưởng biết là khó nuốt nên từ chối. Pháp hiểu vậy nên điều đình với Tưởng, nhường chút quyền lợi cho Tưởng (khúc đường xe lửa từ Lào Cai đi Vân Nam, trả lại Quảng Châu Loan, cho được tự do ra vô cảng Hải Phòng) và đáp lại, Tưởng thừa nhận Pháp có chủ quyền ở Đông Dương.
Chính ông Hồ Chí Minh cũng thích Pháp hơn, tuyên bố với kí giả Pháp P.M. Dessinges của tờ Résistance“Chúng tôi phục nước Pháp và dân tộc Pháp lắm và không muốn cắt đứt những dây cột chặt hai dân tộc chúng ta... Chúng ta phải khéo thu xếp với nhau. Nhưng xin ông nhớ cho rằng chúng tôi quyết tâm chiến đấu tới cùng, nếu người ta bắt chúng tôi phải chiến đấu…” (Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952 - Philippe Devillers - Editions du Seuil - 1952).
Ủy viên chính trị của Pháp ở Bắc là Sainteny và tướng Leclerc lúc đó đã ra Bắc, cũng muốn thương thuyết với ông Hồ Chí Minh hơn là với Nguyễn Hải Thần hay Bảo Đại. Nhờ vậy mà có Hiệp ước 6-3-46 kí giữa Sainteny và Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh. Hiệp ước đó nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (libre) ở trong Liên hiệp Đông Dương và Liên hiệp Pháp, có chính quyền, quân đội, tài chính riêng. Sẽ có một cuộc trưng cầu dân ý để xem Nam bộ sẽ sát nhập vào quốc gia mới đó không.
Hai bên (tướng Salan và tướng Võ Nguyên Giáp) kí thêm mấy ước khoản nữa: Quân đội Việt được Pháp huấn luyện và giúp khí giới; sau 5 năm, quân đội Pháp sẽ rút hết.
Ông Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Tôi muốn nhiều hơn vậy... nhưng tôi cũng hiểu rằng không thể trong một ngày mà có được tất cả”.
Ngày 18 tháng 3, Leclerc đem quân vô Hà Nội, cùng với Sainteny lại thăm ngay ông Hồ Chí Minh. Hai bên rất vui vẻ.
D’ARGENLIEU PHÁ HIỆP ƯỚC 6-3-46 - NAM KÌ QUỐC - HỘI NGHỊ ĐÀ LẠT
Nhưng trong khi đó thì D'Argenlieu, cao ủy ở Sài Gòn hủy ngầm hiệp ước đó. D'Argenlieu rất trung thành với De Gaulle, mà De Gaulle muốn nắm chặt các thuộc địa cũ để cho Pháp còn có vẻ một cường quốc. Lại thêm bọn thực dân Pháp ở Nam bộ tham lam không muốn nhả quyền lợi ra, xúi D'Argenlieu phá đám.
Ngày 17-4-46 hai bên Pháp Việt mở một hội nghị ở Đà Lạt chuẩn bị cho hội nghị quan trọng hơn ở Paris. Ngay từ buổi họp đầu tiên, đại biểu Việt Nam đòi bàn về vấn đề Nam Bộ. Đại biểu Pháp đáp rằng không có chỉ thị của cấp trên nên không bàn tới. Sự thực là D'Argenlieu đã có chủ trương tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam rồi.
Ngày 1-6-1946, khi chiếc phi cơ đưa Hồ Chí Minh sang Pháp, bay ngang qua không phận Damas, thì ông Hồ Chí Minh bắt được tin nước Cộng hòa Nam Kì tự trị đã được thành lập ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh làm thủ tướng, các bộ trưởng hầu hết có quốc tịch Pháp.
Vậy là trước khi họp hội nghị Fontainebleau, D'Argenlieu đã vi phạm một điều khoản trong hiệp ước ngày 6 tháng 3.
Bọn Thinh dùng tay sai gây phong trào đả đảo Bắc Kì; nhiều người Bắc ở Sài Gòn bị hành hung, dân chúng cả Bắc lẫn Nam phẫn uất; tướng Nguyễn Bình phản ứng mạnh, khủng bố dữ bọn Việt gian, không khí Sài Gòn nghẹt thở.
Ông Hồ Chí Minh bực mình về hành động của D'Argenlieu, nhưng hi vọng rằng ở Paris, sẽ được đảng Cộng sản, đảng Xã hội, nhiều chính khách trong các đảng khác nữa giúp đỡ. Không ngờ tới Pháp thì nội các Pháp đương bị một cuộc khủng hoảng. Ông cùng phái đoàn phải ghé Biarritz, đợi xong cuộc khủng hoảng rồi mới lên Paris.
Rủi cho Việt Nam, nội các mới (thành lập ngày 24-6) gồm 3 thành phần: Cộng sản, Xã hội và Phong trào Cộng hòa nhân dân (M.R.P). Một lãnh tụ của phong trào Cộng hòa nhân dân, Georges Bidault, làm thủ tướng, mà Bidault rất có ác cảm với ông Hồ Chí Minh, suốt trong chiến tranh Việt Pháp, lúc làm thủ tướng, lúc làm bộ trưởng ngoại vụ, nhất định không chịu thương thuyết với ông Hồ Chí Minh, và những người Pháp hiểu dân tộc Việt Nam như Jean Lacouture, P. Mus, Philippe Devillers cho rằng Bidault với D'Argenlieu là những người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc làm hỏng cuộc hòa giải Việt Pháp, kéo dài cuộc chiến tai hại cho cả hai dân tộc, để rốt cuộc đưa tới sự thất bại tủi nhục của Pháp ở Điện Biên Phủ sau này.
HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU THẤT BẠI
Hội nghị Fontainebleau họp ngày 6-7. Phía Pháp không có một đại biểu nào vào hàng bộ trưởng. Phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng cầm đầu. Ngay từ buổi đầu, ai cũng thấy ngay rằng chính quyền Pháp chỉ coi Việt Nam như một nước lệ thuộc ở trong Liên hiệp Đông Dương, thuộc quyền cao ủy Pháp ở Sài Gòn. Pháp không muốn bàn thêm gì cả mà chỉ muốn rút lại những nhượng bộ trong Hiệp ước 6-3.
Lại thêm trong khi ở Paris có hội nghị thì ở Việt Nam D'Argenlieu đem quân chiếm các tỉnh Pleiku, Kontum; rồi lại họp một hội nghị Đà Lạt nữa, mời đại biểu của tất cả các chính quyền Đông Dương, trừ chính quyền Việt Minh.
Dĩ nhiên hội nghị Fontainebleau thất bại. Sau cùng, để khỏi về tay không, gần nửa đêm 14-9, ông Hồ Chí Minh lại tư dinh bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet, trong đảng Xã hội Pháp mà ông quen biết từ ba chục năm trước, để kí với Moutet một thỏa hiệp ước (modus vivendi) “định cách thức giao trả một số công sở cho chính phủ Hồ Chí Minh, chính phủ này chịu nhận ở lại trong Liên hiệp Pháp (lời Marius Moutet); “các cuộc thương thuyết sẽ tiếp tục càng sớm càng tốt, trễ nhất vào tháng giêng năm 1947”; trong khi đó “cả hai chính phủ quyết định chấm dứt những hành động thù nghịch, cùng các bạo động ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ”.
HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC – VỤ HẢI PHÒNG
Ông Hồ Chí Minh về đường biển, ngày 20 tháng 10 mới tới Hải Phòng. Dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Ông vẫn muốn mềm mỏng, kiên nhẫn với D'Argenlieu, hi vọng hòa giải được; nhưng hình như trong nội bộ có một phe “cực tả” tin chắc rằng thế nào cũng phải có cuộc sống mái với Pháp và phải tăng cường ngay võ bị. Việt Nam Quốc Dân đảng trách ông nhu nhược.
Quân Pháp đã đổ bộ lên Bắc Việt rồi được tăng viện, lần lần chiếm các công sở, mở rộng khu vực đóng quân... Họ lại lấn quyền kiểm soát quan thuế, tự ý đặt những cơ quan liên bang mà chẳng hỏi ý kiến mình. Tới cuối năm 1946, sức họ mạnh rồi, thế nào họ cũng sẽ dùng võ lực để giải quyết mọi vấn đề. Mà phía mình, tướng Võ Nguyên Giáp cũng thấy nếu để chậm trễ thì sẽ tới một lúc không sao đuổi được quân Pháp đi, đành để chúng cột tay cột chân mình thôi.
Ngày 20 tháng 11 xảy ra vụ Hải Phòng. Một chiếc thuyền Trung Hoa chở khí giới, xăng nhớt vô hải cảng, bị một chiếc tàu tuần Pháp bắn; quân đội Việt Nam can thiệp. Hai bên bắn qua bắn lại. Ủy ban hỗn hợp Pháp-Việt bắt ngưng bắn để hai chính phủ thảo luận với nhau về vấn đề quan thuế, ngoại thương. Tướng Valluy ương ngạnh không chịu, đòi quân đội ViệtNam phải rút hết ra khỏi Hải Phòng, mình không chịu. Thế là một chiếc tuần dương hạm Pháp bắn tưới vào một khu người Việt, cháy rụi hết các nhà 1á. “Ít nhất có sáu ngàn người chết” (Paul Mus trong Việt Nam, sociologie d'une guerre).
Toàn dân phẫn uất, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không tuyệt vọng, ngày 15-12 đánh một điện tín cho Léon Blum, lãnh tụ đảng Xã hội Pháp, lúc đó làm thủ tướng, khẩn khoản yêu cầu làm cách nào cho tình hình bớt căng. Điện tín đó phải do Sài Gòn kiểm duyệt rồi mới chuyển đi. Sài Gòn trì hoãn không chuyển ngay, mãi tới ngày 26-12 mới tới Paris. Mà đêm 19-12 đã xảy ra chiến tranh ở Hà Nội rồi.
ĐÊM 19-12-46
Vụ tấn công thình lình đêm 19-12, Võ Nguyên Giáp đã chuẩn bị trước, chẳng may một tên Pháp lai, Fernand Petit, làm phản gián cho Pháp, len lỏi vào đoàn Tự vệ của mình, biết trước, 18 giờ lại báo cho Pháp hay nội đêm đó quân mình sẽ ra tay. Nhờ vậy quân Pháp kịp thời đối phó. Đúng 20 giờ điện tắt trong khắp thành phố. Quân tự vệ tiến vào khu Pháp ở, giết khoảng 40 người Pháp và bắt cóc khoảng 200 người khác. Dân Pháp đã được báo trước, nên chống cự lại dữ dội, không vậy thì còn chết nhiều hơn nữa. Tướng Morlière phản ứng lại liền, giải vây được cho nhiều nhà, nhiều khu. Hai bên chiến đấu suốt đêm. Sáng hôm sau, nhiều nơi trong thành phố có vẻ hoang tàn: nhà cháy, thây người, vật chướng ngại, cây đổ.... ngổn ngang khắp nơi. Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục. Mãi chiều, quân Pháp mới tiến tới khu dinh thự của chính quyền mình. Các nhà lãnh đạo của mình đã rút ra khỏi Hà Nội, vô Hà Đông rồi. Tối hôm đó Pháp kiểm soát được gần trọn khu trung ương thành phố.
Nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục một hai tháng nữa. Tại khu Việt và Hoa, quân Tự vệ đục tường nhà nọ thông sang nhà kia để chiến đấu rồi rút lui. Ngõ Phất Lộc của chúng tôi và mấy phố chung quanh: hàng Mắm, hàng Muối, hàng Mã Mây chống cự được khá lâu nhờ có nhiều ngóc ngách. Quân Pháp phải chiếm lại từng nhà một, khi chiếm xong thì thành phố chỉ còn là một cảnh hoang tàn, dân chúng đã di tản gần hết.
Ngay đêm 19-12, tướng Giáp đã ban lệnh tổng tấn công khắp mặt trận, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân chiến đấu bằng bất kì khí giới gì có trong tay. Các đồn Pháp ở Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh, Nam Định, Huế bị tấn công trước hết (2 giờ sáng ngày 20). Ngày 21 thì lệnh được thi hành khắp nước.
Như vậy là phe diều hâu của Pháp: Bidault, D'Argenlieu, Pignon... đã thắng phe bồ cầu: Sainteny, Leclerc...; và chiến tranh du kích dai dẳng, tàn khốc lan khắp cõi Việt Nam. Điều đó Leclerc ngại nhất vì nó sẽ làm cho sinh lực Pháp tiêu mòn.
Tin Pháp bị Việt tấn công gây xúc động lớn trong dư luận Pháp cũng như trong Quốc hội. Marius Moutet, bộ trưởng Hải ngoại, tuyên bố rằng ông sắp qua Đông Dương để rán lập lại những điều kiện của một chính sách hòa giải mà cả hai bên Pháp, Việt phải thi hành một cách chân thành.
Nhưng báo chí tỏ ra quá khích. Philippe Devilers trong sách đã dẫn bảo báo chí không biết rõ sự thực - vì suốt thời gian khủng hoảng không có một phóng viên báo Pháp hay báo ngoại quốc nào ở Bắc cả - và dân Pháp chỉ được biết những tin do bọn thực dân và diều hâu Sài Gòn tung ra thôi. Ngay báo của phe tả cũng không biết gì hơn. Và một số người Pháp hiểu rõ Việt Nam cho rằng báo chí Pháp cũng chịu một phần trách nhiệm trong cuộc chiến tranh đó.
Mới tới Sài Gòn, Moutet vẫn còn giữ ý kiến hòa giải. Ngày 1-1-1947, ông Hồ Chí Minh gởi lời chúc mừng năm mới chính phủ Pháp, dân tộc Pháp, và cả Marius Moutet mà ông mong được gặp gỡ ở Hà Nội. Ông lại gởi một thư riêng cho Moutet, đưa đề nghị ngưng chiến. Thư đó không tới tay Moutet. Về sau khi thăm thành phố Hà Nội tan hoang rồi, Moutet đổi ý, không muốn gặp Hồ Chí Minh nữa. Có sách nói ông ta được lệnh ở Paris không thương thuyết.
Thế là Hồ Chí Minh hết hi vọng ở đảng Xã hội Pháp và cả ở đảng Cộng sản nữa, vì có tin nói rằng đảng này cũng dè dặt chưa lên tiếng. Và chiến tranh phải tiếp tục non tám năm nữa.

[1] Thơ của Đới Thúc Luân đời Đường. Chữ thứ tư trong câu trên, sách in là: tân. (Goldfish).

Chương XVIII
TÔI QUA LONG XUYÊN

HUỲNH PHÚ SỔ BỊ THỦ TIÊU
Mùa xuân năm 1947 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ đồ bà ba đen và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về làm một tễ thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Liệp.
Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả miền quê hương thầy Tư Hòa Hảo từ phía trên Chợ Mới xuống tới phía dưới Mĩ Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hòa Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì có tin thầy Tư bị thủ tiêu trong buổi họp đêm 16-4-47 ở địa phận làng Tân Phú, cách nhà bác tôi độ vài cây số. Huỳnh Phú Sổ quá tín, chỉ dắt theo bốn vệ sĩ nên bị hại. Tôi đã hỏi vài người bạn trong nhóm đồ đệ thân tín của thầy, họ bảo tất cả tín đồ đều tin rằng thầy khỏng thể chết được, thầy chỉ tạm lánh mặt trong một thời gian thôi rồi sẽ trở về. Họ dẫn vài câu thơ của thầy nói trước về vụ đó nữa. Tới nay họ vẫn còn nói như vậy. Họ cố bám vào một hi vọng hão huyền chăng?
Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại Long Xuyên vài tháng cho yên vụ đó đã, không dè tới trên sáu năm.
TÌNH HÌNH LONG XUYÊN
Những người ở thị xã Long Xuyên đã hồi cư về gần đủ, lại thêm có người ở nơi khác tản cư về đây, cho nên thị xã có vẻ phồn thịnh hơn trước. Một vài cơ quan chưa xây cất lại, nhưng nhà thường dân thì đã sửa sang. Đường phố đông đúc, nhất là ở bến tàu và chợ. Chưa có xe đò chạy Sài Gòn, vì đường chưa được yên, nhưng có tàu thủy, mỗi tuần vài chuyến, chuyến nào cũng đông hành khách và chở nhiều hàng hóa. Đặc biệt nhất là chợ có nhiều sạp vải, sạp nào cũng đắt hàng vì trong sáu, bảy năm chiến tranh dân thiếu vải nhất. Sữa, đường cũng nhiều. Mới chỉ có một tiệm thuốc Tây, nhưng thuốc Bắc thì có tới bốn năm tiệm.
Ít thấy Tây đi ở ngoài đường. Hầu hết các sở làm đều do người Việt điều khiển. Công chức đàn ông mặc đồ tây đi làm, còn đàn bà - ngay cả các cô giáo - cũng còn bận bà ba tới sở, tới trường. Không khí tương đối yên ổn. Lâu lâu mới có một lựu đạn nổ, phần nhiều là ở bên chợ vào ban đêm. Tối, nhà nào cũng đóng cửa sớm.
Xét chung, thì công chức hồi cư trở lại làm việc có vẻ hơi ngượng khi gặp những người như tôi bận bà ba, lết đôi guốc trên lề đường. Họ cũng rất muốn nước nhà độc lập, cũng muốn người Pháp về hết, nhưng chiến tranh kéo dài quá, họ không thể sống cực khổ trong đồng, trong bưng được, nên phải hồi cư. Về rồi, họ được truy lãnh những tháng lương từ khi họ tản cư, lại được làm việc với ông chủ Việt, đời sống như vậy rất dễ chịu, mà công việc lại chẳng có gì. Hầu hết nhà nào cũng có người thân còn đi kháng chiến, có người còn hoạt động kín trong châu thành nữa.
Ngay trong nhà tôi ở, cũng có hai thanh niên đều là cháu mà như con nuôi của cô Liệp theo kháng chiến, một đi bộ đội, một nằm vùng ở châu thành. Lại thêm một cháu xa làm liên lạc viên, tới xin ở nhờ. Một nữ sinh cũ cũng nằm vùng, lâu lâu tới cho tin tức hoặc quyên tiền.
Tôi đoán các nhà láng giềng nếu không biết rõ như vậy thì cũng nghi ngờ. Công an tỉnh cũng có thể biết nữa nhưng không làm gì lộ liễu quá thì họ để yên. Còn các công chức Việt quan trọng, chủ một sở chẳng hạn, thì nhắm mắt cho nhân viên giúp đỡ kháng chiến, miễn đừng để lụy cho họ thì thôi. Những nhân viên đó là cháu họ, con của bạn bè họ, hoặc hàng xóm của họ, mặt mũi nào mà tố cáo; vả lại tố cáo chỉ gây vạ cho bản thân họ thôi. Có thể nói, chỉ trừ một số rất ít Việt gian, còn tối đại đa số người Nam đều có cảm tình với kháng chiến, một số lớn còn giúp đỡ nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp cho kháng chiến nữa. Cho nên năm 1975, sau ngày 30-4, tôi nói với các bà con và bạn bè ở Hà Nội vào: “Đừng nghĩ lầm rằng đa số người Nam là ngụy! Ngược lại, chỉ có một số rất ít ngụy thì họ đã trốn đi ngoại quốc gần hết rồi; còn lại toàn là những người yêu nước, ghét Pháp, ghét Mĩ. Nếu lực lượng kháng chiến không được dân chúng ở đây ủng hộ thì không làm sao thành công, không sao sống được. Ngoài đó, các anh bảo bộ đội sống trong dân chúng như cá trong nước, như vậy là nhận rằng dân trong này đã nuôi nấng, che chở bộ đội. Nay bảo dân trong này là ngụy thì có phải là mâu thuẫn, vong ân không? Không một gia đình nào trong này không có anh em, con cháu theo kháng chiến, hoặc ủng hộ kháng chiến”.
Ở Long Xuyên, tôi gặp ba người bạn cũ. Anh Hách, người cũng vào Sài Gòn với tôi để nhận việc ở sở Thủy lợi như tôi, anh cũng thôi việc công chính, không trở lại sở cũ, có một cái sạp bán vải ở chợ Long Xuyên. Người thứ nhì là một thầy họa đồ, trước giúp việc tôi ở sở Thủy lợi, tản cư về Lấp Vò rồi qua Long Xuyên mở một quán cóc bán tạp hóa, cũng bỏ luôn nghề cũ. Người thứ ba là ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã gặp ở Mĩ Tho trên đường tản cư về Tân Thạnh. Ông lúc này làm chủ quận châu thành Long Xuyên. Thời Nhật, ông làm thư kí riêng của Toàn quyền Decoux; nhờ thông minh, lanh lợi, thạo việc, biết nhiều nhân vật ở Nam, giải quyết việc gì cũng mau mà lại liêm khiết, nên chính quyền nào cũng dùng ông. Tính giản dị, bình dân.
Tôi lại biết thêm được vài ông nữa: ông Paulus Hiếu chủ sở Kho bạc, ông Nguyễn Văn Hiếu chủ sở Địa chánh, một bác sĩ, một dược sĩ chủ nhà thuốc Tây, một điền chủ có Tú tài Pháp, một ông có cử nhân luật, tên là Kính, bạn cột chèo của anh Hách. Giới trí thức ở Long Xuyên đại khái có bấy nhiêu người.
TÔI DẠY TƯ TẠI NHÀ
Mới đầu tôi có ý định làm thử nghề Đông y, bắt mạch ra toa cho mấy người quen, làm vài tễ thuốc. Nhưng sau tôi thấy nghề đó khó sống nên thôi.
Mà muốn làm thầy lang thì phải có chân trong hội Đông y sĩ, phải làm đơn xin hành nghề “médicastre” nghĩa là nghề “lang băm”, gởi cho chủ tỉnh. Việc đó tôi cũng không thể làm được.
Lí do nữa: tôi tự xét chưa đủ kinh nghiệm làm một thầy lang kha khá.
Một hôm, ông Thơ thấy tôi ở không và không muốn trở về nghề công chánh, nhờ tôi kèm Pháp văn và Toán cho một đứa con trai của ông học lớp Nhất. Sau ông giới thiệu thêm một đứa cháu nữa. Từ đó hai ba ông Trưởng ti nữa dắt con lại nhờ dạy; từ hai trò lần lần đến tám trò, mỗi ngày dạy hai giờ, mỗi tháng được khoảng 1.000 đồng.
Vì ít học sinh nên tôi dạy kĩ, tùy theo tư chất của mỗi trẻ, nếu thông minh thì tôi thúc, bắt học nhiều, kém thông minh thì chỉ bắt buộc nhớ những điều cần thiết thôi. Cha mẹ học sinh thấy tôi siêng mà dạy rõ ràng, trẻ dễ hiểu, mau tấn tới nên càng tín cậy. Chỉ trong ba tháng tôi luyện Pháp văn và Toán cho hai đứa thi vào trường Trung học Cần Thơ, cả hai đều đậu.
Tôi nổi tiếng dạy giỏi và đầu niên học sau số học sinh xin học rất đông, tôi chỉ nhận hai chục em thôi, và mở thêm một lớp buổi chiều riêng cho chúng.
Tuổi trung bình của chúng là 14, 15. Đa số siêng, nhất là con gái; con trai ít cẩn thận. Cứ khoảng mười đứa có một đứa thông minh, sau có thể lên đại học được. Mà những đứa đó thường ở trong những gia đình trung lưu, cha làm thầy giáo, thầy kí. Em nào cũng lễ phép, dễ bảo, hồn nhiên, dễ thương.
Một hôm ông Thơ bảo đi ngang qua chợ, thấy một người chừng 30 tuổi bận đồ tây rách, ngồi ở lề đường, trước mặt để một miếng bìa với mấy hàng chữ tự xưng là con một đốc phủ sứ vì gia đình sa sút, nên xin những người hảo tâm giúp cho một vài đồng. Rồi ông tâm sự với tôi: “Tôi ngại làm cái nghề của tôi thất đức - lúc đó ông cũng là Đốc phủ sứ rồi. Con tôi, tôi chưa thấy đứa nào học được”.
Tuy ông làm chủ quận, sau làm tỉnh trưởng Long Xuyên mà đứa con ông học tôi, phải đi bộ, có hôm đi chân không, vừa đi vừa cạp một trái bắp nấu. Về điểm đó, tôi khen ông. Con trai tôi ở Sài Gòn, hồi đó, nghỉ hè về ở với tôi, tôi cũng cho sống như vậy.
HỌC HÀM THỤ
Có dư tiền tôi gởi mua sách ở Pháp: vài cuốn dạy tiếng Anh, bộ đĩa Linguaphone, một số sách Anh, Pháp về Culture humaine, và khá nhiều sách về văn học, giáo dục, tâm lý, khoa học, xã hội học… Sau mấy năm thiếu sách, lúc này tôi gặp sách nào cũng muốn mua. Tôi lựa những cuốn sách giới thiệu trong hai cuốn: Quels livres faut-il avoir lus? của A. Souché,La Bibliothèque de l’Honnêtre homme của một nhóm học giả ở Bỉ…
Mới đầu đọc lung tung rồi sau thấy vấn đề nào thích thì tôi mua thêm. Lần lần tôi hướng về giáo dục, về ngữ học, lịch sử văn học Trung Hoa, tiểu sử danh nhân, loại tự luyện đức trí (Culture humaine) môn tổ chức.
Nhân đọc một cuốn sách Pháp, tôi được biết năm 1926 người ta lập ở Paris một Uỷ hộiquốc tế để nghiên cứu sự tổ chức công việc theo khoa học. Mỗi nước lập một Uỷ hội quốc gia nữa. Ở Pháp, Uỷ hội đó là Comité national de l’Organisation Française. Hội mở một trường dạy môn tổ chức công việc, lấy tên là École d’Organisation scientifique du travail, có lớp hàm thụ cho những người ở xa Paris.
Học phí khá cao. Tôi rủ anh Hách hùn tiền ghi tên học. Tôi yêu cầu trường gởi một lần hết các bài giảng và bài tập cho tôi. Mục đích của chúng tôi là học cho biết chứ không cần được bằng cấp của trường, vì muốn được bằng thì phải làm một luận án (mémoire) và qua Paris tự biện hộ (défendre: có người dịch là bảo vệ) cho chủ trương của mình trước mặt các giám khảo của trường. Như vậy bằng cấp được chính phủ Pháp công nhận, rất có giá trị.
Tôi học môn đó rất kĩ, mỗi bài dài chừng mươi, mười lăm trang lớn (khổ 21x31) chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một tập vở riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về hai ba đề tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp, có nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết khoá. Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi, vì có bài muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được.
Tôi lại gởi mua những sách mà trường giới thiệu để nghiên cứu thêm.
Năm 1948 gia đình bác tôi ở Tân Thạnh tản cư qua Long Xuyên, ở nhờ nhà một người quen bên chợ. Như một chương trên tôi đã nói, quân đội Pháp đã rút đi từ 1946, bỏ các đồn ở Tân Thạnh và Tân Phú. Nhưng Ủy ban nhân dân miền Nam, theo đúng chiến lược tiêu thổ kháng chiến, ra lệnh cho dân chúng phải dỡ nhà, rút sâu vào trong đồng, nhà nào không dỡ được thì phải phá hủy. Thế là bao nhiêu nhà gạch của các điền chủ lớn bị san phẳng hết. Bác tôi phải dỡ nhà, vào trong đồng cất tạm một cái chòi để ở. Vì loạn lạc, ruộng chỉ làm được ít công; vì tuổi già, không chịu được mọi sự thiếu thốn ở trong, bác tôi xin Ủy ban nhân dân xã cho qua Long Xuyên làm thuốc. Vì ở Long Xuyên có nhiều người biết tiếng từ lâu, nên “thân chủ” - bệnh nhân - tới mỗi ngày cũng được trung bình ba người. Trước kia chỉ trị bệnh làm phúc, nay đành phải nhận tiền coi mạch, nhưng để tùy ý ai đưa bao nhiêu thì đưa. Như vậy gia đình gồm bốn người, sống tằn tiện thì cũng đủ.
Cũng vào khoảng đó hay năm sau, nhà tôi thôi không làm ở tiệm may đường Sabourain nữa mà dạy học giúp cho một cô bạn có một trường tư nhỏ ở khu Bàn Cờ. Chỗ ở rất chật, phải kê bàn học sát nhau để nằm. Cháu đã vào trường Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quí Đôn), nhà tôi vừa dạy học vừa kèm cho nó.
Năm 1949 một viên kĩ sư người Việt đồng sự với tôi ở sở Thủy lợi trước kia, bấy giờ coi cả khu Công chánh miền Tây gồm 5, 6 tỉnh, ba lần mời tôi trở lại sở Công chánh, tôi đều từ chối.
DẠY TẠI TRƯỜNG THOẠI NGỌC HẦU
Tháng 11 năm sau, ông Thơ đã làm tỉnh trưởng Long Xuyên, và đã mở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu ở thị xã, hai lần khẩn khoản mời tôi dạy thay ông Kính phải trở về bộ Tư pháp. Giữa niên học, không dễ gì kiếm được người thay, nên tôi vì tình bạn với cả hai ông ấy, nhận lời giúp với điều kiện là cuối niên khóa nếu tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi[1].
Tôi dạy Pháp văn, Việt văn, Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở nhiều lớp từ năm thứ Tư xuống tới năm thứ N (bây giờ tương đương với 9, lớp 7). Tôi soạn bài kĩ, giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài tập, công bằng, thẳng thắn, dù con bạn thân mà làm biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng nặng lời. Mới đầu có vài phụ huynh phàn nàn với ông tỉnh trưởng Thơ về điều đó, ông Thơ không nói gì với tôi cả, nhưng rồi cũng tới tai tôi, tôi nổi giận, một hôm ở giữa lớp học, tôi bảo các học sinh:
“Các cháu về nói với ba má các cháu rằng tôi không hề xin vô làm giáo sư trường này đâu. Ông tỉnh tưởng khẩn khoản nhờ tôi hai ba lần tôi mới nhận lời dạy giúp với điều kiện là lúc nào tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi. Tôi quen sống thanh bạch rồi, ăn cơm rau quen rồi, không cần bơ sữa như kẻ khác đâu. Trò nào không muốn học tôi thì cứ đi ra khỏi lớp”.
Tôi ghét bọn con nhà giàu, sang mà làm biếng; rất yêu những thanh niên nghèo mà thông minh, siêng học. Tôi thường giúp đỡ hạng sau, hoặc cho tiền, cho sách; nghỉ hè tôi lại nhà họ chơi, dắt họ đi chơi.
Nhưng tôi có tật nóng tính, hễ giận thì la lớn nên học sinh sợ tôi, kính tôi chứ ít mến tôi. Năm nào tôi cũng đề nghị với hiệu trưởng cho mỗi lớp năm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có lẽ vì không muốn làm mất lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy trái với qui tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không hiểu thì đã mất thì giờ mà lại chán. Nhưng đa số phụ huynh học sinh hồi đó không cần con thi đậu, chỉ cần trong học bạ được ghi là học tới năm thứ Tư thôi; cho nên mỗi lớp năm Thứ tư Cao đẳng tiểu học Pháp Việt (chương trình Hoàng Xuân Hãn gọi là lớp Tứ niên, chương trình thời ông Diệm gọi là Đệ Tứ, cuối năm này học sinh thi lấy bằng Thành chung, sau gọi là bằng Trung học đệ nhất cấp, học hai năm nữa thi Tú Tài I) có đến bốn năm học sinh không viết được câu đúng văn phạm Pháp.
Tôi cho rằng trong nghề dạy học, tư cách ông thầy quan trọng nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời giảng phải sáng sủa, có mạch lạc, muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài phải kĩ.
Khi tôi rời Long Xuyên, tôi chắc có nhiều người không ưa tôi, nhưng không ai không trọng tư cách của tôi; và bây giờ các học sinh cũ của tôi - nhiều người theo kháng chiến, rồi làm cán bộ ở tỉnh - đối với tôi vẫn lễ phép, xưng con với tôi như hồi còn đi học, gặp tôi thường nhắc lại những câu tôi khuyên hồi còn ở trường.
Một người bảo đã lấy lời khuyên này của tôi làm chăm ngôn: “Về vật chất nên sống dưới mức trung, về bản tính thần nên trên mực trung”.
Một người khác bảo nhờ tôi khuyên “Bất cứ việc gì ở đời, làm hết sức mình đi rồi mặc cho hoá công định đoạt, đừng có tham vọng cướp quyền của hoá công”, mà vượt được nhiều nỗi khó khăn trong đời sống hàng ngày.
Bài giảng của tôi ngày nay chắc họ quên hết, nhưng những lời khuyên như trên, có thể nhiều người còn nhớ. Dạy ba năm ở Thoại Ngọc Hầu, mà non ba chục năm sau, bây giờ về Long Xuyên còn gặp được năm sáu trò cũ coi tôi như cha, có trò thân mật như người trong nhà; điều đó làm cho tuổi già của tôi được vui. Vợ sau của tôi dạy học ở Long Xuyên trên 35 năm, còn được nhiều cảm tình của học trò cũ hơn tôi. Mấy năm trước, cứ tới sinh nhật của nhà tôi, họ họp nhau chừng mươi người lại chúc thọ, đem thức ăn tới nấu nướng rồi già trẻ cùng ăn với nhau. Có vài người - đều là cô giáo - còn thân mật tới nỗi, ngày giỗ của bà nhạc tôi, cũng đến cúng như con cháu trong nhà vậy.
Cả vợ lẫn chồng được như vậy, tôi cho là một hạnh phúc lớn; từ xưa tới nay rất ít gia đình có được. Long Xuyên đúng là quê hương thứ hai của tôi, mà bây giờ tôi quyến luyến với nó hơn quê hương thứ nhất nhiều.
Trong giới phụ huynh học sinh ở Long Xuyên, tôi cũng được nhiều người kính nể. Một vị nói với một độc giả của tôi ở Phan thiết như sau: “Ông ấy - tức tôi - săn sóc sự học con em một cách công bằng, thận trọng, biết thích nghi với trẻ, đối với học sinh luôn luôn có thái độ ân cần, rộng rãi, hết lòng hướng dẫn chúng, sửa chữa chúng, giúp chúng thành những người biết tự trọng và trọng người”.
Lời khen đó, tôi không dám nhận hết.
NẾP SỐNG CỦA TÔI – CHỮ NHÀN VÀ ĐIỆU HÁT NÓI – CẢNH MIỀN TÂY
Trong những năm 1949-1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa học vừa dạy học lại vừa viết sách. Hễ miệng thôi giảng thì tay cầm cuốn sách lên, đặt cuốn sách xuống thì lại cầm cây bút lên. Hấp tấp tới trường rồi hấp tấp về nhà. Mỗi tuần tôi chỉ nghỉ buổi chiều chủ nhật để qua khu chợ (cách nhà tôi khoảng 1 cây số), thăm bác tôi và một hai người bạn. Có người thấy vậy chê tôi: “Đi chơi mà cũng phải có ngày giờ nữa”. Tôi đáp: “Hồi đi học, chúng ta làm gì cũng có giờ, thì bây giờ ra đời, tại sao lại không giữ được thói quen đó. Tôi muốn làm một thư sinh suốt đời mà”. Bây giờ bảy chục tuổi tôi vẫn còn là một thư sinh, vẫn làm việc đều đều có giờ như xưa, và tôi cho đời thư sinh của tôi ba chục năm nay hoàn toàn tự do và độc lập, phong lưu nữa, thú gấp trăm đời những chính khách được hằng vạn người hoan hô nhiệt liệt năm trước mà năm sau đã bị đả đảo cũng nhiệt liệt, may thì trốn thoát ra nước ngoài, không may thì bị băm vằm không toàn thây. Tôi không muốn lên voi xuống chó, chỉ muốn đều đều ở mực trung. Tôi không muốn được thiên hạ hoan nghênh, chỉ muốn được một số bạn thân hiểu tôi, được một số học sinh quí mến, và một số độc giả trung thành, không thất vọng về tôi.
Trong gia đình, tôi muốn vợ con hiền lương, con học được và thích đọc sách chứ không ham sang giàu. Nhà ở tôi không muốn sang trọng, lộng lẫy, ít đồ đạc thôi nhưng nhiều sách. Chỗ làm việc phải rộng rãi, sáng sủa và trông ra một khu vườn có lá có hoa. Hoa thì tôi muốn loại dễ trồng mà có hương thơm, có bóng mát để chim chóc, ong bướm tới. Tôi ngại nhất loài hoa bắt người ta phải hầu hạ như hải đường, phong lan. Quần áo tôi muốn giản dị, dễ thay dễ giặt. Đi đâu mà phải bỏ ra mười lăm, hai mươi phút để thay quần áo, thắt cà vạt, xỏ giầy, tôi thấy bực mình. Ở xứ nóng như nước mình, bận bộ bà ba là tiện nhất, ra đường khoác thêm chiếc áo dài thì càng nhã, không cũng không sao, rồi xỏ chân vào đôi dép cao su, trước sau không mất quá một phút. Như tôi đã nói ở chương V, chỗ ở thì tôi muốn nửa quê, nửa tỉnh; công việc thì tôi muốn nửa viết lách, nửa làm vườn.
Nhàn là mục đích lí tưởng của nhân loại ở thời đại nông nghiệp. Văn minh Trung Hoa đã đề cao sự nhàn, tạo được những triết nhân, nghệ sĩ biết hưởng nhàn, ca tụng cái nhàn như Đào Uyên Minh, Tô Đông Pha…
Tôi thích bài Qui khứ lai từ của Đào Tiềm:
….”…Thăm vườn dạo thú hôm mai,
….Cửa dù có, vẫn then cài như không.
….Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
….Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên.
….Mây đùn mấy đám tự nhiên,
….Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
….Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
….Quanh gốc tùng, tựa mát thảnh thơi.
….…
….Giàu sang đã chẳng thiết gì,
….Cung tiên chưa dễ hẹn gì lên chơi.
….Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
….Việc điền viên vất vả mà vui.
….Lên cao hát một tiếng dài,
….Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu…”.
……………………………(Từ Long dịch)
Tôi thích bài Tiền Xích Bích phú của Tô Đông Pha, nhất là đoạn cuối:
“... Tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất cũng chỉ ở trong một cái chớp mắt; tự ở nơi không biến đổi mà xem ra thì muôn vật cùng với ta đều không bao giờ hết cả... Vả lại ở trong trời đất, vật nào có chủ ấy, nếu không phải là của ta thì dẫu một li ta cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió mát ở trên sông cùng vầng trăng sáng ở trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta trông nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, đó là cái kho vô tận của tạo hóa mà là cái vui chung của bác với tôi”.
Trong văn học phương Tây tôi chưa gặp được bài nào vừa tao nhã vừa du dương như hai bài đó, nhưng phải đọc trong nguyên văn chữ Hán[2] mới thưởng được hết cái thú của nó.
Trong Việt văn, bài Hát nói Chữ nhàn của Bùi Kỉ có giọng ung dung, phơi phới nhất:
----”Đem hãn mặc[3] mài viên khối lỗi[4]
----Tìm yên hoa gỡ mối giang san,
----Dù ái ưu cũng có khi nhàn,
----Thì tiêu khiển trong cuộc rượu cung đàn chơi cũng nhã.
----Hãy gác vinh nhục thị phi cùng cổ kim nhân ngã,
----Đem hạo nhiên[5] mà hể hả với cầm tôn[6].
----Trộm cái “nhàn” trong túi kiền khôn,
----Dăm bảy vốc con con thôi cũng đủ.
----Thử tung ra cho nó: chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như mây, bay lững thững như trăng, thổi thênh thênh như gió.
----Rải rác ra ngoài bát hoang trong lục vũ[7] vẫn còn thừa.
----Cái nhàn đã lạ lùng chưa?
-----------------(Nam Phong số 123, tháng 11, 1927)
Thể Hát nói là một biến thể của thể song thất lục bát, hoàn toàn Việt Nam. Nó không ngắn, không dài, gồm mười một câu, hoặc thêm bốn câu Mưỡu nữa là mười lăm câu, theo tôi rất vừa vặn (thể Sonnet của Pháp cũng vậy, có 14 câu); nó có qui luật, nhưng không chặt chẽ, tương đối tự do, nên rất hợp để diễn những tư tưởng phóng khoáng, có thể hùng hồn, có thể nhàn nhã, hùng và nhàn là hai hình thức của phóng khoáng. Vì vậy tôi thích thể đó. Nó xuất hiện rất trễ, vào đời Nguyễn, chỉ thịnh được khoảng 60 năm rồi suy lần, tới nay gần như tắt hẳn. Thật đáng tiếc!
Tôi chưa bao giờ được hưởng cái thú “đập trống”, nhưng được nghe ca được ít bài hát nói từ hồi thanh niên và lần đầu tôi đã thích liền. Giọng ca, đệm tiếng đàn đáy thưa thớt như uể oải, có vẻ ung dung lạ lùng, kéo dài ra, có chỗ ngưng lại khá lâu, bắt mình lắng tai đợi câu tiếp; có chỗ dồn dập một chút, đúng là “chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như mây”, rồi lại ung dung tiếp tục.
Tôi nghĩ muốn thưởng thức hết cái thú của nhàn thì phải nghe điệu Hát nói, mà nghe trên một bờ liễu hoặc giữa một lòng rạch dưới ánh trăng, khi gió vi vu trên cành sao mà làng xóm bên bờ đã tắt đèn.
Có đào nương nào ca lên bài Chữ nhàn để tôi thâu băng, rồi những đêm khuya nằm trong chiếc võng dưới mái hiên, bên một dòng rạch nhỏ dưới vài gốc mận và xoài đương hoa, cho băng chạy nhè nhẹ đủ nghe thôi thì thú quá.
Bùi Kỉ đã vịnh chữ “Nhàn” rồi lại còn đề cao chữ “Lao”, “Hùng”. Tôi xin chép lại cả bài “Chữ Lao” dưới đây để ghi lại tâm trạng cụ:
----”Phàm vật hữu hình giai hữu hoại,
----Vỏ kiền khôn trút lại mấy từng tro.
----Tội gì mà lo tính quanh co,
----Thừa hơi sức để bày trò thân nhọc?
----Song đã là người, dù lớn nhỏ cũng linh kỳ chung dục[8].
----Chẳng có lẽ si si ngốc ngốc, chịu hồ đồ tranh trọc với cừ lư[9]
----Kìa thử xem kiến cõng mồi, chim nhặt rác, ong ủ mật, nhện xe tơ
----Vật còn thế, nỡ người ngu hơn vật?
----Nợ vũ trụ chồng chồng chất chất,
----Trốn làm sao, toan lẩn quất cho rồi.
----Đã xuất thân ngang dọc với đời,
----Quản chi nước mắt mồ hôi, bỏ cái tiếng nâng trời là hả.
----Nên chăng thì cưỡi gió đè mây, nắm nhật nguyệt vào trong chương bả[10].
----Chẳng nên thì vỡ bờ, sạt bến, cát dã tràng tơi tả tử tiếc gì công.
----Dẫu sao cũng nhất thế hùng!
--------------------- (Nam Phong số đã dẫn trên)
Tôi đã nhiều lần nói tới sự bận rộn của đời sống từ khi văn minh cơ giới thay văn minh nông nghiệp. Lần đầu trong bài Tựa cuốn Tố chức gia đình (P. Văn Tươi - 1953) về sự bận rộn của đời sống của con người.
“Văn minh cơ giới tặng cho mỗi người chúng ta 100 tên nô lệ (máy móc) mà chúng ta cực hơn cổ nhân vì chúng ta thành nô lệ của cơ giới, nhiều nhà bác học lo cho nhân loại sẽ bị diệt chủng vì cơ giới. Người ta tranh giành nhau tài nguyên, thị trường, dùng những khí giới mỗi ngày mỗi thêm khủng khiếp, tàn nhẫn để diệt nhau và bọn muỗi mắt như chúng ta sẽ bị hi sinh trước hết. Thật là văn minh, thì loài người không đề cao chữ “hùng”.
Tôi rất thích nhàn mà từ 1949 đến nay trên ba chục năm rồi, không năm nào được hưởng nhàn. Trong cuộc đời đã qua của tôi, nhớ lại chỉ có hai năm thật nhàn, thân nhàn mà tâm cũng nhàn, tức hai năm tôi lênh đênh trên những kinh rạch, tha hồ ngắm cảnh miền Tây: cảnh mặt trời mọc trên bờ biển Rạch Giá sau tấm màn lưa thưa của rặng bần mà có người ví với màn liễu – không đúng hẳn nhưng đẹp thì không kém; cảnh mặt trời đỏ như một mâm than hồng từ từ lận trên cánh đồng Sóc Trăng bát ngát; cảnh trăng cô liêu, lạnh lẽo, tĩnh mịch trên sông Cửu Long, hoặc nhảy múa trên những làn sóng ở rạch Bình Thủy; cảnh một đầm sen giữa Đồng Tháp Mười, chung quanh toàn là lau sậy; cảnh những rừng chàm đìu hiu ở miền U Minh, những rừng đước âm u ở Cà Mau. Rồi những vườn soài bông vàng phủ kín, hương hăng hắc mà mát, trái đong đưa trên cành, đi ngang qua tôi chỉ muốn đưa tay lên vuốt những má no tròn, mịn màng, ửng đỏ rủ xuống ở trên đầu tôi. Rồi những rặng bằng lăng dài hàng cây số, bông tựa như bích đào, cánh nhẹ hơn lụa lả tả bay trong gió và trôi theo dòng nước trong veo; những rặng dừa vừa yểu điệu vừa mạnh mẽ như thôn nữ miền Nam (Tây), tàu lá phe phẩy, lóng lánh dưới ánh vàng ban mai, thật lộng lẫy, tình tứ, “voluptueux” như Somerset Maugham nói. Buồng dừa nào cũng chi chít, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy mát và ngọt. Dừa đáng tượng trưng cho thiếu nữ đồng bằng Cửu Long. Còn thiếu nữa đồng bằng Nhị Hà có cây gì tượng trưng được không? Tôi không thấy. Vì vậy mà tôi yêu dừa. Nhưng dừa muốn thật đẹp thì phải ở bên một dòng nước, ở chỗ quang đãng đủ cho năm sáu cây phát triển, xoè tàn ra bốn bên, và thân cao khoảng 6-7 thước.
Câu “Trúc nên thưa, dừa nên cao” thật đúng, nó vươn được lên nền trời xanh mây trắng. Mọc chen chúc nhau như có lần tôi thấy ở Nha Trang thì nó làm sao phô hết duyên dáng được.
VIẾT SÁCH ĐỂ TỰ HỌC
Tôi đã lạc đề xa quá. Tôi nhắc lại: trong năm năm từ 1949 đến 1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa dạy học, vừa học, vừa viết sách, không có thì giờ để hưởng nhàn. Dạy học thì mỗi tuần 16 hay 18 giờ thôi, không bận gì mấy. Học mới tốn thì giờ hơn. Tôi học môn tổ chức, học tiếng Anh, lại học thêm về văn học Trung Hoa nữa, nhờ có mấy bộ văn học sử mua được. Ngoài ra còn học các lớp hàm thụ: Cours d'édition et de librairie; Cours de technique littéraire; Institute Pelman. Những bài hàm thụ đều giúp cho tôi tài liệu để sau viết sách:Nghề viết văn, Hương sắc trong vườn văn, nhiều cuốn loại Học làm người.
Như trong chương XIII tôi đã nói muốn học một ngoại ngữ thì phải dịch. Tôi muốn học thêmvề một môn nào thì nên viết về môn đó. Điều đó tôi đã trình bày trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại:
“Có người nói: khi chưa biết về một vấn đề nào thì người ta viết sách về vấn đề ấy”.
Nếu lời ấy là mỉa mai thì là mỉa mai một cách vô lí. Khi đọc bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim hoặc bộ Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, không ai tự hỏi hai học giả ấy trước khi viết sách đã biết rõ về đạo Khổng hoặc triều Lí chưa? Điều chúng ta đòi hỏi ở tác giả là tài liệu phải chính xác, lí luận phải vững vàng, văn phải sáng sủa và tươi nhã; còn tác giả phải học thêm nhiều trong khi soạn sách không thì ta không cần biết tới.
Vì có học giả nào không vừa học vừa viết? Trần Trọng Kim đâu phải là một nhà cựu học, Hoàng Xuân Hãn đâu có bằng thạc sĩ về sử học? Và trước khi soạn hai bộ ấy, họ Trần và họ Hoàng có lẽ cũng không biết gì nhiều về Khổng tử hoặc Lý Thường Kiệt hơn bạn và tôi, vậy mà tác phẩm của hai nhà ấy vẫn rất có giá trị.
Tôi muốn đổi câu dẫn trên ra như sau cho nó chứa một lời khuyên chí lí và nghiêm trang:
“KHI MUỐN HỌC VỀ MỘT VẤN ĐỀ NÀO THÌ CỨ VIẾT SÁCH VỀ VẤN ĐỀ ẤY”.
Chúng ta ai cũng có tính làm biếng, học cái gì cũng chỉ mới biết qua loa mà đã cho là mãn nguyện, không chịu suy nghĩ kĩ, tìm tòi thêm.
Nhưng khi viết sách, ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy có nhiều chỗ tư tưởng của ta còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bc. Càng được nhiều sách thì càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau, và ta lại phải xem xét đâu là phải, đâu là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn đề, nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ.
Cho nên muốn học một cách kĩ lưỡng không gì bằng viết sách về điều mình học. Viết sách là tự ra bài cho mình làm.
Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.
Song tôi xin dặn bạn: khi viết nên nhớ mục đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn và sự học của ta cũng sẽ hoá ra nông nổi”.
Một anh bạn thân của tôi, học giả Lê Ngọc Trụ (mất năm 1979, nhà ngôn ngữ học có công nhất với chính tả Việt ngữ, tác giả cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị, ngay khi cuốn Tự học của tôi vừa mới phát hành, một hôm gặp tôi ở Thư viện đường Gia Long, bảo tôi: “Lời anh nói rất đúng: chính tôi viết về chính tả Việt ngữ là để tự học đấy”.
Tôi nắm chặt tay anh, cười: “Anh em mình giống nhau quá. Tôi viết cuốn Tổ chức công việctheo khoa học cũng để tự học”.
LOẠI TỔ CHỨC CÔNG VIỆC
Học xong mỗi bài của trường Tổ chức công việc theo khoa học ở Paris gởi cho, tôi tóm tắt đại ý trong một tập vở rồi tôi lại đọc thêm những sách gởi mua từ Pháp về môn đó để bổ túc những bài học ấy, cũng ghi chép những ý chính. Được một hai tập 100 trang vở học trò.
Tôi sắp đặt lại hết những điều ghi chép ấy, chia thành chương, lập một bố cục, viết một cuốn về môn Tổ chức, chủ ý để hiểu rõ môn học và khi coi lại, đỡ mất thì giờ tìm trong một xấp dày tài liệu, bài giảng của trường và trong non một chục cuốn sách khác nữa.
Tôi viết kĩ lưỡng, sáng sủa, mạch lạc. Viết xong tôi thấy tập đó có ích cho giới trí thức Việt Nam vì rất ít người biết về môn tổ chức. Đọc nó đủ biết được những nguyên tắc quan trọng cùng cách thực hành; nó luyện cho ta được tinh thần khoa học, giúp ta làm việc mau hơn, có hiệu quả hơn mà đỡ tốn thì giờ, đỡ mệt sức. Mà nó lại dễ đọc hơn, dễ hiểu hơn sách Pháp. Nghĩ vậy tôi đem cho ông Paulus Hiếu, chủ sở Kho bạc Long Xuyên đọc. Ông thích nó, đề nghị với tôi để ông xuất bản giúp; ông sẽ bỏ tiền ra tìm nhà in ở Sài Gòn, in xong ông sẽ gởi cho một số tiệm sách ở Sài Gòn và Hà Nội, ông sẽ thu tiền, tóm lại là mọi công việc ông đảm đương hết, có lời sẽ chia hai. Ông thật là một người tốt, yêu văn hóa, nhờ ông mà tôi chính thức bước vào làng văn, công đó tôi không quên.
Cuốn đó in có 2.000 bản, phí tổn khá nặng vì phải làm nhiều Cliché (bản kẽm), ra mắt độc giả cuối năm 1949, hai năm sau bán hết, nhưng không lời bao nhiêu.
Đó là cuốn đầu tiên tôi ra mắt độc giả. May mắn nó được hoan nghênh liền. Một nhà giáo ở Long Xuyên bảo tôi: “Tôi mong có một cuốn như vậy từ lâu”.
Một độc giả ở Sài Gòn, nhà văn Thiên Giang, chưa hề quen biết tôi, đọc xong viết thư cho tôi, khen là viết sáng sủa, sách có ích, và bảo tôi sẽ thành công trong nghề cầm bút.
Ông giám đốc nhà xuất bản Phạm Văn Tươi ở Sài Gòn do có cuốn đó mà để ý đến tôi liền.
Tôi mừng rằng không là “mẻ” cái vốn của ông bạn P. Hiếu. Sau đó, tôi “khai thác” thêm môn tổ chức, áp dụng vào công việc hằng ngày, vào việc học, việc vặt trong nhà.
Tháng 11.1950, tôi nhận dạy cho trường Thoại Ngọc Hầu. Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học, rồi hướng dẫn họ, để họ có thể tự học được. Điều đó rất quan trọng vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết cách học ôn, cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng cách học một bài ám đọc (récitation), khác cách học một bài toán; một bài sử, địa khác một bài sinh ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi những điều cần nhớ để thường coi lại.
Dạy được ba bốn tháng, tôi nghĩ công việc cần nhất là phải chỉ cho học sinh cách học đã, và ngày 29 tết âm lịch năm Tân Mão (tháng 2-1951) tôi khởi sự viết, mới đầu chỉ định viết 50 trang để toà hành chánh tỉnh quay ronéo chừng 100 bản phát cho học sinh. Nhưng khi đã hạ bút thì ý này gợi ý kia, vấn đề này kéo vấn đề khác và số trang rốt cuộc tăng lên gấp ba.
Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong ba tháng là xong. Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ tốn thì giờ mà mau có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi học ở trường Yên Phụ và trường Bưởi. Trong phần I tôi đã nói tôi sớm có tinh thần phương pháp, ngay từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire), tôi đã có lối học riêng của tôi: ở trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường về nhà vừa nghĩ cách làm một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà là làm, học ngay bài trong ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học, tôi có một sổ tay tóm tắt những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lí, hoá, toán…, những điều tôi cho rằng lúc nào cũng phải nhớ, như vậy khi học ôn để thi trong lớp hoặc thi ra trường, tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít khi phải coi lại trong sách.
Những kinh nghiệm đó và nhiều kinh nghiệm khác nữa tôi đều chỉ lại cho học sinh.
Viết xong, thấy tập đó có thể in thành sách được, tôi đặt cho nó nhan đề Kim chỉ nam của học sinh. Lúc này tôi đã có được một số tiền tiết kiệm rồi, khỏi phải nhờ ông Hiếu nữa. Tôi mướn nhà in duy nhất ở Long Xuyên in cho 1.000 cuốntôi không nhớ phí tổn bao nhiêu (có lẽ là 3.000đ)[11]. Nhà in chỉ có máy đạp chân (pédale) in rất chậm, mà mỗi “cahier” chỉ được 4 hay 8 trang nhỏ, cho nên công in và khâu rất tốn mà mà sách rất xấu. Họ chỉ in các mẫu giấy tờ cho công sở và ít quảng cáo cho nhà buôn, chưa bao giờ in sách nên thiếu rấtnhiều phương tiện.
Tôi bán được một số ít cho vài tiệm sách ở Long Xuyên còn thì gởi lên Sài Gòn cho nhà Phạm Văn Tươi. Ông Tươi chê sách in xấu quá nhưng khen nội dung có giá trị, bán trong mấy tháng đã hết, và xin tôi cho phép tái bản. Cuốn đó bán chạy hơn cuốn Voulez vous que vos enfants soient de bons élèvres của giáo sư La Varenne, Thiên Giang lược dịch, nhan đề là Muốn thành học sinh giỏi, cũng do nhà P. Văn Tươi xuất bản, ra trước cuốn của tôichừng một năm, không hề tái bản.
Kim chỉ nam của học sinh rất được hoan nghênh. Nhiều phụ huynh học sinh sau gặp tôi, cảm ơn tôi vì nhờ cuốn đó mà con họ tấn tới. Một giáo sư bảo học trò: “Nếu theo đúng cuốn đó thì học rất giỏi, nhưng ít người theo đúng được lắm”. Cần gì phải theo đúng. Cứ hiểu nguyên tắc, hiểu phương pháp rồi chịu khó áp dụng tuỳ khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, cũng đủ có lợi nhiều rồi.
Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách nào tiến thân, sau thành một bác sĩ, một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ, hai cuốn dạy cách đề phòng các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tờ Bách Khoa số 20-4-75, thanh niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết: Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới, đọc xong, tôi thấy gần gũi với ông (tức tôikỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông, nhàm chán”.
Thanh niên đó từ mười năm nay đã thành một bạn thân của tôi.
Kim chỉ nam của học sinh được tái bản bốn năm lần, lần nào cũng in ba ngàn bản.
Sau Kim chỉ nam, cũng trong loại tổ chức, tôi viết cuốn Tổ chức công việc gia đình (1953), chỉ cách tổ chức công việc trong nhà, dự tính, sắp đặt, chỉ huy, cư xử với người giúp việc…
Nhưng sách của tôi khác những sách trong loại đó của Âu, Mĩ ở điểm tôi đề cao nếp sống giản dị, đừng để “cái hình hài làm tội cái tâm” mà “đời sống vật chất thì nên dưới mức trung, còn đời sống tinh thần nên trên mức ấy” - cuốn đó được tái bản hai ba lần.
Lại mười năm sau (1964), tôi mới viết một cuốn nữa về cách Tổ chức công việc làm ăn.Cũng vẫn áp dụng những nguyên tác tổ chức theo khoa học, nhưng cuốn này tôi chỉ in được một hai lần, mỗi làn in 2.000 bản. Thời đó giới kinh doanh không cần biết môn tổ chức. Họ chỉ cần chạy chọt, xin được cái “lít xăng” (licence: giấy phép) xuất nhập cảng, vay ngân hàng một số vốn để “khai thác” là đủ làm giàu. Có kẻ chỉ cần bán lại “licence” cũng đủ sống phong lưu. Trong cái việc đấu thầu, hễ “quen lớn”, có phe cánh là lãnh được những lô “bở”. Không biết tới cuối thế kỷ này người mình đã có được tinh thần “làm ăn” như phương Tây chưa. Cuốn đó của tôi ra sớm quá.
Ngay cuốn Tổ chức công việc theo khoa học mặc dầu in trước sau ba lần, mỗi lần 2.000 bn, cũng vẫn “được ra sớm quá”. Hiện nay (1980) từ Nam ra Bắc vẫn còn rất nhiều cơ quan không biết cách quản lí, tổ chức, làm việc luộm thuộm như tổng lí, hương chức thời tiền chiến. Mà ở phương Tây thì khoa tổ chức của Taylor, Fayol đã bị coi là lạc hậu từ hai chục năm nay rồi. Ngày nay họ tìm cách thích ứng công việc với người chứ không thích ứng người với công việc; tập cho thợ có sáng kiến, tự lãnh trách nhiệm, giúp cho thợ tự giải quyết lấy các vấn đề... Rồi đây các máy điện tử (Ordinateur[12]) sẽ làm thay đổi hẳn cách quản lí nữa; sự quyết định sẽ không tập trung vào ban giám đốc mà phân tán cho các phòng, xưởng, nghĩa là cho cấp dưới.
Chỉ một khoá hàm thụ mà giúp tôi viết bốn cuốn như trên.
Để giúp học sinh có phương pháp, sau tôi còn dịch và viết mấy cuốn nữa - có thể coi như thuộc về loại tổ chức - như:
Muốn giỏi toán hình học phẳng (dịch J. Chauvel) - 1954.
Muốn giỏi toán hình học không gian (n.t) - 1956.
Muốn giỏi toán đại số (tôi viết) - 1957.
Bí quyết thi đậu - 1955.
Mấy cuốn đó đều viết theo tinh thần cuốn Kim chỉ nam, tinh thần giúp đỡ thanh niên, giúp họ nhớ rằng cần nhất là có phương pháp, có chủ đích, làm việc đều đều. Trong đời có nhiều người rất thông minh mà thiếu những đức đó nên không làm được gì cả; trái lại có những người thông minh chỉ trên trung bình một chút thôi mà lập được sự nghiệp nhờ những đức đó.
Một số độc giả quá yêu tôi, bảo giá tôi đừng viết những cuốn đó mà khảo cứu về những đề tài cao xa thì có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho tôi hơn về kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết sách dạy phương pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy có ích nên cuốn nào cũng được tái bản nhiều lần. Trong 30 năm cầm bút, tôi bỏ ra hơn một năm giúp đỡ học sinh như vậy, tôi nghĩ không phải là phí thì giờ.
LOẠI VỀ VIỆT NGỮ
Vì dạy Việt ngữ cho lớp đệ tứ niên, tôi phải đọc kĩ cuốn Văn phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim và vài cuốn như Nhận xét về văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh… Đọc xong tôi thấy những sách văn phạm (nay gọi là ngữ pháp) đó, nhất là cuốn của Trần Trọng Kim phỏng theo ngữ pháp của Pháp quá, không hợp với đặc tính của tiếng Việt. Tôi lại thấy tất cả các giáo sư và học sinh đều miễn cưỡng dạy và học môn đó – vì nó có trong chương trình - chứ không tin tưởng, không thấy ích lợi chút nào cả. Và tôi viết cuốn Để hiểu văn phạm, đưa ra vài ý kiến, mặc dầu tôi chưa hề nghiên cứu về ngữ pháp.
Đại ý tôi cho rằng Việt ngữ không có phần từ pháp (morphologie)không biến di tự dạng (cùng một từ dùng làm danh từ, động từ thì viết cũng vậy: cái cuốc, cuốc đất), cho nên nhiều từ không có từ loại nhất định; ta không nên chú trọng quá đến việc phân biệt từ loại, mà nên chú trọng đến sự phân biệt từ vụ, đến vị trí của mỗi từ trong câu.
Tôi lại đề nghị không nên dùng gạch nối, vì Việt ngữ có tính cách đơn âm (ngày nay, người ta gọi là ngôn ngữ cách thể - langue isolante), rất khó để gạch nối cách nào cho hoàn toàn hữu lí được lắm, mà chỉ làm rối trí thêm cho học sinh. Viết liền những từ ghép, lại càng không nên.
Tập đó dày khoảng hơn trăm trang, tôi viết trong hai tháng, ngoài những giờ dạy học. Nhà P. Văn Tươi không nhận xuất bản vì khó bán. Tôi đề nghị bỏ vốn ra in một ngàn (hay một ngàn rưỡi) bản và để cho họ độc quyền phát hành (nhà P. Văn Tươi đứng tên), bán được bao nhiêu, trừ hoa hồng rồi còn thì về phần tôi. Lợi về vật chất không có gì nhưng về tinh thần thì đáng kể. Chính nhờ cuốn đó mà mấy năm sau, ông Trương Văn Chình (bút hiệu Trình Quốc Quang, tác giả hai cuốn Hội nghị Đà LạtHội nghị Fontainbleau) ở Hà Nội di cư vô, lại đường Monceau kiếm tôi, đề nghị với tôi viết chung về ngữ pháp Việt Nam vì chủ trương của tôi có nhiều điểm hợp với ông. Rồi hơn hai chục năm sau, miền Nam giải phóng rồi, một số học giả trong viện Khoa học Xã hội (ban Ngôn ngữ) ở Bắc vô cũng lại thăm tôi, bảo họ để ý đến tôi từ khi đọc cuốn đó. Nó được chú ý như vậy vì là cuốn đầu tiên vạch một hướng mới cho công việc nghiên cứu ngữ pháp Việt, thoát lảnh hưởng của các sách ngữ pháp Pháp dùng trong các trường học.
Cũng vì dạy Việt văn, nên tôi có ý viết một cuốn chỉ cho học sinh trung học và những người lớn tự học cách viết văn và sửa văn, nhan đề là Luyện văn.
Để viết cuốn này, tôi đọc khá nhiều tác phẩm văn chương Việt, Pháp, và một số sách Pháp về nghệ thuật viết như cuốn L’Art d’écrire của Antoine Albalat, La Formation du style của tu viện trưởng Moreux, Le style au microscope (ba cuốn) của Criticus…
Không kể thì giờ đọc sách và thu thập tài liệu để dẫn chứng, chỉ nội công việc viết kĩ ba trăm trang cũng mất sáu tháng làm việc từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối, trừ những giờ dạy học, chấm bài, giờ ăn và ng trưa. Nhưng tôi không thấy mệt vì viết rất có hứng.
Viết xong cuối năm 1952, nhà P. Văn Tươi in ngay, sau tái bản được hai ba lần. Sách in ra đúng lúc Việt ngữ được trọng dụng, ai cũng thấy cần nói và viết tiếng Việt cho đúng, cho hay, còn tiếng Pháp chỉ là một ngoại ngữ ở các trường trung học, cho nên được độc giả hoan nghênh, cho là “gia đình nào cũng phải có”; có vị còn khuyến khích tôi, buộc tôi viết thêm nữa: “ông Lê, ông phải soạn ngay một cuốn Luyện văn thứ nhì và phải xuất bản gp nội trong ba tháng, không được trễ, để hè này tôi có sách đọc mà quên cái nắng nung người đi nhé. Vấn đề còn rộng, ông chưa xét hết và ông không được từ chối”.
Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc khác, nên năm 1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai cuốn này cao hơn cuốn I nên chỉ in được một lần thôi.
DỊCH DALE CARNEGIE VÀ VIẾT LOẠI SÁCH HỌC LÀM NGƯỜI
Để học tiếng Anh, tôi tập dịch sách Anh ra tiếng Việt cũng như trước kia để học bạch thoại,tôi dịch Hồ Thích.
Thật may mắn, ông P. Hiếu giới thiệu cho tôi hai cuốn How to win friends and influence people và How to stop worrying đều của Dale Carnegie và kiếm cho tôi được cả nguyên bản tiếng Mĩ với bản dịch ra tiếng Pháp.
Hai cuốn đó cực kỳ hấp dẫn, tôi say mê đọc, biết được một lối viết mới, một lối dạy học mới, toàn bằng thuật kể chuyển. Mỗi chương dài từ 10 đến 20 trang, chỉ đưa ra một chân lí, một lời khuyên; và để cho người đọc tin chân lí, lời khuyên đó, Carnegie kể cả chục câu chuyện có thực, do ông nghe thấy hoặc đọc được trong sách báo, nhiều khi là kinh nghiệm bản thân của ông nữa, kể bằng một giọng rất có duyên, cho nên đọc thích hơn tiểu thuyết mà lại dễ nhớ.
Tiếng Anh của tôi hồi đó còn non lắm – thực sự thì cũng chỉ kể như mới học sáu tháng - nên nhiều chỗ tôi phải dựa vào bản dịch tiếng Pháp. Và dịch cuốn How to win friends xong, tôi đưa ông Hiếu coi lại, sửa chữa. Do đó mà chúng tôi kí tên chung với nhau. Tôi đặt cho nhan đề là Đắc nhân tâm.
Chủ trương của tôi là dịch loại sách Học làm người như hai cuốn đó thì chỉ nên dịch thoát, có thể cắt bớt, tóm tắt, sửa đổi một chút cho thích hợp với người mình miễn là không phản ý tác giả; nhờ vậy mà bản dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có dấu vết dịch, độc giả rất thích.
Cuốn Đắc nhân tâm bán rất chạy, từ 1951 đến 1975, in đi in lại tới 15-16 lần, tổng cộng sốbán được trên 50.000 bản[13]. Có người mua trước sau ba bốn bản hoặc vì mất, hoặc để tặng bạn.
50.000 bản ở nước mình là nhiều thật, nhưng không thấm vào đâu với Âu, Mĩ. Ở Pháp, nhà Hachette lần đầu in 200.000 bản dịch, nhan đề là Comment se faire des amis; còn ở Mĩ thìkhông biết tới mấy triệu bản. Hiện nay (7-1980) ở chợ sách cũ, đường Cá Hấp (Bùi Quang Chiêu cũ) - Sài Gòn có người chịu mua một bản với giá 40 đồng ngân hàng (20.000đ cũ). Năm 1975 giá chỉ có 2 đồng ngân hàng.
Qui tắc đắc nhân tâm gồm trong câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”[14] mà tất cả các triết gia thời thượng cổ từ Thích Ca, Khổng Tử, Ki Tô… đều đã dạy nhân loại, nhưng trình bày như Dale Carnegie thì hơi có tính cách vị lợi, và tôi nghĩ trong đời cũng có một đôi khi chúng ta cũng cần phải tỏ thái độ một cách cương quyết chứ không thể lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi được. Cho nên tôi thích cuốn How to stop worrying mà chúng tôi dịch làQuẳng gánh lo đi hơn.
Đúng như Đoàn Như Khuê nói:
-------------… Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
-------------Coi lại cùng trong bể thảm[15] thôi.
Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư, phiền muộn; chỉ hạng đạt quan, triết nhân, quân tử mới “thản đãng đãng” (thản nhiên, vui vẻ) được như Khổng Tử nói (Luận ngữ - Thuật nhi – 36). Nhưng làm sao để có thể thản nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm nghiên cứu hết các triết gia cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn hàng trăm đồng bào của ông để viết cuốn Quẳng gánh lo đi.
Tôi bắt đầu đau bao tử từ khi phi cơ Pháp bắn liên thanh xuống miền Tân Thạnh (1946), năm sau qua Long Xuyên, để quên tình cảnh nước và nhà tôi phải trốn vào trong sách vở, nhưng đọc và viết suốt ngày thì bệnh bao tử lại nặng thêm, mà bác sĩ không biết, cứ cho là gan yếu, uống thuốc Tây, thuốc Bắc, thuốc Nam đều không hết.
Rồi khi đọc cuốn Quẳng gánh lo đi, tôi thấy hết ưu tư, nhẹ hẳn người đi. Suốt thời gian dịch và trong năm sáu tháng sau nữa, tôi có cảm giác “đãng đãng” đó. Vì vậy mà tôi rất mang ơn tác giả, viết một bài Tựa tôi tự lấy làm đắc ý để giới thiệu với độc giả, và cuối bài, đề:
“Long Xuyên, một ngày đẹp trong 365 ngày đẹp năm 1951”
Nhiều độc giả đồng ý với tôi là cuốn đó hay hơn Đắc nhân tâm, và ngay từ chương đầu đã trút được một phần nỗi lo rồi, cho nên chép nhan đề chương đó “Đắc nhất nhật quá nhất nhật” để trước mặt, trên bàn viết.
Mới đây, một độc giả, bác sĩ, bảo từ hồi đi học, đọc xong chương đó, thì đổi chữ kí, không kí tên thật nữa mà kí là “Today” (Hôm nay). Tôi còn giữ một bản có chữ kí đó của ông ta.
Quẳng gánh lo đi trước sau chỉ bán được độ ba chục ngàn bản, nhưng tôi chắc nó đã đem lại niềm vui cho ít nhất là của trăm ngàn người. Nó ra rất đúng lúc chiến tranh gây biết bao nỗi lo lắng cho biết bao gia đình!
Cũng trong năm 1951, tôi dịch thêm cuốn tiếng Anh nữa: Give yourself a chance (The Seven steps to success) của Gordon Byron. Nhan đề tiếng Việt của tôiBảy bước đến thành công.
Cuốn này nhà P. Văn Tươi cũng cho vào loại Học làm người, ích lợi cho thanh niên, gọn, sáng, dễ theo, nhưng không có gì đặc biệt. Có lẽ vì nhan đề hấp dẫn nên cũng được tái bản nhiều lần, tuy thua xa hai cuốn trên.
Ngoài ra tôi viết xong nhưng chưa sửa mấy cuốn này:
Nghệ thuật nói trước công chúng: tài liệu đa số lấy trong cuốn Public Speaking của Dale Carnegie mà tôi cho là tác phẩm thực tiễn nhất trong loại. Phần phụ lục có vài bài diễn văn rất hấp dẫn. Sách bán rất chạy, tới nay vẫn còn người tìm mua.
Thế hệ ngày mai: tôi tổng hợp các phương pháp tân giáo dục của phương Tây để tìm ra một đường lối mới trong việc dạy trẻ. Bài Tựa rất cảm động (cuối chương XI, tôi trích dẫn một đoạn). Tác phẩm được tái bản nhiều lần. Thiên Giang đọc xong, trở nên thân với tôi. Nhờ cuốn Kim chỉ nam của học sinh và cuốn đó mà giới hiệu trưởng, giáo sư tư thục để ýtới tôi.
Hiệu năng: bí quyết của thành công: trong loại Doanh nghiệp của nhà P. Văn Tươi.
Bí mật dầu lửa: dịch cuốn Le Secret de l’or noir của Robert Gaillard, kể vụ tìm ra mỏ dầu lửa đầu tiên ở Mĩ. Truyện có tính cách mạo hiểm, cho trẻ em đọc. Trên 15 năm sau,cuốn đó mới xuất bản[16].
VIẾT VỀ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
Công trình mệt cho tôi nhất – mệt mà thú – hồi tản cư ở Long Xuyên nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ; II. Đời Đường;III. Từ Ngũ đại đến hiện đại.
Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự học. Trong bài Tựa mà tôi lấy làm đắc ý - tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi lần nghe đúng tên nhưVăn tâm điêu longChiêu Minh văn tuyểnTiền Xích Bích phúQui khứ lai từ… dù chẳng hiểu nghĩa, tôi cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm trầm, như nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?
Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách báo Việt chỉ làm cho tôi thất vọng. Cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những bài dịch Cổ văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số báo khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu, bông móng rồng mà mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá chuối, chứa trong cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn làng Ngọc Hà, làng Yên Phụ ra sao.
Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách của người Trung Hoa viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy bộ Cổ vănĐường thiVăn học sử, Bạch thoại văn học sử, Trung Quốc văn học tư trào sử lược… như tôi đã nói (chương XIII), rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng! Đọc một bài trong Cổ văn quan chỉ dài độ hai mươi hàng, tôi thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ. Bộ ấy chú thích rõ ràng, và có dịch cổ văn ra bạch thoại; nhưng cổ văn và bạch thoại của tôi đều ở mức sơ đẳng, phải dùng cổ văn để đoán bạch thoại và ngược lại dùng bạch thoại để đoán cổ văn.
Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi nhiều vì mất công bác viết thư trả lời. Đành đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần.
Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài văn thơ, viết thành chương. Nội công việc dịch và viết này cũng mất chín, mười tháng. Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một số lớn. Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề “Vô danh dịch” là của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất tới đức “tín”, nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài người trước đã dịch rồi mà hay, nhưng vì ở Long Xuyên thiếu sách, tôi không thể kiếm được, nên không dẫn vô.
Tôi viết như vậy cốt để học, chứ không nghĩ đến việc in. Viết xong, thấy có thể giúp cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung Quốc nên mới sửa lại rồi cho xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều vì tôi đã tham khảo kĩ, bằng những phương tiện tôi có; bố cục có mạch lạc và sáng sủa; nhưng tôi nhận rằng còn những lỗi dịch sai, nhất làphiên âm sai, mặc dầu vậy tôi cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ “tôi cả gan như vậy là vì tin lòng quảng đại của các vị cựu học, không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc Việt Nam chúng ta” (trích trong bài Tựa).
Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.
Viết xong tôi chép lại, khoảng 750 trang, mất ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm).
Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý T (26-XI-1953), mọi công việc hoàn thành, tôi thấy khoan khoái. Tôi thảo bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:
“Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm, bí mật bng hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh sĩ Trung Hoa thời trước.
Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị rất nhiều, gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sanh, tôi đã được nghe lời ngâm Chinh phụThuý Kiều xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong văn học nước tôi cũng thường thấy ẩn hiện nỗi củalòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày nay một phần cũng do chư vị đào luyện nên.
Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị thêm một chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái lỗi giới thiệu vụng về, tất còn mang thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ”.
Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được hai cây hoàng lan, chiều tối hương thơm ngào ngạt cả một xóm.
Bác tôi mừng tôi hoàn thành tác phẩm, cho tôi hai bài thất ngôn tứ tuyệt:
Description: http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image2/hoiki2.jpg
-----Hồng tử môn tiền đấu diễm hương,
-----Mãn bàn thi sử phí bình chương.
-----Kim phong thiết mã nhàn trung quá,
-----Nhất hạp thanh sơn tự chủ trương.
Description: http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image2/hoiki3.jpg
-----Nễ tự biên chi ngã duyệt chi
-----Nhất gia lạc sự tại tương tri.
-----Hà tu cánh hướng đông tây vấn,
-----Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?
Dịch nghĩa:
-- (1)
--Trước cửa, các hoa đỏ, tía tranh nhau phô hương sắc,
--Trên bàn đầy thi sử, khó khọc phê bình.
--Gặp lúc nhàn trong thời buổi binh đao,
--Có chủ trương lưu lại một hộp sách trong núi xanh (lưu tác phẩm cho đời sau)
- (2)
--Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,
--Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu hiểu nhau.
--Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây,
--Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào ai nữa.
Bác tôi còn cho tôi hai câu đối:
Description: http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image2/hoiki4.jpg
----Cổ sắc cổ hương văn tự cổ
----Tân tâm tân bút thế phương tân.
Description: http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image2/hoiki5.jpg
--- Nhất môn văn hiến kham trưng sử
----Lưỡng quốc binh phần bất diệt thư
Dịch nghĩa:
--(1)
--Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ
--Lòng mới, bút mới, đời vừa mới
-- (2)
--Một nhà văn hiến có thể ghi vào sử
--Lửa binh hai nước không diệt được sách
Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp chữ Hán) mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới xong[17]. Chỉ in 1.500 bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ - 5.000đ một lượng. Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí hướng, làm được những việc mình thích, mà chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu tôi không có xuất bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, lòng ham viết tất phải nguội dần mà sẽ không viết thêm được cuốn nào về cổ học Trung Hoa nữa.
In xong tôi mang về Long Xuyên ngay để bác Ba tôi coi. Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công của ba người thân đó. Trang đầu sách tôi đề:
KÍNH DÂNG
-----Hương hồn Thân mẫu tôi,
-----Người đã cho tôi học thêm chữ Hán
-----ở giữa thời tàn tạ của Nho học.
Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; in 2.000 bản, được viện Đại học Huế khuyên sinh viên đọc; nhưng năm 1974 bán vẫn chưa hết. Lần tái bản này tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì sắp chữ lại thì tốn công lắm.
DO HOÀN CẢNH MÀ TÔI TỪ BIỆT LONG XUYÊN ĐỂ CHUYỂN LÀM NGHỀ VIẾT VĂN
Vậy trong năm năm (1949-1953) làm việc tích cực, nhất là ba năm sau cùng, tôi đã xuất bản được chín cuốn: Tổ chức công việc theo khoa họcKim chỉ nam của học sinhTổ chức gia đìnhLuyện vănĐể hiểu văn phạmĐắc nhân tâmQuẳng gánh lo điBảy bước đến thành công Huấn luyện tình cảm dịch từ 1941 - lại có sẵn một bộ 3 cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc; và 4 tác phẩm nữa: Nghệ thuật nói…, Thế hệ ngày maiHiệu năngBí mật dầu lửa.
Tác quyền được khoảng trên100.000đ, cộng với số lương giáo sư, số tiền dạy tư tại nhà, tiêu pha rồi (tôi sống rất giản dị, chỉ tốn tiền học hàm thụ và mua sách), đưa cho nhà tôi một số tiền để sang một căn nhà nhỏ trong một hẻm khu Hãng Sáo (Tân Định) mà mẹ con khỏi phải ở chung với bạn và các em nữa, cuối năm 1953 còn dư non 200.000đ. Nhớ lại hồi mới qua Long Xuyên trong túi chỉ có 200đ.
Đáng kể nhất là tôi có chút danh trên văn đàn và được một số độc giả khá đông tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của nhà P. Văn Tươi.
Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm một mình làm việc nuôi con, dạy con nữa; một phần là nhờ thân mẫu cô Nguyễn Thị Liệp. Bà cụ theo nếp cổ, nghiêm khắc, ít nói, nhưng tin tôi cho tôi ở nhờ, có chỗ yên ổn để học, dạy học, viết sách, mà sở dĩ tin tôi cũng là do biết bác tôi và thấy tôi biết chữ Nho. Tôi ở Long Xuyên không bao lâu thì cụ qui tiên, và cô Liệp cũng tiếp tục cho tôi ở. Tôi xin góp tiền chợ, cô không nhận. Thấm thoát mà tôi ở nhà cô tới non bảy năm. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải duyên trời.
Ngày nay nghĩ lại, tôi thấy số phận tôi một phần do tôi quyết định, nhưng phần lớn thì do may rủi, do những cái ngẫu nhiên xảy tới, không sao ngờ được, nhất là do thời cuộc.
Ông cha tôi không ai viết sách, làm nghề viết văn; song thân tôi, mẹ tôi và các bác tôi cũng không có ý định cho tôi thành nhà văn; chính tôi tới năm 1951, hồi bốn chục tuổi, mặc đã chính thức bước vào làng văn mà vẫn chưa có ý sống bằng nghề cầm bút. Còn số tử vi của tôi, nhiều người đã coi, không ai biết được là số của một nhà văn. Bác Ba tôi chỉ đoán đượcsố tốt, giàu và sang; và tôi thấy một người số tử vi giống số tôi đến tám phần mười, mà làm thầu khoán, giàu lớn. Một ông bạn già bảo số tôi nổi danh vì được cách “tứ linh hội phi liêm, thanh danh viễn chấn”, nhưng trong nghề nào cũng có người nổi danh, mà cứ theo các chính tinh ở mạng và chiếu mạng của tôi, thì tôi làm một kĩ thuật gia hoặc một nhà kinh doanh mới hợp, vì mạng tôi có Vũ khúc với Sát, Phá, Liêm, Tham; thân tôi ở cung Thiên di có Thiên phủ, Lộc tồn. Mạng, thân đều không có Khôi, Việt (văn tinh); còn Xương khúc, Hoá khoa (cũng là văn tinh) thì đều ở cung thê, bàng chiếu về cung thân.
Chỉ những bạn nào đã biết tôi là nhà văn rồi, coi tử vi cho tôi mới giảng rằng chính nhờ cách Xương khúc, Hoá khoa chiếu cung thân đó mà ngoài bốn mươi tuổi, tôi đổi nghề thànhmột nhà văn có danh. Như vậy là giảng một cách hơi ép, chứ không phải là đoán số. Cho nên tôi không tin hẳn môn số; nhiều lắm nó chỉ đúng được sáu phần mười thôi; sự di truyền của tổ tiên, giáo dục trong gia đình, hoàn cảnh và thời cuộc mới có ảnh hưởng lớn tới đời sống con người.
Về di truyền thì ông nội, ông ngoại tôi đều có tiếng là hay chữ, bà nội tôi lại ở trong một thế tộc mười đời khoa hoạn. Tới thế hệ cha tôi thì có hai bác Cả và Ba của tôi học giỏi. Tới thế hệ của tôi thì hai anh Tân Phương, Việt Châu và tôi đều có khiếu về văn.
Về giáo dục thì trong gia đình tôi, đời nào cũng trọng sự học, cũng cha (có khi cả mẹ nữa như bà nội tôi, rồi nhà tôi) dạy cho con, mẹ tôi tuy không dạy tôi nhưng lại cho tôi học thêmchữ Nho với bác Hai tôi.
Do hai nguyên nhân mới kể, tôi thích đọc sách, thích văn học, mặc dầu học nghề công chánh.
Rồi thì hoàn cảnh và thời cuộc đưa đẩy tôi vào nghề cầm bút:
- Đầu năm 1935, không có kinh tế khủng hoảng, ở trường Công chánh ra tôi được bổ nhiệm ngay thì tất tôi không có thì giờ học thêm chữ Hán.
- Đầu năm 1935 tôi mới được bổ mà bổ ngay vào Nam, ở gần bác tôi; mười năm sau (1946) tôi lại tản cư về Tân Thạnh; khi tôi qua Long Xuyên rồi thì hai năm sau bác tôi cũng tản cư qua đấy; nhớ vậy tôi có dịp học thêm với bác tôi. Mà chữ Hán rất có ích cho nhà văn.
- Ở Long Xuyên, tôi gặp ông P. Hiếu, một người cũng thích văn; ông giúp tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của Carnegie.
- Nhờ dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu tôi mới có ý viết vài cuốn cho học sinh.
- Tôi viết những cuốn đầu đó đúng lúc nhà xuất bản P. Văn Tươi cho ra loại sách Học làm người” tiếng Pháp gọi là Culture humaine, tiếng Anh gọi là Self improvement. Thực ra ông Tươi không phải là người mở đường. Trong thế chiến, tôi nhớ đâu vào khoảng 1943, nhà Hàn Thuyên ở Hà Nội đã cho ra vài cuốn về kinh doanh, về luân lí thực nghiệp. Trước hay sau đó, một người soạn (hay dịch) một cuốn về tinh thần khoa học được giải thưởng Alexandre de Rhodes; nhóm Tự Lực cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch ít đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của V. Pauchet; được thanh niên chú ý.
Lúc đó người ta đã thấy phải cải tạo tinh thần của thanh niên để thích ứng với thời mới, và lớp thanh niên được cải tạo đó sẽ là lớp người mở đầu cho giai đoạn phát triển kinh tế sắp tới. Ý đó “phảng phất trong không khí” từ đầu thế chiến. Ông Tươi cho tôi hay hồi đó ông viết một cuốn rồi xuất bản nhưng bán không chạy.
Năm 1949-50 ông tụ tập được một số cây viết cùng chủ trương, như Thiên Giang, Nguyễn Duy Cần, mở nhà xuất bản, mới đầu chuyên ra loại Học làm người và loại đó hợp với nhu cầu của thời đại nên ông thành công rất mau, chỉ trong một năm, nhà xuất bản ông nổi tiếng, được sự tin cậy của rất nhiều độc giả.
Nhờ vậy, tác phẩm nào của tôi lúc đó gởi cho ông cũng được ông hoan nghênh liền.
- Một điều may nữa là cũng vào lúc đó năm 1951 hay 1952 - Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, từ nhà giáo đến học sinh đều cần sách Việt; mà số học sinh tăng gấp ba gấp bốn năm 1948, số độc giả cũng tăng theo tuy chậm hơn, nên sách của tôi rất dễ bán.
- Nhưng cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 mới làm thay đổi hẳn cuộc đời của tôi. Khi quân đội Pháp đổ bộ lên Sài Gòn, muốn tái chiếm nước mình, tôi đã quyết tâm bỏ luôn nghề công chánh, không trở lại làm việc nữa nếu Pháp vẫn làm chủ nước mình. Một phần vì vậy tôimới học nghề Đông y, học chưa rành thì phải qua Long Xuyên rồi dạy học chờ thời, vừa dạy học vừa học thêm vừa viết sách. Không có cuộc cách mạng đó, tôi vẫn làm sở Công chánh thì viết không thể nhiều được.
Đầu năm 1953 tôi thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi chuẩn bị để chuyển nghề. Vừa đúng lúc này việc dạy học không còn hứng thú nữa vì đa số nam sinh chán nản không muốn học. Tình hình hồi đó khá nguy cho Pháp. Từ 1952, họ đã ra lệnh bắt tất cả thanh nhiên ViệtNam từ 18 tuổi phải nhập ngũ, người nào học hết năm thứ tư cao đẳng tiểu học, thi bằng Cao tiểu đậu hay rớt thì cũng phải học một khoá quân sự ở Thủ Đức trong sáu tháng (?) rồi ra làm chuẩn uý[18]. Như vậy thì gắng học để thi làm gì? Đằng nào thì cũng sẽ thành bia đỡ đạn cả. Chính phụ huynh học sinh lo lắng, không muốn thúc con học, chỉ tìm cách chạy chọt để con được miễn dịch thôi.
Tôi khuyên học sinh đừng thối chí. Không ai biết chắc được tương lai ra sao. Có thể sắp có sự thay đổi. Dù không thay đổi ngay thì có bằng Cao tiểu[19] vẫn hơn: nhập ngũ có thể được chuyển qua một ngành chuyên môn, không phải ra mặt trận; rồi khi giải ngũ có bằng cấp đó, muốn tiếp tục học nữa cũng dễ. Tuy khuyên chứ tôi cũng biết không trò nào nghe tôi.
Lớp học vẫn còn kỷ luật, nhưng không khí rất buồn, tinh thần học sinh xuống rất thấp, đa số đãng trí không nghe lời giảng, làm bài qua loa cho xong. Dạy học mà không có hứng, không thấy có kết quả thì thà làm nghề khác còn hơn, để lương tâm khỏi bứt rứt.
Giữa niên học tôi làm đơn gi lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối niên khoá đó, không kí lại giao kèo cho niên khoá sau. Ông giữ lời đã hứa với tôi, nên không bác đơn, nhưng cứ ngâm đó.
Đơn gi rồi, tôi chuẩn bị ngay.
Tôi đã tính kĩ. Trong mấy năm tôi để gây một số vốn khoảng 200.000đ. Bỏ ra một ít để sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa làm vốn xuất bản; vẫn còn khoảng 70-80 ngàn đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số tiền tác quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.
Tôi lại có sẵn non chục tác phẩm, kể cả một số bản thảo viết trước 1945: Đế Thiên Đế Thích (du ký), Nam Du tạp ức (dịch của Hồ Thích), và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc viết sắp xong.
Tôi lại có gần đủ tài liệu để viết ba bốn cuốn nữa như Tự học để thành côngNghề viết vănBí quyết thi đậuĐông Kinh nghĩa thục
Như vậy là có đủ việc làm, đủ tác phẩm để xuất bản trong vài ba năm. Hễ qua được hai năm đầu rồi thì cứ theo đà đó mà tiếp tục được ít nhất cũng năm, mười năm.
Tôi dự định tự xuất bản lấy; công việc không tốn thì giờ bao nhiêu: chỉ được đưa cho mộtnhà in, họ lo việc kiểm duyệt rồi in cho mình, mình chỉ sửa bản vỗ (morasse) lần cuối cùng; in xong họ chở lại nhà rồi tôi đem giao cho bốn năm nhà phát hành ở Sài Gòn như Nam Cường, nhà Yiễm Yiễm, nhà Á Châu… với vài tiệm sách lớn, thu ngay được một số tiền mặtgần bằng nửa vốn in; khi các nhà đó bán gần hết, sẽ lấy thêm. Như vậy mỗi tháng mất độ bốn năm ngày, còn nhiều thì giờ để viết. Mà số lợi trung bình gấp ba – có khi gấp bốn nếu sách bán chạy – số tác quyền trong trường hợp bán cho một nhà xuất bản.
Tôi tính mỗi năm chỉ viết ba cuốn - mỗi cuốn độ hai trăm trangbán được độ 2.000, 3.000 bản thôi mà xuất bản lấy thì cũng bằng có chín, mười cuốn bán cho nhà xuất bản.
Không dạy học nữa mà cũng không mua tác phẩm của ai để kinh doanh, chỉ viết rồi đưa in, bán ở nhà như vậy, tôi có thể viết mỗi năm được số đó và sống ung dung với cây viết. Tính kĩ rồi tôi vững bụng tin chắc sẽ thành công, cho nên như trên tôi đã nói, dù biết rằng theo số tử vi, tôi sắp bước vào một đại hạn rất xấu, tôi cũng quyết tâm đổi nghề: nhân năng thắng số; mà cũng có thể là số sai.
Mùa hè năm đó, ông Thơ thấy tôi không trở lại dạy trường Thoại Ngọc Hầu, đành phải cho tôi thôi, nhưng ông vẫn cố níu trở lại. Ông bảo: “cho vui, bạn bè ở đây có được bao người”.
- Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như chúa chổm rồi viết đêm viết ngày đến khi chết vẫn trả chưa hết nợ đó sao?
Tôi đáp:
- Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công tước, bá tước, tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên mới mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần nhiều anh ơi, miễn kiếm được một số tiền đủ sống, chẳng hạn bằng số lương giáo sư hay kĩ sư là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tínhcẩn thận, có thể kiếm được một số như vậy, nếu chịu làm việc gấp hai một giáo sư, kĩ sư. Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, chẳng phải đi đúng giờ, về đúng giờ.
Sáng ngày tựu trường năm đó, ngồi bàn viết, trông ra ngoài đường, thấy học sinh dắt nhau,ríu rít đi ngang tôi cũng buồn buồn, nhớ bạn, nhớ trò, nhớ cảnh trường. Mới dạy có ba năm mà tôi cũng đã quyến luyến với nghề rồi, trách chi nhà tôo, cô Liệp sau ba mươi bảy năm dạy học, về hưu chẳng buồn rầu, tuần nào cũng tới trường cũ một lần cho đỡ nhớ.
Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng bài 20 bảo: Người quân tử có ba điều vui. Trong ba điều ấy không có điều làm vua thiên hạ, mà có điều: được bọn anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ” (Quân tử hữu tam lạc, nhi vương thiên hạ bất dự tồn yên (…): đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi…).
Tôi nghiệm thấy ở nước ta, người nào là con cháu nhà Nho chân chính, con cháu giai cấp sĩ phu, cũng có vài nét chung dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái.Yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và có khiếu dạy học nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông với tôi thân nhau, quí nhau một phần vì vậy.
Dạy học mà được một số trò thông minh, hiếu học, lại có thì giờ viết sách nữa thì thật là một điều vui. Hai năm đầu tôi được hưởng cái vui đó, mà bây giờ tôi còn giữ được nhiều kniệm đẹp về thời đó. Đầu năm 1974, trong một buổi tiệc tất niên âm lịch của Hội cựu học sinh Thoại Ngọc Hầu tổ chức  sân trường, tôi được gặp lại vài bạn giáo sư cũ và nhiều học trò cũ đã thành bác sĩ, dược sĩ, hiệu trưởng…; được thấy tình niềm nở, thân mật, kính mến của họ đối với tôi, tôi càng thấy lời Mạnh Tử là đúng. Giá tôi không viết sách thì chưa chắc năm 1953 tôi đã bỏ trường Thoại Ngọc Hầu vì mặc dầu không khí năm đó kém trước, nhưng học trò vẫn còn tình nghĩa với thầy. Làm nghề viết văn, tôi may mắn được một số độc giả thanh niên coi tôi như thầy, gọi tôi bằng thầy, tuy không học với tôi một giờ nào. Điều đó an ủi tôi rất nhiều và chung qui tôi vẫn là một nhà giáo cho tới ngày nay.
Trong mấy tháng cuối, tôi rán chép cho xong bộ Văn học sử Trung Quốc rồi thu xếp để lên Sài Gòn. Tôi chỉ đem theo bản thảo và một cái rương sách cần dùng, còn thì để lại cả. Tôi không đi chào ai, ngoài hai bác tôi. Bác tôi có vẻ buồn, nhưng tôi thưa rằng chỉ ít tháng tôi sẽ về thăm. Gặp ai tôi cũng nói lên Sài Gòn tính việc làm ăn, chứ không vĩnh biệt Long Xuyên. Tôi đưa cô Liệp mười lượng vàng nhờ giữ giùm, trong thâm tâm tôi là một cách trả ơn cô và để cô dưỡng già.
Khoảng cuối tháng 11-1953 tôi rời Long Xuyên. Tình hình chiến sự ở Bắc Việt lúc đó bất lợi cho Pháp, ai cũng biết sắp có sự thay đổi.

[1] Trường Trung học Thoại Ngọc Hầu được thành lập năm 1948 với tên là College de Long Xuyên. Trong niên khoá đầu tiên, ban giản huấn gồm các ông: Lê Xuân Kính làm hiệu trưởng và các thầy Từ Chấn Sâm, Đỗ Văn Hách, Phan Văn Tài, Nguyễn Thái Hưng, Trương Văn Đức. Qua năm sau, 1949, Bộ Giáo Dục mới chánh thức bổ nhiệm Ông Đặng Văn Kế làm hiệu trưởng. (Theo T.N.D., Nguồn gốc việc thành lập trường Trung học Thoại ngọc Hầu, http://www.aihuuangiang.org/xuan08/truongthoaingochau.html). (Goldfish).
[2] Nguyên văn chữ Hán trong cuốn Cổ văn Trung Quốc của tôi (Tao đàn -1966).
[3] Hãn (hàn) mặc: bút mực.
[4] Khối (ổi) lỗi: người bằng gỗ, ý nói loài người là đồ chơi, búp bê của hoá công.
[5] Hạo nhiên: mênh mông, tôi đoán là vũ trụ.
[6] Cầm tôn: đàn và chén rượu.
[7] Bát hoang lục vũ: cả trong vũ trụ.
[8] Ý muốn nói: dù lớn nhỏ cũng do khí thiêng của trời đất un đúc, nuôi nấng.
[9] Cũng đọc là lô. Cừ lư: lò cừ.
[10] Chương là bàn tay, bả là nắm.
[11] Trong ĐVVCT ghi là: “(khoảng 8.000 đồng? Vàng lúc đó 3.400 đồng 1 lượng)”. Goldfish.
[12] Tiếng Anh là computer: máy điện toán, máy vi tính. (Goldfish)
[13] Gần đây (1985, 1992) hai, ba nhà xuất bản cùng in, mỗi lần có hơn vài chục ngàn bản (BT).
[14] Lời của Khổng Tử; có người dịch là: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. (Goldfish)
[15] Trong ĐVVCT in là: biển khổ. (Goldfish).
[16] Tức năm 1968, Tuổi Hoa xuất bản. (Goldfish).
[17] Trong danh mục sách trong cuốn Mười câu chuyện văn chương thì bộ ĐCVHTQ do nhà Nguyễn Hiến Lê xuất bản năm 1955. Do đó ta có thể suy ra rằng năm 1955 đã in xong cuốn đầu hoặc cuốn đầu và cuốn thứ hai, năm 1956 thì in xong cuốn thứ ba hoặc cuốn thứ hai và cuốn thứ ba. (Goldfish).
[18] Có tài liệu cho rằng trong 5 khoá đầu từ 1951-1954, sinh viên tốt nghiệp quân trường Thủ Đức được mang cấp bực thiếu uý; từ khoá thứ 6 trở đi thì sinh viên tốt nghiệp chỉ mang cấp bực chuẩn ý. (Goldfish).
[19] Có lẽ vào thời đó, bằng Cao đẳng Tiểu học đã đổi tên thành bằng Trung học đệ nhất cấp, và lớp Đệ tứ niên đã đổi tên thành lớp Đệ Tứ (nay là lớp 9). (Goldfish).

Chương XIX
PHÁP SA LẦY VÀ THUA Ở BẮC VIỆT

TẠI SAO PHÁP THUA?
Những người Pháp sáng suốt như Leclerc, Sainteny, Lacouture, Devillers, Paul Mus... đều muốn điều đình vì biết chiến tranh sẽ kéo dài, càng kéo dài càng bất lợi cho Pháp. Việt Namcó đủ ba điều kiện để thắng: địa lợi, nhơn hòa và thiên thời.
Về địa lợi, chúng ta chiến đấu ở trên đất chúng ta, biết rõ sông núi từng miền, quen với khí hậu. Pháp trái lại, phải đem quân viễn chinh qua, rất tốn kém mà không quen với sông núi, khí hậu. Nước ta rất nhiều rừng, khi địch tấn công ta mạnh quá, ta chống cự không lại rồi thì rút lui ngay vào rừng, bụi; địch không dám đuổi theo.
Ta lại có thể tản vào trong đám dân thường, làm bộ cuốc đất hay nhổ cỏ, hoặc núp trong hầm hố, và được dân chúng che chở cho. Bộ đội khéo được huấn luyện, tới đâu cũng nhã nhặn, lễ phép, vui vẻ, giúp đỡ dân, cho nên rất được lòng dân, sống với dân như cá trong nước.
Vả lại toàn dân đều coi thực dân Pháp là kẻ thù, đều muốn đuổi chúng đi, gần như gia đình nào cũng có người theo bộ đội hoặc giúp kháng chiến, và coi chính phủ kháng chiến là chính phủ của dân, mặc dầu những người lãnh đạo là cộng sản. Ông Hồ Chí Minh đã giải tán đảng Cộng sản, hô hào toàn dân đoàn kết và toàn dân đã đoàn kết thật, ít nhất là cho tới năm 1950. Cũng có một số rất ít vì lẽ này hay lẽ khác bất mãn với chính phủ, nhưng hạng đó không dám sống ở chiến khu mà phải về những miền bị địch chiếm. Ngay trong những miền này, số dân có cảm tình với kháng chiến cũng rất động, có nơi đến chín phần mười. Như vậy địch bất kì ở đâu cũng phải sống với kẻ thù, lo lắng, bất an; nhất cử nhất động của họ đều bị theo dõi và báo cho kháng chiến biết. Kháng chiến được điều kiện nhân hòa đó, nên lực lượng mỗi ngày một tăng: mới đâu chỉ có một số du kích, cuối cùng có tới vài ba trăm ngàn quân kể cả chính qui và du kích, với những sư đoàn đầy đủ võ khí nặng. Quân đội Pháp không thể tăng hoài cho kịp ta được vì ngân sách thiếu, dân chúng họ cũng muốn chống tăng thuế, chỉ muốn sống yên ổn thôi, không muốn chiến tranh. Họ không muốn cho con họ chết trong rừng bụi Đông Dương để bảo vệ quyền lợi của giới tư bản.
Như vậy càng kéo dài chiến tranh thì quân ta càng mạnh lên mà địch càng suy, tất phải tới một lúc địch không chịu nổi phải xin hòa đàm.
Điều lợi thứ ba cho ta là thiên thời. Sau thế chiến thứ nhì là thời giải thực (décolonisation), thời tàn của chế độ thực dân lối cũ. Các dân tộc thuộc địa khắp thế giới đều muốn đuổi thực dân đi, và cường quốc thứ nhất là Mĩ không muốn cho Pháp chiếm lại Việt Nam; vì vậy năm 1945 Mĩ có cảm tình với Việt Minh. Còn Nga thì không hề lên tiếng ủng hộ Hồ Chí Minh, không hiểu tại sao. Anh, cường quốc thứ ba, nhờ có thủ tướng Attlee sáng suốt, đã tự ý trả lại độc lập cho các thuộc địa cũ. Pháp yếu mà tham, ngu muội cố bám lấy các thuộc địa nên hùng hùng hổ hổ đem quân viễn chinh qua tính tái chiếm nước mình, rốt cuộc đã mất Việt Nam, sau lại mất Algérie và phải bấm bụng trả lại độc lập cho tất cả các thuộc địa khác mà vẫn bị thế giới ghét.
Nhất là từ cuối năm 1949, cộng sản Trung Hoa đánh bại Quốc Dân đảng, chiếm toàn thể lục địa, Tưởng Giới Thạch phải cuốn gói qua Đài Loan; rồi tháng Giêng năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhìn nhận Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, thì sức kháng chiến của mình tăng lên rất mau, nhờ sự giúp đỡ của Trung Hoa: quân đội của mình có thể “trốn” qua Trung Hoa được, họ huấn luyện cho, viện trợ lương thực, khí giới cho.
Năm 1953, chiến tranh Triều Tiên kết liễu rồi, sự viện trợ đó càng tăng cường, và theo Bernard Fall thì từ đó, Paris hoặc Washington còn hi vọng hão huyền, chứ ở Sài Gòn và Hà Nội, bọn thực dân đã hết ảo tưởng, chỉ cố vơ vét cho thật nhiều để cuốn gói về “mẫu quốc”.
Một nguyên nhân nữa mà tôi cho là nguyên nhân chính: chiến tranh của ta có chính nghĩa, toàn dân vì chính nghĩa mà chiến đấu; quân đội của Pháp, trừ một số thanh niên Pháp và một số lính lê dương là chiến đấu hăng, hầu hết tinh thần rất kém, nhất là bọn “partisan”, bọn lính đánh thuê Việt mà họ tuyển. Sau khi Bảo Đại về nước, Pháp buộc Bảo Đại phải thành lập một đạo quân Việt Nam, Bảo Đại phải kí sắc lệnh bắt thanh niên nhập ngũ, sắc lệnh đó khiến dân càng ghét Bảo Đại và Pháp. Chương trên tôi đã nói ảnh hưởng biện pháp ấy tới học sinh ra sao.
Louis Saurel trong cuốn La Guerre d’Indochine (Editions Rouff – Paris – 1966) dẫn mấy hàng này trong một số Paris Match:
“Khi sắp có trận Điện Biên Phủ, tướng Navarre (Tổng tư lệnh Pháp ở Đông Dương) kêu 120.000 thanh niên Việt Nam nhập ngũ, thì chỉ có 7.000 trình diện, trong số đó có 5.000 sở dĩ trình diện vì biết chắc sẽ được miễn dịch, thải về”.
Có nhiều người tự hủy hoại thân thể thành tàn phế để khỏi bị bắt lính. Kẻ có tiền thì đút lót, chạy chọt. Vậy là kêu 120.000 chỉ được có 2.000.
Đúng như lời ông Hồ Chí Minh nói với kí giả Mĩ Davis Schoenbrun từ 11-9-1946, trước khi xảy ra chiến tranh ở Bắc:
“Nếu có chiến tranh thì sẽ là một cuộc chiến đấu giữa con cọp và con voi. Nếu cọp ngưng thì bị ngà voi đâm thủng bụng liền. Nhưng nếu cọp không ngừng thì voi lần lần sẽ mất máu và kiệt sức”.
LỰC LƯỢNG VÀ TÍNH THẦN QUÂN ĐỘI PHÁP
Tháng Giêng 1947 khi chiến tranh mới phát, Leclerc tính phải có 500.000 quân mới thắng nổi. Không biết hồi đó ông ta đoán quân đội du kích Việt có được bao nhiêu. Theo các nhà quân sự Mĩ năm 1960, thì muốn chặn được du kích phải có một số quân gấp 10 số quân du kích. Muốn thắng được thì số quân phải gấp 20. Ở Mã Lai, Anh dùng 350.000 quân mà mất 12 năm mới diệt được 8.000 Mã cộng. Như vậy không phải là gấp 20 mà gấp 40.
Quân Pháp hồi đó chỉ có 13.000 người[1]. Leclerc đòi tăng lên 500.000, các bộ trưởng Pháp hoảng hồn, lắc đầu. Từ đó tới 1954, có tất cả 19 lần cải tổ nội các, nội các nào cũng không chịu thương thuyết với chính phủ kháng chiến của ta, mặc dầu những người Pháp sáng suốt bảo chỉ chính phủ đó mới được toàn dân ủng hộ. Pháp không đủ sức tăng quân số lên, dân chúng thấy chiến tranh sa lầy sinh chán nản. Các thượng tướng hàng Tổng tư lệnh, Tư lệnh đa số bất tài, thay đổi không biết mấy lần; tướng nào cũng tin chiến lược của mình mới đúng, mà chẳng chiến lược nào có kết quả, nhiều lắm chỉ gỡ nguy được một thời gian. Còn hạng thấp hơn, thiếu tướng, tá, đại úy thì theo Lucien Bodard trong La guerre d’Indochine(3 cuốn) chỉ phè phỡn, ham tiền, gái, huy chương. Bất đắc dĩ phải dùng quân đội Việt. Pháp tung tiền ra mua chuộc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và đảng Bình Xuyên; nhưng hễ không thỏa mãn được yêu sách của họ, thì họ bỏ vô bưng, mang theo khí giới.
Sài Gòn, Hà Nội thành những kinh đô ăn chơi, áp phe mà áp phe lớn nhất là buôn đồng quan. Từ trên xuống dưới ai cũng đua nhau xin được mua đồng quan theo hối suất chính phủ (1 đồng bạc Đông Dương ăn 17 quan), xin giấy phép xuất nhập cảng. Được một giấy phép xuất nhập cảng rồi, người ta chỉ nhập cảng lấy lệ một số đồ xấu giá rẻ còn dư đồng quan thì gởi các ngân hàng bên Pháp, vì buôn bán gì cũng không lợi bằng mua bán đồng quan. Tóm lại bao nhiêu thanh niên Pháp chết, toàn dân Pháp phải đóng thuế để nuôi mập một bọn thực dân con buôn và một số tay sai Việt Nam của chúng.
CHIẾN SỰ Ở NAM, BẮC
Mặt trận ở Nam (từ Đèo Cả trở vào) không có gì quan trọng, tình hình cho tới 1954 đại khái cũng như hồi 1946. Chỉ khác mỗi ngày du kích tăng lên nhiều hơn, các đường giao thông, nhất là đường Sài Gòn - Miền Tây bất ổn hơn. Nhiều đoàn xe dài hai ba chục chiếc của quân đội cũng bị phục kích, mà hễ bị phục kích thì tổn thất lần nào cũng nặng. Có chỗ bị phục kích hoài - 4, 5 lần - mà không cách nào tránh được, đồn bót bên đường không có chút công dụng gì cả. Về sau Pháp phải cho quân đội đi dò mìn mỗi buổi sáng rồi mới cho xe đò qua, vì vậy có nhiều chuyến xe từ Hậu Giang lên phải đậu lại ở Mĩ Thuận, sáng hôm sau mới tới Sài Gòn. Xe đò muốn chạy thì phải đóng thuế cho Việt Minh. Miền quê nào bị quân Pháp thường bố thì dân chúng một phần rời vào trong xa, một phần ra các thành thị. Dân số các châu thành tăng lên rất mau, càng dễ cho Việt Minh len lỏi vào; đồng quê bỏ hoang, kinh tế càng mau suy sụp. Những vụ xử tử Việt gian ở làng xóm cũng tăng lên. Tình thế mỗi ngày mỗi tệ.
Ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh tự tử rồi, Hoạch lên thay, rồi Xuân, rồi Hữu... nhưng Pháp có giao cho chút quyền hành nào đâu, họ chỉ đóng vai bù nhìn; dù là bù nhìn thì cũng phải có chút tư cách, mà bọn họ lại thiếu tư cách quá, quan thầy biểu sao nghe vậy, nên bị dân chúng khinh. Báo nào độc lập, có cảm tình với kháng chiến thì bán chạy như tôm tươi, còn báo của chính quyền chỉ để phát không cho các công sở. Điều đó đáng lẽ mở mắt cho họ chứ; nhưng họ lại cho báo chí là tiếng nói bậy bạ của bọn “nói láo ăn tiền”, chứ dân chúng thì ghét cộng chứ không ghét Pháp và chỉ muốn yên ổn làm ăn. Họ thật mù quáng không biết tinh thần yêu nước của người Việt.
Khi chiến tranh nổ ở Bắc, D’Argenlieu bị gọi về Pháp, Bollaert qua thay nhưng chỉ có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình rồi báo cáo về Pháp thôi. Không hề ở Việt Nam, ông ta làm sao hiểu tình hình được. Người phụ tá của ông là Pignon, Torel với bọn thực dân nói gì thì ông biết vậy. Vả lại chính phủ Pháp cũng không có ý muốn thương thuyết, nên chẳng có gì thay đổi cả.
Ở Bắc, chính phủ kháng chiến rút lên miền Thái Nguyên, Bắc Cạn để bảo toàn lực lượng, tổ chức, huấn luyện du kích, nắm chắc dân tâm và hô hào toàn dân bất hợp tác với Pháp. Giai đoạn đầu là giai đoạn du kích, phải mua và chế tạo những khí giới nhẹ; những khí giới nặng như chiến xa, đại bác đều cất giấu hoặc hủy bỏ.
Tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch ở Bắc Cạn, chung quanh chỉ có vài ngàn quân không đủ khí giới, nhưng trong khu Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn có nhiều kho khí giới và nhiều quân đội. Tướng Valluy biết được tin đó, đem một lực lượng rất mạnh, gồm 15.000 quân với nhiều xe thiết giáp, phi cơ phóng pháo, săn giặc, bất thần đánh vào Bắc Cạn để bắt sống Hồ Chủ tịch, nhưng ông Hồ thoát kịp. Chuyến đó Pháp không đạt được mục đích mà tổn thất nặng vì khi rút lui, bị phục kích.
Trong chiến dịch đó, quân Pháp chiếm được con đường thuộc địa số 4 từ Cao Bằng tới Lạng Sơn, chủ ý để bao vây quân Việt ở phía Bắc, không cho trốn qua Trung Hoa. Đại tá Beauffre chiếm Cao Bằng một cách quá dễ dàng, không tốn một viên đạn, không gặp một lính Việt, một người dân Việt; chỉ thấy những chiếc cầu bị phá, những khúc đường bị đào và những xóm làng đương cháy. Vài ngày sau quân đội của ông ta mới bị phục kích. Và từ đó, con đường số 4 bị phục kích liền liền thành một ung nhọt rỉ máu hoài, làm tiêu mòn lực lượng của Pháp. Pháp phải dùng mấy ngàn lính bảo vệ con đường, mỗi tháng tiêu hàng tỉ quan, mà các nghĩa địa ở Cao Bằng và Lạng Sơn thì mỗi ngày một thêm những cây thánh giá quét vôi trắng.
Ai cũng biết đó là một thất sách nhưng các tướng Pháp tự ái, không chịu rút lui, bỏ con đường đó, sợ mất mặt. “Đoàn viễn chinh Pháp mà chịu thua quân đội da vàng ư?”.
Họ cố bám lấy đường đó hai năm. Cuối năm 1949, quân đội cộng sản Trung Hoa tiến tới biên giới Bắc Việt, và năm sau quân đội Việt được Trung Hoa huấn luyện, viện trợ khí giới nặng, đủ sức để tấn công Pháp rồi, Carpentier mới cho phép rút khỏi Cao Bằng.
Họ rút lui chậm quá, ngày đầu chỉ được 13 cây số vì đường bị phá hủy nhiều, họ phải sửa lại cho từng đoàn căm nhông, chiến xa, đại bác... qua. Tướng Võ Nguyên Giáp kịp thời huy động 15.000 quân đánh họ tơi bời ở Thất Khê và khi tàn quân của họ tới Lạng Sơn, coi lại thì thiệt mất 7.000 người.
Ở Lạng Sơn, họ mắc thêm một lỗi nữa. Lúc đó quân mình còn ở cách xa Lạng Sơn, nếu họ đóng quân ở đó, chuẩn bị để chống cự thì Lạng Sơn chưa đến nỗi mất; nhưng họ hoảng quá, không kịp phá hủy 1.300 tấn khí giới, quân nhu ở Lạng Sơn, đã vội rút lui nữa về Phủ Lạng Thương. Quân ta thắng được trận đó rất lớn, thu được tất cả khí giới đó. Quân Pháp phải bỏ tất cả khu ở phía Bắc sông Hồng Hà mà chỉ giữ được miền đồng bằng thôi.
Thừa thế, tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục đại tấn công, lần này tính dùng năm sư đoàn (304, 308, 312, 316, 320) để tiến về Hà Nội.
Chiến thắng đó làm cho tinh thần mình phấn khởi bao nhiêu thì tinh thần Pháp suy sụp bấy nhiêu. Dân chúng Pháp bất mãn về chính phủ. Quân linh Pháp gởi qua tăng viện ở Việt Namphải đi ban đêm, xuống tàu ban đêm. Quan tài chở về Pháp cũng phải lén lút đưa lên bờ trong các nhà máy ở các bến tàu, đã có những vụ phá hoại để ngăn chận “cái chiến tranh dơ dáy” đó.
Ở Việt Nam cũng có sự thay đổi. Cho tới cuối năm 1949, còn là “Mặt trận quốc gia”, nhưng khi Trung Cộng đã giúp mình thì họ đòi chính phủ kháng chiến phải có thái độ, đường lối dứt khoát. Theo Jean Lacouture và Phillipe Devillers trong La fìn d’une guerre (Editions du Seuil - 1960) thì Mao Trạch Đông buộc ông Hồ Chí Minh phải lập lại đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải tán năm 1946, và đảng Cộng sản phải ra mặt nắm địa vị lãnh đạo. Do đó mà chính phủ kháng chiến lập ra đảng Lao Động và năm 1950-51 có nhiều vụ thanh trừng. Lần lần chính phủ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam thành chính phủ Cộng hòa Nhân dân; kế đó ta bắt đầu có cuộc cải cách ruộng đất theo kiểu Trung Cộng. Đó là một lầm lẫn lớn của chính phủ kháng chiến, hậu quả rất tai hại tới nay chưa hết, tôi sẽ xét ở sau.
Một số người ái quốc theo kháng chiến, thấy cuộc thanh trừng đó, rời bưng trở về thành.
GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI
Đầu năm 1946, khi lập xong chính phủ Liên hiệp Quốc gia rồi (chủ tịch là Hồ Chí Minh, phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần; Huỳnh Thúc Kháng bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam bộ trưởng Ngoại giao...), Hồ Chủ tịch phái công dân Vĩnh Thụy (Bảo Đại) cầm đầu một phái đoàn qua Trùng Khánh. Bảo Đại được Tưởng Giới Thạch tiếp đãi, mời lên Nam Kinh vì chính phủ Trung Hoa đương dọn về Nam Kinh. Chính phủ Liên hiệp Quốc gia bảo ông cứ ở Trung Hoa đừng về vội. Ông ở lại Trung Hoa nhưng không lên Nam Kinh mà qua Hương Cảng.
Năm 1947, chính phủ Pháp theo chính sách của Bidault trong Phong trào Cộng hòa Nhân dân (M.R.P.) nhất định không thương thuyết với ông Hồ Chí Minh mà muốn dùng lá bài Bảo Đại, phái người qua tiếp xúc với Bảo Đại ở Hương Cảng. Các đảng phái ở Nam: Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân đảng v.v.. tức thì phái đại biểu tới tấp qua Hương Cảng thúc Bảo Đại về và bày mưu kế với Bảo Đại. Dĩ nhiên Bảo Đại cũng đòi hỏi như Hồ Chí Minh: sát nhập Nam Bộ và miền cao nguyên vào Việt Nam, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tự trị về ngoại giao, bỏ hết các kiểm soát của Liên bang Đông Dương... Pháp biết nếu không chấp nhận thì giải pháp Bảo Đại không thành, nên sau hai lần tiếp xúc ở vịnh Hạ Long giữa Bảo Đại và Bollaert (12-47), rồi giữa Bollaert và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng Nam Kì quốc, đại diện cho Bảo Đại, Pháp đành nhượng bộ (6-48) nhưng mãi đến 8-3-49, Bảo Đại mới kí một hiệp ước với tổng thống Pháp Vincent Auriol, rồi về nước.
Tuy nhiên Bảo Đại không ở Sài Gòn mà lên thẳng Đà Lạt, lập “triều đình” ở đó, để tỏ vẻ bất mãn về nền độc lập bánh vẽ mà Pháp trao trả ông, và đến 7-1953, tình hình Đông Dương nguy khốn, chính phủ Laniel mới chịu thi hành đúng đắn hiệp ước 8-3-49. Lúc đó đã quá trễ.
Bảo Đại khôn lanh nhưng nhu nhược, chỉ ham tiền, ham gái và săn bắn, bị dân chúng khinh bỉ. Bọn tay sai của ông, trừ một hai người như Nguyễn Hữu Trí trong đảng Đại Việt mà ông ta nghi kị vì có tư cách, còn thì “chủ nào tớ nấy” cả. Uy tín của Hồ Chí Minh vẫn lớn và giải pháp Bảo Đại hoàn toàn thất bại.
DE LATTRE DE TASSIGNY VÀ VÕ NGUYÊN GIÁP
Vụ Pháp đại bại trên đường Cao Bằng - Lạng Sơn làm cho dân chúng Pháp xúc động và một phần quân đội viễn chinh (nhất là quân Algérie) mất tinh thần. Chinh phủ Pleven phải đưa tướng De Lattre de Tassigny qua. De Lattre là một tướng giỏi, can đảm, cương quyết, quyết định mau, đòi được toàn quyền ở Đông Dương, vừa làm Cao ủy vừa làm Tổng tư lệnh, và xin thêm nhiều quân, nhiều võ khí, nhưng chính phủ chỉ cung cấp được một phần nhỏ thôi.
Ngày 17-12-50 ông ta qua, không ở Sài Gòn mà ở Hà Nội. Rất hách dịch. Mới qua, đuổi ngay một số tướng tá về Pháp, không cho vợ con quân nhân, công chức Pháp về nước để khỏi làm dao động tinh thần quân đội. Người Pháp gọi ông ta là “Le roi Jean” (Quốc vương Jean).
Ông ta vừa kịp chỉnh đốn lại quân đội, tiêm tinh thần chiến đấu vào đoàn quân viễn chinh thì tướng Võ Nguyên Giáp tấn công ở Vĩnh Yên ngày 13-1-51, cách Hà Nội độ 40 cây số với một lực lượng mạnh. Lần này là lần đầu bên mình dàn quân để chiến đấu ở đồng bằng với một biển người. Mới đầu quân mình thắng. De Lattre phải dùng rất nhiều phi cơ chở quân lính lên tiếp sức và thả bom napalm (mủ cao su trộn với dầu xăng) để chặn biển người đó. Quân mình lần đầu thấy bom napalm hoảng hốt, hỏi nhau có phải là bom nguyên tử không.
Trận đó mình thất bại nặng: 6.000 chết, 500 tù binh (theo Louis Saurel - sách đã dẫn). Tướng Võ Nguyên Giáp nhận là lầm lẫn.
Nhưng cuối tháng 3-1951, tướng Giáp tấn công nữa ở Đông Triều (Mao Khê, phía tây bắc Hải Phòng). Quân Pháp lại lâm nguy, De Lattre lại phải dùng nhiều phi cơ và napalm mới cứu được. Quân mình phải rút lui vào rừng, nhưng không thiệt hại nặng như lần trước.
Lần thứ ba, mình tấn công thình lình ở Phủ Lí và Ninh Bình, mới đầu cũng đánh bại được quân Pháp ở Ninh Bình. De Lattre vội vàng đem quân xuống cứu; quân mình rút lui về bờ bên kia sông Đáy, trốn vào các hang núi vôi ở miền đó.
Ba lần đó Pháp tuy thắng nhưng rất khó nhọc và hai lần suýt nguy; thế giới đều thấy lực lượng của mình đã ngang với Pháp rồi. Tướng Võ Nguyên Giáp rút kinh nghiệm, biết rằng chiến đấu ở đồng bằng, mình bất lợi vì phi cơ địch ở trên nã xuống, mình không có chỗ núp, mà rút lui tới chỗ yên ổn thì hơi xa, nên từ đó đổi chiến lược, đưa chiến tranh lên xứ Thái. Ba lần trước, De Lattre chỉ chống đỡ, tháng 11-1951 mới bắt đầu tấn công, đem quân lên chiếm Hòa Bình để chận con đường Bắc Việt tiếp tế cho Thanh Hóa. Chiếm thì dễ, nhưng giữ rất khó. Chỉ có hai đường tiếp tế Hòa Bình là con đường thuộc địa số 6 đã hư hỏng nhiều, và con sông Đà. Cả hai đường đó, khúc gần Hòa Bình đều có nhiều bụi rậm, hoặc bờ giốc âm u, rất dễ cho quân mình phục kích và Pháp lần nào cũng bị thiệt hại nặng, đến nỗi gọi đường thuộc địa số 6 là địa ngục, và gọi Hòa bình là “merdier” (đám phân hay cầu tiêu). Sau cùng Pháp phải bỏ Hòa Bình, rút về, thiệt hại nặng, gần bằng vụ Cao Bằng - Lạng Sơn.
Lần đó một đại đội quân của chính phủ Bảo Đại đào ngũ, trốn qua phía kháng chiến, mở đầu cho nhiều vụ đào ngũ sau này.
De Lattre thất bại, lại đau nặng vì bệnh ung thư, về Pháp ít lâu thì chết. Ông ta còn mắc một lỗi nữa là xây một vòng đai đồn bót bao vây miền đồng bằng Bắc Việt, đã tốn tiền, lại cầm chân một số binh lính để giữ đồn, mà chẳng được ích gì. Quân mình vẫn len lỏi vào miền đồng bằng như trước.
NAVARRE VÀ TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tướng Navarre qua thay De Lattre. Tài kém xa De Lattre, uy tín cũng kém mà lại tự phụ, không chịu nghe ý kiến ai, cho chỉ chiến lược của mình mới đúng.
Khoảng cuối năm 1952, quân mình chiếm được Nghĩa Lộ ở ngang Tuyên Quang, giữa khoảng từ Nhị Hà tới sông Đà. Pháp muốn phục thù, đem 30.000 đánh vào phía sau quân mình ở Phủ Đoan gần Tuyên Quang, không gặp quân kháng chiến, chỉ phát giác và phá hủy được ít kho súng đạn rồi rút về, thiệt hại độ một đại đội. Thất bại nữa.
Thất bại thứ ba ở miền Trung, phía ngoài Huế, bên con đường Quốc lộ số 1, từ Vân Trình tới Quảng Trị, nơi mà quân Pháp gọi là “con đường sầu thảm” vì bị phục kích rất thường. Pháp dùng cả thủy quân, lục quân với rất nhiều phi cơ yểm trợ, tính bao vây, diệt trọn quân kháng chiến, nhưng quân mình trốn thoát được; Pháp lục soát từng nhà một ở làng Phủ An, tìm được một ít khí giới, bắt được một số tù binh, rồi vội vàng rút lui.
Sau cùng là trận Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là một lòng chảo dài 17 cây số, rộng 9 cây số, giữa có con sông Nam Youn[2], chung quanh là rừng núi, nằm ở phía dưới Lai Châu, gần biên giới. Tháng 11-1953, Navarre dùng phi cơ thả quân xuống chiếm lòng chảo đó để chặn đường quân mình qua Lào, rồi rút quân ở Lai Châu về đó, xây cất đồn binh, sân bay. Từ tổng tư lệnh Navarre tới tư lệnh miền Bắc Cogny và tướng chỉ huy Điện Biên Phủ là De Castries đều tin rằng quân kháng chiến không sao hạ Điện Biên Phủ được, vì không đủ đại bác, không đủ người để chở khí giới quân nhu tới nơi xa xôi đó; và nếu chở được đại bác thì cũng bị hủy diệt vì phi cơ Pháp ở trên bắn xuống, đại bác Pháp ở lòng chảo bắn lên. Họ không thể ngờ được rằng tướng Võ Nguyên Giáp cho làm cả trăm cây số đường rừng, sửa sang 200 cây số đường nữa, đưa được năm sư đoàn và rất nhiều đại bác tới Điện Biên Phủ mà chỉ nhờ sức của cả trăm ngàn người đi dân công với cả ngàn chiếc xe đạp Peugeot cũ để thồ mỗi chiếc 200 ki lô trong rừng. Pháp về sau biết vậy mà không sao chặn được vì phi cơ bay trên cao không thấy, còn đem quân vào rừng để đánh thì không dám.
Đại bác tới, mình đào hang trong núi để giấu, hễ bắn xong vài phát lại kéo thụt vào trong hang rồi lấy lá cây phủ miệng hang, Pháp không dò ra được, mà có được thì máy bay cũng không có cách nào bắn phá được. Vậy là chung quanh Điện Biên Phủ có vô số họng đại bác từ trên cao nã xuống sân bay, đồn trại của địch, mà địch không có cách nào chống đỡ.
Trận Điện Biên Phủ bắt đầu từ 13-3-1954. Khi các căn cứ ở phía Bắc: Gabrielle, Béatric, Anne Marie bị đại bác của ta san phẳng thì Điện Biên Phủ rung rinh rồi. Tới phiên hai sân bay bị phá hủy nữa, sự tiếp tế chỉ còn trông vào máy bay thả dù xuống - việc này rất mạo hiểm mà kết quả không được bao vì máy bay không dám xuống thấp, một nửa số tiếp tế rớt vào khu vực của ta - lúc đó quân đội Pháp như cua ở trong giỏ, sinh mạng đếm từng ngày. Pháp cầu viện Mĩ, xin Mĩ dùng bom nguyên tử, Mĩ không chịu, xin Mĩ ồ ạt đem quân lính và phi cơ sang, Mĩ cũng không chịu. Mà rốt cuộc ngày 7-5-1954, trong khi sáu nước: Pháp, Nga, Trung Hoa, Mĩ, Anh, Việt, đương họp ở Genève để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì Điện Biên Phủ thất thủ, tướng De Castrie phải đầu hàng.
Theo Saurel, Pháp thiệt hại 16.000 người trong số đó 1.500 người chết, 4.000 bị bắt làm tù binh. Chắc cuốn La guerre d’Indochine của Saurel đã in lộn. Con số 10.000 tù binh Jules Roy đưa ra trong cuốn Điện Biên Phủ (René Julliard - 1963) có phần đúng hơn.
Việt Nam, theo sự phỏng đoán của bộ tham mưu Pháp, thiệt hại gần gấp đôi: từ 25.000 đến 30.000 người, trong số đó có từ 10.000 đến 12.000 người hi sinh.
Một tờ báo ngoại quốc bảo sau trận Waterloo chưa bao giờ Pháp thua một trận lớn như vậy. Khắp thế giới đều phục sự anh dũng của người Việt.
De Gaulle, D’Argenlieu, Bidault có bị lương tâm cắn rứt không nhỉ? Biết bao thanh niên bỏ mạng ở Việt Nam vì họ. Nhưng thời đại dân chủ này, có một ông lớn nào chịu một trách nhiệm gì đâu? Giá như Nhật Bản thời trước thì đã có dăm ba vụ hara kiri (tự mổ bụng) rồi.
SÁCH TÔI DÙNG ĐỂ VIẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT - PHÁP
Sách ngoại quốc (Anh, Pháp) viết về chiến tranh Việt Pháp rất nhiều, tôi đọc được trên một chục cuốn. Dưới đây là những cuốn chính, tôi dùng làm tài liệu:
Philippe Devillers - Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952 (Ed. du Seuil - 1951)
Paul Mus - Sociologie d'une guerre (Ed. du Seuil - 1952)
Jean Lacouture et Philippe Devillers… - La fin d'une guerre… (Ed. du Seuil - 1960)
Jean Lacouture - Ho Chi Minh (Ed. du Seuil – 1965). Les deux Viet Nam (Payot -1967)
Bernard Fall - Guerres d’Indochine France 1946- 1954; Amérique 1957 (Ed. J’ai lu - 1965)
Bốn tác giả trên đều là học giả hiểu dân tộc Việt Nam, không hiếu chiến.
Jules Roy - La bataille de Dien Bien Phu (Julliard - 1963). Tác giả rất ghét Navarre.
Lucien Bodard - La guerre d'Indochine (3 cuốn) (Gallimard - 1963)
Hai nhà trên là kí giả.
Louis Saurel – La guerre d’Indochine (Ed. Rouff - 1966)
Cuốn này cho ta một tổng quan sơ lược nhưng rõ ràng, khá đầy đủ… Có vài lỗi nhỏ.

[1] Chắc là ở riêng miền Bắc. Vì ở Nam cuối năm 1945 Leclerc đã có 35.000 quân rồi.
[2] Tức Nặm Rốm. (Goldfish)





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét