Nguyễn Du
(1766-1820)
Hiệu là Tố Như, Thanh Hiên, là con ông Nguyễn Nghiễm, làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh), văn chương vượt hẳn bạn bè, nhưng học vị chỉ là tam
trường (tú tài). Nguyễn Du gặp nhiều khó khăn hồi con thanh niên. Mười một tuổi
mồ côi cha, mười ba tuổi mất mẹ, suốt đời trai trẻ ăn nhờ ở đâu: hoặc ở nhà anh
ruột (Nguyễn Khản), nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi một võ
quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: chánh thủ hiệu uý. Do tình hình đất nước biến
động, chính quyền Lê Trình sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên
Điền cũng sa sút tiêu điều: "Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán".
Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Năm 1802, ra làm quan với triều Nguyễn được
thăng thưởng rất nhanh, từ tri huyện lên đến tham tri (1815), có được cử làm
chánh sứ sang Tàu (1813). Ông mất vì bệnh thời khí (dịch tả), không trối trăng
gì, đúng vào lúc sắp sửa làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ hai.
Nguyễn Du có nhiều tác phẩm. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi
tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay mới góp được
249 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người. Lời thơ điêu luyện, nhiều bài
phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các
nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung
Quốc, một cách sắc sảo. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả,
Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con
người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi
Nguyễn Du đã đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó
với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ,
khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân ca như
Thác lời con trai phường nón, bài văn tế như Văn tế sống hai cô gái
Trường Lưu, chứng tỏ ông đã tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các
phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.
Tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du là Đoạn trường tân
thanh và Văn tế thập loại chúng sinh, đều viết bằng quốc âm. Đoạn
trường tân thanh được gọi phổ biến là Truyện Kiều, là một truyện thơ
lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần nhân đạo chủ nghĩa,
phản ánh sinh động xã hội bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng cho thấy một
trình độ nghệ thuật bậc thầy.
Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt
văn hoá Việt Nam. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình
cho những mẫu người trong xã hội cũ, mang những tính cách tiêu biểu Sở Khanh,
Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ Việt Nam. Khả năng khái quát của
nhiều cảnh tình, ngôn ngữ, trong tác phẩm khiến cho quần chúng tìm đến Truyện
Kiều, như tìm một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong quần
chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng Lẩy Kiều. Sân khấu dân gian có trò
Kiều. Hội họa có nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không
kể xiết. Giai thoại xung quanhi cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải
lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong Truyện
Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay, Truyện Kiều đã
là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút chiến.
Ngay khi Truyện Kiều được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học
của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi
nổi, quan trọng nhất là cuộc phê phán của các nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng phản đối phong trào cổ xuý Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924).
Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được Nhà nước làm lễ kỷ niệm, Hội
đồng hoà bình thế giới ghi tên ông trong danh sách những Danh nhân văn hoá thế
giới. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở xã Tiên Điền quê hương ông.
Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới của Hội Nhà văn Việt Nam cũng mang
tên ông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét