Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

MỘT NGƯỜI TÊN LÀ TRẦN VĂN BÁ - PHẦN 2

MỘT NGƯỜI TÊN LÀ TRẦN VĂN BÁ
DUYÊN ANH
CHƯƠNG 9
Mở đầu buổi mạn đàm, Lãnh Đạo 5, người miền Nam, vỗ vai Trần Văn Bá rất thân mật và rất kẻ cả:
- Tay cháu còn đau hả?
Chàng ngạc nhiên nhìn kẻ gọi mình bằng cháu. Ông ta già nua, tóc bạc phợ Có lẽ ông ta thuộc thế hệ trí thức miền Nam phiêu lưu Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Chì...
- Chú chơi thân với ba cháu. Thủơ nhỏ, ba cháu và chú cùng học một trường. Rồi chú theo cách mạng đi kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Chú ra Bắc, ba cháu ở lại miền Nam.
Chàng nói:
- Ông có nhiều kỷ niệm với ba tôi?
Lãnh Đạo 5 chớp mắt:
- Kỷ niệm thơ ấu. Ngày ba cháu bị bọn thằng Nguyễn Ngọc Loan sát hại, ở Hà Nội, chú biết tin ngay và chú đã khóc.
- Ông đã khóc?
- Đừng kêu chú là ông, xa lạ quá.
- Dạ, thưa chú...
- Chú xin phép Sở Công An đến đây thăm cháu.
- Cám ơn chú. Chú vẫn nhớ chú là dân miền Nam chứ?
- Tại sao không?
- Người miền Nam chân thật lắm.
- Đúng vậy.
- Và cháu tin chú vì chú là người miền Nam.
Chàng thừa hiểu Lãnh Đạo 5 muốn dùng đòn tình cảm gia đình để lung lạc chàng. Lãnh Đạo 5 không hề là bạn của thân phụ chàng. Do đó, chàng cũng chẳng cần hỏi tên ông ta, nguyên quán của ông ta, trường nào ông ta đã học với thân phụ chàng. Chàng giả bộ ngây thơ đóng vai cháu khờ với ông chú cộng sản.
-... Và cháu tin chú đã khóc khi hay tin ba cháu bị sát hại.
- Chú không nói láo.
- Cháu nghĩ thế và cháu muốn hỏi chú vài điều.
- Cháu cứ hỏi.
- Có phải chú ở trong ngành tình báo không?
- Chú phục vụ Ở Bộ Nội Vụ.
- Bộ Nội Vụ bao quát luôn công an và tình báo.
- Đúng.
- Vậy tức là chú hiểu nhiều chuyện?
- Những chuyện quan trọng thôi.
- Ai mưu sát nhà văn Chu Tử?
- Biệt đội của ta.
- Tại sao?
- Có hai lý dọ Một: Chu Tử nhục mạ Hồ chủ tịch. Nó đã dám ví thơ chúc Tết nhân dân của Hồ chủ tịch như cứt! Hai: Bắn Chu Tử để gây chia rẽ giữa báo chí Sàigòn với đám Thích Thiện Minh.
- Thích Thiện Minh, lúc đó, đang chống Thiệu-Kỳ?
- Nhưng y chống cộng sản luôn. Phải để báo chí Sàigòn đoàn kết lại đánh nát bọn Ấn Quang thì mới ve vuốt, dụ dỗ được Ấn Quang ủng hộ lập trường hòa bình của ta, ủng hộ lập trường giải phóng miền Nam của ta.
- Ai mưu sát Thích Thiện Minh?
- Biệt đội của ta.
- Tại sao?
- Để tạo mâu thuẩn trầm trọng giữa phật tử và ngụy quyền.
- Ai hạ sát Nguyễn văn Bông?
- Biệt đội của ta.
- Tại sao?
- Để tạo mâu thuẫn giữa dân sự và quân sự, giữa trí thức và quân phiệt.
- Ai sát hại Trần Văn Văn?
- Nguyễn Ngọc Loan nhận lệnh Nguyễn Cao Kỳ.
- Tại sao?
- Ba cháu chống bọn lưu manh lãnh đạo người miền Bắc. Chúng nó chụp mũ kỳ thị lên đầu ba cháu.
Chàng nhớ lại bối cảnh lịch sử miền Nam sau hiệp định Genève 1954. Ngô Đình Diệm có công dẹp các sứ quân Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên nhưng lại tạo ra sự bất ổn chính trị từ vở kịch trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Kẻ thoán nghịch Ngô Đình Diệm tạo dựng ngụy quyền gia đình trị gây cảm hứng cho lũ thoán nghịch vũ biền. Đất nước thê thảm từ đó. Người miền Trung, miền Bắc thống trị dân miền Nam thì được nhưng lãnh tụ là người miền Nam thì dân miền Trung, miền Bắc chống đối. Ông Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng, hết công giáo Hố Nai, Gia Kiệm, Xóm Mới của các linh mục di cư kéo quân lên dinh Gia Long đái bậy, ỉa bậy, lại đến phật tử Ấn Quang của các nhà sư miền Trung bao vây dinh Gia Long xa xả tiếng Bắc, tiếng Trung mà đả đảo người Nam! Thân phụ chàng đã tỏ thái độ chính trị. Và bị coi là người kỳ thị trong bộ ba Sửu-Hương-Văn.
-Không phải Nguyễn Ngọc Loan hay Nguyễn Cao Kỳ sát hại ba cháu đâu, chú ạ!
- Theo cháu, ai sát hại ba cháu?
- Vẫn chỉ là >
- Không, biệt đội của ta không nhúng vào máu của ba cháu.
- Vì có chú?
Lãnh Đạo 5 khựng lại giây lát.
- Vì... không có lợi gì cho Đảng cả.
Chàng cười:
- Cháu nghĩ cái chết của ba cháu rất có lợi cho Đảng. Đảng đã khai thác triệt để xác chết của ba cháu. Đảng đã tạo mâu thuẫn giữa người miền Bắc và người miền Nam. Đảng muốn làm sống lại tinh thần Nguyễn Phong Tân, tinh thần giá sống thù hận rau muống, tinh thần kỳ thị Bắc Kỳ tại Sàigòn. Đảng giết Trần Văn Văn rồi Đảng vu vạ cho Nguyễn Ngọc Loan. Đảng gây bất ổn chính trị Sàigòn.
Chàng nhìn thẳng vào mặt Lãnh Đạo 5:
- Bọn lãnh đạo Sàigòn không đủ gan sát hại người đối lập. Bọn nó sát hại cả trăm ngàn người mà đã không dám sát hại một người.
Lãnh Đạo 5 nói:
- Thằng Phạm Văn Liễu đã giết thằng Phạm Ngọc Thảo.
Chàng nhún vai:
- Thằng Thảo là gián điệp, không phải là chính khách.
- Cháu có quyền ngờ vực.
- Không ngờ vực, cháu quả quyết với chú cộng sản đã sát hại ba cháu.
- Và cháu thù hận cộng sản.
- Dĩ nhiên rồi. Nhưng nếu nói thù hận cộng sản thì vì cả dân tộc mà cháu thù hận.
- Cháu không lượng sức mình à?
- Sự trở về quê hương là đã lượng sức mình rồi. Kể từ lúc này, xin miễn chú, cháu. Nó lạc điệu và trơ trẽn. Ông là kẻ bắt tôi, tôi là tù nhân. Ông cứ thẩm vấn tôi theo cung cách của công an đi.
- Cũng được.
- Ông nên nhớ rằng ông không còn chất miền Nam nữa.
- Anh được chiếu cố tận tình mà chẳng chịu hiểu.
- Tôi không xin xỏ ân huệ.
- Anh ngoan cố và... ngu dại. Tôi nói cho anh rõ, ở Việt Nam không còn kháng chiến hay mật khụ Mật khu cũ của người cộng sản đã biến hết thành trại tập trung lao cải rồi. Còn kháng chiến mà bọn thằng Hoàng Cơ Minh rêu rao bên Mỹ, bên Nhật ư? Đó là thứ kháng chiến chiêm bao. Cái thật sự mà anh tưởng là có kháng chiến chống cộng thì chỉ là lũ phỉ, lũ giặc cỏ kết hợp bởi? lũ ngụy quân trốn trình diện hoạt động tít tắp rừng sâu. Còn nữa, bọn Fulro què quặt, ốm đói trông đội bố thí của chủ đồn điền Tây và đám Tin Lành Mỹ. Đó, kháng chiến chống cộng sản của anh.
- Vâng, kháng chiến chống cộng sản của tôi. Còn người dám đánh nhau với cộng sản là có kháng chiến.
- Fulro là kháng chiến?
- Đúng.
- Fulro là bọn phản phúc. Nó được lũ chủ đồn điền cà phê, trà, cao su nặn ra để chống phá Ngô Đình Diệm. Nó phô trương thanh thế khi Ngô Đình Diệm chết. Nó được thêm bọn mục sư Tin Lành Mỹ hà hơi tiếp sức và nó bị tên Nguyễn Khánh xua quân đánh dẹp. Bây giờ, nó được bọn bành trướng Bắc Kinh, bọn phản động Đài Loan, bọn chủ đồn điền Tây cổ võ phá rối an ninh tổ quốc.
- Fulro phản phúc là chuyện của Fulro nhưng Fulro chống cộng sản thì Fulro là bạn của tôi. Tôi chưa hề nghe nói Fulro tàn bạo mà chỉ nghe nói cộng sản bạo tàn. Fulro xứng đáng đòi hỏi tự do, bình đẳng. Dưới bất cứ một chế độ nào, ngụy hay phỉ, quyền sống của con người bị chà đạp thì bất cứ sắc tộc nào cũng được quyền vùng lên. Đó không phải là phản phúc. Ngụy quyền áp bức dân tộc thiểu số Tây Nguyên, Fulro cần tỏ thái độ. Phỉ quyền vẫn áp bức họ, họ cần chống đối. Khi đất nước có chính quyền, Fulro sẽ hòa giải và hết chống đối.
- Fulro đưa anh về?
- Ông muốn tôi nhận Fulro dẫn tôi về thì tôi nhận.
- Anh hoạt động với Fulro?
- Bất cứ tổ chức nào chống lại cộng sản một cách ngay thẳng và vì dân tộc, tôi đều muốn liên kết, nhưng tôi không nằm trong Fulro, cũng chưa liên lạc với Fulrọ Có điều...
- Gì?
- Ông đã thừa nhận, trong nước hiện nay, đang có kháng chiến chống cộng sản.
- Lũ ngụy quân, tàn quân ấy, hả?
- Dưới mắt ông, họ là tàn quân. Dưới mắt tôi và dân tộc tôi, họ là nghĩa sĩ, dũng sĩ.
- Lũ đó được bao nhiêu?
- Cộng sản khi mưu đồ cướp chính quyền được bao nhiêu? Hẳn ông đã đọc lịch sử thành lập quân đội nhân dân rồi. Các ông kiêu ngạo lắm. Hãy tiếp tục kiêu ngạo và chờ đợi ngày > thành nam châm thu hút toàn dân.
- Anh sống ở Pháp lâu rồi nhỉ?
- Vâng.
- Anh có biết Fulro nó có văn phòng đại diện ở Paris không?
- Nước Pháp tự dọ Ở Paris có cả Tòa Đại Sứ cộng sản Việt Nam nữa.
- Anh có liên lạc thường xuyên với Fulro ở Paris không?
- Không.
- Anh nói dối. Fulro gắn bó với chủ đồn điền Tây. Anh gắn bó với chủ đồn điền Tây luôn.
- Tại sao?
- Vì anh là con địa chủ, giai cấp được thực dân Tây chiều chuộng.
- Rồi sao nữa, thưa ông Lãnh Đạo?
- Tây đồn điền sai Fulro đưa anh về.
- Người ta đã bảo Trung quốc đưa tôi về, ông thì lại quả quyết Tây đồn điền đưa tôi về. Ngày mai, có người sẽ nói Mỹ đưa tôi về. Rất có thể, Liên xô cũng muốn đưa tôi về! Ông nhận ông là bạn học của ba tôi, rồi ông chửi giai cấp địa chủ. Ông muốn biết chắc chắn ai đưa tôi về không? Tôi khai đây: Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đưa tôi về đấy!
Lãnh Đạo 5 bực tức:
- Anh diễu cợt, hả?
Chàng nói:
- Thì hết người đưa sẽ đến lượt chủ tịch Hoàng Cơ Minh!
Lãnh Đạo 5 mím môi, rồi phát ngôn:
- Thằng giá áo túi cơm đó không xứng đáng đề cập. Một triệu thằng Hoàng Cơ Minh và một triệu phong trào kiểu phong trào của nó, chẳng làm bận tâm ai hết. Chúng tôi mong mỏi, và, nếu cần, hậu thuẫn cho bọn Phạm Văn Liễu, Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khắc Bình, Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy, Đặng Văn Quang, Lê Phước Sang vân vân tiếp tục chống đối chúng tôi. Tại sao? Vì những thằng khốn nạn đó càng chống cộng sản thì chính nghĩa cộng sản càng sáng chói. Tại sao? Vì chúng nó sớm muộn sẽ tranh giành quyền lợi, cấu xé nhau và bêu nhục nhau khiến đám dân di tản ghê tởm và hết tin tưởng chống cộng, kháng chiến. Người cộng sản không sợ bọn đã nắm quyền bính hay đã để lại những dấu ấn ô nhục ở Sàigòn. Mà chỉ sợ những người liêm khiết, nhất là, chỉ sợ những người tuổi trẻ như anh.
Chàng khích Lãnh Đạo 5:
- Tôi tưởng ông nên sợ Ông Phạm Văn Liễu!
Lãnh Đạo 5 cười nửa miệng:
- Phạm Văn Liễu là thằng Tổng Giám đốc Cảnh sát hạnh bét. Thời nó hét ra lửa là thời đặc công cộng sản vào tận Tổng nha, tận sào huyệt của nó mà bắn phá. Nó cũng đòi về nước giải phóng à? Bọn chúng nó về bằng mồm. Các anh mới dám về. Riêng anh là trường hợp cần nghiên cứu kỹ lưỡng.
Chàng đưa tay vuốt mái tóc bờm xờm, xoa cằm râu lởm chởm:
- Tại sao phải nghiên cứu tôi?
Lãnh Đạo 5 hiện lại khuôn mặt đôn hậu, giọng nói trầm xuống:
- Bá ạ, chú tin rằng chính cháu cũng không hiểu nổi cháu.
Chàng bèn đóng vai cháu khờ như lúc đầu:
- Có lẽ, chú nói đúng.
- Chú tự hỏi, một người như cháu, một người tuổi trẻ tiêu biểu của tuổi trẻ Việt Nam, chưa hề tham dự vào các cơ cấu chế độ thối nát ở Sàigòn, chưa hề ân oán gì với người cộng sản, tại sao cháu lại phải dấn thân vào cuộc mưu đồ lận đận? Cháu chưa có quyền bính, chưa mất quyền bính, tại sao đòi tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản? Bọn tướng tá Sàigòn, bọn tổng thống, bọn nghị sĩ, dân biểu, bọn lãnh tụ đảng phái xôi thịt, bọn chính khách lưu manh đầy quyền bính, đầy đặc lợi và đầy tội ác với dân tộc đã sợ hãi chạy cút khỏi đất nước và còn vô liêm sỉ hò hét đấu tranh chống cộng, cả thế giới sẽ hiểu, đã hiểu là chúng nó nuối tiếc quyền bính. Và thế giới ghê tởm chúng nó, để mặc xác chúng nó múa rối. Đảng và nhân dân ta coi chúng như lũ nhặng vo vẹ Không ai nể nang chúng. Không ai nể nang bọn đầy tớ của Mỹ, bọn tham nhũng khốn nạn, bọn làm giầu và hưởng thụ trên nỗi đau khổ của dân tộc. Nói tóm lại những thằng đó là những thằng chọc cứt không nên lỡ, chẳng bao giờ chúng nó có chính nghĩa cả. Ngay cả với lính Sàigòn cũ, dân Sàigòn cũ, bọn Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu, chỉ là bọn hút máu lính, đàn áp, bắt bớ dân. Cảnh sát là cò, là cớm, là lũ gian ác thiếu trái tim.
- Công an cũng vậy, thưa chú?
- Công an cách mạng thì khác!
Chàng cười. Lãnh Đạo 5 tiếp tục nói:
- Các đồng chí của chú đã rất thành khẩn đối với cháu. Chú nhắc lại: Cháu sẽ trở lại Paris ngày mai hoặc sẽ ở lại Việt Nam đến khi chết. Do đó, không có gì cần dấu diếm cháu. Tuổi trẻ trong nước đã gây ra nhiều bối rối cho Đảng và Nhà Nước. Tuổi trẻ ngoài nước cấu kết với tuổi trẻ trong nước nữa thì tình hình sẽ phiền toái. Cháu là thành quả chiến đấu âm thầm và lạc lõng của tuổi trẻ trong nước. Để cháu tự do hoạt động là gỡ ngòi bom. May mắn, đã kịp thời bắt cháu. Nhưng nếu cháu thú nhận tội lỗi, phản tỉnh, bom sẽ câm, phong trào tuổi trẻ chống đối trong nước, ngoài nước sẽ xẹp. Cháu là người có công với đất nước.
- Cháu sẽ viết tự khai?
- Đúng.
- Rồi cháu nhận tội gì?
- Tội ngây thơ bị bọn phản động quốc tế xúi dục phá hoại tổ quốc mình.
- Nhưng đã không một tổ chức nào xúi dục nổi cháu. Thưa chú, cháu tự nguyện. Vậy, cháu sẽ nhận tội yêu nước. Thưa chú, một người tự nhận mình là chú một người khác có nên > cháu mình làm điều trái với lương tâm không nhỉ?
- Dậy dỗ cháu biết sống.
- Cháu đang sống và đang học thêm cách sống ở tù ngục quê hương Việt Nam. Cháu nói thật với chú đây...
Lãnh Đạo 5 hớn hở:
- Cháu nói đi, Đảng đợi chờ một lời nói thành khẩn của cháu.
Chàng ngồi ngay ngắn, nhìn thẳng vào mặt Lãnh Đạo 5:
- Trước hết, tôi rất buồn vì đã đóng kịch gọi ông là chú. Sau hết, nếu tôi ngây thơ như các ông nghĩ thì hôm nay tôi không ngây thơ nữa. Cuộc chiến đấu đầy đủ ý nghĩa của tôi, cuộc chiến đấu đích thực của tôi, cuộc chiến đấu làm tôi say mê sống và say mê chết bắt đầu từ lúc mắt tôi bị bịt, tay tôi bị còng, chân tôi bị xích.
Lãnh Đạo 5 cụt hứng:
- Cuộc chiến đấu khởi sự và kết thúc trong bóng tối.
Chàng ngẩng đầu lên:
- Phải.
- Cuộc chiến đấu vô vọng.
- Không có cuộc chiến đấu nào vô vọng cả, trừ khi nó đi ra ngoài lý tưởng của dân tộc, trừ khi nó âm mưu cướp quyền bính để thống trị dân tộc, để đầy đọa dân tộc, để tước đoạt quyền sống của con người hay là nó âm mưu phục hồi quyền bính đã bị kẻ khác ăn cướp để tiếp tục làm băng hoại dân tộc, làm rã rời tổ quốc.
- Cuộc chiến đấu của anh có lý tưởng?
- Dĩ nhiên. Cuộc chiến đấu của tôi tạo dựng một chính quyền. Tôi chối bỏ ngụy quyền Sàigòn và phỉ quyền Hà Nội. Hà Nội là lũ ăn cướp. Sàigòn là bọn ăn cắp. Ăn cướp khoẻ hơn ăn cắp nên ăn cướp dẹp tan ăn cắp. Tuổi trẻ Việt Nam sẽ dẹp gọn lũ ăn cướp. Và khi đó sẽ có chính quyền.
Lãnh Đạo 5 đập bàn:
- Phải còng tay, xích chân anh kiểu khác anh mới hết lộng ngôn. Và anh sẽ quỳ lạy xin ăn năn sám hối.
Chàng đứng dậy:
- Hạnh phúc cho tôi là được nếm đủ kiểu còng cộng sản. Còn quỳ lạy ư? Người của các ông chứ không phải tôi! Ông nên nghiên cứu thêm Ngục trung nhật ký của Hồ chủ tịch.
Lãnh Đạo 5 vẫy taỵ Người công an bảo vệ đưa chàng về phòng.

CHƯƠNG 10
Bỗng nhiên, người ta dẫn chàng ra hớt tóc. Thợ hớt tóc, dĩ nhiên, là công an. Người thợ công an có vẻ rất chuyên nghiệp. Anh ta chơi những đường kéo thật điệu nghệ. Rồi anh ta tỉa mái tóc rậm bu của chàng bằng dao. Chàng phải ngồi hơi lâu cho anh ta o bế một cái đầu không giống những cái đầu khác. Người thợ cạo mặt, cạo râu, cạo ria chàng nhẳn nhụi. Anh ta rẽ ngôi, chải chuốt tóc chàng và đưa tấm gương nhỏ để chàng ngắm nghía. Chàng giật mình. Và chàng khoan khoái. Khuôn mặt chàng không còn là khuôn mặt chàng hôm nào lang thang trên những vỉa hè Paris nữa. Nếu so sánh khuôn mặt chàng với một thanh thép thì thanh thép ấy đã tôi. Người cộng sản luôn luôn tự hào về nhân vật Pavel trong Thép đã tôi thế đấy, cuốn truyện gối đầu được phép tự hào về Trần Văn Bá trong những tác phẩm nào đó mà các nhà văn sẽ viết về chàng.
- Anh bằng lòng nghệ thuật cắt tóc của tôi chứ?
Người thợ hỏi.
- Đẹp lắm. Chàng nói.
- Lần đầu tiên tôi được biểu diễn nghề mọn với anh.
- Với tôi?
- Phải.
- Tại sao?
- Anh hiểu rồi mà. Những phạm nhân khác được hớt tóc bằng tông đơ cắt lông cừu của Trung quốc và chỉ cần đưa vài nhát thôi. Râu ria của họ cũng đi tông đơ luôn.
Người công an đã nhận chỉ thị của lãnh đạo và nói lên sự chiếu cố của Đảng và Nhà Nước đối với chàng.
- Tại sao cần chiếu cố mái tóc tôi?
- Nghe nói anh sắp về Paris.
- Tôi về Paris?
- Nghe nói thế. Anh sẽ gặp lãnh đạo trung ương rồi anh lên máy bay.
- Lãnh Đạo, tôi chán gặp lãnh đạo rồi.
Người công an cười, tháo tấm khăn phủ người chàng rũ tung tóc và nói:
- Anh về phòng tắm gội đi.
Chàng được dẫn về phòng tắm gội. Người công an hớt tóc đưa gương cho chàng soi để chải tóc, rẽ ngôi. Người công an bảo vệ mang tới bộ quần áo không phải quần áo tù: Chiếc sơ mi ngắn tay màu trắng và chiếc quần màu xanh đậm. Một đôi xăng đan nhựa chế tạo ở Hà Nội.
- Anh thay quần áo khẩn trương rồi chúng tôi đưa anh đi gặp lãnh đạo trung ương.
- Ông Lãnh Đạo không đến đây nữa?
- Không.
Chàng thay quần áo mới.
- Anh thông cảm nhé, chúng tôi chỉ tuân hành chỉ thị.
Người công an bảo vệ còng tay chàng, bịt mắt chàng rồi dìu chàng ra chỗ xe đậu. Chàng không bị xích chân. Ngồi trên đệm xe, chàng biết đó là loại xe du lịch. Chàng ngồi giữa, hai người công an hai bên. Xe chạy một lúc, khoảng hai mươi phút thì rẽ vô sân đá sỏi lạo xạo rồi ngừng lại. Người ta mở cửa, dìu chàng xuống, đưa chàng leo cái tam cấp rồi cái cầu thang khá dài. Người ta bảo chàng ngồi. Chàng ngồi trên ghế đệm. Người ta tháo còng tay, cởi miếng vải bịt mắt chàng ra.
Chàng đã ngồi trong phòng làm việc của lãnh đạo trung ương.
Im lặng. Chỉ có mình chàng, căn phòng rộng rãi và tiếng máy lạnh thổi nhẹ. Cả nước đang thiếu điện. Thành phố Sàigòn cúp điện 5 ngày một tuần. Cần Thơ, Huế. Chỉ có điện vào những ngày lễ lớn. Nhưng điện lãng phí nơi đây, văn phòng ngài lãnh đạo trung ương. Chàng nhìn chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh treo trên tường, sau bàn giấy của lãnh đạo. Ngay dưới bức chân dung thần thánh là khẩu hiểu, là lời vàng ngọc của lãnh tụ khuyên > cần, kiệm, liêm, chính! Hai người công an đưa chàng vào văn phòng của lãnh đạo trung ương đã ra ngoài. Một lát, cánh cửa văn phòng mở. Lãnh đạo trung ương nhanh nhẹn bước vộ Ông ta còn rất khỏe mạnh tuy tóc đã bạc phợ Ông ta tươi cười, niềm nở:
- Bonjour Bá!
- Chàng đứng dậy, khẽ gật đầu. Lãnh đạo trung ương chìa tay:
- Mạnh khỏe chứ, Bá?
Chàng đưa tay bắt tay lãnh đạo trung ương và đáp:
- Cảm ơn ông, tôi vẫn khỏe.
- Ngồi đi, ngồi đi! Ông ta dục chàng.
Chàng ngồi.
- Nhớ tôi không?
Chàng lắc đầu.
- Cố nhớ đi, sẽ nhận ra tôi. Năm 1982 tôi có sang Paris, có gặp đông đủ sinh viên của ta bên ấy.
Chàng nhớ rồi. Lãnh Đạo trung ương là Mai Chí Thọ, cựu giám đốc Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh, chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố. Đó là chức tước nổi. Chức tước ngầm của Mai Chí Thọ là tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân phía Nam. Nhiệm vụ của ông ta là khống chế những phần tử trong Mặt Trận giải phóng miền Nam cũ dập tắt mọi chồng đối của Mặt trận giải phóng miền Nam ly khai, đàn áp các tổ chức phản động và kiểm soát các nhân vật của Mặt trận giải phóng miền Nam cũng như các nhân vật miền Nam tập kết còn được lưu dụng. Đúng nhất, nhiệm vụ của Mai Chí Thọ là thay mặt nhóm Hà Nam Ninh nắm gọn quyền bính ở miền Nam. Bộ chính trị trung ương của Đảng cộng sản đã chia bạ Một: Lê Duẩn và nhóm Thanh Nghệ Tĩnh. Hai: Trường Chinh và nhóm Hà Nam Ninh. Ba: Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng và nhóm đứng giữa. Năm 1982, Mai Chí Thọ đã thăm viếng không chính thức Paris sau khi qua vài nước Tây Âu xin xỏ viện trợ nhân đạo.
- Tôi nhớ rồi, chàng nói, rất tiếc đám sinh viên đã gặp ông không có tôi và anh em của tôi.
- Không sao, không sao cả. Anh nhớ tôi là đủ rồi. Với người cộng sản, hôm qua không giá trị bằng hôm nay và hôm nay không giá trị bằng ngày mai.Mai Chí Thọ nhấn nút chuông. Một người cán vụ bưng khay nước vào. Trên khay nước có bình trà, hai cái tách sứ, một gói thuốc. Stuyvesant, một cái bật lửa gaz. Người cán vụ rót nước. Y nâng một ly trịnh trọng mời Mai Chí Thọ và một ly mời chàng. Y bóc gói thuốc lá, đẩy nhẹ hai điếu mời chàng trước.
- Tôi không thích Stuyvesant. Chàng nói.
- Thuốc này từ Paris đem về đây. Mai Chí Thọ mỉm cười.
- Gout đó không hợp với tôi.
- Anh thích hút thuốc Mỹ?
- Không.
- Thuốc gì anh thích?
- Vàm Cỏ!
- Thuốc của ta?
- Vâng, thuốc trồng tỉa trên đất quê hương ta.
- Thuốc đen đắng lắm.
- Quê hương ta mãi mãi đắng. Tôi thèm nuốt và ngửi mùi đắng ấy. Tôi về để được hít hà mùi cay đắng của quê hương tôi. Và Vàm Cỏ, giòng sông đầy cảm xúc làm tôi nhớ những trận đánh của cha chú tôi thuở nào toàn dân kháng chiến chống thực dân bảo vệ độc lập.
Mai Chí Thọ sai người cán vụ lấy thuốc Vàm Cỏ mời chàng. Người cán vụ bước khỏi phòng. Chàng tự bóc gói thuốc, mồi lửa, thả khói và mơ màng nhìn theo khói thuốc.
- Luôn luôn tôi bị ám ảnh bởi những địa danh, những khu rừng, những giòng sông đã thấm máu của cha chú tôi cùng với máu quân thù. Ông còn nhớ tướng Nguyễn Bình chứ? Một anh hùng Lương Sơn Bạc năm xưa. Thuở xưa, thảo khấu biến thành anh hùng. Còn bây giờ, những kẻ tự nhận mình là anh hùng đã biến hết thành thảo khấu. Tôi yêu Nguyễn Bình lắm. Ông còn nhớ bài hát ca ngợi Bình Xuyên không?
- Bình Xuyên của Lê Văn Viễn?
- Không, Bình Xuyên của Nguyễn Bình.
- Không, tôi không hề biết.
- Tôi biết, dù tôi không hề ở thời điểm ấy. >
- Trí nhớ anh tốt quá. Nhưng anh nhắc chuyện cũ làm gì. Hôm qua không giá trị bằng hôm nay, tôi nhắc lại.
- Với tôi hôm qua là cảm hứng của hôm naỵ Ông hiểu tại sao không? Tại vì các ông đang miệt thị những người dám cô đơn chống trả các ông là phỉ, là bọn cướp bóc hèn mọn.
- Anh không bao giờ là phỉ cả.
- Nếu vậy tôi tự nhận tôi là phỉ trong ý nghĩ của các ông.
- Anh Bá, tôi mời anh đến đây không phải để nói chuyện ấy.
- Ông mời tôi?
- Phải.
- Ông ra lệnh còng tay, bịt mắt tôi?
- Này nhé, Bá, mọi sai lầm sẽ sửa lại tức thời. Còng tay, bịt mắt anh là một sai lầm thì sẽ không còng tay, bịt mắt nữa. Bắt nhốt anh là một sai lầm thì sẽ thả.
- Cảm ơn ông. Ông có biết tôi khinh bỉ thằng Nguyễn Văn Thiệu mức nào không?
- Tôi biết.
- Thằng văn nô nào viết cho nó một câu ngửi được, ông biết câu đó chứ?
- Nói đi!
- > Tôi đã nhìn.
- Anh có thấy biển máu như bọn khốn nạn rêu rao không?
- Không. Nhưng thay vì biển máu, cả dân tộc ngoi ngóp giữa đại dương nước mắt.
- Anh biết sau cách mạng tháng 10, Liên xô tàn sát bao nhiêu triệu người không, sau khi đuổi Tưởng Giới Thạch ra Đài Loan, Trung quốc tàn sát bao nhiêu triệu người không, Pol Pot, Ieng Sary tàn sát bao nhiêu triệu dân Khơ me không? Chúng tôi không tàn sát ai cả.
- Các ông chỉ lừa người vào nhà tù, trại tập trung để họ chết dần chết mòn.
- Nhìn cho kỹ, Bá! Lần lượt họ đã được thả về. Chưa hết nhưng quá 3 phần 4 rồi. Ngay cả những tên cảnh sát đặc biệt, mật vụ ác ôn chúng tôi cũng tha, cũng cấp xuất cảnh cho chúng nó sang ngoại quốc sống với vợ con chúng nó.
- Khi họ đã tàn tạ, kiệt lực?
- Tôi muốn anh nhìn cho kỹ rồi hãy phán xét. Cộng sản Việt Nam 1975 không còn là cộng sản Việt Nam 1956 nữa.
- Các ông đã tiến bộ.
- Đúng thế. Không tiến bộ thì Sàigòn đã biến thành > Không tiến bộ thì không bao giờ có ân huệ rời khỏi Việt Nam theo chương trình ODP. Không tiến bộ thì không bao giờ có vượt biển bán chính thức, vượt biển chui. Sông Bến Hải nhỏ bé so với Thái Bình Dương; Quảng Trị gần gũi so với Mã Lai, hãy so sánh tỷ lệ vượt tuyến từ 1956 đến 1974 và vượt biển từ 1975 đến 1984, so sánh đi, anh Bá. Đừng bảo chúng tôi sợ hãi sức ép của thế giới. Người cộng sản không kể những đứa chết trong các trại lao cải, những đứa được tha về vượt biên và ra đi chính thức. Con số chết không đáng kể so với riêng con số ác ôn được phép xuất ngoại. Chúng đều còn mạnh khỏe và ra khỏi nước là chửi bới, xuyên tạc om xòm, là tự nhận làm anh hùng trong tù ngục cộng sản. Chúng tôi đâu có sợ, vẫn tiếp tục tha và cho đi chính thức.
Mai Chí Thọ quả là con người nguy hiểm. Ông ta không hề đập bàn, không hề nặng lời. Ông ta bình thản, ngọt ngào, để muốn dồn chàng vào sự đầu hàng cay đắng. Chàng hớp một ngụm nước, hít một hơi thuốc, nhả khói và phản công:
- Có nhiều sự thật đến hôm nay vẫn còn là nghi vấn.
- Sự thật nào?
- Sự thật bức thư của Kennedy hứa với chủ tịch Hồ Chí Minh rằng sẽ không bao giờ xóa bỏ chế độ Hà Nội.
- Sự thật nào nữa?
- Sự thật về những trận không tập của Mỹ ở miền Bắc chỉ nhằm mục tiêu núi đá và rừng già. Vụ trải thảm B52 xuống khu phố Khâm Thiên qua 12 ngày, Hà Nội sẽ đầu hàng nhưng Mỹ chỉ trải thảm 12 ngày thôi, sự lôi dụ Hà Nội vào bàn hội nghị nghiêm chỉnh.
- Anh nói thêm đi.
- Sự thật về những âm mưu của Mỹ muốn khoán cho Hà Nội làm sen đầm Đông Nam Á: Sự thật về một thỏa hiệp Mỹ cấm các ông trả thù > Do đó, các ông không dám tàn sát và tha họ rồi nói chuyện nhân đạo, khoan hồng. Sự thật về âm mưu buông lơi các cửa biển để dồn dân vượt biển ngoài khơi cướp lột hết vàng bạc, châu báu, đó là vấn đề hải tặc Thái Lan giết giùm. Sự thật về...
- Những sự thật đó, Mai Chí Thọ chặn lại, không cho chàng nói nữa, anh chưa đủ kiến thức chính trị để hiểu đâu.
- Ông không thích nghe, có lẽ, đúng hơn. Tôi còn yếu ớt kiến thức chính trị, dĩ nhiên, nhưng tôi hiểu chắc chắn một điều: Các ông thích bắt người khác nghe sự thật do các ông nói mà sợ hãi sự thật người khác nói về các ông. Một số người Việt Nam ở Pháp, ở Âu châu và ngay cả dân chúng các nước không ưa Mỹ, phục các ông lắm. Tôi thấy các ông dở lắm, dở lắm.
- Dở thế nào?
- Vô cùng, vô số. Tôi nói một điều sai lầm thôi, một điều sai lầm muôn đời khó sửa, do từ sự kiêu ngạo của các ông.
- Anh thử nói tôi nghe.
- Các ông đã hủy diệt hết chất xám của miền Nam. Những bộ Óc thông minh của miền Nam hai mươi năm thu nhận mọi tinh hoa kỹ thuật, nghệ thuật của Tây phương, các ông đem nhốt hết vào tù rồi để họ trốn hết. Với chất xám của miền Nam cộng với chất xám của miền Bắc học hỏi từ Đông phương, các ông đã có một nền khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật Đông Tây tổng hợp để sáng tạo thành cái riêng của đất nước mà chẳng một quốc gia nào trên thế giới có nổi. Lòng thù hận và sự kiêu ngạo của các ông làm hư đại cuộc. Hóa cho nên các ông trở về thời kỳ đồ đá. Tôi xin nói thêm một sự thật mà ông cần nghe: Hai mươi năm miền Nam, dẫu quyền bính cai trị nằm trong tay bọn bất lương, không phải là đồ bỏ. Nó đã thăng hoa, đã có nền móng và từ nền móng của văn hóa nhân bản, nó sẽ vùng lên xóa bỏ các ông. Các ông cho người ra đi chính thức, vượt biển bán chính thức, lơi lỏng vượt biên chẳng phải vì cộng sản Việt Nam tiến bộ đâu. Mà là đề phòng một đứng dậy đập tan chế độ của các ông.
- Anh nguy hiểm thật.
- Ông cho tôi phục các ông một điều chứ?
- Điều gì?
- Các ông rất giỏi về sự đày đọa dân tộc và nói dối chuyên nghiệp. Không thể có hòa giải với các ông. Chỉ có một con đường duy nhất: Chiến đấu để chiến thắng.
- Và chết?
- Dĩ nhiên. Vì thế; tôi thấy chẳng muốn đàm thoại với các ông. Tôi không tin các ông thành thật với tôi. Với các ông, các ông không thành thật, nữa là với kẻ các ông coi là nguy hiểm. Sự thành thật và lương tâm cộng sản khó kiếm hơn cả gan ruồi, mật muỗi.
- Bá à, anh vẫn còn bị khủng hoảng. Chừng anh hết khủng hoảng, thái độ của anh sẽ thay đổi. Tôi kiên nhẫn chờ anh.
- Bao lâu?
- Năm, mười năm.
- Ông sẽ không có thời gian chờ đợi tôi đâu.
- Tại sao?
- Vì ông già rồi, ông sẽ chết trước tôi. Nhưng ông yên tâm, đã đến lúc tôi cần viết một cái gì đó.
- Trong tự khai?
- Vâng, trong tự khai.
- Tôi hy vọng khi yên lặng ngồi viết, anh sẽ suy nghĩ về cung cách đối xử của tôi với anh.
- Cám ơn ông đã không nghiến răng, đập bàn. Cám ơn ông đã không đánh đập, nhiếc mắng tôi.
- Anh sẽ về chỗ cũ của anh, không ai bịt mắt, còng tay anh nữa. Tôi đã nói hễ có sai lầm thì sửa sai ngaỵ Tôi cũng không cần anh phải tin tôi thành thật. Người cộng sản biết khinh bỉ và biết ca ngợi. Sự giã từ Paris về nước của anh và thái độ ngoan cường của anh đáng để tôi biểu dương. Tôi có thể ghét anh nhưng không khinh anh. Anh chống chúng tôi hoàn toàn sai lầm song anh đã chống bằng nhiệt tình và chỉ vì nhiệt tình mà thôi. Anh ngồi đây hút thuốc, uống trà. Tôi tạm biệt anh đi họp.
Mai Chí Thọ bắt tay chàng. Ông ta rời khỏi văn phòng. Chàng ngồi hút thuốc một mình khá lâu. Khi chàng tới đây là buổi chiều. Sau bữa ăn trưa, người ta bảo chàng ra hớt tóc rồi thay quần áo > đi gặp lãnh đạo trung ương. Chàng cảm giác đói. Nước trà đặc và khói thuốc làm chàng buồn ói. Chàng đứng dậy đúng lúc công an bảo vệ đẩy cửa vào, đưa chàng về nhà tù. Trời đã tối. Thành phố mù mịt vì nhằm đêm cúp điện. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm: > Chiếc xe du lịch chạy lòng vòng nhiều lối rồi vất trả chàng ở căn biệt thự hiu hắt ngoại ộ Cộng sản thật khó hiểu. Họ cứ vờn chàng mãi làm gì nhỉ? Họ muốn chờ đợi gì đó chăng?

CHƯƠNG 11
Cách mạng Tây Sơn theo sự hiểu biết của tôi
Chúng ta đã có giòng sông Gianh chia đất nước làm hai. Đàng ngoài của chúa Trịnh. Đàng trong của chúa Nguyễn. Tham vọng quyền bính đã làm chúa Trịnh mờ mắt và đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh huynh đệ ngót nghét trăm năm. Phiêu lưu mù quáng và vô vọng của chúa Trịnh tạo ra đau khổ, lầm than cho dân chúng cả hai đàng. Chiến tranh làm nghèo đất nước. Của cải dồn hết cho những trò chơi giết nhau. Chiến tranh đẻ ra ngàn vạn tệ đoan. Sưu cao, thuế nặng. Bắt lính. Hối lộ. Tham nhũng. Guồng máy thống trị siết cổ dân chúng. Trái đau khổ khi chín mùi thì biến thành trái phẫn nộ. Và đó là nguyên do của cách mạng Tây Sơn. Đàng ngoài thối nát. Đàng trong thối nát, cơ cấu quốc gia nằm trong tay Trương Phúc Loan. Nguyễn Nhạc xuất hiện.
Nguyễn Nhạc là ai? Lịch sử không ghi rõ thân thế và sự nghiệp của ông cùng những sinh hoạt hàng ngày với bạn rượu. Tôi nghĩ, xuất xứ đời ông cũng giống Lưu Bang, người diệt Tần với Hạng Võ rồi diệt Hạng Võ mà lập ra nhà Hán. Lưu Bang được mô tả trong Hán Sở tranh hùng là một tên đình trưởng hạng bét. Đúng nghiã, y là tên phóng đãng mà chữ nghiã hôm nay gọi là du đãng. Lưu Bang lười biếng không chịu làm việc gì cả. Y thường ra quán, tụ tập bằng hữu, uống rượu say sưa, có tiền thì trả, không tiền thì quỵt. Y chọc gái trơ trẽn, phá xóm phá làng, dân chúng ai cũng ghét bỏ, khinh bỉ. Nhà Tần độc ác, bắt phu đi làm xâu triền miên. Lưu Bang trốn mãi không xong, đành phải gia nhập đám phu đi phá núi. Ngày thường, Lưu Bang nhát như cáy, hễ đánh nhau là bỏ chạy trước. Thế mà hôm leo núi, Lưu Bang dám mở miệng nhi nhô đòi diệt Tần Thuỷ Hoàng. Dân phu hoan hô Lưu Bang. Y can đảm, phóng lên phiá trước, chém chết con mãng xà. Dân phu phục lăn, bầu Lưu Bang làm minh chủ. Đó, Hán Cao Tổ trảm xà khởi nghiã một cách ngẫu nhiên chưa? Thừa thắng xông lên, Lưu Bang dẫn đám dân phu vây một huyện thành. Nhờ Tiêu Hà, Đằng Công nội ứng, Lưu Bang giết viên tri huyện, giải phóng cả huyện. Tiêu Hà là người tài giỏi, theo Lưu Bang luôn. Rồi đến cả Trương Lương cũng theo. Kế nữa là Hàn Tín và vô số anh hùng hào kiệt. Lưu Bang giải phóng Hàm Đan. Lưu Bang cho Hạng Võ chết nhục ở Ô giang. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế. Cái gì thôi thúc anh hùng hào kiệt phò Lưu Bang? Đó là quyền uy tự tạo. Một người muốn tự mình tạo quyền uy cho mình để thu phục người khác thì phải can đảm hoặc liều lĩnh và gặp thời cợ Nhiều người đã can đảm và liều lĩnh hơn Lưu Bang nhưng không làm nên sự nghiệp. Vì thiếu thời cợ Kinh Kha chẳng hạn. Người ta thường rè bỉu tướng Ba Cụt, cho rằng ông ta chưa từng học ở trường đào tạo sĩ quan nào. Tôi nghĩ quyền uy tự tạo của Ba Cụt đã cho phép ông tự phong tướng. Và ông can đảm hơn khối vị tướng được gắn lon trên đời này. Quyền uy tự tạo nó chứng minh giá trị đích thực của con người và nó thu hút nhiều người khác.
Vậy thì Nguyễn Nhạc, tự Biện Nhạc, chỉ là anh thu thuế ở một xã nhỏ. Anh rất chịu chơi, ham uống rượu với bạn giang hồ và hào sảng, đem tiền thuế thu của nhà giầu thù tạc bạn bè. Có thể, anh đã không thu thuế nhà nghèo. Nhờ sự hào sảng và tính chịu chơi của anh, bằng hữu giang hồ cảm phục. Anh bèn chơi bạo, lập mưu cướp huyện thành. Bằng hữu tán đồng. Biện Nhạc tự nằm trong cũi, nhờ bằng hữu hộ tống khiêng mình nộp cho tri huyện về tội tiêu hết tiền thuế. Tri huyện ngu dốt tưởng thật. Thế là Biện Nhạc cướp huyện, giải phóng sưu thuế, tạo cho mình thứ quyền uy để từ đó đi xa hơn. Nguyễn Nhạc mở đường cho Nguyễn Huệ. Anh em nhà Tây Sơn chơi đúng lúc vì dân chúng cả hai đàng cũng đều đã chán ghét chúa Trịnh, chúa Nguyễn. Anh hùng, hào kiệt, sĩ phu hướng về nhà Tây Sơn bầy mưu, lập kế. Tây Sơn diệt Nguyễn, diệt Trịnh, diệt xâm lăng Tầu mở một kỷ nguyên sáng tạo cho đất nước. Cái quyền uy tự tạo nó quyến rũ vô cùng. Nó đòi hỏi can đảm, liều lĩnh và thời cợ Nhưng những người can đảm, liều lĩnh không bao giờ là trí thức hay những kẻ đã thụ hưởng thừa mứa. Khổng Minh phò anh bán chiếu Lưu Bị. Trương Lương phò anh đình trưởng Lưu Bang. Phạm Tăng phò anh vũ phu Hạng Võ. Nguyễn Trãi phò Lê Lợi. La Sơn Phu Tử phò Nguyễn Huệ. Cao Ba Quát phò Lê Duy Cư...
Ở thời đại của tôi và ở đất nước tôi, mỗi cuộc dấy động có tính chất lịch sử, những người tiên phong hứng đạn và lưỡi lê đàn áp đều là những người không biết sợ hãi, những người mà cuộc đời quen gọi là dân anh chị, dân du đãng. Và họ đều là tuổi trẻ. Tuổi trẻ ngoài đời và tuổi trẻ trong quân dội. Những người tuổi trẻ trí thức đứng sau họ. Rồi đến nhân dân. Bọn đạo diễn thủ lợi không bao giờ có mặt. Tại sao Phật giáo xuống đường tỏ thái độ vối nhà cầm quyền phải nhờ vả anh em giang hồ dẫn đường? Tại sao Công giáo xuống đường đòi hỏi quyền lợi phải nhờ vả anh em giang hồ mở lối? Tại sao cảnh sát muốn dẹp xuống đường cũng phải nhờ vả anh em giang hồ? Bởi vì du đãng có quyền uy tự tạo. Bởi vì mỗi đàn anh của họ đều có tinh thần đại cạ Tinh thần đại ca là gì? Là sự hào sảng, bao dung, chịu thiệt thòi vì đàn em. Từ ba mươi năm nay, ở miền Nam, tôi chưa thấy một lãnh tụ tuổi trẻ nào xứng đáng so sánh với một đại ca du đãng. Từ mười năm nay, ở châu Âu, châu Mỹ, tôi chưa thấy một lãnh tụ kháng chiến nào xứng đáng so sánh với một du đãng bình thường. Hãy hỏi ông chủ tịch một hội đoàn, một phong trào xem có bao nhiêu hội viên, bao nhiêu đàn em thân tín. Chẳng có ai thân tín cả. Nhưng một đại ca du đãng có hàng trăm đàn em. Đại Cathay có ba ngàn đàn em một lòng một dạ với đàn anh. Môt tay anh chị Ở một khu vực là một tổng thống trong bóng tối của khu vực. Bởi thế, không chứa nổi tâm hồn Đại Cathay nên, sau khi mời Bộ tham mưu của Đại về ngự Ở Ngã Năm Bình Hòa giao du với Đại úy Chi, Trưởng ban bài trừ du đãng, ông Nguyễn Ngọc Loan đã hạ lệnh bắt Đại đầy ra đảo và thủ tiêu Đại Cathay.
Tại sao cộng sản đã gom hết những tay anh chị có tiền án và những tay bị tình nghi anh chị vào các trại tập trung lao cải rồi đầy đọa chết dần, chết mòn? Vì họ sợ du đãng, sợ sự liều lĩnh của du đãng. Họ lo ngại du đãng sẽ phát động quần chúng xuống đường chống đối chế độ mới. Họ hoảng hốt khi cán bộ, bộ đội, công an của họ đã bị ám sát. Họ đề phòng du đãng cuốn hút mọi khuynh hướng phản kháng họ. Chế độ nào cũng nể và cũng ghét du đãng. Nhưng du đãng, họ là ai? Trước hết, họ là những người tuổi trẻ như những người tuổi trẻ khác với đầy đủ cái tốt và cái xấu. Hoàn cảnh xã hội, gia đình tạo họ thành những người phóng đãng. Xã hội hẹp hòi đã phán xét họ nặng nề, đã lấp hết lối về của họ. Họ trở thành du đãng. Dưới mắt thành kiến của xã hội, du đãng là hạng người xấu xa nhất, tồi tệ nhất. Xã hội đồng hoá du đãng với bọn cướp giật đê tiện. Xã hội mù lòa không thể biết du đãng là những người tình cảm nhất, hào sảng nhất, giữ lời hứa nhất, dám nói và dám làm. Và làm là được. Một số người đã lợi dụng du đãng, lợi dụng sự can đảm và liều lĩnh của du đãng vào những mục đích xấu xa để họ mang tiếng. Tôi nghĩ, nếu du đãng có lý tưởng, nếu họ biết Lưu Bang là ai, Nguyễn Nhạc là ai thì thời cơ này dân tộc rất cần họ. Và tôi suy tư về cách mạng Tây Sơn.
Tôi không muốn đếm xỉa đến trí thức lưu vong nữa. Tưởng chừng như họ đã chết, dù họ vẫn còn sống. Những kẻ trốn tránh và sợ hãi thực tại, cố thu mình vào vỏ ốc mà mơ tưởng dĩ vãng huy hoàng, không dám dấn thân làm lại từ đầu, ta chẳng nên phí thì giờ nghĩ về họ. Bọn tướng tá đào ngũ thì tôi đã để lòng khinh bỉ. Lũ nghị sĩ, dân biểu bỏ cử tri đau khổ mà đi tìm sự an thân, càng đáng khinh bỉ. Tôi đã gặp trí thức kẹt lại. Họ hư đốn hết rồi. Sáng giá như kiến trúc sư Ngô Viết Thụ mà sau khi rời trại cải tạo, được cộng sản đoái hoài, cho sang Liên xô một chuyến, về nhà hót Liên xô như khướu. Trí thức hư đốn vào hết cái chuồng Hội Trí Thức Yêu Nước. Trí thức còn lương tri thì bải hoải, bạc nhược. Ngó trước, nhìn sau, tôi thấy chỉ còn tuổi trẻ đáng tin cậy. Tuổi trẻ Sàigòn hôm nay bất mãn và bất cần đời gấp ngàn lần tuổi trẻ trước 1975. Người tuổi trẻ tiểu tư sản lãng mạn rất nhiều ẩn ức và đang chờ cơ hội phóng những ẩn ức đó ra. Tôi còn biết tuổi trẻ Hà Nội muốn phá tung cái lưới chế độ chụp bủa lên thân phận họ. Ngay cả Võ Điện Biên, con trai Võ Nguyên Giáp, đã trở thành du đãng, sống ngoài vòng pháp chế xã hội chủ nghiã.
Tôi muốn vận động tuổi trẻ...
Chàng phải ngừng ở đó vì, tự nhiên, chàng nhức đầu ghê gớm. Rồi chàng lên cơn sốt. Chàng bỏ cơm. Người công an bảo vệ cho chàng ăn cháo, uống sữa. Bác sĩ của Sở Công An đến khám bệnh, chích thuốc. Mất ba ngày chàng mới lành mạnh. Chàng định viết tiếp > sang phần kỹ thuật vận động. Rồi thôi. Không nên để kẻ thù biết những điều họ cần biết. Cứ lơ lửng thế này, họ sẽ tưởng chàng khủng hoảng thần kinh đề cao du đãng. Một tuần lễ, tính từ ngày chàng gặp Mai Chí Thọ, công an bảo vệ gọi chàng ra làm việc. Vẫn cái bàn cũ, cảnh cũ, nước trà và thuốc lá. Khác một chút, lần này, thuốc là Vàm Cỏ và lãnh đạo trẻ trung. Chàng đặt tên lãnh đạo là Lãnh Đạo 6.
- Anh khỏi sốt rồi chứ, anh Bá?
- Cám ơn ông, tôi đã khỏi.
- Ngày mai tôi sang Paris công tác, anh có muốn gửi gì không?
- Gửi gì, thưa ông?
- Thư từ.
- Tôi biết ông không chuyển, ông sẽ bỏ vào hồ sơ của tôi, nên tôi không viết thư.
- Anh đa nghi quá.
- Ở đây, tôi chỉ còn tin tôi. Nếu ông muốn tôi tin ông, xin ông cho tôi gửi một thứ.
- Được. Cái gì?
- Một miếng cô đơn cho bạn bè tôi ỏ Paris chia sẽ với tôi.
- Bạn bè anh là ai, ở đâu?
- Ở Paris. Tất cả những người tuổi trẻ chống cộng sản.
Lãnh Đạo 6 cười:
- Đồng chí Mai Chí Thọ bảo anh bị crise!
Chàng cười theo:
- Có lẽ.
- Ta ôn chuyện Paris đi. Tôi đã ở trong phái đoàn hội đàm năm 1968 đến 1969.
- Ông yêu Paris?
- Yêu chứ.
- Tôi thì chỉ yêu Sàigòn.
- Anh không yêu Hà Nội?
- Tôi yêu Hà Nội hơn cả ông. Tại sao tôi không yêu bất cứ một thành phố nào của quê hương tôi nhỉ?
- Nhưng mà ta nên nói chuyện Paris.
- Tùy ý ông.
- Mùa này giữa thu Paris phải không, anh Bá?
- Phải.
- Có lần tôi vào vườn Luxembourg dịp khai trường và tôi nhớ Anatole France.
- Ông cũng đọc Anatole France?
- Tôi thích cuốn Livre de mon ami.
- Đoạn Anatole hồi tưởng ngày khai trường?
- Đúng.
- Tôi lại thích Thanh Tịnh.
- Anh khác tôi.
- Luôn luôn tôi khác ông. Ông đã đọc André Gide chưa?
- Rồi.
- Cuốn gì của Gide làm ông thích?
- Le retour de l'URSS.
- Tôi lại thích cuốn A la retouche sur mon retour de l'URSS.
- Cuốn đó phản động.
- Nhưng của André Gide, nhà văn mà ông thích.
- Anh Bá!
- Tôi nghe ông đây.
- Tôi muốn nói chuyện tâm cảm với anh.
- Thì ông cứ nói.
- Anh thích tạo mâu thuẫn. Tôi đến gặp anh nói chuyện Paris, không đến để thẩm vấn anh.
- Tôi không thích chuyện Paris. Ông nên nói chuyện Hà Nội, thành phố tôi ao ước tới.
- Anh sẽ tới Hà Nội.
- Vâng, tôi hy vọng sẽ tới Hà Nội.
- Giả sử ngày mai anh tới Hà Nội, nơi nào anh sẽ thăm viếng trước tiên?
- Chỗ Nhượng Tống gục ngã bởi những viên đạn hèn.
- Anh... Việt Nam Quốc Dân Đảng?
- Không phải đâu. Tôi yêu mến và cảm phục tài hoa của Nhượng Tống. Ông đọc bản dịch Nam Hoa Kinh của Nhượng Tống chưa?
- Chưa.
- Thế thì làm sao ông cảm nổi Nhượng Tống. Riêng bài Tựa của Nhượng Tống cho bản dịch đã làm tôi ngây ngất. Tôi nói ông đừng buồn nhé?
- Anh cứ nói.
- Cộng tất cả tinh hoa văn chương của lãnh tụ các ông cũng chưa thể so sánh với bài Tựa bản dịch Nam Hoa Kinh của Nhượng Tống.
- Anh nói quá đáng.
- Tôi nói theo ý nghĩ của tôi. Nằm trong tù, tôi có dịp nhớ lại bài Tựa ấy, và lòng tôi dạt dào cảm xúc. Tôi tưởng tượng tôi đang đứng ở Quảng Trị, ở một làng nghèo nhất Quảng Trị, Gio Linh chẳng hạn, ngước mắt nhìn lên phương Bắc, ngoảnh mặt quay xuống phương Nam. Trên miền đất khổ quê hương tôi, thời đại tôi, tại sao lại sẽ chẳng có dân tộc Kinh nhỉ?
- Anh lãng mạn quá đà!
- Qúa đà lãng mạn, tôi hình tưởng từ dân tộc Kinh, một Nguyễn Huệ mới đứng dựa lưng vào Trường Sơn nhìn ra biển Đông, vươn tay trái hất đổ triều đình nhà Trịnh, vươn tay phải hất đổ triều đình nhà Nguyễn; đạp chân trái, 20 vạn quân Thanh chết thảm, đạp chân phải, 2 vạn quân Xiêm chết nhục; mỉm nụ cười nhân ái, đất nước rực rỡ tự hào.
- Quả thật anh bị khủng hoảng thần kinh. Có lẽ, chúng tôi phải đưa anh vào nhà thương Chợ Quán.
- Ông đe dọa?
- Chữa bệnh cho anh mà gọi là đe dọa à?
- Đưa tôi vào nhà thương điên để tôi trở thành người điên thật sự! Các ông cứ việc đưa đi. Đó là quyền của các ông. Trước khi tôi hoàn toàn mất trí, ông nên nhớ điều này: Các ông, những người cộng sản Việt Nam đã mất gốc cộng sản rồi, các ông đang bơ vơ tội nghiệp. Tội nghiệp hơn nữa là các ông không biết mình đang bơ vơ.
- Anh Bá, tôi kiểm chứng từ lúc gặp anh tới bây giờ, chuyện của anh đúng là chuyện của người điên. Chúng tôi sẽ làm anh hết điên.
- Ông nói thẳng là các ông sẽ làm tôi chết.
- Không, anh sẽ sống.
- Tại sao các ông sợ tôi điên?
- Vì chúng tôi quý mến anh.
- Các ông sợ sự thật. Sự thật làm các ông cuống quýt nhất là chế độ của các ông sắp tàn rồi. Các ông đang ở đỉnh ngọn cây và cây thì đã trốc gốc. Cộng sản Việt Nam hôm nay có đến 12 giai cấp. Những giai cấp thiệt thòi nhất sẽ bứng gốc cây. Khi cách mạng Tây Sơn bùng dậy.
- Khẩu khí người điên.
- Tôi chưa điên.
- Anh chưa điên thì hẳn anh còn nhớ lời anh hứa với đồng chí Mai Chí Thọ.
- Tôi nhớ.
- Gì?
- Tự khai.
- Anh đã viết thự khai chưa?
- Rồi.
- Vậy thì anh chưa điên mà là ngông cuồng, dại dột. Tôi biết, trước sau anh cũng phải viết tự khai. Như thế; chúng ta có thể tiếp tục chuyện Hà Nội.
- Bằng Nhượng Tống?
- Được.
- Tại sao các ông nỡ ám hại một nhà văn mảnh mai và tài hoa như thế?
- Điều này đã thuộc về quá khứ.
- Tại sao các ông sát hại thi sĩ Vũ Hoàng Chương? Cũng thuộc về quá khứ chăng?
- Sai lầm hiện tượng.
- Còn bản chất, nhiều nhà văn, nhà thơ vô tội vẫn nằm trong các trại tập trung?
Lãnh Đạo 6 đứng dậy:
- Tôi muốn đọc bản Tự Khai của anh.
- Ông ta không trả lời câu hỏi của chàng. Vẫy tay, ông ta ra lệnh người công an bảo vệ:
- Dẫn anh Bá về phòng và đem bản Tự Khai ra cho tôi.
Người công an tuân lệnh. Cánh cửa khép lại. Chàng đoán trước những sự việc sắp xẩy ra sau khi người ta > những gì chàng viết trên những trang giấy trắng. Thản nhiên, chàng đợi chờ. > chàng thầm nghĩ thế.

CHƯƠNG 12
Ngay nửa đêm hôm đó, khi chàng đang ngủ, người ta mở cửa phòng và lay chàng dậy. Thái độ của người công an bảo vệ thay đổi hẳn. Thay vì những lời nói tử tế, y ra lệnh cho chàng. Trăng đã lu, mật đã đắng. Công an bịt mắt chàng, còng tay chàng, xích chân chàng đúng kiểu và đúng cách họ đã bịt, còng, xích ngày đầu tiên. May Chí Thọ sửa sai thế đấy. Cộng sản là cộng sản. Chỉ cần may mảy lương tâm và thủ tín, cộng sản hết là cộng sản. Công an lôi chàng rời khỏi căn biệt thự, ném chàng lên sàn xe. Không phải là xe du lịch nữa. Xe chở tù nguy hiểm. Chẳng cần đo lường thời gian, chàng nằm nghiêng trên sàn xe, mậc số phận dẫn chàng đến đâu thì đến.
Xe ngừng ở đâu, chàng không thể biết. Chỉ biết chàng đã bị lôi xuống, kéo đi lòng vòng khá lâu rồi bị xốc nách leo lên bốn tầng thang lầu. Và người ta đẩy chàng vào một căn phòng hôi hám. Cánh cửa sắt đóng lại. Im lặng tuyệt đối. Chàng nhích bước giật lùi tìm bức tường. Rồi chàng từ từ ngồi xuống. Mắt vẫn bị bịt chặt. Tay vẫn bị siết còng. Chân vẫn bị xích nghiến. Chàng nghe sự thinh không và ngửi mùi tanh nồng khó diễn tả nhưng dễ so sánh. Mùi tanh nồng giống hệt mùi chủ nghiã cộng sản!
Chàng đã hoàn toàn mất hết cảm giác sợ hãi. Đây không phải là nhà thương điên. Nếu là nhà thương điên thì hạnh phúc biết mấy. Chàng sẽ được gặp người. Ngót tháng nay, chàng gặp những hạng người mất tính người và chàng tha thiết gần gũi con người đích thực, dẫu là người điên. Tại sao người ta không dám nhốt chàng chung với những tù nhân nguy hiểm khác? Tai sao người ta không nhốt chàng ở một nhà tù đúng nghiã nhà tù? Một ông lãnh đạo đã giải thích rồi. Cộng sản luôn luôn sợ sự thật kể cả sự thật đã bắt nhốt chàng. Họ đã loan báo tin chàng bị bắt chưa nhỉ? Chắc chắn chưa. Họ sẽ lợi dụng một cơ hội tốt đẹp nào đó. Chàng không quên vụ Võ Đại Tôn. Võ Đại Tôn thiếu may mắn hơn chàng. Võ bị sa lưới ở biên giới. Chàng đã về tận quê hương. Ngâm mình dưới giòng sông quê hương và gặp gỡ, trò chuyện với người quê hương. Chàng may mắn hơn cả một bậc lão thành cách mạng thời Pháp đô hộ là lãnh tụ Lý Đông Ạ Ông Lý bôn ba ở Liễu Châu, giấc hương quan làm ông ngơ ngẩn những canh dài, ông tìm về thăm quê nhà. Nhưng ông chỉ được đứng bên đây bờ sông Kỳ Cùng- người Tầu gọi là sông Pặc Nậm - nhìn sang bên kia sông mà thương nhớ trong một bài thơ nặng tình non nước:
Ta đã về đứng bên bờ Pặc Nậm
Mặc heo mây vương vấn hồn cố hương
Khuất hàng cây lấp ló mấy ven tường
Hòa làn khói mơ màng bao nhớ ước
Cách giòng nước, ta là dân mất nước
Nước non ta, ai ngăn cản ta về
Thấy người quê không được tỏ tình quê
Rõ trước mắt mà tìm đâu cho thấy
Hãy thét lớn, hai bàn tay nắm lấy
Hãy xua tan quân địch của Rồng Tiên
Hãy làm cho người Việt được đoàn viên
Quê, Nước ở trong đáy lòng sông máu.
Võ Đại Tôn chưa được nhìn cả giòng sông quê hương mình. Người ta bắt Võ, giam nhốt Võ. Rồi hơn một năm sau, người ta đưa Võ ra tòa buộc tội Võ làm tay sai cho CIA, rêu rao cùng thế giới tội trạng Võ để Nguyễn Cơ Thạch có > sang Singapore giải thích tại sao cộng sản Việt Nam chiếm đóng Kampuchia. Cộng sản là bọn bưng bít sự thật nhà nghề. Họ không dại dột gì vinh tôn một anh hùng của những phe nhóm đối nghịch họ. Khi phải tôn vinh kẻ đối nghịch làm anh hùng, họ đã toan tính lợi cho họ nhiều và hại cho họ thật ít. Chàng mong họ tìm ra cơ hội châu báu của họ để loan tin chàng bị bắt. Không chàng không bao giờ muốn làm anh hùng cả, chàng chỉ muốn gia đình chàng, người yêu của chàng, bằng hữu của chàng biết rằng chàng đã về Việt Nam và đang nằm trong tù ngục cộng sản để chia sẻ nỗi đau khổ với dân tộc chàng. Thế thôi. Đơn giản và thành thật.
Mắt chàng bị bịt chặt đến nỗi không thể chớp được. Nhưng, khi người ta hồi tưởng, người ta chẳng cần mở mắt. Và chàng, tay bị còng chéo sau lưng, chân bị xích, mắt bị bịt, ngồi dựa vai vào tường tù, tưởng nhớ người thân. Chàng nhớ một tiệc rượu tưởng chừng một tiệc ly mà bằng hữu chàng không hề biết đó là tiệc lỵ Ít có dịp chàng thù tạc với bạn hữu. Chàng luôn luôn lẩn tránh mọi ồn ào nặng tính chất phô trương. Chàng nói ít, làm nhiều. Bằng hữu bảo chàng kín đáo. Người ngoài bảo chàng thiếu cởi mở. Song, bất cứ ai gặp chàng, nói chuyện với chàng đều có cảm tình với chàng. Trong tiệc rượu hôm ấy, bằng hữu đã ngạc nhiên thấy chàng cụng ly tất cả mọi người. Chàng đọc thơ và kể những kỷ niệm niên thiếu của chàng ở Việt Nam. Rồi tiệc rượu tàn, chàng chia tay bạn bè đi tìm người yêu. Đã quen tính chàng, không ai hỏi chàng sắp đi đâu, làm gì, bao giờ gặp nhau uống rượu nữa.
Chàng lang thang với người yêu gần nửa khuya, dẫn nàng vào Rubis, nghe Ngọc Hải hát Nghìn trùng xa cách, nhẩy với người yêu một bản tango rồi đưa nàng về căn phòng nhỏ bé của chàng. Chàng mở một chai champagne, cụng ly với người yêu:
- Đêm nay chúng ta thức uống rượu. Chàng nói.
- Anh có chuyện buồn? Nàng hỏi.
- Không.
- Anh uống từ trưa?
- Nhưng chưa đỏ mặt. Em không thuộc thơ Trần Huyền Trân đâu nhỉ?
- Vâng. Em không biết thi sĩ ấy.
- Những người có những tâm sự nào đó, lại thích sống cô đơn và ham uống rượu, đều phải thuộc thơ rượu của Trần Huyền Trân. Nhiều đêm anh uống rượu ở quán, về khuya, ra khỏi cửa trời lạnh, nâng cổ áo che gáy là anh ngâm câu: Rượu rồi nâng cổ áo lên cao.
Chàng sảng khoái:
- Rượu rồi nâng cổ áo lên cao...
Và tiếp:
- Nâng cổ áo lên cao để đi xa.
Chàng và nàng uống rượu, hút thuốc, nói chuyện thi ca, âm nhạc. Đêm bình an và tinh khiết. Năm giờ sáng, chàng đưa nàng về nhà nàng. Chàng hôn nàng từ biệt, hẹn sẽ tới đón nàng dịp khác. Sáu giờ, chàng có mặt ở phi trường. Bẩy giờ, chàng lên phi cơ bay tới một nước vùng Đông Nam Á. Bây giờ, chàng nằm đây, mắt bị bịt kín mít, tay bị còng, chân bị xích. Bằng hữu và người yêu không thể tưởng tượng nơi chốn chàng đang có mặt.
Hồi tưởng là một điệu ru êm ái. Điệu ru ấy đã ru chàng ngủ dựa vai vào tường tù ngục. Khi chàng thức giấc, chàng nghe rõ những tiếng ồn ào phía dưới. Có lẽ, trời đã sáng. Có lẽ, chàng đã được đưa đến một nhà tù nào đó của thành phố Hồ Chí Minh. Tiếng ồn ào không ngừng. Âm vang của nó nghe thật ma quái. Cánh cửa đã mở. Chàng nghe bước chân của công an. Người ta tháo miếng vải bịt mắt chàng ra. Chàng vừa hi hí mở mắt thì đèn pin đã rọi sát mắt chàng. Chàng vội khép mắt lại. Đau nhức. Người ta mở còng tay cho chàng.
- Anh nói anh tự do chọn lựa sự đau đớn phải không?
Người công an hỏi
- Phải. Chàng đáp.
- Anh sẽ thỏa mãn sự lựa chọn của anh. Hôm nay anh có thể biết chỗ dành cho anh rồi đấy. Hỏi đi!
- Tôi ở đâu?
- Chí Hòa. Biệt giam khu FG Chí Hòa! Tụi phản động nó quen gọi là ca sô! Phòng của anh, những năm trước đã nhốt thằng Nguyễn Việt Hưng, trùm phản động vụ nhà thờ Vinh Sơn. Từ phòng này, chúng tôi lôi nó ra bắn chết như con chó ghẻ. Anh hỏi nữa đi!
- Không có gì để hỏi nữa.
- Vậy mở to mắt ra mà nhìn!
Người công an hét lớn:
- Mở mắt ra!
Chàng nói:
- Tôi không thể mở lớn được.
- Tại sao?
- Vì anh bịt quá chặt và quá lâu.
Người công an cười gằn:
- Hừ, tưởng anh ngoan cường tới mức nào chứ! Lãnh đạo không thèm chấp thứ anh, anh được đà phét lác. Vào tay tôi, anh tới số.
Chàng nhỏ nhẹ:
- Anh không dám làm gì tôi đâu. Anh nhỏ bé lắm, tôi rất thương hại anh. Anh đâu biết Đảng và Nhà Nước của anh chờ đợi tôi có bốn tiếng...
Chàng nhấn mạnh:
- Bốn tiếng thôi nhé! Sám hối tội lỗi.
Rồi chàng chậm rãi:
- Tôi không sợ anh trả thù giùm lãnh đạo của anh đâu. Anh muốn tôi mở mắt, tôi mở thật lớn.
Chàng mở căng mắt. Người công an rọi thẳng đèn pin vào mắt chàng. Không thèm chớp mắt, chàng chịu đựng một thứ hình phạt nghiệt ngã.
Người công an tắt đèn.
- Tôi tự do mở mắt đấy nhé! Tôi tự do lựa chọn đau đớn đấy nhé! Thứ anh, chắc chắn, không dám, kể cả lãnh đạo của anh.
Người công an nín thinh. Y quẹt ánh sáng đèn pin chung quanh cachot.
- Anh iả, đái vào cái xô kẽm góc phòng. Mỗi tuần, cho anh đi tắm một lần. Khi đi tắm, anh xách xô theo đổ phân và rửa xộ Mỗi ngày anh có hai ca nước, hai bữa cơm theo tiêu chuẩn phạm nhân vi phạm kỷ luật. Anh nhìn rõ chưa?
- Rõ rồi. Tôi nhìn rõ cả chế độ cộng sản.
- Anh liệu cái mồm anh.
Người công an bước khỏi cachot, đóng cửa sắt, khóa kỹ. Cachot tối đen. Không có đèn ở cachot khu FG Chí Hoà. Ban ngày như ban đêm. Giữa trưa nắng chói ngoài trời, ở cachot FG, đưa bàn tay trước mắt mình cũng chẳng nhìn rõ. Cachot mà chàng nằm là cachot biệt lập nên không thể liên hệ với cachot bên cạnh hay cachot đối diện. Mỗi cánh cửa cachot có một ô cửa gió nhỏ. Muốn kiểm soát tù nhân sống, chết hoặc tự tử, công an rọi đèn pin qua ô cửa gió. Cơm nước đều được đưa qua ô cửa gió. Do vậy, ô cửa gió luôn luôn mở vừa tiện can phạm lao động đưa cơm nước vừa để tội nhân thở. Tội nhân như chàng, đích thân công an đưa cơm nước. Cánh cửa sắt chỉ mở mỗi tuần một lần cho tội nhân xách xô phân tiểu đi đổ và tắm rửa. Nếu bất chợt, cánh cửa sắt mở thì hoặc chấp pháp gọi tội nhân ra làm việc, hoặc tội nhân chết bệnh, hoặc tội nhân đập đầu tự tử, hoặc tội nhân bị dẫn đi thủ tiêu.
Chàng đã nhìn rõ cachot của chàng nhờ ánh sáng của ngọn đèn pin của người công an. Chàng biết chỗ cái xô phân tiểu ở góc phòng. Dù mắt rất nhức nhối, khó chịu, chàng vẫn dang thẳng hai tay, lê chân xích đi ngang. Chiều rộng của cachot quá dư soải tay chàng, khoảng 1 mét 20 phân gì đó. Chiều dài khỏi đo mất công. Chàng dơ tay lên cao, đụng trần cachot. Nền cachot nhớp nhụa, ẩm ướt. Hẳn nó đã đóng từng lớp phân tiểu của tù nhân nhiều chế độ. Chàng đã nghe kể về cái đỉnh cao tù ngục Chí Hòa. Bây giờ, chàng đã leo lên chót vót cái ngọn đỉnh ấy để đủ kiến thức thẩm định giá trị chịu đựng của những người trại viên học tập cải tạo và những người tù luân lạc khắp các đề lao thành phố. Nỗi khổ thường được nhân lên tùy cảm hứng khi người ta may mắn thoát ly nỗi khổ. Nỗi khổ thường cũng được thêu dệt, vẽ vời khi người ta may mắn giã từ nỗi khổ. Bởi thế, có anh tự ý dẫn xác đi trình diện học tập, ở trại cải tạo chỉ ngồi vẽ chân dung Hồ Chí Minh, kẻ khẩu hiệu thi đua lao động, không hề cầm cái cuốc, không hề đào bom, khiêng bom, lấp hố bom mà qua Mỹ vẫn thích làm dáng đau khổ viết hồi ký, so sánh chỗ ngồi vẽ với đáy địa ngục! Bởi thế, có anh bị bắt oan, nằm tù vài tháng chuyên nghề phát thuốc ghẻ cho các tù nhân khác, nhởn nhơ ngoài hành lang suốt ngày, sang Pháp, cũng viết về cái đề lao tép riu mà bảo đó là goulag Việt Nam! Thời đại của chúng ta, sau khi nhân danh tự do, dân chủ thì người ta nhân danh nỗi khổ. Kẻ nhân danh nỗi khổ để làm anh hùng tù ngục, để khỏa lấp sự đê tiện của chính y và để nhục mạ người khác. Kẻ nhân danh nỗi khổ để bước vào chính trường, để khua môi múa mỏ về lòng yêu nước và để tự mở đường làm tôi tớ cho ngoại nhân.
Nỗi khổ không bao giờ là đồ trang sức tiến thân, không bao giờ là món hàng rêu rao gạ đổi danh vọng. Nỗi khổ giúp con người tự nhìn y một cách chính xách, giúp con người biết thông cảm với tha nhân, biết sống cao thượng, biết chiến đấu. Nói tóm lại, nỗi khổ giúp con người truy nã bản thân mình, cả cái xấu lẫn cái tốt. Và, sau cuộc truy nã, con người có thể tự hào mình xứng đáng con người nếu mình loại bỏ nổi những nhỏ mọn, ti tiện, đố kỵ, chụp mũ thường hằng. Những kẻ thích nhân danh nỗi khổ là những kẻ chưa bao giờ trực diện nỗi khổ vàng mười, hoặc là những kẻ rỗng tuếch không thể nhìn thấy niềm bí ẩn trong nỗi khổ. Cũng vậy, những kẻ thích nói xấu người khác, thích bôi bẩn người khác đều là những kẻ tồi tệ nhất, dơ bẩn nhất; những kẻ bệnh hoạn không một chút tài năng hoặc chỉ có một dúm tài mọn; những tên sa đích núp trong bóng tối rình mò làm việc tồi bậy. Cuối cùng, nỗi khổ giúp con người khôn lớn, trang trải, thừa thãi thương yêu và dư dả tha thứ.
Đã có mấy ngày đầu tiên thử thách và chiến thắng nỗi khổ, chàng coi thường cachot FG Chí Hòa. Hạnh phúc cho chàng là các thứ lãnh đạo không còn quấy rầy chàng bằng những buổi mạn đàm tẻ nhạt. Ngày hai bữa, công an đưa cơm nước nuôi chàng qua ô cửa gió. Không có nước trà, thuốc lá, dĩ nhiên. Không có cả thịt cá, rau đậu nữa. Mỗi bữa, chàng được cấp một lưng ca cơm và lưng ca canh rau muống già nấu với muối. Người ta phát cho chàng ba cái ca nhựa, một cái muỗng nhựa. Ăn uống xong, chàng được phép giữ ca lại, chờ bữa sau có đồ nhận cơm, canh, nước. Ca, muỗng không có nước rửa, không có giấy lau. Tù nhân sống như thời ăn lông ở lỗ! Ca nước uống, chàng không dám uống hết, phải để dành cho việc rửa đít sau khi đi ỉa. Chàng đo thời gian bằng những tiếng kẻng tù. Một ngày, Chí Hòa đánh kẻng bốn lần. Lần thứ nhất: Báo thức sáng. Lần thứ hai: Báo ngủ trưa. Lần thứ ba: Báo thức trưa. Lần thứ tư: Báo ngủ tối. Hàng tuần, người ta dẫn chàng xuống phía sân khu FG đổ xô, rửa xô và tắm gội. Người ta dẫn chàng xuống vào nửa đêm khi tù nhân đã ngon giấc. Chàng mang chân xích xách xô phân tiểu lết xuống và leo lên bốn tầng lầu. Vẫn chân xích, chàng đổ xô phân, rửa xô rồi tắm gội, giặt giũ bộ quần áo không xà phòng. Chàng giặt quần áo, vắt hết nước rồi mặc vào mình. Đêm tắm là đêm chàng không ngủ. Chàng đứng cho quần áo khô và nghe từ trong hiu quạnh một nỗi niềm ray rứt khôn nguôi.
Chàng không sợ chết nhưng chàng thèm sống, khao khát sống vô cùng. Chàng thèm sống và ao ước được trở lại Paris một lần, một lần thôi. Để chàng nói cho bằng hữu và người yêu nỗi niềm ray rứt khôn nguôi chàng đã nghe từ trong hiu quạnh của tù ngục quê hương. Nếu nỗi niềm ray rứt có được ở những đêm cachot không ngủ, không thể ngủ, đứng cho quần áo khô mà mọi người cảm thấm, sự nghiệp giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị nghiệt ngã của cộng sản sẽ không còn là của người trong nước hay người ngoài nước, sẽ không còn của phe này nhóm nọ, sẽ không còn là của ngoài Bắc trong Nam. Sẽ là của tất cả những người Việt Nam lương thiện từng ôm những mũi tên cộng sản rướm máu tim oan. Chàng khao khát sống, vì thế. Một người tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện rời bỏ cuộc sống phồn hoa đất khách, rời bỏ tương lai tốt đẹp của mình để trở về quê mẹ vào tù, chân mang xích đứng trong bóng tối mù mịt và cô đơn mênh mông không ngủ, mặc quần áo ướt, chia sẻ nỗi đau sót và niềm tủi nhục với dân tộc mình, người tuổi trẻ đó xứng đáng là một biểu tượng gì nhỉ? Hãy hình tưởng chàng rồi cố ví chàng với thánh nhân cam chịu khổ một mình cho hạnh phúc dân tộc sẽ chẳng ai nỡ kết tội lộng ngôn. Thời đại của chúng ta rặt những anh hùng, liệt sĩ bất xứng, những anh hùng, liệt sĩ làm sai lạc định nghĩa anh hùng, liệt sĩ, chàng mới rõ mặt anh hùng. Chàng là thần tượng của tuổi trẻ hôm naỵ Chàng là bó đuốc dẫn lối. Chàng là ánh lửa nhận đường.
Với dinh dưỡng đốn mạt, với đầy đọa tinh thần và thể xác cùng cực, chàng phờ phạc, rã rời. Cachot biệt lập FG Chí Hòa, quan tài xi măng cho người sống, đã làm hao mòn chàng. Đôi chân chàng mang xích lỏng lẻo. Xích đã hết nghiến cổ chân chàng rồi! Tóc chàng rậm bù. Râu ria chàng tua tủa. Mắt chàng suy yếu dần dần. Một tháng. Hai tháng. Năm tháng. Bẩy tháng... Chàng quên đếm mấy trăm bữa cơm, mấy chục lần đổ xô phân tiểu, mấy chục bận tắm giặt và đứng thâu đêm chờ quần áo khộ Bỗng một đêm, đèn pin chiếu qua ô cửa gió rọi thẳng vào mặt chàng. Cánh cửa sắt mở rộng. Người ta bảo chàng đứng dậy. Mắt chàng lại bị bịt chặt. Tay chàng lại bị siết còng. Người ta điệu chàng đi nơi khác. Nơi khác chẳng mới lạ gì với chàng. Đó là căn phòng > chàng đã ở, đã mạn đàm với các nhà lãnh đạo của chế độ. Người ta hớt tóc, cạo râu cho chàng. Người ta cấp xà phòng thơm tắm gội. Người ta phát quần áo mới. Người ta cho ăn cơm tiêu chuẩn cũ. Người ta tặng thuốc lá. Chàng đã mượn cái gương của người công an hớt tóc soi gương mặt mình. Mắt chàng trũng sâu, thâm quầng. Da chàng trắng bệch. Thịt chàng mềm nhũn. Chàng nhìn mọi vật lờ đờ. Cộng sản không tra tấn. Phải, cộng sản không tra tấn. Nếu không sống bằng ước mơ, chàng đã gục ngã trong quan tài xi măng.
Lần này, người ta đưa cho chàng một tờ giấy và yêu cầu chàng thú nhận tội lỗi. > Chàng chưa viết. Người ta không dục. Chàng ăn rồi ngủ. Ngủ rồi tắm. Rồi chàng bỗng tương tư cái quan tài xi măng FG Chí Hoà, chàng bỗng thèm đứng không ngủ thâu đêm cho quần áo khô và nghe từ trong hiu quạnh cái nỗi niềm ray rứt. Nhờ hỏi ngày tháng người công an bảo vệ, chàng biết mình đã nằm trong quan tài xi măng 11 tháng. Mười một tháng chân mang xích, sống trong bóng tối cô quạnh, ăn ngủ chung với phân và nước đái, không nghe tiếng người nói, cười, khóc, chỉ nghe tiếng kẻng gầm gừ dọa nạt, chàng chưa điên là nhờ chàng biết ước mợ Chàng vừa khám phá một niềm bí ẩn mới. Sức chịu đựng của con người đã chế ngự hình phạt của thù hận.

CHƯƠNG 13
- Chắc anh không lạ gì về tôi cả?
- Vâng, ông thật sự nổi tiếng từ ngày được cưa đôi giải thưởng hòa bình Nobel với Kissinger.
- Anh nghĩ thế nào về giải thưởng ấy?
- Tôi thấy Hàn Lâm Viện Thụy Điển có tinh thần trào lộng thật cao.
- Tại sao?
- Vì ông là đại diện phe gây chiến tranh, Kissinger là đại diện lái buôn bom đạn.
Lê Đức Thọ mỉm cười. Nhân vật kỳ bí của Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, lá bài tẩy của nhóm Hà Nam Ninh sẽ lật ngửa trong ván bài theo Mỹ bỏ Liên xô tương lai, người sẽ nắm gọn quyền bính trong tay nếu Mỹ bật đèn xanh bang giao. Khai thác triệt để châm ngôn > người cộng sản tinh quái hơn người quốc gia và họ binh chính trị năm bảy đường. Người quốc gia thờ có một chủ nên khi bị chủ bỏ rơi là rã đám. Nam Việt Nam và Nicaragua là hai chứng minh cụ thể và nóng hổi. Là anh của Mai Chí Thọ, Đinh Đức Thiện, cả ba đều là con trai ông tổng đốc Nam Định Phan Đình Hoè, cả ba đều khước từ gia phả, thay tên đổi họ. Lê Đức Thọ gia nhập đảng cộng sản từ thuở còn làm học sinh trung học. Năm 1945, phát xít Nhật tin tưởng Thọ, giao cho Thọ một triệu bạc Đông Dương để Thọ lo giùm vụ trong đấy. Lê Đức Thọ ẵm triệu bạc trốn lên chiến khu Việt Bắc. Rất thông minh và kiến thức rộng nhưng Thọ không được Hồ Chí Minh yêu. Hồ Chí Minh chỉ tin yêu dân Nghệ Tĩnh. Bởi vậy, sửa sai cải cách ruộng đất năm 1956 là cai cớ để Hồ Chí Minh loại bỏ Trường Chinh thủ đoạn mà thay thế Lê Duẩn dốt nát, thiếu phẩm chất cách mạng. Bởi vậy, Tố Hữu, tên văn nghệ hạng bét đã chỉ đạo văn nghệ những Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Huy Cận, Thanh Tinh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Đình Thi, Phan Khôi. Sau vụ thảm bại Mậu Thân 1968, Hồ Chí Minh phát điên mà chết. Lúc trăng trối, không có Lê Đức Thọ. Và Hồ Chí Minh phều phào hỏi quần thần > Đến chết, Hồ Chí Minh vẫn lo ngại Lê Đức Thọ và vẫn coi Thọ là thứ > của Đảng cộng sản Việt Nam.
Lê Đức Thọ vang danh từ những cuộc > với Kissinger ngoài lề Hội Đàm Paris. Rồi cưa đôi giải thưởng hòa bình Nobel với Kissinger. Sau khi thôn tính miền Nam, Lê Đức Thọ ít xuất hiện trong những lễ lạc quan trọng. Mặc dù, Trường Chinh đang là nhân vật nổi bật của phe Hà Nam Ninh nhưng đầu óc của phe nhóm vẩn chỉ là Lê Đức Thọ. Thọ không hề tuyên bố gì về những đổ vỡ bang giao giữa Việt Nam với Trung quốc, giữa Trung quốc với Liên xộ Ông ta khẩu như bình, > nói chuyện với Hoa Kỳ một ngày nào đó. Hoa Kỳ đã chọn Lê Duẩn, Trung quốc chọn Hoàng Văn Hoan. Chàng không ngờ gặp gỡ Lê Đức Thọ.
- Anh can đảm lắm, người tuổi trẻ à!
- Cảm ơn ông.
- Cái gì đã làm anh can đảm?
- Ông muốn biết?
- Phải, tôi quý trọng những người thẳng thắn, can đảm dù những người thẳng thắn, can đảm chống tôi, muốn tiêu diệt tôi. Sự kiêu ngạo của người chiến đấu là biết chọn lựa kẻ đương đầu xứng đáng. Nào, người tuổi trẻ, cái gì đã làm anh can đảm?
- Cái quan tài xi măng!
- Tôi không hiểu.
- Ông Mai Chí Thọ hiểu.
- Anh nói rõ ràng đi.
- Cái cachot đốn mạt ở khu FG khám Chí Hòa.
- Tôi không hề biết nó ra sao.
- Ông nói đúng, vì có bao giờ ông quan tâm tới nơi nhốt những người Việt Nam cùng giòng giống với ông. Nơi ấy bóng tối âm u, ngày như đêm, tanh nồng, hôi hám, những người Việt Nam đang tay bị còng, chân bị xích, ngủ trên nền phân đóng lớp; ăn, uống, thở, mơ ước, thổn thức bên cạnh xô phân tiểu ruồi bò nhung nhúc. Nơi ấy, phẩm cách của con người bị xếp dưới hạng chuột bọ. Nơi ấy, tôi đã chết 11 tháng ròng rã và tôi sống còn. Và đó là cái đã làm tôi can đảm.
- Tôi biểu dương sự can đảm của anh. Tôi gặp anh vì anh can đảm. Đã chẳng hề có một can phạm nào được gặp gỡ nhiều nhân vật lãnh đạo như anh. Tôi được báo cáo rằng, nhiều thằng tướng ngụy đã miễn lao động mà vẫn than khổ; nhiều thằng đại tá cuốc đất vớ vẩn đã tưởng mình ở đáy địa ngục. Bọn đó, công an 17, 18 tuổi quản lý và giáo dục đủ rồi. Tôi ít thì giờ lắm, chúng ta không nên rong dài.
- Tôi cũng nản mạn đàm vô tích sự rồi.
- Anh có tin tôi đầy đủ thẩm quyền trả tự do cho anh và dễ dàng đưa anh trở lại Paris không?
- Tôi tin.
- Anh có muốn tự do không?
- Tự do hay là chết, tôi chọn lựa tự do của tôi và cái chết của tôi.
- Anh không cần chọn lựa.
- Tôi phải chọn lựa.
- Được, tùy anh. Tôi đã đọc Cuộc chiến đấu của tôi của anh rồi, bây giờ tôi hỏi anh vài điều. Tại sao anh chiến đấu?
- Thưa ông, tại sao ông chiến đấu?
- Vì hạnh phúc của dân tộc.
- Tôi cũng chiến đấu vì hạnh phúc của dân tộc.
- Chúng ta cùng mục đích.
- Khác. Tôi quốc gia chân chính, ông cộng sản.
- Thật khó nói chuyện với anh. Sự khẳng khái của anh không làm nên đại sự đâu.
- Bản chất của tôi là thế.
- Anh không biết lùi khi cần lùi à?
- Tôi chỉ biết tiến.
- Tiến vào chỗ chết là dại dột, là bất trí. Kiến thức của anh đâu?
- Trong tim tôi.
- Tim chưa đủ, cần óc nữa. Tim đi với não, anh hiểu chưa? Nếu tôi là anh, không bao giờ tôi bị nằm trong quan tài xi măng.
- Nhưng ông không bao giờ là tôi cả. Bởi vậy, có nhiều điều ông không khôn.
- Người cộng sản không sợ chết mà cần sự tồn tại. Anh hãy cố gắng nghe kinh nghiệm tù ngục của lãnh tụ cộng sản: Tất cả lãnh tụ cộng sản, từ chủ tịch Hồ Chí Minh đến tổng bí thư Lê Duẩn, nằm tù thực dân, phong kiến đều hèn hạ và chấp thuận bất cứ điều gì thực dân yêu cầu. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Không hèn hạ thì không có ngày làm lãnh tụ để đánh vô mặt kẻ thù. Người có chí lớn phải biết nuôi thù. Muốn mưu đại sự, cần gạt bỏ tiểu tiết. Ai cũng can đảm như anh, kẻ thù nó chặt hết. Có ai dám nói chủ tịch Hồ Chí Minh hèn hạ trong tù đâu? Khi đã trở thành lãnh tụ, cái xấu nhất sẽ biến thành cái đẹp nhất, và toàn dân tung hô.
- Ông nói hay lắm.
- Anh có đọc Đông chu liệt quốc không?
- Có.
- Anh nhớ tên họ kẻ cứu giòng máu cuối cùng họ Triệu đời Tần Lê Công không?
- Tôi quên.
- Vì quên nên anh không hiểu lẽ sống chết. Công Tôn Chử Cữu hỏi Trình Anh> Trình Anh đáp:> Công Tôn Chử Cữu nói:> Bèn nhận con mình là con chủ và xúi Trình Anh đi tố cáo để Đỗ Ngân Gia giết mình và con mình. Nhờ thế; Trình Anh mới cứu nổi Triệu Vũ và sau này mà chọn cái chết thì quá là bất trí.
- Ông luận lẽ sống chết làm tôi mở mang kiến thức.
- Anh mê Sử Ký của Tư Mã Thiên không?
- Tôi rất hâm mộ.
- Tư Mã Thiên vì khẳng khái bênh Lý Lăng mà chịu tội thiến, cái tội nhục nhã thời ấy. Nếu có tiền chuộc thì vua thạ Tư Mã Thiên nghèo mà đám văn hữu thì ngó lơ, chẳng đứa nào giúp. Tư Mã Thiên đành thọ nhục. Đám văn hữu chê trách đủ điều. Sau này, Sử Ký biện minh cho sự chịu nhục của Tư Mã Thiên thì đám văn hữu bèn ngoác miệng mà khen. Nếu Tư Mã Thiên tự tử thay vì chịu nhục, làm gì nhân loại có bộ Sử Ký tuyệt diệu đó. Anh vỡ lẽ sống chết chưa?
- Cám ơn ông.
- Anh có cảm nỗi Hàn Tín không?
- Tôi phục tài ông ấy.
- Còn ngàn vạn dẫn chứng về lẽ sống khó, chết dễ.
- Nhưng, thưa ông, tại sao ông lại mở mang kiến thức cho tôi về lẽ sống chết và kinh nghiệm tồn tại của người cộng sản?
- Vì cuộc chiến đấu của anh cũng là cuộc chiến đấu của tôi. Đó là lời tâm huyết và tôi tin anh không phản bội tôi. Tất cả những điều tôi nói với anh đều là tâm huyết. Anh đủ kiến thức, thừa thông minh, chịu khó suy nghĩ cho chín chắn. Tôi sẽ dồn mọi nỗ lực, tạo điều kiện đưa anh ra Tòa Án Nhân Dân công khai xử anh. Tôi nhắc lại: Lùi để tiến là kẻ có mưu trí. Sống để cứu dân tộc là bậc đại trí. Tiến vào chỗ chết là kẻ vô dụng. Chết khi chưa vận động xong cách mạng Tây Sơn là cái chết của cây cỏ.
Lê Đức Thọ vỗ vai chàng rồi chào tạm biệt. Công an bảo vệ đưa chàng về căn biệt thự ngoại ô bằng xe du lịch Peugeot 404. Khi đến và khi về đều không bị bịt mắt, xích chân, còng taỵ Và đi, về ban ngày nắng vàng rực rỡ. Chàng nằm ngửa mở mắt, nhìn lên trần phòng. > ông già tóc bạc phơ, tuổi để chừng hơn cả tuổi thân phụ của chàng, đã khuyên chàng thế. Ông già ấy, Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, kẻ kế nghiệp Hồ Chí Minh một ngày thật gần, đã truyền dạy chàng lẽ sống và kinh nghiệm ở tù của người cộng sản. Chàng rất cảm kích thái độ kẻ cả của Lê Đức Thọ. Ông ta đã phóng tới tấp vào tâm não chàng những đòn nhân nghĩa khiến chàng không kịp đỡ, không kịp phản ứng. Ông ta đưa chàng lên ngọn đỉnh núi cao rồi, bất thần, bỏ đi. Một nhà văn mà chàng gặp ở Paris năm xưa đã nói với chàng: > Nhà văn đưa ra một thí dụ cụ thể: Ý đang phô diễn trên nhật báo Nhân Dân. Hễ báo Nhân Dân ca ngợi khoai mì đầy rẫy pô rô tê in thì y rằng mấy tháng sau nhân dân cả nước ăn khoai mì trừ cơm. Vân Vân Ông Lê Đức Thọ đã nói với chàng rất nhiều những điều nhân nghĩa, ông ta giăng cái bẫy gì để chàng lọt, ông ta muốn gì ở chàng? Và tại sao lại phải Lê Đức Thọ tiếp chuyện một tên >? Tại sao lại phải Lê Đức Thọ > đưa chàng ra Tòa Án Nhân Dân xử công khai?
Chàng ngồi vụt dậy. Chàng hiểu rồi. Bây giờ chàng mới thấm lời của Chúa Giê Xụ Cửa hẹp dẫn chàng vào cachot, vào cô đơn, hiu quạnh, vào ý nghĩa sống rực rỡ. Cửa rộng dẫn chàng vào văn phòng của Lê Đức Thọ, vào dụ dỗ, cạm bẫy của Satan, vào sự hư hỏng. Chàng ghê sợ cộng sản. Thủ đoạn cộng sản tinh vi đến độ họ có thể huyền hoặc được cả ma quỷ. Cơ hội nào đã đến với họ để họ phải đưa chàng ra Tòa Án Nhân Dân xử công khai? Tất nhiên, đó là cơ hội tốt đẹp của họ. Cũng là cơ hội tốt đẹp của chàng. Bạn hữu và gia đình chàng sẽ hiểu những ngày vắng mặt chàng ở đâu. Và chàng sẽ được nói công khai với dân tộc, với thế giới mục đích chiến đấu của chàng. Chàng sẽ là người chiến đấu đại diện của bao nhiêu người Việt Nam yêu nước đã chiến đấu chống cộng sản 30 năm ở miền Bắc; đã chiến đấu chống cộng sản ở miền Nam từ sau 30-4-1975, đã sa cơ thất thế, đã sống nhục nhã trong các nhà tù, trại tập trung, đã chết dần chết mòn hoặc vẫn còn đang sống quằn quại hoặc đã bị thủ tiêu bí mật mà thế giới không hề biết. Chàng sẽ nhân danh những chiến sĩ vô danh nói lên tiếng nói từ địa ngục. Cửa hẹp dẫn chàng vào nỗi đau khổ và gửi gắm chàng một sứ mạng thiêng liêng. Không, chàng không thể lui. Với vị thế của chàng, lui là đầu hàng, là tự diệt nhục nhã, là vào bẫy kẻ thù một cách ngu xuẩn. Trên trận tuyến tư tưởng không có lui. Tư tưởng đã phồng lên là phải tỏa ra, chiếu sáng cùng khắp. Chàng muốn trả lời Lê Đức Thọ:>
Hôm sau, người công an bảo vệ đưa chàng ra gặp lãnh đạo. Lãnh Đạo 7, chàng đặt ngay tên cho ông ta.
- Tôi đến thăm sức khỏe của anh.
- Cám ơn ông. Và mừng anh.
- Thưa ông, mừng một tù nhân đặc biệt là có ý nghĩa gì?
- Ý nghĩa rao một tin mừng.
- Phúc Âm?
- Không, sự khoan hồng của Đảng. Anh sẽ ra thăm quê hương của Tây Sơn, sẽ ra thăm chổ gục ngã của Nhượng Tống. Rồi ở lại hay qua Paris tùy ý anh.
- Tôi hiểu rồi.
- Tốt lắm.
- Anh ở lại quê hương hay anh ra đi?
- Tôi ở lại.
- Anh dứt khoát giã từ phồn hoa, vật chất?
- Vâng, tôi muốn xin được đổ máu tưới luống cây chung với máu và mồ hôi của dân tộc.
- Anh có ý nghĩ lạ.
- Đâu có lạ, thưa ông Lãnh Đạo. Khi đã chấp nhận về là chấp nhận ở lại và đã ở lại là chấp nhận hy sinh, dù bị bắt hay không bị bắt, dù thảnh thơi ngoài đời hay mòn mỏi trong tù. Hạnh phúc của dân tộc, theo tôi, cần phải được tưới bằng những giòng máu tự nguyện của người công chính thì mới thăng hoa, kết trái ngọt.
- Anh vừa mới ý thức được lẽ sống đó.
- Điều này thì ông chủ quan quá đáng và nhận xét sai lầm. Đã không ai giúp tôi ý thức lẽ sống của tôi cả. Mảnh vải bịt mắt tôi, cái còng khoá tay tôi, sợi xích ràng chân tôi, những đêm thao thức trong quan tài xi măng cạnh xô phân tiểu trong bóng tối, trong nỗi cô đơn mênh mông dàn trải dạy tôi đầy đủ ỷ nghĩa của sống và chết.
- Anh đã viết chưa?
- Viết gì?
- Ý nghĩa ấy.
- Một trang giấy sao viết đủ. Cần một pho sách dầy.
- Tôi muốn nói ý nghĩa của sự chọn lựa sống và chết.
- Không cần viết.
- Anh nên viết.
- Tôi nói đã đủ rồi, tôi công khai nói. Như thế, sẽ không ai bảo tôi bị áp lực phải viết, bị đe dọa phải viết.
- Anh nói ở đâu?
- Ông thừa hiểu tôi sẽ nói ở đâu rồi. Tôi nhắc lại lời một người đã dạy tôi: > Tôi không thích chết dại dột.
Chàng đã nói đúng tim gan Lãnh Đạo 7, đã thỏa mãn sự mong muốn của những kẻ bắt chàng. Đừng bao giờ tự ti mặc cảm với lãnh tụ cộng sản, đừng bao giờ phong thánh phong thần cho lãnh tụ cộng sản, đừng bao giờ nghĩ lãnh tụ cộng sản là ưu việt khi chiến đấu chống họ. Cũng đừng bao giờ nghĩ lãnh tụ cộng sản là anh bộ đội nói ngông hay chú công an coi tù. Họ tài ba và thủ đoạn nhưng không phải là vô địch. Không phải là chúng ta không tài ba và thủ đoạn. Muốn chiến đấu để thắng họ, điều tiên quyết là chúng ta phải biết họ và biết cả cái hay lẫn cái dở của họ. Không biết gì về lãnh tụ cộng sản mà cứ chống chế độ cộng sản là đấm đá không khí.
Lãnh Đạo 7 hớn hở:
- Tôi tin người như anh không thích chết dại dột.
Chàng nói:
- Chết dại dột là chết ngu, phải không, thưa ông Lãnh Đạo? Tôi đã suy nghĩ kỷ rồi và tôi chọn lựa cái chết có ý nghĩa. Tội gì tôi phải chết dại dột, chết âm thầm như cây cỏ. Cuộc đời còn bao nhiêu hứa hẹn.
- Đúng thế. Anh chuẩn bị tư tưởng đi.
- Tôi đã chuẩn bị.
- Anh sẽ nói công khai điều gì?
- Những gì các ông muốn. Tôi bầy tỏ lòng thành khẩn của tôi là tôi muốn về đất Tây Sơn.
- Về đất, chàng chơi chữ. Trong bài Tây Tiến của Trần Quang Dũng, để diễn tả cái chết đẹp, cái chết giữa chiến trường của người lính chiến đấu chống thực dân bảo vệ độc lập, có câu > Vậy thì về đất Tây Sơn mà chàng nói có nghĩa là chàng muốn chết khỏi ô danh những người đã, đang và còn chiến đấu chống kẻ thù của dân tộc.
- Anh sẽ ra Toà Án Nhân Dân, ngày gần đây.
- Tôi mong về quê càng sớm càng tốt.
- Anh sẽ về quê thôi, anh hoàn toàn tự do.
- Về quê, chàng lại chơi chữ và Lãnh Đạo 7 không hiểu. Chàng nhớ chứ nghĩa của Phạm Duy diễn tả Phạm Phú Quốc hy sinh trên vùng trời quê hương. >
- Chúng tôi tin anh giữ lời hứa.
- Tôi giữ lời hứa.
- Chúng tôi phấn khởi lắm, anh Bá ạ!
- Tôi cũng phấn khởi lắm, thưa ông Lãnh Đạo.
- Anh cần gì bây giờ?
- Cần gì ạ?
- Cần bất cứ thứ gì, tôi sẽ chỉ thị cho đồng chí bảo vệ thoa? mãn yêu cầu của anh.
- Tôi cần một thứ thôi.
- Gì?
- Hỏi ông một câu?
- Anh cứ hỏi.
- Ông nói thật?
- Luôn luôn tôi nói thật.
- Tại sao các ông ưu ái tôi thế?
- Giản dị thôi, vì anh là tên phản động hải ngoại xứng đáng, đầy đủ tư cách.
- Các ông cũng biết sợ người có tư cách?
- Không sợ mà nể. Bởi vì tiếng nói của người tư cách có trọng lượng cả hai mặt: chống đối và đầu hàng.
- Cám ơn ông. Tôi cần nghỉ ngơi.
Lãnh Đạo 7 đích thân đưa chàng về phòng với người công an bảo vệ. Cạm bẫy đã giăng và kẻ giả hình chờ người công chính sa hố thẳm.

CHƯƠNG 14
Vài chi tiết quan trọng
Sau khi thôn tính miền Nam, cộng sản Việt Nam bắt buộc phải chọn lựa một quan thầy: Liên xô hay Trung quốc. Và họ đã chọn quan thầy Liên xộ Ròng rã ngót hai mươi năm phát động chiến tranh xâm lăng miền Nam, Trung quốc đã trang bị võ khí cho Việt cộng từ móng chân lên đến sợi tóc. Bị phản bội. Trung quốc uất ức đòi hết nợ nần viện trợ. Việt cộng bắt dân ăn khoai, ăn sắn trả nợ >. Việt cộng chọn Liên xô vì:
Liên xô ở xa Việt Nam. Nếu nay mai trở mặt tôn xưng Mỹ làm quan thầy, sẽ không bao giờ bị Liên xô can thiệp như Liên xô đã can thiệp ở Ban lan, Hung gia lợi, Tiệp khắc bằng xe tăng. Việt cộng lúc nào cũng thèm làm đầy tớ Mỹ. Để quyền bính được củng cố vững vàng.
Trung quốc ở gần và vốn là kẻ thù truyền kiếp. Trung quốc đã chơi Việt cộng nhiều vố đau điếng. Tình hữu nghị trước đây chỉ thắm thiết trên khẩu hiệu. Trung quốc viện trợ Việt cộng để thủ lợi mọi mặt và để mặc cả với Mỹ.
Giao hảo xong với Trung quốc rồi, lại thấy bọn tướng lãnh Sàigòn thối nát, tham nhũng, Mỹ giao nhiệm vụ phú lít Đông Nam Á cho Việt cộng và thêm nhiệm vụ chặn nút không cho Trung quốc đã thử lửa với Việt cộng và không dám tiến đánh sâu thêm. Mỹ cho rằng Việt cộng thừa khả năng ngăn chận Trung quốc. Cuối năm 1981, Liên xô viện trợ cho Việt cộng hai phi đội Mig 25. Tướng không quân hoàng gia Anh quốc bình luận: > Do đó, Đặng Tiểu Bình chỉ dọa cho sướng miệng. Tuy nhiên, Liên xô vẫn không nắm nổi toàn quyền chi phối Việt cộng. Lý do: Bộ chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam chia rẽ nặng nề. Có ba phe nhóm rõ rệt. Phe thân Liên xô và do Liên xô đào tạo. Phe thân Trung quốc và do Trung quốc đào tạo. Phe không do Liên xô hay Trung quốc đào tạo. Phe này gồm các lãnh tụ Hà Nam Ninh như Trường Chinh, Lê Đức Tho... và phe này mạnh nhất lấn át quyền hành của Lê Duẩn thân Liên xộ Đại hội đảng kỳ 5 hoãn đi hoãn lại vì phe Trường Chinh phá bĩnh. Cuối cùng, phe này nhượng bộ Liên xô để Lê Duẩn ở lại chức Tổng bí thự Năm 1982, một chiếc phản lực cơ dân dụng của hàng không Aeroflot tự ý bay từ phi trường Tân Sơn Nhất sang Nam Vang, không hỏi ý kiến Việt cộng, bị Việt cộng bắt nằm ỳ ở Nam Vang ba tháng. Liên xô trả đũa không đại tu bổ một số phi cơ chở khách của Việt cộng và cũng cho nằm ụ Ở Moscou.
Liên xô muốn tái lập quan hệ ngoại giao với Trung quốc. Điều kiện của Trung quốc trước sau như một là Liên xô phải bỏ rơi Việt cộng, phải bắt Việt cộng rút quân khỏi Cambodgẹ Liên xô lơ là vì thấy Việt cộng còn được việc. Nhưng thấy Mỹ, Nhật Bản kiếm chác béo bổ ở Trung quốc, Liên xô xích gần Trung quốc hơn. Cuối năm 1984, phó thủ tướng Liên xô sang Trung quốc hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung quốc về mối tình xưa nghiã cũ. Đánh hơi được sự bất lợi cho mình, và để chứng tỏ mình không sợ sức ép của Liên xô, không ngán Trung quốc, Việt cộng lập toà án công khai xử những người Việt Nam hải ngoại về nước chiến đấu và kết tội những người này là gián điệp, là tay sai của Trung Quốc. Đồng thời, Việt Cộng hạ lệnh tấn chiếm đồn Ampil là chiến khu kháng chiến vững vàng nhất của người quốc gia Cambodgẹ Hai vụ xẩy ra cùng một thời điểm và cùng được Bộ chính trị trung ương Đảng nghiên cứu kỹ lưỡng.
Năm 1982, khi đưa Võ Đại Tôn ra trình diện báo chí quốc tế, Việt cộng đã phong tước vị anh hùng cho Võ Đại Tôn, đã gây cảm hứng dạt dào cho những người Việt Nam hải ngoại chống cộng. Với Việt cộng, tất cả những ai chống họ, bằng vũ khí thì họ gọi là phỉ, bằng tư tưởng thì họ gọi là phản động. Họ, bằng mọi giá, mọi thủ thuật, bưng bít dư luận thế giới những phong trào chống đối họ trong nước và đặc biệt, những người ngoài nước về hoạt động thì họ nhốt riêng một chỗ, hoặc thủ tiêu sớm sau khi đã tra tấn khai thác, hoặc để chết dần chết mòn ở nhà tù. Là lái buôn xác chết chuyên nghiệp, khi thấy lãi nhiều lỗ ít, họ lôi tù nhân quan trọng ra, chụp lên đầu tội nhân những tội không phải là tội yêu nước. Võ Đại Tôn được làm ồn ào là vì Nguyễn Cơ Thạch cần có tí > chiếm đóng Cambodgẹ Trần văn Bá ra Tòa Án Nhân Dân vì Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam thách thức Liên xô.
Chàng khước từ viết lời thú tội. Chàng khước từ ghi tiếng nói của mình vào băng nhựa. Chàng đòi hòi được phát biểu công khai trước nhân dân và báo chí quốc tế.
- Anh sẽ phát biểu gì, anh Bá? Lãnh Đạo 8 hỏi.
- Những gì các ông mong muốn. Chàng đáp.
- Chúng tôi đã nghiên cứu tường tận về anh. Và đây là kết luận: Đảng cộng sản Việt Nam quanh vinh và Nhà nưởc cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam sẽ chỉ khoan hồng cho anh nếu anh thành khẩn ăn năn sám hối. Sự thành khẩn được đánh giá cao bằng những gì chính anh viết trên giấy trắng mực đen rồi chính anh đọc những gì anh viết để ghi vào băng nhựa. Chúng tôi sẽ cho phát thanh. Và đó là anh phát biểu công khai. Anh nhớ điều này: Người cộng sản khôn hơn anh. Anh đừng hòng qua mặt chúng tôi, đừng hòng chơi chữ, đừng hòng, đừng hòng...
- Thưa ông Lãnh Đạo, các ông đã soi kính hiển vi vào mỗi lời nói của tôi và thấu triệt ý nghĩ của tôi rồi. Tôi không khôn hơn các ông nhưng tôi không ngụ Tôi chẳng có tội gì mà phải ăn năn sám hối. Chỉ có kẻ thù của người Việt Nam mới dám hỗn láo kết tội những người Việt Nam yêu nước là tội lỗi. Tôi trân trọng nhờ ông chuyển lời của tôi tới ngài Lê Đức Thọ. Rằng, thuật tiến, thối chỉ có thể áp dụng trong hai lãnh vực quân sự và chính trị thôi. Trên trận tuyến tư tưởng, người chiến sĩ không biết lùi. Và tư tưởng đối nghịch thẳng thừng với tư tưởng mác xít mà lùi tức là bị nhuộm đỏ, bị băng hoại, tàn tạ. Tôi biết, dẫu tôi có >, các ông vẫn nhốt tôi cho đến khi tôi chết. Và nếu các ông tha tôi thì, ở Việt Nam hay ở Paris tôi sống mà như đã chết nhục. Tôi không thích chết dại dột, ngu xuẩn, vì thế, thưa ông!
Từ Toà Án Nhân Dân, người ta chở chàng về biệt giam khu FG khám Chí Hoà. Chàng lại nằm trong cái quan tài xi măng mỗi ngày sống là một lần chết. Chàng muốn được chết ngay không thèm hưởng lệnh ân xá cuả Chủ tịch Trường Chinh. Lệnh ân xá chỉ là sự giằng co giữa cộng sản và tử thần. Thế giới mãi mãi bị huyễn hoặc bởi danh từ cộng sản ban cho kẻ dám chống họ và bị kết án tử hình. Người ta không thể sáng mắt nhìn rõ sự vô vọng của những dân tộc bị khống chế bằng quyền lực cộng sản. Người ta càng không thể sáng mắt nhìn rõ nơi chốn dành cho tử tù cộng sản và cung cách hành quyết tử tù. Người cộng sản bần tiện lắm. Thù hận luôn luôn réo sôi trong bộ máy tuần hoàn của họ và họ mất hết cả lòng trắc ẩn dành cho những ai sắp bị đưa ra bãi bắn. Vẫn thế thôi, ngài hai bữa cơm hẩm ăn với canh rau muống già, hai ca nước không dám uống hết phải dành dụm rửa đít sau khi đi ỉa, tuần lễ đổ xô phân tiểu, tắm giặt một lần, đứng thâu đêm với chân mang xích chờ quần áo khô và ngủ trên nền nhớp nhúa bên cạnh xô phân tiểu trong quan tài xi măng. Nếu Chủ tịch Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghiã cộng sản mà ban lệnh ân xá thì có nghiã là tử tù sẽ sống thoi thóp trong quan tài xi măng năm này qua năm khác cho đến khi chết rũ. Và khi ấy, tử thần ngao ngán cộng lần chết của tử tù. Một ngày sống là một lần chết! Hãy nhớ kỹ điều này. Ở chế độ cộng sản, con người ham chết hơn ham sống và tử tù thèm chết sớm hơn thèm đợi lệnh ân xá. Rất đông con người không biết chết là gì bởi họ chưa biết sống ra sao, chưa hề được sống.
Chàng đã chết thêm nhiều lần ở quan tài xi măng khu FG Chí Hoa. Cho đến một đêm, cánh cửa cachot mở, nhiều ngọn đèn pin soi sáng quan tài. Người ta dựng chàng dậy, bắt chàng đứng nghiêm nghe đọc lệnh hành quyết. Rồi người ta bảo chàng há miệng ra, tống trái chanh và nhét đầy miệng chàng. Người ta dán miếng băng keo lớn kín miệng chàng rồi bịt chặt mắt chàng, trói tay chàng lại. Người ta tháo xích chân chàng ra, xách hai bên nách chàng, dẫn chàng bước xuống bốn tầng lầu và dìu chàng đi, đi mãi... Chân chàng dẵm lên đá sỏi, đá răm rồi đạp lên cỏ ngậm sương. Chàng biết mình đã tới bãi hành quyết. Người ta cởi giây trói cổ tay chàng và buộc hai cánh tay chàng vào cái cột. Lưng chàng sát khít cột gỗ. Khi chàng thấy những bước chân của đồ tể bước ra khỏi chỗ mình, chàng dang hai chân ra. Chúa Giê xu bị quân dữ căng tay đóng đinh trên thập giá, hai chân chụm lại, đầu hơi nghiên xuống. Chàng bị cộng sản trói ghì tay, chân dang ra và đầu ngẩng lên. Một thánh nhân vì nhân loại, một chiến sĩ vì dân tộc. Hai hình ảnh cùng tuyệt vời, cùng rực rỡ. Một băng đạn nổ ròn rã trong đêm u tịch của quê hương. Trần văn Bá rũ đầu xuống. Chàng đã thỏa mãn. Máu cuả chàng, máu của người tuổi trẻ, máu của người quốc gia chân chính đã đổ xuống thấm đất quê hương. Hoa hạnh phúc dân tộc sẽ nở từ chỗ đó.

CHƯƠNG 15
Phục sinh mang một ý nghĩa khôn cùng. Có phải tất cả mọi người trên trái đất chết đi rồi sẽ sống lại không nhỉ? Chẳng phải thế đâu. Nếu thế thì ý nghiã của phục sinh tầm thường quá. Chúa Giê xu phục sinh không bao giờ vì phép tích của Thượng Đế mà vì những gì Ngài đã để lại sau khi chết. Những gì Chúa Giê xu đã để lại là gì? Là những cao cả của đời sống Ngài, là những hy sinh tuyệt diệu của Ngài, là trí tuệ sáng chói của Ngài cống hiến cho nhân loại muôn thưở... Bằng những cái đó, Chúa Giê xu đã phục sinh. Ngài chết để mời gọi nhân loại gần gũi, cảm thông, thương yêu nhau. Ngài chết đã 2.000 năm, nhân loại vẫn đến bên Ngài, vẫn được bình yên tâm hồn, vẫn thấy những bí ẩn linh thiêng của đời sống, vẫn xưng tụng Ngài là Đấng Cứu Thế, vẫn bỏ cái xấu theo cái tốt, vẫn xa cái giả tìm cái chân tức là Ngài vĩnh cửu, Ngài phục sinh. Phật Thích Ca đã phục sinh trong cung cách đó. Cũng vậy, Khổng Tử, Lão Tử, Nguyễn Du, Mozart, Bach, Victor Hugo, Léon Tolstoi, Hemingway vân vân... Chỉ có một Phật Thích Ca, một Chúa Giê xụ Không được phép so sánh bất cứ ai với thánh nhân, vĩ nhân. Nhưng bất cứ ai, hễ để lại cho đời sống kế tiếp một ý nghĩa cao cả vì lẽ sống thì sau khi chết đều được phục sinh và bất tử.
Trần văn Bá đã được phục sinh và bất tử.

HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét