Donohue
kéo ngay cần lái tổng hợp để cho các cánh quạt quay nhanh thêm, hạ bớt tốc lực
và hạ thấp trực thăng xuống, rồi bình tĩnh ra lệnh cho phi hành đoàn: “Đúng 10
giây nữa, sẽ nổ súng”. Nói xong, ông ta lướt nhẹ chiếc trực thăng sát ngọn cây
trong doanh trại, đồng thời bấm vào nấc truyền tin, hô to: “Chuẩn bị bắn”.
Donohue đang bận lo lái nên không thấy được cảnh tượng cả một vọng gác hướng
tây bắc bị sụp đổ xuống ngay trong nháy mắt, các cột trụ 4x4 inch bị bắn nát
như cám. Vọng gác hướng Tây Nam và doanh trại lính gác cũng bị sụp đổ tan tành.
Các xạ thủ của Donohue là trung sĩ James Rogers và Angus Sowell thét lên trong
máy truyền tin: “Trúng rồi, trúng rồi, đổ nát rồi”. Donohue tăng tốc lực quay
mũi trực thăng về hướng bắc và bay cao lên, tìm một cánh đồng ruộng nhỏ ở hướng
đông bên hồ. Tại đây ông ta đáp xuống và ngồi chờ, chỉ cách mục tiêu có một dặm
rưỡi về hướng tây. Ông ta chỉ còn có việc ngồi chờ cho đến khi nào lính của
Simons và các tù binh được giải thoát ra khỏi trại giam. Donohue và Waldron mở
tăng thêm âm lượng các máy truyền tin. Trong suốt 27 phút còn lại, cả hai người
phải dò tìm tất cả các làn sóng truyền tin để theo dõi hành động của Simons và
các toán tập kích trong doanh trại Sơn Tây. Sau suốt 3 giờ yên lặng bây giờ thì
tất cả máy truyền tin đồng loạt vang lên. Trong buồng lái trực thăng vang lên đủ
loại âm thanh hỗn tạp từ các làn sóng FM, UHF, VHF phát ra. Donohue cố gắng dò
nghe tất cả.
Chiếc trực thăng đổ nhào xuống ngay trong doanh trại Sơn Tây dữ dội quá, dữ dội
hơn là Dick Meadows đã tưởng, trong khi đó ông ta cố nằm sát người xuống sàn
máy bay trên một chiếc đệm để khỏi bị bật ngửa lên. Meadows không biết rõ sự việc
xảy ra như thế nào nhưng viên phi công H.Kalen suýt nữa không điều khiển chiếc
trực thăng mang ngụy danh “Quả táo thứ nhất”: vào giây phút cuối, khi bay sát
ngọn cây và bị vướng vào dây phơi quần áo mắc qua sân trại, như là sân bóng
chuyền. Viên phi công phụ của Kalen là Herb Zehnder còn nhớ rõ có một cây cao tới
150 bộ. Cây này bị cắt phăng ra như một cọng cỏ. Thân cây, cành lá tung toé khắp
nơi. Một tiếng ầm vang lên rung động, cánh quạt trực thăng bị hỏng và cả thân
trực thăng đổ nhào xuống. Trong khi cánh quạt còn quay tiếp những vòng cuối và
chặt đứt một thân cây to gần đấy. Cả chiếc trực thăng lồng lộn dữ dội và
nghiêng về bên phải từ 30 đến 40 độ, rồi đổ ào xuống đất.
Sự va chạm quá nặng làm cho một bình chữa cháy bị tung ra và đập vào chân viên
kỹ sư cơ khí của Kalen là Leroy Wright làm cho anh ta vỡ cổ chân. Trong khi đó
thì trung uý George Petrie một sĩ quan mũ nồi xanh 31 tuổi, tóc vàng, cũng bị hất
tung ra khỏi trực thăng. Mặc dù anh ta không phải là người đầu tiên được phép
nhảy ra. Sau này anh ta có giải thích là “sự va chạm ấy đã ném tôi ra khỏi máy
bay”.
Dick Meadows vùng ngay dậy và chạy thoát ra cửa sau đuôi trực thăng, tay bấm
vào loa phóng thanh. Ngay trong thời điểm đó, chiếc loa này còn quan trọng hơn
bất cứ loại vũ khí nào mà ông ta được trang bị. Khi chạy thoát ra khỏi trực
thăng vào khoảng 15 yard thì Meadows quỳ xuống, bám vào chốt loa và hít hơi lấy
sức. Ông ta bắt đầu phát thanh với giọng bình tĩnh: “Chúng tôi là người Mỹ, xin
các anh cúi xuống. Chúng tôi là người Mỹ. Đây là một cuộc giải cứu. Chúng tôi đến
đây để cứu các anh ra khỏi chỗ này. Yêu cầu tất cả cúi xuống, nằm xuống sàn
nhà. Chúng tôi sẽ vào phòng giam của các anh trong vài phút nữa”.
Tiếng nói của ông ta vang vọng khắp nơi trong doanh trại.
Nhưng không có tiếng trả lời.
13 người còn lại trong toán xung kích của Meadows chia nhau chạy đến các cửa
phòng giam và cổng trại chính. Trong khi tiếng động cơ của chiếc trực thăng
HH-3 tắt ngấm thì trại tù Sơn Tây lại vang lên những tràng súng tự động.
Meadows vẫn ngồi quỳ một chân và phát thanh thêm một lần nữa: “Chúng tôi là người
Mỹ. Chúng tôi đến đây để cứu các anh”. Trong khi đó thì chuyên viên truyền tin
của ông ta báo cho Simons biết qua làn sóng chỉ huy: “Kế hoạch, đây là thằng bé
mặt xanh: Chúng tôi đã vào đến nơi rồi”.
Ba phút đã trôi qua, một tiếng nổ ầm từ phía bức tường hướng nam đã quật ngã
Meadows xuống đất nhưng ông ta yên tâm khi nhìn thấy một lỗ trống thật to nơi
vách tường. Như vậy, có nghĩa là toán yểm trợ của Simons và toán chỉ huy của
Sydnor đã đổ bộ an toàn xuống vòng ngoài doanh trại và đã phá đổ vách tường. Lỗ
trống nơi vách tường này dùng để đưa tù binh thoát ra ngoài cho nhanh chóng.
Lúc đó Meadows thấy một toán người chạy băng qua lỗ trống và vội vàng đặt mình
trong tư thế chiến đấu ở ngay trong doanh trại.
Nhưng Meadows đã nhầm. Toán lính này không phải người của Simons mà tất cả đều
là người của Sydnor.
Simons đã đổ bộ nhầm doanh trại. Cả ông ta và 21 người lính. Lực lượng lớn nhất
trong cuộc tập kích Sơn Tây này đã đổ bộ xuống cách xa mục tiêu 400 mét về hướng
nam, tại một vị trí mà các chuyên viên tình báo đã có ghi dấu trên bản đồ là
“trường trung học”.
Thật là mỉa mai vì cách ba ngày trước đó, các chuyên viên tình báo đã căn dặn
Simons và các phi công trực thăng đừng có bị nhầm lẫn vị trí mục tiêu với trường
trung học này. Cả hai nơi đều to bằng nhau. Con kênh đào ở hướng bắc trường
trung học có thể bị nhầm lẫn với sông Cồn khi con sông này quẹo về hướng đông
đúng ngay lúc chảy về hướng bắc của Sơn Tây. Nếu như có gió nhẹ thổi từ đồng bằng
sông Hồng lên thì đội hình trực thăng có thể bị thổi bay lạc về hướng nam độ một
vài trăm yard trên đường bay gần đến doanh trại Sơn Tây. Donohue đã bị thổi tạt
về hướng nam với chiếc trực thăng HH-53 của ông ta và luôn cả H.Kalen cũng bị
bay tạt về hướng đó, nhưng cả hai đều kịp thời thay đổi lại đường bay để hướng
về đúng vị trí mục tiêu. Donohue muốn dùng máy truyền tin để gọi các chiếc trực
thăng bay sau đề phòng việc có thể bị nhầm lẫn này, nhưng ông ta quyết định giữ
im lặng. Vì không muốn gây tiếng động trong mỗi giây phút bất ngờ này. Trong
khi đó ở phía sau, Warner Britton đã bị gió thổi lạc hướng và vì lẽ đang cố
chăm chú tìm chỗ đáp xuống phía ngoài doanh trại hướng nam nên không thấy Kalen
thay đổi đường bay vào giây phút cuối.
John
Allison lái chiếc trực thăng của Sydnor dẫn đầu 3 chiếc khác, cũng không thấy
Kalen điều chỉnh hướng lái về phía nam ông ta cho cả toán chỉ huy của Sydnor
đổ bộ xuống vòng ngoài trại Sơn Tây đúng ngay chỗ đã định. Nhưng khi chiếc trực
thăng của Sydnor mang ngụy danh “Quả táo thứ hai” sắp đổ bộ xuống cách doanh
trại của Sơn Tây một vài yard về hướng nam thì ông ta nhận định được ngay là
Simons đã đáp nhầm xuống một vị trí khác. Sydnor tự nhủ: “Không biết thằng
cha điên khùng đó làm gì mà lại đáp xuống chỗ ấy?”. Đúng giờ H cộng thêm 2
phút 45 giây, Sydnor có linh cảm và nói ngay với phi hành đoàn của “Quả táo
thứ hai” và cả toán chỉ huy phải lập tức chuyển ngay sang kế hoạch hành
động “Màu xanh”. Đây là kế hoạch dự trù mà họ đã thực tập nhiều lần tại Florida
trong trường hợp toán yểm trợ của Simons gặp phải việc máy bay hỏng hóc hoặc
bị bắn rơi trên đường đến Sơn Tây. Sydnor biết rằng nếu làm như vậy thì cả lực
lượng tập kích bị thiếu mất 22 người. Tuy nhiên ý nghĩ này không làm cho ông
ta lúng túng. Ông ta biết phải thực hiện ngay trong hoàn cảnh bất lợi này. Tất
cả những người đã từng phục vụ với ông ta đều mô tả phản ứng của Sydnor trong
các trường hợp căng thẳng như sau: “Dường như trong mạch máu của Sydnor lúc
nào cũng có nước đá” (có nghĩa là lúc nào ông ta cũng lạnh như tiền). Khi chiếc
trực thăng “Quả táo thứ hai” giảm tốc độ để thả Sydnor và toán lính xuống đất
thì John Allison ra lệnh cho các xạ thủ bắt đầu khai hỏa ngay với các loại
súng tiểu liên để bắn vào doanh trại lính gác, thay thế cho lực lượng của
Simons.
Trong khi ấy tại địa điểm trường trung học ở phía nam Sơn Tây, khi chiếc trực thăng vừa đáp xuống thì Simons biết ngay sau một, hai giây là ông ta đã gặp trở ngại. Xung quanh cơ sở này có dây thép gai bao bọc mặc dù toàn thể doanh trại và khu vực ở phía ngoài trông có vẻ giống như là trại Sơn Tây. Súng cá nhân đã bắt đầu nhả đạn xung quanh ông ta. Nhưng có một điều khác thường là ông ta không nghe tiếng của Meadows hét lên qua loa phóng thanh. Như vậy có nghĩa là Simons đã đổ bộ nhầm vị trí. Nhưng không hề lo lắng, Simons biết rõ có hai quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ không bao giờ để chuyện gì rắc rối xảy ra mà không giải quyết được: Đó là Dick Meadows và B.Sydnor. Chính vì lẽ đó nên ông ta đã lựa chọn để họ đi cùng. Simons hoàn toàn tin tưởng hai người này sẽ làm chu đáo công tác tập kích. Điều quan tâm chính của ông ta bây giờ là làm thế nào để quay trở lại đúng vị trí mục tiêu trước khi cuộc tập kích kết thúc. Sau này nhớ lại lúc ấy ông ta không muốn làm người đứng ngoài cuộc vì toàn thể thời gian ấn định cho cuộc tập kích chỉ có 26 phút thôi. Simons quay lại phía chuyên viên truyền tin là trung sĩ Walter Miller đang sẵn sàng chấp nhận mọi lời quở trách về việc đáp sai vị trí này. Tên trung sĩ này đã làm việc với Simons tại Lào và 3 năm ở trung tâm biệt kích cho nên biết rõ tính tình của Simons. Simons thét to lên: “Gọi chiếc trực thăng chó đẻ đó trở ngay lại đây. Nói với Sydnor chuyển gấp sang kế hoạch Màu xanh”. Xong, ông ta quay lại một chuyên viên truyền tin khác là trung sĩ Davis Nickerson và ra lệnh: “Mở đèn chớp sáng và ghi dấu lại cho đúng vị trí đổ bộ”. Trong khi đó thì chiếc trực thăng của Britton đang quần ở phía trên, thấy rõ súng đạn nổ về hướng bắc độ 400 mét cách nơi mà ông ta đã thả Simons xuống và ông ta hiểu ngay mình đã đáp nhầm chỗ. Ông ta tự nghĩ đấy là một sự sai lầm không thể tin nổi. Trước khi đèn chớp của Nickerson bắt đầu nhấp nháy báo hiệu, Britton cho quay chiếc “Quả táo thứ nhất” trở lại hướng cũ để đáp xuống bốc Simons và cả toán lính lên. Trong vòng 2 dặm, xung quanh khu vực Sơn Tây lúc này đang có 3 cuộc chiến đấu xảy ra dữ dội: Một cuộc chiến giả tạo bằng hỏa châu ở hướng nam và hướng đông cuộc chiến của Meadows và Sydnor ở trong trại tù và cuộc chiến bất ngờ của Simons đương đầu với hệ thống phòng thủ của Bắc Việt Nam ở trường trung học. Trong khi Britton cố gắng đáp trực thăng xuống giữa vùng đạn lửa dày đặc thì toán yểm trợ của Simons đang làm cho cơ sở trường trung học biến thành một ngọn lửa bừng cháy. Simons nghĩ rằng có thể một vài làn đạn đã châm ngòi các thùng chứa xăng. Toán lính của ông ta chỉ sử dụng súng cá nhân, không dùng chất nổ, nhưng cuộc tấn công đã xảy ra thật dữ dội vì lẽ nếu không hành động dữ dội và nhanh chóng thì không giành được yếu tố bất ngờ. Không ai hiểu được họ đã làm cách nào để bắn sụp cả bức tường phía nam doanh trại mà lại không dùng đến chất nổ. Sau khi bắn đổ nát bức tường xong, cả toán lính của Simons chạy ập vào sân trại và bắt đầu nhả đạn… Chỉ sau có 5 phút mà cả cơ sở bùng cháy như một ngọn đuốc lớn. Trong khi Britton đáp trực thăng xuống để bốc toán lính của Simons lên giống như đáp xuống giữa một kho đạn đang bùng cháy và chở họ đến địa điểm đổ bộ tại trại Sơn Tây, thì Simons liên lạc truyền tin với các chiếc máy bay khác để bảo đảm thêm an toàn. Có nghĩa là gọi thêm lực lượng oanh kích đoạn đường phía chân cầu nằm giữa trại tù Sơn Tây và trường trung học. Lính của ông ta vừa tiếp tục bắn phá để chống cự lại kẻ địch, vừa nhảy lên chiếc trực thăng HH-53 của Britton. Cuộc tập kích Sơn Tây đã bắt đầu được tám phút. Đến phút thứ chín, Simons liên lạc với Meadows và Sydnor để chỉ thị cho hai người trở lại kế hoạch trước 30 giây đồng hồ sau. Britton thả Simons và toán lính xuống vòng ngoài doanh trại Sơn Tây. Ông ta đã thực hiện được một kỷ lục mới ba lần lên xuống máy bay trong ba cuộc xung kích với 9 phút rưỡi. Theo đúng kế hoạch, ngay sau khi thả toán lính xuống thì ông ta vội bay đến chỗ chờ đợi. Toán phá hoại của Simons vội vàng chạy ào đến vị trí để phá sập chiếc cầu tại hướng bắc trại tù, trong khi lính của Sydnor thi hành cho xong những điều cần phải làm theo đúng dự án đã định: phá sụp trạm điện và cột đèn ở ngoài doanh trại, thanh toán luôn trạm bơm nước nằm trên kênh đào phía tây nam trại tù.
Trong
khi đó tại sân trại tù, Dick Meadows và toán lính của ông ta không bị thay đổi
kế hoạch hành động mà vẫn đang cố thanh toán các ổ đề kháng và lục soát các
phòng giam. Họ đã bắn phá dữ dội và đã đổ bộ xuống mục tiêu một cách bất ngờ
nhất. Ổ đề kháng nặng nề nhất của địch là khẩu AK-47 đặt gần giếng trong sân
trại. Toán của Sydnor cũng phải đương đầu với sự đề kháng dữ dội khác từ một
khu nhà ở vào hướng nam của bức tường hướng tây trong doanh trại. Sau khi đã
kiểm soát từ phòng giam này đến phòng giam khác, toán lính của Meadows báo
cáo là không có tù binh. Sau 10 phút tập kích, Meadows liên lạc truyền tin với
làn sóng chỉ huy: “Rễ hoang, đây là thằng bé mặt xanh. Đến lúc này thì xin
báo cáo, không có ai cả”. Báo cáo xong, ông ta chạy đến từng phòng giam một để
đích thân kiểm soát một lần nữa. Một phút sau ông ta lại báo tiếp: “Kiểm soát
chấm dứt. Không có ai cả. Trại tù Sơn Tây hoàn toàn trống rỗng”.
Simons ra lệnh: “Chuẩn bị rút lui về khu vực chờ đợi để thoát ra. Toán Thằng bé mặt xanh và toán Rượu vang đỏ thoát ra trước trên chiếc trực thăng thứ nhất. Kiểm soát an toàn khu vực chờ đợi: Toán Rượu vang đỏ thoát về hướng tây, toán Lá xanh về hướng đông”. Simons ra lệnh cho một trong những người chụp ảnh chạy về phía các phòng giam để chụp các phòng trống. Sau đó ông ta gọi một chiếc A-1 đến oanh tạc chiếc cầu ở hướng bắc. 14 phút sau cuộc tập kích đã qua, ông ta lại ra lệnh cho một chiếc trực thăng HH-53 từ điểm hẹn đến đáp xuống tại vị trí Sơn Tây. Ông ta chỉ thị cho Nickerson bắn hỏa châu để báo hiệu phương hướng. 18 phút 50 giây trôi qua, chiếc trực thăng HH-53 của Britton bay trở lại Sơn Tây và đáp xuống một cánh đồng lúa cách hướng đông nam doanh trại độ 150 bộ. Simons ra lệnh cho Meadows và 12 binh sĩ lên trực thăng, cộng thêm với ba nhân viên phi hành đoàn là Kalen, Zehnder và Wright từ chiếc “Quả táo thứ nhất” chuyển qua. Sydnor cũng được lệnh cho toán tập kích lên trực thăng, ngoại trừ toán an ninh và sĩ quan kiểm soát. Nhiệm vụ của viên sĩ quan kiểm soát này là đếm từng người một khi họ lên trực thăng để thoát ra khỏi trận địa Simons phải rời khỏi Sơn Tây với đầy đủ số người như khi đến. Viên sĩ quan kiểm soát báo cáo: đếm đủ 26 đếm đủ số”, Simons ra hiệu cho chiếc trực thăng thoát nhanh ra khỏi miền Bắc Việt Nam. Britton cho “Quả táo thứ nhất” bay lên và hướng về phía tây. 22 phút sau cuộc tập kích, Simons gọi thêm một chiếc HH-53 nữa đáp xuống. Bây giờ còn lại 33 người ở Sơn Tây gồm toán lính của Simons và một phần toán lính của Sydnor và Dick Meadows. Trong khi toán lính của Simons đang kiểm soát lại vấn đề an ninh ở quanh khu vực chờ đợi và bắn súng phóng lựu M-79 vào 4 chiếc xe nhỏ đang thoát ra khỏi xí nghiệp kỹ nghệ nhẹ cách hướng đông nam của mục tiêu độ 600 mét chạy về phía chân cầu ở hướng nam doanh trại, thì Dick Meadows chạy trở lại sân trại tù để châm ngòi nổ vào các túi đựng chất nổ đặt trong chiếc trực thăng móp méo của H.Kalen. Chiếc trực thăng HH-3 đáng giá cả triệu đô-la. Đến lúc này thì các loại tên lửa đất đối không đang nổ ầm lên trên khắp bầu trời tại vùng khu vực mục tiêu. Đường bay của các tên lửa này trông giống như những cột điện thoại loé sáng vụt thẳng lên xuyên qua vùng trời Bắc Việt Nam. Có một vài binh sĩ nói đùa họ là những người Mỹ đầu tiên được trông thấy tên lửa SAM 2 của Liên Xô bắn từ dưới đất lên trông như những cây pháo thăng thiên. 27 phút đã trôi qua, toàn thể 33 người trong các toán xung kích của Simons, Sydnor và Meadows đã lên chiếc trực thăng HH-53 thứ hai. Simons nói với viên phi công là John Allison: “Đếm 33 đếm đủ số” rồi chiếc trực thăng cất cánh. Chiếc trực thăng bay về hướng biên giới Lào. Simons cảm thấy nhẹ nhõm khi được báo cáo là chỉ có 1 người bị thương. Đó là một trung sĩ bị toét da ở đùi. Khi chiếc HH-53 rời khỏi Sơn Tây độ 6 phút thì mọi người nghe tiếng nổ vang dội trong khu vực mục tiêu. Các túi chất nổ đã phá hoại chiếc trực thăng HH-3 đúng thời điểm. Tất cả các toán xung kích của Simons và toàn thể phi hành đoàn của Britton đã thi hành nhiệm vụ một cách hoàn hảo. Cuộc đổ bộ đã xảy ra nhanh chóng và dữ dội. Yếu tố bất ngờ đã hoàntoàn đạt được. Việc kiểm soát địa điểm mục tiêu đã được thực hiện mau lẹ, các cuộc xung kích bắn phá thật chính xác, các phản ứng xảy ra không khuyết điểm, và cuộc rút lui an toàn. Chỉ có một điều đáng tiếc là không có một tù binh nào được cứu thoát để theo về với họ, khi toàn thể đội hình trực thăng đang được tập trung lại để tiếp nhiên liệu trên vùng trời Lào. Chuyến bay trở lại Thái Lan xảy ra trong im lặng nhưng không phải là hoàn toàn bình thản. Binh sĩ của Simons có vẻ chán nản. Ai cũng biết họ đã thi hành xong nhiệm vụ, thi hành tốt đẹp nhất nhưng đấy không phải là kết quả họ mong muốn. 45 phút sau khi rời Sơn Tây, Simons mở tập tài liệu mật mã để biên soạn một công điện gửi cho Manor, báo cáo về tình trạng giải cứu tù binh. Ông ta tìm chữ “tù binh” theo hệ thống mật mã và đặt chữ “không có” ở đằng trước. Ông ta lại tìm chữ “di chuyển” và đặt chữ “đã” ở đằng trước. Sau đó, ông ta yêu cầu Allison chuyển bức công điện này về đảo Sơn Trà cho Manor. Bây giờ là 3 giờ 35 phút sáng, tại bộ chỉ huy của Manor ở gần Đà Nẵng, có nghĩa là đúng 1 giờ 17 phút sau khi Meadows đổ bộ xuống Sơn Tây, Manor nhận được công điện của Simons: “Không có tù binh ở Sơn Tây: Tù binh đã được di chuyển đi nơi khác”. Simons nghĩ rằng Manor đã biết được điều đó khi nghe qua hệ thống truyền tin của Meadows trong khi toán xung kích còn đang hoạt động tại địa điểm mục tiêu. Nhưng thật ra việc trại tù trống rỗng là một tin mới đối với Manor. Ông ta đọc lại bức công điện một lần nữa. “Không có tù binh. Đã di chuyển”. Ông ta hỏi lại trung tâm chuyển đạt truyền tin một lần nữa cho chắc chắn, nhưng lần này thì làn sóng bị quấy nhiễu không nghe rõ câu trả lời. Ông ta gửi ngay một công điện hỏa tốc về thẳng trung tâm chỉ huy Lầu Năm Góc. Công điện này sẽ đến Lầu Năm Góc sau độ 10 phút với nội dung: “Có thể là không có tù binh. Tôi đang rời Bộ chỉ huy để bay đi Udorn”. Như vậy là ông ta sẽ rời Đà Nẵng ngay lập tức để đích thân đi kiểm soát tại chỗ về mọi tình hình đã diễn ra khi Simons đáp xuống Udorn.
Vì lẽ
các trở ngại về kỹ thuật xảy ra một lần nữa cho nên Manor hoàn toàn không biết
được những gì đã xảy ra ở Sơn Tây. Hai chiếc máy bay có gắn hệ thống ra đa
EC-21 College Eye trước đó đã rời khỏi căn cứ không quân Hoàng gia Thái Lan tại
Korat để bay đi vùng vịnh Bắc bộ và để cho Manor theo dõi mọi làn sóng liên lạc
truyền tin xuất phát từ các toán tập kích Sơn Tây. Nhưng một trong hai chiếc
máy bay đó đã bị vỡ ống dẫn dầu, bị hỏng và phải đáp xuống Đà Nẵng. Chiếc máy
bay còn lại đã bay được đến mục tiêu trên vòm trời vịnh Bắc Bộ nhưng rồi lại
bị hỏng hóc về kỹ thuật liên lạc truyền tin cho nên không bắt được các làn
sóng truyền tin ở khoảng cách xa. Như vậy có nghĩa là chiếc máy bay này không
thể liên lạc trực tiếp được với hệ thống truyền tin của các chiếc máy bay bạn
đang bay trên vùng trời Sơn Tây. Một máy phụ đã được thiết lập ngay để thay
thế nhưng rồi kết cục cũng không đem lại kết quả gì. Ngoài ra, vì các làn
sóng chính bị quấy nhiễu thường xuyên, cho nên Manor mặc dù đang ngồi trước 3
trong 6 máy truyền tin khổng lồ đặt tại trung tâm truyền tin điện tử hiện đại
tại núi Sơn Trà cũng không thể nghe được những tin tức diễn biến lại Sơn Tây.
Ngoài phạm vi từ 30 đến 40 dặm thì các làn sóng truyền tin này không chính
xác nữa. Sau này ông ta có ghi chú rằng: “Không có lý do thích hợp để giải
thích tại sao có sự quấy nhiễu trên các làn sóng chính, cũng như không hiểu tại
sao các làn sóng không thu nhận được tin tức xuất phát. Tuy nhiên, cần nhận định
rõ rằng lực lượng hải quân của ta đã gây nhiều trở ngại cho hệ thống ra đa của
Bắc Việt Nam vào thời điểm này”.
Cộng thêm vào các việc rắc rối kỹ thuật, một hệ thống điện tử truyền tin của thủy quân lục chiến giao dịch thường xuyên với hệ thống tự động của không quân và hải quân cũng bất ngờ bị hỏng hóc. Việc này đã làm cho Manor không theo dõi được tình hình oanh tạc của hải quân. Cuối cùng một hệ thống phụ dùng để chuyển tin qua băng ghi âm tự động đã được thay thế ngay nhưng chỉ đem lại những tin tức “sau khi sự việc xảy ra” chứ không phải ngay lúc xảy ra. Tuy nhiên tất cả những rắc rối nêu trên cũng không đến nỗi làm cho Manor không thể bắt được các làn sóng truyền tin về cuộc tập kích ngay trong thời gian mọi biến chuyển xảy ra. Chính việc rắc rối khác đã đưa Manor vào thế khó xử. Đấy là việc trước khi rời Hoa Kỳ ông ta đã sắp đặt trước với cơ quan SAC cho một chiếc máy bay RC-135 Combat Apple có thiết kế đầy đủ hệ thống truyền tin để bay quanh vùng vịnh Bắc bộ. Thông thường thì hệ thống truyền tin này hoạt động với 4 làn sóng siêu tần nhưng với mục đích bắt cho được tất cả các làn sóng bí mật do toán xung kích sử dụng để chuyển tin, Manor đã yêu cầu cơ quan SAC thiết kế thêm 4 làn sóng phụ nữa. Cơ quan này nói cho ông ta biết mọi thiết bị cần thiết đã có sẵn tại vùng Đông Nam Á. Nhưng khi ông ta đến vùng này thì các chuyên viên liên hệ lại báo cáo là họ không biết những thiết bị này nằm ở đâu. Vì lý do sơ suất bất ngờ đó, cho nên chiếc máy bay Combat Apple chỉ có thể bắt được các làn sóng từ dưới đất phát ra cho Manor biết tin khi nào có thể bắt được các làn sóng ngắn hoặc làn sóng siêu tần mà thôi. Vì lẽ đó ông ta đã không nghe được tin tức liên lạc giữa Meadows và Simons khi Meadows báo cáo là việc kiểm soát đã xong và không có tù binh. Kế hoạch truyền tin dành cho kế hoạch Kingpin có lẽ là một kế hoạch phức tạp nhất và cũng tối tân nhất đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng cũng chính kế hoạch này đã gây rắc rối cho Manor vào đúng thời điểm nghiêm trọng nhất. Vị tổng chỉ huy của cuộc tập kích Sơn Tây đã ở trong tình trạng như là tai điếc, mắt mù. Đây là một tình trạng đưa đến hậu quả vô cùng tai hại. Nếu trong phút chót cần phải huỷ bỏ cuộc tập kích thì phải làm sao? Manor làm sao để ra lệnh cho các toán tập kích hoãn thi hành công tác như ông ta đã từng đảm bảo với Tổng thống về điều đó? Với tất cả sự phối hợp của hệ thống truyền tin và việc liên lạc từng chặng theo phương cách liên lạc trực tiếp thì may ra cũng có thể truyền tin được. Tuy nhiên lẽ ra Manor cần phải thi hành chớp nhoáng chứ không phải ở trong tình trạng mày mò như đã xảy ra với việc tìm kiếm tài liệu về khí tượng trước đây. Đấy là chưa đặt vấn nếu có việc sai trái xảy ra thì sao? Nếu có sai trái xảy ra thì bao giờ Manor mới được biết tin? Trong một tình trạng căng thẳng như vậy, khi mỗi phút giây đều phải được tính toán kỹ, liệu Manor có đủ thời gian để chỉ thị những hoạt động thích ứng hay không? Một giờ sau khi ra khỏi Sơn Tây, Simons lại gặp chuyện lo âu điên đầu. Ông ta không thể tin được điều đã xảy ra. Chỉ có 25 người có mặt trên chiếc trực thăng thứ nhất chứ không phải 26 người theo đúng số lượng. Ông kêu lên: “Lạy Chúa, như vậy thì nguy lắm rồi: Một người đã bị bỏ rơi lại phía sau”. Simons ra lệnh kiểm đếm lại một lần nữa. Mặc dù không có ánh đèn trong khoang tàu, mọi người cũng đã đếm đi đếm lại nhiều lần. Một thời gian nặng nề dài vô tận trôi qua trước khi Simons được báo cáo là tất cả số 59 người của lực lượng tập kích đã có mặt đầy đủ trên các chuyến bay trở về Thái Lan. Chỉ có 25 người trên chiếc trực thăng thứ nhất, nhưng lại có đến 34 người trên chiếc trực thăng của ông ta chứ không phải là 33 người. Khi chiếc trực thăng thứ nhất chuẩn bị bay thoát ra khỏi mục tiêu thì một người trong toán của Sydnor đáng lẽ phải leo lên ngay với đồng đội, và anh ta đã làm như vậy nhưng lại vội vàng bước xuống trở lại vì thấy có một sợi dây điện đang bốc cháy gần bên trạm điện. Anh ta biết sẽ có một chiếc trực thăng khác đáp xuống tại đấy cho nên nhảy xuống để cắt bỏ sợi dây điện ấy đi. Sau đó anh ta lại nhảy lên chiếc trực thăng thứ 2 trước khi viên sĩ quan kiểm soát kiểm đếm và báo cáo số lượng. Trên chuyến bay dài trở về Udorn, Simons tự nghĩ và cười thầm một mình không biết là Bắc Việt Nam sẽ nghĩ như thế nào về việc đã xảy ra. Họ không biết rõ là có kẻ nào từ đâu đến vì không có xác chết để lại trận chiến để khám nghiệm và cũng không bắt được tù binh để thẩm vấn đã tiến công vào một doanh trại trống cách Hà Nội 23 dặm. Tất cả mọi người trở về an toàn, theo như Simons biết thì không mất một mạng nào hoặc một chiếc máy bay nào. Có điều là ông ta không biết được “Marty” Donohue vẫn còn ngồi chờ tại bãi đợi với chiếc trực thăng “Quả táo thứ ba” và một chiếc máy bay khác tham dự trong cuộc tập kích này đã bị bắn rơi.
Cả
Mayer lẫn Blackburn đều không có khái niệm gì về chuyện này. Trong toàn bộ kế
hoạch và thực tập cuộc tập kích Sơn Tây đều không có khoản nào nói đến việc sử
dụng phản lực cơ F.105. Tất cả mọi loại máy bay dùng trong cuộc tập kích đều
đã được ghi chú rõ trên các tập tài liệu thuyết trình đặt trước mặt các vị sĩ
quan cao cấp trong phòng họp. Không ai tìm thấy có ghi chú nào nói về loại
F.105 cả.
Mỗi người có một ý nghĩ khác nhau. Có thể những ai có mặt trong Trung tâm chỉ huy này cũng nghĩ rằng đấy là một điều quái gở. Mà lại là một điều quái gở rất tai hại. Blackburn nghĩ rằng biết đâu có một tên điên khùng và phản động nào đó đã tự lái máy bay từ Thái Lan đi Bắc Việt Nam một mình để gây nên một cuộc không chiến khiêu khích các đơn vị không quân địch? Hoặc biết đâu lại là một trong những hoạt động bí mật mà ông ta đã nghe qua nhưng không được phép biết rõ chi tiết? Nhưng tại sao Manor lại gửi công điện về báo cáo như vậy nếu việc này không dính líu gì đến cuộc tập kích? Việc cho các phản lực cơ F.105 xuất phát là theo ý riêng của Manor. Khi ở Thái Lan, vào phút chót, ông ta đã quyết định cho xuất phát một phi đoàn gồm 5 chiếc F.105 thuộc phân đoàn không lực chiến đấu đóng tại Korat (phân đoàn chiến thuật 388) để hộ tống các toán đi tập kích. Nhiệm vụ của phi đoàn này là làm xáo trộn hệ thống ra-đa (phát sóng) của Bắc Việt Nam làm mồi cho các tên lửa SAM 2 của địch. Chúng không ngắm bắn vào mục tiêu của lực lượng tập kích, mà bắn phá các ổ phòng không có gắn tên lửa SAM, và bảo vệ cho 10 chiếc máy bay chiến đấu loại F-4 sẽ bay tuần tiễu quanh vùng trời mục tiêu để ngăn ngừa phản lực MIG của Bắc Việt Nam. Nói tóm lại chúng có mục đích nhử đối phương. Trong suốt quá trình vật lộn với nhiều vấn đề rắc rối xảy ra từ ngày 17 đến 20 tháng 11, Manor và bộ tham mưu của ông ta đã quên mất không báo cáo cho Washington biết về việc các chiếc F.105 đã được sử dụng thêm trong lực lượng oanh kích Sơn Tây. Mỗi chiếc phản lực F.105 mang danh hiệu là Wild Weasel có 2 phi công, và các phi công này đều biết rõ nhiệm vụ của họ là làm mồi dụ địch. Họ chỉ bay ở tầm cao 13.000 bộ và ở ngay trong tầm tác xạ của tên lửa SAM 2. Chỉ một vài phút sau khi M.Donohue bay đến khu vực trại tù Sơn Tây thì tên lửa SAM đầu tiên của địch được bắn lên. Nhưng các tên lửa hướng về các phản lực F.105 chứ không phải hướng về các trực thăng. Trong tất cả 18 tên lửa SAM được bắn lên gần khu vực Sơn Tây thì đã có đến 16 tên lửa hướng về những chiếc F.105. Có 6 tên lửa được bắn lên cùng một lúc. Các máy bay làm mồi đã đạt được kết quả, tất cả tên lửa SAM của địch đều bắn sai mục tiêu. Khi cuộc tập kích đã mở màn được 12 phút, một chiếc F.105 mang danh hiệu Firebird Three suýt bị bắn rơi. Hai tên lửa SAM bay thẳng về hướng chiếc F.105 này, nhưng phi công William J., Starkey đã hạ máy bay xuống tầm thấp 5.000 bộ. Khi 2 tên lửa tiếp tục đuổi theo thì viên phi công lại cho máy bay vụt thẳng lên cao. Một tên lửa SAM đầu tiên bay qua và nổ phía sau, tên lửa khác nổ dưới bụng ở phía cánh trái. Trong thời gian từ 12 đến 15 giây đồng hồ cánh máy bay của thiếu tá Starkey dường như bốc lửa. Viên phi công phụ không thể tin được khi thấy lửa đột nhiên tắt ngấm và Starkey bình tĩnh nói với ông ta là chiếc máy bay vẫn hoạt động bình thường. Sáu phút sau đó chiếc F.105 mang danh hiệu Firebird Five bị trúng đạn. Một tên lửa SAM đã nổ gần máy bay, làm cho phòng lái bị loé sáng. Toàn thân máy bay đảo điên như gặp phải sóng lớn. Viên phi công là thiếu tá Donald Kilgus biết ngay là đã mất hệ thống điều khiển giữ thăng bằng. Trong các loại F.105 đây là điều nguy hại nhất. Ông ta không thể nào bẻ cần lái thêm được nữa. Viên phi công phụ là đại uý Clarence Lowry ngồi phía sau biết tình trạng nguy ngập vì đồng hồ báo nhiên liệu chỉ cho biết xăng bị chảy quá nhiều. Kilgus cố gắng lái máy bay về miền Nam Lào với hy vọng có thể hy vọng về được Thái Lan. Khi đến vùng cánh đồng Chum ở Lào, với độ cao 32.000 bộ, chiếc F.105 bốc lửa lớn. Cả Kilgus và Lowry cố cho máy bay hạ xuống tầm 8.000 bộ, rồi cả hai bấm nút dù để thoát ra ngoài. Hệ thống mở dù tự động đã thực hiện hữu hiệu, nhưng cả hai lại rơi xuống một vùng đất “rất không thân thiện”. Trong khoảng thời gian này Donohue đã lái chiếc trực thăng “Quả táo thứ ba” ra khỏi địa điểm chờ đợi gần doanh trại Sơn Tây. Thiếu tá Kenneth Murphy lái chiếc “Quả táo thứ năm” để hộ tống Donohue trên đường quay về, bỗng nghe làn sóng truyền tin báo hiệu một chiếc F.105 bị bắn rơi. Donohue lái trực thăng theo chiếc “Quả táo thứ hai” của John Allison, để cho Murphy với chiếc “Quả táo thứ năm” và trung tá Royal Brown với chiếc “Quả táo thứ tư” bay chậm lại tiếp thêm nhiên liệu và đi tìm cứu các phi công bị bắn rơi. Ngay sau đó một chiếc C-130 bay đến thả tháo sáng tại vùng mà họ cho là các viên phi công đã rơi xuống. Cuối cùng Murphy đã tìm được cả hai người nhưng lại bị đạn từ dưới đất bắn lên. Sau khi tái tiếp nhiên liệu xong một loạt máy bay oanh kích A-1 cùng bay đến để bảo vệ các trực thăng. Mọi người đều quyết định chờ đến tảng sáng để thi hành việc giải cứu. Sau cùng Brown đã đáp xuống và cứu được Kilgus, trong khi đó Murphy phải bay thêm nửa dặm nữa mới cứu được Lowry ra khỏi khu rừng rậm.
Nhưng
báo cáo đã bị thất lạc
Ngay sau khi viết báo cáo xong, Manor và Simons lại nhận được lệnh phải bay về Washington ngay lập tức. Simons chỉ thị cho Sydnor tập hợp mọi người lại. Ông ta muốn cho tất cả các binh sĩ biết rõ về cảm nghĩ của ông những cảm nghĩ chân thành nhất. Ông ta nói với mọi người: “Tôi biết các anh thất vọng. Chúng ta đã vào trúng chỗ. Tuy nhiên các anh không nên lo buồn gì cả, không có gì là xấu hổ cả. Các anh đã làm xong nhiệm vụ, và đã làm nhiệm vụ ấy một cách hoàn hảo, không có vị chỉ huy nào có thể đòi hỏi hơn nữa. Tất cả chúng ta chẳng có việc gì phải thẹn thùng xấu hổ cả. Công tác vừa qua, theo đúng như điều các anh đã làm thì đấy là một sự thành công. Các anh không thể làm tốt hơn thế được”. Manor và Simons lên một chiếc máy bay chở thư tín loại nhỏ, bay về Sài Gòn, và ở đấy lại chuyển sang máy bay khác để về Mỹ. Đây là chuyến bay xuyên qua Thái Bình Dương lần thứ tư của hai người trong vòng 3 tuần lễ. Đô đốc McCain đón họ tại Hawaii và đưa họ lên một trong những chiếc máy bay chỉ huy thuộc Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, đó là loại máy bay KV-135 được cải biến lại, gọi là “Looking Glass”. Simons vẫn còn nhớ rõ chiếc máy bay đó: “Lạy Chúa, thật không thể tưởng tượng được. Có đầy đủ các loại thiết bị điện tử và đài truyền tin. Thật là từ đầu đến đuôi không có thiếu thứ gì cả. Trông giống như một rừng thiết bị điện tử”. Đô đốc McCain hướng dẫn hai người ra phía sau thân máy bay và chỉ cho họ một phòng nhỏ dùng làm nơi nghỉ ngơi và Simons nhảy ngay lên giường ngủ một giấc. Cả hai người đến căn cứ không quân Andrews vào lúc 3 giờ sáng ngày thứ hai 23 tháng 11. Blackburn đón họ tại sân bay, nói cho cả hai biết là sẽ ăn điểm tâm với Bộ trưởng Laird và đô đốc Moorer, sau đó dẫn họ về phòng sĩ quan tạm trú để rửa mặt và ngủ thêm nếu cần. Simons nói cho Blackburn về việc mình đã đổ bộ nhầm doanh trại. Ông ta nói: “Thật là buồn cười, tôi nghĩ là chúng ta đã làm cho đối phương một phen hoảng hồn. Ngoài việc đó ra thì mọi việc khác đều trôi chảy êm xuôi, cuộc hành quân thật là nhẹ nhàng, êm ái đúng theo kế hoạch”. Blackburn nói thêm vào theo ông ta nghĩ có lẽ các vị tham mưu trưởng hỗn hợp còn hoảng hồn hơn là bọn Bắc Việt Nam. Simons có vẻ bực tức khi nghe câu nói đó. Ông ta phản ứng: “Thiếu tướng muốn nói điều gì với tôi vậy? Không lý gì chúng ta đã bị đánh bầm mắt à? Tôi không cáu giận với ai cả. Tôi nghĩ là mọi việc xảy ra thật tuyệt diệu. Chúng ta không cứu được tù binh nhưng, lạy Chúa tôi, khi nghĩ dù không cứu được ai cả thì công tác này cũng đáng được thi hành”.
Chương
V: Rối như tơ vò
Phòng họp báo của Lầu Năm Góc Manor và Simons chỉ ngủ được vài giờ trước khi được hộ tống đến văn phòng của Laird, tại phòng 3E 880 ở Lầu Năm Góc. Moorer đã ở đấy và chào đón hai người rất nồng nhiệt. Laird xin lỗi đã phải gọi họ về gấp rút như vậy vì chương trình có một vài thay đổi. Ông ta giải thích kỹ việc này trong bữa điểm tâm. Laird hướng dẫn hai người sang phòng ăn riêng, ở đấy người phát ngôn của Lầu Năm Góc là Daniel Henkin đã có mặt. Cả năm người ngồi vào bàn rộng đặt ngay giữa phòng. Đây là một phòng rộng đủ chứa 120 người dành vào việc tổ chức các buổi tiệc liên hoan. Đúng ra thì phòng này thường được dùng cho các buổi tiệc trao giải thưởng hoặc tiệc mừng một nhân vật nào đó được Tổng thống bổ nhiệm vào Lầu Năm Góc. Nhìn qua cửa sổ, bên kia là dòng sông Potomac, người ta thấy rõ đài kỷ niệm Thomas Jefferson, tượng đài Washington và toà Nhà Trắng. Trong khi Laird giải thích những việc gì đã xảy ra thì các chiêu đãi viên người Philippines mặc đồng phục màu xanh đang rót mời nước cam tươi và cà phê. Laird cho biết, Nhà Trắng đã điện thoại cho ông ta ngay sau khi biết được tin trại tù Sơn Tây trống rỗng và các toán lính tập kích đã trở về an toàn. Laird được lệnh mời hai vị chỉ huy cuộc tập kích về ngay Washington để Tổng thống đích thân trao huân chương cho họ. Ngoài hai vị chỉ huy, Tổng thống cũng muốn tặng thưởng huân chương cho hai binh sĩ khác nữa. Nhà Trắng nhấn mạnh là một trong hai binh sĩ này phải là người da đen. Manor và Simons được yêu cầu cho biết tên hai binh sĩ ấy đúng theo các điều khoản đã được văn phòng Tổng thống ấn định (văn phòng này ở số 1600 đại lộ Pennsylvania) nhưng hai vị sĩ quan chỉ huy này có vẻ không hào hứng cho lắm khi nghe tin này. Cả hai đều nghĩ rằng tất cả những ai đã đổ bộ xuống trại tù Sơn Tây đều phải được đối xử bình đẳng. Laird và Moorer thông cảm ý nghĩ này nhưng đã giải thích là không thể làm gì hơn được. Mayer đã được lệnh soạn thảo gấp các bản tuyên dương công trạng. Manor và Simons cứ việc chọn lựa hai binh sĩ trước rồi sẽ xem xét lại các bản tuyên dương sau. Nhu cầu tranh thủ dư luận quần chúng của Nhà Trắng đã thắng được những quan niệm về lẽ công bằng của Manor và Simons. Lễ trao gắn huân chương sẽ được tổ chức công khai. Laird nói thêm: Như vậy, có nghĩa là Lầu Năm Góc sẽ phải tiết lộ thêm nhiều chi tiết về cuộc tập kích Sơn Tây mà trước đây đã phải che giấu. Kể từ lúc Nhà Trắng ban hành chỉ thị này thì chương trình tuyên bố công khai có một chiều hướng mới: Dù ở trong trường hợp nào cũng không được tiết lộ là công tác này đã thất bại. Laird và Henkin đều nghĩ rằng việc này không phải là chuyện dễ dàng. Trong một cuộc lễ công khai với sự có mặt của nhiều người như vậy thì không biết cuộc tập kích có thể được giữ bí mật trong một thời gian dài hay không? Hoặc họ có cách nào che đậy được những phần quan trọng? Từ đây cho đến lúc Nhà Trắng trao gắn huân chương không biết là Lầu Năm Góc có nên tuyên bố những điều gì? Nên tuyên bố những chi tiết nào tối đa nhất? Nên tuyên bố những phần nào gọi là tối thiểu nhất? Mặc dù Laird không nói rõ ra những ý của ông ta muốn hỏi mọi người xem thử làm cách nào để nói cho báo chí biết là Lầu Năm Góc đã ra lệnh cho 56 người đổ bộ ngay xuống vùng Bắc Việt Nam để rốt cuộc chỉ tìm thấy được một trại tù trống rỗng? Simons nhớ lại đấy là một buổi họp lạ lùng. Mọi người đang ngồi ở vị trí thuộc Trung tâm quyền lực quân sự tối cao của Hoa Kỳ mà lại phải lo âu quá đáng về một vài lời tuyên bố với báo chí. Vừa phải suy nghĩ vừa phải lật qua lật lại những miếng trứng rán và thịt mặn trong bữa điểm tâm. Cuối cùng, Laird hỏi Simons xem ông ta thấy cần làm như thế nào? Đến lúc này thì Simons cũng có ý định muốn đề nghị với Laird một vài điều phải làm, cho dù ông ta có được hỏi ý kiến hay không. Ông ta nói với Laird nên tổ chức buổi họp báo “ngay bây giờ”. Theo quan niệm của Simons thì mọi người nên chuẩn bị sẵn sàng đón đỡ những cú đấm về câu chuyện tập kích này theo kiểu viết riêng biệt của báo chí hoặc theo đúng như lời tuyên bố của Lầu Năm Góc. Ông ta nói thêm: “Đây là một công tác hoàn toàn hợp lý, đúng theo luật định. Tù binh là người Mỹ. Vậy thì người Mỹ, theo truyền thống phải cố gắng làm một việc gì để cứu người Mỹ. Vậy thì chúng ta còn phải sợ gì nữa?”. Simons không nhớ rõ là những người khác trong buổi họp có đồng ý với ông ta hay không, nhưng Bộ trưởng Laird đã đồng ý, như vậy là đủ rồi. Ông ta nói: “Tôi không cần biết những người khác có đồng ý với tôi hay không, việc đó chẳng cần”. Ông ta cũng không nhớ rõ là Laird đã đồng tình như thế nào, tuy nhiên cuộc họp báo được tổ chức năm phút ngay sau đó. Cuộc tập kích Sơn Tây đã được soạn thảo và thi hành với sự bí mật tuyệt đối. Bây giờ lại đến màn cuối cùng phải tiết lộ ra một cách công khai trước dư luận quần chúng. Cả năm người có mặt tại buổi họp với Laird đang cố gắng chú tâm tìm cách nào để trình bày cuộc tập kích này cho thích hợp nhất. Không có cuộc thảo luận nào về chuyện thành hay bại, chuyện sai hay đúng. Sau này khi được hỏi ông ta có nói cho Laird biết là mình đã đổ bộ nhầm doanh trại hay không thì Simons trả lời: “Không, không”. Đấy không phải là vấn đề được đem ra thảo luận trong buổi họp, vì đấy là chi tiết chiến thuật. Tuy nhiên Manor và Simons đều có cảm tưởng là Laird và Moorer đã biết về sự sai lầm. Manor đã trình bày rõ việc này trong báo cáo sơ bộ sau công tác gửi về Trung tâm chỉ huy Lầu Năm Góc ngay trước khi ông ta và Simons rời căn cứ Udorn. Có điều là họ không biết chuyện bức công điện đã bị thất lạc. Washington chỉ nhận được một tuần lễ sau ngày tập kích chấm dứt và chính nhà báo Jack Anderson đã tóm được một phần bức công điện ấy trước khi đến tay Laird. 1 2 3 4 5 6 7 8 |
|||||||||||||||||||||
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét