Một buổi họp của chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy ngồi cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh (giữa, dãy phải) |
Phong Uyên chuyển ngữ và giới thiệu
Sau 25 năm im hơi lặng tiếng, đầu năm 1980, cựu hoàng Bảo Đại
cho xuất bản cuốn hồi ký viết bằng tiếng Pháp Le Dragon d'Annam (Rồng
Nam), kể lại cuộc đời mình từ khi sinh ra ở Huế cho đến năm 1956, khi bị
ông Diệm truất phế. Phần đặc sắc nhất trong cuốn sách là phần kể lại thời gian
ông Bảo Đại được ông Hồ phong làm cố vấn tối cao, sống ở Hà Nội sau khi thoái
vị cho đến khi theo một phái đoàn của ông Hồ qua Tàu rồi đi Hồng Kông. Những sự
kiện liên quan đến ông Hồ được ông Bảo Đại kể lại trong phần này chứng tỏ Bảo
Đại cũng như hầu hết người dân Việt thời đó, đều bị ông Hồ mê hoặc khi ông hô
hai câu thần chú "Độc Lập", "Thống Nhất".
Tôi xin trích dịch những đoạn chính trong phần
này và tiếp theo, xin đưa ra một vài bình luận.
Cuộc Cách Mạng Việt Minh
".... Phụ tá tổng trưởng bộ Thanh niên (Phan Anh, trong
chính phủ Trần Trọng Kim) Tạ Quang Bửu, là người cho tôi biết có một nhóm
kháng chiến được thành lập ở miền thượng du, vùng Cao Bằng có tên là "Liên
đoàn Việt Minh". Linh hồn nhóm này là Võ Nguyên Giáp, được Tạ Quang
Bửu nói đến với đầy nhiệt tình. Sau những cuộc hành quân du kích chống Nhật, "Việt
Minh" bắt liên lạc được với đồng minh Trung Hoa và Mỹ đồng thời
với cả Pháp và ngay cả với Khâm sai của tôi ở Bắc bộ là Phan Kế Toại. Nhưng tôi
cũng không liên lạc được với Phan Kế Toại nên không có sự khẳng định cùa ông ấy
(tr 113)
"... Có rất nhiều tin xấu đến tai tôi. Nguyễn Văn Sâm,
người đại diện của tôi ở Sài Gòn chưa thấy tới nhiệm sở. Nghe đồn ông ấy bị ám
sát sau khi rời khỏi Huế. Ai đã giết ông ấy? ... Ở Hà Nội cũng đang xẩy ra
những biến cố rất quan trọng. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, có những toán xung
phong dưới quyền Võ Nguyên Giáp đột nhập vào thành phố và mở cửa nhà tù dưới
cặp mắt thản nhiên của Nhật Bản. Ngày 17-8, dưới sự xúi giục của những toán
này, có cuộc biểu tình tụ tập 20 ngàn người trước Nhà Hát Lớn. Mọi người đều hô
to "Độc lập" và trương cờ mới màu đỏ sao vàng, mà có
người nói là do Kampetai (Mật vụ Nhật) đặt ra... Cờ Đế quốc
Việt Nam bị giựt xuống...
" Ngày hôm sau, khâm sai của tôi, phải bỏ nhiệm sở và được
thay thế bằng một Ủy Ban chỉ đạo lâm thời... vô danh. Ngày 19, toán xung phong
"Việt Minh" được tăng cường bởi một đám đông vừa đi vừa la hét, chiếm
đóng các công thự: tòa Thống sứ, Tòa án, Kho bạc, trường Đại học và các trường
trung học... không những quân đội Nhật có phận sự duy trì kỷ luật, không có
phản ứng mà còn mở kho súng phân phát cho lính vệ binh Đông Dương (Lính
Khố đỏ);
"Những tin tức đó bị ít nhiều xuyên tạc khi đến tai tôi. Về
tình hình Nam Kỳ thì còn thiếu chính xác hơn nữa. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, thủ
lãnh "Thanh niên Tiền phong", hình như từ ngày 15-8 đã
đứng đầu một Mặt trận Quốc gia trước khi thành lập một Ủy ban hành pháp lâm
thời đặt trụ sở tại dinh Thống đốc dưới sự chủ tọa của một người tên là Trần
Văn Giầu mà theo Tạ Quang Bửu, người thông tin cho tôi, là người thuộc về Việt
Minh. Cũng như ở Hà Nội, Nhật cũng không có phản ứng gì ở Sài Gòn...
"Cái quan trọng hơn hết cả là ở chỗ nào
cũng có những cuộc ám sát và sự mất tích, đặc biệt là những nhân vật quốc gia.
"Ngay ở Huế cũng có những truyền đơn được
phân phát. Và có những nhóm không biết nghe lệnh từ đâu, tụ họp và di chuyển
trong thành phố, tới tận sát Thành nội.
"Ngày 22-8, đại tá chỉ huy quân đội Nhật
ở Huế tới xin triều kiến và nói với tôi là theo lệnh của Chỉ huy Đồng Minh,
quân đội Nhật đã bố trí xong hệ thống bảo vệ an ninh thành nội và mọi người
trong Thành. Đường từ cầu Tràng Tiền ra cũng như tất cả những lối vào Thành đã
bị chắn. Tôi cực lực phản đối quyết định này và nói: "tôi tuyệt đối khước
từ sự bảo vệ của ông. Tôi ra lệnh cho ông bãi bỏ hệ thống phòng vệ vì tôi không
muốn một quân đội ngoại quốc làm đổ máu dân tộc tôi. (tr 117)
"Để chắc chắn là lệnh của tôi được thi
hành, tôi trao cho ông ta một công hàm có dấu ấn của tôi, trút cho ông trách
nhiệm phải duy trì trật tự quanh Thành nội. Tôi ghi thêm là phải mở lại tất cả
mọi cửa vào Thành để mọi người tự do ra vào như thường lệ.
"Sau đó ít lâu, giám đốc Bưu điện Huế xin được gặp tôi. Ông
ta đưa cho tôi một điện tín nhận được từ Hà Nội. Nội dung bức điện tín: "Trước
lòng quyết tâm của toàn thể dân tộc sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập quốc
gia, chúng tôi kính cẩn xin Hoàng Thượng làm một cử chỉ lịch sừ là trao quyền
lại". Điện tín này được ký bởi "Ủy ban Nhân dân Cứu quốc
đại diện mọi đảng phái và mọi tầng lớp nhân dân". Nhưng không có tên
ai.
"... Sáng ngày 23 chung quanh tôi đều
trống không. Từ ông Trần Trọng Kim tới mọi tổng trưởng, chả ông nào có mặt. Chỉ
còn người em họ là hoàng thân Vĩnh Cẩn ở cạnh tôi.
"Những lời tâm sự của Tạ Quang Bửu trở
lại trong trí tôi: Cái Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng minh Hội" là cái gì
để có thể động viên quần chúng, thực hiện những ước vọng của đám đông và bây
giờ lại bảo tôi phải làm gì?
"Tôi không biết ai là những thủ lãnh. Vậy
mà những người này lại có những tiếp xúc với Đồng Minh Trung Hoa, Mỹ, Pháp, khi
mà những lời kêu gọi tôi gửi cho Tổng thống Truman, Thống chế Tưởng Giới Thạch,
Anh hoàng và tướng de Gaulle đều không được trả lời... Những lãnh tụ này có
súng ống, có phương tiện, nắm được chính quyền dễ dàng trong khi tôi sống trơ
trọi trong một kinh thành đã chết. Sự thành công dễ dàng của các lãnh tụ này
phải chăng là đó là dấu hiệu họ đã nhận được mệnh trời? Quần chúng có một bản
năng rất là chắc chắn. Bản năng này, trong những giờ phút lịch sử, luôn luôn
đưa họ tới những người đã nhận được sứ mệnh phải dẫn dắt họ. Đã đến lúc tôi
phải có một sự lựa chọn để dung hòa số phận của tôi với số phận của dân tộc
tôi... là tôi phải ra đi.
"Nhưng ai là người tiếp nhận sự ra đi của
tôi?
"Tôi bảo người em họ Vĩnh Cẩn và Ngự tiền
văn phòng Phạm Khắc Hòe ra ngoài thành Nội hỏi tin tức về Việt Minh. Cả hai trở
về chả biết chi cả. Tôi đành đánh đại một bức điện tín gửi trống không "Ủy
ban Nhân dân Cứu quốc" ở Hà Nội. Tôi viết:
"Để trả lời kêu gọi của Ủy Ban, tôi sẵn
sàng tự rút lui. Trong giờ phút quyết định của lịch sử đất nước, đoàn kết là
sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh hết mọi sự để có thể thực hiện được
sự hợp quần. Tôi xin những người cầm đầu Ủy Ban mau vào Huế để tôi trao lại
quyền hành".
"Ngay trong đêm hôm đó, với sự giúp đỡ
của Vĩnh Cẩn, tôi thảo bản chiếu Thoái vị.
"Sáng ngày 25-8, có hai đặc phái viên,
đại diện "Việt Nam Độc lập Đồng minh" từ Hà Nội vào: Trần Huy Liệu,
trưởng phái đoàn, là phó chủ tịch Ủy ban. Một người gầy gò trông rất thảm hại,
đeo kính đen để giấu cặp mắt lé. Người đi cùng là Cù Huy Cận, trông cũng quá
tầm thường. Tôi hơi thất vọng:
"Trần Huy Liệu đưa cho tôi một giấy Ủy
quyền có mang chữ ký không rõ là của ai. Ông tuyên bố một cách rất long trọng:
-- Nhân danh nhân dân Việt Nam, cụ Hồ Chí
Minh, chủ tịch Ủy Ban Giải Phóng, cho chúng tôi cái danh dự đến Ngài để tiếp
nhận quyền hành.
"Đó là lần đầu tiên tôi nghe đến tên Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Tôi đưa bản chiếu thoái vị. Trần Huy Liệu đọc bản chiếu cùng
với Cù Huy Cận rồi 2 người nói riêng với nhau trước khi quay lại nói:
-- Thưa Ngài, nhân danh nhân dân Việt Nam
chúng tôi chấp nhận hoàn toàn bản chiếu này. Nhưng chúng tôi cũng xin đề nghị
với Ngài là nên tổ chức một nghi lễ vắn tắt để trong buổi lễ Ngài đọc bản chiếu
trước công chúng.
-- Ngay buổi chiều hôm đó, trước vài ngàn
người mặc triều phục được tụ tập vội vã trước cửa Ngọ Môn, tôi đọc bản chiếu
cuối cùng của triều Nguyễn đề ngày 25-8-1945.
"Bản chiếu bắt đầu bằng:
Để toàn dân Việt Nam có hạnh phúc!
Để Việt Nam có được độc lập!
Trẫm tuyên bố sẵn sàng hi sinh mọi sự...
"Và kết luận bằng:
"Trẫm thích được làm công dân một nước
độc lập hơn làm vua một nước bị trị"
Hoan hô Việt Nam độc lập!
Hoan hô nước Cộng hòa Dân chủ!
"... Trong một bầu không khí ngượng ngập,
tôi đưa chiếc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần Huy Liệu.
"... Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tiễn tôi
ra khỏi cửa. Trước khi chia tay, người đại diện Ủy ban Giải phóng nói với tôi:
-- Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn mời ngài ra Hà
Nội để cùng thiết lập những thể chế cộng hòa.
-- Tôi trả lời: Thưa ông trưởng phái đoàn, tôi
xin ông cho tôi gửi lời cám ơn Hồ chủ tịch và sẽ không quên ra Hà Nội theo lời
mời của Chủ tịch.
"... Trở thành công dân Vĩnh Thụy từ khi
thoái vị, tôi không có việc chi làm ở Huế. Tôi quyết định theo lời mời của Hồ
Chí Minh ra Hà Nội. (tr 121)
Cố vấn Tối cao của Chính phủ
"ngày 6-9 tôi tới Hà Nội. Tôi được ở căn nhà của thị trưởng
Hà Nội cũ, đường Gambetta (Hoàng Diệu?). Sau khi tắm rửa, tôi đi đến Bắc
Bộ Phủ (dinh Thống sứ cũ) để dự bữa ăn buổi tối được tổ chức để đãi tôi.
"Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ Nội vụ đón
tiếp tôi và khi ra ngồi bàn, đưa tôi tới trình diện Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa
mới tới. Ông bắt tay tôi một cách thân mật, cám ơn tôi đã tự rút lui và nói
thêm:
-- Chúng ta sẽ cùng nhau làm việc cho nền độc
lập của đất nước.
"Ngày hôm sau 11 giờ tôi gặp lại Hồ Chí
Minh và nói chuyện riêng với nhau. Thái độ của ông khác hẳn với ngày hôm qua;
Ông đối với tôi có vẻ kính trọng và xưng hô với tôi như ở trong cung điện khi
dùng chữ Ngài tương đương với chữ Sire trong tiếng Pháp, gần như thiếu một điều
là xin lỗi đã lên nắm quyền:
-- Thưa Ngài, chúng tôi không có liên quan gì
đến bức điện mà ngài nhận được ở Huế đòi ngài phải thoái vị. Riêng về phần tôi,
như khi tôi đã nói ngày 22-8, tôi muốn ngài vẫn đứng đầu nước và cử tôi làm thủ
tướng chính phủ mới. Tôi không tán thành những kẻ đã làm áp lực với ngài để
ngài phải thoái vị.
-- Tôi cũng trả lời với cùng một lễ độ khi
dùng danh từ tôn kính là Cụ (Vénérable) và cam đoan là tôi chỉ muốn làm một
người công dân thường để chung sức xây dựng một nước Việt Nam mới, thống nhất
và độc lập.
"Hồ Chí Minh có vẻ yên tâm và đưa ra một
bức tranh đầy phấn khởi, khác hẳn với sự dè dặt trong những câu nói lần trước:
-- Tất cả những giấc mơ của ta đang được thực
hiện cùng một lúc. Không những thống nhất và độc lập sắp được Đồng Minh chính
thức công nhận mà chiến tranh kết liễu, Nhật bản đầu hàng cũng cho phép chúng
ta tiến tới một chế độ được toàn dân ủng hộ muôn người như một. Trong chế độ
này mỗi người chúng ta đều có một tương lai kỳ diệu. Độc Lập, trở thành một Từ
ngữ biểu tượng của đất nước, mãnh liệt như làn sóng thủy triều dâng lên từ đáy
biển cả, khiến không có công cuộc nào mà chúng ta không thực hiện được...
"Trong cái áo varơ cổ cao đã sờn rách,
với đôi giày săng đan thô lỗ và bộ râu lơ thơ, Hồ Chí Minh giống một nhà tu khổ
hạnh đồng thời cũng giống một nhà nho Việt Nam thời xưa được đào tạo trong nền
văn hóa Trung Hoa, thiên về thi tứ, văn chương triết học hơn là về hoạt động
chính trị.
"Có sự ngược lại là từ thân hình mảnh
khảnh, yếu ớt và từ cặp mắt sáng ngời như đang lên cơn sốt, thoát ra một niềm
tin truyền cảm rất khắc phục, đồng thời cũng tỏa ra một sự thanh thản rất ấn
tượng. Những câu nói của ông Hồ đều có dấu ấn của một ý nghĩa sâu xa về con
người, của một sự chối bỏ mọi bạo động. Ông Hồ hoàn toàn có ý thức về những
thực tại và nhưng tất yếu của Việt Nam. Ông cũng biết chiều hướng biến chuyển
lịch sử dựa vào sự tự học và sự hiểu biết tất nhiên về thế giới Âu Tây cũng như
thế giới Trung Hoa và thế giới Nga (tr129).
"Sau hơn một giờ nói chuyện, ông Hồ kết
luận:
-- Tôi yêu cầu ngài tham dự những buổi họp của
hội đồng các bộ trưởng và nhận chức vụ Cố vấn tối cao của chính phủ.
"Yêu cầu này làm tôi bất ngờ. Tôi thật không
bao giờ nghĩ sự góp phần kiến tạo một nước Việt Nam mới của tôi dưới hình thức
này. Nhưng khi nghe ông nói, không thể chối cãi được ông Hồ là người muốn độc
lập và thống nhất một cách cuồng nhiệt, nên tôi nhận lời (tr 130).
"Hội đồng bộ trưởng họp mỗi tuần một lần.
Ngày 8-9 tôi dự phiên họp lần đầu tiên..
"... Thật ra hội đồng gồm 3 nhóm.
Nhóm cố cựu gồm những người theo chủ tịch Hồ
Chí Minh từ thuở ban đầu như Trần Huy Liệu. Những người này sống lâu năm ở Nga,
ở Trung Quốc hay biết nhau trong tù. Những người này chống Pháp kịch liệt.
Nhóm thứ hai gồm những người gọi là giáo sư
trường Thăng Long, một trường tư về Luật (thật ra chỉ là một trường trung học)
ở Hà Nội mà những nhân vật trong ban giảng huấn đều thuộc thành phần đại trí
thức rất hiểu biết về chính trị. Trong số những người này có Võ Nguyên Giáp.
Cũng có những người là cựu cán bộ của đảng Cộng sản được hợp pháp hóa khi Mặt
trận Bình Dân lên nắm quyền ở Pháp như Phạm Văn Đồng. Những người này đều có
văn hóa Pháp, thông minh và có óc cởi mở. Tuy chống đối kịch liệt chủ nghĩa thực
dân, tranh đấu hăng say cho nền độc lập, những người này không muốn đoạn tuyệt
với nước Pháp.
Sau cùng là những người gọi là những người
"ngả theo", như Dương Đức Hiền, cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Hà
Nội, hay Nguyễn Mạnh Hà, cầm đầu Thanh niên hoạt động Công giáo. Đa số những
người này đều là kỹ thuật viên xuất thân từ những Trường Lớn của Pháp nhưng
không được (Pháp) dùng đúng với bằng cấp và khả năng của mình.
"Hồ Chí Minh ngồi ở một đầu bàn và tôi
được ngồi đối diện ở đầu kia.
"... Tôi cũng lần lần khám phá ra bộ mặt
thật của Hồ Chí Minh:
Có một ngày, trong buổi họp Hội đồng có cuộc
bàn cãi khá sôi nổi giữa Hồ chủ tịch và Vũ Trọng Khánh, bộ trưởng bộ Tư pháp
ngồi bên phải cạnh tôi. Sau buổi họp Vũ Trọng Khánh đưa cho tôi một cuốn sách
nhỏ và nói với tôi:
-- Ngài có vẻ ngạc nhiên về phản ứng của vị
chủ tịch chúng ta. Đọc cuốn sách này ngài sẽ hiểu rõ hơn.
Tôi nhìn cái tít "Cuộc đời Nguyễn Ái
Quốc" do A. Marty, trùm mật thám của Phủ Toàn quyền thảo.
-- Ai là Nguyễn Ái Quốc?
Khánh nhìn tôi rồi đưa đầu về phía Hồ chủ tịch
đúng vào lúc ông đi gần chúng tôi để ra khỏi phòng họp. Ngạc nhiên vì điệu bộ
chúng tôi, ông lướt mắt nhìn cuốn sách rồi nhún vai, nhếch mép cười một cách
hóm hỉnh, bước ra khỏi phòng họp không nói một lời.
"Về đến nhà, tôi vội vã đọc cuốn sách.
Nguyễn Ái Quốc chỉ là một tên trong số cả mấy chục tên khác trong cuộc đời
phiêu bạt trước khi trở thành Hồ Chí Minh... Cuốn sách của Marty ngưng lại ở
đoạn này. Giáp là người kể tiếp cho tôi từ khi ông Hồ trở về nước năm 1941 và
thành lập Việt Minh ngày 19-5 ở Cao Bằng.
"... Sự giao thiệp của tôi với các "đồng
sự" rất là tốt đẹp. Nếu tôi gọi là các anh thì họ đều gọi tôi với
cái tít Ngài. Hồ Chí Minh muốn mọi người phải xưng hô như vậy. Tôi đặc biệt gắn
bó với Vũ Trọng Khánh. Ông ta có vẻ trơ trọi vì không nằm trong đảng...
"... Tôi nhận được tin Phạm Quỳnh, cựu
thủ tướng của tôi, bị bắt, cũng như Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm và
người con là Ngô Đình Huân, thư ký riêng của đại sứ Yokoyama. Tôi can thiệp với
Hồ Chí Minh:
-- Thưa cụ, ai cũng muốn giúp cụ mà tôi là
người đầu tiên. Xin cụ rộng lượng. Khi cụ mới cầm quyền cụ thả hết mọi người
tù. Xin cụ ra lệnh thả những người bị bắt từ khi đó.
-- Thưa ngài, không thể được, dân sẽ không
hiểu.
-- Ít ra cụ cũng thả những người cộng sự của
tôi. Họ không có trách nhiệm gì cả.
-- Tôi hứa với ngài tôi sẽ lo chuyện đó.
Thật ra cả hai, Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị
giết ngay từ đầu mà ông Hồ không biết. (tr 134)
"... Giữa chúng tôi (Bảo Đại và ông Hồ)
hoàn toàn có sự thông cảm. Trong những buổi đàm đạo, không bao giờ đả động gì
đến những vấn đề về hệ tư tưởng. Chúng tôi cùng đi với nhau đến gặp Sainteny,
người thay Messmer làm ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc bộ. Chúng tôi cũng đi gặp
người Mỹ và những phái viên của họ: Lansdale và thiếu tá Patti và sau này là tướng
Gallagher. Tôi thấy Hồ Chí Minh nói tiếng Anh khá được.
"... Trong những cuộc đi gặp như vậy tôi
luôn luôn được đẩy đi trước, khiến tôi phải nói: thưa chủ tịch tôi chỉ là cố
vấn. Trái lại trong những buổi họp và biểu tình, tôi chỉ được ngồi bên phải.
Sau tôi mới hiểu đó chỉ là những thủ đoạn. Chính phủ được chấp nhận nhưng không
được công nhận bởi Đồng Minh. Sự có mặt của tôi cho chính phủ có bộ mặt hợp
pháp hơn và tôi chỉ là bảo lãnh. (tr 135)
Trung Quốc xâm nhập
"... Toán lính đầu tiên tới Hà Nội ngày
9-9-45. Sau đó là tràn ngập lính Tàu. Tất cả là 3 quân đoàn chừng 80 ngàn
người, không kể bọn tùy tùng và bầu đoàn thê tử nhào xuống Bắc Việt như những
đám cào cào châu chấu. Tới với danh nghĩa bảo vệ độc lập cho Việt Nam, tụi lính
Tàu này cư xử như những kẻ xâm lược. Đối với đám quân này, gồm những lính Vân
Nam và Quảng Đông, Bắc Việt là một xứ thần tiên.
" Ngay khi tới Hà Nội ngày 18-9, tướng Lư
Hán, chỉ huy trưởng, đã chiếm tòa nhà Puginier làm chỗ ở, đuổi phái bộ Sainteny
ra ngoài. Lư Hán đòi tôi cho tiếp kiến, chứng tỏ Trung Quốc cố ý không biết Hồ
Chí Minh. Tôi trả lời là tôi sẽ tới chào nhưng cuộc viếng thăm phải theo đúng
nghi thức và chủ tịch chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh là người tiếp kiến. Đồng
thời tôi cũng báo cho ông Hồ. Một thỏa thuận được tìm thấy nhanh chóng: Hồ Chí
Minh tiếp tướng Lư Hán với sự hiện diện của tôi trong một biệt thự được trưng
dụng. Như vậy cuộc thăm viếng không có tính cách chính thức.
"... Cùng đi theo đoàn quân Tàu là một
đám các nhà chính trị thuộc các đảng phái quốc gia trốn từ trước qua Tàu được
Quốc Dân Đảng cho tị nạn. Các lãnh tụ VNQDD và Đồng Minh Hội nhất quyết lấy lại
ưu thế.. Được che chở bởi các tướng lãnh và những cơ quan tình báo Trung Hoa
dưới quyền tướng Tiêu Văn, những người quốc gia này vội vã tước súng ống và
thay thế những ủy ban nhân dân (Việt Minh) được Hồ Chí Minh thiết lập ở các
tỉnh. (tr 138)
"Tình thế mỗi ngày một trở nên khó khăn
với Hồ Chí Minh.. Biết đời sống bị đe dọa, mỗi đêm ông ngủ một chỗ khác. Ông
vẫn tin tôi nên chỉ mình tôi biết ông ngủ đêm nào ở đâu...
"Chủ tịch cũng có vẻ bận tâm về sức khỏe
của tôi và những quan hệ bạn bè của tôi. Biết là tôi hay được các bạn bè mời ăn
tối, ông khuyên tôi như một người cha là phải coi chừng khi giao thiệp với đàn
bà gặp ở những bữa ăn đó
"... Tôi không dễ bị mắc lừa về thái độ
(của ông Hồ) đối với tôi. Nhưng hồi đó tôi không thấy ông biểu lộ một con người
cứng rắn, khắc nghiệt, như sau này.
"Đối với tôi, ông (Hồ) là người rất gắn
bó với nền độc lập nước nhà; Những điều ông nói tôi đều thấy hợp với nhãn quan
của tôi. Không cần biết quá khứ và phương pháp hành động của ông, với tất cả sự
trung trực của tôi, tôi ủng hộ ông.
"Nói cho thật, tôi thích tư thế của ông
(Hồ) hơn những lãnh tụ quốc gia, thật sự chỉ là bù nhìn của bọn Tàu. Trong sự
hỗn độn tôi thấy Hồ chí Minh vẫn giữ được trầm tĩnh.
-- Một buổi chiều Hồ chí Minh nói với tôi:
Ngài thấy không, tôi rất thất vọng về thái độ của Đồng Minh: Tôi tưởng được Nga
ưu đãi. Rút cục họ chả làm gì cho chúng ta cả. Họ cũng chả thèm gửi qua đây một
quan sát viên. Họ hoàn toàn lãnh đạm với vấn đề Đông Dương. Còn người Anh thì
chả cần nói, chỉ cần nhìn thái độ của họ ở miền Nam Việt Nam. Họ đã thiên về
Pháp và giúp Pháp tiêu diệt đồng bào ta đang tranh đấu giành độc lập. Còn người
Mỹ thì ngài đã cùng tôi gặp họ. Khi tôi rời Trung Quốc, đại diện của họ có hứa
hẹn với tôi và cam đoan với tôi. Để làm vui lòng họ, tôi để trong Lời nói đầu
của Hiến Pháp tuyên ngôn độc lập hệt như tuyên ngôn của Jefferson năm 1776.
Chúng ta được những gì? một con số không... Họ chỉ lo thay thế người Pháp và vì
vậy họ cạnh tranh với Tàu. Gallagher đã nhận lời làm trung gian giữa chúng ta
và bộ Ngoại giao Mỹ và đưa ra những đòi hỏi của chúng ta. Nhưng để đổi lại, ông
ta đòi được tự do tổ chức lại nền kinh tế của ta, thật ra chỉ muốn nền kinh tế
của ta phụ thuộc họ. Đó là những nhà tư bản, có tư bản trong máu rồi! đối với
họ chỉ có business... Bữa nọ chúng ta khám phá ra là ban điều tra của họ tới
hỏi cung những tù binh Nhật, không phải để biết những tội ác chiến tranh của
Kampetai mà để biết những cơ sở của cửa khẩu Hải Phòng. Về phần bọn Tàu, thì
ngài thấy...cả nước Tàu là một cái bụng đói! Quốc Dân Đảng chỉ là những tên
trộm bợm, những đám diều hâu. Chỉ một người mà ta có thể dùng được, đó là Tiêu
Văn (Siao Wen). Đó là một đứa vô lại rất tốn tiền cho chúng ta, nhưng biết được
thứ chúng ta muốn và những "combin" của hắn có thể sài được; Nhưng
tôi cũng nghi ngờ hắn có thể trở mặt lúc nào không hay. Khi mới tới đây hắn
chơi lá bài VNQDĐ, bây giờ hắn gật đầu mỉm cười với ta. Mai mốt biết hắn cười
với ai?... Nghĩ đi nghĩ lại, chắc chỉ còn có Pháp... (tr 140)
"Tôi không thể nén được ngạc nhiên trước
cái kết luận như vậy nhưng nó hoàn toàn lô gíc.
"Hồ Chí Minh cho tôi thấy một lần nữa cái
tài biết che giấu của ông. Ở Việt Nam công giáo chỉ là một thiểu số nhưng là
một lực lượng năng động. 2 triệu tín đồ dính chặc với linh mục của họ. Ngay từ
khởi đầu, Hồ Chí Minh đã tìm cách được lòng họ. Không thể không có ẩn ý khi chọn
ngày 2-9 lễ Thánh Tử đạo Annam làm ngày Quốc khánh. Ông cũng đưa vào chính phủ
Nguyễn Mạnh Hà khi học ở Paris là một thủ lãnh thanh niên Công giáo hoạt động
xã hội và là con rể Georges Maranne, thượng nghị sĩ cộng sản quận Seine.
"Ngày 23-9 Nguyễn Mạnh Hà tổ chức một
míting lớn ở Hà Nội tụ tập nhiều ngàn giáo dân để biểu lộ tinh thần ái quốc và
sự tin tưởng vào chủ tịch Hồ Chí Minh.
"Cũng trong bầu không khí đó, lễ tấn
phong Giám mục Lê Hữu Từ được sửa soạn ở Phát Diệm. Hồ Chí Minh yêu cầu tôi
thay mặt ông dự lễ vì bị mắc kẹt ở Hà Nội ngày 28-9, tướng Lư Hán đến để chính
thức tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật.
"Nhưng ngày hôm trước, chủ tịch nói với
tôi:
-- Thưa Ngài, quân đội Pháp đã gần như dẹp yên
kháng chiến Nam bộ. Sớm muộn gì bọn chúng cũng sẽ đổ bộ ở đây. Cần phải tránh
không rơi vào tay chúng. Ngài là biểu tượng của nền độc lập Việt Nam. Ngài nên
lợi dụng đi Phát Diệm để lánh xa Hà Nội.
-- Tôi hỏi thế cụ thì sao?
-- Ồ! với tôi đường lối đã vạch sẵn.
"Bữa sau tôi đi Phát Diệm cùng với Võ
Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ Nội vụ. Giám mục Lê Hữu Từ thuộc dòng tu kín
(trappiste) là một nhân vật rất lạ lùng. Người bé nhỏ gầy đét trong bộ áo trắng
dòng tu rộng thùng thình, cặp mắt sáng ngời lại sáng hơn nữa vì 2 lưỡng quyền
nhô cao. Ông nổi tiếng trong dòng tu vì tài điều động công việc và rất biết rõ
những mưu mẹo thương thuyết mặc cả.. Buổi lễ dưới quyền chủ tọa của giám mục Hà
Nội là Nguyễn Bá Tòng. Giáp được Hồ Chí Minh ủy thác là mời tân giám mục Lê Hữu
Từ làm cố vấn tôn giáo cho chính phủ. Đức cha Lê Hữu Từ nhận lời ngay tức khắc.
(tr 141)
"Sau buổi lễ Giáp trở lại Hà Nội còn tôi
đi Sầm Sơn, một bãi biển nghỉ mát ở gần Thanh Hóa.
"... Vào khoảng giữa tháng 12, một đại
biểu Ủy ban tỉnh Thanh hóa đến gặp tôi và nhân danh chính phủ mời tôi ra ứng cử
đại biểu Quốc hội. Tôi nhận lời về mặt nguyên tắc và nhắc lại là tôi muốn trở
về Hà Nội. Ông này hỏi tôi:
-- Thưa ngài; ngài muốn ra ứng cử dưới danh
hiệu nào?
-- Dưới danh hiệu đảng Cộng sản. Tôi trả lời
với chút châm biếm trước một câu hỏi như vậy.
-- Không thể được thưa ngài, ông ta trả lời
một cách rất nghiêm túc: Đảng Cộng sản Đông Dương đã được giải tán theo quyết
định của Ủy ban Trung ương ngày 11-11.
Tôi làm sao biết được những gì xẩy ra ở Hà Nội từ ngày tôi đi
khỏi.
-- Vậy thi ghi tên tôi là một người cộng hòa.
-- Vậy thi ghi tên tôi là một người cộng hòa.
"Trong 3 tuần tôi không nhận được tin tức
gì. Đúng ngày 7-1 có một phái đoàn đến báo tin tôi đã trúng cử vào Quốc hội và
cuộc bầu cử đã diễn ra ngày hôm qua. Tôi được bầu đại biểu tỉnh Thanh Hóa với
92% số phiếu. Mọi người đều chúc tụng tôi. Còn tôi thì không biết ngày bầu cử
và tất nhiên là tôi cũng chưa đi bầu. (tr 145)
"Nhưng bây giờ tôi đã là đại biểu Quốc
hội. Tôi nhờ phái đoàn nói với Ủy ban Thanh Hóa là tôi muốn trở về Hà Nội càng
sớm càng hay và xin cung cấp săng cho xe tôi. 8 ngày sau, mọi chuyện đều xếp
đặt xong xuôi và tôi rời bỏ Sầm Sơn trở về Hà Nội, lòng nhẹ nhõm."
Đại biểu Quốc Hội Lập
Hiến
"Ngay chiều hôm ấy, tôi trở về chỗ ở của
tôi, đại lộ Hoàng Diệu Hà Nội. Từ khi tôi đi khỏi Hà Nội cách đây 3 thấng, tình
hình biến chuyển rất nhiều. Ngày 19-11 Tiêu Văn triệu tập các đảng phái bắt
phải thỏa thuận với nhau và quân đội của 3 đảng phải sáp nhập với nhau để chỉ
còn 1 quân đội duy nhất.
"Trước những thủ đoạn chính trị của Tàu,
Hồ Chí Minh chỉ còn mối bận tâm duy nhất là làm sao vứt bỏ được sự hiện diện
của Tàu ở Bắc Việt. Ông sẵn sàng thân thiện lại với người Pháp. Ông biết đầu
tháng 1 Pháp có cử đặc phái viên tới Trùng Khánh điều đình với Tưởng Giới Thạch
để quân đội Pháp thay thế quân đội Trung Hoa. Ông đợi đúng ngày bầu cử Quốc hội
6-1, làm một bản tuyên bố được báo chí Pháp đăng lại, trong đó ông nói:
"Chúng tôi không thù hận gì với nước Pháp và dân tộc Pháp mà chúng tôi
khâm phục. Chúng tôi không muốn cắt đứt những mối giây liên lạc đã gắn chặt hai
dân tộc chúng ta..."
"... Tháng 11-45 Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn
đưa ra sắc lệnh rút hết những tờ giấy bạc 500 được in dưới thời Nhật Bản chiếm
đóng. Nhưng quân đội Tàu ngay khi mới tới đã thâu cướp được rất nhiều giấy bạc
500 nên đã thương lượng được với Pháp là sắc lệnh này không có hiệu lực ở phía
Bắc vĩ tuyến thứ 16... Khi từ Sầm Sơn trở về, tôi không có một đồng xu dính túi
vì tuy được nuôi ăn cho ở nhưng không có một đồng lương nào. Tôi viết thư xin
mẹ tôi chút tiền thì mẹ tôi hồi âm bằng 2 tờ giấy 500 trứ danh đó. Tôi đưa cho
Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ tài chánh nhờ ông đổi giùm. Ngày hôm sau người ta
đem lại cho tôi một phong bì trong đó có 2000 đồng. Tôi tưởng là đưa lộn nên đi
tới bộ Tài Chính để trả lại Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng nói với tôi:
-- Không có lộn đâu
-- Sao! Tôi đưa một ngàn đồng mà được đưa lại
tới 2000 đồng. Ông làm tài chính như vậy thì còn lâu Việt Nam mới lấy lại được
thăng bằng kinh tế.
-- Nét mặt không chút xao động, Phạm Văn Đồng
trả lời tôi: Tôi biết rõ tình trạng tài chính của ngài. Đây là một đặc ân tôi
làm cho ngài.
"Một buổi tối, Hồ Chí Minh chìa cho tôi
một tờ giấy và nói với tôi:
-- Thưa ngài, trong thời gian ngài vắng mặt (ở
Sầm Sơn), tôi có nhân danh ngài gửi cho Pháp một thông điệp. Tôi đọc:
"Thông điệp của Hoàng thân Vĩnh Thụy, cựu
Hoàng đế Việt Nam, gửi nước Pháp....
Ký tên: Hoàng thân Vĩnh Thụy cựu Hoàng đế Bảo
Đại, cố vấn chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. (tr148)
"... Chính phủ cử Giáp đi thanh tra các
tỉnh cho đến tận biên giới Nam bộ với tư cách bộ trưởng bộ Nội Vụ. Tôi xin đi
cùng nhưng không được chấp thuận. Giáp nói với tôi:
-- Một tuần nữa tôi trở về tôi sẽ báo cáo với
ngài những gì tôi thấy được.
"Một tuần sau khi tôi đang ăn trưa thì
Giáp tới và nói:
-- Tôi vừa về sau cuộc tuần tra.
-- Mời anh ngồi cùng ăn, tôi nói.
Giáp có vẻ tư lự cúi đầu ăn không nhìn tôi.
Giáp thường ngày đã ít cởi mở nhưng bữa nay bộ mặt còn có vẻ rầu rĩ hơn. Tôi để
cho ông ta ngồi ăn không nói câu gì. Sau bữa ăn tôi mới hỏi:
-- Thế nào?
-- Phải thực tế, mặt vẫn cúi gầm.
-- Anh muốn nói gì?
-- Cái tôi muốn nói, là mình phải thích nghi
với thằng Pháp.
-- Không lẽ nào mình lại trở về với cuộc bảo
hộ.
-- Có thể chứ, nếu cần thiết.
-- Tôi không hiểu nổi các anh nữa. Tôi chấp
nhận độc lập với thằng Nhật. Tôi thoái vị. Tôi ra đi để nhường chỗ cho các anh,
nay các anh lại muốn quay trở về với quá khứ.
-- Mình biết làm thế nào bây giờ? Ở miền Nam
tụi Pháp nó đã phá tan bộ máy của chúng ta phải mất bao công mới xây dựng được.
Nó đã lấy lại hết. Chả bao lâu nữa nó sẽ đổ bộ ở đây. Chúng ta làm thế nào để
chống lại được? Chúng ta có quân đội nhưng không có đạn dược...
"Được thỏa tấm lòng, Giáp kể lại cuộc
hành trình... (tr 149)
"Vài ngày sau, tôi mới hiểu sự bối rối
của Hồ Chí Minh và ê kíp của ông. Tôi biết giữa Chủ tịch đi cùng với Giáp và
Sainteny có một cuộc hội đàm lâu dài về vấn đề sự trở lại của người Pháp và vấn
đề phân chia chủ quyền. "Độc Lập" còn có nghĩa gì nữa không? Mặc dầu
còn giũ được uy quyền, sự thay đổi thái độ của ông Hồ gặp một sự chống đối mạnh
mẽ. Sự chống đối này được sự hỗ trợ của Tàu và của những đảng mà Tàu thao túng:
Đại Việt, VNQDD, Đồng Minh... Tất cả đều đồng thanh đòi "chính phủ Việt
gian" phải ra đi vì đã bán rẻ nền độc lập. Tôi biết các đảng phái này có
bàn bạc với nhau về tôi.
"Ngày 27-1, 7 giờ sáng, điện thoại reo
trong căn hộ tôi đường Hoàng Diệu. Hồ Chí Minh kêu tôi:
-- Tôi có thể tới thăm ngài ngay tức khắc được
không?
Tôi trả lời được và ngay phút sau ông đã tới.
Ông có vẻ rất xuống tinh thần và ốm yếu hơn thường lệ. Ngay khi vào, ông nói
ngay:
-- Thưa ngài, tôi không biết làm sao nữa. Tình
hình quá nguy kịch. Tôi biết rõ người Pháp sẽ không thương thuyết với tôi. Tôi
không được lòng tin cậy của Đồng Minh. Tất cả đều thấy tôi "đỏ" quá.
Tôi xin ngài hi sinh lần thứ hai: lấy lại quyền hành.
-- Tôi trả lời: tôi đã bỏ quyền hành và không
có ý lấy lại nó. Cụ biết, tôi không có tham vọng chính trị và tôi đã tự đặt
mình trong cái nhiệm vụ phải phục vụ một cách trung trực chính phủ Cộng hòa.
--Tôi để lại chỗ cho ngài, ông nhấn mạnh một
lần nữa, tôi sẽ là cố vấn của ngài.
-- Nhưng ai sẽ trao quyền cho tôi?
-- Ngài sẽ được Quốc hội tấn phong như trong
mọi chế độ dân chủ.
-- Tôi có được thành lập chính phủ như tôi
muốn hay tôi phải lấy lại những bạn hữu của cụ?
-- Ngài được tự do hoàn toàn, muốn lấy ai thì
lấy.
-- Nếu cụ thấy quyền lợi và độc lập của đất
nước đòi hỏi như vậy thì tôi sẽ không lẩn tránh. Nhưng tôi xin cụ một chút thời
gian để suy nghĩ và hỏi ý kiến các bạn bè của tôi. (tr 150)
"Ngay tức khắc tôi điện thoại cho Nguyễn
Xuân Hà (Nguyễn Xuân Chữ?) và Trần Trọng Kim và tôi nói:
-- Tôi có một đề nghị quan trọng muốn đưa ra
bàn với các ông. Nhờ 2 ông triệu tập bạn bè, tôi sẽ đến gặp.
"Đúng 8 giờ 30, tôi tới. Tôi kể với họ về
cuộc gặp gỡ với Hồ Chí Minh và đề nghị của ông Hồ. Tôi hỏi họ:
-- Các ông có nghĩ đó là cái bẫy không?
"Mọi người đều không tin và Trần Trọng
Kim nói rõ thêm:
-- Ai cũng biết là Việt Minh có liên lạc
thường xuyên với Sainteny và một thỏa ước với Pháp đang được sửa soạn. Nếu Hồ
Chí Minh không thiết tha ký nó thì đề nghị của ông Hồ là thành thực. Theo tôi
ngài nên nhận lời.
"Khoảng lúc 10 giờ, Hồ Chí Minh lại gọi
tôi nữa và hối thúc tôi nhận lời.
-- Ngài đã gặp bạn hữu của ngài chưa? Xin ngài
đừng mất thì giờ và đến Quốc Hội càng sớm càng hay.
"Đúng 12 giờ trưa, tôi gọi điện thoại ông
Hồ và nói tôi nhận lời.
"Trước đó tôi biết là một người thân tôi
có tiếp xúc với thiếu tá Buckley, người của Tình báo Mỹ OSS. Ông này không ngạc
nhiên về đề nghị của Chủ tịch và hứa hẹn người Mỹ sẽ đứng trung lập vì là
chuyện nội bộ của Việt Nam.
"Điện thoại lại reo đúng 13 giờ. Hồ Chí
Minh yêu cầu tôi tới gặp. Khi tới, tôi thấy rõ ràng ông đã thay đổi thái độ.
Ông có vẻ đã trấn tĩnh lại, nói hơi ngượng ngùng:
-- Thưa ngài, xin ngài quên đi chuyện buổi
sáng nay. Tôi không có quyền từ bỏ nhiệm vụ vì tình thế khó khăn. Trao lại
quyền hành cho ngài bây giờ là tôi phản bội. Tôi xin lỗi đã biểu lộ sự yếu đuối
vì đã nghĩ trong những hoàn cảnh khó khăn này lại muốn trút mọi trách nhiệm lên
ngài. Sở dĩ tôi nghĩ ra đi là vì các đảng quốc gia chống đối thỏa ước mà chúng
tôi đang sửa soạn với người Pháp.
"Chuyện gì đã xẩy ra giữa 10 giờ và 13
giờ?
"Tôi không nghĩ sự quay ngoặt của ông Hồ
là do được Moscou cam đoan hỗ trợ qua phái đoàn Ba Lan, đại diện Liên Xô ở Hà
Nội. Đúng hơn là vì tướng Tiêu Văn, bị thuyết phục bởi những" lí lẽ (vàng)
kêu lẻng xẻng "(dịch chữ Pháp arguments sonnants et trébuchants) được Việt
Minh tung ra, nên đã nhờ chủ tướng của mình là Lư Hán làm áp lực xuống những
người quốc gia - đặc biệt là VNQDD - để những người này chịu tham gia chính
phủ. Như vậy nhũng người này phải chia trách nhiệm ký thỏa ước với Pháp và Việt
Minh không phải chỉ một mình vác gánh trước công luận. (tr 151)
"Bắt đầu từ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tôi
cùng làm việc để thảo bản thỏa ước trứ danh đó (Hiệp định Sơ bộ 6-3). Chúng tôi
gặp nhau mỗi buổi tối trong một tuần. Theo ông Hồ, nhờ thỏa thuận với Pháp, sẽ
tống khứ được bọn Tàu. Đó là mục tiêu chính của ông Hồ: loại Tàu ra để Pháp vào
thay thế. Nhưng đồng thời cũng thao túng Tàu để Pháp chậm đến và đòi Pháp phải
đưa ra tối đa những bảo đảm.
Thời gian ở Trung Quốc
và Hồng Kông năm 1946
"... Hồ Chí Minh, vừa mới được sự thỏa
thuận của tất cả các đảng phái cho Pháp trở lại, không muốn để sơ sót một thứ
gì nên quyết định gửi một phái đoàn đi gặp thống chế Tưởng Giới Thạch ở Trùng
Khánh. Ông gọi tôi đến và yêu cầu tôi, với tư cách là cố vấn tối cao của chính
phủ, dẫn đầu phái đoàn này mà thành phần là đủ mọi xu hướng. Ông có cảm tưởng
là những tướng lãnh Trung Hoa đã phản ông nên hi vọng với sự hiện diện của tôi,
và trong phái đoàn có nhiều thành phần, sẽ làm thống chế có thiện cảm với chính
phủ lâm thời hơn. Nhưng Trùng Khánh vừa mới thỏa thuận cho Pháp đổ bộ - Người
báo tin này cho Hồ Chí Minh là Sainteny - Và hơn nữa, Tưởng Giới Thạch vẫn chưa
công nhận chính phủ của chúng ta. Trong điều kiện này tôi thấy không nên nhận
nhiệm vụ. Tôi giảng giải với Hồ Chủ tịch:
-- Chuyện này hơi bất trắc. Căn cứ vào chuyện
vừa mới có sự thỏa thuận giữa Trùng Khánh và Pháp, nếu Tưởng Giới Thạch không
tiếp tôi thì cụ với tôi đều mất mặt.
"Hồ Chí Minh cũng thấy đúng; nhưng vẫn
giữ ý định gửi một phái đoàn gặp Tưởng Giới Thạch mà không có tôi.
"Hôm sau, tôi vừa mới ra khỏi nhà thì gặp
một tướng Trung Hoa ở cạnh nhà tôi cùng đường Hoàng Diệu. Ông ta có vẻ biết đề
nghị của Hồ Chí Minh với tôi nên đột ngột hỏi:
-- Thưa ngài, ngài không muốn qua Trung Quốc?
Thật là đáng tiếc, ngài nên lợi dụng cơ hội này, dù chỉ là để đi du lịch nước
tôi...
Rồi ông ta nói, nửa bỡn cợt, nửa nghiêm trang:
-- Với lũ điên, không biết cái chi có thể xẩy
đến!
"Cái câu cuối cùng này khiến tôi nghĩ
không phải ông ta gặp tôi tình cờ mà là có ý đưa cho tôi lời mời của Tưởng Giới
Thạch.
"... Hôm sau tôi đến Phủ Thủ tướng (Bắc
bộ phủ) gặp Hồ Chí Minh và nói:
"Cụ không cần tôi ở đây? Đã có Giáp và
Đồng. Cho tôi đi qua Trung Quốc du lịch.
-- Ngài có thể đi thanh thản, ông Hồ trả lời
với vẻ bằng lòng. Ngài đừng lo ngại gì cả.
"... Tôi đi cùng với phái đoàn gồm 6
người: 4 đại diện Việt Minh, 2 VNQDD. (tr 153)
"Ngày 16-3-46, tôi rời Hà Nội. Chiếc máy
bay DC-3 cho chúng tôi đi theo có chừng một tá sĩ quan Tàu và chở đầy những hòm
lớn, chắc là đồ ăn cắp. Tụi nhà binh này này ngồi chỗ tốt nhất trong khi phái
đoàn tôi bị đẩy xuống ngồi phía dưới gần những thùng hàng. Tôi không quen biết
người nào trong số những người cùng đi với tôi, trừ một người tôi trông mặt hơi
quen quen. Tất cả đều đi máy bay lần đầu nên không giấu được sự lo sợ... Sau 3
giờ bay, máy bay hạ cánh xuống phi trường Côn Minh nằm ở độ cao 2000 mét. Máy
bay của chúng tôi không đi xa hơn được nữa. Chúng tôi phải đợi một tuần sau mới
có máy bay đi Trùng Khánh nên ngày 23 mới tới. Chúng tôi ở khách sạn "Bốn
mùa" lớn nhất thành phố. Tôi được ở một phòng rộng rãi còn 6 người đồng
hành phải chia nhau 3 phòng tồi tàn.
"Hai ngày hôm sau, tổng thư ký của Quốc
Dân Đảng đưa cho tôi giấy mời dự bữa ăn tối. Giấy chỉ mời hoàng đế Bảo Đại mà
không đả động gì đến phái đoàn. Một xe đến đón tôi ở khách sạn. Chan, thư ký
QDD tới đón tôi. Ông này là cựu sinh viên trường Dòng Tên Rạng Đông Thượng Hải
nên nói rất giỏi tiếng Pháp.
"... Tưởng Giới Thạch rất lịch thiệp.
Suốt bữa ăn ông tỏ ra rất am tường về tình hình Việt Nam. Chan làm thông ngôn
cho tôi.
" Trong suốt thời gian đó, phái đoàn phải
chờ hoài mà không được tiếp. Người trưởng đoàn nhờ tôi can thiệp để được Tưởng
Giới Thạch cho tiếp kiến. Tôi cố thuyết phục Chan, thư ký Quốc Dân Đảng:
-- Sự đoàn kết quốc gia đã được thực hiện ở
Việt Nam. Phái đoàn đi cùng với tôi gồm những người đại diện 2 đảng lớn đang
nắm quyền. Tất cả đều là những người bạn của Trung Quốc.
-- Thưa ngài, Chan trả lời tôi, trong phái
đoàn có những người cộng sản và những người cộng sản không thể nào là bạn của
Trung Quốc được...
"Rút cục, sau nhiều ngày chờ đợi phái
đoàn cũng được tiếp. Nhưng để không có tính cách chính thức, phái đoàn được
tiếp trong một ngôi chùa cổ ở ngoài thành phố.
"Phái đoàn trở về hoàn toàn thất vọng.
Tưởng Giới Thạch chỉ để đủ thời giờ cho phái đoàn đọc thông điệp của chủ tịch
Hồ Chí Minh. Rồi, sau lời cám ơn cụt ngủn, Tưởng Giới Thạch tuyên bố là Trung
Quốc, nhờ góp phần vào sự chiến thắng của Đồng Minh, đã có một chỗ ngồi giữa
"Tứ cường", muốn quanh biên giới chỉ có những nước bạn.
"Vài ngày sau, tướng Marshall, thay thế
tướng Hurley, muốn gặp tôi. Tôi tới gặp ông ở văn phòng. Ông rất chú ý đến Việt
Nam và muốn chính tôi kể lại cuộc cách mạng đã xẩy ra như sao khiến Việt Minh
nắm được quyền hành.. Tôi nhắc lại những biến cố xẩy ra hồi tháng Tám và tháng
Chín năm ngoái và nhấn mạnh vào điểm là không có những xung đột và không có khó
khăn gì trong sự thay đổi quyền hành ở Hà Nội. Tôi cũng nói là tôi đã tự rút
lui để không có đổ máu. Tôi cũng nhấn mạnh vào sự hòa hợp trong tân chính phủ
do Hồ Chí Minh thành lập và sự ông quyết tâm thực hiện độc lập và thống nhất,
hai khát vọng mà cả dân tộc Việt Nam cùng chia xẻ.
"Tướng Marshall có nhiệm vụ hòa giải
Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông, đặt tôi câu hỏi:
-- Ngài nghĩ thế nào về Quốc Dân Đảng?
-- Thưa Đại tướng, tôi biết rất ít và không rõ
nhiều để có thể có một phán đoán có giá trị. Nhưng tôi thấy những thủ đoạn,
những mưu toan của các tướng lãnh và của những người của họ ở Bắc Việt ngay khi
họ mới tới, thì tôi thấy chả có gì là sáng láng. Tôi sợ cả Trung Quốc đều như
vậy.
"Chúng tôi chia tay nhau sau câu nói này.
"Nhiệm vụ thất bại, phái đoàn sửa soạn
trở về Hà Nội. Tôi quyết định cùng trở về. Ngày 15-4, máy bay xuống Côn Minh.
May mắn hơn khi đi, chúng tôi có ngay máy bay đi Hà Nội.
Khi chúng tôi sắp lên máy bay thì có người đưa
cho tôi tin nhắn của Hồ Chí Minh:
"Thưa ngài, mọi sự ở đây đều tốt đẹp, xin
ngài cứ thư thả ở lại. Vả lại, sự hiện diện của ngài ở Trung Quốc rất hữu ích
cho chúng ta. Đừng ngại ngùng gì cả. Khi nào tôi thấy là ngài cần về, tôi sẽ
báo. Xin ngài nghỉ ngơi cho khỏe để còn làm nhiều nhiệm vụ đang chờ đợi chúng
ta. Ôm hôn thân ái. Ký: Hồ Chí Minh. (tr 156)
"Chủ tịch không muốn tôi trở về. Tôi chào
từ biệt phái đoàn. Khi máy bay chỉ còn là một chấm nhỏ ở chân trời, tôi đứng một
mình trong căn cứ cũ của không quân Mỹ. Ngồi trên bậc cầu thang của phi trường,
tôi điểm lại tình hình: không những tôi trơ trọi một thân một mình mà còn hoàn
toàn cùng quẫn, không có một đồng xu dính túi. Vali của tôi nằm trong hầm để đồ
của máy bay, khiến tôi không có quần áo để thay và cũng không có giấy tờ hay hộ
chiếu... Tôi đọc lại câu "Ôm hôn thân ái" của Hồ Chí Minh mà không
thể không mỉm cười: Thật là một đại kịch gia! Khi thì săn sóc như một người
cha, khi thì đầy trìu mến, ân cần, biết lợi dụng cái giáng điệu mảnh dẻ yếu ớt
của mình, khi thì tỏ ra đầy uy quyền. Thật là không thiếu trào phúng... Tất cả
ai gần ông lúc ban đầu đều bị nhầm, bị lừa... Người Mỹ, Sainteny, và chính tôi
đây... Thật ra sự hiện diện của tôi làm ông vướng víu. Đó là lí do tôi phải đi
Sầm Sơn và bây giờ là tôi phải lưu vong.
"Khi tôi đang trầm mình trong suy nghĩ
thì có người tiến lại gần tôi. Một người Trung Hoa mặc âu phục bằng trạc tuổi
tôi. Ông ta cười và hỏi tôi:
-- Ông biết nói tiếng Pháp?
-- Rất mừng có người nói chuyện, tôi trả lời:
Biết chứ.
-- Tôi tên là Yu, cựu luật sư ở Paris.
--Tôi cũng học ở Pháp, tên tôi là Vĩnh, sinh ở
Việt Nam. Tôi đi du lịch qua đây bị lỡ máy bay.
-- Ông ở đâu?
Thấy tôi lúng túng, ông ta hiểu tình trạng của
tôi và không ngần ngừ đề nghị:
Ông đến ở nhà tôi. Tôi là con cựu thị trưởng
thành phố này. Cha tôi mới mất cách đây ít lâu, vì vậy tôi phải về. Nhà tôi khá
rộng, ông ở thoải mái.
"... Nhờ sự rộng lượng của chủ nhà, tôi
sắm được quần áo trong một cửa hàng bán quần áo cũ của quân đội Mỹ. Tôi liền
thay bộ đồ mới mua được. Tôi ngạc nhiên trên đường về thấy lính tráng Tàu chào
tôi. Khi về đến nhà tôi mới hiểu là tôi mặc quân phục của đại tá không quân Mỹ.
Cả nhà đều cười ran và chúc mừng tôi đã lên chức.
"Có một bữa chúng tôi vào ăn ở một quán thì
thấy một thanh niên vòng tay kính cẩn chào:
-- Thưa Hoàng thượng, ngài còn sống?
"Đó là một thanh niên Việt Nam thuộc Đoàn
Thanh niên của Phan Anh nên có dịp thấy tôi khi đi theo Phan Anh vào thành nội.
Trước sự ngạc nhiên của Yu tôi phải giảng nghĩa vì sao tôi phải giấu tên. Không
những Yu không bực mình mà còn mời Bùi Minh (Bùi Tường Minh?) ăn cùng. Minh nói
phải trốn khỏi Hà Nội vì hoạt động trong đảng Đại Việt...
"... Với 2 người con của tướng Long Vân,
thống đốc tỉnh Vân Nam, cả 2 đều tốt nghiệp Saint Cyr, tôi cũng cho biết tung
tích của tôi và chúng tôi họp thành một nhóm bạn hữu rất vui vẻ.
"... Tôi không nhận được tin tức gì ở Hà
Nội mặc đầu tôi có cho Hồ Chí Minh biết chỗ tôi cư ngụ. Bây giờ tôi biết chắc
chắn là ông Hồ không muốn có sự hiện diện của tôi ở Việt Nam.
"... Tháng 9 tôi nhận được lời mời của
Chan, Tổng thư ký Quốc Dân Đảng tới Trùng Khánh.. Lạ thay Yu cũng nhận được lời
mời tương tự. Yu không tỏ vẻ ngạc nhiên vì cùng học với Chan ở trường Rạng Đông
Thượng Hải và thỉnh thoảng cũng được gọi về thủ đô. Yu xin đi cùng, tôi nhận
lời và 2 ngày sau chúng tôi lấy máy bay đi Trùng Khánh.
"Chan muốn mời tôi đến nhà ở, tôi cám ơn
và nói thích trở lại khách sạn "Bốn Mùa" hơn. Tôi lợi dụng sự rảnh
rỗi để tiếp tục đọc về Trung Quốc và đi đánh quần vợt lại.
"Đầu tháng Tám, Quốc Dân Đảng báo cho tôi
là có một người đồng hương sắp tới. Hơi ngạc nhiên tôi tơi phi trường đón. Anh
ta chừng 30 tuổi, hình dạng không phải là một người Việt thuần túy.
"Khi ngồi trong xe anh ta nói:
-- Tôi là đại tá tình báo của quân đội Thiên Hoàng, tôi có phận
sự theo dõi những hành vi của Quốc Dân Đảng. Tôi sinh ở Nhật, cha Nhật mẹ Việt.
Tôi được gửi tới ngài với danh nghĩa là thư ký của ngài;
Chuyện khá tức cười, tôi không nín được đặt câu hỏi:
Chuyện khá tức cười, tôi không nín được đặt câu hỏi:
-- Tôi tưởng là những sĩ quan cao cấp Nhật đều
tự sát theo truyền thống võ sĩ đạo. Tại sao ông không làm?
-- Thưa ngài, những sĩ quan tình báo nhận được
lệnh cấm làm hara-kiri. Họ phải tiếp tục sống và làm việc cho tương lai của Đế
quốc Mặt trời. Khi tôi làm song phận sự, tôi sẽ trở về Sài Gòn theo ngả Manille
và đầu hàng quân đội Anh.
Bắt đầu từ ngày đó, anh ta không rời tôi nửa
bước.
"Chan, tôi gặp luôn luôn, nói với tôi là
Tưởng Thống chế sắp rời đô xuống Nam Kinh, rất hân hạnh mời tôi tới Nam Kinh.
"Cuối tháng Tám Tưởng Giới Thạch xuống
Nam kinh. Người thư ký "trung thành" của tôi cũng biến mất sau khi
làm xong phận sự. Yu cũng theo chính phủ bỏ Trùng Khánh và nài nỉ tôi đi cùng.
Tôi không muốn chút nào đi Nam kinh vì ngán thấu cổ cái bẩn thỉu của nước Tàu
và thật sụ là sợ cô độc. Tôi kiếm một nơi ẩn trú đồng thời cũng là trung tâm.
Tại sao không là Hồng Kông ? Yu đề nghị cùng đi với tôi vài ngày.
"8 ngày sau, ngày 15-9 chúng tôi bay đến
Hồng Kông. (tr 161)
" .. Chúng tôi giữ 2 phòng ở một khách
sạn hạng thường bên Cửu Long. Sau 2 tuần du lịch, Yu trở về Nam Kinh, hơi thất
vọng vì tôi không đi cùng, nhưng cam đoan với tôi là sẽ được Tưởng Giới Thạch
đón tiếp nếu tôi đổi ý.
"...Tôi lại sống cô độc với chút đô la HK
trong túi Yu đưa cho tôi. Chỉ ít lâu sau tiền hết, tôi phải tìm cách sinh sống.
Trong khi chờ đợi tôi đi dạo. Phần nhiều là đi bộ, hay đi xe buýt. Nhưng tôi
cảm thấy hoàn toàn tự do. Lần đầu tiên trong đời tôi có cảm giác như vậy. Trong
một bữa đi tản bộ, tình cờ tôi thấy trước một tòa nhà có bản đề "Ngân Hàng
Đông Dương".
"Sau một chút ngần ngừ và cũng không biết
tại sao tôi bước vào. Thật tôi đúng vào ngày gặp may! Khi vào đại sảnh, tôi
thấy ông Gany, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Nam Á. Ông nhận ra tôi tức khắc,
rất ngạc nhiên và nói ông mới tới Hồng Kông thanh tra và hỏi thăm tình cảnh
tôi. Nói vắn tắt tôi kể cho ông trường hợp nào tôi tới Hồng Kông và tôi không
có tiền. Tôi muốn ông ấy ứng ra cho tôi một chút. Ngay tức khắc ông ấy đưa cho
tôi chừng 2000 đô la HK. Vài ngày sau, cũng tình cờ tôi được biết hội Truyền
đạo Công giáo Pháp ở Nước ngoài. Hội này bằng lòng cho tôi vay một số tiền được
bảo đảm bằng tài sản của hoàng gia. Tôi không còn phải lo thiếu tiền nữa và tôi
dọn tới khách sạn Gloucester ở trên đường Queen's Road...
"... Cũng ở khách sạn này, vào khoảng
giữa tháng 11, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tới gặp tôi. Ông là giấm đốc những đoàn
thanh niên Nam bộ dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi làm bộ trưởng không
bộ nào của chính phủ Lâm thời tháng Tâm năm 1945 và bây giờ ông là đổng lý văn
phòng của Hồ Chí Minh.
-- Thưa ngài, tôi từ Quảng Châu tới. Tôi được
cụ Chủ tịch sai tôi đưa tin và gửi lời chào thân ái, đồng thời cũng xin ngài
nhận vật này: Từ trong cập ông lấy ra một cái tráp trong đó có nhiều nén vàng.
Với số vàng này tôi có thể sống được 2 tháng.
-- Nhờ ông cám ơn Hồ chủ tịch. Nhưng cho tôi
biết hành trình qua Pháp của Hồ Chủ tịch.
-- Hồ Chủ tịch tới Pháp ngày 21-10... Một
chính phủ mới "Đoàn kết quốc gia" được thành lập. Hồ Chủ tịch vẫn
kiêm nhiệm bộ trưởng bộ Ngoại giao. Giáp là bộ trưởng bộ Quốc phòng và Phạm Văn
Đồng vẫn giữ bộ kinh tế... Và chủ tịch vẫn muốn ngài làm cố vấn tối cao cho
chính phủ.
-- Xin ông cám ơn giùm tôi về sự tin cậy của
chủ tịch. Kể cho tôi những gì đã xẩy ra từ khi tôi đi Trung Quốc.
-- Ngài đã biết là, để thi hành Thỏa ước 6-3,
người Pháp đã trở lại... Chủ tịch đã gặp tướng Leclerc ở Hà Nội và Leclerc đã
ưng thuận chính phủ chúng ta đi Paris để cụ thể hóa nền độc lập và sự thống
nhất nước nhà.. Một buổi hội đàm đã diễn ra tại Đà Lạt ngày 17-4 để sửa soạn
cuộc hành trình. Nguyễn Tường Tam sẽ dẫn đầu phái đoàn, chung quanh có Giáp, Vũ
Trọng Khánh, Hoàng Xuân Hãn, Cù Huy Cận...Cũng có những người đại diện miền
Nam. Rất mau chóng, các đại biểu ta thấy ngay là người Pháp không thành thật.
Những gì là sự thật ở Hà Nội không còn như vậy ở Sài Gòn...Cuộc bàn cãi ở Đà
Lạt kéo dài đến tận ngày 11-5. Mặc dầu người Pháp không thật lòng, Chủ tịch đã
đi Pháp ngày 31-5, hi vọng vào sự gặp gỡ với chính phủ Pháp. Nhưng khi tới Pháp
thì chính phủ đổ, Pháp không còn chính phủ nữa! Nghiêm trọng hơn hết là ngay
sau ngày Chủ tịch đi Pháp, hôm 1-6, người Pháp thành lập ở Sài Gòn một chính
phủ lâm thời Nam Kỳ với bác sĩ Thinh đứng đầu. Đó là chứng cớ sự gian dối của
người Pháp....Sau một tháng rưỡi chờ đợi, Hồ chủ tịch quyết định trở về nước.
Tuy vậy, để chứng minh lòng thành thật và sự rộng lượng của dân tộc Việt Nam,
trước khi rời Pháp Chủ tịch đã ưng thuận ký với tổng trưởng Marius Moutet một
bản đồng tuyên ngôn thiết lập giữa Việt Nam và Pháp, một Modus vivendi (Tạm
ước).
"... Tôi cám ơn bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã
thuyết trình và nói:
-- Tôi thấy bản Tạm ước trù liệu có thể đến
tháng 1- 47 sẽ tiếp tục lại những cuộc bàn cãi đã bị bỏ dở ở Hội nghị
Fontainebleau. Bởi vậy tôi muốn ông nói lại với Hồ chủ tịch là tôi muốn trở về
Hà Nội vào lúc đó.
-- Thưa ngài, tôi nghĩ là Chủ tịch muốn ngài ở
lại Hồng Kông trong thời gian đó, vì Hồng Kông là địa điểm quan sát tốt nhất.
Dầu sao chăng nữa, Chủ tịch dặn ngài phải coi chừng bọn Pháp và những tụi Việt
gian được Pháp dùng để thi hành những thủ đoạn của nó. (tr 166)
"Đối với tôi, chuyện đã rõ ràng, Hồ Chí
Minh không muốn tôi: Ông đã đẩy tôi đi khi người Pháp trở lại và giữ tôi ở xa
trong khi có Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau. Ông không muốn có sự hiện diện
của tôi ở Hà Nội nếu cuộc thương thuyết với người Pháp bắt đầu lại.
"Vài ngày sau, gần như cả một phái đoàn
tới khách sạn Gloucester xin được tôi tiếp kiến. Từ Quảng Châu tới là 3 thủ
lãnh quốc gia, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam: VNQDD. Nguyễn Hải Thần: Đồng
Minh Hội. Những người này đã trốn khỏi Hà Nội từ tháng 7 để tránh bị Giáp truy
hại trong lúc Hồ Chí Minh vắng mặt. Nối tiếp sau đó là Trần Trọng Kim, cũng từ
Quảng Châu tới. Trần Trọng Kim hỏi tôi:
-- Thưa ngài, ngài tính thế nào?
-- Tôi đợi Hồ Chí Minh gọi tôi về.
-- Xin ngài đừng về Hà Nội, nguy hiểm lắm. Tại
sao ngài không đi Nam Kinh với Quốc Dân Đảng theo lời mời của Tưởng Giới Thạch?
-- Không, tôi không đi Nam Kinh. Quốc Dân Đảng
coi như là sắp tiêu tan rồi. Tưởng Giới Thạch không chống lại được áp lực của
cộng sản đâu và chẳng chóng thì chày, Mao Trạch Đông sẽ toàn thắng...
"... Tôi được giấy triệu tập của An ninh
Anh. Gặp Cảnh sát trưởng người Anh, tôi hỏi lí do. Ông ta nói: Từ ngày ngài tới
Hồng Kông tháng Mười năm ngoái, ngài thay đổi nhiều khách sạn. Chúng tôi biết
ngài là ai ngay từ đầu. Tôi nhận được lệnh phải bảo đảm an ninh cho ngài. Chúng
tôi dành cho ngài một cái biệt thự ở Repulsion Bay. Hai cảnh sát Trung Hoa mặc
thường phục sẽ túc trực bên ngài.
"... Từ khi tôi đến ở Repulssion Bay trên
đảo Victoria, biệt thự của tôi trở thành một cục nam châm thu hút khách viếng
thăm. Có những khách tới để đặt trước chỗ ngồi, có những khách tới để dò dẫm
cho Pháp hay cho nước ngoài khác... Tôi không có ảo tưởng gì khi bỗng nhiên
nhận được sự quan tâm của nhiều người: bác sĩ Phan Huy Đán, luật sư Đinh Xuân
Quảng, cả 2 thuộc đảng Xã hội, VNQDD có Trần Văn Tuyên, rồi bác sĩ Lê Văn
Hoạch, phó thủ tướng chính phủ Nam Kỳ, rồi Ngô Đình Diệm mà tôi nghi là con mắt
của Mỹ...(tr 171)
"... Ngày Toàn quốc Kháng chiến 19-12 đã
đẩy Việt Minh vào một cuộc chiến tranh du kích. Theo tôi đó là cái lầm lớn
nhất. Nhưng ai là người chịu trách nhiệm?
"Giáp chắc chắn là có một phần khi sửa
soạn cuộc Tổng tấn công. Nhưng hình như phút cuối cùng Giáp hủy lệnh đánh. Cuộc
tổng tấn công đã phá hoại đường lối chính trị được ấn định từ trước và đã đưa
đến một cuộc chiến tranh quá lâu dài.
"Nếu không có ngày 19-12-1946 thì gì đã
có thể xẩy ra ở Việt Nam? (tr 172)
Vài bình luận về những
sự kiện kể trong những đoạn dịch
1) Bảo Đại cũng như hầu hết mọi người thời ấy, chỉ nghe đồn chứ
không biết Việt Minh là gì, Hồ Chí Minh là ai.
Người biết nhiều về Việt Minh nhất là Tạ Quang
Bửu khi nói với Bảo Đại về Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội và Trần Văn Giầu ở Sài Gòn.
Nhưng ở Huế là ai? Ông Phạm khắc Hòe, ngự tiền văn phòng của Bảo Đại, được sai
ra ngoài Thành Nội hỏi tin tức ai là người của Việt Minh, trở về tay không. Dễ
hiểu: Việt Minh chánh cống còn ở Hà Nội, chưa kịp vào Huế. Người Việt Minh
chánh cống đầu tiên vào Huế là Trần Huy Liệu mà nếu xét kỹ lí lịch thì cũng chỉ
là cựu VNQDD trở cờ. Cù Huy Cận chỉ là kẻ theo đuôi.
2) Bảo Đại dù tây học, nhưng cũng như đa số người dân hồi ấy,
vẫn còn mê tín, tin là ông Hồ có được mệnh trời.
Hai câu sấm Trạng Trình "Bao giờ sen mọc
biển Đông (Nhật), cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi", được giảng là nhằm
triều đại nhà Nguyễn và "Đụn sơn phân giới... Nam đàn sinh thánh",
được cho là ứng vào Hồ Chí Minh. Những đồn đại về cụ Hồ mắt sáng như sao, có 2
con ngươi... đã áp đảo tinh thần ông Bảo Đại, khiến ông tự thấy phải thoái vị
để theo đúng mệnh trời. (tr119)
3) Ngay khi mới gặp ông Hồ ở Hà Nội, Bảo Đại đã bị ông Hồ mê
hoặc như cả triệu người dân Việt thời ấy.
Gặp ông Hồ lần đầu tiên, Bảo Đại đã có ấn
tượng tốt vì phong độ nửa đạo sĩ nửa nhà nho của ông Hồ. Nhưng cũng như 99% dân
chúng Việt Nam thời đó, Bảo Đại đã bị ông Hồ mê hoặc vì 2 chữ Độc Lập và Thống
Nhất. Ai cũng như ai đều cho Độc Lập là Tất cả: là thoát khỏi vòng bị trị, là
tự do, là thống nhất, là Bác Hồ, là Nguyễn Ái Quốc, là kháng chiến theo con
đường cộng sản. Cả triệu người Việt Nam nghe theo tiếng hô Độc lập của Bác để
bị dẫn vào con đường này rồi đi lần lần tới cộng sản.
4) Bảo Đại không có thiện cảm với những người quốc gia
Được mục kích những cảnh hỗn loạn ở Hà Nội gây
ra bởi những đám quân Tàu, Bảo Đại ghét lây những người quốc gia vì những người
này đã theo quân đội Tàu trở về Việt Nam, mặc dù trong số những người này có
người muốn tôn ông làm minh chủ để đối lại với Hồ Chí Minh.
5) Bảo Đại chỉ là phát
ngôn viên của ông Hồ
Mang tiếng là cố vấn tối cao, không thấy Bảo
Đại đưa ra ý kiến nào trong suốt thời gian làm cố vấn. Trái lại, những thông
điệp gửi cho các lãnh đạo nước ngoài, tuy mang tên Bảo Đại, nhưng đều do ông Hồ
tự thảo. Và khi đi cùng với ông Hồ gặp đại diện các nước Đồng Minh, những lời
tuyên bố của ông Bảo Đại cũng chỉ là những lời đã được ông Hồ mướm trước. Ông
Hồ chỉ dùng Bảo Đại như một phát ngôn viên và như một nhân chứng để khẳng định
với Đồng Minh là Bảo Đại đã tự trao quyền hành chứ không có sự cướp đoạt quyền
hành. Tuy vậy ông Hồ vẫn luôn luôn nghi ngờ Bảo Đại nên không bao giờ để cho đi
một mình. Bảo Đại trái lại vẫn luôn luôn tin tưởng vào ông Hồ, luôn luôn tỏ ra
trung trực với ông Hồ, ngay cả khi đã biết chắc mình đã bị bỏ rơi. Chứng cớ là
khi Phạm Ngọc Thạch tới Hồng Kông đưa cho mấy nén vàng, vẫn một mực hỏi khi nào
được ông Hồ gọi về. Thế mới biết sức hấp dẫn của ông Hồ mạnh đến chừng nào!
6) Đề nghị Bảo Đại thay mình là một mánh khóe của ông Hồ khi bị
chống đối về dự định ký với Pháp cho Pháp trở lại Việt Nam
Đề nghị này được Bảo Đại kể lại trong cuốn
"Rồng Nam" (tr 150 ). Tôi không thấy có tài liệu nào nói đến. Có nhiều
người cho là ông Bảo Đại bịa ra. Tôi, ngược lại, tin là có thật vì lí do sau
đây:
Để nắm trọn quyền hành trong tay, ông Hồ phải
tìm cách gạt những đảng phái quốc gia ra ngoài. Muốn vậy, phải làm sao đuổi
được bọn Tàu ra khỏi nước, khiến các lãnh tụ quốc gia từ trước tới nay vẫn dựa
vào Tàu, nếu không muốn bị thủ tiêu, chỉ còn cách bám theo Tàu, trốn khỏi Việt
Nam. Vấn đề là quân đội Tàu lấy danh nghĩa là được lệnh Đồng Minh vào Bắc Việt
để giải giới quân đội Nhật, sẽ ở ỳ không bao giờ chịu về. Muốn đuổi Tàu ra khỏi
nước, chỉ có cách là điều đình với Pháp, đem Pháp vào thay thế Tàu. Nhưng làm
như vậy ông Hồ sẽ mất mặt với toàn dân và Việt Minh sẽ mất chính nghĩa giành
độc lập. Các đảng phái Quốc gia, vì sự sống còn của mình, sẽ nhao nhao chống
đối, sẽ giành được chính nghĩa, huy động toàn dân đánh Pháp với súng ống của
quân Tàu giải giới Nhật để lại. Lực lượng Việt Minh hồi ấy thật ra cũng chả
mạnh hơn gì các đảng phái quốc gia tuy được phóng đại vì khéo tuyên truyền, sẽ
chỉ còn cách chạy ra khỏi nước. Nhưng đi đâu? Tàu Mao thì còn quá xa! Không có
lẽ lại trốn qua Pháp, nương tựa vào đảng Cộng sản Pháp?
Ông Hồ thấy chỉ còn một giải pháp là đưa Bảo
Đại lên thay mình. Tất nhiên là Bảo Đại sẽ chỉ là chủ tịch bù nhìn với một nội
các bù nhìn, còn mọi quyền hành thật sự vẫn nằm trong tay "Cố vấn" Hồ
Chí Minh. Trách nhiệm về chuyện ký với Tây, đem Tây trở lại sẽ đổ lên đầu ông
Bảo Đại hết! Ngoài ra, một khi ông Bảo Đại đã dính với ông Hồ, các đảng phái
quốc gia cũng không còn có thể tôn ông làm minh chủ thay thế ông Hồ trước mặt
toàn dân được..
Ông Bảo Đại mãi về sau mới hiểu lí do vì sao
có sự thay đổi của ông Hồ: Với vàng bạc của "Tuần lễ vàng", ông Hồ đã
đút lót tướng Tiêu Văn để viên tướng này nói với chủ tướng của mình là tướng Lư
Hán làm áp lực với các lãnh tụ quốc gia, đặc biệt là VNQDD, tham gia chính phủ
Hồ Chí Minh và cùng ký thỏa ước với Pháp. Không biết các lãnh tụ này được Tiêu
Văn thí cho bao nhiêu cây vàng. Nhưng đã tự đào hố chôn mình. Và ông Hồ thấy
"Giải pháp Bảo Đại" của mình không cần thiết nữa!
Nhưng ông Bảo Đại vẫn bị ông Hồ gài vào cái
bẫy "Thỏa ước 6-3" khi được ông Hồ cho cái hân hạnh mỗi tối cùng ông
thảo cái bản thỏa ước này. Lịch sử khó mà kết tội ông Hồ đã đem Tây vào vì tự
ông Bảo Đại đưa ra chứng cớ là đã cùng ông Hồ thảo bản Thỏa ước và các đảng
Quốc gia cũng há miệng mắc quai vì bản Thỏa ước có chữ ký của Vũ Hồng Khanh.
7) Còn một nghi vấn nữa: Bảo Đại, sau khi tham dự phái đoàn đi
gặp Tưởng Giới Thạch, đã cố ý ở lại hay bị ông Hồ bỏ rơi?
Có nhiều người cho là Bảo Đại đã lợi dụng tham
gia phái đoàn qua Tàu, trốn ở lại.
Tôi thì nghĩ ông Bảo Đại đã bị ông Hồ vắt
chanh bỏ vỏ:
- Nếu thật sự ông Bảo Đại muốn ở lại thì ngay
khi gặp Tưởng Giới Thạch đã xin ở lại, đã không can thiệp để phái đoàn của ông
Hồ được Tưởng Giới Thạch tiếp. Và nhất là khi gặp tướng Marshall, đã không
khẳng định chính phủ Hồ Chí Minh là chính phủ đoàn kết quốc gia được Hồ Chí
Minh thành lập với ý chí thực hiện độc lập và thống nhất, hai khát vọng của dân
tộc Việt Nam và đã không nói xấu chế độ Quốc dân đảng Tàu.
- Nếu thật sự muốn ở lại thì sao sau hơn 3
tuần ở Trùng Khánh (Từ 23-3 đến 15-4 ), lại theo phái đoàn đi Côn Minh để đổi
máy bay trở về Hà Nội?
- Chuyện sắp lên máy bay trở về Hà Nội thì
nhận được tin nhắn của ông Hồ nói ở lại, cũng khả tín. Chắc chắn là tin nhắn
này đã được ông Hồ viết từ trước và đưa cho một người thân tín trong phái đoàn
để phút cuối cùng mới đưa cho ông Bảo Đại, gây bất ngờ để ông Bảo Đại không kịp
phản ứng, không kịp nghĩ đến vợ con còn ở Việt Nam, quần áo không có, một xu
dính túi cũng không.
Chẳng qua là ông Hồ, sau khi đã lợi dụng đến
tận cùng ông Bảo Đại để làm lá chắn cho mình trước mặt Đồng Minh và đã ký được
thỏa ước đem quân Pháp vào thay thế quân Tàu, thì thấy đã đến lúc vứt vỏ vì đã
vắt hết chanh.
Kết luận
Ông Hồ đã 2 lần lầm lỡ:
Lần thứ Nhất: Ngay từ đầu năm 1946, để đuổi
Tàu Quốc, ông Hồ đã đề nghị Bảo Đại thay mình làm chủ tịch nước, điều đình với
Pháp để Pháp thay thế Tàu rồi lại trở mặt! Hậu quả: 8 năm chiến tranh chống
Pháp cho Tàu và đất nước bị chia đôi.
Lần thứ Hai nặng hơn nhiều: Đẩy Bảo Đại ra
khỏi nước. Nếu còn giữ Bảo Đại trong nước thì năm 1950 khi Mao chiến thắng tới
sát biên giới, để tránh phải phụ thuộc Tàu Cộng, ông Hồ có thể lấy lại cái
"giải pháp Bảo Đại" năm 1946 của mình, điều đình với Pháp. Không
những đã rút ngắn chiến tranh Việt Pháp được 4 năm, mà cái quan trọng hơn hết
là sẽ không có cuộc nội chiến kéo dài thêm 20 năm với 4 triệu người chết, với
hậu quả là đất nước ngày nay thuộc quỹ đạo Tàu không biết bao giờ mới thoát
khỏi! Đó là cái tội lớn nhất của ông Hồ đối với lịch sử.
Phong Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét