Qua một
đêm thao thức, sáng hôm sau, người ta mở cửa gọi tôi ra làm việc. Tôi phải
khai sơ yếu lý lịch với một người công an hồ sơ. Họ và tên, năm sinh, nơi sinh,
nơi cư ngụ, nghề nghiệp … của tôi được viết vào năm miếng bìa năm màu. Người
công an cho tôi luôn một cái tội, khỏi cần ra tòa án: Phản động! Tên phản động
bị mắng trận phủ đầu vì ngồi trước mặt cách mạng thiếu ngay ngắn. Rồi người ta
đuổi tôi ra khỏi phòng hồ sơ. Người ta bắt tôi lăn đủ 10 đầu ngón tay lên 5 miếng
lý lịch. Người ta chụp tôi 12 kiểu hình đứng, ngồi, nghiên, thẳng, cười,
nghiêm… Thiếu một kiểu khóc. Có lẽ họ kiêng số 13! Buổi chiều, tôi làm việc với
một người công an miền Nam. Ông ta trên 50 tuổi, tóc hoa râm, đeo kiếng cận thị.
Ông ta kéo ghế mời tôi ngồi, niềm nở:
Lời ông phù hợp với lời
người công an dẫn tôi nộp cho Hai Phận tối hôm qua. Họ sơ chúng tôi phá bầu cử!
Tôi hơi yên lòng. Người công an già này cũng ghi sơ yếu lý lịch của tôi và yêu
cầu tôi tóm tắt quá trình hoạt động văn chương, báo chí từ khi tôi cầm bút.
- Những gì không cần
khai, anh cứ quên đi. Tôi không bắt buộc.
Dĩ nhiên, có nhiều điều
tôi không khai, nhất là, vụ viết tuyên ngôn cho ông Đinh Xuân Cầu. Qua 2 tiếng
làm việc, người công an đọc lại cho tôi nghe những lời khai của tôi mà ông ta
ghi trên giấy bằng bút bic. Tôi rất ngạc nhiên thấy ông ta ghi rất tóm tắt và
nhẹ nhàng hơn cả lời tôi khai. Ông ta, thay vì gọi tôi là nhà văn phản động, đã
gọi là nhà văn chế độ cũ. Tôi ký tên vào lời khai. Ông ta cũng ký tên. Rồi ông
ta nhìn tôi:
- Rất tiếc tôi chưa hề
đọc tác phẩm nào của anh và tôi cũng không biết nói chuyện thơ văn để mạn đàm
với anh. Anh có gì muốn hỏi tôi không?
- Có.
- Anh cứ hỏi tự nhiên
và tự do. Tôi không ghi chép, hết giờ làm việc với anh rồi.
- Tôi đã rất lo lắng
trước khi bước vào phòng của anh. Buổi sáng tôi bị nạt nộ. Buổi chiều tôi sợ bị
tra tấn. Anh đã không nạt nộ, không tra tấn mà còn tử tế với tôi. Do đó, tôi
muốn lợi dụng thêm lòng tốt của anh để xin anh một ân huệ.
- Anh muốn tôi giúp
điều gì?
- Cho tôi viết vài dòng
và gởi về cho vợ con tôi.
- Được.
Người công an đưa tôi
một miếng giấy và cái phong bì.
- Anh mặc sức viết.
Viết cho đủ đi, tôi rảnh rỗi.
- Cám ơn anh.
Tôi viết những giòng
sau đây cho vợ tôi:
Phương,
Anh hiện ở Sở Công An
thành phố tức là Nha Cảnh Sát Đô Thành cũ, đường Trần Hưng Đạo. Anh không bị
tra tấn. Em yên tâm. Đừng lo lắng sợ hãi. Cố giữ sức khỏe nuôi con. Các bạn đều
ở đây.
Anh,
Long
Tôi đưa miếng giấy cho
người công an.
- Viết ngắn thế thôi à?
- Vâng, đủ ý rồi.
- Anh bỏ vô phòng bì
dán lại đi. Tôi không đọc, không muốn đọc. Tôi sẽ đem đến tận nhà anh. Viết địa
chỉ và tên vợ anh trên phòng bị cho rõ.
Thật sự, tôi không hiểu
rõ người công an miền Nam này. Ông ta đóng kịch với tôi chăng? Tôi cũng không
mấy tin rằng bức thư ngắn sẽ đến tay vợ tôi. Người công an miền Nam đứng tuổi
bỏ bức thư của tôi vào cái cặp da – ông ta không đeo xà cột – rồi nói:
- Tôi sẽ không gặp anh
nữa. Anh cho tôi khuyên anh một điều: Có nhiều vị anh hùng không chết ở chiến
trường mà bị chết nhục ở cái lỗ chân trâu. Anh chớ dại chết vì cái lỗ chân
trâu. Điều nữa: Anh sẽ phải làm tự khai nhiều lần. Vậy khi viết phải sáng suốt
mà nhớ những gì mình đã viết.
- Cám ơn anh. Anh có
thể cho tôi biết tên anh không?
- Không. Anh cứ hiểu
tôi là người Sàigòn, theo cách mạng từ 1945, ngày xưa tôi học ở Chasseloup
Laubat. Anh chớ nói điều khuyên của tôi với người khác. Trong tù, tuyệt đối không
tin ai. Thôi, anh về phòng nghỉ ngơi. Yên chí, tối nay vợ anh sẽ biết tin anh.
Người công an miền Nam
đưa tôi về tận cửa phòng. Ông ta cho tôi gói thuốc Nông Nghiệp. Từ đấy, không
bao giờ tôi gặp ông ta. Tôi đã gặp rất nhiều người kháng chiến Nam bộ tập kết ở
đề lao Gia Định, ở Chí Hòa thuộc đủ mọi ngành thương nghiệp, kinh tế, công an,
bộ đội… nhưng không gặp người công an đã khuyên tôi những điều mà ngay khi chia
tay ông ta, tôi không được phép nghi ngờ ông ta. Hẳn nhiên, với người khác, đó
là chuyện khó tin. Và, hẳn nhiên, với người khác, chuyện này không nên viết
bằng sự thật. Sau những tháng năm quằn quại trong tù, tôi học được điều này:
Tôi muốn tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản và không muốn tiêu diệt con người. Chủ
nghĩa sẽ bị tiêu diệt nhưng con người cần tồn tại. Con người chỉ là công cụ thù
hận của chủ nghĩa. Và, nếu phải tiêu diệt con người thì tiêu diệt con người
lãnh tụ cộng sản là đủ. Giết thêm là thừa. Là bít lối về của những người đã
trót lỡ theo cộng sản rồi cầm đành hay những người bị cưỡng bức theo cộng sản
không đường thoát.
Trong phòng B, tôi quý
nhất Dương Nghiễm Mậu. Và tôi chỉ muốn tâm sự với tác giả Địa ngục có
thật. Có lần, ngoài đời, Mẫu nói với tôi:
- Nhiều người ghét ông
vì ông là Thương Sinh. Nhưng người ta cứ sợ Thương Sinh và nhờ vả Thương Sinh
đánh kẻ thù giùm người ta. Và ông mang tiếng. Tôi không nhờ ông, không sợ ông,
không ghét ông, không bình phẩm sau lưng ông. Việc của ông, ông cứ làm. Việc
của tôi, tôi cứ làm. Chúng ta có niềm tương kính, thế là đủ.
Tôi kể riêng với Mẫu
buổi làm việc với người công an miền Nam. Mẫu nói:
- Người miền Nam ghét
giáo điều. Trước hay sau thôi, họ sẽ lần lượt ly khai cộng sản hoặc bị cộng sản
thanh trừng.
- Ông có tin sau bầu cử
mình về không?
- Không. Tôi chuẩn bị
nằm tù 12 năm. Chúng ta sẽ còn đi nhiều nhà tù khác nhau.
- Ông có tin cộng sản
sẽ xử dụng tài năng của chúng ta không?
- Không.
- Ông đúng. Có một
người tự hào mình hiểu cộng sản nhất nước đã quả quyết cộng sản sẽ dùng lại
mình.
- Tôi biết người ấy rồi.
- Ông ta xúi tôi viết
thêm vài chương người thầy giáo giảng giải về lao động trong Ngựa chứng
trong sân trường và thử gửi ra nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội xem sao. Ông
ta tin cuốn sách này sạch, chắc chắn, Hà Nội xuất bản.
- Bậy quá.
- Trước những ngày bị
bắt, ông ta và Mặc Thu lấy làm mừng rỡ về bài diễn văn đọc trong ngày khai
giảng niên học 75-76 của Lê Duẩn. Ông ta
bảo chuyên trên hồng rồi, cộng sản Việt Nam thay đổi rồi và
ông ta chờ đợi sự thay đổi này từ 20 năm.
- Không tưởng. Sự không
tưởng đưa ông ta tự sai lầm này đến sai lầm khác. Đã một lần ông ta nằng nặc
ghi đầy đủ câu “giải thưởng văn chương toàn quốc do đích tay tổng thống trao
tặng” để cực tả sự vinh quang của ông trong triều đại nhà Ngô. Lại một lần ông
ta nằng nặc đòi tặng bản thảo bìa da gáy mạ vàng cho Nguyễn tổng thống. Nhiều
người càng già càng tối tăm. Ông ta sợ vắng mặt buổi họp mặt vớ vẩn, phải sai
con đem thư tay cho Thế Nguyên “ sẵn sàng đặt dưới sự chi phối của các anh bất
cứ lúc nào các anh cần” và xin hội kiến với Lưu Hữu Phước bị khước từ. Cái đau
là ông ta cứ nhận ông ta tạo ra thế hệ đàn em văn nghệ miền Nam! Ông ta sẽ còn
sai lầm nhiều nữa.
Tôi bị bỏ rơi một tuần
lễ. Trong tuần lễ mệt mỏi đó, Hai Phận vĩ đại vào phòng, ngồi vắt vẻo trên cái
ghế đẩu, “giáo dục” chúng tôi. Thầy Hai Phận vĩ đại phát cho chúng tôi mỗi
người một miếng giấy học trò gấp tư, bắt chúng tôi viết thư về động viên gia
đình tích cực tham gia bầu cử. Chúa ngục đọc một câu kiểu mẫu, bảo cứ viết
nguyên con. Và chúng tôi, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà đạo diễn điện ảnh lừng
danh của Sàigòn đã phải ngoan ngoãn viết theo sự đạo diễn tư tưởng của Hai
Phận! Nếu không, thư sẽ bị xé bỏ và gia đình mù mịt tin tức. Cũng trong tuần lễ
mệt mỏi nầy, vợ tôi đã gởi vào cho tôi cái mền, cái mùng và ít thuốc cảm cúm,
tiêu chảy. Bức thư tôi nhờ người công an chuyển đã tới tận tay vợ tôi. Hoàng
Anh Tuấn được gọi ra làm việc. Đằng Giao được gọi ra làm việc. Hoàng Anh Tuấn
làm việc sáng, chiều liên tục. Công an chấp pháp quay Tuấn như quay con mòng.
Tuần về phờ phạc. Anh nói nhỏ với vài người chúng tôi.
- Có một thằng nguy
hiểm lắm. Đôi mắt nó liến láu. Tao đang bị nghe đập bàn thì nó vào. Nó bảo tao
quên hết mọi chuyện đi, cùng nó ôn kỷ niệm làm thơ ở Paris ngày xưa. Chúng mày
biết nó là ai không?
- Không.
- Huỳnh Bá Thanh, bút
hiệu Ớt, bí danh Ba Trung, họa sĩ nằm vùng ở nhật báo Điện Tín của nghị sĩ Hồng
Sơn Đông.
- Nó à?
- Nó đấy, trung úy công
an cộng sản. Nó kịch cọc giỏi lắm, gặp nó thì coi chừng.
Hoàng Anh Tuấn nói buổi
tối hôm trước thì sáng hôm sau tôi được gọi ra. Chú công an ngây thơ, 17 tuổi,
tên Hồng (người Nam, chắc là con em cách mạng mới được tuyển vào nghề coi ngục,
thường cho thuốc là tù nhân) dẫn tôi đến phòng chấp pháp. Tôi gặp đúng nhân vật
mà Hoàng Anh Tuấn miêu tả: Họa sĩ Ớt, kẻ đã vẽ hàng trăm bức hí họa thô bỉ nhục
mạ “ngụy quân, ngụy quyền”. Nó vẽ chúng ta là chó mèo, chồn cáo. Nó cắt đuôi
giúp chúng ta để chúng ta làm người! Dĩ nhiên, Ớt biếm họa trên Sàigòn
Giải Phóng. Phụ họa với Ớt là thằng Cung Văn, nằm vùng ở Điện Tín và Việt
Nam Thống Tấn Xã, tên thật Nguyễn Văn Hồng, chửi rủa chúng ta tàn tệ trong mục
thơ trào phúng của nó. Ba Trung kéo ghế mời tôi rất lịch sự. Trên bàn của nó đã
có sẵn một bình trà, 2 cái ly và gói Président. Nó rót nước mời tôi. Tôi thò
tay vào túi lấy hai viên Aspro uống vì tôi bị cảm. Ba Trung dằng vội ra.
- Thuốc gì đấy anh
Duyên Anh?
- Aspro.
- Tôi sợ anh dùng thuốc
khác. Đừng tuyệt vọng anh Duyên Anh!
Khi biết chắc là Aspro,
Ba Trung để tôi uống. Nó bóc gói Président, hỏi tôi:
- Anh hút thuốc này hay
Pall Mall?
- Tôi quen hút Bastos,
bây giờ là Nông Nghiệp.
- Để tôi nhờ người mua
Nông Nghiệp. Anh dùng cà phê đen hay sữa?
- Đen
- Anh ngồi ở trong
phòng, đừng bước ra cửa, sợ phiền phức. Tôi sẽ trở lại.
Mười lăm phút sau, Ba
Trung trở lại. Nó bưng hai ly cà phê. Và móc ở cái túi da của nó ra một gói
Nông Nghiệp. Ba Trung và tôi uống cà phê, hút thuốc.
- Tôi mời anh ra hôm
nay chưa phải để làm việc mà để mạn đàm trong tình thân mật giữa con người và
con người. Anh đừng có ỷ sợ hãi chúng tôi như sợ hãi cảnh sát đặc biệt của
Thiệu. Tôi lấy danh dự bảo đảm với anh rằng không một người nào trong các anh
bị đánh đập, tra tấn và thủ tiêu, mặc dù, người của chúng tôi đã bị đánh đập,
tra tấn và thủ tiêu.
- Cám ơn.
- Anh Duyên Anh! Anh có
công nhận ở tù khổ không?
- Vâng, ở tù khổ.
- Chắc chắn là tù khổ.
Vậy mà có người bảo ở tù không khổ. Người đó là anh Hoàng Anh Tuấn. Anh xem thư
anh Tuấn nhờ tôi gửi cho chị ấy.
Ba Trung cho tôi coi
thư của Tuấn. Tôi chỉ liếc đọc câu Ba Trung gạch đỏ dưới hàng: Em đừng lo,
anh ở trong này ăn uống cũng sướng lắm. Ba Trung gấp bức thư lại:
- Hoặc anh Tuấn kiêu
ngạo, hoặc anh Tuấn mỉa mai, hoặc anh Tuấn tuyên truyền. Cả ba đều không thật
lòng anh Tuấn và tôi đã không chuyển thư. Tôi muốn thành khẩn. Anh nghĩ sao?
- Nghĩ gì?
- Về bức thư của anh
Tuấn.
- Tôi nghĩ anh Tuấn rất
thật. Với một người không lệ thuộc miếng ăn ngon, chỗ nằm êm ấm như anh Tuấn
thì ở tù sướng.
- Anh khéo bào chữa cho
bạn anh.
- Tôi nói sự thật. Anh
Tuấn đã nhường chỗ ngủ tốt cho tôi.
Ba Trung xoay qua
chuyện khác.
- Các anh đã nghĩ đài
BBC cứu các anh, phải không?
Tôi cười gượng:
- Đài ấy nhằm gì với
tôi!
- Không ai cứu nổi các
anh, ngoài các anh. Đừng tưởng đầu hàng giai cấp là nhục. Đảng cũng không bắt
anh phải phục vụ Đảng. Đảng muốn anh đem tài năng của anh phục vụ đất nước, quê
hương. Tài năng là vốn quý của con người, của tổ quốc.
- Nhưng nó cũng là
những hệ lụy, những tai họa…
- Tai họa là do anh.
Chúng tôi bắt các anh là bảo vệ các anh. Chúng tôi biết bọn phản động sắp quyến
rũ các anh vào rừng chống lại chúng tôi. Chiến tranh lại kéo dài và các anh lại
chết vô ich…
Đột nhiên Ba Trung hỏi:
- À anh Duyên Anh, anh
còn nhớ người con gái năm xưa không?
Tôi sững sờ giây lát.
- Người con gái nào?
Tôi quen cả trăm người con gái.
- Người con gái đã tặng
anh mẫu bánh mì.
- Tôi nhớ rồi.
Người con gái ấy trong
truyện Nhà tôi, ở ngay chương thứ nhất.
- Thuở ấy anh khốn khổ
quá nhỉ?
- Phải.
- Bây giờ anh cũng khốn
khổ.
- Đúng thế.
- Và Đảng cũng đem tặng
anh mẫu bánh mì.
Ba Trung mở túi lôi ra
ổ bánh mì Garden (Givral cũ) trịnh trọng trao vào tay tôi. Tôi cầm lấy, ăn một
cách ngon lành. Ba Trung diễn kịch giỏi nhưng người soạn kịch vụng về. Năm xưa,
năm tôi mới lưu lạc miền Nam, có lần đói quá, tôi đạp xe lên nhà thờ Tin Lành,
đường Trần Hưng Đạo, xin tiền vị mục sư ăn cơm dĩa. Vị mục sư từ chối và bảo
tôi hãy về tin Chúa. Tôi thất vọng, đạp xe về ngôi chùa ở đường Vườn Chuối xin
cơm. Bị mấy cậu sư lườm nguýt đóng cổng vì tưởng tôi diễu. Lại đạp về Ông Tạ,
vô nhà thờ thì đã quá trưa, giáo đường im bóng. Tôi chán nản về Lăng Cha Cả,
gặp em điếm tặng khúc bánh mì, ly cà phê đá và gói Ruby. Bây giờ, Đảng bỏ tôi
vào tù rồi Đảng tặng bánh mì Garden. Đảng tứ ví Đảng với điếm. Điếm vì tình
người đích thực. Đảng hoàn toàn giả dối.
- Anh có hay đến
nhà thằng Trần Dạ Từ chơi không?
Ba Trung cay cú Trần Dạ
Từ ra mặt. Nó, từ đầu đến cuối, gọi Trần Dạ Từ là thằng với nó.
- Thỉnh thoảng.
- Anh có biết nhà nó có
bao nhiêu cửa số không?
- Tôi không để ý.
- Mỗi cửa số nhà nó là
một kiểu, anh hiểu tại sao không?
- Không.
- Vì nó là con nuôi một
anh thầu khoán. Trần Dạ Từ là … vua con nuôi! Con nuôi Cao Văn Luận, con nuôi
Thích Trí Thủ 1… Anh thấy chứ, Huế còn nguyên, còn nguyên kỷ
niệm của Nhã Ca và Nguyên Sa, mất mát gì đâu mà chúng nó kêu réo là đổ nát,
chết chóc.
Tôi đã gặm quá nửa ổ
bánh mì. Rồi tôi liệng phần còn thừa vào sọt rác gần đó. Nhâm nhi ly cà phê,
tôi nghe Ba Trung “mạn đàm” hết chuyện nọ xọ sang chuyện kia một cách cố ý.
- Anh Duyên Anh ạ, anh
nên suy nghĩ để phục vụ quê hương. Tôi nhấn manh phục vụ quê hương chứ không
phục vụ Đảng. Người viết truyện hấp dẫn tuổi thơ như anh không có ở Việt Nam
nữa. Đảng biết anh có tài. Chỉ cần anh đừng kiêu ngạo!
Tôi kiêu ngạo? Tôi
không hiểu tôi đã kiêu ngạo ở chỗ nào mà Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh chụp
cái mũ kiêu ngạo lên người tôi. Có lẽ, tôi đã kiêu ngạo mà tôi không biết. Nói
tôi kiêu ngạo chưa đúng. Nói tôi không chịu nổi những cảnh chướng tai gai mắt
mới đúng. Tôi thường lên tiếng. Và lên tiếng thẳng thắn đến cay độc. Ở bất cứ
không gian thời gian nào. Nếu tôi đã tròn như hòn bi, chắc chắn tôi đã yên thân.
- Anh phấn đấu hết kiêu
ngạo, mọi việc sẽ tốt đẹp.
“Mọi việc sẽ tốt đẹp”.
Ba Trung đã thừa hành lệnh của thượng cấp gợi ý tôi “đầu hàng giai cấp” và “hết
kiêu ngạo” là tôi được thả và được tiếp tục nghề nghiệp của tôi. Tôi nhớ, trong
một bức thư, người bạn niên thiếu của tôi ở Hà Nội năm 1954, nắm giữ một chức
vụ then chốt ngành xuất bản, viết cho tôi: “Cậu nên mở quán bán nước trà ở hè
phố mà mưu sinh, nếu đến nỗi thế. Cậu không thể xoay cái rụp 360 độ được, vì
cậu sẽ bị chính chúng tôi khinh bỉ, dù cậu có được việc. Hãy nhìn những Hồ
Dzếnh, Hoàng Công Khanh, Nguyễn Minh Lang đã ở lại 1954, đã viết và đã chìm vào
quên lãng với đầy miệt thị của tất cả. Vả nữa, bọn nhà văn cách mạng và giải
phóng sẽ chẳng chịu để cậu thao túng văn chương đâu. Hàng thân vốn lơ láo, Long
ạ”!
- Anh cần phấn đấu mọi
mặt. Đảng biết anh ra ánh sáng không lóe mắt. Bọn Lý Chánh Trung từ bóng tối
ra, dễ chóng mặt. Rồi chúng nó sẽ chóng mặt. Bọn ấy có tài cán gì đâu.
- Tôi sẽ phấn đấu để
bớt kiêu ngạo.
Tôi nhận bừa mình đã
kiêu ngạo. Ba Trung cười thật ranh mãnh. Bọn nằm vùng chúng nó cáo hơn bốn nằm
rừng.
- Anh cần gửi thư về
cho chị không?
Suýt nữa tôi buột miệng
nói tôi đã gửi rồi. Ba Trung không phải người miền Nam. Nó trôi dạt từ đâu đó
vào Nha Trang rồi nằm vùng ở Sàigòn. Nó đóng chốt tại Điện Tín, nó biết
tường tận sinh hoạt của chúng tôi. Bọn nằm vùng rất nguy hiểm vì chúng ta khinh
bỉ cuộc sống hèn mọn của chúng nó. Chúng ta hào sảng, thích đối diện, đương
đầu. Bọn nằm vùng thì như bầy dán, sợ ánh sáng và chỉ dám mò ra kiếm ăn ban
đêm. Chúng nó, với những hành tung cổ quái, khó ai đoán nổi. Xuất hiện và hành
động ngu xuẩn thì có Vũ Hạnh, Nguyễn Trọng Văn với bầy múa rối trường đại học
Văn Khoa. Lầm lũi và đau khổ thì có Thái Bạch. Tưởng như là thái độ của người
Thiên Chúa cấp tiến thì có Thế Nguyên. Làm ra vẻ lái báo hám danh thì có Nguyễn
Văn Lương, hỗn danh Lương thịt chó. Vân vân … Cộng sản Hà Nội chủ quan và kiêu
ngạo đần độn nên mới trao sứ mang thao túng văn học nghệ thuật cho thứ Vũ Hạnh,
Thái Bạch, Thế Nguyên. Cả 3 đứa đều vừa sáng tác vừa phê bình. Người ta đã nhìn
rõ tư tưởng Mác xít của Vũ Hạnh trong những cuốn sách của nó. Nhưng, phần vì
sách của nó bán ế, phần vì nhân vật vô sản của nó đều là những người nghèo bệ
rac, xấu xa nên người ta để mặc nó bôi bẩn chủ nghĩa vô sản của nó. Sau này, có
dịp đọc cuốn Người mẹ cầm súng, tôi mới hiểu nhân vật vô sản phải là nhân
vật của biểu tượng ưu việt của chủ nghĩa. Chị Hậu, chẳng hạn. Khi còn bé, bị
bán ở đợ suốt đời cho một gia đình địa chủ. Sáu tuổi, Người mẹ cầm
súng đã biết leo lên cây dừa, tụt quần, đái xuống mặt địa chủ cường hào ác
bà để đấu tranh giai cấp! Và tôi thấy người ta không thèm đả động gì tới Vũ
Hạnh là bởi tác dụng văn chương của nó không có. Nó không lôi cuốn được độc
giả. Nếu Vũ Hạnh đừng động tới Lê Xuyên, Chu Tử, nó là thằng vô danh trong
quảng đại quần chúng đọc sách báo. Kế hoạch của công sản là tìm đủ mọi cách triệt
hạ những người có uy tín ở Saigon. Mục tiêu trước mặt: Văn nghệ sĩ nổi tiếng.
Cái mà nó huyễn hoặc quần chúng, nó tạo hậu thuẫn cho nó, nó vỗ về cái đạo đức
dân tộc cho nó là nó nghiêm khắc phê bình sự dâm đãng trong tác phẩm Lê Xuyên,
Chu Tử. Người quốc gia, bất cứ ai, đều được phép công kích nhà văn miền Nam,
trừ cộng sản. Cộng sản không được phép công khai miệt thị nhà văn quốc gia ngay
tại Sàigòn trên những nhà báo có giấy phép của nhà cầm quyền chống cộng. Và
chúng tôi đã tỏ thái độ với bọn nằm vùng, với cả bọn tiếp tay với bọn nằm vùng
là cái Bộ Thông Tin. Vũ Hạnh bị bắt (thời Ngô Đình Diệm, nó đã bị bắt). Anh em
văn nghệ … viễn mơ, thứ văn nghệ phòng trà tửu điếm, thứ văn nghệ sợ hãi cái
nhãn hiệu “nhà văn chống cộng” 2, đã âm thầm phản đối chúng tôi vụ hạ gục Vũ
Hạnh. Trên nhật báo Sống, Chu Tử đánh Vũ Hạnh để bảo vệ mình. Tôi đánh Vũ
Hạnh để bênh vực Lê Xuyên. Dạo ấy, tôi còn là thứ ngựa non háo đá. Đến khi nhà
văn hóa Thanh Lãng bảo lãnh Vũ Hạnh, cam kết với ông Nguyễn Văn Thiệu rằng Vũ
Hạnh không hề là cộng sản thì tôi … ân hận. Và khi tôi cho thực hiện loạt bài
phỏng vấn một số nhà văn “Họ đã viết truyện ngắn như thế nào?” tôi đã phỏng vấn
Vũ Hạnh, đã có lời lẽ rất tử tế. Đó chỉ là thái độ trung thực, là phản ứng của
lương tâm và còn là mời gọi tìm về. Cần lưu ý bạn rằng Vũ Hạnh chưa hề công
kích tôi. Vũ Hạnh đã viết cho tôi bức thư thật cảm động. Nó bảo: “tôi chờ đợi
thái độ nghệ sĩ của anh từ lâu” 3. Dẫu là sai – buồn thay lại đúng – bọn nằm
vùng đã hết nhí nhố khoảng thời gian khá lâu. Phải đợi đến lúc Nguyễn Trọng Văn
và lũ phu nhà đòn ở Đaị Học Văn Khoa Sàigòn hô hoán “Phạm Duy đã chết rồi”, bọn
chúng mới toan tính vùng dậy. Phạm Duy phổ thơ Apollinaire “Mùa thu chết” có âm
mưu chính trị gì đâu, vậy mà Châu Kỳ vội vàng rống lên “Mùa thu chưa chết”, mùa
thu cộng sản cướp chính quyền chưa chết! Người văn nghệ quốc gia lại phản ứng.
Viên Linh và Chóe nhập cuộc trên Khởi Hành. Tôi viết bài “Phạm Duy, ai
giết nổi anh?” trên Tuổi Ngọc. Cùng với đám ma Phạm Duy, trên tạp
chí Trình Bày của Thế Nguyên, nhà công giáo cấp tiến, tác giả “Hồi
chuông tắt lửa”, khai quật Sáng Tạo, Thế kỷ hai mươi, Văn Nghệ, dẫn chứng
cái quá trình chống cộng rồi viễn mơ tuỳ thuộc vào chính sách của Mỹ ở Việt Nam,
tùy thuộc vào sự chi tiền của các chế độ rồi kết luận Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền, Viên Linh, Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu … là “bọn tiêu bạc giả”. Rõ
rệt, bọn văn nghệ nằm vùng không đạt nổi mục đích thao túng văn nghệ thì chúng
nó bôi bẩn những người làm văn nghệ có thái độ dứt khoát với cộng sản. Song
hành màn toan tính hạ bệ uy tín Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, Dương
Nghiễm Mậu, tạp chí Đất Nước của Nguyễn Văn Trung nham nhở nhận họ
hàng “Việt cộng, người anh em của tôi!” Bọn nằm vùng thủ đoạn tua tủa. Thất bại
vụ Vũ Hạnh đụng độ nhật báo Sống, chúng nó không dám gây sự với những nhà
văn viết cho nhiều nhật báo. Thí dụ, chúng nó đã quên tôi. Cuối năm 1974, bọn
văn nghệ nhóc nắm được tạp chí Phổ Thông, chúng nó đã hội thảo đề tài “Tại
sao không ai dám đụng tới Duyên Anh?”, có nghĩa là chúng nó sắp mần thịt tôi vì
biết tôi chỉ còn Tuổi Ngọc và Tuổi Ngọc khó chơi bạo. Chúng
nó chưa kịp lập công với Đảng thì Đảng đã vô Sàigòn và Đảng bỏ tù tôi và tài
năng nằm vùng của chúng nó vất vào thùng rác lề đường. Bọn nằm vùng hèn mọn và
dơ dáy. Nó sẽ không tha báo cáo người công an miền Nam đã chuyển thư tay giùm
tôi. Nó sẽ nâng quan điểm và đánh giá đồng chí của nó là “làm mất phẩm chất
cách mạng”, là “tư tình với kẻ thù của Đảng và nhân dân”. Vân vân …
Tôi vội giả vờ hỏi:
- Được hả, anh?
Ba Trung nhìn tôi, rất
đểu:
- Với anh thì được.
Nó đưa cho tôi tờ giấy
và cây bic. Tôi viết vài giòng thăm vợ con và báo tin tôi vẫn khỏe mạnh.
- Bây giờ anh về phòng.
Tôi cần nói với anh rằng anh có thể lừa gạt được tôi nhưng anh không thể lừa
gạt nổi cách mạng.
Tôi nghĩ đến thân phận
của tôi mà ngao ngán. Tôi đã chống cộng sản, đã hô hào “chống cộng sản đến
chiều”, đã vì chống cộng mà chống luôn tất cả những bất công, thối nát của
những kẻ đòi độc quyền chống cộng sản, chống thêm cái chánh sách trịch thượng
nuôi dưỡng lãnh đạo ngu xuẩn bản xứ và đánh bóng chính nghĩa chống cộng sản của
người Mỹ. Tôi đã “chống cộng sản tự nguyện” và luôn luôn bị chụp bủa trong cái
màng lưới ngộ nhận vô tình và cố ý. Và, bây giờ, một thằng nằm vùng hạng bét
cảnh cáo tôi đừng hòng lừa gạt nó. Tôi muốn trả lời nó để đón nhân hậu quả phẫn
nộ của nó. Chợt nhớ đến lời tâm tình của người công an miền Nam: Chớ dại
chết vì cái lỗ chân trâu, tôi im lặng. Về phòng, tôi nằm dài trên bục xi măng,
hồn vướng những ý nghĩ não nề. Tôi gọi Trần Tế Xương và thì thầm với ông tú Vị
Xuyên rằng: Ngài ơi, ngài đã làm thơ cho con, vì con đấy, ngài ạ! Và tôi khe
khẽ ngâm:
Một việc văn chương
thôi đã hỏng
Trăm năm thân thế có ra
gì
Có ra gì, còn ra gì cái
thân thế của tôi, của chúng tôi? Tôi muốn nói với Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc
Sĩ, Như Phong, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Mặc Thu, Trần Dạ Từ, Thái Thủy, Lê
Xuyên, Hoàng Anh Tuấn ở lại và bị bắt. Tôi cũng muốn nói với Thảo Trường, Thanh
Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh, Văn Quang, Tô Thùy Yên, Đặng Trần Huân, những nhà
văn, nhà thơ quân đội ở lại và bị trình diện học tập cải tạo. Ở Sàigòn, trước
năm 1975 có bao nhiêu nhà văn, nhà thơ? Vậy mà cộng sản đã sàng sẩy, đãi lọc để
chỉ bắt, chỉ còng tay hơn mười người. Hơn mười người đang có mặt tại một địa
chị chung của xã hội chủ nghĩa, đang cởi trần, mặc quần xà lỏn, và mồ hôi nhễ
nhãi khắp mình mẩy, đầm đìa trên khuôn mặt buồn bã. Mỗi người một tâm sự. Mấy
ông ký giả còn thêm nhiều thắc mắc, như ông Đào Xuân Hiệp, thông tín viên tòa án,
đã giải nghệ và đã làm “tà loọc” cho chủ nhà hàng Đồng Khánh, Lê Lai, không
hiểu tại sao mình bị bắt. Như ông Văn Minh, chủ nhiệm tuần báo Con Ong,
nửa chữ không biết viết, không hiểu tại sao mình bị bắt. Như Chóe đã làm tới
chức thư ký tuần báo Lao Động Mới, không hiểu tại sao mình bị bắt…
Hôm sau, Ba Trung gọi
tôi ra. Vẫn ly cà phê đen, bình trà và gói Nông Nghiệp trên bàn. Nó mở đầu câu
chuyện tình cảm.
- Chiều qua, tôi đến
nhà anh. Tôi biết chị ấy có nhà, nhưng chị ấy sai bà cụ ra nói chị ấy vắng nhà.
Tôi hẹn buổi tối trở lại và trao thư của anh tận tay chị ấy.
Ba Trung thở dài:
- Chị ấy không tin
thiện ý của chúng tôi.
Tôi nói:
- Nhà tôi bị khủng
hoảng tinh thần.
Nó cười:
- Tuy nhiên, vẫn có lẽ
giải sao ở sân nhà anh. Có thể giải được các sao nhưng không tài nào giải được
sao vàng. Buổi tối tôi tới, gặp chị ấy, đưa thư của anh. Tôi hỏi chị ấy muốn
trả lời anh thì tôi ngồi đợi chị ấy viết. Và chị ấy nói không cần thiết nữa.
- Cám ơn anh.
- Hôm nay anh
làm tự khai.
Ba Trung lôi ngăn kéo
ra một tập giấy pelure fort do Cogido sản xuất. Nó không quên đặt lên tập giấy
2 cây Bic.
- Tôi viết gì?
- Trước hết là “Sơ yếu
lý lich” rồi quá trình đời anh, từ 10 tuổi đến ngày anh bị bắt. Thời gian từ
1954 đến 1963, anh không được quên một chi tiết nào. Đoạn anh theo đảng Duy
Dân, anh nhớ viết đầy đủ. Mỗi tờ báo anh cộng tác, mỗi cuốn sách ánh sáng tác,
anh phải nói rõ cảm hứng nào anh cộng tác, anh sáng tác. Anh tóm tắt từng cuốn
sách.
- Như thế dài lắm.
- Chúng ta có nhiều thì
giờ. Anh ngồi một mình ở đây viết cho yên lặng. Cần gì thì anh báo cáo cán bộ
trực. Tôi có việc với anh Anh Quân.
Ba Trung bỏ đi. Tôi đốt
điếu thuốc lá mới. “Chúng ta có nhiều thời giờ”. Dương Nghiễm Mẫu đã dọn sẵn 12
năm lưu đầy. Có lẽ, Mẫu đúng và người công an miền Nam sai. Tôi chưa quên
vụ Nhân Văn giai phẩm. Mới chỉ là những ẩn ức được giải tỏa theo chính sách
“sửa sai” của Đảng, theo mỹ từ “trăm hoa đua nở” của Nhà Nước mà Trần Dần,
Phùng Quán, Hữu Loan cùng đi lao động cải tạo vài năm rồi bị đuổi khỏi Hội Nhà
Văn, bị giải nghệ viết lách, mặc dù, Trần Dần là người có công to với cách
mạng, được Hồ Chí Minh đánh giá cao tác phẩm Người người, lớp lớp. Và
những Hoàng Cầm, Văn Cao bị đẩy vào trong đói rách, lãng quên. Và những Nguyên
Hồng, Nguyễn Tuân bị kiểm điểm tơi tả. Và Nguyễn Hữu Đang, Thụy An là hai người
cuối cùng của Nhân Văn giai phẩm được bước ra khỏi trại cải tạo sau
20 năm đầy đọa (1956 – 1976). Vậy thì, chúng tôi, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm
Mậu, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Như Phong, những nhà vẫn chống cộng rõ nét nhất,
tích cực nhất, chắc chắn, phải nằm tù ít nhất, cũng phải bằng Nguyễn Hữu Đang.
Nhật báo Giải Phóng (một thứ Nhân Dân miền Nam do cục R chủ
trương) đã nêu đích danh chúng tôi, gọi chúng tôi là tay sai của CIA gài lại và
kết tội chúng tôi “kéo dài chiến tranh”. Nhật báo ấy mỉa mai Doãn Quốc Sĩ: “Nó
tự ví nó là viên kim cương và nó xấc láo bảo rằng cộng sản không thể cắn vỡ nó
nổi”! Nhật báo ấy cay cú Dương Nghiễm Mậu: “Nó dám so sánh nơi chúng ta giải
phóng dân tộc là địa ngục có thật, nhân dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa
của chúng ta là những kẻ sống đã chết”! Nhật báo ấy nguyền rủa tôi:
“Ở chỗ nào nó cũng có thể tìm cách nhục mạ lãnh tụ của chúng ta và chúng ta. Nó
dám hỗn láo, mất dạy so sánh tay của Bác không gây cảm xúc bằng tay Con
Thúy. Và trong cuốn Gấu Rừng, nó cho con nít đánh nhau với khỉ thì nó
nói hạ được vài chiến sĩ vô sản chính thống”!"
Người công an miền Nam
đã “lạc đường vào lịch sử”, lạc đường vào kháng chiến, lạc đường tập kết; đã bị
phản bội, đã mệt nhoài và đã cam đành trong một guồng mày khốn kiếp, bằng tình
cảm của người dân đồng bằng sông Cửu Long, không thích kéo dài thù hận, muốn
hòa giải dân tộc thật tình nhưng ông ta nhỏ bé, ông ta làm gì nổi! Cái 10 ngày
học tập của “ngụy quân, ngụy quyền” đã thành cái vô hạn kỳ của Đảng. Thì cái
sau bầu cử cả nước, chúng tôi sẽ về, đúng với ý nghĩ của người công an miền Nam
cũng phải thành cái vô hạn kỳ. Dù sao, tôi vẫn phải ghi nhớ chân lý “Chớ dại
chết vì cái lỗ chân trâu” và lời khuyên cần thiết: "Anh sẽ phải làm tự
khai nhiều lần. Vậy khi viết phải sáng suốt mà nhớ những gì mình đã viết”.
Tôi đặt bút
viết Tự khai… Không, tôi viết những lời buộc tội tôi. Ở chế độ cộng sản,
con người không biết mình có tội gì mà vẫn phải tự nhận mình có tội bằng bút
tích. Và đó là … tự khai! Một ngày nào đó, khi cờ búa liềm ngạo nghễ bay trên
tòa Bạch Ốc, thì ngay cả đồng chí Gus Hall cũng phải làm tự khai, nói chi các
mợ Jane Fonda, Elizabeth Hopkins, những anh chị trong tòa án Bertrand Russell
và các chú thực hiện Vietnam, a television history. Đừng bao giờ tưởng
chống chiến tranh là có công với cộng sản. Cộng sản chỉ thích phản chiến khi họ
đã xâm lăng toàn cầu. Hòa bình của chó sói khác hòa bình của người công chính.
Người cộng sản chủ chiến, không chủ hòa. Họ ra vẻ hòa bình là vì họ còn yếu.
Cộng sản thực sự mạnh về kinh tế, nhân loại sẽ biến thành biển máu. Anh cần nhớ
tâm niệm của người Mác xit là tiêu diệt đế quốc tư bản để nắm quyền lực độc tôn
của đế quốc cộng sản. Có lẽ, chỉ khi anh phải làm tự khai nhận tội
phản chiến, anh mới hiểu lòng dạ cộng sản. Khi ấy, anh chẳng còn dịp than thở
với ai, sám hối với ai nữa. Khi ấy đã là đại nạn hồng thủy Liên Xô, tàn bạo,
phũ phàng hơn đại nạn hồng thủy. Và hiện thực. Và khi ấy, trước giờ phút rã
rượi gục chết trên một trang tự khai nào đó nhận cái vô tội làm cái có tội, anh
sẽ chợt hiểu tại sao người Việt Nam bỏ quê hương, xứ sở lưu vong sang nước anh
bằng những chiếc thuyền gỗ nhỏ bé lênh đênh trên đại dương để chịu đựng mọi bỏ
rơi, hắt hủi, xua đuổi của anh. Anh sẽ thấm thía những phán xét về người tị nạn
cộng sản là đê tiện, ích kỷ, hẹp hòi. Nhưng, rốt cuộc, anh vẫn chết trong cô
đơn và ngu xuẩn truyền thống. Cái chết của anh lãng nhách. Anh không được phục
sinh. Vì anh đã không được để lại cho đời sống kế tiếp một ý nghĩa nào về sự
sống hay kinh nghiệm sống của con người. Nếu anh sợ hãi chết dần chết mòn trong
cô đơn, nếu anh thèm khát phục sinh, anh nên nhìn rõ cộng sản và khơi dậy từ
trái tim anh niềm trắc ẩn đối với nạn nhân cộng sản anh sẽ được cứu rỗi. Tôi
nhắc anh: Đã 12 giờ thiếu 15 phút!
“Sơ yếu lý lịch” của
tôi dưới 2 chữ “tự khai” to tướng:
Họ và tên: Vũ Mộng Long.
Bút hiệu: Duyên Anh.
Sinh năm: 19-8-1935.
Sinh quán: Thái Bình
(Bắc Việt Nam)
Nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú: 225 Bis Công Lý, Sàigòn 3.
Quốc tịch Việt Nam.
Dân tộc: Kinh.
Nghề nghiệp: Nhà văn.
Bị bắt ngày: 8-4-1976.
Can tội: Nhà văn chế độ
cũ.
Nếu được viết thêm
“người bắt”, tôi sẽ viết “người Việt Nam”. Tôi không muốn nói xa xôi, tôi muốn
nói thật gần gũi thôi. Từ 30 năm nay (1945-1975), từ ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên
Ngôn Độc Lập 2-9-1945, ở quê hương yêu dấu của tôi, chỉ thấy người Việt Nam bắt
bớ người Việt Nam, bỏ tù người Việt Nam, tra tấn người Việt Nam, đày đọa người
Việt Nam, trả thù người Việt Nam. Cộng sản giải phóng chúng tôi, nó không bắt
chúng tôi. Tư bản khai phóng tự do, dân chủ cho chúng tôi, nó không bắt chúng
tôi. Liên Xô và Mỹ không bắt chúng tôi. Chủ nghĩa của chúng nó bắt chúng tôi.
Chúng tôi dại dột quá, nhân danh chủ nghĩa vô sản, chủ nghĩa tư bản và bằng vũ
khí của vô sản, tư bản, chúng tôi đâm chém, tàn sát lẫn nhau ròng rã 30 năm.
Chúng tôi thủ tiêu nhau, thù hận nhau ròng rã 30 năm. Bằng nhà tù, giây kẽm
gai, xiềng xích, còng khóa tư bản và vô sản, chúng tôi nhốt nhau, trói buộc
nhau ròng rã 30 năm. Bằng công cụ tra tấn và phương pháp tra tấn tư bản, vô
sản, chúng tôi hành hạ nhau. Bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi, chúng tôi làm
sáng danh chủ nghĩa. Và, hãy cứ hiểu là chiến tranh ý thức hệ hay chiến tranh
bẩn thỉu đi, thì sau hòa bình của thứ chiến tranh ấy, sau cuộc phiêu lưu man rợ
dẫn dắt bởi Liên Xô và Mỹ, chúng tôi còn lại gì? Chúng tôi còn nguyên vẹn nhà
tù, còng khóa nhãn hiệu USA, chúng tôi có thêm trại tập trung, phương pháp tẩy
não nhãn hiệu USSR. Trước 1975, Việt Nam Cộng Hoà bắt nhốt Việt Cộng vì chủ
nghĩa … tự do, dân chủ. Sau 1975, Việt Cộng bắt nhốt Việt Nam Cộng Hoà vì chủ
nghĩa… giải phóng nô lệ. Bạn rõ chưa? Chủ nghĩa đến, chủ nghĩa đi, chủ nghĩa ở
lại. Nó đến, nó đi hay nó ở lại, thì người bản xứ vẫn chết thảm, vẫn tù ngục,
vẫn xa rời tình tự dân tộc mình. Để ngu dốt, đói khổ vì chủ nghĩa. Mà chủ nghĩa
cứ công khai bắt tay hữu nghị, toa rập đầy đọa những nước nhỏ có sự hiện diện
của chúng nó. Tình trạng não nề này đã “hiện thực xã hội xã hội chủ nghĩa” ở
Việt Nam, ở Nicaragua, ở Mozambique. Sẽ ở El Salvador, ở cùng khắp các xứ sở
gọi là thế giới thứ ba chậm tiến! Bạn hãy lo thân phận bạn và số phận dân tộc
của bạn đi là vừa. Tôi nhắc bạn: Theo cộng sản thì khổ, theo tư bản thì nhục.
Chia đôi đất nước, một nửa theo cộng sản, một nửa theo tư bản thì có kinh
nghiệm Việt Nam. Vậy phải làm sao? Đó là suy tư của bạn, tài năng của bạn. Một
nhà văn nước nhỏ như tôi không đủ tư cách đề nghị một giải pháp. Trước hết, tôi
không phải là nhà tư tưởng chính trị. Sau hết, tôi rất ít học.
Tôi đọc lại cái “sơ yếu
lý lich” của tôi. Nghề nghiệp: Nhà văn. Can tôi: Nhà văn chế độ cũ. Không chỉ
riêng nhà văn, nhà thơ, nhà báo chế độ cũ bị chế độ mới còng tay tống vào ngục
tù đầu. Còn có nhà soạn kịch và đạo diễn điện ảnh. Vào tù hết. Vì anh thuộc sản
phẩm của chế độ cũ. Vào tù hết vì anh đã có ảnh hưởng trong quần chúng. Chị
Jane Fonda sẽ vào tù vì chị được xếp vào hàng văn nghệ đồi trụy! Các anh nhà
báo Mỹ sẽ vào tù vì các anh cộng tác với … tư bản. Ở chế độ cũ, dĩ nhiên, nếu
cộng sản nuốt gọn nước Mỹ, người đi trình diễn học tập cái tạo đầu tiên sẽ là
ngài Edward Kennedy. Cháu nội vĩ nhân Al Capone sẽ là chủ tịch cả nước Hoa Kỳ.
Đồng chí Gus Hall thoát tù thì cũng đến làm … chủ nhiệm trường mù! Tương lai
rực rỡ cho anh đấy, kẻ theo voi ăn bã mía ạ!
Ba Trung trở lại. Nó
đọc bản tự khai của tôi, cười mỉa:
- Anh xúc động à?
Tôi đáp:
- Không phải xúc động
mà là chưa quen tự khai. Chẳng còn gì tẻ nhạt hơn viết về mình một cách trung
thực.
- Rồi anh sẽ quen.
- Vâng, nhưng khó.
- Khó cũng phải quen.
Cả buổi anh viết xong có cái “sơ yếu lý lịch”. Anh tự hào viết nhanh nhất nước
cơ mà.
- Khi tôi thích viết.
- Bây giờ anh không
thích?
- Anh muốn tôi thành
khẩn hay gian dối?
- Thành khẩn.
- Phải, tôi không thích.
- Chúng tôi thừa hiểu
các anh không thích. Xin các anh đừng bắt chúng tôi phải làm các anh thích.
Ba Trung doạ tôi. Một
người nhà văn trẻ bị bọn Xuân Diệu, Chế Lan Viên chèn ép không cho nổi tiếng,
không thể có sách xuất bản, vào Sàigòn tìm gặp tôi và nói riêng với tôi: Khi
công sản muốn giết anh, anh cúi đầu lạy nó, nó vẫn giết. Khi nó không thể giết anh,
anh ngẩng mặt lên, nó cũng không dám giết. Khi ấy, nó ném anh vào trại tập
trung để bọn cai tù giết anh, rình rập giết anh bằng tội trốn trại vượt ngục,
bằng tội vi phạm kỷ luật bị bỏ đói chết dần mòn. Vậy anh nhớ, đừng ngẩng mặt
với bọn chăn trâu cắt cỏ. Với bọn cai tù ranh con, anh nên ngoan ngoãn, nên tỏ
ra biết điều, nên nhịn miếng ăn ngon biếu nó. Tôi muốn ngẩng mặt. Nhưng, nghĩ
lại, Ba Trung không xứng đáng để tôi ngẩng mặt. Tôi không thích chết trong cái
lỗ chân trâu.
- Anh bảo chúng ta có
nhiều thì giờ.
- Đúng.
- Tôi sẽ nhàn nhã viết
- Đồng ý. Miễn là anh
thích.
- Tôi phải thích. Tù
nhân phải làm theo ý thích của người giam nhốt nó.
- Thành thật, tôi không
muốn anh nhận anh là tù nhân.
- Tôi là gì, thưa anh?
- Anh là nạn nhân của
chế độ cũ, là nạn nhân của chính anh.
- Còn anh?
- Tôi là cán bộ của
cách mạng!
Thêm nỗi đau đớn nữa
của thời đại tôi: Tù nhân không được nhận mình là tù nhân và cai ngục chỉ là
cán bộ cách mạng. Tôi về phòng. Buổi chiều, tôi lại ra viết tự khai. Sáng sau,
chiều sau. Mãi mãi. Tự khai, tự khai. Tôi đã mô tả cái thủ thuật truy nã linh
hồn nầy tường tận và cay đắng trong truyện dài Sỏi đã ngậm ngùi.
--------------------------------
1 Trong Vụ án Hồ Con Rùa, vợ chồng Trần Dạ Từ còn bị Ba Trung miệt thị kỹ hơn.
2 Hồ Nam đã công khai viết và miệt thị Nguyễn Mạnh Côn là "nhà văn tố cộng" trên nhật báo Quyết Tiếncủa Hồ Văn Đồng.
3 Vũ Hạnh, bây giờ thật tội nghiệp. Bạn sẽ đọc loạt bài "Thân phận Vũ Hạnh và những người nằm vùng". Và bạn sẽ thấm thía nếu bạn đang nằm vùng cho cộng sản ở ngoại quốc.
CHƯƠNG 6.
Tôi được
vợ con tiếp tế thực phẩm, thuốc men, tiền bạc vào mỗi thứ năm hàng tuần như tất
cả mọi tù nhân khác. Tôi ở phòng B, nhà tù sở Công An đã qua hai tuần lễ. Đầu
tuần lễ thứ ba, người ta cho phép chúng tôi cắt tóc, cạo râu. May mắn, tôi gặp
Nguyễn Văn Sao làm giò chả ở Gò Vấp, cung cấp hàng cho toàn khu Chợ Cũ, Sàigòn.
Anh ta vượt biên từ Bắc vô Nam năm 1956, được các linh muc Gò Vấp giúp đỡ và cưới
vợ cho anh ta. Sau 30-4-75, Sao là Chủ tịch ủy ban nhân dân ấp, có súng lục và
nhiều quyền hành. Anh đã đào nhiệm, theo ông Đinh Xuân Cầu và bị bắt cùng ông
Đinh Xuân Cầu trên đường vào nhà Thái Ngũ lần thứ hai. Ngày Sao và Cầu bị bắt,
tôi biết nhưng không biết nơi giam nhốt họ. Khi tôi thấy tên ông Cầu ghim trên
miếng bìa đỏ, tôi cũng chỉ đoán ông nằm ở Sở Công An. Tôi để Sao giò vẽ bản đồ
Phú Quốc bằng cái tông-đơ cùn nhay tóc trên đầu, sau gáy tôi mà nói chuyện
riêng.
- Ông Cầu đâu?
- Phòng A. Ông vững dạ, không ai khai gì về ông cả.
- Bảo đảm?
- 100 phần 100
- Nói với ông Cầu là ông ấy ngây thơ lắm, ông ấy bị thằng mục sự chó đẻ Trương
Phiên giảng tin độc rồi. Nó nói phét, hoàn toàn nói phét.
Sau ngày Giáng Sinh năm 1975, tại nhà tôi, số 225 bis Công Lý Sàigòn 3, có một
cuộc họp tay tư. Đinh Xuân Cầu, Trương Phiên, bà Th. và tôi. Linh mục Trần Hữu
Thanh, theo lời Trương Phiên (tôi chưa hề gặp gỡ linh mục Trần Hữu Thanh trước
kia và sau này), cứ đòi mời vợ ông chủ báo quá cố V. S. Phan Mỹ Trúc tham gia nội
các. Trương Phiên từ chối. Ông Phiên đã mời bà Th., tiến sĩ, tốt nghiệp tại Mỹ.
Bà Th. đồng ý nhập cuộc. Lý do Trương Phiên chê bà Trúc vì bà này có tiệm sách
Giải Phóng ở Thị Nghè. Cuộc họp chớp nhoáng. Tôi được giao nhiệm vụ đi mời bà
Khánh Trang, cựu bí thư của bà Ngô Đình Nhu hay bà Nguyễn Văn T., chị của giáo
sư Nguyễn Ngọc Huy. Nội các Đinh Xuân Cầu có sự tham gia của ông cựu Giám đốc
VTX, thứ trưởng Bộ Thành Niên và Tuyên Truyền. Ghế Bộ trưởng còn để trống.
Trương Phiên bảo mọi người tự ý chụp một kiểu ảnh, lấy chợ sách Lê Lợi làm
phông, nhớ tìm quán bán lịch 1976 để ngoại quốc có chứng cớ cụ thế là nội các
thành lập ngay Sàigòn rồi mới lưu vong. Tôi đến nhà bà Khánh Trang, đường Hồng
Thập Tự, Sàigòn. Gặp một lô nón cối, giép râu, nói năng trỏ trẻ, không dám nói
chuyện thật với bà Khánh Trang nữa. Lại ghé về đường Pasteur, vào kiếm bà Nguyễn
Văn T.
- Chuyện đứng đắn hay chuyện phong thần hả, Duyên Anh?
- Chuyện đứng đắn.
- Duyên Anh có tham gia không?
- Có
- Làm gì?
- Báo.
Bà T. cáo lỗi vì bận tiếp thân chủ của bác sĩ Nguyễn văn T.. Một cách tiễn
khách khéo léo. Chuyện gom góp một số người có uy tín để chiến đấu chống cộng sản
sau 30-4-75 đã trở thành chuyện … phong thần. Nghĩ mà buồn bã và xót xa cho
thân phận trí thức. Và tội nghiệp ông Đinh Xuân Cầu. Người ta đã và đang vượt
biên trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền gỗ đó, có chi là phong thần? Tôi bỗng nổi
máu – sự nổi máu biến tôi thành tên biệt kích cuối cùng ra khỏi tù – Trước hết
tôi đi tìm Bùi Duy Tâm. Ông Khoa trưởng đại học Y Khoa Minh Đức của tôi đã bị
nhúm vô trại cải tạo Long Giao 3 tháng. Như Nguyễn Tuấn Anh, Bùi Duy Tâm về sum
họp gia đình trước Giáng Sinh. Tôi nói với Tâm sự nhập cuộc của tôi. Anh không
có ý kiến gì cả, chỉ vỗ vai tôi một cách thân tình:
- Ai dám chọi nhau với cộng sản lúc này đều can đảm hơn người. Chỉ lúc này mới
chứng tỏ được rằng chống cộng sản để không ăn cái giải gì ngoài lý tưởng đích
thực của mình. Chức tước là thứ hình thức cần có ở một giai đoạn nào đó. Anh đừng
câu nệ. Rồi ai cấm anh nhả nó ra. Tôi chưa biết cuộc phiêu lưu đưa anh về đầu,
vào đâu, nhưng anh hãy yên tâm, còn ở Sàigòn ngày nào, tôi lo sức khỏe cho chị
và các cháu giùm anh.
Từ giã Bùi Duy Tâm, tôi tạt sang Nguyễn Tuấn Anh. Cũng nói với Tuấn Anh như nói
với Tâm. Anh giữ tôi lại khá lâu. Cuối cùng, anh tiễn tôi về với câu dặn dò cần
thiết:
- Duyên Anh thận trọng nhé, tôi nghe nói nhiều người bị bắt rồi đấy!
Đời tôi có nhiều lần ngông và lắm lần dại. Mười chín tuổi, tôi đã xách khăn gói
tới nằm ở hành lang Tòa Thị Chính Hà Nội, đợi người Pháp đến đón sang phi trường
Gia Lâm, bay vào Sàigòn, tứ cố vô thân. Hai mươi tuổi, tôi theo đảng Duy Dân
lên Ban mê Thutc, lập chiến khu chống Mỹ, Diệm, Pháp, Bảo Đại và cộng sản. Và cả
Vatican nữa! Tôi học tập Tru trị lụccủa Lý Đông A, ngâm thơ chính khí Lý
Đông A, nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội Lý Đông A. Rồi
tôi tẩu hỏa nhập ma biến thành một ông nhóc quốc gia cực đoan rẻ tiền và lạc hậu.
Rẻ tiền và lạc hậu vì không ai hiểu nổi tâm hồn Lý Đông A. Đàn anh của tôi cũng
bị tẩu hỏa nhập ma. Khi tôi thấy có những bốn hệ phái Duy Dân ở Sàigòn, tôi cảm
thấy mình bị lừa gạt niềm tin. Và tôi đã diễn tả trong Ảo vọng tuổi trẻ.
Nhưng tôi nhờ Duy Dân mà biết Hòa Hảo, vào núi sống với Bảy Đởm, làm Cao Ba
Quát cho giặc cỏ Lê Duy Mật một thời gian. Hai mươi nhăm tuổi, nhờ vài cái truyện
ngắn, tôi được miễn bằng cử nhân, với sự tiến dẫn của ông Nguyễn Bích Liên, người
ta nhận tôi làm Biên tập viên và người ta đẩy tôi lên hàng chủ bút! Hai mươi
tám tuổi, tôi chửi nhau với Tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Tú, bỏ nghề công chức ra
làm báo. Bắt đầu làm báo là tôi viết bài quan trọng cho trang nhất. Từ đó là
ngông nghênh và ngông cuồng. Vì từ đó tôi biết rõ trí thức khoa bảng và các thần
tượng chính trị, thần tượng văn học nghệ thuật. Ba mươi lăm tuổi, tôi nhận ra
tôi ngông nghênh láo lếu. Tôi bắt đầu làm lại bằng Tuổi Ngọc. Tôi cố nhịn
nhục cuộc đời để dứt bỏ cái ngông nghênh ngu dại của mình. Bốn mươi tuổi, đúng
cuối năm 1975, tôi lại ngông. Lần này không biết định nghĩa chữ ngông ra sao vì
lần này tôi bị tước đoạt hết, kể cả quyền con người. Tôi nhận lời làm Bộ trưởng
Thanh Niên và Tuyên Truyền cho nội các Đinh Xuân Cầu.
Ông Cầu không phải người đầu tiên mời tôi tham gia chiến đấu. Trước ông ta, khoảng
tháng 8-1975, một người gọi dây nói cho tôi (bấy giờ, điện thoại nhà tôi chưa
bi cắt) bảo rằng có người bạn cũ, đồng hương, muốn gặp tôi. Câu chuyện trong điện
thoại:
- Tùy anh lựa chọn địa điểm và giờ giấc.
- Anh phải cho tôi biết tên người muốn gặp tôi.
- Để anh ngạc nhiên. Anh yên tâm, hoàn toàn thiện ý.
- Còn anh?
- Tôi hay đánh phé với anh ở nhà Trần Dạ Từ. Mấy năm trước, tôi là chánh sự vụ
sở chương trình của Đài Sàigòn.
- Chiều mai, nhà hàng Kim Hoa, 5 giờ.
- Anh đến một mình nhé!
- Tôi đã không đến một mình. Đặng Xuân Côn đến với tôi. Côn đến nhà hàng Kim
Hoa, đường Lê Lợi, từ 4 giờ 30. Tôi dễ dàng nhận diện người bạn tây-đầm-bồi-xì.
Họ đợi tôi ở chiếc bàn góc phòng. Người bạn cũ, đồng hương của tôi rất … xa lạ
với tôi. Chúng tôi chưa hề quen nhau, gặp nhau. Anh ta tự giới thiệu.
- Tôi là em vợ của Đào Quang Huy, dân Thái Bình.
Ông Đào Quang Huy, tiến sĩ luật khoa, luật sư Tòa Thượng Thẩm Sàigòn, thầy cũ của
tôi, người bị tôi tặng hỗn danh Huy Cà Chua vì cái mũi to và lúc nào cũng đỏ.
Tôi không thích ông Huy từ ngày ông ta làm cố vấn cho Bộ trưởng Thông Tin Linh
Quang Viên và ra ứng cử dân biểu đứng dưới tên Trần Thế Minh “tâu tắng”.
- Anh gặp tôi có chuyện gì?
- Việc chung. Nhưng anh mời anh Côn sang dùng chung bữa với chúng ta.
- Xin lỗi, tôi đề phòng.
Đặng Xuân Côn không biết người biết rõ mình. Chúng tôi đi vào chuyện trước khi
ăn uống. Tôi học tập Võ Tòng đối xử với Thi Ân.
- Tôi ở rừng về Sàigòn mua thuốc. Tôi trốn trình diện. Chúng tôi muốn mời anh
nhập cuộc chơi mới.
- “Chúng tôi”?
- Đàn anh và thầy của tôi, các ông đại tá. Họ đã họp, đã chọn lựa và, cuối
cùng, quyết định chọn anh vì ảnh hưởng sâu rộng của anh đối với tuổi trẻ. Tôi
được chỉ định về Sàigòn mời anh, nhờ tôi là dân Thái Bình, em vợ anh Đào Quang
Huy và chơi thân với anh Chánh sở. 1
- Tại sao chỉ mời tôi?
- Muốn các anh không cộng tác với địch.
- Phần đông nhà văn của chúng ta nghèo, anh biết chứ?
- Các ông ấy sẽ lo vấn đề mưu sinh, sẽ có tiền trao tận tay từng anh em.
- Đó là vấn đề tiên quyết. Còn tôi, tôi vào rừng?
- Anh hoạt động ở ngay Sàigòn, khi lâm nguy mới rút vào rừng.
- Cái thân tôi kể như tàn tạ rồi, chẳng sợ ai gài bẫy mình nữa. Cộng sản muốn bắt
tôi lúc nào là bắt nên tôi không nghi ngờ gì anh cả. Có điều, muốn tôi nhập cuộc,
phải đưa vợ con tôi ra khỏi Việt Nam. Khi tôi biết vợ con tôi an toàn ở ngoại
quốc, các anh bảo tôi làm gì tôi cũng làm.
- Anh cam kết?
- Phải, tôi cam kết.
- Tôi sẽ về cho các ông ấy biết điều kiện của anh và sẽ gặp anh tại nhà anh.
Tôi sẽ lái chiếc Cortina số ED, đậu bên kia đường. Thời gian chờ đợi, cần liên
lạc gì, anh liền lạc với anh Chánh sở. Anh ấy bán xăng lẻ dưới gốc cây đường Trần
Quý Cáp, lưu động dọc đường nầy. Đó là một trong những địa điểm của chúng tôi.
- Tôi nhớ.
- Anh Duyên Anh, chẳng cần dấu diếm anh làm gì, nếu hôm nay anh không nhận lời
mới của chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt anh đưa vào rừng.
Tôi giật mình. Rồi nhìn chung quanh. Có đến năm người nhìn tôi, cười thân mật.
- Sự hợp lý của anh là điều kiện anh nêu ra. Ta cứ coi đây là buổi sơ ngộ.
Ngày hôm sau, tôi đảo dọc đường Trần Quý Cáp tìm người bán xì-phé. Anh ta cho
tôi biết em vợ Đào Quang Huy là sĩ quan tình báo và những người có mặt hôm qua
đều là biệt kích. Người anh em đã tin tôi, tôi đặt hết niềm tin vào họ. Hai tuần
sau, vào một buổi sáng trời mưa, người anh em bấm chuông cổng nhà tôi. Tôi nhìn
sang bên kia đường có chiếc Cortina ED đậu. Người anh em che ô đến, dáng điệu
bình thản. Tôi biết, bên ngoài còn nhiều anh em khác.
- Các ông ấy đồng ý. Anh cho chị và các cháu chuẩn bị sẵn sàng. Như là đi du lịch,
thật giản dị. Sẽ có một em gái trạc 16 tuổi, mặc quần áo hướng đạo đến báo tin
và hẹn giờ giấc, địa điểm. Chị và các cháu sẽ đi bằng thuyền nên anh phải lo
thuốc chống say sóng. Chuyến này, chị và các cháu đi với một nhân vật quan trọng
của chúng tôi. Nếu lỡ, chuyến sau, chị đi với những người vượt biên. Sau khi chị
và các cháu an toàn ở Mỹ, chúng tôi sẽ thảo luận kế hoạch đối kháng kẻ thù. Anh
cần hỏi gì thêm?
- Nhà tôi được mang theo tiền bạc chứ?
- Được. Theo tôi, vàng bạc, hột xoàn nên để lại. Đi tay không là an toàn nhất.
- Tôi sẽ nghe lời anh.
- Tôi về, ngồi lâu không tiện vì anh có thể bị chúng nó theo dõi.
Người anh em thật chí tình. Ba hôm sau, buổi chiều, một em bé gái, mặc quần áo
hướng đạo, đến bấm chuông. Vợ tôi đang lên cơn sốt nặng lúc đó. Tôi dẫn em bé
vào phòng. Em bé chứng kiến vợ tôi đang vật vã trên giường. Tôi nhờ em nói giùm
là chuyến nầy vợ con tôi không thể đi. Em bé trở lại buổi tối, bảo tôi yên tâm
đợi chuyến sau và phải đợi lâu. Mãi đến khi ông Đinh Xuân Cầu tìm tôi, em bé
gái vẫn không trở lại trong thao thức chờ đợi của tôi. Tôi đã mất một cơ hội.
Chẳng phải tại tôi. Định mệnh đã an bài như thế, đã an bài nỗi thống khổ mà vợ
con tôi cam đành chịu đựng cùng với tôi gần trọn một thập niên. Người anh em
tuyệt tích. Tuyệt tích luôn người bạn xì-phé bên đường Trần Quý Cáp. Tạm biệt
anh em, chúng ta sẽ gặp lại hình ảnh kỷ niệm tuyệt vời ở phòng 6 khu C1, đề lao
Gia Định với Thanh Thương Hoàng Nguyễn Thanh Chiểu, chủ tịch Nghiệp Đoàn Báo
Chí Việt Nam.
Ông Đinh Xuân Cầu mừng rỡ khi tôi quyết định dấn thân. Tôi muốn giúp ông ta, đi
mời nhiều nhân sĩ, trí thức nhưng tất cả đều cho chuyện lập nội các, họp báo quốc
tế rồi lưu vong là chuyện phong thần. Miếng đỉnh chung không nhìn thấy, chỉ
nhìn thấy con đường dẫn vào nhà tù, vào sự chết thảm, chết vô danh, chết không
một nấm mồ; danh vọng không nhìn thấy chỉ nhận thấy cái án tích phản động tập trung
cải tạo, sự mỉa mai của bọn thiếu can đảm nhưng đầy ác ý, sự phiền trách của vợ
con, nên cái hợp thời và khôn ngoan nhất là tìm cách vượt biên hay ngồi yên hưởng
nốt của cải còn lại. Tôi không muốn nhận tôi là người can đảm. Tôi không thích
danh vọng chính trị vì tất cả danh vọng của Bộ trưởng, Thủ tướng, Tổng thống Việt
Nam không lừng lẫy và vĩnh cửu bằng danh vọng của một nhà văn nổi tiếng. Tôi đã
nổi tiếng, ở Việt Nam, chẳng thèm nhờ chức tước Bộ trưởng mà nổi tiếng. Nhận
làm Bộ trưởng, lúc này, không ngu thì ngông. Tôi ngông. Thế thôi. Và tôi nghĩ
tôi đủ khả năng làm đến nơi đến chốn nhiệm vụ người ta giao phó cho tôi. Điều
oái oăm trong số phận của tôi là, người ta chỉ giao phó nhiệm vụ cho tôi, tin
tưởng tài năng của tôi vào thời gian bóng xế, vào không gian quạnh hiu của nền
chống cộng, vào thời buổi chẳng ai còn một đồng bạc nào cho nhau, chẳng lạc
quyên ở đâu nửa cắc để uống nước mía mà làm … Bộ trưởng!
- Ông Cầu, khi ra ngoại quốc, ông tìm người khác thay thế tôi nhé!
- Ông phải làm việc tới khi thành công.
- Tôi không biết làm chính trị. Tôi nói trước kẻo ông sẽ trách tôi, sang nước
ngoài, tôi làm cu li mưu sinh. Bấy giờ, mọi việc dễ dàng, ông kiếm Bộ trưởng
không khó. Tôi nhắc lại: Tôi chỉ tin ông, không tin Trương Phiên. Và tôi cũng
không tin Trương Phiên đem vợ con tôi ra khỏi Việt Nam.
- Thế tại sao ông nhận lời?
- Vì ông tin tấm lòng trong sách của tôi, tin tài năng của tôi. Cũng vì tôi tuyệt
vọng, tôi muốn tìm từ trong nỗi tuyệt vọng một niềm hy vọng mới. Tôi đã là con
số zéro, tự làm thành con số 9. Hôm nay, tôi lại trở về con số zéro. Tôi không
tiếc rẻ sự mất mát. Sự khó khăn của tôi hiện tại chỉ là trách nhiệm của tôi đối
với vợ con tôi. Nếu tôi độc thân hay nếu vợ con tôi đã di tản, tôi chấp hết.
- Tôi xin được phép chia xẻ một phần trách nhiệm với ông.
- Cám ơn ông. Tôi sẽ chọn lựa một người làm việc chung với tôi.
- Ông toàn quyền.
Tôi rủ Mai Thảo lên Kim Hoa ăn sáng, nói cho anh ta biết tôi đã tham gia một tổ
chức chống cộng sản. Tôi cũng trình bày cái nội các lưu vong và mục đích của
nó. Tôi mời Mai Thảo vào cuộc chơi. Anh ta bằng lòng. Rất khiêm tốn, tôi nói:
- Tôi biết ông không câu nệ chức này, chức nọ. Hãy coi tôi làm chủ nhiệm và ông
làm chủ bút hoặc ông làm phụ tá.
Mai Thảo cười:
- Xong rồi.
- Ông vì vợ con tôi mà đừng nói chuyện này với ai.
- Tôi hứa.
Mai Thảo hứa và Mai Thảo nuốt lời hứa. Anh ta đem chuyện chống cộng sản cô đơn
và lãng mạn của tôi (và của anh nữa vì anh ta đã nhận lời) kể vung vít. Chắc chắn,
với sự mỉa mai của anh ta và với những nụ cười khinh mạn của những người nghe
anh ta kể. Ít nhất đã 3 người nghe Mai Thảo kế. Doãn Quốc Sĩ, khi nằm chung đề
lao số 3 khu C1 đề lao Gia Định, đã thuật lại với tôi. Hoàng Hải Thủy, khi tôi
trở về cuối năm 1981, đã thuật lại với tôi và trách móc: “Tại sao mày rủ thằng
Mai Thảo mà không rủ tao?” Bà Nguyễn Đình Vượng tâm sự với vợ tôi rằng: “Ông
Mai Thảo dặn tôi đừng tin Duyên Anh”, cứ làm như thể tôi sẽ … quyên vàng của bà
ta để kháng chiến! Mai Thảo không hề biết chính tôi phải ủng hộ tổ chức của tôi
một lạng vàng. Và trong cái lạng vàng chia cắt ra mua xăng nhớt, có mấy chục
dúi vào tay Mai Thảo ở nhà hàng Kim Hoa. Nhớ kỹ đi, Mai Thảo. Nhớ thêm có một lần
tôi chở Mai Thảo bằng chiếc R-8 xuống làng Báo Chí kiếm Nguyễn Đình Toàn, ăn nhậu
ở nhà Toàn, kéo nhau lên Phan Đình Phùng, hút thuốc phiện trên Quang Minh Đỉnh.
Lần đó, Mai Thảo khuyến cáo tôi: “Đừng nói gì với Nguyễn Đình Toàn, miệng nó hở
lắm”. Trong số nhà văn Việt Nam, tôi có nhiều kỷ niệm với Mai Thảo. Tôi không hề
dính dáng tới Sáng Tạo hay Nghệ Thuật của anh ta. Tôi chơi
với Mai Thảo khi tôi đã có Hoa Thiên Lý, Thằng Vũ, Mây Mùa Thu. Kỷ niệm khởi
sự, Mai Thảo không biết, không muốn biết. Lúc ấy, anh ta nằm ở Grall để … tị nạn
tình yêu sau khi bị Lê Quỳnh sửa một trận kỹ lưỡng, rạch trán Mai Thảo vì Mai
Thảo dan díu với Thái Thanh. Năm giờ sáng, Anh Ngọc mò lên toà soạn nhật báo Sống,
yêu cầu chúng tôi loại bỏ cái tin “từ thành đến tỉnh”, thứ tin xe cán, chó chết,
“Mai Thảo bị đánh ghen”, nằn nì chúng tôi và xin các báo bạn đừng đăng tin này,
đừng tạo ra xì-căng-đan ầm ỹ. Chúng tôi đã “bao kín”. Tôi quen và thân Mai Thảo
từ đó. Được nghe một chuyện tình lớn của anh ta, được nghe tâm sự ủ ê của lãng
tử độc thân, tôi mến Mai Thảo. Anh ta trầm lặng, anh ta đứng đắn. Nhưng, cuối
cùng, anh ta đã dẫm lên lòng quý mến của tôi dành riêng cho anh ta. Có lẽ, anh
ta tưởng tài năng của anh ta quần chúng thiên hạ, bất khả xâm phạm chăng? Có lẽ,
anh ta tưởng tôi sẽ chết rủ trong ngục tù, chẳng còn dịp gặp anh ta nữa chăng?
Tôi đã hiện diện. Tôi còn sung sức. Mai Thảo thì tàn tạ, cằn cỗi rồi. Tôi không
hề có ý “tính sổ” với anh. Chỉ nhắc nhở anh một sai lầm đi ra ngoài cái thiên
chức của một nhà văn tự nhận mình là “chef de file” khi anh rỉ tai với Nguyễn
Tuấn Anh: “Duyên Anh bậy lắm, trong tù, nửa đêm nó bảo anh em đun nước pha cà
phê uống, rồi nó uống một mình!” Làm gì có chuyện ấy, làm như có chuyện xích lô
chạy ở Pleiku như anh viết trong tiểu thuyết của anh. Anh chưa có một ngày
trong tù cộng sản nên anh không biết rằng, ngay cả cả phê cũng bị cấm đem vào
nhà tù nói chi lửa bếp. Ở đề lao Gia Định, đến tháng 8-1976, cà phê và trà bị cấm
tiếp tế. Trước đó, cà phê được phép và chỉ pha bằng nước nóng của trại phát buổi
sáng và buổi trưa. Tù nhân nào hâm đồ, đun nước, bằng bao túi ni lông trong xà
lim, bị phát hiện, sẽ bị còng chân nhốt ở cachot, sẽ bị cấm viết thư, nhận thư
và thăm nuôi. Ở Chí Hòa, kỷ luật khe khắt hơn. Bị gọi ra đánh sưng mày mặt. Ở
các trại tập trung, nếu lén lút gởi mua được cà phê, tù nhân pha ngoài bãi lao
động hoặc chủ nhật tự do nấu nướng trong bếp của trại. Tôi thấy Thế Phong xếp
anh vào loại nhà văn viễn mơ không sai. Anh ham ngồi xích lô, nên anh cho nhân
vật của anh ngồi xích lô trên đường dốc Pleiku. Anh ghét tôi, ghét kẻ luôn luôn
yêu mến anh, ghét kẻ thường xuyên thù tạc anh champagne và vin, ghét kẻ luôn
luôn bênh vực anh, ghét kẻ luôn luôn dùng uy thế của mình với các nhà xuất bản
để bán tác phẩm dùm anh khi anh đã hoàng hôn xế bóng và anh cho tôi “pha cà phê
trong ngục thất nửa đêm” và nhiều chuyện bịa đặt nham nhở khác. Anh Mai Thảo, với
anh thì tôi chỉ cần nói sự thật. Và anh đừng quên không phải là tôi không có
tài tưởng tượng, thêu dệt.
Đầu tháng giêng năm 1976, ông Đinh Xuân Cầu phát một tín hiệu mới: Một nửa nội
các ra đi, một nửa ở lại hoạt động ngay tại Sàigòn. Tôi đến căn nhà của người
thợ may, anh ruột của Trần Văn Lợi, khu chợ An Đông, nằm trên gác cùng với ông
Cầu. Bây giờ, tổ chức có thêm Đặng Xuân Côn, đặt địa điểm liên lạc với Trương
Phiên tại trụ sở Mai Hà công ty, đường Lê Lợi. Sáng 2-1-76, Đặng Xuân Côn tới
An Đông để tiễn chân tôi. Buổi trưa, Trương Phiên xuất hiện. Ông ta nói tình
hình bất ổn trong chiến khu. Nguyễn Cao Kỳ đã về nước, khống chế lực lượng của
Bùi Thế Lân và bắt giam Lân. Kỳ muốn nắm nội các! Trương Phiên phàn nàn linh mục
Trần Hữu Thanh không dứt khoát đi hay ở. Chuyến đi phải hoãn. Tôi ngỡ ngàng một
chút và ngờ vực nhiều chút. Khởi sự, nội các họp báo quốc tế, cầm chân các
thông tin viên bốn tiếng, rút vào bưng, xuất ngoại. Rồi một nửa nội các ra đi
không kèn không trống. Rồi tình hình chiến khu bất ổn. Và, sau hết, Trương
Phiên bảo tôi:
- Anh đừng về nhà nữa. Công an của phòng chính trị bảo vệ đã bao vây nhà anh.
Trương Phiện dặn dò chúng tôi cách khai báo, nếu rủi ro bị bắt. Phiên quả quyết
người của tổ chức nằm ở hàng ngũ công an chấp pháp Sở Công An, không sợ hãi gì
cả, anh em sẽ giải thoát. Tôi thực sự lưu vong ở … Sàigòn. Người ta tìm một căn
nhà ở Tăng Bạt Hổ, đưa ông Cầu và tôi đến tá túc. Chủ nhà là một kỹ sư nông
nghiệp hồi hưu, người miền Nam. Ông cụ biết mưu đồ của chúng tôi và tỏ ra quý mến
chúng tôi. Cụ bà càng tha thiết, quyến luyến. Các cụ có 2 người con trai, một
du học bên Pháp, ở lại, lấy vợ Pháp; một phi công trực thăng, đã hy sinh tại mặt
trận Pleiku. Trần văn Lợi giới thiệu tôi đến đây. Ba người con gái của cụ, một
cô là hotesse de l’air đường bay quốc ngoại, đã lấy chồng; hai cô đang còn là
sinh viên và là độc giả của tôi. Rất lãng mạng, dù trong nghịch cảnh, hai cô mường
tượng nhân vật Dũng cách mạng của Nhất Linh là tôi. Và tôi, tôi cũng thấy ở một
cô, dáng dấp của Loan. Nếu sự “bôn ba" của chúng tôi chỉ là một trò chơi của
gián điệp Mỹ Trương Phiên thì đau đớn quá. Trò chơi này đã xấc xược bước lên niềm
tin của nhiều người bằng gót giày thô bỉ của nó. Tôi đã nghĩ, sau này, nếu tôi
còn sống và được viết không gây nguy hai chi đến gia đình ân nhân của tôi, căn
nhà số chẵn đường Tăng Bạt Hổ phải là một truyện dài tình nghĩa. Nó phải được
ghi rõ số nhà cùng tên tuổi thật của những người cư ngụ trong đó.
Trương Phiên lại đến Tăng Bạt Hổ. Ông ta đưa cho tôi chút tiền. Khi Trương
Phiên về, tôi và Đinh Xuân Cầu thảo luận trong nỗi bực tức của tôi.
- Tôi không tin những gì Trương Phiên nói.
- Tôi tin.
- Tôi cũng không tin nó vừa đi Mỹ về.
- Tôi tin.
- Ông tin là quyền của ông, tôi muốn tìm hiểu sự thật với chứng cớ cụ thể.
- Tôi có chúng cớ cụ thể.
- Hai tuần nữa, không rời khỏi Việt Nam, tôi về nhà tôi. Tôi không muốn bị bịp.
Tôi bàn với Đinh Xuân Cầu cái kế hạ sách của tôi bắt trói Trương Phiên lại, sai
Sao Giò tra tấn y, Trương Phiên sẽ phải khai sự thật. Ông Cầu cười. Tôi cười.
Chúng tôi cười rũ rượi, cười ngây ngất. Đinh Xuân Cầu, rốt cuộc, chỉ là một nghệ
sĩ, ngây thơ và mơ mộng. Ông ta đã vẽ ra cảnh đất nước toàn thiện, toàn mỹ khi
quyền bính về tay người quốc gia chân chính.
- Nếu Trương Phiên bị bắt, tôi bảo đảm, chỉ vài tháng sau nó được tự do.
- Tại sao?
- Vì nó là gián điệp.
- Còn ông?
- Tôi chết mục trong tù.
- Còn tôi?
- Thôi, đừng nói chuyện này nữa, ông Duyên Anh.
Ông Cầu rời Tăng Bạt Hổ đi đâu, tôi không biết. Tôi ở lại đây một tuần lễ. Khi
tình yêu của tôi với cô con gái út của ông cựu kỹ sư vừa chớm nở thì Sao Giò chở
tôi đến căn nhà của ông trùm xóm đạo, đường Tô Hiến Thành, Hòa Hưng. Người ta
đã tổ chức cầu nguyện cho chúng tôi. Người ta đã cung phụng cho chúng tôi những
gì người ta có. Người ta tin tưởng chúng tôi. Chắc chắn, tôi phải tìm cách giết
Trương Phiên, nếu trò chơi của nó làm mất niềm tin của nhiều người. Ông Cầu,
Sao Giò và tôi tá túc tại Tô Hiến Thành hai ngày. Chúng tôi di chuyển xuống ngã
tư Bảy Hiền. Các chức sắc Xóm Mới thay phiên nhau đến thăm chúng tôi. Tôi áp lực
với ông Cầu phải bắt Trương Phiên nói sự thật. Ông Cầu đi gặp Trương Phiên.
- Tôi đem các con tôi ra thề với ông rằng, chính mắt tôi, đã coi những dias mà
Trương Phiên chụp đứng cạnh Lý Quang Diệu. Trương Phiên nói, để chứng minh sự
thật, y sẽ đưa Ngô Quang Trưởng về Sàigòn gặp chúng ta.
- Tôi vẫn chưa tin.
- Vì ông tỏ vẻ không tin nên Trương Phiên có ý đề phòng ông.
Tôi nổi giận:
- Nó đề phòng tôi, tôi sợ gì nó!
Ông Cầu trấn an:
- Ông đừng hiểu đề phòng theo nghĩa xấu. Ngày mai, tôi hẹn Trương Phiên ở nhà
em tôi, Đinh Xuân Thọ, đường Nguyễn Hoàng.
Chúng tôi đợi Trương Phiên. Ông ta đã tới. Trương Phiên trả lại tôi một lạng
vàng. (Tổ chức mượn tôi 2 lạng). Ông ta đưa tôi coi một tờ báo bí mật in roneo
của Phục Quốc. Rồi ông ta nói:
- Nếu các ông nóng lòng ra đi, tổ chức sẽ chỉ lo các ông tới Thái Lan thôi.
Tương lai chính trị của các ông sẽ mất mát nhiều, vì các ông khó trở về Việt
Nam.
Tôi nói:
- Tôi không cần tương lai chính trị, không cần ra đi. Tôi chỉ cần biết ông kéo
dài trò chơi này bao lâu và trò chơi của ông nhằm mục đích gì?
Trương Phiên nghiêm nghị:
- Trước hết, tôi không phải là cộng sản. Thế thì hành động của chúng ta không
phải là trò chơi.
Tôi đập bàn:
- Vậy các ông hành động đi, tôi bỏ cuộc.
Tôi về nhà tôi. Tôi không thấy một dấu hiệu nào của sự bao vây, theo rõi tôi.
Sao Giò vẫn liên lạc tôi qua Đặng Xuân Côn. Tôi biết ông Cầu đã gặp Thái Ngũ ở
Chợ Lớn và đã nhận được tài trợ của Thái Ngũ. Ông Cầu hẹn tôi ở Bảy Hiền. Tôi
giới thiệu Hoàng Ngoc Thân với ông Cầu. Ông ta cho chúng tôi hay mọi diễn tiến
tốt đẹp. Cuối tháng 1-1976, ông Cầu và Sao Giò bị bắt trên đường vào nhà Thái
Ngũ. Chính Trương Phiên lên Nam Hà công ty báo tin này cho Đặng Xuân Côn.
Trương Phiên hẹn gặp tôi ở nhà Đặng Xuân Côn. Ông ta đã thất hẹn. Sau Đinh Xuân
Cầu, linh mục Trần Hữu Thanh bị bắt. Rồi Trần Thiện Ngọ, Hà Tường Cát … Tôi bắt
đầu lo lắng. Ăn tết xong, tôi vẫn chưa bị bắt. Đặng Xuân Côn thường xuyên liên
lạc với Trương Phiên. Ông ta nói với tôi rằng không muốn gặp tôi vì tôi nóng
tính. Côn có vẻ tin Trương Phiên, ít nhất, tin rằng người của tổ chức nằm ở Sở
Công An, do đó, tôi không bị bắt. Tôi cứ thắc mắc tại sao Trương Phiên, kẻ chủ
chốt, vẫn khơi khơi ngoài đời?
Nguyễn Văn Sao, từ Sao Giò, chuyển lời của tôi cho ông Đinh Xuân Cầu khi anh ta
về phòng. Buổi chiều, anh ta ra hành nghề hớt tóc tù, Sao xin phép cán bộ tặng
tôi khúc bánh mì chả quế. Tôi hiểu ý, moi ổ bánh mì, lôi mẫu thư của Cầu: “Ông
bi quan quá, mục sư vẫn là mục sư. Tôi tin.” Tôi không tin mà yên tâm ông Cầu
đã quên tôi trong “tự khai”. Ba Trung cũng chẳng đề cập gì đến “Nội các Đinh
Xuân Cầu” khi mạn đàm với tôi. Nó không gọi tôi ra viết tự khai nữa. Bản tự
khai của tôi chưa hết quá trình từ 10 tuổi đến khi tôi di cư vào Sàigòn. Ba
Trung bỏ rơi tôi. Nó gọi Đằng Giao. Nó gọi Nguyễn Viết Khánh. Nó gọi Thanh
Thương Hoàng. Thời gian này, phòng B tiếp nhận một nhân vật của sách vở Sàigòn:
Ông Nguyễn Văn Trường, chủ nhân nhà sách Khai Trí, chủ nhiệm tuần báo Thiếu
Nhi. Ông Trường vào với tin sốt dẻo: Các giám đốc của các nhà phát hành Nam Cường,
Đồng Nai, Việt Nam đã bị bắt hết. Nguyễn Hữu Hiệu phát biểu một câu chính xác:
“Ở chế độ mới, những ai dính líu vào chữ nghĩa mà không bị bắt là một điều ô nhục!”
Rất nhiều kẻ không những đã không bị bắt mà còn rạch miệng theo thời kết án những
người bị bắt. Thí dụ tên Hồ Thành Đức, chồng của Bé Ký, đã đăng đàn nhục mạ vợ
chồng Trần Dạ Từ. Thí dụ con gái tên cộng sản nằm vùng, đã đứng trong phòng triển
lãm tội ác Mỹ Ngụy, nhìn sách của Nhã Ca trình bầy mà cười sung sướng. Vân vân
… Tôi ái ngại nhất trường hợp Đằng Giao. Cả đời cậu Trần Duy Cát chưa hề vẽ một
bức tranh chống cộng sản. Đằng Giao bị bắt chỉ vì là con rể của Chu Tử. Trước
30-4-75, Chu Tử đã yếu lắm rồi, sắp chết rồi. Tay Chu Tử run. Môi Chu Tử thường
xuyên mấp máy. Chu Tử theo đứa con trai đầu lòng xuống tàu. Việt cộng bắn tàu.
Tất cả sống nhăn hoặc bị thương, trừ Chu Tử bị chết và bị quăng xác giữa biển
khơi. Đằng Giao, Chu Thị Thủy ở lại, biến 104 Công Lý thành quán cà phê, bún chả,
bánh mì… Bạn bè tá túc 104 Công Lý có Ninh Chữ be be chửi cộng sản, có Nguyễn Hữu
Đống, tự Đống hói, giép râu túi vải thời thượng khó hiểu. Anh em văn nghệ tới Đằng
Giao ăn uống giúp đỡ bạn đều bị ghi tên vào số đen. Ai ghi? Đằng Giao biết và Đằng
Giao chẳng thể tuyết hận được vì kẻ ấy đang có mặt ở Paris, cũng sinh hoạt hội
đoàn sôi nổi! Người ta bắt Đằng Giao, bắt vợ Đằng Giao, bắt con mới sinh ra được
3 ngày của Đằng Giao vì 104 Công Lý là nơi tụ tập phản động. Không, vì không bắt
nổi Chu Tử, cộng sản giận cá chém thớt. Và đó là đạo đức cách mạng, là khoan hồng
chủ nghĩa, là phẩm cách cộng sản! Người ta còn nói thêm, đó là cái “bách chiến
bách thắng”, cái “ưu việt” của chủ nghĩa", cái nôi của loài người. Cộng sản
là những người trả thù vặt vãnh, là những người nuôi thù hận cả nghìn đời. Hãy
nghe một bài hát của họ:
Ta là người nông dân
Mặc áo lính
Chiến đấu vì giai cấp bị áp bức từ bốn nghìn năm…
Từ bốn nghìn năm cũ, con người đã là đối tượng thù hận của cộng sản. Tất cả đều
là kẻ thù của cộng sản khi họ đến. Phải đợi 100 năm sau, khi cộng sản “trồng
người” thành công cụ bịt tai, che mắt và chỉ biết tiến lên tuyến đầu mà chết thảm,
bấy giờ, họ mới hết nội thù. Nhưng vẫn còn ngoại thù.
…Sống tập đoàn cùng thế giới công khai
Và kiến thiết xã hội ngày mai
Lúc đế quốc đang sắp tan rã dần.
Ta tiền phong tiến tới
Sức chiến đấu đi xuống miền Đông Nam
Lúc đế quốc đã tàn …
Bạn ơi, lúc đế quốc tàn là đời bạn cũng tàn, là con cháu bạn phải hứng đau khổ
giùm bạn. Lúc ấy là da đen, da đỏ biến thành công cụ của thù hận trừng phạt da
trắng. Và người cộng sản thì làm linh mục, mục sư, giảng phúc ấm về đạo đức,
khoan hồng, phẩm cách, ưu việt, hạnh phúc, tự do, dân chủ, hòa hợp… Đừng nghĩ rằng
nước Mỹ không thể bị thôn tính bởi cộng sản. Vũ khí tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ của
cộng sản là lòng ích kỷ, sự trịch thượng và tinh thần thân cộng làm dáng tiến bộ
của người Mỹ. Cộng sản luôn luôn tự hào mình giỏi sáng tạo nỗi khổ. Họ sẽ có dịp
sáng tạo nỗi khổ trên khắp nước Mỹ. Một trong những nỗi khổ mà người Mỹ ớn hơn
bị mọi da đỏ lột da đầu là xuống hầm phân cải tạo, dùng tay bốc cứt, với hàng tỉ
con ròi bỏ lên thân thể, chui vào lỗ mũi, lỗ tai. Wait and see, American!
Cuối tuần lễ thứ ba xảy ra một chuyện toát mồ hôi lạnh. Vào lúc 11 giờ đêm,
chúng tôi đang nằm yên, bỗng nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ. Người cai ngục đã
chứng tỏ một nghệ thuật siêu đẳng về sự gây ra tiếng động hăm doạ chết chóc.
Chúng tôi vụt ngồi dậy. Cai ngục kéo cánh của sắt thật chậm chạp, cố tình tạo
âm thanh “két két” nổi da gà. Hắn vào phòng, cầm tờ giấy, soi dưới ánh đèn
vàng:
- Năm người có tên sau đây chuẩn bị đồ cá nhân. Khẩn trương!
Chúng tôi hồi hộp. Tim đập thình thịch. Khoảnh khắc sợ hãi đó, mỗi người trong
chúng tôi đều chỉ nghĩ tới sự bất hạnh khốn cùng. Có thể chúng tôi bị bắn. Có
thể chúng tôi bị thủ tiêu. Có thể chúng tôi bị lưu đày. Ai là năm người? Ai
cũng mong đừng là mình, dám là mình. Cảm giác này không bao giờ có ở những anh
bên ngoài nhà tù giải thích về lòng can đảm và phán xét sự khiếp nhược. Những
anh ưa giải thích lòng can đảm trong bình yên sẽ xón đái, vải cứt ra quần ngay,
sẽ ngất xỉu khi nghe gọi tên mình. Không chừng, quýu quá, mấy anh phán xét rẻ
tiền sẽ móc lỗ đít, đưa lên ngửi, rồi nếm và hy vọng đó là phép lạ cứu mình! May
quá, chúng tôi không có ai xón đái, tuy rất sợ hãi.
- Nghe tôi đọc tên, đáp có, xách hành lý ra khỏi phòng ngay.
Cai ngục hắng giọng:
- Hoàng Anh Tuấn!
- Có.
Hoàng Anh Tuấn chụp vội cái điều cày và bước ra hành lang.
- Trần Duy Cát!
- Có.
- Nguyễn Hải Chí!
- Có
Cửa phòng khép lại, khóa kỹ. Những người lọt sổ thở phào. Một tiếng đồng hồ
sau, khi mồ hôi lạnh của tôi vừa kịp khô thì chìa khóa lại tra vào ổ rất điệu
nghệ.
- Ba người có tên sau đây …
Rồi tiếp tục. Đến 4 giờ sáng. Cuối cùng, phòng B còn lại Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn
Hữu Hiệu, Hồng Dương và tôi là văn nghệ sĩ. Chúng tôi có tin lành sáng hôm sau.
Chú công an Hồng nói, đêm qua chuyển tội phạm sang đề lao Gia Định. Năm chúng
tôi bị chấp pháp bỏ rơi. Nguyễn Hữu Hiệu nói:
- Nó sẽ phân tán mỏng chúng ta. Gom toàn bộ nhà văn một phòng, tin tôi đi,
chúng ta sẽ lập thuyết, sẽ có thuyết mới ra đời.
Tôi cần nói thêm, chúng tôi sống chung với Trịnh Quới Tài, nhân viên của Phòng
Nhì cũ, tiếp tục nghề nghiệp qua các chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu.
Ông ta bị bắt từ 1-5-75. Chức tước của ông ta: trung tá phủ đặc ủy Tình Báo
Trung Ương. Ông Trịnh Quới Tài làm tự khai ngày nầy qua ngày khác. Thiếu thuốc
phiện, trí nhớ của ông ta sụt giảm. Sở Công An biết điều này, mỗi ngày cho ông
ta “làm việc” một lần. Ông được hút thuốc phiện và khai báo đủ thứ chuyện. Một
nhà báo liếc đọc trên tờ khai của ông ta có tên Thanh Thương Hoàng, Tô Ngọc, Trịnh
Viết Thành… Tất cả ký giả nhận tiền của Trung Ương Tình Báo đều bị Trịnh Quới
Tài … tự khai. Tuy không liên hệ gì với Trung Ương Tình Báo, Mậu, Hiệu và tôi rất
ngán ông Tài. Chúng tôi chỉ sợ làm mất lòng ông ta. Ông Tài thích kể kỷ niệm xuống
Long Xuyên, vây bắt bố vợ tôi, ông Nguyễn Ngọc Đề, người “chống luật người cày
có ruộng không biết mệt mỏi”.
Cùng với những người bị bắt về đủ thứ tội, cụ già và con nít, chúng tôi ở Sở
Công An đã qua bầu cử. Chúa ngục Hai Phận hân hoan bao tin:
- Bầu cử quốc hội cả nước thành công vĩ đại.
Y trơ trẽn nói:
- Gia đình các anh rất cảm động khi đọc thư các anh. Vợ con các anh khen các
anh đã vào tù mà còn nhắc nhở bổn phận bầu cử!
Hai Phận bắt chúng tôi viết đúng boong câu mồi của chế độ rồi y khen chúng tôi!
Trong một nghìn nỗi bất hạnh con người phải chiu đựng, nỗi bất hạnh chảy nước mắt
nhiều nhất là vào nhà tù cộng sản để có ông thầy Hai Phận, biểu tượng thê thảm
của chủ nghĩa ưu việt. Cộng sản kiêu ngạo một cách ngu xuẩn. Họ mắc cái bệnh
thích làm thầy mọi người. Họ khoái được giáo dục con người. Cứ mở miệng là họ
đòi … giáo dục. Họ đã giao nhiệm vụ giáo dục chúng tôi cho Hai Phận dốt nát. Mỗi
sáng thứ bẩy, y ngồi chễm chệ trên ghế đẩu, giảng dạy văn hóa Mác xít như Hồ
Chí Minh giảng dạy cách giết người. Chúng tôi phải nghe. Không dám cười.
- Hôm nay, tôi dạy các anh về bệnh ghẻ. Các anh có biết tại sao miền Nam ghẻ mà
miền Bắc không ghẻ không?
Im lặng, Hai Phận cười:
- Cần một anh trả lời và hỏi. Học, hỏi, hiểu, hành. Học mà không hỏi thì hiểu
gì mà hành!
Trưởng phòng bèn lễ độ:
- Thưa ông Trưởng trại, chúng tôi không hiểu tại sao?
Hai Phận gật gù:
- Thế mới phải học. Học, học, học nữa, học mãi. Miền Nam ghẻ vì dân miền Nam mặc
quần áo ni-nông. Quần áo ni-nôngbí lắm, mồ hôi nhễ nhãi gây ngứa, gãi
lung tung rồi nhiễm trùng là sinh ghẻ. Còn miền Bắc mặc quần áo vải, thấm mồ
hôi không có ngứa. Đấy, bệnh ghẻ là do ni-nông! Hay chưa? Vỗ tay đi!
Chúng tôi vỗ tay. Hai Phận quả thật vĩ đại hơn Hồ Chí Minh. Y có cả một triệu
bài học. Bài học thứ 2 y dạy chúng tôi là … kinh tế:
- Kinh tế miền Nam là kinh tế phồn vinh giả tạo. Cho các anh biết tất cả của cải
miền Nam gộp lại cũng chỉ xây nổi một nửa Lăng Bác thôi. Mấy cái máy lạnh, tủ lạnh,
xe hơi, honda, ti vi của miền Nam thấm tháp gì! Miền Nam có mỏ dầu hỏa chưa? Miền
Bắc đã có, ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đó. Cần quái gì phải giàn khoan, cứ
cắm ống nứa xuống đất là dầu phụt lên, muốn xăng có xăng, khí đốt có khí đốt.
Kết luận của bài học kinh tế, Hai Phận hỏi:
- Các anh có muốn ăn thịt lợn quay không?
Trưởng phòng đáp:
- Muốn.
Hai Phận nói:
- Muốn thì chung tiền lại, chiều nay cán bộ đi mua về cho mà ăn.
Hôm nay, chúng tôi nhiệt liệt vỗ tay hoan hộ Hai Phận. Thế giới gọi các nhà tù
cộng sản là trại học tập cải tạo. Thế giới dùng chữ nghĩa của cộng sản một cách
khơi khơi. Và nếu đúng ý muốn của cộng sản và thế giới tự do, tôi, một tù nhân
lương tâm, đã học tập được ở trại cải tao Sở Công An hai bài học phi thường: Bệnh
ghẻ do mặc quần áo ni-nông và không cần giàn khoan, cắm ông nứa xuống mỏ, dầu
phụt lên, phân loại xăng, khí đốt, khỏi cần lọc!
--------------------------------
Tôi
quên mất tên của ông chánh sở chương trình và em vợ Đào Quang Huy.
|
CHƯƠNG 7
Để tôi đếm
lại cho chính xác những nhà văn, nhà thơ bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976.
Doãn Quốc Sĩ
Dương Nghiễm Mậu
Lê Xuyên
Nguyễn Mạnh Côn
Mặc Thu
Nhã Ca
Trần Dạ Từ
Thái Thủy
Hoàng Anh Tuấn
Thế Viên
Duyên Anh
Vũ Hoàng Chương
Chỉ có từng ấy người bị còng tay dẫn vào tù, bị nhốt chung với ăn trộm, ăn cắp,
vượt biên, tư sản mại bản và đảng phái trốn trình diện. Chỉ từng ấy người bị
công an chấp pháp quần thảo tơi tả và bị Hai Phận vĩ đại dạy học ở Sở Công An.
Trong số những người ấy, tội nghiệp nhất Thế Viên. Anh ta chẳng có tội tình gì
cả. Anh ta làm nghề dạy học và làm thơ ca ngợi tình yêu. Từ Nha Trang, anh ta
mò vô Sàigòn thăm Doãn Quốc Sĩ, ăn cơm trưa nhà Sĩ. Đừng níu bạn lại uống cà
phê, nghe nhạc thì bạn thoát6 năm tù lãng nhách. Vì Sĩ hiếu khách quá, Thế Viên
đã gặp lại học trò cũ của mình đến bắt Sĩ và lũ học trò đốn mạt đó đã sẵn còng,
còng luôn thầy mình. Cách mạng 1945, học trò của nhà văn Lan Khai bỏ thầy vào
cái bao tải, buộc đá, liệng thầy xuống sông. Cách mạng 1975, học trò của thi sĩ
Thế Viên còng tay thầy đẩy vào tù! Vẫn thứ cách mạng tồi tệ đó. Nó đã anh dũng
sát hại một nhà thơ tài hoa của dân tộc là Vũ Hoàng Chương. Ôi! Vũ Hoàng
Chương, người thi sĩ gió thổi mạnh là bay theo gió, người thi sĩ mình hạt vóc
mai, mà cả Đảng Cộng Sản Việt Nam cộng với “chủ nghĩa bách chiến bách thắng” mới
giết nổi khi đã còng tay đưa vào tù thì thi ca của họ Vũ phải vinh tồn bằng
trăng sao vạn kỷ. Và chủ nghĩa cộng sản phải dùng danh từ gì để cực tả lòng
khinh bỉ? Hai tiếng chó đẻ, có lẽ, đắc ý nhất. Tôi nghĩ những người cộng sản sẽ
không phản đối. Bởi vì, tự bản chất họ đã bộc lộ niềm khao khát làm người. Hãy
nghe họ mơ ước.
Nếu là chim, tôi sẽ là loại bồ câu trắng.
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương.
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm.
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương.
Họ chưa là người. Họ đang mong làm người. Bảo họ là chó đẻ, có khi họ rất hồ hởi,
phấn khởi! Nhưng đừng nói thật với Hai Phận vĩ đại. Những ngày tạm ngụ tại địa
chỉ của chủ nghĩa, các bạn sang đề lao Gia Định gần hết, chúng tôi buồn lắm. Cửa
sắt là chỗ ngồi “rửa mắt” của Dương Nghiễm Mậu và tôi. Tôi đã gặp Nguyễn Sĩ Tế
mặc quần xà lỏn, cởi trần, ngồi hớt tóc. Anh ta gầy ốm, hom hem. Nằm cachot riết,
nước da anh xanh tái. Tên tập truyện Chờ sáng đã vận vào người anh.
Anh nằm trong cachot tối tăm như cuộc đời tối tăm mà chờ sáng. Nguyễn Sĩ Tế bị
bắt trước tháng 4-1976. Bị bắt cùng ngày, cùng vụ với anh còn có Đặng Lê Kim,
giám thị trường Trường Sơn, quản lý tạp chí Hiện Đại của Nguyên Sa.
Anh Nguyễn Sĩ Tế dính líu vào một tổ chức chống cộng sản sau 30-4-1975. Không
biết anh có mời ông “nhà văn” nọ tham gia tổ chức của anh không mà, vì ông ta
là thầy giảng dạy triết học ở trường của anh, em vợ Hưởng Triều Trần Bạch Đằng,
được Trần Bạch Đằng cho “nằm vùng” báo Tin Sáng của bọn Ngô Công Đức,
đi Bắc về Nam như … đảng viên, nên người ta nghi ngờ ông “nhà văn” nọ đã gài bẫy
anh. Y hệt trường hợp luật sư nằm vùng Đỗ Hữu Cảnh đã gài bẫy đưa bạn cũ của
mình là Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường cùng cô Phan Vô Kỵ vào tủ. Ít nhất, Đỗ Hữu
Cảnh, bí danh Ba Sơn, đã chỉ điểm cộng sản bắt gần một ngàn sinh viên, học sinh
phản động. Anh Tế rất phờ phạc, buồn bã. Anh thấy chúng tôi, lắc đầu chán nản.
Chúng tôi gặp Nhã Ca đi tắm, cười toe toét.
Tôi tưởng Ba Trung quên hẳn tôi. Không dè nó lại gọi tôi ra.
- Hôm nay anh gặp lãnh đạo của tôi, đồng chí Giám đốc.
Ông Mai Chí Thọ, con cháu ngài Tổng Đốc Nam Định Phan Đình Hòe, em ruột ông Lê
Đức Thọ, gặp tôi! Chỗ ông ta ngồi là chỗ của Trang Sĩ Tấn ngày xưa. Chức Giám đốc
Sở Công An của Mai Chí Thọ là chức nổi, ông ta nắm toàn bộ lực lượng vũ trang
miền Nam. Ông ta niềm nở mời tôi ngồi, sai cán vụ bưng nước, mang thuốc lá
Thăng Long chiêu đãi tôi. Ông ta thân mật khiến tôi sửng sờ.
- Thế nào, Duyên Anh?
- Bình thường, thưa ông Giám Đốc.
- Giam giữ anh em nhà văn là khuyết điểm của anh em chúng tôi nhưng bắt buộc phải
làm vậy. Duyên Anh có buồn không?
- Thưa ông, tôi không được phép buồn.
- Đừng khách khí, Duyên Anh. Tôi đọc Duyên Anh nhiều. Mây mùa thu tình
tự dân tộc lắm. Luật hè phố rất hay. Tại sao không viết như thế mãi
mãi?
- Vì độc giả của tôi cần thay đổi. Và tôi cũng cần thay đổi.
- Đáng tiếc. Trước đây, Duyên Anh định viết 10 cuốn truyện căn cứ vào “10 điều
tâm niệm của học sinh tiểu học”, bây giờ, liệu có cảm hứng viết 5 cuốn truyện
nhi đồng, căn cứ vào “5 điều dạy học sinh” của Hồ chủ tịch không?
- Tôi sợ viết văn rồi.
- Tại sao?
- Viết văn đã gây ra tại họa cho tôi.
- Đáng tiếc. Duyên Anh muốn làm gì?
- Thưa ông, tôi thật chưa biết sẽ nên làm gì.
- Anh em trong phòng ra sao?
- Bình thường cả.
Mai Chí Thọ thăm hỏi anh em tôi ngoài Bắc và vợ con tôi trong Nam. Câu chuyện
kéo dài gần một tiếng. Và chỉ có thế. Ông ta tỏ ra hết sức lịch sử và kẻ cả.
Ông ta hơn tôi tuổi tác, kinh nghiệm chiến đấu và kiến thức chính trị. Ông ta
thua tôi nghệ thuật viết văn. Cái mà ông ta đang hơn tôi rõ rệt là ông ta có
quyền giam nhốt tôi. Chưa chắc ông ta đã có quyền tha tôi. Về phòng, tôi kể cho
Dương Nghiễm Mậu nghe.
- Thằng ấy cáo già thật, Mẫu nói. Nếu nó gọi tôi, tôi cũng không thể trả lời
khéo hơn ông. Mình cứ tùy cơ ứng biến. Ông mà nhận lời viết, nó sẽ khinh ông. Cộng
sản gộc, nó cao ngạo lắm. Mình ở vào cái thế hết lạy nó được rồi. Tôi và ông thống
nhất điểm này: Mình sẽ nhận hết tội với Đảng và cách mạng, không nhận tội với
nhân dân. Với nhân dân, chúng ta vô tội. Nhân dân đâu có kết tội chúng ta. Và nữa,
chúng ta chống Đảng, chống cách mạng, không chống nhân dân. Chúng nó bị thực
dân bắt cũng nhận tội hết. Sự tồn tại là cần thiết, tiểu tiết bỏ đi. Tồn tại để
viết, nhẫn nhục để viết. Chết ngu là bất trí.
- Nó chiếu cố mình thì hơi phiền.
- Phiền gì? Nó hiểu ông có ảnh hưởng sâu rộng với tuổi trẻ hơn nhiều anh em
khác. Nó sẽ làm ông điêu đứng về mọi mặt. Có vinh quang nào không phải trả giá
bằng xương máu? Tôi xin ông một điều.
- Chi?
- Ông bớt nóng tính đi. Bữa nọ tôi thấy ông chửi thằng tư sản mại bản Chợ Lớn
thật đúng vì quyền lợi tập thể. Ông còn tiếp tục vì quyền lợi tập thể, ông sẽ hố.
Tôi nhắc để ông nhớ châm ngôn tù mà ông đã từng viết “Bạn tù, tình nhà thổ.
Trong tù thấy chuyện bất bình thì câm”. Ông ưa bầy tỏ chính kiến quá. Cái chính của
ông sẽ bị cái at át giọng. Về tư tưởng bất đồng, người ta có thể giết
nhau, huống chị nói xấu lẫn nhau.
- Cám ơn ông.
Dương Nghiễm Mậu ít tuổi hơn tôi, ít học ở nhà trường như tôi, nhưng Mậu điềm đạm
hơn tôi. Một nhà văn thuần túy thì chỉ có người thích và người không thích. Một
nhà văn đi làm nhật báo ồn ào, đụng chạm tứ tung, thì nhiều người yêu và lắm kẻ
ghét. Dương Nghiễm Mậu hạnh phúc hơn tôi. Vì không ai ghét Mậu cả. Vì Mậu đã
không làm nhật báo ồn ào. Ở đời, có những điều mình muốn mà chẳng được, có những
điều mình chẳng muốn mà bị muốn, bị cuốn hút vào quỹ đạo mong muốn của người
khác. Tôi đã không muốn làm báo, viết báo. Thuở còn ngồi tiểu học, thầy giáo
cho bài luận: “Lớn lên anh làm gì?”, tôi đã khước từ chọn lựa nghề nghiệp vì
tôi lười, tôi dốt, tôi không thể làm bài luận hóc búa ấy. Lớn lên, theo Duy
Dân, được biết phái xuống Long Xuyên dạy học bất đắc dĩ, tôi bỗng yêu nghề dạy
học. Sự yếu mến nồng nàn này tôi đã diễn tả trong Ngựa chứng trong sân trường.
Rất tiếc, tôi còn quá trẻ và cần mảnh bằng tú tài. Tôi trở về Sàigòn học thi tú
tài. Định mệnh xui tôi đến cái lớp chuyện dạy Việt văn của giáo sư Lữ Hồ Nguyễn
Minh Hiền, sau này là biên tập viên ở những báo tôi làm chủ bút. Tôi đứng
ngoài, nghe Lữ Hồ nói phét câu giờ dễ sợ. Lữ Hồ hơn tôi vài tuổi. Anh có thêm
tài vẽ. Anh vừa vẽ vừa giảng văn chương. Tôi nghĩ không nên có anh chàng nầy
làm thầy mình. Và tôi bỏ mộng thi tú tài, bỏ mộng làm thầy giáo. Nếu tôi có tú
tài, tôi sẽ vào trường Bộ Binh Thủ Đức, chẳng hiểu đời mình sẽ là cái gì! Loay
hoay ít lâu, tôi viết truyện ngắn. Nhờ truyện ngắn, tôi thành anh công chức. Nhờ
đảo chính 1-11-1963, tôi thành anh nhà báo và thành người sửa bài, viết giùm
giáo sư văn chương Lữ Hồ. Giáo sư viết yếu quá. Tôi tưởng tôi sẽ chỉ viết những
truyện hiền hòa như Hoa thiên lý, dễ thương như Thằng Vũ, nồng nhiệt
như Bồn Lừa, êm đềm như Mây mùa thu. Ai ngờ tôi lại phải viếtĐiệu ru
nước mắt, Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang, Trần Thị Diễm Châu.
Và, theo đà cuốn hút của thời đại, của những đòi hỏi của chủ nhiệm nhật báo,
tôi biến thành cha đẻ của loại phóng sự chính trị nham nhở, sống sượng. Cuộc
mưu sinh của tôi thật khó khăn. Tôi phải tự lắp sừng nhọn vào đầu tôi mà húc,
mà tranh đấu với cuộc sống vốn chẳng tử tế gì. Sách của tôi xuất bản, không ai
thèm nhắc tới. Thỉnh thoảng cũng có người phê bình thì cũng khen chê kiểu “bình
thường hiện thân”. Bọn sa-đích phê bình văn nghệ rẻ tiền – chữ của Nguyên Sa –
không dám đụng đến tôi. Vì tôi có sừng nhọn Thương Sinh của nhiều nhật báo.
Châm ngôn của tôi hồi đó: “Thằng nào cắn ông một miếng, ông cắn lại đủ 26 miếng
nhân với 4!” Khi sách của tôi bán chạy nhất nước, tôi làm nhà xuất bản, tôi là
con “cưng” của các nhà phát hành, tôi khá giả, bọn sa-đích văn nghệ quên làm
tính nhân, quên luôn 50 tác phẩm bán chạy ròng rã 10 năm, tác phẩm tôi thức đêm
viết, hút cả tấn khói vào phổi mà viết, dài tay ra mà viết. Tính vất đi, mỗi cuốn
tôi hưởng lợi nhuận 500,000 đồng quốc gia, tôi đã có 25 triệu đồng rồi. 25 triệu
nhỏ quá. 25 triệu tính bằng 1 tỉ chữ, càng nhỏ hơn. Tại sao chúng nó không dám
thị phi những thằng thầu đổ rác, những thằng tham nhũng, những thằng thầu khoán
chiến tranh? Mà lại chỉa mũi dùi bẩn đâm lén một thằng viết văn khá hơn chúng
nó. Tôi phải tự võ trang sừng nhọn, vì thế. Sa-đích văn nghệ chơi tôi đủ kiểu.
Chúng nó thấy các trường trung học trần thuyết sách của tôi, các trường đại học
nghiên cứu sách của tôi, chúng nó điên lên, xếp tôi vào loại những nhà văn
“không có gì để phê bình”. Sa-đích văn nghệ tự bào chữa cho chúng nó: “Sách của
các ông bán ế vì độc giả ngu, không đủ kiến thức thưởng ngoạn!” Quý vị nhà văn
tự cho mình lớn, tự cho mình là hàng đầu, đã giả vờ quên tôi, mặc dù, quý vị ấy
chán tôi lắm, tại tôi đã “đánh đu văn chương”, tôi đã “thao túng văn nghệ” và đẩy
quý vị ấy vào bóng tối. Tôi cần thiết có nhiều bút hiệu để viết báo. Để viết
văn. Để quảng cáo tôi. Để bảo vệ tôi. Người như Cao thế Dung và Nguyên Sa thật hiếm.
Lúc ấy, Cao Thế Dung viết: “Thằng Vũ là giải lụa đào trong văn học Việt Nam. Chỉ
cần một Thằng Vũ thôi, Duyên Anh đã xứng đáng là nhà văn hàng đầu của văn học
hiện đại”. Nguyên Sa viết: “Thằng Vũ là vàng mười của văn chương Việt Nam”. Trước
khi sa cơ còn được đọc những lời tuyên dương lên mấy chém, tưởng cũng nên bằng
lòng. Tôi giải thích tại sao lại có Thương Sinh: Vì cuộc sống nhiều sa-đích văn
nghệ. Tôi trả lời bạn hữu tôi, sẽ còn Thương Sinh nữa không: Còn chứ, vì
sa-đích văn nghệ vẫn rình rập tôi, sa-đích mà Nguyên Sa đặt tên mới là Thiện
Mông Cổ. Tôi bằng lòng hơn khi biết mình đã có nhiều đồ chơi lạ mà sa-đích văn
nghệ thì cứ đếm nút khoen và đẩy lon sữa bò! Tôi bằng lòng hơn nữa, khi thấy
hàng tỉ chữ cộng sản dùng để chửi bới nhà văn, nhà thơ lừng lẫy Sàigòn, đã chẳng
có chữ nào họ bố thí cho sa-đích văn nghệ. Cuối cùng, tôi rút một kinh nghiệm: Ở
nước tôi, càng nổi tiếng bao nhiêu, càng tai họa bấy nhiêu, bất cứ lãnh vực
nào. Riêng lãnh vực báo chí, văn nghệ là tồi tệ nhất.
Và tôi đã tiếc không chịu ẩn dật như Dương Nghiễm Mậu, không vô vi như Dương
Nghiễm Mậu, Ôi! Định mệnh đã an bài! Cái triết lý mất vợ của ông Tý Con thật
tuyệt diệu. Nguyễn Mạnh Côn, hai tháng trước khi bị bắt, tâm sự với tôi hết sức
tỉnh táo:
- Tôi rất tiếc trường hợp câu.
- Anh tiếc cái gì?
- Khi không cậu chống chính quyền rồi cậu chống cộng sản.
- Anh hối hận đã chống cộng sản à?
- Tôi chỉ nói cậu thôi.
- Tôi đâu có ân hận.
- Nếu cậu không chống chính quyền, chống cộng sản, chỉ riêng những sách viết về
tuổi thơ, cậu là nhà văn của dân tộc, hoàn toàn thuộc về dân tộc. Cậu tin tôi
đi, cộng sản không ngu đâu, nó sẽ dùng cậu viết về tuổi thơ.
- Tuổi thơ của Bác?
- Cậu cứ đùa cợt hoài.
Trên vỉa hè Tự Do, ở một quán cà phê lề đường, Cao Dao gặp Mai Thảo và tôi. Anh
nói:
- Nghề nghiệp của các cậu chấm dứt rồi. Họ có cho viết, anh nào ham viết sẽ nhục
với chữ nghĩa. Bởi các cậu không viết theo kiểu của họ nói. Họ không có tiểu
thuyết. Trừ Duyên Anh, nếu Duyên Anh viết thuần túy về tuổi thơ loại Thằng
Vũ, Bồn lừa.
Tôi có thể nói Hà Nội thèm một người việt truyện trẻ con như tôi mà không sợ lộng
ngôn. Ba mươi năm xã hội chủ nghĩa ưu việt, tính đến tận hôm nay, nhà xuất bản
Kim Đồng, với sự hỗ trợ của Đảng và Nhà Nước, đã cung cấp rất nhiều sách cho
thiếu niên, nhi đồng nhưng chỉ là loại sách mỏng và không làm say mê độc giả tuổi
nhỏ. Những người viết tung ra hàng nghìn mẫu dũng sĩ tẻ nhạt, không một cá tính
riêng biệt mà chỉ có … đảng tính (Đảng tính là yếu tố cần thiết trong văn học
Mác xít). Do đó, độc giả tuổi nhỏ không thấy một chút gì về họ. Họ không tìm ra
họ trong xã hội truyện của nhà Kim Đồng. Đừng tưởng những người viết cho Kim Đồng
hay các nhà xuất bản sách thiếu nhi khác không được tự do viết. Họ không thể viết
được truyện tuổi nhỏ. Chẳng tin, cứ bảo Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Mặc
Đỗ thử viết truyện Dzũng Dakao thôi, xem nó ra sao. Viết truyện tuổi thơ rất
khó. Đẩy nhân vật tuổi thơ vào vũ trụ tiểu thuyết với thời tiết, sân chơi, trò
chơi, ngôn ngữ của tuổi thơ càng khó. Bởi vậy, cả nước Mỹ chỉ có Mark Twain với
Tom Sawyer bất hủ. Trước 1945, chúng ta có ba nhà văn viết truyện tuổi thơ: Tô
Hoài, Nguyễn Đức Quỳnh và Lê Văn Trương. Tô Hoài đã làm say mê thiếu niên thời
đó với những truyện loài vật và sâu bọ. Từ O Chuột đến Chuột
thành phố, Dế mèn, Dế mèn phiêu lưu ký, Tráng sĩ bọ ngựa, Tô Hoài vẫn chỉ là
người biết nhân cách hoá loài vật, sâu bọ một cách tài tình, duyên dáng, vẫn chỉ
là người viết cho tuổi thơ. Đúng nghĩa: những truyện kể trên viết cho độc giả
tuổi nhỏ giải trí. Nguyễn Đức Quỳnh là nhà văn đầu tiên ở Việt nam muốn đưa tuổi
thơ vào tiểu thuyết như những nhân vật đầy đủ yếu tố nhân vật tiểu thuyết. Những Thằng
Kình, Thằng Cu So của ông chưa thật sự sống đúng với tuổi thơ của nó vì
ngôn ngữ và sự suy nghĩ của chúng nó còn đầy dáng dấp người lớn. Cái khó của
người viết về tuổi thơ là thiếu một vùng ánh sáng soi rõ lối về của quá khứ
mình và không thể sống lại tuổi thơ của mình như nhân vật đang vùng vẫy trong
tiểu thuyết của chính mình. Lê Văn Trương với Anh em thằng Việt, Thằng Việt
nghỉ hè thì nặng nề triết lý người hùng, tuy đã hấp dẫn và cảm động. Những
người viết truyện tuổi thơ đều quên rằng độc giả tuổi nhỏ của họ thích sang
trang, sang trang và khoái đối thoại. Chi tiết rườm rà, ý nghĩ triền miên làm họ
chán nản vì họ phải đậu lâu một chỗ, trong khi, như con chim mới ra ràng, họ
thèm chuyền nhảy liên miên. NhưngThằng Kìnhvà Anh em thằng Việt, với riêng
tôi, đã là cảm hứng tuyệt vời để có Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy, Thằng
Khoa, Thằng Vọng … Sau đó, chúng ta có Nhật Tiến. Những truyện về trẻ em mồ
côi, Chim hót trong lòng, chẳng hạn, rất hay nhưng rất sầu thảm. Mà tuổi
thơ cần thiết sân trường, sân cỏ, bóng nắng, tiếng cười hơn là khung cảnh cô
nhi viện buồn bã. Chúng ta còn thêm Lê Tất Điều thổi cảm xúc vào đồ vật khá
tinh tế và đầy nghệ thuật. Và chỉ có thế, về những người viết truyện cho tuổi
thơ. Tôi rất tự hào về nhà xuất bản Tuổi Ngọc của tôi, với vốn liêng
của cá nhân tôi, với khả năng làm việc của riêng tôi, không có Nhà Nước, không
có Đảng tung tiền “trồng người”, chỉ có Bộ Văn Hóa Giáo Dục với các ngài Quốc Vụ
Khanh đặc trách Văn Hóa, ngoài hát bội ca cải lương thì chẳng còn biết văn học
nghệ thuật là cái gì, ngoài cái Trung tâm Học Liệu chỉ biết ấn loát sách dịch của
Sartre, của Daudet thì chẳng còn biết in thứ gì thêm, mà tôi đã một mình một ngựa,
vừa chống bọn sa-đích văn nghệ, vừa chống bọn “phối hợp nghệ thuật”, vừa chịu sự
lạnh nhạt của các nhà văn tư tưởng, triết học, siêu hình, cô đơn, hiểm hóc, khều
mặt trời “Tôi có thể đến giòng sông, bà ta có thể đến giòng sông; chưa chắc tôi
đã đến giòng sông, chưa chắc bà ta đã đến giòng sông, bởi vì, chưa chắc đã có
giòng sông!” để hạ gục bảng hiệu Kim Đồng và 30 năm hoạt động của nó. Cộng sản
Việt Nam có Hồ Chí Minh vĩ đại, có chiến thắng Điện Biên Phủ, có đại thắng mùa
xuân, nhưng đã không có nổi một Bồn Lừa.
Nguyễn Thanh Trịnh, giải thưởng văn học nghệ thuật về bộ môn kịch, tác giả Ví
dụ ta yêu nhau, mà tôi viết tựa, sau nầy hợp tác với tuần báo Tuổi Trẻ, cơ
quan ngôn luận của Thành Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đã gặp tôi khi
tôi rời trại tập trung. Trịnh có bút hiệu mới: Đoàn Thạch Biền. Dù hợp tác với Tuổi
Trẻ, Trịnh vẫn quý mến tôi như thuở tôi “lăng xê’ Nguyễn Thanh Trịnh trên Tuổi
Ngọc. Trịnh cho tôi biết, nhà xuất bản Tuổi Trẻ đã thuê Hoàng Ngọc Tuấn
viết một truyện tương tự Bồn Lừa. Tuấn đẻ ra nhân vật Hoàng keo, bắt bóng
dính hơn Chương còm. Cuốn sách đã xuất bản và chìm trong sự rửng rưng của độc
giả cũ và mới. Trịnh còn cho biết, trong phiên họp kiểm điểm cuối năm 1981 của Tuổi
Trẻ, đồng chí Bí thư Thành Đoàn thanh niên đã nêu một thắc mắc:
- Tại sao giải phóng đã sáu năm rồi, ảnh hưởng văn nghệ của bọn nhà văn cũ đã bị
tận diệt rồi, chúng ta đầy đủ cơ hội thuận lợi, mà vẫn chưa tạo nổi một người
viết làm say mê tuổi trẻ, tuổi thơ như thằng Duyên Anh?
Một câu tương tự, chính mắt tôi được nhìn người nói và nghe ông ta trên ti vi,
hồi tôi ở Z30D và ở đội vệ sinh chuyên nghề xúc phân ở bệnh xá. Người nói là
ông Thứ trưởng Bộ Văn Hóa:
- Tôi không hiểu tại sao, ngót sáu năm hết bóng quân thù rồi, mà ở Sàigòn và
các tinh phía Nam, các thầy cô vẫn để hoc sinh viết lưu bút, lưu niệm cuối năm
bằng thứ văn chương lãng mạn, tiêu cực, ảnh hưởng nặng nề văn nghệ đồi trụy Mỹ
Ngụy? Không riêng gì học sinh cấp ba và đại học, chính một số các thầy cô vẫn
còn say mê đọc tiểu thuyết của bọn nhà văn phản động như Duyên Anh, Mai Thảo,
Nhã Ca …
Nhiều anh em được nghe, hôm ấy, đã lo sợ giùm tôi. Nhiều anh em tuyên dương:
- Duyên Anh, sáu năm bốc cứt mà vẫn còn thơm!
Tôi hiểu vì đâu Nguyễn Mạnh Côn “rất tiếc” trường hợp của tôi, vì đâu Ba Trung
nhận lệnh lãnh đạo của nó gợi ý cho tôi “Đảng không bắt anh phải phục vụ Đảng,
Đảng muốn anh đem tài năng của anh phục vụ quê hương, đất nước”. Vì đâu Mai Chí
Thọ “đáng tiếc” là tôi đã không chỉ viết Mây mùa thu, Luật hè phố. Tự tôi,
tôi cũng đáng tiếc cho tôi. Đáng tiếc tôi đã bước vào nghề văn chương một cách
bất đắc dĩ. Đáng tiếc cái đáng tiếc của Nguyễn Mạnh Côn và Mai Chí Thọ. Ở quê
nhà, tôi đã không viết truyện về tuổi thơ (sở trường của tôi, mọi thứ khác là sở
đoản, là những thứ tôi thua kém tất cả) cho độc giả tuổi nhỏ của tôi đọc mà say
mê, mà tung tăng theo nhân vật của tôi trong không gian hoa ngàn cỏ nội. Tôi đã
tưởng, chút tài năng cuối mùa của tôi còn được phục vụ độc giả tuổi nhỏ của tôi
ở quê người. Và tôi đã đánh đu với sự chết, xuống thuyền gỗ vượt biên. Tôi thấy
gì bên kia dốc mơ? Toàn bộ tác phẩm của tôi bị ăn cướp. Bọn xuất bản gian manh
"đồng bào"của tôi đã kiếm cả triệu đô la bằng 15 năm thao thức suy
tư, bằng 6 năm quằn quại tù ngục của tôi mà không trả tôi cắc nào, không hỏi
tôi nửa lời. Tôi thấy gì nữa? Tác phẩm của tôi, bày bên cạnh nước mắm, rau cỏ ở
các tiệm chạp phô! Tôi thấy gì nữa? Văn hữu của tôi phải làm các nghề vớ vấn để
mưu sinh. Và, đau đớn nhất, tôi chẳng còn độc giả nhỏ để chăm chút văn chương bồng
bế cho họ nữa. Họ đã quên hết tiếng và chữ Việt Nam rồi! Tôi sẽ viết thẳng
John, thằng Bob hay thằng Mít ngọng? Ai đọc tôi? Tôi là một nhà văn tội đồ ở
quê nhà, một nhà văn cùng đồ ở quê người. Một nhà văn bị cấm viết thì đáng kiêu
hãnh. Một nhà văn không bị cấm viết mà không viết được vì không ai đọc cả thì
đau đớn khôn cùng. Bởi thế, những nhà văn lừng lẫy của chúng ta đã không có gì
đáng kể sau mười năm xa xứ. Bởi thế, những nhà thơ nồng nàn của chúng ta không
có gì đáng kể sau mười năm xa xứ. Và nhân danh “bảo tồn văn hóa”, nền văn hóa
Việt Nam được tha thiết bảo tồn ở hải ngoại chỉ còn ông Kim Dung và bà Quỳnh
Dao, người Trung Hoa! Và những thứ tiểu thuyết nhảm nhí mà chính chúng ta đã muốn
khu trừ khi chúng ta chưa mất Sàigòn. Và lại ‘tiền chiến” với thơ Xuân Diệu, kẻ
hàng ngày chửi rủa chúng ta, kẻ to tiếng miệt thi “ngụy quân, ngụy quyền” xấc
láo. Tôi lại hiểu tại sao Boris Pasternak phải van lạy Khroutchev để xin khỏi bị
trục xuất, tại sao Soljenitsyne chỉ rời nước Nga khi bị đuổi đi. Tôi đã quên lời
linh mục dòng Tên ở Đắc Lộ, người Basques, an ủi tôi và khích lệ tôi sau
30-4-75: “ Hãy can đảm như những nhà văn Xô Viết!” Tôi hoàn toàn thiếu can đảm,
không dám ở lại Việt Nam. Vì tôi thương vợ con tôi lưu lạc xứ người. Vì tôi sợ
bị bắt nữa.
Mỗi hoàng hôn của một thời đại đều có những nghịch cảnh não nùng cho những người
làm văn chương. Đã thấy một Tản Đà coi bói và “nhận viết quảng cáo vui buồn
trong xã hội” mưu sinh. Lại thấy Lê Xuyên đạp xe cà-là-dỉ đi bỏ bánh mì ngọt rẻ
tiền khắp vỉa hè Sàigòn. Nguyễn Thụy Long bán phụ tùng xe đạp. Dương Nghiễm Mậu
mài tranh. Trần Lê Nguyễn, Đỗ Tấn bán báo. Nhã Ca bán cà phê. Hoàng Hải Thủy
làm hoa vải. Trần Tuấn Kiệt viết thư thuê ở Bưu Điện! Ở Sàigòn đấy. Những người
khác đang làm gì bên Mỹ, tôi không biết. Riêng tôi, ở Paris, định xin chân gác
dan ban đêm, bằng hữu thương quá cho một chân đánh máy chữ. Mắt đã mờ vì tù và
già, đánh máy chữ hết nổi, bằng hữu bảo nằm nhà viết truyện. Tôi đã vừa hết một
năm ăn lương thất nghiệp của nước Pháp. Sự giúp đỡ của bằng hữu không đủ chi
dùng. Bèn vẽ thêm nghề viết quảng cáo cho nhà sản xuất băng nhạc kiếm rượu, soạn
nhạc kiếm gạo, diễn thuyết kiếm vé du lịch, vân vân và vân vân …
Hình như tôi mộng du quá tường nhà tù. Tôi trở lại với Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn
Hữu Hiệu, Hồng Dương và một người bạn mới gia nhập làng xuất bản là ông Đặng Hải
Sơn. A, tôi có thêm ông Khai Trí. Tại sao ông Khai Trí mà cũng bị bắt? Giản dị
lắm, vì ông ta giàu. Với cộng sản, giàu lương thiện hay giàu bất lương đều
chung một tội: Tư sản. Xuất thân, ông Khai Trí rất nghèo. Phong trào di cư 1954
và sự mở mang giáo dục, sau đó, đã đưa nghề bán sách của ông phát đạt. Ông xây
nhà cao lớn. Ông xuất bản tự điển, sách giáo khoa và đủ mặt sách. Ông có 9 kho
sách vĩ đại. Mỗi kho là một ngân hàng, vốn lời vô tả. Khác với những người bán
sách, xuất bản, ông Khai Trí theo chủ nghĩa snobisme, tỏ ra thích sưu tầm sách
báo cũ. Ông đã từng lặn lội xuống lục tỉnh mua sách báo cũ nếu có người gởi thư
đòi bán. Tầng thứ ba của tòa nhà Khai Trí, đại lộ Lê Lợi, là thư viên Khai Trí
đầy đủ Nam Phong, Tri Tân, Đông Dương tạp chí, Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu
thuyết thứ bảy… từ số ra mắt đến số đình bản. Sách thì vô kể. Ông có cả sách ấn
loát giấy bán của “phường” nầy, “phường” nọ … Tóm lại, thư viện của ông chỉ
thua lượng, chứ không thua phẩm Thư Viện Quốc Gia. Nhưng ông chỉ ngắm sách cho
sướng mắt, riêng ông, không cho ai đến mượn đọc cả. Ông cũng ít thiện cảm với
nhà văn và tỏ ra hep hòi chi tác quyền. Thường thì ông mua bản thảo vì cảm
tình, vì tội nghiệp, rồi không xuất bản. Vào tù, mất hết cả, ông mới hối hận
cung cách sống chỉ biết đếm bạc của ông. Sự tình đưa ông Khai Tri vào nhà tù và
mất nốt nhà sách Khai trí chỉ tại cái thư viện riêng và chủ nghĩa snobisme. Thứ
trưởng Văn Hóa Lâm Thời Miền Nam Thanh Nghị thèm rinh thư viện Khai Trí. Giám đốc
Sở Thông Tin Văn Hoá cũng thèm. Nhiều đứa thèm. Không đứa nào dám ăn mảnh. Rốt
cuộc, chúng nó chụp mũ “tư sản mại bản” lên đầu người bán sách cần kiệm. Và đám
côn quang văn hóa đã xông vào thư viện Khai Trí, lượm mỗi đứa một mớ đem về làm
… tư hữu. Quân vô sản thèm tư hữu. Chúng nó đã ỉa lên chủ nghĩa của chúng.
Chúng đã, với riêng ông Khai Tri, làm tan nát công trình sưu tầm sách báo ròng
rã 40 năm của ông. Khai Trí vào tù mang theo bịnh trị và vỏn vẹn 10 đồng bạc.
Tôi không hiểu kinh nghiệm Khai Trí có làm sáng tâm hồn những người đang kèn cựa,
tàn sát đồng hương ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc để làm giàu? Cuộc đời thật phù ảo. Hữu đấy
rồi vô đấy. Sắc đấy rồi không đấy. Hạnh phúc và niềm vui cá nhân xem chừng mỏng
manh quá. Cái tiểu ngã phải nhập vào cái đại ngã thì mới hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi tôi thấm cái triết ly sống đẹp đẽ đó, tôi đã thành kẻ lưu đầy, lo tiền nhà,
tiền gạo, tiền điện, tiền gaz, tiền vé metro chưa xong, nói chi đến sự đóng góp
hoặc chia xẻ hạnh phúc của mình cho mọi người.
- Tôi chỉ còn tiếc cái thư viện của tôi, ông Khai Trí nói.
- Tiếc làm gì, ông Khai Trí, tôi nói.
- Làm sao có lại nó?
- Ồ, người ta làm ra sách, sách đâu có làm ra người. Quý hồ ông còn sống để lập
thư viện.
- Tôi sẽ lập thư viện công cộng.
- Nếu như thư viện của ông đã là thư viện công cộng, ông không mất nó, không
bao giờ mất nó.
- Tôi hiểu ý ông rồi, ông Duyên Anh ạ!
- Tôi cũng mới hiểu cái ý của tôi, từ khi vào tủ. Mỗi chúng ta cần nhiều suy
nghĩ. Điều duy nhất để tôi yêu ông, tâm sự với ông hôm nay là, sau 30-4-75, tôi
thấy ông đi trên vỉa hè Saigon, mua tất cả các tạp chí Văn đóng bộ,
tuần báo Tuổi Ngọcđóng bộ, tạp chí Bách Khoa đóng bộ… Khi chữ
nghĩa của 20 năm văn học nghệ thuật Sàigòn bị dẫm nát bằng dép râu hỗn xược,
còn một người biết đau đớn đi nhặt nhạnh, nâng niu, cất dấu, dù không đọc, hỏi
sao tôi không xúc động.
- Trước đây, ông ghét tôi?
- Ông cũng chẳng yêu gì tôi.
- Chúng ta không hiểu nhau.
- Có thể.
- Tại sao ông ghét tôi?
- Vì ông giàu. Tôi ghét hết bọn nhà giàu. Tôi cho bọn giàu là bọn bất lương,
ích kỷ.
- Nay tôi nghèo rồi.
- Ông nghèo, tôi có giúp nổi ông đâu. Ông giàu tôi có xin được ông đâu.
- Tại sao ngày xưa ông không năng đến tôi?
- Tôi đã nói.
- Vì ông không đến tôi, ông kiêu ngạo nên tôi không ưa ông.
- Ông chẳng yêu ai cả.
- Bây giờ tôi yêu mọi người.
- Vẫn còn sớm.
- Tôi kết nghĩa anh em với ông được chứ?
- Được. Nhà tù kết nghĩa!
Tôi và Khai Trí thành anh em. Và tôi gọi ông là anh, xưng em. Tự nhiên, Khai
Trí hỏi tôi:
- Theo chú, một người làm tuyên truyền giỏi phải như thế nào?
Hồi tôi làm Biên tập viên của Tổng Nha Thanh Niên, biệt phái ra làm báo Chiến
Đấu, người ta bắt tôi nghiên cứu các phong trào thanh niên phát xit, cộng sản,
Do Thái, vệ binh đỏ, thanh niên cứu quốc và những bài nói chuyện với thanh niên
cộng hòa của ông Ngô Đình Nhu. Nhân đó, tôi phải nghiên cứu nghệ thuật tuyên
truyền phát xít, cộng sản. Cộng thêm những điều tôi nhớ ở Cổ Học Tinh Hoa,
Đông Chu Liệt Quốc và những “sáng tạo” của riêng tôi, tôi thao thao nói với
chủ nhà sách Khai Trí. Câu kết luận, tôi mượn ý của ông Quản Trọng:
- Sáng chính nghĩa ở nước mình chưa đủ, phải chế chính nghĩa ra bốn phương. Người
biết làm tuyên truyền còn làm được đạo diễn, đạo diễn từ tổng thống đến các bộ
trưởng. Nữa, phải biết viết và biết thưởng ngoạn cái hay của người viết; phải
biết nói trước quần chúng mà không cần mang kính đọc bài!
Chợt nhớ “nỗi sợ” của mình, tôi hỏi:
- Anh muốn biết làm gì?
Khai Trí đưa tay vỗ trán:
Tôi không tin Khai Trí dám dính líu đến một tổ chức nào. Có thể, trước năm
1975, Khai Trí được thăm dò bởi một người bạn nào muốn tham chính chăng? Nhưng,
tôi nhớ không sai, một tháng sau 30-4-75, tôi nhận được một cú điện thoại. Người
gọi cho tôi là giáo sư toán nổi tiếng, người miền Nam:
- Tạm chia buồn với ông. Hiện tại, ông không thể viết gì được, nhưng ông có
nghĩ đến kinh nghiệm viết của ông dạy cho các bạn trẻ miền Nam không?
- Tại sao chỉ bạn trẻ miền Nam?
- Vì chỉ họ mới cần ông. Vì ông đã là người miền Nam, vợ con ông người miền
Nam.
- Người miền Nam thiếu gì?
- Họ không hấp dẫn tuổi trẻ thành phố bằng ông. Họ không biết mở phong trào.
Thú thật, lúc ấy, tôi cần đề phòng. Mỗi ngày, người ta gọi dây nói mỉa mai hỏi
tôi “Còn chống Cộng nữa không?”. Đến nỗi tôi muốn cắt dây điện thoại.
- Tôi mệt mỏi rồi. Tôi không thể làm gì được.
- Sẽ liên lạc với ông sau.
Tôi không hiểu người miền Nam này sẽ làm gì. Chỉ biết, buổi chiều 30-4-75, nón
tai béo (giải phóng miền Nam) va nón cối (bộ đội miền Bắc) tranh nhau lượm súng
đạn trên đường phố Sàigòn, mạnh ai nấy gom … chiến lợi phẩm. Và, ít ngày sau, một
thông cáo ra lịnh cho bất cứ ai giữ vũ khí của “ngụy quân’ phải đem ra nộp, dù
là quân giải phóng. Chưa có gì ổn định cả, cho đến nay, ở miền Nam. Hà Nội đã
gài người của họ xuống tận cấp huyện. Rồi sẽ cấp xã. Bài hát “giải phóng miền
Nam” đã bị cấm. Ngày kỷ niệm thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị xóa.
Cả bài “Tiến về Sàigòn ta quét sạch giặc thù” cũng bị tiêu diệt luôn! Nhưng những
người lính nón tai bèo lượm vũ khí Mỹ, đem đi đâu, họ đang ở đâu, thì vẫn còn
là niềm bí ẩn. Rõ rệt nhất, ở các trại tập trung phía Nam, không hề tìm ra một
công an cai ngục nào người miền Nam cả.
Chúng tôi có tin mừng: Trịnh Quới Tài chuyển trại. Một số can phạm hình sự chuyển
trại. Thay vào là những can phạm phản động, trẻ có, già có, vị thành niên có. Sở
Công An có một phòng nhốt đàn bà, con gái. Phòng quá hẹp nên mỗi ngày đều có
chuyển tù nhân. Phòng A, cạnh chúng tôi, Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Lê Xuyên
đã đổi chỗ. Đinh Xuân Cầu và Nguyễn Văn Sao đi luôn. Nhã Ca rời bỏ cachot cùng
Nguyễn Mạnh Côn. Còn một Nguyễn Sĩ Tế, bút hiệu Người Sông Thương, côi cút ở
khu cachot heo hút, ghê rợn. Chúng tôi đã hết cảm giác khi nghe chìa khóa tra
vào ổ ban đêm. Cũng chẳng còn buồn cười khi nghe Hai Phận vĩ đại giáo dục. Đây
là bài học thứ ba của Hai Phận, chuyên viên cai tù từ năm 17 đến năm 50 tuổi. Y
đếm niên đảng của y bằng những năm quằn quại, rã rượi của tù nhân.
- Hôm nay, tôi dạy các anh một bài học, về bước tiến bộ mới của cách mạng. Cuộc
kiểm kê dân số sau bầu cử thành công vĩ đại, cho ta một sự so sánh vẻ vang: Dân
tộc ta bằng dân tộc Pháp!
Ngừng lại một giây, Hai Phận nói:
- Dân số nước ta bằng dân Pháp rồi. Hơn 50 triệu đấy nhé!
Hai Phận rất tốt bụng. Ý muốn chúng tôi cười cho đỡ buồn. Tiếc rằng y chọc cười
khiếp đảm quá nên chúng tôi tê dại cảm giác. Câu “mặt trơ trán bóng” phải dùng
cho cộng sản mới đúng. Lãnh tụ mặt trơ một kiểu, cán bộ trán bóng một lối. Cái
dũng sĩ, anh hùng; cái vĩ đại, vẻ vang của cộng sản là họ chẳng cần biết họ ngu
hay không ngu. Họ cứ bắt dân chúng phải nghe, phải tin những gì họ nói. Và họ bảo
đó là giáo dục của Đảng. Trên đời này, từ cổ chí kim, chỉ có những người cộng sản,
mà Hai Phận là biểu tượng, là dấu ấn của thời đại, mới dám giáo dục sư tổ của y
bằng những bài học buồn mửa. Nỗi nhục của con người khi bị thống tri bởi con vật
là thế.
Bẵng vài bữa, Ba Trung lại gọi tôi.
- Đồng chí lãnh đạo của tôi rất có cảm tình với anh.
Tôi nhả khói thuốc:
- Ông ấy lịch sự lắm.
- Theo ý tôi, anh nên viết lại.
Chắc chắn, ông Mai Chí Thọ đã chỉ thị cho Ba Trung truy nã tư tưởng của tôi.
- Tôi đã thưa với ông giám đốc, tôi sợ viết văn rồi.
- Không viết văn, ra ngoài làm gì?
- Buôn bán lằng nhằng.
- Chế độ này rất ghét trung gian tiêu thụ. Anh đã biết, tất cả là quốc doanh mậu
dịch.
- Thì về quê vợ làm ruộng.
- Ai cho anh ruộng? Ông già vợ của anh đâu còn là điền chủ nữa.
- Về vùng kinh tế mới.
- Nói thật đi, anh Duyên Anh, ra ngoài anh sẽ vượt biên, sẽ viết nguyền rủa
chúng tôi.
Ba Trung không muốn tôi chột dạ vì câu nói trúng tim đen của nó. Nó rót thêm nước
trà vào ly của tôi.
- Chuyện này anh cần biết.
- Tôi nghe.
- Nó thuộc về dĩ vãng. Từ năm 1972, Đảng đã muốn anh suy nghĩ lại. Miền Bắc
đánh giá cao cuốn Mây mùa thu của anh, trong khi Bộ Thông Tin ngụy
quyền kiểm duyệt và tịch thu. Anh có nghe ông Nguyễn Ngọc Lan diễn thuyết ở đại
học Văn Khoa không?
Tôi không đi, nhưng tôi được đọc bài tường thuật. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan (Hồi
ấy, chưa có cởi áo dòng lấy vợ, hồi ấy, cùng với linh mục Chân Tín và tạp chí Đối
Diện, là đối tượng thù nghịch của tôi vì lập trường hòa bình thiên vị; sau này,
cảm nhận nỗi cô đơn của 2 người, hiểu chính xác rằng Nguyễn Ngọc Lan và Chân
Tín không bao giờ là cộng sản, cám ơn đã chăm sóc, bênh vực, giúp đỡ vợ con tôi
rời Việt Nam trong khi tôi còn trong tù, nên tôi đã trở thành bạn thân của hai
người) tỏ thái độ khó chịu về những bài tôi đả kích ông ký bút hiệu Thương
Sinh, tuy nhiên, vẫn nồng nhiệt ca ngợi Mây mùa thu là tác phẩm thể
hiện tình nghĩa dân tộc, tình thương yêu Nam Bắc . Cuốn sách tôi bị Bộ Thông
Tin kiểm duyệt một trang tôi viết về tuổi trẻ miền Bắc tình nguyện vào Nam, đáp
theo "Tiếng súng Nam Bộ" vì sự nghiệp đánh đuổi thực dân Pháp năm
1946. Nhà xuất bản không chịu bôi bỏ trang ấy và Bộ Thông Tin đi tịch thu.
- Không.
- Ông Lan khen anh tận tình. Miền Bắc khen anh tận tình. Nếu không bị Mỹ dội
bom trở lại, Hà Nội sẽ diễn vở Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan và
phát một giải thưởng văn học cho Mây mùa thu. Anh có thể tiếp tục viết như Mây
mùa thuchứ?
- Tôi cùn rồi.
- Thành khẩn một chút, anh Duyên Anh! Sau hòa bình có hàng nghìn đề tài cha
con, anh em, vợ chồng, bạn bè cảm động rất hợp với lối viết của anh.
- Nhà văn Bắc thiếu gì?
- Tôi nói thẳng với anh: Theo báo cáo của Vũ Hạnh và Nguyễn Mai 2, lãnh đạo của tôi muốn xử dụng anh làm nam
châm cuốn hút người khác và chinh phục độc giả cũ của anh.
- Lãnh đạo của anh đánh giá tôi cao quá. Tôi là bông hoa đã tàn rồi.
- Anh về phòng suy nghĩ hai ngày.
Tôi không thể suy nghĩ, cũng không thể nói với Dương Nghiễm Mậu vì Mậu sẽ bảo
tùy tôi lựa chọn. Mai Thảo đã tâm sự với tôi: “Tôi có một ông thầy, ông ta nói
với tôi rằng, con người sống đến 50 tuổi là quá đủ. Tôi năm nay 50, tôi thấy
tôi đã sống quá đủ, không còn gì để tiếc nữa. Nhưng tôi sẽ không để chúng nó bắt,
trừ khi dí súng vào gáy, dao chĩa sát bụng”. Tôi kém Mai Thảo 9 tuổi. Cuộc đời
tôi, có lẽ trầy trụa, nhọc nhằn hơn Mai Thảo. Vậy cũng kể là đã 50 tuổi. Tôi
không cần suy nghĩ. Và sự không cần suy nghĩ của tôi thật đúng dù tôi phải trải
dài nỗi đau đớn của mình ngót sáu năm tù ngục, lưu đày. Thật đúng vì, khi trở về,
tôi nhìn rõ Thái Bạch bệ rạc nằm ở sòng hút thuốc phiện, xin xỏ từng điếu. Nó
đã bị đá ra khỏi sinh hoạt văn nghệ. Cái hiệu sách Giải Phóng của nó ở đường
Gia Long đã biến thành trụ sở công an phường. Quần áo nó lếch thếch, hôi hám.
Cái chất nhễ nhãi vênh vang trên khuôn mặt đắc thời của nó giữa tháng 5-1975 đã
khô rom. Nó bắt đầu chửi cộng sản chỉ để bấu một điếu thuốc phiện rẻ rề. Thế
Nguyên thì tuyệt tích. Vũ Hạnh phải làm xà phòng lậu, bị công an phường gây khó
dễ. Sơn Nam, quần ống thấp, ống cao, lang thang hè phố. Em rể Trần Bạch Đằng nằm
ấp Chí Hòa một ngày, vợ nhận hết tội “áp-phe” xuất cảnh, nằm thế chồng ba
tháng, nhà cửa bị khám xét, đồ tế nhuyễn bị tịch thu. Lệ Hằng hết mon men tới Hội
Nhà Văn sau vở kịch chửi vượt biên, rồi vượt biên bị bắt. Từ Kế Tường mất chức
chủ nhiệm nhà Văn Hoá quận 4. Nguyễn Thanh Trịnh, Ngụy Ngữ, Hoàng Ngọc Tuấn, một
năm chỉ được đăng hai truyện ngắn. Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận mất Tin
Sáng, mất luôn tổ hợp tranh sơn mài, đi buôn bán tre và sẽ bị bắt. Vân vân …
Suy nghĩ chi nữa. Biết chắc làm anh hèn cũng chẳng xong, thì tội gì không làm
anh bình thường. Với tôi, cái bình đã vỡ. Và ngậm ngùi nhớ Nguyễn Du.
Bây giờ bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong…
--------------------------------
Năm
1982, tôi gặp Khai Trí, anh ta đã thật sự mất trí vì mất hết tài sản, con cái
lưu lạc. Anh ta như Thạch Sùng, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, tội nghiệp lắm.
|
|
Nguyễn
Mai từng làm thầy cò cho tuần báo Người và Tuổi Ngọc của tôi.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét