Không Quân ĐÀO VŨ ANH HÙNG |
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm
vàng…”
Đào Vũ Anh Hùng - “… Tôi lấy anh coi hai lá thư vừa
nhận được. Một từ anh bạn cùng đơn vị ngày xưa trên đường về khu chiến ghé
Tokyo viết vài lời thăm và từ giã. Ngạc nhiên và xúc động biết bao nhiêu –
Người bạn đã cùng tôi chiến đấu dưới cờ Quân Lực, cùng tôi sống chết trong một
con tàu giữa mây cao gió lộng trên vùng trời đỏ lửa quê hương, lang bạt khắp
nẻo đường đất nước. Người bạn mà tôi nghĩ chỉ biết có “sì già đầm bồi” cùng
những nàng kiều nữ!… Ngờ đâu anh đã trở về và trên bước phản hồi cố quốc còn
nghĩ nhớ đến tôi mà viết cho tôi lá thư đầu tiên từ mười mấy năm quen biết. Thư
anh cuối đoạn có lời chào và ghi dòng chữ “Mai này chúng ta cùng về Việt Nam”.
Lòng tôi choáng ngợp niềm hãnhh diện. Tôi không có địa chỉ hồi âm. Tôi muốn
viết cảm ơn anh. Tôi muốn nhờ anh chuyển đến các anh chị em chiến sĩ lời thăm
chúc, một câu thâm tạ ngô nghê tầm thường của ngôn ngữ loài người. Nhưng thôi,
tôi đợi…”.
(Giữ Lửa – Đất Mới, tháng 9, 1982)
Thư đó, không bao giờ được viết và
gửi đi như tôi bồi hồi tưởng sẽ có ngày. Giấc mơ kháng chiến công thành, “về ôm
lấy đất, hôn mê mẩn đất” đã vỡ tan, nát vụn, làm tim chân thật của tôi cùng tim
chân thật của biết bao người đớn đau vô kể. Thật thương cho vận nước, tội
nghiệp dân tôi…
Bạn xưa,
Từ cái ngày ô nhục phơi bày phản
phúc, tỏ lộ rõ ràng cái thủy chung đạo nghĩa lọc lừa của tình chiến hữu đấu
tranh, bạn xé bỏ lương tâm đem mảnh linh hồn bán cho Vu Hích, tôi bàng hoàng và
đau nhói. Không giận, mà đau. Vì tôi hiểu bạn và vẫn thương mến bạn qua hình
ảnh người Phi công lẫm liệt ngày xưa, ngày chúng ta còn khoác chung màu áo, nắm
tay nhau vào chốn đường mây sinh tử. Không Quân chúng ta tình thì vẫn nặng,
không phải thứ “Tình Bọ Ngựa”, đang hoan hỉ cùng nhau bỗng dưng trở mặt vung
dao tiện đứt đầu bằng hữu. Nên tôi đau đớn thấy bạn nỡ bỏ anh em, nỡ bỏ bạn bè,
bỏ rơi liêm sỉ, vẽ mặt bôi râu cho người đẩy lên cái rạp phường chèo đóng vai
gã hề câm mang chức sắc triều đình Vu Hích làm trò riễu dở…
Bạn được người ban chức lớn, đầu năm
có lá thư xuân gửi đồng bào chiến hữu, hô hào yểm trợ, phi lộ bằng câu tự giới
thiệu mình vừa từ chiến khu quốc nội trở ra nhận công tác mới… Tôi đã không giữ
được trang nghiêm khi đọc lá thư chúc Tết của ông tân Tổng Vụ. Tôi rất muốn tin
quả thực bạn vừa trở ra từ khu chiến và rằng quả thực chính tay bạn viết lá thư
thân mến gửi đồng bào bằng giọng văn lãnh tụ. Tôi rất muốn sống lại cái giây
phút bồi hồi rung động của lần trông thấy hình ảnh bạn trong cuốn phim ngày
Cương Lĩnh: Bạn đi dép râu, đội nón tai bèo, khăn rằn quanh cổ chống gậy vào
rừng đi làm kháng chiến. Ngày đó tôi dậy lòng ngưỡng mộ và rưng rưng yêu mến
bạn đã cho tôi niềm tin cùng nỗi chan hoà danh diện. Nhưng bây giờ nghĩ nhớ về
bạn cùng cái tên Nguyễn Kim vừa đủ lạ, tôi thấy mình đắng cay
thương tổn và xấu hổ như chính tôi gian dối. Bạn béo trắng, vẽ râu trên mép,
bảnh bao xuất hiện giữa chốn quan chiêm, ngồi đứng đều khoanh tay nghiêm túc
khiến tôi không nhịn nổi cơn cười, nhớ lại ngày xưa bạn hay dùng chữ “giả dạng
bần tăng” để chỉ những tên bộ vó hiền lành nhưng gian và dối…
Chuyện gian dối đời không hiếm thiếu.
Nhưng tôi thực khó khăn chấp nhận những dối gian lừa đảo đến từ người mình yêu
mến và dốc lòng tin cậy. Dối gian này lại quá lớn lao. Nên chi nhìn ảnh bạn
phương phi nhân dáng trên tờ Kháng Chiến và đọc lá thư Xuân, tôi như có con
trùng tanh nhớt bò trong cuống họng. Tôi phải tin rằng thật tất cả những điều
Phượng nói cùng tôi từ bấy lâu nay về bạn mà tôi bao giờ cũng tìm lời khoả lấp
để dối lòng đừng xao xuyến niềm tin. Những lúc đinh ninh bạn đang lội suối trèo
non, gian khổ trên đường kháng chiến, thì hỡi ơi bạn lại thong dong thả bước
hào hoa trong rực rỡ đèn màu, vẫn lại “sì già đầm bồi” cùng những nàng kiều nữ!
Tôi biết nói sao để lòng khỏi ngượng vì lỡ tuyên dương bằng hữu với người vợ
trẻ? Người vợ đã làm tôi cảm kích biết ơn, nhớ ghi mãi mãi lời nói của nàng khi
đọc lá thư bạn gửi, “Em biết tính anh, những gì thích muốn là làm cho bằng được
nên em không bao giờ dám cản ngăn, chỉ thầm lén khóc. Em thực tình không muốn
anh dốc đổ quá nhiều thì giờ và tim óc cho những việc chỉ mang thêm phiền bực. Họ
bội bạc với anh, vô ơn, đố kỵ, những con người phản phúc… Thế nhưng
Việc-Kháng-Chiến, anh không làm em cũng bắt anh phải làm!” Ôi thật tội thương
người vợ trẻ. Tội thương người vợ lính đã chia xẻ cùng chồng cả một quãng đời
khăn khó, đã trải qua những truân chuyên hạnh phúc với tôi và biết thương yêu,
biết cảm thông đời lính, biết góp hy sinh cho đời chiến sĩ của chồng, biết khổ
đau và tức giận trước nỗi điêu linh tang tóc của quê hương mình bất hạnh. Người
vợ nhu mì thánh thiện từ tấm bé sống trong êm ái tình thương của gia đình, nhởn
nhơ hoa bướm thanh xuân với bạn bè, sách vở cho đến ngày biết yêu tôi, biết làm
vợ, làm mẹ… có bao giờ thấy biết rõ ràng mức độ hãi hùng bi thảm của chiến
tranh, nhìn được tỏ tường mặt ngang mũi dọc một thằng Việt cộng? Thế mà cuộc
xảy đàn tan nghé 75 đã khiến vợ tôi biết đau hận, căm thù, biết khuyến nghị
chồng góp công cho đại nghĩa.
Vợ tôi đã tin yêu thành khẩn, đóng
góp kiên trì và thành khẩn. Cả những đứa con cũng được mẹ dạy phải góp tiền yểm
trợ, phải tiếp tay giúp bố làm công tác để có ngày về thăm ông bà, nội, ngoại…
Phần tôi, lá thư bạn gửi đã cho tôi chan hoà rung động. Tôi hình dung ra toàn
vẹn hình ảnh bạn tếu vui linh hoạt ngày xưa chúng ta còn ở Phi đoàn. Những ngày
đi biệt đội, nằm chờ phi vụ tản thương đêm ở Pleiku, ở Ban Mê Thuột, hay ở
Kontum trong ngôi biệt điện bên bờ sông Dak-Bla ồn ào quấy nhộn với quân bài
xập xám… Xa hơn nữa, những ngày nắng bụi mưa dầm hành quân ở Tam Quan, Bồng Sơn
của 1966, 1967 – đêm về ăn nhậu rong chơi ở Quy Nhơn – tôi còn là gã hoa tiêu
mới ngỡ ngàng về nước, ngồi ghế copil cho bạn, rông dài khắp ngả đường mây. Tôi
đã làm hoa tiêu phó cho thầy Hườn một thời gian dài đáng kể trong tổng số giờ
bay trên chiếc H-34 kềnh càng của Phi đoàn 215 Thần Tượng. Chúng ta đã có cùng
nhau bao nhiêu kỷ niệm, chia xẻ cùng nhau nhiều nỗi sướng vui cũng như hoạn
nạn, những lần chới với bên bờ sống chết, cạnh vực hiểm nguy… Nên tôi đã bằng
vào tình nghĩa ấy để đặt tin yêu nơi bạn, không so đo, không nghi ngại, cho
mình bổn phận phải tự giác đứng lên, vội vàng tìm đến, dơ cao tay xin nhập
cuộc.
Tôi nhập cuộc không đợi ai mời gọi.
Lòng hớn hở mừng vì bạn và tôi lại chung hàng ngũ cho tôi hối chuộc tội mình
quá nặng đối với quê hương, tẩy rửa niềm xấu hổ vì không ở lại để chết cùng vận
số hẩm hiu đất nước. Kiểm điểm phần đóng góp cho Mặt trận, Phong trào từ những
ngày đầu chưa mặc áo đoàn viên, tôi phải giật mình kinh ngạc vì những thành
toàn và những hăng say tích cực, đa năng, mẫn cán đổ ra không tiếc, không dè
xẻn nguồn năng lực cùng khối nhiệt tình dành cho kháng chiến. Tôi chau chuốt
niềm tin vững mạnh nơi mình và say sưa truyền giảng cho người như kẻ thừa sai
làm việc vinh danh Chúa. Tôi đã đi những bước rất tự tin, cố dọn mình cao cả,
khoan dung nhìn những sai lầm, khuyết điểm, những vụng về, lơi lỏng là tất
nhiên phải có nơi một tổ chức mới hình thành nhưng lớn mạnh quá mau, lãnh đạo
chưa tôi luyện, thời gian cần đủ lượng để đi đến kiện toàn. Dầu gì thì ngọn lửa
cũng đã được đốt lên, phải giữ cho đỏ ngọn. Gió to góp lại sẽ thành bão tố, bột
đem quấy mãi cũng thành hồ, trăm cây chụm lại…
Lòng tôi tin như thế và mong như thế.
Nhưng cái tin mong thành khẩn dù lớn mạnh bao nhiêu cũng không đủ lực mù quáng
trái tim tôi và khoan lượng rộng rãi đến ngần nào cũng không dung được những
điều dối gạt với manh tâm quá độ. Không phải mãi đến sau ngày tan vỡ tôi mới
nhận ra hay nhìn thấy những điều gian dối, những âm mưu… Cuốn phim trình chiếu
Ngày Cương Lĩnh. Cái gọi là Chiến Khu Quốc Nội. Đài Phát Thanh Việt Nam Kháng
Chiến. Con số Mười Ngàn Quân. Những Bản Tin bịa đặt vụng về, ấu trĩ… Tôi bảo
lòng, thôi thì trong bước khởi đầu và lòng người đang bừng bừng sôi nổi, sẽ lấp
trùm tất cả những hớ hênh non kém. Rồi ra công sức chung vào, mỗi người một tay
bồi đắp, nước lã phải vã nên hồ, từ không sẽ thành ra có. Thế nhưng từ buổi đại
hội dựng cờ Chính Nghĩa, tôi nhận ra không phải như lời ông Liễu, ông Chức lúc
nào cũng nồng nàn xưng tụng cùng tôi về một Hoàng Cơ Minh, con người cách mạng
xứng vai lãnh tụ. Tôi đã tổn thương, thấm thía tất cả nỗi bẽ bàng ngượng thẹn
của một tay buôn không biết chính mình có món hàng xấu giả, đem hí hửng chào
mời, bị khách mua sành sỏi ném phăng xuống đất, chỉ tay vào mặt. Làm sao diễn
tả nổi cảm giác đắng tê nhột nhạt trong tôi, khi Ross lạnh lùng từ chối không
tiếp ông Chủ tịch Mặt trận dự định về Dallas, nhờ tôi thu xếp cho gặp nhà tỉ
phú, “xin một lời tư nghị về Kháng chiến Việt nam”. Ross Perot, cựu sĩ quan Hải
quân Hoa kỳ, nhân vật tạo huyền sử của sáng lập ra EDS – nơi tôi làm việc – của
vụ giải cứu con tin ở Iran, của “On Wings of Eagles”. Người đã bỏ tiền tài trợ
cho cuộc đổ bộ trại tù Sơn Tây, cố vấn tối cao về an ninh quốc phòng và cũng là
Phụ tá Đặc biệt của Tổng Thống Reagan về vấn đề MIA-POW tại Đông dương. Người
đầy đủ thẩm quyền để biết rõ ràng và biết tất cả về Mặt trận Kháng chiến của
Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, “hơn cả ông Minh biết nữa…!”
Bạn xưa,
Tôi đã hiểu thêm ra, trong trọn một
buổi sáng đến mãi xế chiều ngồi nghe tâm sự anh bạn trẻ nơi quán cà phê khu chợ
Maubert dưới trời đẹp Paris một ngày hiếm hoi nắng ấm. Để cũng rưng rưng đôi
dòng nước mắt cảm thông, chia xẻ cùng người chiến hữu nỗi mênh mang thống hận
của khối tâm thành hiến dâng lầm lẫn. Tôi đã cùng anh cạn chén cà phê như chia
nhau uống lượng bồ hòn. Lòng tôi dào dạt cảm thương anh và yêu và quý phục
người cán bộ đấu tranh sáng ngời phẩm chất cùng tác phong cách mạng. Anh cũng
đã như tôi – trong một cần thiết và giới hạn nào đó – đồng tình chấp nhận những
tô vẽ, những giả tạo, dấu che hay thủ đoạn… Thế nhưng bao sự kiện phơi bày
khiến tôi tung toé trong lòng hàng trăm câu hỏi, hàng ngàn nghi vấn, không cần
vận dụng đến khả năng suy luận cũng tìm thấy những trả lời làm tôi chao đảo.
Những câu hỏi “Tại sao…?” Tại sao Hải
quân Trung tá Nguyễn Hữu Trọng đã không cùng “phái đoàn quốc nội” trở lại chiến
khu mà dứt bỏ ông Minh ngay sau ngày đại hội vinh quang để về Thụy sĩ? Tại sao
làm nổi chuyện thiên nan, đưa người hải ngoại về lập ra khu chiến, lực lượng to
lớn tới mười ngàn, mà phải nhờ – mà tôi từ khước – lấy đem về tiền yểm trợ đồng
bào Âu châu đóng góp, chỉ vì một lý do “Pháp không cho chuyển tiền vàng ra
ngoại quốc!” Những người con cháu nào của họ Hoàng Cơ nắn giữ khối tiền đồng
bào dành cho kháng chiến từ bao năm qua, phần riêng cháu giữ, không gửi về ông
cậu? Tại sao cả một toa xe chất đầy quà tặng gồm thuốc tây trị giá của đồng bào
bên Ý gửi kháng chiến quân, trực tiếp qua Bangkok bị trả về bởi không ai tiếp
nhận? Tại sao Vụ trưởng Vụ Tiền lại dựng lên K-9 nắm quá nhiều quyền, vượt trên
Tổng vụ? Lý do nào ông Hoàng Cơ Định cố tình quanh quẩn dựng lên lớp rào trở
ngại để thoái thác đưa người tình nguyện về chiến đấu dù họ đã bằng lòng điều
kiện phải xuất tiền tự túc? “Tiền bạc đồng bào đóng góp bên này chúng ta nhìn
thấy quả nhiều nhưng đối với nhu cầu trong nội địa chỉ như muối đem bỏ biển.
Dấn thân này đáng quý nhưng bây giờ Mặt trận chua cần thiết một người với khả
năng như vậy. Về, chỉ thêm gánh nặng cho anh em.” Tôi chưng hửng và nhanh chóng
hiểu ngay. Hiểu thêm một sự cười ra nước mắt, rằng ông Vụ trưởng xuất thân từ
trưởng giả, học trường tây, đến tuổi được cho xuất ngoại tìm bằng cấp về ngồi
cao trong bóng mát, chưa hề có lấy một ngày khoác ba lô súng đạn, mang đôi giày
lính đi vào nơi rừng bụi sình lầy, sống lấy một ngày trong binh lửa quê hương…
Thì làm sao rõ được giá trị hiếm hoi của người lính bộ binh thám báo có trêm
mười năm quân vụ? Bảo sao không đặt bày ra thứ Bản Tin như “Bản Tin Quốc Nội”
ca ngợi công lao phá địch của chị cầm đầu tổ phụ nữ và thiếu nhi kháng chiến
tại một làng ghi rõ địa danh thuộc tỉnh Tuy Hòa có chồng Thiếu tá đang trong tù
cải tạo. Thân danh ông Thiếu tá ở một làng quê, nếu sự này có thật, thì quả tình
giá trị bản tin là lời chỉ điểm cho Việt cộng bắt người vợ đi tù không lầm lẫn!
Tôi phập phồng chờ đợi… Nhưng có bao
giờ ngờ được và đợi chờ giây phút ngẩn ngơ chết lặng trước cơn đá nát vàng tan
của cuộc biểu dương thô bạo Tình-Nghĩa-Lý-Thông và hoảng kinh chứng kiến gã
lang băm học làm thầy thuốc cầm con dao cùn, bẩn, nhiễm trùng, vụng về cắt bỏ
cái gọi là ung nhọt trên phần yếu nhược của Đứa Con Kháng Chiến! Đứa con chung
cưng quý của bao người chắt chiu kỳ vọng đã trở thành hoại thể vì thứ lang chết
tiệt, thủy chung nhân nghĩa tài năng đều nhẹ hẩng nhưng túi tham thì quá nặng.
Đọc truyện xưa nói đến những cơn tức
uất thổ ra từng ngụm máu rồi thét lên chết ngất, tôi cho người kể chỉ đặt bày.
Nhưng tôi, chính tôi đã quặn cơn đau của tội-lỗi-người-làm-mà-ta-phải-chịu. Đã
sôi hừng hực từng cơn bi phẫn bốc tận đỉnh đầu, mồ hôi vã đổ, run rẩy và nghe
được từng cơn lại từng cơn nhộn nhạo nong nóng chảy râm ran trong bụng. Tôi đã
đổ ra từng lượng máu trong bao tử và giật mình kinh sợ. Tôi nhủ lòng mình, tôi
hãy quên tất cả, hãy coi như bất hạnh này là điều may mắn vì xảy ra quá sớm và
tham vọng xấu xa kia dầu sao cũng đã lộ bày cho người người rõ mặt. Vợ tôi đã
ứa ra những giọt nước mắt hiền lành thương tủi và thở dài nhẫn nhịn khi nghe
tin đổ vỡ. Nàng quá đỗi thương tôi, chỉ buông câu hỏi sao anh nỡ dấu, không cho
em biết sớm? Câu hỏi sẽ sàng nhưng tôi nghe váng động và từng lượng máu lại râm
ran đổ tràn trong bao tử. Trời hỡi làm sao tôi nỡ xé tan hay vò nát nuột nà
mảnh lụa niềm tin vợ tôi đã dệt bằng thứ tơ óng đẹp và vô cùng bền chắc của tấc
lòng đôn hậu gửi trao cho kháng chiến? Tôi biết biện giải thế nào cùng tất cả
những người đã tín cẩn mến thương tôi, góp phần không tiếc không dè dặt như tôi
đã mến yêu tin cậy bạn, dơ tay xin nhập cuộc?
Tôi đã trải qua những giây phút bồi
hồi, sướng vui phơi phới của kẻ đi reo rắc niềm tin và đón nhận niềm tin từ
những tâm hồn chân phác biết yêu quý quê hương chung một cách. Tôi đã đi không
biết mệt trên những đoạn đường gai góc để vén thu góp nhặt từng mảnh tin yêu
chắp lại làm nên sức mạnh cho Mặt Trận và những đồng tiền cảm kích dưỡng nuôi
hoa kháng chiến nở tươi trong vườn hồng dân tộc. Những đồng tiền, cả vòng vàng
nhẫn cưới gửi trao cùng cầu mong tâm ước một mai kháng chiến công thành, quê
hương giải phóng… Đây là những đồng tiền thẫm sũng mồ hôi khó nhọc của đời cầu
thực tha phương. Tiền nhận từ bàn tay khô héo của bà mẹ già nua sống buồn phiền
lạc lõng nơi đồng đất nước người muốn mau chóng trở về chết trong lòng đất quê
nhà yêu dấu. Của em bé thơ ngây nhịn miếng cơm chim mong về hưởng lại tình
thương nội ngoại. Của con mong gặp lại cha, vợ mong gặp lại chồng. Của những
người sầu héo nhớ thương người, bạn bè mong cứu bạn bè tù tội trong gông cùm
cộng sản… Những đồng tiền mồ hôi nước mắt đã mất oan khiên không ai đòi lại
nhưng niềm tin tội nghiệp bị phỉnh lừa phải coi như nợ và nợ này phải trả. Nợ
truyền tử lưu tôn, không trả đời này thì đời con, đời cháu. Ôi biết làm sao nói
cho cùng cạn nỗi mênh mang thống hận của kẻ cầm vàng tiếc uổng công lao, nửa
đường rơi mất?
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm
vàng…
Biết bao người cũng như tôi đã mất?
Mà chao ơi lại mất quá nhiều. Tôi đã mất bạn, và coi như mất, người lính Nhảy
dù Lê Hồng của độ nào còn bôn ba khắp nẻo chiến trường đỏ lửa quê hương. Tôi
vẫn hằng ôm giữ hình ảnh Trung tá Lê Hồng một buổi trưa nắng cháy trên bãi đậu
phi trường Trảng Lớn mịt mù bụi đỏ. Người sĩ quan trong bộ hoa dù chiến trận,
đeo giây ba chạc, lom khom trải tấm bản đồ trên mui chiếc jeep, thuyết trình
cho tư lệnh Lữ đoàn… Giờ này Lê Hồng đang ở nơi nào cùng vợ và con? Có bao giờ
gặp lại ông Bùi Đức Lạc và những anh em Nhảy dù “đánh thuê cho Mỹ”? Sao ông Thi
không nói? Sao ông Tuyển không nói Lê Hồng đang ở nơi đâu?
Bạn xưa,
Đã mấy năm qua tôi bưng tai nhắm mắt,
cố giữ mình mù điếc nhưng vẫn kinh động bởi tiếng phèng la chập choẽ của đám
người Vu-Hích-Kháng-Chiến làm cuộc rước đèn ồn ào và khó chịu. Đám rước của
những ông đồng bà bóng với đầy đủ trống chiêng cờ quạt diễn ra dưới đường hầm
tăm tối, mỗi người cầm một bó đuốc dơ trước mặt, mê muội bước đi, miệng không
ngớt hò reo mừng rỡ đã trông thấy mặt trời chính nghĩa từ ánh lửa lù mù ngọn
đuốc và cứ thế đi quanh quẩn quẩn quanh rồi lại quẩn quanh quanh quẩn trong cái
đường hầm tăm tối. Tôi đã tình cờ được người nài ép phải xem cái gọi là “Thông
điệp” của ông Chủ tịch “gửi anh em chiến hữu” kỳ đại hội năm kia ở Los, nội
dung có hai điều chú ý: Thứ nhất, tuyên dương bốc thổi thành phần đoàn viên cán
bộ gọi là thế hệ trẻ trung và mới. Thứ hai, đã nặng lời thoá mạ những ai không
ủng hộ mình là “Dư Luận Vô Tư Cách”! Điều một làm tôi ghê sợ và điều hai, phẫn
nộ. Con người có tham vọng làm lãnh tụ cả một mặt trận đấu tranh dựa vào quần
chúng sao lại có thể buông ra lời hằn học thô lỗ ấy? Hạnh kiểm cùng nhân cách
con người như thế làm sao đủ bản lãnh chế ngự được cơn xúc cảm của mình trước
các vấn đề to lớn? Như tôi đã thấy, nhiều ngươi đã thấy mà ngán ngẩm trước một
ông Hoàng Cơ Minh không đè nén nổi sướng vui nhảy múa trong lòng, ngơ ngáo đến
thất thần trước nhiệt nồng đón tiếp, hoan hô, hào quang rực rỡ vây bủa lấy mình
trong Đại hội Chính Nghĩa và đã mê sảng đưa ra con số “tào lao”. Con số của một
đêm gần ba giờ sáng, cú điện thoại từ Paris dựng đầu tôi giậy, dặn đi dặn lại
tôi rằng phải làm sao liên lạc nói cùng “anh Chín” liệu lời tuyên bố cho khỏi
xảy ra sự “ông nói gà, bà nói vịt”, bởi vì “Bên này tôi lỡ trả lời báo chí rằng
quân kháng chiến nằm trong nội địa lên tới mười ngàn!” Tôi gạt phăng đi, coi
lời căn dặn chỉ là thứ chuyện tào lao từ tên bạn tào lao, luôn thích làm ra
mình quan trọng. Nào tôi dám nghĩ ông Chủ tịch lại đem con số mười ngàn quân
nhảm nhí ấy nghiêm trang tuyên bố trong đại hội!
Tôi thương tội những người yêu nước
thành tâm cho đến giờ phút này vẫn còn hăm hở nhập bầy cùng đệ tử Tinh Tú phái,
bước theo thầy mà chẳng rõ sẽ về đâu trên con đường tà khuất, bảo sao nghe vậy,
đi ngược hướng đi dân tộc, kể cả bảo phải vui mừng nhảy múa trên nỗi đau thương
tang tóc của toàn dân, coi Tháng Tư Đen bi thảm là ngày “Quốc Khánh” để ăn mừng
và bày đặt đưa ra giải thưởng tặng Phan Nhật Nam đang hấp hối trong trại tù
Việt cộng. Hãy nhìn bìa sau cuốn sách in cưỡng đoạt tác quyền để thấy ẩn ý rập
khuôn trò tiểu xảo cộng sản đã trâng tráo bày ra trước mặt người dân Saigon ở
lại. Dân Saigon đã thờ ơ trước những ngày lễ lạc của bạo quyền nhưng bảo nhau
đổ xô ra đường phố trong những ngày lễ lớn thực của mình như Giáng Sinh, Nguyên
Đán, hoa đăng tấp nập như thời vàng đã mất. Lũ gian manh đã lợi dụng dịp này để
phô trương lường gạt người ngoài, đem biểu ngữ căng trên các đường phố tưng
bừng náo nhiệt Saigon. Biểu ngữ “Mừng Kỷ Niệm Ngày Thành Lập Quân Đội Nhân Dân
Anh Hùng” của chúng thực sự đã qua cả tháng trước trong sự lạnh nhạt của dân
chúng miền Nam. Thành ra, nước Văn Lang không có ngày Tổ chết nhằm Tháng Tư Đen
để bầy con hiếu thảo ăn mừng - và không có một ngày lịch sử nào khác nằm trong
tháng Việt cộng tổ chức ăn mừng Đại Thắng Mùa Xuân - thì người ta cũng phải đẻ
ra một ngày, như ngày Cá Tháng Tư chẳng hạn, để làm Ngày Quốc Khánh! Còn như
cái phần thưởng cho Phan Nhật Nam đã khiến nhiều người nóng mặt, hãy làm ơn nói
dùm Mười Cúc thả ngay người tù khí phách và cho đi đoàn tụ - để xem Nam phản
ứng thế nào về cái giải thưởng mỉa mai dơ dáng đó?
Có một câu trong Cổ Ngữ, xem như
gương soi tỏ dung nhan người lãnh tụ, “Tâm có chính thì hành vi mới khỏi tà
khúc. Chưa có người nào hành vi phẩm hạnh không đoan chính mà họ có thể yêu
nước được”! Những người anh em không muốn nhận chân sự thật, đã dối lòng chỉ vì
tự ái, vì muốn tỏ bày rằng ta tranh đấu kiên trì, lập trường vững chãi, cao vợi
tinh thần, hay đã trúng phải thứ sinh tử phù âm độc của Thiên Sơn Đồng Mỗ? -
Những người được vồn vã tuyên dương, tán tụng là thành phần cán bộ trẻ trung có
tinh thần cách mạng đấu tranh mới. Như Võ T., như Kh., như cô bé T. Nh., tuổi
trẻ, nhiệt thành và giàu năng lực, tôi đã hết sức yêu vì bietá nhìn ra bổn
phận, náo nức muốn dự phần bởi chưa từng đóng góp máu xương cho cuộc chiến đấu
thảm sầu trên đất nước. Giờ đây những người em tôi thương mến và đã dắt dìu,
coi tôi như kẻ lạ - hay nói cho rõ ràng, như họ đã được dạy cho định nghĩa rõ
ràng - những người đã ly khai hay không theo hoặc chống đối “Mặt Trận”, đều là
những Việt gian, phản động!… Ai đã rập khuôn đường lối luyện người của cộng
sản, đem những mầm dân tộc tươi xanh đó đi nhuộm thành hung đỏ, nhét nhồi những
giáo điều sắt máu để biến họ thành những con thiêu thân cuồng tín, một chiều,
vô tình nghĩa, biết nói trơn tru những từ ngữ cách mạng, đấu tranh, hy sinh,
yêu nước và học thuộc lòng cái châm ngôn “cứu cánh biện minh phương tiện” để
hồn nhiên và hãnh diện trước tất cả những hành vi sai trái?
Họ đã được dạy phải tôn vinh lãnh tụ
như viên ngọc trân quý của cách mạng, linh hồn của tổ chức, cần hết sức giữ
gìn, “không thể hy sinh phí phạm và vô ích như những Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng
Thái, Võ Đại Tôn… làm vỡ đổ công trình cách mạng!” Đồng thời cũng học loanh
quanh lý luận “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh cũng chỉ là một nhân sự trong Mặt Trận.
Cá nhân không đáng kể và có thể thay thế được. Nhưng lý tưởng cách mạng theo
đuổi cuộc đấu tranh cứu nước mới là tối thượng, phải duy trì và quyết tâm đi
tới…” Do đó tôi không lạ khi có đoàn viên nghe tin Hoàng Cơ Minh bị chết, đã
nhảy dựng lên hậm hực. Và tôi cũng chẳng ngạc nhiên nếu mai kia cục diện Đông
Duơng biến chuyển, Việt cộng bị áp lực phải thương thảo với thành phần kháng
chiến Việt nam, sẽ chỉ nhìn nhận và đòi cho bằng được MTQGTNGPVN vào bàn hội
nghị, có hay không có Hoàng Cơ Minh cũng chẳng phiền. Ngày đó tới, đoàn viên
phải vô cùng hoan hỉ bởi Mặt trận mình được Việt cộng xem là chính thống, nhưng
tôi thì khiếp sợ cho cái tương lai nhìn thấy hồn ma xưa - Mặt Trận Giải Phóng
Việt Nam - đội mồ sống dậy!
Những người cán bộ trẻ, thành phần
cách mạng tươi mới đó, như Võ T., đã được đài thọ vào tận chiến khu học tập,
thấy mình quá đỗi trưởng thành, được dạy cho ăn nói, tập tành những tác phong
cách mạng, thuộc lòng chủ trương và đường lối Mặt Trận vẽ tô ra, trở về làm
việc toàn thời, được trả tiền công tác, được đi đó đi đây, họp hành, diễn
thuyết, được đặt ngồi cao trên sân khấu cho mọi người vỗ tay, đề cao, tán tụng,
hoan hô vinh dự… Đến ai kia cũng còn đắm đuối thứ men say mê mẩn ấy, thì “giai
cấp trẻ” nào cưỡng nổi lòng không xao động trước những vinh quang to lớn đặt
vào tay? Làm sao Võ T. dám khước từ như tôi đã giữ mình tỉnh táo khước từ những
việc làm đồng loã, không bằng lòng can dự những mưu toan, những liên quan tiền
bạc, kinh tài, những đẩy đưa ngon ngọt bằng bạc tiền và chức vụ khi còn trong
K-9…?
Làm sao Võ T. dám đưa tay gỡ bỏ cái
vòng hoa mỹ lệ tròng quanh cổ để thành tâm thú nhận về những cuốn băng Việt Nam
Kháng Chiến sau này xuất xứ từ đâu? Tôi nghĩ bạn là người phải biết rõ hơn tôi
về số phần non yểu của cái đài phát thanh thuê mượn ấy. Cái phương tiện có thì
quý hoá, không thì cũng chẳng ai kỳ kèo đòi hỏi cho bằng được. Đồng bào chỉ cần
thấy thực tâm, thấy cố sức làm và làm chuyện thật. Việc gì phải đôn đáo gọi tôi
nhờ cậy làm dùm những cuộn băng kháng chiến, “Làm trọn mỗi kỳ từ A đến Z để anh
em bên ấy chỉ việc cho vào máy phát. Anh em mình không ai có khả năng viết lách
cùng kỹ thuật dựng một chương trình. Lại thêm vấn đề sinh tử là địch lùng tìm,
anh em phải di chuyển luôn luôn, một ngày phát thanh được vài mươi phút cũng là
một kỳ công đáng kể…” Tôi từ chối. Từ cái ngày nào xa lúc lắc, mà mãi tới bây
giờ người ta vẫn rao lên, vẫn ăn mừng ngày thành lập được ba năm, rồi được năm
năm đài Phát thanh Việt Nam Kháng Chiến, “phát thanh đều đặn và liên tục không
một ngày ngưng nghỉ. Ngày phát 8 lần, mỗi lần một tiếng với bài viết dài 25
trang giấy” và đưa ra những con số gớm ghê chính xác tính ra bao nhiêu ngày,
bao nhiêu giờ, bao nhiêu phút và bao nhiêu triệu chữ trên bao nhiêu dặm dài
giấy viết! Tôi thực thà khâm phục những con người kháng chiến toàn năng đã làm
nên những việc phi thường trong những điều kiện cực cùng vất vả và khăn khó.
Còn tôi, phải thú thật rằng mặc dầu ở trên đất Mỹ dồi dào phương tiện, có khả
năng, đã từng thực hiện những chương trình phát thanh tiếng Việt tại địa phương
mỗi tuần lễ một lần, mỗi lần chỉ một giờ thôi, không một tên Việt cộng nào lùng
bắt, thế mà cũng không sao giữ được cho Tiếng Nói Việt Nam phát thanh đều đặn
và liên tục…
Bạn xưa ơi, tôi thật quả có mừng vì
đã không ở lại nhận phần chia cháo lú trộn với đường ngon mật ngọt đưa lên
miệng sì sụp khen ngon cùng đám người Vu-Hích. Tôi coi lời thoá mạ cái “dư luận
vô tư cách” mà ông Hoàng Cơ Minh khinh mạn nhắm vào tuyệt đại đa số người Quốc
gia đầy lòng độ lượng, như tiếng la rồ dại của kẻ cầm đầu đám rước quanh quẩn
rồi lại quẩn quanh đi mãi dưới đường hầm tăm tối. Tôi hiểu được cái tâm trạng
nao núng tuyệt vọng của một con người xa đồng loại, tự mình đánh mất tự do cao
quý của mình, không dám thảnh thơi đi lại, thong dong hít thở khí trời trong
mát, đã hoảng kinh kích thích khi nghe tiếng người cười nói bên ngoài mà mình
không thấy lối ra nhập cuộc, điên cuồng thoá mạ để nghe chính tiếng mình cho
được an tâm trước cái hoang vu rùng rợn của kẻ sợ ma đi lạc giữa vùng mộ địa.
Bạn xưa,
Bây giờ đã sắp mùa Xuân, lại thêm một
Tết tủi buồn đời lưu lạc. Tôi ngồi chiêu niệm quê hương và buồn ủ dột nghĩ đến
dặm đường thăm thẳm đưa ta về quê cũ. Tôi nhớ những ngày xưa. Nhớ anh em, người
thân, bằng hữu. Nhớ những cánh chim ta đã họp đoàn. Những ngày óng ả Nha Trang
bạn dắt dìu tôi bay tập… Tự nhiên tôi nhớ bạn lao đao cùng tất cả những gì mình
có cùng nhau trên mảnh quê xưa mù mù khuất nẻo. Và tôi dạt dào ao ước một ngày
ta gặp lại nhau trong tay bắt mặt mừng bằng tình cũ nghĩa xưa đẹp đẽ chắc còn
đủ lượng cho ta đừng thấy ngỡ ngàng xem nhau như kẻ lạ. Tôi thiết tha nhớ và
mong gặp bạn. Chúng ta sẽ ngồi đối diện nhau cho tôi được dịp nhìn sâu vào mắt
bạn. Và bạn sẽ nói một lời đầm ấm nhưng là lời thầm lặng không phải nói cùng
tôi. Mà nói với lương tâm bạn bằng lời trong trắng. Nói thật thà với các anh em
mình chết cho đất nước. Như Vượng, như Sinh, như Cung, như Tích… Nói nghiêm
trang cùng những bạn chúng mình đang tù ngục thảm thương vẫn hao mòn ngóng đợi
anh em về giải phóng. Nói hết sức thành tâm cùng những linh hồn u uất của anh
em đã trở về và chết hẩm hiu nơi đất nước người như cái chết của Phùng Tấn
Hiệp, của Đại tá Tư. Nói một lời lương thiện với Ngô Chí Dũng, với Trần Thiện
Khải, với những anh em bị bỏ rơi phũ phàng trên đất Thái.
Và nếu như tình nghĩa anh em, bạn bè,
đồng đội không làm bạn quan hoài, thì bạn ơi hãy thì thầm mà nói lời riêng dốc
cạn tình phu phụ cùng vợ và con yêu dấu đầy thương tội đã vùi thân nơi biển cả
trên bước đường khổ nạn kiếm tìm chồng, tìm kiếm tự do. Bạn hãy thiết tha,
thành khẩn, trang nghiêm như bạn đã thề nguyền cùng đất nước, với tất cả thiêng
liêng trong sâu thẳm đáy lòng, rằng bạn thật tâm kháng chiến, bạn không biếi
dối lừa và đồng loã dối lừa. Kháng chiến này có thực.
Đào Vũ Anh Hùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét