Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

HỒI KÝ NHỮNG NĂM THÁNG LƯU ĐÀY TRONG NGỤC TÙ CỘNG SẢN CỦA DUYÊN ANH - KỲ 4


 1      2           4      5      6      7     8

CHƯƠNG 12
Bạn biết người y tá tù là ai không? Đoàn văn Toại, tác giả Goulag Vietnamien láo lếu đấy. Cái xó xỉnh đề lao Gia Định này là biểu tượng của nền ngục tù ô nhục của công sản ư? Đoàn Văn Toại chỉ quanh quẩn ở đề lao Gia Định. Anh ta bị bắt trước tôi vài tháng. Khi tôi đến đề lao, Đoàn Văn toại được ban phát ân huệ giúp việc Phòng Y Tế. Trưởng phòng Y Tế, bác sĩ Quang, y sĩ trung úy Thủy Quân Lục Chiến … nằm vùng. Sau 30-4-1975, anh ta mang quân hàm trung úy công an. Có lẽ, Quang là bí danh của anh ta. Đoàn văn Toại nghiền, tán thuốc dân tộc và phát thuộc các phòng tập thể C-1. Anh ta chưa được bén mảng ở cửa cachot. Toại hưởng quy chế ăn uống, tắm giặt thoải mái trên Phòng Y Tế. Mỗi tuần, Toại ra cổng trại, nhận thuốc của thân nhân tù nhân đăng ký. Bề ngoài nhận xét, Đoàn Văn Toại có vẻ là một cán bộ bị kỷ luật hơn một tù nhân chính trị. Lý do nào anh ta được cộng sản tin cẩn, tôi không hiểu. Toại biết thân, biết phận, không bàng nhàng với anh em. Một cách vô tư mà nhận xét, dưới mắt tôi, Đoàn văn Toai chỉ khúm núm cầu an. Anh ta chưa hề hại ai. Mà cũng chẳng ai có thể hại ai ở trong tù.
Những kẻ xử dụng ngôn từ đao to búa lớn “Bước lên xác anh em, bán xác anh em” là những kẻ gian dối. Nó đã chứng tỏ kiến thức nhà tù cộng sản quá thấp. Cộng sản không bao giờ tin cả những tên họ xử dụng làm tai mắt cho họ. Hễ tên “ăng-ten” báo cáo một tù nhân nào, ít nhất, hai tù nhân khác bị gọi ra làm việc trước. Và câu hỏi như vậy: “Anh thấy anh X có khả năng làm việc đó, nói điều đó không?” Nếu hai tù nhân “chứng nhân” trả lời “không”, tù nhân bị báo cáo bình yên, và tên “ăng-ten” viết tự kiểm. Tôi đã trải qua ba nhà tù lớn nhất và hãi hùng nhất của miền Nam, tôi chưa thấy một tù nhân nào bị chết vì bị “ăng-ten” báo cáo. Tôi cũng chưa thấy một tù nhân nào được thả sớm nhờ làm “ăng -ten”. Chuyện “ăng-ten” là chuyện nhỏ nhặt đấy. Bạn còn nhớ Vũ Thành An, tác giả Những bài ca không tên chứ? Tất cả viên chức cao cấp “ngụy quyền” ở Lòng Thành đều rõ. Vũ Thành An đã sáng tác ca khúc có đoạn:

… Nay mới rõ, đế quốc Mỹ là quân xâm lược
Nay mới rõ, lũ ngụy quyền là lũ tay sai
Bao nhiêu năm mình cúc cung phục vụ miệt mài …

Nhờ ca khúc … nín thở qua câu này, Vũ Thành An ho lao đỡ phải vác cuốc, ngồi nhà làm Thông Tin Văn Hóa tù. Rốt cuộc, anh ta vẫn bị đày ra Bắc và trở về bệnh hoạn tiều tụy. Người ta có nỡ kết án Vũ Thành An làm “ăng-ten”, Vũ Thành An “bán xác anh em” không? Vẫn ở trại cải tạo Long Thành, bác sĩ N. Ng. T. (hiện đang định cư ở Mỹ) phục vụ tại bệnh xá tù, đã tình nguyện vác cả tủ lạnh, ti vi đem vào dâng Trưởng trại Ba Tô để hưởng nhàn, để tích trữ thuốc và để Chánh án Đào Minh Lượng mất nửa lá phổi, để Vũ Thành An ói máu thì sao không ai nói? Chưa đủ đê tiện, bác sĩ T. còn dụ đưa Ba Tô về Sàigòn chơi, cho Ba Tô ăn uống no say, để được ngủ với vợ. Và bầy trò khám các nữ tù trại Long Thành để bọn cai tù … coi xi nê thỏa thích 1. Sao không nghe ai nói nhỉ? Tôi sẽ bênh vực đến cùng, nếu ai bảo Đoàn Văn Toại làm “ăng-ten”. Toại, ban ngày, ở ngoài phè phỡn, ban đêm, vào phòng 7C-1. Phòng 7C-1 có phóng viên lùn Văn Chi, dũng sĩ quốc gia đã đánh hai Pháp kiều thân Cộng treo cờ Giải Phóng ở trung tâm Sàigòn trước 1975. Sau năm 1975, Văn Chi bán phở và tham gia tổ chức phản động. Anh ta đã “chào mừng” tôi bằng trái xoài nhờ Đoàn Văn Toại chuyển. Phòng 7C-1 có tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tàu dầu, tư sản mại bản. Ông Khai có 50 chiếc tàu chuyên chở dầu chiến lược. Ông không tin thủy thủ đoàn Việt Nam, chuẩn bị một chiếc tàu với thủy thủ đoàn Đại Hàn. Chổi cùn, dế rách ở biệt thự nguy nga số lẻ đường Công Lý, đối diện trường Régina Mundi, được khuân hết xuống tàu. Vợ con ông đã đi từ khuya. Ngày 29-4-1975, ông khệnh khạng xuống tàu. Thủy thủ đoàn Đại Hàn ớn cộng sản đã chuồn rồi. Ông tỷ phú đứng khóc. Ông muốn điên. Ông lú lẫn. Ông không kiếm người khác. Ông sợ tàu… chìm. Và ông … vào tù y hệt tinh thần luân lý giáo khoa thư: “Ba quan đắt quá, thà chết còn hơn”. Phòng 7C-1 có cụ Cao Văn Diên, phản động già và cụ Trần Văn Liễu, phản động gân. Nhân vật Cao Văn Diên hiện diện trong Goulag Vietnamien của Đoàn Văn Toại như một ông già bị bắt oan và chết tại đề lao Gia Định. Sẽ đề cập sau.

Nhờ thảnh thơi ban ngày ngoài phòng giam, Đoàn văn Toại đã thoát dịch ghẻ 1976 kéo dài từ tháng 4-1976 đến tháng 10-1976. Cuối năm 1976, Toại bị tống vào phòng vì sự liên hệ lèm nhèm nào đó. Chức vụ y tá C-1 rơi vào tay Lý Sen, chủ nhà băng Đông Nam Á, tư sản mại bản Chợ Lớn. Đoàn Văn Toai bắt đầu bất mãn. Vợ anh ta, quốc tịch Pháp, con gái nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, đã ẵm con sang Tây. Toại ở chung phòng với Đặng Giao bên khu A. “Ngày nào thành công, tôi sẽ sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống!” Đoàn Văn Toại tâm sự với Đặng Giao và Đặng Giao kể lại ngày chúng tôi tái ngộ ở Chí Hòa. Rồi Toại được thả, được leo lên máy bay Air France, đoàn tụ gia đình. Tôi vượt biển sang Pháp, biết Đoàn Văn Toại đã kể chuyện đề lao cho Minh Đức Hoài Trinh và Minh Đức Hoài Trinh thông dịch cho một ký giả Tây. Và Goulag Vietnamien xuất bản. Tôi lại biết Toại đã vận động định cư ở Mỹ và theo Trương Như Tảng. Tảng theo Hoàng Văn Hoan, chỉ chống tập đoàn Lê Duẩn – Trường Chinh, chứ không chống cộng sản Việt Nam. Họ đã xác định lập trường. Hồ Chí Minh vẫn là xác chết được tôn thờ. Cậu Đoàn Văn Toại từng bầy tỏ chí khí “Sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống”. Bây giờ, cậu Đoàn Văn Toại “phản tỉnh”, “thức tỉnh”, cậu hò hét “Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. Giữa Toại và tôi đã có biên giới.

Mùa thu 1985, Đoàn Văn Toại, qua Paris, với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, mời tôi ăn tối. Với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, tôi nhận lời. Chúng tôi hẹn nhau ở quán Đào Viên quận 13. Đoàn Văn Toại tặng tôi cuốn Goulag Vietnamien. Tôi nói:

- Tôi đã đọc. Sách của cậu đáng liệng vào thùng rác. Vì có những ba điều bố láo. Một: Ở đề lao Gia Định, giấy và bút bị nghiêm cấm. Công an kiểm tra hành lý tù thường xuyên, cậu đào đâu ra giấy bút mà lập kiến nghị? Rồi tù nhân bị nhốt kỹ 24 trên 24, cậu liên lạc với ai mà xin được hàng trăm chữ ký? Hai: Cụ Cao Văn Diên phản động nặng, cụ bị đầy lên Pleiku và chết tại Gia Trung, cậu bảo cụ ấy chết ở đề lao. Cậu được tha, cụ Diên vẫn còn nằm ở đề lao. Cụ Diên rời đề lao sau 2-9-1977. Ba: Cậu quả quyết tôi chết rồi. Còn rất nhiều bố láo. Ba điều thôi đã đủ liệng sách “Chứng nhân” của cậu vào thùng rác. Tôi sẽ chửi nhà xuất bản Laffort cái tội rủa tôi chết.

Đoàn văn Toại cười cầu tài:

- Tôi kể đại ông ơi!

Tôi nhìn thẳng mặt anh ta:

- Điều nầy ngoài cuốn sách. Cậu là thằng bất nhân. Đã cho tôi chết, cậu còn bảo tôi làm “ăng-ten”

Toại chối:

- Tôi thề với ông, tôi không hề bêu nhục ông. Đứa nào nói với ông vậy?

Tôi chậm rãi:

- Bạn cậu, Vũ Ngọc Yên, tạp chí Độc Lập bên Đức.

Đoàn Văn Toai câm họng. Tôi cười xòa và bốc anh ta chín từng mây. Toại khoái chí chửi Trương Như Tảng cù lần, Hoàng Văn Hoan đần độn, Nguyễn Công Hoan ngu dốt, Tô Văn cố đấm ăn xôi… Anh ta nói về đài phát thanh sẽ lập ở Tân Gia Ba, gợi ý mời tôi bằng cách than thở thiếu nhân tài. Nội tình của phe nhóm anh ta, anh ta kể vanh vách. Tôi nghĩ thầm: Mẹ kiếp, mày nhóc tì, tuổi ít hơn ông, ngu hơn bò mà cứ đòi đi mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc ông à? Ông vừa trổ đòn nhà báo, mày đã tự khai vung xích chó. Hết chai rượu đỏ, tôi nói:

- Thôi nhé, chut tình đồng tù đề lao đến đây chấm dứt. Cậu đi đường cậu, tôi đi đường tôi. Mai này tôi đánh, cậu rán mà đỡ. Tôi thích sòng phẳng.

Chúng tôi chia tay. Ít tháng sau, Toại gửi cho tôi một bức thứ từ Liễu Châu. Anh ta ba hoa: “Đã thăm mộ các liệt sĩ quốc gia, sẽ không còn sai lầm như họ”. Tôi suýt chửi thề. Đó, người y tá tù đề lao Gia Định khu C-1, nhà cách mạng lưu vong Đoàn Văn Toại, với đầy đủ tài năng và tư cách, người đang chu du thế giới bằng tiền Tàu, tranh đấu cho giấc mộng Tôn Sĩ Nghị cùng đám Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng. Và tôi, tôi ngồi trên lầu 8 của cái immeuble bên bờ sông Seine, thành phố có thị trưởng Jacques Laloe, là đảng viện cộng sản, có tổng hành định của Georges Marchais, Tổng bí thư Đảng cộng sản Tây, viết sách mưu sinh. Bởi nghèo, nên bị cư trú tại Ivry Sur Seine. Bởi chống cộng, nên bị Jacques Laloe lờ tít mọi trợ cấp xã hội, y tế. Không sao, tôi đã chống cộng, tôi đang chống cộng, tôi còn chống cộng đến tối. Tôi anh dũng thấy mẹ, tôi chống cộng trong lòng địch!

Trở lại đề lao Gia Định, nơi tôi đang học môn Thống Khổ Nhập Môn. Tôi ở 6C-1 đã 2 tuần, đã quen với sinh hoạt phóng này. Tôi không còn gớm ghiếc nhìn đống mài ghẻ mà trực sinh quét gom buổi sáng. Bạn thử tưởng tượng mài ghẻ mủ và mủ ghẻ dính nhớp nhúa trên bục nằm, mỗi sáng. Người ta phát cho chúng tôi miếng bố tời, vừa để chùi chân bước lên cầu tiêu vừa để lau bục nằm. Ở đề lao, dép cất kỹ trong bị, chỉ mang khi bị gọi lên phòng chấp pháp làm việc. Làm việc, danh từ cộng sản, có nghĩa là làm việc với công an, có nghĩa là viết tự khai và chịu đựng những cuộc thẩm vấn điên đầu. Người cộng sản chơi chữ rất xảo quyệt. Một ông Ba Tàu đã phát biểu ý kiến ở phòng B, Sở Công An: “Lù má ló, pắt pỏ tù lại pảo li học tập. Lấy cung lại pảo làm việc. Nhà tù lại pảo trường học. Cai ngục lại pảo quản giáo, cán pộ!” Chữ nghĩa của cộng sản đã huyễn hoặc thế giới. Cho đến hôm nay, báo chí người và cả báo chí mình vẫn viết nhà tù, trại tập trung khổ sai lao động là Trại học tập cải tạo! Ở khắp nơi tôi đi làm chứng nhân, người ta đều hỏi tôi: “Ông được học tập ra sao?” Và tôi đã trả lời: “Tôi chẳng được dạy dỗ gì cả. Người cộng sản có một mục đích rõ rệt. Họ làm chúng tôi sợ hãi, bắt chúng tôi khổ cực và bỏ chúng tôi đói. Càng kéo dài sự sợ hãi, khổ cực và đói, chúng tôi càng sa sút tinh thần. Khi biết chúng tôi tàn lụi ý chí phấn đấu, đó là lúc họ thả chúng tôi về. Và họ đã đạt kết quả. Đa số, chúng tôi về mất trí, thành phế nhân. Có nhiều người đã được xuất ngoại chính thức theo chương trình ODP, sang Mỹ, sang Tây … vẫn chưa hết ngẩn ngơ, ngơ ngác. Chúng tôi học tập sợ hãi, khổ cực và đói. Bất cứ tù nhân nào vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói, thì sẽ tự học ở đó những ý nghĩa rạng ngời của cuộc sống, của lý tưởng chiến đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền.” Tôi không dám nói thêm: "Nhưng không dám vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói thì sẽ ăn vụng thịt dưới bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cơm heo và tự đòng hóa mình với súc vật". Vậy thì, làm việc là danh từ hãi hùng của tù nhân. Bạn sẽ mệt lữ cò bơ với làm việc. Làm việc ở đề lao Gia Định, là bị truy nã dĩ vãng, hiện tại; ở Chí Hòa là bị đánh học máu mồm; ở các trại tập trung là vàonhà lô, ăn đòn nhừ tử.

Tôi chưa bị ghẻ. Hồng Dương đã bắt đầu. Nhờ không biết ăn mắm ruốc và cá biển, một vài mụn ghẻ nước của tôi chịu thuốc xanh ngay. Tôi dùng mũi kim băng khều mụn, nặn đến máu chảy ra rồi thấm khô, chấm thuốc. Là mụn ghẻ mọc mài. Mỗi tù nhân đề lao đều có một cái kim băng và phải dấu kỹ. Khi bị ngứa, ngày cũng như đêm, tôi lấy bàn chải đánh răng chà lên chỗ ngứa. Nếu gãi bằng móng tay, gãi cho đã, da sẽ bị xước. Và chỉ cần da xước một tí là ghẻ mủ cấp kỳ. Ghẻ nhà tù “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn xã hội chủ nghĩa. Hàng chục thứ bệnh truyền nhiễm ở phòng giam tập thể, nhưng tù nhân không được chích thuốc ngừa. Sự khôn ngoan chống ghẻ của tôi bắt tôi phải đánh răng bằng cái bàn chải tôi đã gãi khắp thân thể. Không có sự khôn ngoan nào không bị trả giá. Sự khôn lớn của con người bị trả giá đắt nhất. Phòng 6C-1, ngoài mấy tên trộm cắp vô lại, mấy tên Mafia cơm nước, mấy “chuyện buồn nhỏ nhặt”, không đáng chi phải để phòng. Tôi yêu nhóm anh em trẻ phản động Hóc Môn, Bà Điểm. Người của Mười tám thôn vườn trầu đã được hai kép hát Út Trà Ôn và Thành Được diễn tả điêu luyện và rung động trong Người ven đô như những chiến sĩ “Chống Mỹ cứu nước” phi thường lại cũng chống cộng cứu nước phi thường. Nếu tôi đã ngờ vực Trương Phiên, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ và tin tưởng tinh thần chống cộng của nông dân trẻ miền Nam. Bắt đầu, ở phòng 6C-1, tôi suy nghĩ về cuộc tân cách mạng Tây Sơn 2. Tôi đã nói chuyện nhiều với nhóm anh em Mười tám thôn vườn trầu. 6C-1 có một người tên Nga, tâm sự na ná Moritz của Gheorghiu. Anh ta nuôi heo cho một chủ trại ở Thủ Đức. Vợ anh ta đã chết. Anh ta làm gà trống chăm sóc đứa con gái 8 tuổi. Chủ trại bị bắt. Anh Nga bị bắt theo. Người ta chụp lên đầu anh cái mũ phản động … nuôi heo để dễ ăn cướp bầy heo. Anh Nga xin đem con gái vào tủ. Người ta từ chối. Cả ngày, anh ta ngồi xổm trên thành hồ nước hết khóc lại thở dài. Này bạn chống cộng sản và bạn thân cộng sản, có bao giờ bạn thấy một người vô sản ngồi khóc nhớ con trong nhà tù cách mạng vô sản về tội nuôi heo? Chẳng bao giờ bạn thấy cả. Vì bạn không bao giờ ở tù cộng sản. Vậy bạn nên suy nghĩ về cái gọi là bản chất và hiện tượng cộng sản, xuyên qua thân phận người vô sản cùng khốn tên Nga. Chừng suy nghĩ đắn đo, chín muồi, bạn sẽ có thái độ chính trị quyết liệt, dù chống cộng hay thân cộng. Tôi vốn khinh bỉ mọi sự làm dáng chính trị. Nó không thấm khô nước mắt của anh Nga nuôi heo, nó không lau sạch mủ ghẻ trên bục xi măng nhà tù.

Tôi chưa kể chuyện người bạn tuổi nhỏ của tôi, nhà văn Từ Kế Tường, cũng bị bắt, bị đưa về đề lao Gia Định và đã tạm trú ở 7 C-1. Từ Kế Tường trốn quân dịch. Giám đốc Nha Quân Pháp của Bộ Quốc Phòng ký cho cậu ta đầy đủ giấy tờ hợp lệ như một sĩ quan. Từ Kế Tường lãnh lương và đóng thêm tiền mồ hôi nước mắt, nộp cho cai thầu lính kiểng. Cậu ta mặc quân phục, mang phù hiệu quân pháp, đeo lon thiếu úy công khai. Sau hai năm, lên trung úy. Từ Kế Tường dại dột diện quân phục về ngõ nhà mình. Khi các sĩ quan đi trình diện học tập hết, không thấy Từ Kế Tường ra đi, mấy đứa ác độc gần nhà cậu ta tố cáo cậu ta trốn học tập cải tạo. Từ Kế Tường bị bắt. Nằm đề lao chưa kịp ghẻ, nhờ ông bố tập kết bảo lãnh nên hồ sơ… lính kiểng được cứu xét lẹ. Từ Kế Tường về đời xã hội chủ nghĩa, làm tới chức Chủ nhiệm Nhà Văn Hoá quận 4. Báo Tuổi Ngọc phá kỷ lục vào tù. Chủ nhiệm Duyên Anh, chủ bút Đinh Tiến Luyện, thư ký tòa soạn Từ Kế Tường. Cuối năm 1981, được tin tôi ra trại, Từ Kế Tường, Nguyễn Thanh Trịnh, Đinh Tiến Luyện đến thăm tôi. Luyện đã phiêu lưu các trại tập trung Suối Máu, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân và làm nghề buôn bán hạt giống, nước mắm. Trịnh làm công nhân xưởng dệt quốc doanh, cộng tác với báo Tuổi trẻ. Pham Đình Thống bán thuốc tây chợ trời. Chúng tôi vẫn dành cho nhau nguyên vẹn tình cảm nhưng tư tưởng đã tạm ngăn cách. Và đó là nỗi buồn của chúng tôi. Pham Đình Thống khấm khá nhờ những kinh nghiệm và thủ đoạn chợ trời. Trước ngày tôi bỏ Sàigòn, Thống mở hiệu bán thuốc với công ty bằng hữu ở đường Đồng Khánh. Chẳng biết hiệu thuộc của Thống còn tồn tại? Từ Kế Tường đã bị loại khỏi sinh hoạt văn nghệ. Nguyễn Thanh Trịnh mỗi năm chỉ được đăng hai truyện ngắn ca ngợi lao động sản xuất. Đinh Tiến Luyện vượt biên hoài không nổi, đành kết hôn với một nữ thuyền nhân hụt và yên phận chọn Tam Hiệp, Biên Hòa. Luyện đã có con gái đầu lòng. Cuộc đời đã đổi thay hết.

Một thứ không hề thay đổi. Là cung cách chiến đấu chống cộng sản. Một thứ dừng lại. Là tư tưởng văn chương của các tiên chỉ, lý trưởng văn nghệ. Một thứ trở về. Là lối kiếm tiền chụp giật để chóng giàu. Một thứ tiến bộ. Là tinh thần ăn cắp, ăn quỵt, chụp mũ.

Đầu tuần lễ thứ ba, sau khi điểm tâm, chúng tôi được lệnh chuyển trại cả phòng. Lệnh khẩn trương. Tù nhân hạ bị, giỏ, tháo gỡ hết giây, gom góp mọi đồ “tế nhuyễn”, đem ra xếp thứ tự thành một hàng dài ngoài hành lang. Tất cả sợ hãi và băn khoăn. Ngày mai thăm nuôi, chuyển trại đột xuất, chưa kịp báo tin, vợ con khuân quà cáp tới sẽ mất công khuân về và sẽ lo lắng không hiểu chồng, cha mình ở đâu. Như ở bên Sở, tù nhân được nhận quà của gia đình mỗi tuần một lần. Ngày này, danh từ cộng sản gọi là ngày thăm gặp. Thực ra, không có thăm, cũng chẳng có gặp. Thân nhân bỏ quà cáp (thịt khô, mì vụn, mắm ruốc, nước mắm, kẹo bánh, cà phê, thuốc lá, thuốc bệnh, thuốc rê, thuốc lào, giấy quấn, diêm quẹt, trái cây… và 10 đồng) vào bị cói hay túi vải, túi phân bón, kèm tấm giấy ghi các món quà. Công an kiểm soát các món ở sân ngoài, rồi ký tên xác nhận lên tấm giấy “danh sách quà cáp”. Món nào cấm, công an gạch xóa. Được nhận quà, thân nhân tin là tù nhân không bị kỷ luật, bèn về ngay. Những người được Sở cho phép gặp tù nhân thì ngồi chờ trong phòng khách. Các Trưởng phòng khiêng những túi quà vào một căn nhà khám xét quà cáp của khu mình. Đề lao Gia Định có ba khu, mỗi khu một ngày nhận quà. Ở căn nhà khám xét, công an chiếu cố quà cáp kỹ lưỡng. Món nào dính dáng tới nước mắm, bị đổ ra cái thau nhựa. Đũa, muổng, dĩa khoắng, quậy, gắp, rỉa xem có thư gửi lén. Rồi lại dồn vô túi ni-lông. Thịt kho ướp mắm ruốc, cá kho là vì cái thau nhựa bới tung mắm ruốc, cá kho bới tung thịt.. Đường, cà phê… bị nắn bóp. Bánh chưng bị cắt làm tư. Quà tù nghe chừng cũng đau đớn. Dưới mắt công an cộng sản, cái gì của tù nhân phản động đều … phản cách mạng cả. Thuốc lá bị xé bao, dẫu là thuốc lá cách mạng, dồn vào túi ni lông. Dồn cả 200 điếu. Vẫn thuốc lá ấy, nhà tù mua giùm tù nhân thì để nguyên trong bao! Khám xét … nát quà cáp, rồi vất bừa vô bị, vô giỏ. Lúc ấy, trưởng phòng khiêng về cửa phòng theo tên tù nhân và số phòng. Cai ngục mở cửa. Tù nhân dở đồ ra sắp xếp. Chuối là dập nát. Xoài là dập nát. Bún chả tanh mùi cá. Phở xào nặng hương vị mắm tôm. Mì vụn vương đầy thuốc rê. Thăm gặp, dùng chữ của công sản, là một thủ đoạn. Đừng tưởng cộng sản ban phát ân huệ. Thăm gặp nhằm những mục đích:

* Chính sách cải tạo của Đảng và Nhà Nước nhân đạo.

* Đỡ tốn thức ăn và thuốc men.

* Tù nhân dinh dưỡng bằng thực phẩm của gia đình mình sẽ khỏe mạnh để ở tù lâu.

* Cho tù nhân hưởng phè phỡn thành thói quen. Sẽ dọa cúp thăm gặp làm áp lực tình cảm và vật chất.

Bởi vậy, ngoài thăm gặp hàng tuần, còn cho mua hàng hóa hàng tuần. Tù nhân sợ chuyển trai, phần lớn, vì sợ mất liên lạc gia đình, ít ra, nửa tháng. Đến trại mới được gửi quà.

Sau khi tù nhân ra ngoài hết, cửa phòng khóa chặt. Mỗi tù nhân đứng cạnh hành lý của mình. Cai ngục điểm số. Chúng tôi, từng người đọc tên và số thứ tự xếp hàng.

- Số 1, Vũ Mông Long.

- Số 2, Nguyễn Thanh Chiểu.


- Số 52, Lâm Văn Thế.

Điểm số xong, cai ngục nói:

- Các anh nhớ số của mình.

Cửa phòng lại mở. Chúng tôi nhận lệnh trở vào. Cai ngục gọi:

- Số 1.

Tôi hô “có” và đi ra. Cai ngục bắt tôi đứng nghiêm, dơ hai tay lên. Hắn rờ nắn thân thể tôi khám xét túi quần, túi áo tôi. Những tên vệ binh đeo súng ngắn, đứng canh chừng. Khám người xong, cai ngục bảo tôi đổ từng đồ “tế nhuyễn” ở túi, bị, giỏ ra. Hắn kiểm soát từng món, cật vấn đủ điều. Thư vợ tôi gửi, cai ngục tịch thu. Ảnh vợ con tôi, hắn giữ lại “nghiên cứu”. Hành lý của tôi bừa bãi trên nền xi măng của hành lang khu C. Cai ngục hạ lệnh “Khẩn trương”. Tôi quơ vội nhét vào giỏ, bị. Nước mắm lẫn với quần áo. Tôi được đem hành lý vào phòng. Tù nhân thứ hai, Nguyễn Thanh Chiểu, bị gọi ra. Cứ vậy, tới tù nhân số 52. Một buổi tổng kiểm tra phòng. Cai ngục nói dối chuyển trại để tù nhân có cất dấu cái gì trong phòng cũng sẽ phải thu quén bỏ hết vào bị. Thêm một thủ thuật. Thủ thuật biến ảo. Nó không thành qui luật chết. Nên tù nhân mắc bẫy dài dài. Lần sau chuyển trại thật sự, tù nhân tưởng tổng kiểm tra, công kênh nhau dấu những thứ cần dấu trên những xà gỗ trần phòng. Thế là vất lại những gì đã dấu. Nửa tháng, có khi một tuần, tù nhân, tiếc rẻ món này bị tịch thu, mừng húm món kia thoát nạn. Là đầu óc bớt căng thẳng, sự nổi loạn ở phòng giam được bảo đảm. Tôi đã nhìn rõ tôi qua hình ảnh Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí và tất cả tù nhân đề lao ngoài ánh sáng. Mặt chúng tôi trắng bệch, ngơ ngác. Mới đứng tại hành lang khám tư trang của tù nhân đã thấy mình hèn mọn. Mọi sự hung hăng biến đâu mất. Tôi chợt nhớ bài thơ L’albatros của Beaudelaire. Con hải âu đã rơi xuống sàn tàu. Tôi chợt nhớ bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Con hổ đã nằm trong chuồng. Tôi chợt nhớ thiên hồi ký ngắn của Nguyễn Mạnh Côn, nhắc lại kỷ niệm ở tù Việt Minh với nhà văn Trọng Lang 3. Anh Nguyễn Mạnh Côn, viết rất thật, rất người rằng, vì thương con, Trọng Lang đã lạy cộng sản để nó đừng giết mình. Trọng Lang đã phản ứng bằng cách miệt thị Nguyễn Mạnh Côn nói láo. Tôi vừa tìm ra sự thật. Chưa có ai lạy cai ngục cả. Nhưng tất cả đều lễ phép khi bị cai ngục cật vấn, xét hành lý. Tôi lại chợt nhớ lời khuyên của Thanh Thương Hoàng bằng thơ Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”.

Chúng tôi ăn cơm trưa muộn. Vì bận bịu sắp xếp và treo hành lý tù. Buổi trưa, không ngủ, tôi mò sang chỗ ông Lâm Văn Thế đánh cờ tướng. Đánh cờ để tâm sự. Chúng tôi nói thật nhỏ.

- Ông Thế, ông nghĩ bao lâu họ thả chúng ta?

- Chịu. Không ai đoán nổi. Mọi suy nghĩ về cộng sản của người quốc gia đều sai hết. Ông sẽ đi lao cải, sẽ về, tùy vào sự ổn định tình hình sớm hay muộn.

- Còn ông?

- Tôi sẽ ở đây với các ông Thái Đen, Nguyễn Thiện Giai, Như Phong chờ phép lạ. Hai nơi đến và đi của chúng tôi: Sở và Đề Lao. Người ta không cho chúng tôi ra ánh sáng đâu.

- Tại sao?

- Chúng tôi là tự điển!

Tự điển, ông Lâm Văn Thế, thiếu tá cảnh sát đặc biệt giải thích:

- Tôi đặc trách một cụm tình báo. Rất nhiều cộng tác viên tình báo không có tên. Họ lãnh lương bằng hàng trăm mật danh ổi, xoài, mít… Tôi cũng không thể biết mặt họ toàn thể. Một số nào quan trọng thôi. Cơ quan của tôi, kẻ đã di tản, người trốn trình diện. Và tôi bị bắt ngay đêm 30-4. Tình báo đánh giá đúng mức tình báo. Họ dùng tôi làm tự điển.

- Họ tra … ông?

- Phải. Bắt được nhân viên của tôi trốn trình diện hay một người họ ngờ vực là cộng tác viên của tôi, trước hết, họ khai thác người bị bắt. Nếu người bị bắt chối, họ bảo người bị bắt làm tự khai danh dự, chấp nhận mọi hậu quả nếu gian dối. Rồi họ gọi tôi ra. Họ nêu tên tuổi người bị bắt, hỏi tôi có quen biết không. Tôi nói không quen, họ dẫn tôi về phòng. Rồi họ lại gọi tôi ra, cho tôi gặp mặt người mà tôi nói không quen biết. Họ quan sát mặt chúng tôi, cử chỉ của chúng tôi để tìm ra sự thật.

- Nếu ông trả lời ông quen biết?

- Thì người chối không hề quen biết tôi can tội gian dối. Và anh ta đích thị là công tác viên tình báo.

- Có trường hợp ngược?

- Có chứ. Tôi đâu biết người bị bắt khai làm việc với tôi, tôi nói không quen. Họ dí vào mặt tôi tờ tự khai và dẫn người bị bắt ra gặp tôi.

- Rồi sao?

- Tôi bắt buộc phải làm tự điển trung thực.

Ông Thế buồn bã:

- Với công ăn ở bất cứ chế độ nào ông có thể dấu diếm được tư tưởng trong đầu óc ông mà không thể dấu diếm được các sự việc đã xảy ra. Ngoài tôi, còn các cuốn tự điển khác mà tôi không biết. Có lẽ, họ cũng bị bắt sớm như tôi. Cá nhân tôi, tôi cũng chẳng rõ ai chạy thoát, ai kẹt lại, ai trình diện, ai bị bắt, ai còn lẩn trốn. Họ sợ tình báo, họ cần quét sạch tình báo, từ lính đen sĩ quan, từ gác cổng đến bưng nước văn phòng.

Tôi hỏi:

- Như Phong dính dáng tình báo?

Ông Thế đáp:

- Ông ấy là tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Tôi đã thấy Trịnh Quốc Tài tự tra … tự điển bên Sở Công An. Và tôi đã thấy ông ta tra bạn tôi, Thanh Thương Hoàng.

- Họ cũng tra tự điển tôi về các nhà văn, nhà báo. Cơ quan của tôi không phụ trách “hồ sơ” văn nghệ sĩ.

Chúng tôi ngừng cuộc cờ. Tôi trở lại chỗ của tôi, ngồi dựa lưng vào tường suy nghĩ. Có hai đối tượng cộng sản đang truy lùng: Tình báo và đảng phải. Cộng sản thù hận các đảng Đại Việt, Duy Dân, Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là mối thù “truyền kiếp”. Rất nhiều đảng viên của ba đảng này không trình diện và tiếp tục chống đối cộng sản. Cụ thể hóa sự sợ hãi và lòng thù hận của cộng sản là Mai Chí Thọ đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân, vây bắt trọn vẹn đàn ông (thanh niên, phụ lão) của hai làng Sống Vinh (Bà Rịa), hai làng do Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập trong kế hoạch khẩn hoang lập ấp của Phan Quang Đán. Họ sợ hãi những nhân vật chìm, những con bài chưa lật tẩy. Thứ đã lật tẩy, đã om sòm tên tuổi cỡ Vũ Hồng Khanh, Hà Thúc Ký, Đặng Văn Sung, Phạm Huy Cơ, đi hay ở, chẳng có gì quan trọng. Vũ Hồng Khanh, kẻ ngang vai vế với Hồ Chí Minh (Ở bối cảnh lịch sử 1946, còn trên cơ là khác), đã lẽo đẽo đi trình diện, đã trả lời câu hỏi “Tai sao ông chống cộng?” của tên thiếu tá quân đội nhân dân như vầy: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Câu trả lời bất hủ nầy phẩm định giá trị chiến đấu của đại lãnh tụ quốc gia. Ông Vũ Hồng Khanh đã già lắm, đáng lẽ, ông đã khước từ trình diện và chỉ chấp thuận trả lời Phạm Văn Đồng, Trương Chinh. Ông đã sợ … chết già. Ông ta ham sống như bọn lãnh tụ già bất tài vô tướng ham sống vậy. Câu trả lời bằng tiếng nói đích thực của Vũ Hồng Khanh đã được truyền thanh khắp nước, ròng rã hàng tháng. Biểu tượng quốc gia bị bêu nhục. Ông giáo Giản 4 đã tiêu diệt các đảng phải quốc gia nhỏ để Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông chiếm đa số ghế trong Quốc Hội bịp 1946. Ông giáo Giản suýt thủ tiêu Nguyễn Mạnh Côn (Việt Nam Phục Quốc Đảng), nếu Nguyễn Tường Tam không kịp can thiệp 5. Nhà lãnh tủ đa sát này đã đứng giữa hoàng hôn giăng giối: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Tú (ký giả nhật báo Chính luận, tên thật Nguyễn Ngọc Tú, nhân vật quan trọng của Đại Việt quan lai, từng chấp chính giữ ghế Tổng Giám đốc Nha Thanh Niên thời Tổng Trưởng Nguyễn Văn Kiểu) bị bắt ngay đêm 30-4-75 mà Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng, Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng vẫn đạp xe mini suốt tháng 5-1975, Tự điển người! Ghê gớm thay thủ đoạn cộng sản. Tôi bắt đầu lo ngại cho Thanh Thương Hoàng.

Anh ta đã thức giấc đúng lúc nước sôi buổi chiều vào. Thanh Thương Hoàng pha cà phê mời tôi uống.

- Vụ ấy, mày không nhận là may. Anh em bảo mày OK.

Tôi ngẩn tò te.

- Vụ nào?

Thanh Thương Hoàng cười ruồi:

- Vụ anh em đưa vợ con mày đi.

Tôi nhớ rồi.

- Bị bắt hết. Bị Mai Chí Thọ cài người gài bẫy bắt hết.

- Có chuyến đi?

- Có. Chuyến đi dính lưới toàn bộ.

- Có chiến khu?

- Có. Một nhóm sĩ quan, một nhóm lính. Đang nằm trong tay Quân Báo bên Tô Hiến Thành.

- Sao mày biết?

- Tao không dám ta-pi. Tao từ chối. Một người quen thoát lưới chuyến đi, nhờ hối lộ tên công an Phước Tỉnh hai lạng vàng, cho tao rõ. Mấy hôm sau, người ấy báo cáo thêm cả tổ chức bị sa lưới.

- Không phải là tao không nhận. Vợ tao đau nặng hôm đó.

- Vận may. Đàn bà con nít không nên vào tủ. Họ phải ở ngoài tiếp tế cho bọn mình.

Thanh Thương Hoàng thở dài:

- Bốn phương mù mịt cả. Tổ chức nào cũng dính lưới. Có tổ chức cài người vào Phường, khi bị công an bảo vệ chính trị bắt, Phường trưởng không tin người bị bắt là phản động. Trước hôm mày vô 6C-1, thằng Chín bị đổi phòng. Nó được cài vào huyện đội công an Thủ Đức. Nó chửi Mỹ tổ chức chống cộng rồi xúi cộng sản bắt!

Tôi bỗng nhớ Trương Phiên. Người Mỹ âm mưu gì nữa? Tôi hoàn toàn mù tịt. Vỗ vai Thanh Thương Hoàng, tôi hỏi:

- Mày thận trọng nhé! Tao thấy thằng Trịnh Quốc Tài viết báo cáo có tên mày, Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc. Mày dính dáng Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình báo hả?

Thanh Thương Hoàng giật mình:

- Không, không…

Tô Ngọc phục vụ cảnh sát đặc biệt để trốn lính như Y Vân. Trịnh Viết Thành làm báo Quật Cường của Trung ương Tình báo với Anh Quân. Còn Thanh Thương Hoàng chỉ tai tiếng vụ Làng Báo Chí. Anh ta có dính liếu với Trung ương Tình báo hay không, tôi không biết. Nhưng khi tôi nhắc nhở anh ta có tên trong báo cáo của Trịnh Quốc Tài, anh ta rầu rĩ vô cùng. Sáng hôm sau, cai ngục đến 6C-1 trước giờ phát nước sôi. Tên hắn là Sáu, dân Sàigòn, vì bị lé nên tù nhân tặng hắn biệt danh Sáu lé.

- Nguyễn Thanh Chiểu.

- Có

- Mặc quần áo ra làm việc.

Thanh Thương Hoàng vội vàng mặc bộ bà ba vải mỏng, mầu gụ. Anh ta cầm đôi giép Nhựt bước tới cửa phòng. Tù nhân ra làm việc, bất kể làm gì, đều phải ăn mặc tươm tất, đi giép. Đầu tóc có thể rối bù. Râu ria có thể rậm rạp. Quần áo không thể thiếu nghiêm chỉnh. Ở đề lao, hàng tháng, tù nhân được cắt tóc, cạo râu một lần. Tù cắt tóc cho tù. Cai ngục đứng giám sát. Cuối khu C-1, người ta dựng cột lợp tôn làm cái chái. Do đó, phòng 7C-1 thiếu ánh sáng. Tù nhân khu C-1 ra cắt tóc ở cái chái nầy. Buổi sáng một phòng. Buổi chiều một phòng. Ba thợ cắt tóc tù làm việc khẩn trương. Cai ngục mở cửa. Ba tù nhân ra một lượt. Cửa khép chặt, ấn khóa. Không có khăn quàng. Không có dao cạo. Không có kéo. Không có gương. Tông-đơ Trung quốc lưỡi thưa, thứ tông đơ cắt lông ngựa liếm tóc tù nhân. Giáo điều cắt tóc của cách mạng vô sản:

- Cắt dài là thiếu nếp sống văn hóa mới.

- Cắt trọc là chống đối.

Bởi thế, tông-đơ đẩy lưng chừng. Đẩy xong những đường tóc, tông-đơ đẩy râu ria. Tông-đơ chấm bát luôn. Năm phút một cái đầu. Cằm bị chảy máu, mép bị chảy máu, ráng chịu. Tông-đơ nhai tóc, đừng kêu ca. Ba anh này vào, ba anh kia ra. Anh nọ soi gương bằng cách nhìn đầu anh kia. Thấy mình giống quái vật. Cắt tóc xong thì bước vô phòng tắm, dùng khăn khô phủi tóc cho nhau, đợi sáng mai hãy tắm (nếu cắt tóc chiều). Ngủ một đêm với tóc vụn dính mồ hôi có sao. Ngứa thì gãi chung với gãi ghẻ cho tiến bộ, đuổi kịp nếp sống văn hóa mới.

Đầu tóc, râu ria Thanh Thương Hoàng khiếp lắm. Rõ là thằng tù! Sáu lé mở cửa. Hắn khóa lại. Tù nhân đi trước, cai ngục đi sau, đề phòng đánh lén. Cách mạng luôn luôn cảnh giác cao. Sau bữa ăn sáng, Thanh Thương Hoàng trở về. Anh ta mệt mỏi, bỏ cơm. Kẻng tù báo thức giấc trưa, anh ta ra làm việc. Cứ vậy, sự làm việc của Thanh Thương Hoàng kéo dài cả tuần. Trong khi ấy, Chóe, Hồng Dương, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn và tôi chưa bị gọi ra. Một buổi tối, chúng tôi ngồi bên nhau hút thuốc lá, chuyện gẫu. Thanh Thương Hoàng nói :

- Tao đã kết thúc tự khai.

Anh ta kể:

- Tao viết một câu rất hòa giải dân tộc.

Thanh Thương Hoàng đọc:

- “Chúng tôi sẵn sàng bắt tay với các anh xây dựng lại đất nước”.

Hồng Dương dẫy nẩy:

- Hỏng rồi.

Thanh Thương Hoàng vốn phục Hồng Dương thông minh, đọc nhiều. Anh ta hỏi.

- Hỏng sao?

Tôi nhanh miệng đáp:

- Mày bỏ tù nó, mày viết thế là mày cao thượng, quốc gia cao thượng. Nó bỏ tù mày, mày nói thế là mày xấc. Nó sẽ hành mày. Nó ví chúng ta là thú vật. Mày hiểu chưa? Nó đòi cắt đuôi chúng ta để chúng ta làm người. Sức mấy nó chìa tay cho mày bắt. Xấc thì hay đấy nhưng thiếu lô-gích. Thằng nào chấp pháp mày?

- Hai Nghiêm.

- Dân gì?

- Quảng Bình.

- Nó đọc chưa?

- Rồi.

- Phát biểu?

- Tốt.

Hồng Dương lắc đầu. Hôm sau, Thanh Thương Hoàng lại lên làm việc. Lúc về, anh ta uể oải:

- Chúng mày đúng. Nó bảo tay tao chưa sạch tội ác. Tao chuẩn bị vào cachot. Nó bảo vậy.

Thanh Thương Hoàng sửa soạn hành lý. Ngay buổi chiều, anh ta rời phòng 6C-1 vào cachot số 4 của khu C. Thanh Thương Hoàng nằm cachot một tuần thì bị đưa trở lại Sở Công An. Từ đó, tôi mất tin anh. Tháng 9 năm 1981, về đời, tôi biết anh bị lưu đày lên Pleiku cùng chuyến đi với Doãn Quốc Sĩ. Gặp Sĩ, anh nói tác giả Cánh chim mỏi rã rượi lắm. Anh ta rụng hết răng, tê liệt. Người vợ thứ nhất của Thanh Thương Hoàng là con gái của Lê Khải Trạch đã không còn ở với anh từ lâu. Mọi sự nuôi anh trong tù do người vợ thứ hai. Người nầy tiếp tế anh đầy đủ. Nhưng chị ấy đã vượt biên. Người vợ thứ nhất lo việc tiếp tế. Chị ta nghèo, thiếu phương tiện thăm chồng xa xôi. Thanh Thương Hoàng trở thành “con bà phước” ở rừng núi Gia Trung 6. Anh ta hào sảng lắm, ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định. Trên Pleiku có ai hào sảng với anh? Tất cả đã là tù nhân. Tất cả đều là bạn tù. Bạn tù trong danh ngôn nghiệt ngã “Bạn tù, tình nhà thổ”. Khi nỗi khổ kéo dài mòn mỏi, khi sự phú quý đi giật lùi, con người đâm ra bần tiện, chỉ còn biết nghĩ đến mình. Mọi thù hận lẫn nhau phát xuất từ đó. Anh em nguyền rủa lẫn nhau, nói xấu lẫn nhau. Ra khỏi tù, anh em không quên thù hận, vẫn nguyền rủa nhau, nói xấu nhau, gặp nhau không thèm nhìn mặt. Đó là mục đích trong những mục đích của học tập cải tạo tư tưởng!
--------------------------------
1
Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả, Nam Á Paris xuất bản 1985.
2
Trong bộ tiểu thuyết Hồn Say Phấn Lạ, tôi khai triển tư tưởng cách mạng Tây Sơn.
3
Đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, tôi quên số và tháng, năm phát hành.
4
Vũ Hồng Khanh, xuất thân là giáo làng.
5
Đọc Hồi Ký Nguyễn Mạnh Côn, tạp chí Bách Khoa.
6
Nghe nói anh đã được tha vào năm 1986.


 CHƯƠNG 13

Cùng buổi chiều Thanh Thương Hoàng vào cachot, Hồ Văn Đông, Trịnh Viết Thành, Như Phong, Doãn Quốc Sĩ cũng túi bị vào cachot. Chủ nhiệm nhật báo Quyết tiến trụ trì cachot số 6. Chủ bút nhật báo Quật Cường trụ trì cachot số 3. Tác giảSầu mây chiếm cachot số 11. Tác giả Khói Sóng 1, cuốn tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng, cắm dùi ở cachot số C-2. Những cachots còn lại của C-1 dành cho quý vị đại đức Ấn Quang. Thượng tọa Thích Quảng Độ trụ trì cachot số 7. Được đúng tuần lễ, kể từ hôm Thanh Thương Hoàng giã từ 6C-1, ba chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hải Chí, Duyên Anh, nhận lệnh rời phòng. Người công an chấp pháp nói: “Các anh cần đổi nước”. Chúng tôi đã tưởng đi xa. Cuối cùng thì Nguyễn Hải Chí sang khu A; Hồng Dương và tôi vào 1C-1, cái phòng bẩn cả nội dung lần hình thức. Thời gian này, cửa nhà giam đã trổ rộng một nửa gần chấn song và ống nước đã vô phòng. 1C-1 hưởng dưỡng khí và ánh sáng 24/24 đầu tiên. Trưởng phòng 1C-1 tên là Nguyễn Hữu Trí. Hắn vốn làm tài xế tắc xi sau khi giải ngũ. Ở quân đội, hắn đeo lon thượng sĩ. Hồng Dương miệt thị hắn là Trá xế. Trí cấu kết với Viên và Quang. Về sau ba đứa tách rời. Cả ba cùng vượt biên đường bộ, bị bắt ngay tại bến xe đò Pleiku. Phó phòng tên Đảm, quen biết chúng tôi bên Sở Công An. Đa số tù nhân bên 1C-1 là những người tuổi trẻ, đủ thành phần, vượt biên đường bộ, từ Pleiku, Bạn Mê Thuột chuyển về.


Chế độ nhà tù ở Pleiku, Ban Mê Thuộc hết sức tồi tệ. Tù nhân bị tịch thu hết, chỉ còn bộ quần áo dính thân thể. Họ không được tắm gội cả tháng nên ghẻ lỡ kềnh càng, chấy rận lổn ngổn. Ở mấy nhà tù cao nguyên, nhóm tù nhân này đã hục hặc nhau, chia bè kết đảng. Và bộ ba Trí-Viên-Quang bị bọn trẻ thù ghét. Trở về đề lao Gia Định, Nguyễn Hữu Trí vẫn làm trưởng phòng. Giữa hắn và phó phòng Đảm không ưa nhau. Thêm thư ký Miên coi thường hắn nên hắn bám chặt cai ngục. Hắn chỉ sợ mất chức trưởng phòng. 1C-1 ngoài Nguyễn Hữu Trí nham hiểm, còn có “nghệ sĩ” Ngô Văn Sự. Tên này bị gù, có tài về trang trí. Sử nói phét thánh trời. Hắn tự nhận hắn là Chóe, quen thân với Nhã Ca, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ… Bất ngờ chúng tôi vào 1C-1, Ngô Văn Sử bị anh em lột mặt nạ. Đó là sự bất hạnh của hai chúng tôi. Sử được ra ngoài sơn cửa các phòng tù. Hắn cấu kết với Trí. Hồng Dương và tôi là hai đối tượng báo cáo của hai đứa. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tôi không quan tâm hai thằng vô lại này mà rất quan tâm chấy rận vượt biên xâm lăng tôi.


Tôi bắt đầu ghẻ nhiều ở 1C-1. Chúng tôi vẫn chưa được gặp vợ con. Đúng lúc ghẻ hành hạ tôi, vợ tôi viết thư báo tin buồn: “Ông ngoại đã chết. Em mặt áo tang đến xin gặp bố, người ta từ chối”. Thật sự, tôi muốn quên chuyện gia đình. Nhưng muốn quên thật khó. Mà nhớ thì lòng dạ như bị xát muối. Nhìn khuôn mặt hốc hác của Trịnh Viết Thành dán chặt vào ô cửa gió cachot số 3, Hồng Dương bảo tôi:

- Sắp đến lượt mình.

Tôi không sợ cachot. Tôi thèm nằm cachot. Rất giản dị, ở cachot, tôi chẳng cần đề phòng ai. Cachot đề lao Gia Định lý tưởng lắm, nếu không bị còng tay chéo chân để ngủ ngồi. Nhờ ghẻ nặng, tôi loay hoay với ghẻ cả ngày. Khởi sự là ghẻ nước. Ghẻ mọc từng cụm trên mu bàn chân. Vừa khều nặn xong vài mụn, vài mụn khác đã mọc quanh. Chuyện khó tin mà có thật. Cả 1C-1 ghẻ. Ngót 50 tù nhân ngồi nặn ghẻ mủ, ghẻ nước. Tất cả bị nấm tấn công “hạ bộ”. Đàn Ta-Lư gẩy liên miên. Cơ thể tôi thiếu sinh tố.. Da khô và mỏng. Chất nhờn trên mặt da không bài tiết nữa. Ở 6C-1, tôi nặn hết nước, nặn ra máu, thấm khô rồi bôi thuốc xanh, mụn ghẻ chịu ngay. Ở 1C-1, nặn hết nước, bôi thuốc, nước cứ đùn ra. Nước đùn rạ, ghẻ mọc thêm. Ghẻ mọc cả trên mụn ghẻ mới khỏi. Ghẻ tấn công ngược. Bắt đầu ở chân, rồi lên đùi, háng, mông. Ghẻ nước lỡ toét bị nhiễm trùng thành ghẻ mủ. 1C-1 có mấy “dũng sĩ” ghẻ. Hai cẳng ghẻ cơ hồ cơm cháy đắp lên. Nước vàng ri rỉ cả ngày. Bục xi-măng nhớp nhúa. Manh chiếu khô cứng máu mủ, nước vàng. Mùi vị tanh tưởi nồng nặc. Tôi đã ăn, ngủ, hít thở cùng mùi vị tanh tưởi mủ ghẻ ấy. Khi ghẻ mủ mọc khắp cẳng, đùi và đầy mông, tôi mất ngủ. Nằm nghiêng hằng đêm, tôi thao thức. Các bạn trẻ của tôi nhờ dễ ngủ mà bớt ngứa, bớt đau. Nhức ghẻ mủ, ngứa nấm ăn “hạ bộ”, hai cái thái cực quái đản nầy tưởng xa mà gần, tưởng mơ hồ mà hiện thực. Tôi vốn khổ từ niên thiếu. Những nỗi khổ tôi đem vào đời, những nỗi khổ tôi làm cuộc đời tôi, tôi ngỡ đã ghê gớm lắm. Vất đi tại đề lao Gia Định. Vất hết đi. Tôi nằm nghiêng trên hai gang chiếu của phòng 1C-1, ngửi mùi tanh mủ ghẻ, nuốt đắng cay, nghiến răng chịu nhức nhối. Để nhập môn thống khổ.

Sau khi đi học tập viết tự khai và sau khi viết tự khai tại phòng, người ta tách Hồng Dương khỏi tôi. Hồng Dương từ giã tôi. Từ đó tới nay, tôi chưa gặp lại. Tôi không tin tên Nguyễn Hữu Trí báo cáo Hồng Dương. Thời gian chuẩn bị thẩm vấn, người ta cách ly chúng tôi. Để tránh trao đổi ý kiến. Hồng Dương đi, 1C-1 có thay đổi. Anh em vượt biên được gia đình tiếp tế. Xà phòng tắm gội. Quần áo cũ loại bỏ. Phòng bớt tanh và chấy rận bớt dần. Viên đi. Quang đi. Đảm đi. Nguyễn Hữu Trí hòa hoãn với thư ký Nguyễn Hữu Miên và mọi người. Vợ hắn không nuôi hắn. Hắn chợt hiểu cai ngục không cho hắn mì vụn và uống cà phê. Hắn bám anh em. Ngô Văn Sự chuyển trại. Mọi việc bình thường. Tôi bình yên nằm nghiêng nghe mủ mưng trên cơ thể. Lãng mạn một chút, tôi bảo thống khổ mưng giữa nỗi đời cơ cực của tôi.

Tháng 7, 1976, đề lao Gia Định tiếp nhận hàng ngàn tù nhân phản động bình dân. Gọi là phản động bình dân để phân loại. Ngày 30-4-75, các nhà tù thành phố được giải phóng hết. Nhưng 1-5, nhà tù mở cửa đón khách mới. Lâm Văn Thế là khách khai trương. Từ tháng 6-1975 đến tháng 5-1976, đề lao tiếp nhận tù nhân phản động trí thức. Thời điểm rực rỡ này là thời điểm của sinh viên, học sinh, luật sư, giáo sư chống phá cách mạng. Bây giờ là thời điểm của nông dân, công nhân, phu nhà đòn, lơ xe đò, du đãng… Những nhà nghiên cứu Mác xít sẽ nhức đầu về hiện tượng phản động bình dân. Ngoài tù nhân phản động bình dân, tháng 7-1976, đề lao cũng tiếp nhận hàng ngàn tù nhân vượt biên bị bắt. Người ta sắp xây thêm các khu D, E… 1C-1 phải chứa 60 tù nhân! Tôi đã phiêu bạt khá nhiều phòng giam của đề lao Gia Định. Và tôi có một nhận xét: Tỷ lệ đại đức thượng tọa vượt biên 1%, linh mục 99%; tỷ lệ đại đức thượng tọa phản động 99%, linh mục 1%. Những người vượt biên thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Vượt biên đường biển thì bị chặn bắt ngay tại Phú Lâm. Vượt biên đường bộ thì bị chặn bắt ngay khi vừa bước xuống các bến xe đò Pleiku, Ban Mê Thuột. Hài hước của vượt biên đường bộ có ông giáo sư họ Mai là biểu tượng. Ông này mang theo ba đôi giày deluxe, hai bộ complet, chục cái cà-vạt, chuẩn bị họp báo ở Vọng Các. Bi thảm thì có cậu cháu anh thợ hàn xì lạc rừng mây ba ngày, đói quá, bẻ trộm bắp, bị mọi cộng bắt trói đem giao nộp Việt cộng. Đúng lúc 1C-1 đông nghẹt, tôi được gọi ra làm việc. Người ta dẫn tôi sang phòng chấp pháp khu B. Tôi cặm cụi đi, không nhìn ngang nhìn dọc. Công an chấp pháp ngồi đối diện tôi. Hắn ta cao lớn, mặt rỗ hoa mè, mặc áo sơ-mi mầu trứng sáo. Chỉ cái ghế trước bàn giấy, hắn bảo tôi ngồi.

- Tôi xin anh một ân huệ?

- Gì?

- Tôi bị ghẻ mủ đầy mông, anh cho tôi ngồi nghiêng.

- Không. Anh phải ngồi ngay ngắn. Vì anh làm việc với đại diện của Đảng (Hắn dân Bắc kỳ, giọng nói miền biển Tiền Hải)

- Hiểu chưa?

- Tôi hiểu.

Tôi đã đụng độ ba thằng việt cộng đằng đằng thù hận. Thằng thứ nhất bên Sở Công An, phòng lý lịch. Nó quát tháo khi thấy tôi ngồi gác chân. Nó bắt tôi ngồi nghiêm túc và mang tội thiếu… văn hóa. Thằng thứ hai ở đề lao. Nó đến cửa 6C-1 ghi lý lịch tôi. Nó mắng tôi nói láo vì tôi khai tôi là nhà văn chế độ cũ. Nó muốn tôi khai tôi là tay sai chế độ cũ. Thằng thứ ba đang đứng trước mặt tôi. Hắn nhìn tôi, hất hàm:

- Khi các anh bắt cộng sản, các anh đối xử thế nào?

Tôi chưa ngồi, tôi vẫn đứng.

- Chúng tôi không bắt ai. Chúng tôi không có quyền bắt ai. Chúng tôi không thích bắt ai.

Tôi nói thêm:

- Nhà văn không phải là nhà cầm quyền.

Phản ứng của tên chấp pháp Bác Kỳ là nụ cười nửa miệng.



- Anh không phải là ngụy quyền?


Tôi đáp:

- Phải.

Hắn dập điếu thuốc lá:

- Nhưng anh là tay sai của ngụy quyền, các anh là tay sai của ngụy quyền, bọn nhà văn Sàigòn là tay sai của ngụy quyền.

Tôi nói:

- Đó là ý nghĩ của anh.

Hắn gằn giọng;

- Của nhân dân. Các anh nhận tiền của Mỹ, của Ngụy chống phá cách mạng, tạo ra chiến tranh tâm lý. Anh muốn tôi kể tên những thằng chống cộng ăn lương Mỹ Ngụy không?

- Anh đừng kể.

- Anh xấu hổ à?

- Tôi đã biết. Chính chúng tôi đã công kích chúng nó công khai.

Chúng nó. Chỉ có vài thằng thôi! Đứa lấy tiền của Juspao, của Usis qua trung gian Lý Trung Dũng. Đứa lấy tiền của Ngô Đỉnh Diệm qua trung gian Bùi Kiến Tín. Đứa lấy tiền của Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Đứa lấy tiền của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Đứa lấy tiền của Asian Foundation… Toàn những khuôn mặt khoa bảng và văn nghệ hàng đầu cả. Hai ba đứa làm tôi mọi cho đài phát thanh chiến lược Mỹ. Những thằng nhà văn “for rent” này đã chuồn hết. Chúng tôi ở lại chịu nhục. Chịu nhục với công sản chưa đủ, còn bị chúng nó bêu nhục trên đất Mỹ. Tôi đã cố dằn phẫn nộ để im lặng về thái độ bần tiện của chúng nó khi chúng nó toa rập nhận chìm tôi xuống bùn nhơ. Rõ rệt, chúng nó đã “bắt nạt tôi những ngày đầu lưu vong của tôi".

- Anh công kích?

- Người khác.

- Ai?

- Anh có đọc một bài báo của Nguyên Sa không?

Hắn bảo tôi:

- Anh ngồi xuống.

Tôi hỏi:

- Ngồi nghiêng?

Hắn lắc đầu:

- Ngồi ngay ngắn, ngồi nghiêm túc.



Tôi ngồi ngay ngắn. Nỗi đau khác đã làm bớt nỗi đau ghẻ mủ. Tôi biết sức nặng của phần trên thân thể đã bắt những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra. Tên công an chấp pháp biết rõ hơn. Hắn thích vậy. Hắn muốn nhìn tôi đau đớn. Bao thuốc chìa ra, hắn mời:


- Anh hút thuốc.

Tôi rút một điều thuốc Vàm Cỏ. Hắn quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.

- Tôi gọi anh ra để mạn đàm.

Hắn nhả khói thuốc.

- Mạn đàm cũng là làm việc đấy.

Cuộc mạn đàm bắt đầu.

- Anh xa nhà mấy tháng rồi, anh Duyên Anh, thần tượng của tuổi trẻ?

Giọng mỉa mai, hắn bĩu môi nói hai tiếng “thần tượng”. Mạn đàm với hắn là vấn nạn, đối với tôi, với chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ bị bỏ tù.

- Tôi không là thần tượng của ai cả. Tôi đã viết điều này. Làm thần tượng có hai điều khổ. Một, trở thành nô lệ của những kẻ phong tước vị cho mình. Hai, sẽ bị đạp đổ.

- Anh đã được coi là thần tượng?
- Tôi thành thật khước từ.
- Tại sao?
- Tôi thích tự do làm theo ý của tôi. Thần tượng, tôi phải làm theo ý của người khác. Khác ý họ, tôi bị đạp đổ nhục nhã. Nhưng thần tượng là cái gì? Theo tôi, thần tượng là đất nung, gỗ đẻo.
- Anh ám chỉ ai?
- Tôi nói tôi.
- Mà anh mà là thần tượng à?
- Anh vừa bảo tôi là thần tượng.
- Anh tin tôi thành thật ư?
- Cách mạng không bao giờ gian dối.
Hắn nhìn thẳng mặt tôi, đôi mắt hắn long xồng xộc:
- Lũ các anh là thần tượng móc méo, xỏ xiên. Tôi hỏi anh xa nhà mấy tháng rồi?

Hắn chuyển đoạn cau có. Tôi chậm rãi đáp:



- Tôi vào tù từ 8-4.


- Ai bảo anh vào tù?

- Cán bộ Ba Trung bên Sở.

- Anh đi học tập cải tạo tư tưởng.

- Tôi xa nhà.

- Anh xa nhà đi hoc.

- Vâng, tôi xa nhà đi học được bốn tháng rồi.

- Thấy thế nào?

- Nhớ vợ, thương con.

- Có vậy thôi?

- Phải, có vậy.

- Không thấm thía à?

- Không.

- Thế là chưa tiến bộ, chưa có chuyển biến tư tưởng. Anh cần học tập lâu hơn.

- Tùy anh.

- Tùy ở chính bản thân anh đấy.

Thằng rỗ mặt hoa nầy coi bộ đã nhận chỉ thị áp đảo tinh thần tôi. Tất cả những nhà văn, nhà thơ làm việc, bị mạn đàm đều bị làm khán giả xem kịch sĩ công an thủ các vai Ác và Thiên. Hễ hôm nào bị Ác át giong, ngày mai sẽ được Thiện vuốt ve. Ác bít lối, Thiện mở đường. Thiện thỏa mãn yêu sách chưa được thực hiện, Ác đã xoá bỏ ngay tức thì. Thằng mặt rỗ hoa mè mặc áo sơ mi mầu trứng sáo, tháng 6 năm 1977, gặp Doãn Quốc Sĩ ở 3C-1, kể lại cuộc mạn đàm, anh Sĩ nhận ra “cố nhân” liền. Anh Sĩ nói: “Nó đã dọa chặt tôi ra làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Chính nó tống tôi vào cachot.”

- Anh Duyên Anh.


- Tôi nghe.

- Đồng chí Ba Trung bảo anh vào tù là đúng.

- Tôi không xa nhà đi học?

- Anh nằm tù.

- Anh vừa nói …

- Bây giờ là chân ly, anh nằm tù. Anh nằm tù suy nghĩ tội ác. Các anh nằm tù suy nghĩ tội ác.

Bổng hắn hất hàm:

- Thằng Doãn Quốc Sĩ thế nào?

Tôi thừa hiểu, khi chúng nó nói chuyện với nhau, khi chúng nó nói với anh em của tôi, chúng nó cũng gọi tôi là thằngDuyên Anh, như lãnh tụ của chúng nó mở miệng là thằng Diệm, thằng Nhu…

- Đó là thằng được nhiều người kính trọng.

- Thằng Doãn Quốc Sĩ được nhiều người kính trọng? Nó ví Hồ Chủ Tịch là chồn tinh chín đuôi. Vũ Hạnh báo cáo thằng Sĩ thường nhục mạ Bác. Sàigòn có ba thằng đáng tội chém. Thằng Doãn Quốc Sĩ viết cổ tích lăng mạ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thằng Chóe vẽ cờ tổ quốc cắm lên cán chổi. Còn anh, anh ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh. May cho các anh, Biệt đôi bận việc khác, chứ không, các anh đã ăn đạn như thằng Chu Tử.



Chu Tử viết Ao thả vịt của nhật báo Sống, chê “Hồ chủ tịt làm thơ như cục kít”. Tôi xin phép được nói rõ về trường hợp Chu Tử và sau đó, một vài trường hợp ngộ nhận quốc gia sát hai quốc gia. Thuở báo Sống chống đối sự thừa thắng xông lên của các ông sư chính trị, nhóm Phật giáo quá khích đã đốt tòa soạn Sống, đốt luôn chiếc xe Vespa mới toanh của nhân viên trị sự tên là Vũ Hải Vân. Chu Tử nổi giận. Nhật báo Sống đánh sư chính trị, sư thành phố thả giàn. Chu Tử bị mưu sát. Chúng tôi quả quyết thủ phạm là thượng tọa Thích Thiên Minh. Báo chí Sàigòn tỏ thái độ với Phật tử ồn ào xuống đường và lãnh tụ của họ. Tự nhiên, nhà cầm quyền hưởng lợi. Chẳng cần thuê mà báo chí xúm nhau “mần thit” những kẻ chống đối mình. Rồi thượng tọa Thích Thiên Minh bị mưu sát. Phật giáo Ấn Quang đổ riết tội cho nhà nước. Nhà nước, nhà chùa, nhà báo chơi nhau lung tung beng. Nhà báo bảo nhà chùa … dàn cảnh. Đến khi chết giữa biển và chết trên quê hương, Chu Tử vẫn tưởng Thích Thiên Minh bắn mình và Thích Thiện Minh vẫn tường nhà nước hại nhà chùa. Tôi, nhờ nhà tù, tai nghe rõ cộng sản xác nhận họ bắn Chu Tử. Họ gây xáo trộn tình hình Sàigòn. Từ đó, tôi nhận diện thủ phạm ám sát Nguyễn Văn Bông và Trần Văn Văn. Tôi vốn không ưa ông Kỳ và không hưởng bổng lộc gì của ông Loan, nhưng tôi muốn đóng góp một chút sự thật vào sự thật của lịch sử. Trong cuốn Một người tên là Trần Văn Bá, tôi viết ông Nguyễn Cao Kỳ và ông Nguyễn Ngọc Loan không hề ám hại nhà chính khách đối lập Trần Văn Văn. Thủ phạm vẫn chỉ là việt cộng, tác giả các vụ Chu Tử, Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn,… Phản ứng của bà Trần Văn Văn là, căn cứ vào một tờ báo lưu vong xuất bản tại Úc Đại Lợi, ký tên một tác giả không ai biết, vẫn khẳng định Kỳ, Loan giết chồng bà. Những ngộ nhận tại hai điển hình vừa kể, cần phải chấm dứt. Còn ngộ nhận là còn chơi trò chơi tạo mâu thuẫn của cộng sản.
- Tại sao anh dám ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh?

- Tôi không biết trả lời.

Trả lời thế nào? Trả lời hôm nay, khi ngồi viết hồi ký ở Ivry Sur Seine rằng, tôi ví cờ tổ quốc của anh với xì-líp đàn bà có kinh vì tôi ghê tởm cờ tổ quốc anh. Tôi không ham nói phét, dẫu nói phét không bị đánh thuế và dẫu có thể được coi như ngục sĩ anh hùng. Cuộc đời đã thừa thãi những anh Rambo, chẳng nên thêm tôi. Ở cuốn Đàn bà, người đàn ông bị vợ từ chối không cho làm tình, gã hỏi “Hôm nay em kéo cờ cộng sản hả?”. Tôi dám ví cờ đỏ sao vàng với xì-líp đàn bà có kinh? Cộng sản chụp mũ tôi. Họ ví chứ tôi không ví.


- Anh chỉ biết viết?

- Tôi không biết trả lời.

- Anh không trả lời?

- Anh hiểu tôi khó trả lời mà.

- Anh cần suy nghĩ.

- Phải.

Hắn tống tôi vào cachot khu B, khóa chặt cửa gió, không cho tôi về 1C-1 thu dọn hành lý, không phát chiếu, không còng tay. Cuộc mạn đàm kết thúc như vậy. Tôi có dịp biết cachot. Và tôi bằng lòng ở cachot. Cachot là phòng lý tưởng của khách sạn quốc doanh đề lao. Đang nằm nghiêng trên hai gang chiếu ở cái phòng tập thể nhung nhúc tù nhân, nồng nặc mùi mồ hôi, hôi nách, ghẻ mủ, được nằm thoải mái một bục xi-măng láng coóng, yên tĩnh, cầu tiêu, vòi nước riêng, tôi cảm giác mình được cách mạng đãi ngộ. Đối diện dãy cachot nhốt tôi là các phòng tập thể khu B dành riêng cho nữ tù nhân. Tôi không nhìn thấy ai cả. Thú thật, lúc ấy tôi quên sợ hãi. Càng ở tù lâu, hai chữ cũng đành càng lớn và cảm giác sợ hãi nhỏ dần. Ngồi mạn đàm với đại diện của đảng cộng sản quang vinh, những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra, ướt nhẫy đít quần. Bây giờ, quần bám chặt vào mụn ghẻ tạo thành mảng mài lớn, khô cứng. Tôi không dám gỡ ra, sỡ máu sẽ chảy và lại thành mảng mài lớn. Với riêng nỗi khổ ghẻ mủ, tôi đã muốn ngồi lên mặt những đứa bịa đặt chuyện bêu nhục tôi ở tù bằng cái đũng quần cứng khô máu mủ. Nhưng mà tôi đã ngồi lên mặt chủ nghĩa cộng sản. Như thế hách hơn.

Người ta không cho tôi ăn cơm trưa, không cho cả nước sôi. Tôi ghé miệng vào vòi nước, vặn rô-bi-nê uống nước phông tên. Rồi tôi nằm duỗi chân, dang chân thoải mái mà ngủ. Cơn mưa lớn đã ru tôi ngủ ngon. Khi tôi thức giấc, mưa đã tạnh và ngọn đèn vàng trong cachot đã bật. Mụ cai ngục lùn, mắt lé mở khóa. Tên công an chấp pháp mặt rỗ huê đợi tôi bước ra. Hắn hỏi tôi:

- Anh suy nghĩ chưa?

Tôi nói:

- Đói quá, tôi không suy nghĩ được.

Hắn nín thinh dẫn tôi về khu C-1, giao tôi cho cai ngục. Tôi trở lại 1C-1 ồn ào và tiếc rẻ cachot khu B. Sáng sớm hôm sau, trước cả giờ báo thức, cai ngục gọi tôi ra làm việc. Tên công an rỗ hoa dẫn tôi ra khu A, tống tôi vào cachot. Nhờ ví cờ cộng sản với xì-líp đàn bà có kinh, tôi biết thêm cachot khu A, khu sát khít trường Hồ Ngọc Cẩn. Hôm nay tôi bị còng tay chéo sau lưng. Vẫn bị cúp bữa cơm trưa, cúp nước sôi. Chập tối, tên công an rỗ hoa lại dẫn tôi về khu C-1. Một tuần liền, sáng sớm tinh mơ tôi vào cachot, chập tối tôi ra cachot với vài kiểu còng tay, còng chân. Bố tôi, tháng 9-1975, đi lẻn vào Sàigòn, dạy tôi kinh nghiệm ngục tù: “Ăn ít, dù gia đình tiếp tế đầy đủ. Tập thắt dạ dày, vì, sẽ bị nhịn vài ngày”. Nhờ kinh nghiệm của bố, được … học tập ăn một bữa suốt tuần, tôi đã tồn tại.

Trò chơi của tên công an chấp pháp rỗ hoa đến đó là chấm dứt. Hắn không cho tôi ngủ đêm ở cachot. Hắn cũng quên hỏi tôi “Suy nghĩ chưa”. Tôi bị bỏ rơi ba ngày liền. Lúc này, Doãn Quốc Sĩ đã từ cachot 12 chuyển về cachot số 1 đối diện phòng tập thể của tôi. Trịnh Viết Thành, Hồ Văn Đông bị sang Sở Công An. Chuyến đi này có thêm Nguyễn Mạnh Côn. Bên cachot C-2, Như Phong vẫn khước từ viết tự khai. Bệnh ghẻ mủ của tôi không thuyên giảm. Có mòi tăng triển. Ghẻ báo động … đỏ. Mỗi tuần, vào buổi trưa nắng, đề lao cho tù nhân ra phơi nắng 10 phút. Phòng này vào, phòng kia ra. Tù nhân ngồi nguyên chỗ của mình. Các cửa gió của cachot đóng kín, đề phòng liên lạc bằng dấu hiệu. Mười phút nắng chỉ làm ghẻ buồn cười. Hôm tắm nắng, đồ đạc treo lên hết. Trực sinh rửa phòng và y tế xịt thuốc trừ chấy rận. Tôi khám phá ra sự thiếu máu. Ở ngoài nắng bước vô, mắt tôi mờ đi mấy phút. Tôi ôm mặt đứng. Cứ ngỡ mình đã bị lòa. Tôi thèm nói chuyện mắt với Doãn Quốc Sĩ. Anh ta không hề dán mặt vào ô gió cachot như những tù nhân khác. Sáng sớm, Sĩ chạy tại chỗ. Rồi thiền và ngủ. Vợ tôi vẫn tiếp tế đều đặn. Qua ba ngày không thấy tên công an chấp pháp rỗ hoa gọi ra, tôi ngỡ đã yên thân. Tôi nhầm. Cai ngục lại réo tên cúng cơm của tôi.
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Mặc quần áo ra làm việc.
--------------------------------
1
Viết tiểu thuyết, Như Phong ký Lý Thắng. Trường thiên tiểu thuyết Khói Sóng đăng dang dở trên nhật báo Tự Do trước 1963.
CHƯƠNG 14

Không tính những tên quản giáo hạch hỏi lý lịch, tôi đã qua tay 5 chấp pháp và gã này là 6. Thân phận Kiều tiếp khách chơi hoa không khổ bằng thân phận nhà văn tiếp khách chấp pháp.

Xưa sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dầy dạn phong sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.

Có phải Nguyễn Du đã tiên tri thân phận những Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, thân phận những nhà văn, nhà thơ trong ngục tù cộng sản? Ôi, biết bao câu Kiều nó vận vào cái "đoạn đường ai có qua cầu mới hay" của chúng tôi.

Bây giờ bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong

Nợ đời, soạn giả tuồng cải lương Mộc Linh đã diễn tả 5 câu vọng cổ ở khu A. 5 câu thôi, anh bị ho ói máu nên phải dang dở. Trong 5 câu ấy có đoạn:

...."Than ôi, trời đất bao là mà sao ta không có chỗ đứng, lại phải xui chi tới cảnh đoạn trường...Nợ chẳng vay ai mà nay phải trả cho đời". (Văn chương là cái nợ. Nghệ thuật là cái nợ. Nợ văn chương trả ở nhà tù! Và nhà nghệ sĩ biến thành nàng Kiều, dạt trôi đề-lao, khám lớn, trại tập trung. Cuộc sống vốn hiếm Từ Hải, hiếm cả đến Thúc Sinh. Chỉ rặt lũ chấp pháp cộng sản chở chất thù vặt. Chúng dập vùi tới cả phẩm cách con người. Chủ nghĩa nào ưu việt? Đâu là đỉnh cao trí tuệ? Nơi mô là cái nôi của loài người? Bạn ơi, nhân loại ơi, cái nôi của loài người, đỉnh cao trí tuệ, chủ nghĩa ưu việt tập trung ở nhà tù giam nhốt, đầy đoạ các nhà văn, nhà thơ. Nhà văn, nhà thơ là những kẻ chung thân bất mãn với hiện tại. Trần Dần viết:

Chẳng thể rúc kèn cũ rích
Vác loa mồm kêu:
"Hiện tại rất thiên đường
không
thiên đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận thiên đường
đi mãi
chẳng bao giờ thoả

Không có hiện tại nào là thiên đường cả. Và cả khi hiện tại đã là thiên đường, vẫn cần thiết có thiên đường khác rực rỡ hơn. Bổn phận của nhà văn là không ngừng phản kháng hiện hữu. Để thiên đường không đứng lại. Để thiên đường không chết. Để thiên đường tiến lên một thiên đường khác tuyệt vời gấp bội. Sự phản kháng hiện hữu của nhà văn đã bị xã hội cộng sản chụp mũ chống cộng sản. Nhà văn chống mọi bất công, mọi độc tài, mọi áp bức, mọi bóc lột, mọi sự xúc phạm quyền sống của con người. Nhà văn đòi hỏi tự do, dân chủ, công bình, hạnh phúc tuyệt đối cho con người. Bản chất của nhà văn là phản động. Nó phản động trong bất cứ xã hội nào, dưới bất cứ chủ nghĩa nào, ở bất cứ nơi nào nhân quyền bị tước đoạt, nhân phẩm bị chà đạp. Sự phản kháng của nhà văn là ước mơ của loài người. Nó làm thăng hoa cuộc sống. Nó gây cảm hứng leo lên ngọn đỉnh chân thiện mỹ. Chỉ những kẻ ngu xuẩn, bịp bợm và bệnh hoạn nghĩ rằng hiện tại què quặt của mình đã là thiên đường vĩnh cửu mới dùng quyền lực khỏa lấp sự phản kháng của nhà văn. Chỉ có cộng sản mới hèn mọn chụp mũ nhà văn, kết tội nhà văn và giam nhốt nhà văn. Phải vinh tôn những nhà văn phản động và phải bỏ tù bọn bồi bút nịnh bợ "rúc kèn cũ rích, vác loa mồm kêu: hiện tại rất thiên đường". Đó mới là ưu việt, đỉnh cao trí tuệ. Tại sao? Vì bằng phản kháng hiện tại, nhà văn đã thắp ước mơ như ngọn đèn dẫn đến tương lai, dẫn đến những tương lai vô tận, những thiên đường đích thực của loài người. Vì bằng bồi bút nịnh bợ, bằng yên phận hòn bi, nhà văn đã rúc đầu xuống vực thẳm tội ác. Hà Nội định nghĩa bồi bút:"Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho thực dân đế quốc" – Văn Tân, Từ điển Việt Nam, 1976 – Cộng sản Việt Nam ở Paris đề nghị một định nghĩa:"Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho bọn cường quyền" – Nguyễn Trọng Nghĩa, Đoàn kết 4-1987. Bọn cường quyền hiện hữu ở Việt Nam là cái gì? Cộng Sản! Có lẽ, nên định nghĩa: “Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho thực dân, đế quốc và cộng sản”. Nhưng định nghĩa chính xác nhất là:Bồi bút là đám viết sách báo đứng về phía bọn thống trị. Với nhà văn chân chính, thống trị là đối tượng phản kháng hàng đầu. Nơi nào không có đối lập chính trị, thống trị man rợ, ghê tởm, cần thiết trừ khử. Việt Nam đang là nơi ấy. Và người ta dễ dàng tìm ra sự bồi bút ở hai câu định nghĩa của bồi bút. Họ không dám đụng đến cộng sản và giai cấp thống trị mới ở xã hội cộng sản. Xã hội cộng sản chấp nhận bồi bút, nuôi dưỡng bồi bút và bỏ tù cả nhà văn phản kháng lẫn thi sĩ chỉ viết thơ tình.

Tên công an chấp pháp số 6 dẫn tôi sang khu B, chỗ tôi đã mạn đàm với tên chấp pháp rỗ hoa. Tôi không muốn chế diễu họ. Rẻ tiền lắm. Nhưng bạn cần hiểu rằng, chẳng có tên công an chấp pháp nào giới thiệu tên thật hay bí danh với bạn cả. . Trừ Ba Trung là thằng nằm vùng vây co. Nên tôi đành phải lấy “đặc điểm” của họ mà đặt biệt danh để dễ so sánh. Công an chấp pháp số 6, dân miền Bắc, mặt mũi sáng sủa, người vừa phải. Hắn ta có nụ cười dễ gây cảm tình. Câu mở đầu của hắn:

- Anh có vẻ thất vọng về chúng tôi, phải không, anh Duyên Anh?

Tôi thản nhiên:

- Tôi không thất vọng, cũng chẳng hy vọng gì các anh.

Hắn cười.

- Tại sao?

Tôi đáp:

- Tôi đã hiểu tôi không còn quyền thất vọng và hy vọng.

Hắn khẽ lắc đầu:

- Đừng cay đắng, anh Duyên Anh.

Hắn mời tôi hút thuốc Điện Biên. Nhả nạm khói, hắn nhìn tôi bằng cặp mắt chan chứa cảm thông:

- Với tôi, anh muốn ngồi kiểu nào, tùy ý.

Tôi khựng lại. Chúng nó đã trao đổi với nhau về tôi. Thằng số 5 đấm tôi. Thằng số 6 xoa bóp.

- Anh bớt ghẻ chưa?

- Chưa, anh ạ!

- Nó sẽ phá tung một lượt. Rồi khỏi hẳn. Chị ấy tiếp tế bình thường chứ?

- Cám ơn anh.

- Trường hợp của anh thật oan nghiệt. Anh chống Mỹ, chống Ngụy rồi sợ Mỹ Ngụy trả thù, anh phải chống cộng sản.

Tôi không muốn cãi. Tôi đã chống cộng sản bằng Hoa thiên lý trước khi chống chính sách Mỹ ở Việt Nam và bọn thống trị bù nhìn.

- Tại sao anh chống lung tung thế? Chống tứ phía, phía nào anh sống?

- Tôi vẫn sống.

- Thực tế một chút, anh Duyên Anh. Giá anh đừng chống cộng, anh đã được biểu dương rồi.

Tôi đã nghe Ba Trung, đã nghe tên chấp pháp xứ Nghệ nói cái luận điệu này. Vẫn luận điệu gai góc mà buồn tẻ ấy, chấp pháp số 6 nhai lại. La raison du plus fort est toujours la meilleure. Thi hào La Fontaine đã để lại cho loài người một câu thơ trở thành chân lý vĩnh cửu. Khi trái đất còn quyền lực, còn ngục tù; còn lệnh bắt, còn cai ngục và còn tù nhân, chân lý đó không thay đổi. Ông Hồ Chí Minh là người cảm thầm “lý lẽ của kẻ mạnh nhất”. Ổng ta hiểu “vĩ nhân có thể chết bởi cái gai”, ông ta hiểu “anh hùng có thể chết ở cái lỗ chân trâu”. Và ông ta có triết lý sống đời tù bình thường: Để chúng dắt đi tựa trâu bò. Hạnh phúc cho ông Hồ Chí Minh là ông đã không được sống đời tù cộng sản. Nếu đã nằm nhà tù cộng sản, ông không trở thành “cha già dân tộc”, không trở thành “vĩ nhân”. Cộng sản đã là vĩ nhân, đã là anh hùng. Họ độc quyền anh hùng vĩ nhân. Bạn khó lòng thành vĩ nhân, anh hùng tù ngục cộng sản. Ở nhà tù cộng sản, nhất là nhà tù dành cho tù nhân của tư tưởng, của lương tâm, bạn sẽ bị đối xử tồi tệ hơn trâu bò. Bởi vì, ngoan ngoãn “tựa trâu bò” rồi sẽ thành lãnh tụ vĩ đại. Kinh nghiệm ở tù của Hồ Chí Minh là ánh sáng quang vinh chiếu rọi khắp nhà tù cộng sản. Phải bắt tù nhân lửng lơ giữa người và thú vật. Phải diệt nhân tính của tù nhân. Và, như thế, sự đọa đày mà tù nhân cam chịu không hun đúc nó nên anh hùng. Nó sẽ chỉ  loay hoay quanh nỗi đói, nỗi khổ, nỗi nhớ nhà. Nó sẽ  chỉ loay hoay quanh niềm sợ hãi, niềm mong đợi ngày được tha. Trong những loay hoay bi thảm của nó, thẩy cho nó chút ân huệ toan tính, bơm cho nó chút hy vọng gian dối, nó sẽ níu lấy ân huệ và hy vọng đê tiện đó, bảo vệ ân huệ và hy vọng đó một cách rất đê tiện. Từ cái ân huệ toan tính, cái hy vọng gian dối ban cho một tù nhân tạo thành những ngờ vực, những thù hận, những đề phòng giữa các tù nhân. Cai ngục mỉm cười, rao giảng phúc âm: “Các anh không thương các anh thì ai thương các anh”. Tù nhân ghét bỏ tù nhân hơn cả cai ngục ghét bỏ tù nhân. Riết rồi, tù nhân “thương yêu” cai ngục! Bản chất và hiện tượng. Hai tuyệt chiêu nằm trong bí kíp cộng sản đã, chẳng những cấy sinh tử phù vào tế bào tù nhân, mà còn cấy vào cả tim phổi quần chúng. Hiện tượng lúc nào cũng bị nghiêm khắc phê bình. Hiện tượng thủ tiêu tập thể 1 triệu 500 ngàn dân lành bị sửa sai. Tổng bí thư Trường Chinh tạm sang nắm ghế Chủ tịch Quốc hội, vẫn là ủy viên Bộ chính trị. Để bản chất đúng và tốt và chân lý. Hiện tượng và bản chất hư hư thật thật. Đảng nhân đạo, khoan dung. Đảng là bản chắt. Cán bộ vô nhân đạo, khắc nghiệt. Cán bộ là hiện tượng. Chấp pháp số 5 là hiện tượng. Chấp pháp số 6 là bản chất. Hiện tượng dọa nạt. Bản chất vuốt ve. Cả hai kết hợp lừa bịp loài người. Bản chất hay hiện tượng thì cũng cứ là cộng sản và do họ nói và đều là lý lẽ của kẻ mạnh. Dẫu có gai góc buồn tẻ một nhịp điệu nhai lại, chớ dại dột bịt tai. Càng không nên nổi giận. “Tư tưởng thể hiện hành động”. Móng vuốt chịu khó dấu đi. Chìa ra là bị chặt đứt liền. Mà chìa móng vuốt với ai?

Tù nhân ở các nhà tù cộng sản có hai lần bầy tỏ thái độ anh hùng. Lần thứ nhất: Làm việc với công an chấp pháp. Bạn sẽ ngồi trong căn phòng chỉ có bạn với chấp pháp. Đừng ngại, không có máy ghi âm bí mật đâu. Chấp pháp sẽ hạch hỏi bạn, sẽ mắng mỏ bạn, sẽ chửi bới bạn, sẽ đập bàn la lối. Bạn nổi máu anh hùng, bạn dậy lòng bất khuất, bạn ăn thua đủ chấp pháp. Nó tống bạn vào cachot, còng bạn đủ kiểu. Nó cho bạn ăn uống theo tiêu chuẩn kỷ luật. Nó cấm vợ con bạn thư từ, tiếp tế. Bạn sẽ chết thảm ở cachot. Lịch sử không hề biết nên sẽ chẳng bao giờ viết. Bạn chết rồi thì chỉ còn một người biết. Là chấp pháp. Nó không ngu gọi bạn là anh hùng. Biên bản... chết của bạn sẽ ghi: Chết bệnh. Nếu bạn không chết, bạn trở về phòng, bạn cũng không dám khoe thành tích. Bạn tù thương bạn lắm. Ngàv thăm nuôi, bạn mỏi mắt đợi quà. Bạn đã bị cúp dài hạn. Anh em ngưỡng mộ vị anh hùng, một dúm mì, một trái chuối, một miếng thịt. Một lần thôi nhé! Chỉ một lần. Nếu bạn xuống máu anh hèn, bạn lạy lục chấp pháp, khóc lóc thảm thê, vẫn chỉ bạn và chấp pháp biết. Chẳng ai chứng kiến cả. Không có chứng nhân ở phòng chấp pháp. Anh hùng và anh hèn đồng hạng. Lần thứ hai: Bạn ra tù, bạn vượt biên hay đi chính thức qua Mỹ qua Ảu, bạn sẽ viết hồi ký. Lúc ấy bạn phong bạn làm anh hùng, bất khuất. Những thằng hèn trong hồi ký của bạn là những thằng đã không cho bạn cục đường, muỗng nước mắm hay trái chuối, dúm mì. Những thằng hèn trong hồi ký của bạn còn là những thằng bạn ghét dù bạn chưa hề sống chung với nó ở tù. Bạn sẽ “nghe kể, nghe đồn” vô tội vạ. Yên ổn nói cái ta anh hùng và cái người anh hèn. Vì rằng, chỉ có ta với chấp pháp biết rõ cái ta. ít khi ta dám lôi cái ta hèn hạ ra phỉ báng. Ta lôi cái người hèn hạ ra phỉ báng để khoả lấp cái ta hèn hạ thì rất nhiều khi. Sự ấu trĩ, dần dà, bị khám phá. Và cái ta vô lại hiện nguvên hình.

Tôi biết có thằng vô liêm sỉ, một bồi bút trơ trẽn là Thanh Vân, tác giả cuốn sách vỏ tôm, nhan đề Sống như anh, diễn tả cuộc đời “anh hùng” Nguyễn Văn Trỗi. 1 Bồi bút Thanh Vân ngu xuẩn và hạ cấp đến độ cho Trỗi chửi nhau tay đôi với thẩm vấn viên của Cảnh Sát Đặc Biệt. Và vợ y, "chị Quyên trung hậu đảm đang" cũng vào Tổng Nha sa sả nguyền rủa "tay sai Mỹ Ngụy"! Chúng ta có thể viết lại Sống như anh, diễn tả trung thực, rất trung thực đoạn anh hèn Văn Trỗi ở phòng thẩm vấn. Anh Trỗi đã chết. Người thẩm vấn anh, có thể, đã chết hay đang nằm tù. Chứng nhân tuyệt tích, cần diệt nhân chứng. Hoá cho nên, anh hùng và anh hèn trên sách vở và trong cả lịch sử đều tùỵ thuộc lòng yêu mến và sự thù hận, tùy thuộc mục đích tuyên truyền chính trị và tham vọng đè hèn. Và luôn luôn cần xét lại cả lịch sử, nhất là lịch sử viết bởi những anh thiếu tư cách.

Đến anh hùng Nguyễn văn Bé mới tức cười. Anh bị bắt ở một trận đánh tại Định Tường, xin hồi chánh, phục vụ Cảnh sát quốc gia. Hà Nội suy tôn Nguyễn Văn Bé là anh hùng, truy điệu liệt sĩ Bé rỉ rả trên Đài Tíếng Nói Việt Nam. Anh Bé nghe đài. Anh Bé hoảng sợ. Anh Bé yêu cầu Cảnh sát quốc gia đổi họ thay tên và tạo lý lịch mới!

Ôi, anh hùng và anh hèn của thời đại khốn kiếp hôm nay, nghĩ mà buồn nôn. Càng buồn nôn hơn khi thấy anh nhanh chân tình nguyện đóng tiền trình diện học tập cải tạo luận anh hùng, anh hèn bị công an ập vào tư gia, còng tay, bịt mắt dẫn đi. Nếu bỏ anh hùng để chỉ luận anh hèn thì anh chưa đến lượt mình (sĩ quan giải ngũ mà) đã nhanh chân nộp tiền xin trình diện học tập cải tạo tư tưởng với triết lý sống đơn giản “nhanh chân có lời” thì anh này hèn rõ rệt. Nhưng anh này âm mưu xóa dấu vết hèn hạ của mình bằng cách luận tội người khác hèn hạ. Rốt cuộc, sự hèn hạ của anh ta cứ ám ảnh anh ta. Và cái cường độ của sự phô diễn anh hùng tự phong, rốt cuộc, là một tự khai thành khẩn “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cám heo” và ngồi nhà “vẽ chân dung Hồ chủ tịch" để trốn tránh lao động! Bạn đã từng biết anh này là ai không? Tôi sẽ định không nêu tên anh ta vì sợ anh ta nổi tiếng. Như vậy, tôi mang tội đố kỵ tài năng. Vậy để anh ta nổi tiếng. Thế thì anh ta là Tạ Tỵ đấy. Anh ta đã “nghe đồn” mà bảo tôi làm “ăng-ten" trong tù. Tôi không nghe ai đồn cả. Tôi viết đúng lời tự thú công khai của anh ta. 2 Và anh Tạ Tỵ đã công khai tự nhận rằng, ở trại cải tạo, anh ta đã “ăn vụng” và “ăn cắp.” Có lẽ, anh ta sẽ nổi tiếng, sẽ đi vào lịch sử văn học, không phải do tài năng hội họa, văn chương, thi ca. Mà do “ăn cắp” và “ăn vụng.”

Tôi không là anh hùng, không bao giờ là anh hùng. Cũng chẳng dám ôm mộng anh hùng. Làm anh hùng khổ lắm. Thường thì anh hùng chết rất đẹp và rất thảm. Và chết xong, anh hùng bị khai thác triệt để. Đó là anh hùng đích thực. Anh hùng giả vờ khổ hơn.

Anh hùng là anh hùng rơm
Cho một mồi lửa hết cơn anh hùng

Tôi chưa là anh hèn. Nhưng để bị bắt bỏ tù, ghẻ kềnh ghẻ càng, xin ngồi nghiêng chấp pháp từ chối, bắt ngồi nghiêm chỉnh, bị tống vào cachot không dám cãi, mạn đàm không ương ngạnh, lý luận... là hèn. Thì tôi đã hèn. Tiền nhân đã thông cảm tuyệt đối với những kẻ sa cơ thất thế.

Anh hùng như thể khúc lươn
Khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài.

Biết dấu nanh vuốt lúc nào, biết chìa nanh vuốt lúc nào, đó là cái trí của anh hùng. Cựu ước kinh ghi chép: “Có một thời lên tiếng và một thời im lặng”. Khi không thể lên tiếng nói dõng dạc, nên im lặng hơn là nói lảm nhảm. Tân ước, Jésus dạy:“Đừng chống cự kẻ ác”. Phải, đừng chống cự kẻ ác khi mình nằm trong tay nó..

Tôi rất thích những câu ca dao miền Nam này:

     Phượng hoàng gẫy cánh hẩm hiu
         Sa cơ thất thể phải theo đàn gà
         Bao giờ mưa thuận gió hoà
        Thay lông trổ mã lại ra phượng hoàng.

Tiền nhân đã an ủi “chim quyên xuống đất ăn trùn”. Người đời xưa thương người đời sau là vậy. Theo tôi, người ta nên luận về lẽ sống chết hơn là luận anh hùng trong thời đại không hề có anh hùng. Hồ Chí Minh là anh hùng của Việt Nam cộng sản, lại là gian hùng của Việt Nam quốc gia. Ngô Đình Diệm là anh hùng của Việt Nam Thiên Chúa giáo, lại là anh hèn của Việt Nam Phật giáo, anh tay sai đế quốc của Việt Nam cộng sản. Trần Văn Bá là anh hùng của ông Lê Quốc Túy, lại là anh thường của ông Hoàng Cơ Minh. Vân vân... Ở tù cộng sản, khôn chết sớm, dại chết muộn, biết thì sống ngất ngư. Sống dễ hay chết dễ? Chết khó hay sống khó? Đông Chu Liệt Quốc có đoạn luận về lẽ sống chết như vầy:

Trình Anh và Công Tôn Cửu Chử cùng là gia nhân nhà họ Triệu. Khi Đỗ Ngạn Giả nắm quyền, xui vua Tấn diệt trung thần. Gia đình họ Triệu (Triệu Thuẫn phò Trùng Nhĩ phục quốc) bị giết hết. Một nàng dâu họ Triệu là công chúa, mang bầu chạy về cung trốn cuộc tàn sát. Công chúa hạ sinh một hài nhi đặt tên là Triệu Vũ. Đỗ Ngạn Giả hay tin, nhưng còn nể vua, chưa dám xông vào cung. Trình Anh và Công Tôn Cửu Chử bàn nhau cứu giòng máu cuối cùng của họ Triệu, vị thầy thuốc tín cẩn được mời vào thăm bệnh cho công chúa rồi bỏ hài nhí vào giỏ xách ra.

Công Tôn Cửu Chử hỏi Trình Anh:

- Sống để nuôi con chủ chờ ngày trả hận khó hay chết để tỏ lòng trung thành với chủ khó?

Trình Anh đáp:

- Sống khó.

Công Tôn Cửu Chử nói:

- Vậy nhà ngươi sống, còn ta chết.

Bèn lập mưu sống và chết. Đúng lúc công chúa hạ sinh cậu bé Triệu Vũ, vợ Công Tôn Cửu Chủ cũng hạ sinh một nhóc tì. Trình Anh làm “ăng ten” đi báo Đỗ Ngạn Giả rằng Công Tôn Cửu Chử dấu hài nhi họ Triệu. Đỗ Ngạn Giả vây nhà Công Tôn Cửu Chử. Công Tôn chỉ mặt Trình Anh nguyền rủa tội lừa thầy, phản bạn, “ăng ten”. Đỗ Ngạn Giả đâm chết Công Tôn Cửu Chử, quật nát hài nhi, giết cả nhà Công Tôn Cửu Chử. Nhở đó, Trình Anh mới đem Triệu Vũ xa kinh thành, nuôi dưỡng, chỉ dạy. Sau này, Triệu Vũ diệt Đỗ Ngạn Giả, khôi phục họ Triệu.

Lẽ sống chết ở đây. Tôi không nuôi tham vọng trả thù ai. Tham vọng của tôi là viết một cuốn sách có ý nghĩa cho đời mình và trả lời câu nói miệt thị của cộng sản “thế giới đâu đã đọc sách của các anh”. Và tôi cần sống. Giá nào tôi cũng phải sống. Cách nào tôi cũng phải sống. Và tôi vẫn sống.

Tôi dập điếu thuốc:

- Ở tù khó mơ mộng lắm, anh ạ!

Chấp pháp số 6 gật gù:

- Tại anh không thích mơ mộng thứ anh mơ mộng. Anh mơ mộng viển vông nên anh thiếu thực tế.

Hắn gợi ý:

- Bồn Lừa là nhân vật lý tưởng của giai cấp. Bố nó là công nhân. Nó thông minh trùm lấp bọn con cái tư sản. Nó tài năng xuất chúng. Bồn Lừa, cuốn truyện tốt. Đổì mầu cờ. Không, viết rõ rệt cờ tổ quốc là cờ tổ quốc của chúng ta, thêm giai cấp tính cho Bồn lừa, cuốn sách hoàn toàn. Chúng ta cần nhân vật tuổi thơ vô sản thần tượng..

Hắn nhìn tôi:

- Liệu anh còn viết nổi những cuốn như Bồn Lừa ?

Không thèm nghe tôi trả lời, hắn ngó đồng hồ, đứng dậy:

- Tôi sẽ làm việc với anh sau.

Thế đó, chấp pháp số 6 làm việc với tôi thật ngắn ngủi. Hắn đưa tôi về 1 C-1 và không tống tôi vào cachot.
--------------------------------
1
Xin đọc thêm Thời của đàn bà. cùng tác giả. Nam Á Paris xuất bản.
2
Tạp chí Ngày Nay, xuất bản ở Wichita, Hoa Kỳ, số 46, thảng 5-1985.

CHƯƠNG 15

Hôm sau, vẫn ở phòng chấp pháp khu B, tôi làm việc với chấp pháp số 7. Tôi... đi khách lần thứ bẩy. Chấp pháp số 7 giống hệt tên lái buôn thô lỗ. Mà tôi, nàng Kiều chưa thể chuyên nghiệp.


- Hôm nay anh viết tự khai.

- Tôì đã viết bên Sở hai lần.
- Sở là sở, Trại là trại. Với Trại, mọi chuyện bắt đầu.
- Tôi đã viết thêm một lần ở Trại.
- Anh chưa làm việc với tôi.
Chấp pháp số 7 móc thuốc Vàm Cỏ và hộp diêm Samasa đặt trên bàn:
- Anh tự do hút thuốc. Hết thì sẽ có thêm. Anh được uống cà-phê. Lát nữa, quản giáo đem tới.

Từ nửa tháng nay, đề lao cấm chỉ cà-phê, trà. Vì có phòng bị phát hiện nấu nước sôi bằng lon sữa bò và túi ni lông bện lại nhóm lửa. Cà-phê, trà bị cấm. Sữa đặc bị khui ra đổ vào keo nhựa hay túi ni-lông rồi mới cho vô phòng. Ở tù phiền lắm. Một người vi phạm nội quy, ngàn người vạ lây. Cách mạng có dịp diễn tả sự tử tế: “Chúng tôi không cấm đoán các anh, mọi khó khăn do chính các anh tạo ra”.

Chấp pháp số 7 chưa phát giấy bút. Hắn... mạn đàm:

- Tôi nhắc lại: Anh viết tự khai.

- Tôi hiểu.

- Tốt. Trong các anh, nhiều người chướng lắm. Lố lăng nhất là thằng Trần Dạ Từ. Bảo viết tự khai, nó làm thơ chéo.

Tôi chưa biết thơ chéo ra sao.

- Nó đòi làm việc với nhà văn miền Bắc! Công an bắt nó mà nó mơ mộng. Cuối cùng, nó vẫn làm tự khai.

Chấp pháp số 7 dằn mặt tôi. Hắn lôi người không ở chung phòng tôi ra dẫn chứng. Đây là đòn công an. Như gã chấp pháp xứ Nghệ đã “bỏ nhỏ” Nguyễn Mạnh Côn khai về tôi “không lấy gì làm đẹp”. Cộng sản dùng kế ly gián để chúng tôi bôi lẫn nhau cả những chuyện không liên can tới văn nghệ phản động. Tôi biết chắc họ đã đem tôi ra “bỏ nhỏ” với người này, người kia. Công an chế độ nào cũng giống nhau. Công an và an ninh quân đội. Đòn ly gián rất ếp-phê. “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp đã áp dụng thủ thuật khốn kiếp này. Muốn bêu tôi, ông ta gửi về tặng Dương Hùng Cường gói thuốc tây, kèm theo cái thư có đoạn “bỏ nhỏ”: Này, thằng Duyên Anh đang ở Paris, nó uống rượu tối ngày, nó chửi mày dữ quá! Dương Hùng Cường sẽ nổi điên, nghĩ rằng thật, nó sang Pháp sung sướng còn nỡ chửi anh em. Bèn hài tội Duyên Anh, thêu dệt đủ tội. Khi người ta phẫn nộ thì ghê lắm, “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp, gốc an ninh quân đội, chớp được thư nhà, phô-tô cóp-pi vung vít mà gửi khắp quần hào. Cái tác phong ngụy tiểu nhân của cớm sớm muộn nó cũng lòi ra. Bọn bất tài vô tướng thường chơi thủ thuật. Chừng thủ thuật hết thiêng, chúng nó lêu bêu như lũ chó ghẻ già nua.

Chấp pháp số 7 nói tiếp:

- Cái thằng Như Phong Lê Văn Tiến vẫn ngoan cố. Bầy đặt tuyệt thực. Thời đại của Thiệu đã cáo chung. Đứa nào muốn chết cháv, cứ tự nhiên. Gia đình nó sẽ đóng thuế ngu cho nó. Rốt cuộc, Như Phong đành tự khai. Các anh không kiên trì bằng người cộng sản. Các anh là đá, chúng tôi là nước. Nước chảy đá mòn. Các anh là sắt, chúng tôi là át-xít. Át-xít gặm mòn sắt. Chúng tôi có giai đoạn rõ rệt. Kiên trì rồi kiên quyết. Khoan hồng rồi trấn áp. Các anh thích làm anh hùng, chúng tôi biến thành anh hèn ngay. Khẩn trương, đột xuất.

Hắn đánh phủ đầu tới tấp. Nhờ hắn tiết lộ, tôi tin chuyện Như Phong đã khước từ cơm tù 41 ngày mà anh em C-2 kể cho tôi nghe khi anh em chuyển sang C-l, chung phòng tôi, mấy tháng sau. Như Phong “yoga” ở cachot. Anh không viết tự khai, không làm tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhà quân sự Phải Gió uống nước chanh đường mà yoga. Mức yoga của Như Phong đến bậc thượng thừa. Đề lao biết anh... tuyệt thực, cứ giả vờ như không biết. Ô cửa gió mở. Quản giáo thường xuyên theo rõi. Bấy giờ, Trưởng trại T-20 tức Giám thị đề lao Gia Định là thiếu tá công an Tuấn, Phó trại là Tư Long, tên nằm vùng bán vé xe đò bến Saigon – Đà Lạt cho hãng xe Minh Trung. Tư Long đeo quân hàm đại úy. Ngày thứ 41, Tư Long cúp ống dẫn nước vào cachot. Quân sư Như Phong kềnh ngay lập tức. Người ta khuân anh ra Phòng Y Tế. Người ta chích nước biển. Như Phong còn đủ sức co tay, Tư Long xỉ vả anh. Như Phong thều thào: “Anh nên lễ độ, tôi chấp nhận cái chết”. Bác sĩ Quang năn nỉ Như Phong: “Xin anh cho tôi làm bổn phận y sĩ”. Người ta đè anh, trói chân anh, tay anh trên giường. Và vào nước biển tiếp sức. Như Phong được đề lao bồi dưỡng một thùng sữa đặc, trở thành tù nhân de luxe của đề lao. Anh ra phòng tập thể C-2, ngày ngày đi mạn đàm với chấp pháp. Rồi anh viết tự khai...

Chấp pháp số 7 đã đưa giấy bút cho tôi.

- Anh viết khẩn trương vì tôi sẽ về Hà Nội công tác đột xuất. Tự khai lần này khác.

Tôi hỏi:

- Tôi sẽ viết thế nào?

Hắn đáp:

- Cuộc đời anh từ năm anh 10 tuổi đến ngày anh bị bắt. Thật chi tiết. Chính xác ngày, tháng, năm.

- Làm sao tôi nhớ ngày tháng?

- Cố nhớ đến đâu hay đến đó. Anh hay khoe anh có trí nhớ tốt mà.

- Chỉ vậy?

- Anh tóm tắt mỗi cuốn sách của anh, khai rõ cảm hứng nào anh viết, anh viết nhằm mục đích gì, ai thuê anh viết, mỗi cuốn giá bao nhiêu... Anh đừng quên những bài báo của anh trên những tờ báo anh cộng tác.

- Tôi viết cả 10 ngàn bài dài ngắn.

- Cố nhớ.

Bạn thấy hệ lụy văn chương của những nhà văn ở lại bị bắt chưa? Tôi muốn ông “nhà xuất bản” Đại Nam và các ông “nhà báo” viết thuê cho ông Đại Nam chửi bới tôi đọc Nhà Tù. Hy vọng lương tri các ông ấy thức tỉnh. Tôi cũng muốn độc giả thân mến của tôi tỏ thái độ quyết liệt với những kẻ sống trên lưng nhà văn, sống trên nỗi thống khổ mà nhà văn phải chịu đựng vì hệ lụy văn chương của mình. Cái công trình mồ hôi, nước mắt, tim óc của chúng tôi đã bị chà đạp ở quê nhà, còn bị ăn cướp ở quê người. Và những kẻ cướp đó lại là người Việt Nam, nạn nhân của cộng sản như chúng tôi, nhưng may mắn hơn chúng tôi. Tôi sắp chịu cực hình, đau đớn trên mọi tra tấn. Là tóm tắt 50 cuốn sách của tôi. Và phát biểu cảm tưởng về chữ nghĩa dĩ vãng. Và bôi nhục nó. Và nguyền rủa nó. Ôi, văn chương, nó đã đưa tôi lên và nó đã dìm tôi xuống. Không, cộng sản đã dìm tôi và văn chương của tôi. Hai chúng tôi đang “chết đuối trên cạn”, đang sặc sụa, đang đạp dẫy.

- Tôi nói để anh chuẩn bị tư tưởng: Anh phải tranh thủ thời gian.

Gã quản giáo đã đem ca cà-phê đá tới. Tôi bắt đầu viết tự khai, bắt đầu chơi lại một trò chơi quái đản của ý thức hệ. Trò chơi khốn kiếp này, tôi đã chơi và đã thể hiện ở một tiểu thuyết mới nhất của tôi. 1 Xin trích một đoạn:

- “Tôi đã viết ba lần.

- Ba lần anh viết khác nhau. Tôi chỉ yêu cầu hai lần giống nhau là đủ. Anh viết ba lần ba cuộc đời của ba con người!

- Cô cho phép tôi đọc cả ba bản để cô so sánh.

- James, anh đã biết điều, nên tiếp tục biết điều. Tù nhân không được quyền yêu sách. Anh được đọc nội quy nhà tù chưa?

- Chưa.

- “Triệt để thi hành mệnh lệnh của cán bộ”. Anh viết lại tự khai.

- Bắt đầu?

- Phải, từ năm anh mười tuổi đến khi anh bị bắt.

James viết tự khai lần thứ tư. James viết tự khai lần thứ năm. Lần thứ sáu. Lần thứ bảy. Lần thứ tám. Lần thứ chín. Lần thứ mười, về cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt. Đến lần thứ ba mươi, ấu thơ chàng, niên thiếu chàng, thanh xuân chàng, kỷ niệm chàng, tình yêu chàng, mơ ước chàng, hạnh phúc chàng, gia đình chàng, trường lớp chàng, thầy cô chàng, bạn bè chàng, nơi chôn rau cắt rốn chàng, dòng sông chàng, cánh đồng chàng, khu rừng chàng, ngọn núi chàng, sân cỏ chàng ... ngậm ngùi lếch thếch dắt díu nhau lên trên những trang tự khai quái đản. Dĩ vãng đi. Dĩ vãng về. Dĩ vãng bò. Dĩ vãng lết. Dĩ vãng nhẩy. Dĩ văng chạy. Dĩ vãng vấp. Dĩ vãng ngã. Dĩ vãng tới. Dĩ vãng lui. Dĩ vãng nằm nghiêng. Dĩ vãng nằm ngửa. Tuổi hồng của James bị bầm vặp. Tháng ngày đẹp nhất đời người của James bị đâm chém. James sợ hãi, James kinh hoàng viết về dĩ vãng, về ấu thơ, về gia đình, về trường lớp, về tình yêu. Người lính Mỹ tên là James Fisher tâm hồn thánh thiện, biểu tượng sáng chói của cái thật, cái tốt, cái đẹp của dân tộc Mỹ, tham dự chiến tranh ở Việt Nam không hề mang theo ý thức hệ, không hề nhân danh chủ nghĩa tư bản, chỉ đáp theo tiếng gọi của tổ quốc yếu dấu, đang bị quay chóng mặt trong trò chơi của ý thức hệ. Và trò chơi mang tên tự khai, một kiểu tra tấn tinh thần tinh vi nhất, độc ác nhất trong thời đại mà bóng tối đã phủ kín lương trí loài người.

James Fisher bơ phờ, hốc hác. Chúa Jesus không bị viết tự khai như James Fisher nên ngài mới bình thản nói: “Đừng lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo lắng cho ngày mai”, James đã thấm đòn tự khai. Chàng lo lắng ngày mai vô cùng. Chàng sợ hãi ngày mai. Ngày mai quằn quại hơn hôm nay. Ngày mai, chàng nhìn rõ móng vuốt nó nhọn hoắt cào cấu đầu óc chàng; chàng nhìn rõ răng nó sắc bén gậm nhắm thần kinh chàng. Trên những trang giấy hãi hùng. Một cây bút, một xấp giấy. Nhỏ bé và êm ái. Thế mà bút và giấy đã khiến chàng bấn loạn điên khùng. James chỉ muốn chết để khỏi viết tự khai. Bây giờ chàng mới hiểu nhà tù cộng sản và sự khoan hồng, nhân đạo cộng sản. Tám năm chịu đựng thống khổ dưới hầm đá, trong các cachots, James đã chịu đựng nổi và sẽ chịu đựng hoài cho tới ngày nhận “phần thưởng trên trời”. Nhưng tự khai, chàng không hứa hẹn lần “no đủ sự công nghĩa”, dẫu tự khai cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt.

Nàng Chi Mai chẳng thèm xúc động. Chàng viết tự khai lần thứ năm mươi thì ba mươi trang giấy thừa quá nhiều. “Tôi rất tiếc James ạ”! James không thể viết tự khai nữa. Thần kinh của chàng căng thẳng. Chi Mai không tha chàng, không mảy may trắc ẩn. Nàng bày thêm chi tiết của trò chơi. James sắp ăn, nàng gọi lên viết tự khai. James đang ngủ, nàng gọi lên viết tự khai. James mệt mỏi, nàng gọi lên viết tự khai. James ốm đau, nàng gọi lên viết tự khai. Rồi James hết thèm ăn, chán ngủ, James gầy gò, xanh xao. Mắt James thâm quầng. Râu ria James tua tủa. James chẳng còn biết chàng đã viết gì. James mất tự chủ. James hôn mê khi viết tự khai. James viết bậy bạ. James viết thư cho cha mẹ. James viết những lời thương nhớ Susan McCareen. James viết lời quốc ca. James vẽ bản đồ nước Mỹ. James làm thơ. James gọi Thượng Đế. James cầu cứu Chúa Jésus. Vào đúng lúc James tê liệt dễ sai khiến nhất, bảo sao làm vậy miễn là đừng bắt viết tự khai cuộc đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị bắt thì Chi Mai gọi chàng lên văn phòng của nàng.

- James, anh viết bao nhiêu lần rồi, nhớ không?

- Bẩy mươi.

- Sai.

- Sáu mươi.

- Sai. Cố nhớ đi!

- Tôi không nhớ.

- Một trăm mười hai lần!

Chi Mai nhoẻn miệng cười:

- Chưa phải là kỷ lục tự khai.

James hồi hộp chờ đợi một câu nói mà chàng sợ hãi nghe. Nàng cố tình nín thinh. Nàng khoái kéo dài sự lo lắng của James Fisher. Con sói cái muốn vờn con cừu non mềm nhũn, ngã qụy rồi mới rút ruột.

- James!

- Tôi nghe.

- Tôi rất tiếc James ạ!

James Fisher choáng váng.

- Tôi rất tiếc những lần sau cùng anh viết lung tung. Anh mệt mỏi, anh rã rượi rồi, hả?

Chàng thành thật:

- Phải, tôi rã rượi rồi."

......

Thật sự, nhân vật tiểu thuyết của tôi chưa rã rượi bằng tôi. Tôi đã nói tôi sợ tôi không đủ khả năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thì làm sao tôi viết hết nổi cảm giác nhục nhằn của tự khai. Nhân vật tiếu thuyết của tôi chi phải tự khai từ năm 10 tuổi đến ngày bị bắt. Còn tôi, tôi phải truy nã hồi tưởng mà tự khai 50 cuốn sách và 10 ngàn bài báo của 15 năm viết lách mưu sinh. Năm 1937, Nguyễn Vĩ than vãn:

Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bủt viết văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết.

Nỗi khổ “kiết vẫn kiết” thấm gì với nỗi khổ tự khai của nhà văn Việt Nam năm 1976. Không có hình phạt nào thảm thê bằng hình phạt tự khai. Mọi thống khổ ngục tù trại tập trung là cỏ hèn dưới chân đại thụ tự khai sừng sững. Tự khai của các nhà văn, cuộc truy nã thân phận mình, sự nghiệp mình và kết tội mình. Tự khai của các nhà văn, niềm đau đớn tổng hợp niềm đau đớn của chữ nghĩa cổ kim, Đông Tây. Đó là một tra tấn tổng hợp những tra tấn của loài người ác độc. Tôi đã cố gắng ghi chép:

Người ta đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
anh có thể gạch xóa nhiều hàng
nhưng cấm anh xé bỏ
tư tưởng anh bị soi kính hiển vi từng cái chấm nhỏ
Viết gì
Tự khai
Tự khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ

Người ta đưa thêm cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi viết rồi
Viết nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ

Người ta lại đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi đã viết hai lần
Viết thêm nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Anh phải viết ngày này qua tháng nọ
viết đến khi anh phờ phạc dại khờ
dĩ vãng hiện tại anh đảo lộn mập mờ
Viết đến khi anh đớn đau chết ngất
Đó là lúc người ta tìm ra sự thật
để kết án anh dù anh chẳng có tội chi

Này bạn
Bạn sẽ chép lại được mấy lần bức thư tình đã viết
Riêng tôi rất oanh liệt
Viết bốn trăm lần một bản tự khai 2

Những nhà văn bị nhốt ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định đều bị tra tấn theo cung cách này. Tất cả đều chóng mặt. Tất cả đều rã rượi. Tất cả đều bị chữ nghĩa tự khai xoáy mòn xương thịt. Ở những giây phút hôn mê ấy, chỉ có tù nhân và chấp pháp. Đôi khi, chỉ có một tù nhân trong căn phòng nhỏ. Nhà văn cô đơn sáng tạo. Nhà văn cô đơn tự khai. Chắc chắn, không có lão Toan Ánh đứng ngoài nhìn trộm và nghe lén qua khe cửa để bịa đặt tin bẩn, thứ tin chó dại ngoạm vào nỗi thống khổ của người oan khổ dưới bút hiệu Lã Vi. Và, chắc chắn, chỉ một gã chủ báo chưa vỡ nghĩa “người đi đường và con chó” của Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng mới tự phóng uế lên lương tâm mình mà toa rập với “người đi đường” khốn kiếp và ác độc. Không ai biết được nỗi đau đớn, không ai biết được lòng quả cảm và sự hèn mọn ở không gian tự khai cả. Người cộng sản tim thép không xúc động. Họ lại có thú vui nhìn con người quằn quại. Người nhà văn viết tự khai “phờ phạc dại khờ”, “dĩ vãng hiện tại đảo lộn”, chẳng còn hiểu nổi cả sự hiện hữu của bản thân mình. Nhưng tôi, tôi dám thách thức cộng sản Việt Nam xuất bản Tự Khai dầy ngót 2000 trang viết tay giòng thưa của tôi. Tôi thách thức cộng sản Việt Nam công bố một sự thật về tôi có dấu tích thủ bút của tôi ở đề lao Gia Định, nơi tôi đã viết tự khai ròng rã 40 ngày đêm, nếu họ can đảm bằng không, họ nên chấm dứt cái điệp vụ văn hoá rẻ tiền nhằm hạ uy tín chống cộng của tôi, nhằm làm tê liệt sự phản kháng của tôi, nhằm cô lập tôi với đồng bào của tôi. Trò chơi này đã quê kệch và mất ép-phê. Ép-phê ngược là đằng khác. Sau ba năm trở lại nghề viết và hiên ngang sống bằng chữ nghĩa, tính từ tháng 4-1984 đến tháng 4-1987 tôi được phép ngạo mạn ngồi lên mặt cộng sản và những kẻ a dua cộng sản bêu nhục tôi. Tôi đã không chết. Tôi đã không cúi mặt. Tôi vẫn ngẩng mặt. Tôi mãi mãi phong phú sinh lực sáng tạo. Để chiến đấu và để góp phần tạo hạnh phúc cho cả cộng sản lam lũ, bần hàn.

Như nhân vật James Fisher, trong tiểu thuyết mới nhất mang nhan đề tiếng Việt Một định nghĩa tình yêu của tôi mà nhà xuất bản Belford muốn đặt là Un prisonnier américain au Vietnam, tôi đã viết tự khai vào những giờ giấc toan tính của chấp pháp số 7. Hắn chỉ thị quản giáo rình mò tôi. Buổi sáng, nước sôi vào phòng, tôi pha mì vụn điểm tâm, chưa kịp ăn, hắn đã gọi tôi ra viết tự khai. Tôi ngồi viết một chập, hắn cho về ăn lót dạ. Mì chương đầy ca, tôi không muốn ăn. Hắn lại gọi ra. Qua bữa ăn trưa, hắn cho về. Tôi nhấm nhá cầm hơi. Nằm nghỉ chưa kịp nhắm mắt, hắn gọi ra. Tối hắn gọi ra. Đêm hắn gọi ra. Tranh thủ thời gian.Viết ngày không đủ, tranh thủ viết đêm. Tôi mất ăn, mất ngủ. Tôi ngẩn ngơ quên cả ghẻ nước, ghẻ mủ. Phép lạ hay niềm tin đã giúp tôi đủ sức cầm cự đòn tra tấn thần kinh tự khai? Tôi chẳng biết anh em có bị tra tấn như tôi. Nhà văn, nhà báo đã bị cách ly . Nhà văn còn bị cách ly với cả các tù nhân cùng phòng, thời gian viết tự khai. Tại tôi mệt lử cò bọ, về phòng là nằm bất động, các bạn trẻ không thích quấy rầy tôi hay họ bị ra lệnh cấm liên hệ với tôi? Đêm thứ 40, tôi nhớ rõ, tôi đánh số trang 1780, sang phần tự khai những tờ báo tôi viết thuê, tôi làm chủ bút, chủ nhiệm và những bài báo tôi đã ký một lô bút hiệu Thương Sinh, Thập Nguyên, Mõ Báo, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ... Hạnh phúc cho tôi là tôi được ngưng ở trang 1780.

- Anh tạm nghi. Sáng mai tôi về Hà Nội.

Chấp pháp số 7 nói:

- Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc. Có một dấu hiệu chứng tỏ anh thiếu thành khẩn.

Hắn giải thich ngay:

- Năm trang tự khai của anh mới bằng một trang bản thảo tiểu thuyết của anh. Anh viết ngoài thói quen viết sít hàng, chữ nhỏ li ti của anh. Ngoài thói quen là ngoài ý muốn. Tư tưởng thể hiện hành động. Anh thiếu thiện chí cải tạo.

Thiện chí cải tạo! Bạn hiểu chưa? Ở xã hội cộng sản, xã hội ưu việt của loài người, con người còn cần biểu lộ thiện chí vào tù, thiện chí chịu đựng đau khổ, thiện chí lãnh đòn tra tấn tinh thần.

Chấp pháp số 7 lôi từ xặc-cột của hắn ra một trang bản thảo tiểu thuyết Người con gái ngồi đợi mộí chuyến tàu về 3 mà đám côn quang đã lục xét, tịch thu tại nhà tôi đêm 8-4-1976. Bản thảo của tôi sạch, đẹp, ít bôi chữa, viết chữ thật nhỏ, dòng thật khít. Đó là thói quen. Tôi lại thích viết bằng giấy in nhật báo. Vì nó mềm và thấm mực bút nguyên tử. Ở tòa soạn, tôi thường viết những bài báo đằng sau bản tin Việt Tấn Xã in một mặt. Tôi không hiểu tại sao chấp pháp số 7 chọn trang thứ nhất của bản thảo Người con gái ngồi đợi một chuyến tầu về là trang tôi viết nhỏ nhất, sít dòng nhất mà so sánh. Hắn đã cho tôi viết tự khai trên pelure mỏng, thứ giấy pelure sản xuất tại Việt Trì mầu như mầu giấy dầu.

- Với cách mạng, anh không thể dấu diếm nổi tư tưởng thầm kín của anh đâu, cách hành văn tự khai của anh như người mới tập viết. Anh bẻ dừa bẻ ngô, râu ria thừa thãi.

Phê bình văn chương tự khai của tôi một lúc, hắn đưa tôi về phòng I C-1. Tôi có những ngày ăn ngủ điều hòa. Cộng sản đã tính sức chịu đựng của tôi. Thêm nữa, tôi sẽ chết gục trên tự khai. Họ chỉ cần hành hạ tôi chứ cần gì tôi tóm tắt toàn bộ tác phẩm của tôi. Họ đã đọc hết, đọc từ lâu. Tôi chờ đợi chấp pháp số 7 trở lại Sàigòn.
--------------------------------
1
Un prisonnier Americain au Vietnam, cuốn thứ ba của Duyên Anh viết cho nhà Belfond. Giao kèo của Belfond yêu cầu Duyên Anh viết cho họ 5 cuốn.
2
La Torture (Tra Tấn) trong tập Poèmes de prison do Les Éditions de Caux, Thụy Sĩ xuất bản.
3
Tiểu thuyết này đăng được 10 chương trên tạp chí Tuổi Ngọc thì dang dở vì cộng sản thôn thính miền Nam.

1      2           4      5      6      7     8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét