Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

HỒI KÝ NHỮNG NĂM THÁNG LƯU ĐÀY TRONG NGỤC TÙ CỘNG SẢN CỦA DUYÊN ANH - KỲ 7


 1      2           4      5      6      7     8

PHẦN THỨ BA
ĐAU THƯƠNG CHÍN RẤM (KHÁM CHÍ HÒA)
CHƯƠNG 21.
- Đi đâu các ông?
- Không xa đâu.
- Tại sao ông biết?
- Đi xa nó phải phát thực phẩm ăn dọc đường chứ. Loanh quanh thành phố thôi. Chưa biết chừng, lát nữa, chúng ta lại trở về đề lao.



Có thể lắm. Với người Cộng sản chẳng có gì không có thể. Và, với tù nhân luôn luôn chuẩn bị chờ đợi cái có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Dương Nghiêm Mậu đến Sở Công An sớm hơn tôi năm ngày. Anh kể một chuyện toát mồ hôi lạnh của tù con so 1. Nửa đêm, cai ngục mở khoá, kéo cửa ken két, đọc tên anh và bảo anh “khẩn trương thu dọn tư trang”. Mậu hoảng sợ. Một mình anh bị gọi. Anh rời phòng, lên xe bít bùng. Xe chạy những đường phố nào, Mậu không biết. Gần sáng, xe đậu một chỗ. Anh nghe những lời đối thoại. “Đem nó đi chỗ khác”.

“Chỗ nào”? “Rừng cao su hay khúc sông vắng”! Dương Nghiễm Mậu, tác giả Cũng đành quên mất triết lý sống cũng đành. Thần kinh anh căng thẳng. Anh cầm bằng cái chết đau đớn dai dẳng. Cảm giác hãi hùng ấy kéo dài tới khi anh nhìn rõ Sở Công An. Và nó còn tê tê khi anh đã vào phòng, gặp lại anh em. Đó là trò chơi khủng bố tinh thần. Là sự tẩy não bằng ám ảnh một sự thực sẽ tới. Hoàng Mạnh Hùng kể một chuyện ghê gớm hơn chuyện của Dương Nghiễm Mậu. Anh bị bịt mắt, còng chéo tay ném lên xe. Xe đưa anh đến một biệt thự hoang vắng ngoại ô, anh đoán thế. Người ta kéo anh xuống và đẩy anh vào căn phòng, bỏ rơi anh. Muỗi bu lại đốt anh. Chuột rúc đe dọa anh. Anh nghe chim hót, biết trời đã sáng. Người ta mặc anh đói, khát, hoang mang… Cuối cùng, người ta lôi anh ra, ném anh lên xe và trả anh về cachot đề lao Gia Định nửa đêm. Sáng sau, người ta bắt anh viết Tự khai. Đó là trò chơi tra tấn tinh thần. Hồi ở 3C-2, tôi cũng trải qua một đêm gọi ra làm việc bịt mắt dẫn đi.


- Ai có dao?

Dao của tù nhân là nắp lon sữa bò gấp đôi bẻ gẫy rồi mài nhẵn, dấu thật kỹ để thái bắp cải, dưa leo, gọt xoài…. và cắt móng tay. Ở đề lao, đồ cắt móng tay phải đăng ký. Không đăng ký sẽ bị tịch thu nếu bị phát hiện và sẽ bị nâng quan điểm… âm mưu trốn trại, âm mưu ám sát cán bộ. Mỗi lần tổng kiểm tra, vô số dao tù bị tịch thu. Nhưng rồi vẫn có. Do anh em ra làm việc, ra phơi quần áo, ra khiêng quà ngày thăm nuôi lượm vào. Bạn biết ở kỷ nguyên vệ tinh nhân tạo, kỷ nguyên mà Cộng sản kết tội tư bản “đưa chúng ta trở về thời kỳ đồ đá” chúng tôi cắt móng tay bằng cách nào không? Chúng tôi mài móng tay trên bục xi-măng lổn nhổn cát hoặc, tắm gội xong, chúng tôi gặm móng tay! Móng chân không thể mài và gặm, chúng tôi cắt bằng nắp lon sữa bò.

- Tôi có dao.
- Cho mượn tí.
- Làm gì?
- Rạch vải bố ngó đường.

Tù nhân đầy sáng kiến này thuyết minh như người chỉ dẫn khách du lịch.

- Qua cầu Bông các ông ạ! À, rẽ phải. Hiền Vương. Ngã ba ĐinhTiên Hoàng- Hiền Vương. Phố xá đìu hiu quá.

Anh ta dán mắt vô kẽ vải bố rạch một đường đủ móc ngón tay nhìn ra.

- Đến đâu rồi?
- Ngã tư Hai Bà Trưng – Hiền Vương.
Tù nhân sốt ruột biết nơi chốn mới.

- Đến đâu rồi?
- Công Lý – Hiền Vương.

Im lặng một lúc khá lâu.

- Đến đâu rồi?
- Bà Huyện Thanh Quan – Hiền Vương, sắp đến cái bùng binh đường tầu Lê Văn Duyệt. Đi thẳng sẽ vô Tế Bần. Quẹo phải là…

Anh tù thuyết minh bỏ lửng.

- Quẹo phải, các ông ơi! Chẳng lẽ…

- Chẳng lẽ chi?

- Đợi chút, các ông… Quẹo trái. Hà hà, chúng ta vào đại khách sạn quốc doanh của thành phố mang tên Bác.

- Chí Hòa hả?
- Chí Hòa.
° ° °

Chúng tôi đến khám Chí Hoà, đến Trại Cải Tạo Trường Kỳ ghi rõ ở tấm bảng treo ngang cổng. Bí danh của Chí Hoà là T-30. Những nhà tù mang bí danh đều là những nhà tù lớn. Không kể các phòng tạm giam tại các quận, các phường, thành phố Hồ Chí Minh, ít ra, đã có 52 nhà tù, nếu căn cứ nhà tù Tô Hiến Thành đánh số T-52. Bin-đinh Đại Nam Saigon, bin-đinh Đại Lợi Tân Bình đã là nhà tù. Ngoài ra các vi-la ngụy trang nhà tù ít ai biết. Người giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh đã nâng tỷ số nhà tù nhốt dân tộc lên mức kỷ lục khó chế độ nào vượt nổi. Do đó, cái ca khúc Thành phố mang tên Bác có câu:


… Thành phố Hồ Chí Minh, đời đời rực sáng tương lai. Trong mỗi trái tim, trong mỗi ước mơ, trong mỗi cuộc đời ta đều có Bác.

Đã được dân gian sửa đổi:

… Thành phố Hồ Chí Minh, nhà tù mọc khắp nơi nơi. Trong mỗi vi-la, trong mỗi bin-đinh, trong mỗi quận phường, chỗ nào cũng nhốt.

Đến câu này:

… Lời Bác thiết tha, dìu dắt chúng ta. Sáng mãi tên Người, thành phố Hồ Chí Minh…

Được sửa bất hủ:

… Lời Bác thiết tha: Tù mãi không ra. Sáng mãi tên Mày, thành phố Hồ Chí Minh…

Bạn biết khám Chí Hòa không? Tục truyền rằng, người Pháp chiếm nước ta đã khai sáng văn minh một cái nhà tù mà dân miền Nam gọi đơn giản là Khám Lớn. Khám Lớn được bao quanh bởi những khúc đường Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trung Trực, Gia Long, Công Lý. Người Nhật da vàng chủ trương đoàn kết Đại Đông Á một cái nhà tù vĩ đại hơn Khám Lớn gọi là Chí Hòa. Da vàng đối xử với da vàng thô bạo hơn da trắng đối xử với da vàng. Bởi vậy mà những 2 triệu dân Việt Nam chết đói năm Ất Dậu 1945. Người Nhật vẽ họa đồ, chưa kịp thiết kế thì ăn bom nguyên tử Mỹ. Rồi mổ bụng tự sát lung tung. Rồi đầu hàng. Quân cướp nước xâm lăng thô bỉ và thô bạo cũng học đòi tuẫn tiết. Và thế giới ngu dốt lại ca ngợi như thái độ can đảm của người anh hùng Nhật Bản! Cách mạng mùa thu 8-1945, dân Saigon phá Khám Lớn. Dân Hà Nội quên phá Hỏa Lò. Khám Lớn hay Hỏa Lò đều gần Toà Án. Hình phạt và Công lý gần gũi nhau. Vì gần gũi nhau, Công lý đã lem nhem. Nhưng chỉ có Công lý cho Hình phạt, không hề có Hình phạt cho Công lý. Công lý là chân lý, thứ chân lý chó đẻ ở đất nước chúng ta, dưới bất cứ chế độ nào từ trên một thế kỷ. Người Pháp lại chiếm nước ta. Người Pháp xây dựng Chí Hòa theo hoạ đồ của người Nhật. Đó là văn minh và văn hoá ngoại quốc cấy trồng ở Việt Nam. Cách mạng nhân vị duy trì khám Chí Hòa. Cách mạng… Mỹ giật giây duy trì khám Chí Hòa nhưng xây cái Thư viện quốc gia trên mồ Khám Lớn. Cách mạng vô sản giải phóng tù nhân Chí Hòa một ngày, hôm sau gom lại và tháng sau thì đông hơn tù nhân thời Mỹ ngụy, Cách mạng vô sản cách mạng… cái bảng. Sơn đỏ phết mờ “Trại Cải Huấn Chí Hoà” và chữ vàng viết lên Trại Cải Tạo Trường Kỳ.

Tôi đã vào khám Chí Hòa một lần. Ngày nào, tháng nào, tôi không nhớ, vào năm 1964. Buổi sáng, Nguyễn Khánh – Đỗ Mậu xử tử Phan Quang Đông ở Huế. Buổi chiều, Nguyễn Khánh – Đỗ Mậu xử tử Ngô Đình cẩn ở Chí Hòa. Tôi chứng kiến cả hai vụ. Tôi còn nhớ, sân bắn đối diện một ngôi chùa. Chí Hòa có chùa, nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ Tin Lành cho tù nhân tham dự lễ. Đó là thời… ngụy, tù nhân tự do đi lại ban ngày, ban đêm mới vào phòng giam. Năm 1964, tôi vào khám Chí Hòa với tư cách phái viên báo chí. Năm 1976, tôi vào khám Chí Hòa với tư cách tù nhân. Dĩ nhiên, kiến thức Chí Hòa của tôi vỡ ra nhiều. Chí Hòa rộng mênh mông. Vòng đai thứ nhất của nó là những lớp rào giây thép gai có gài mìn xa tận sát trường đua Phú Thọ. Rất nhiều chòi canh đặt máy truyền tin quanh vòng đai nàv. Vòng đai thứ nhất nằm ngoài tường khám cao, dầy, công-xẹc-ti-na giăng đầy trên ngọn và đèn chi chít sáng rực ban đêm. Vòng đai thứ hai bên trong tường tù. Sân đậu xe, nhà chùa, nhà thờ, bãi bắn nằm ở vòng đai thứ haỉ. Vòng đai thứ ba là khu vực hành chính. Vòng đai thứ tư là khu vực của cai ngục, nhà bếp. Tù nhân đóng đô chính giữa bốn vòng đai. Lối ra vào khám Chí Hòa duy nhất con đường Hoà Hưng.

Khám Chí Hòa xây hình bát giác ABCDEFGH. Hai cạnh là một khu. Có bốn khu: HA, BC, DE, FG. Muốn gọi là AH, CB, ED, GF cũng được. Cửa tù hướng hết ra sân. Trung tâm sân là cái château d’eau. Tục truyền rằng, Nhật nó cắm kiếm ếm. Cho nên cái château d’eau y hệt mũi kiếm mà bồn nuớc cao là cái chuôi. Mỗỉ khu có một hồ nước, một miếng sân bóng chuyền. Thời… ngụy, tù nhân được chơi thể thao, được tắm giặt thả giàn. Thời cách mạng, dưới ánh sáng quang vinh của Đảng, tù nhân bị nhốt như gà kỹ nghệ nên sân bóng chuyền biến thành ruộng rau muống, vườn rau cải. Giữa ED, một con đường hầm dẫn tới château d’eau sơn đen thui trông cơ hồ con bọ hung, con đường dưới âm ty. Giữa AH, một cái hành lang từ lầu 2 kéo dài tận giữa sân làm nơi trình diễn văn nghệ cho tù nhân giải trí. Đó cũng là chuyện thời… ngụy. Chí Hòa có ba tầng. Tầng sát đất gọi là những phòng ô. Tất cả khoảng 60 phòng. Mỗi phòng chứa 40 tù nhân. Cách mạng tiến bộ nhốt 65 tù nhân, cao điểm là 80. Không còn chế độ nhà thầu nữa, đã chấm dứt cảnh “người bóc lột người”, nhà nước quản lý và lo cơm nước phục vụ tù nhân. Ban cấp dưỡng do những tù đã thành án phụ trách. Đám trật tự ngoài phòng đều là công an can tội tham nhũng, hiếp dâm, ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Chúng tàn bạo hơn cai ngục chính cống, được quyền mở và khoá cửa phòng. Phòng giam ở Chí Hòa cao, trần xi măng cốt sắt. Cánh cửa ra vào nặng cả tạ, ba ô khoá lớn. Cửa sổ rộng, ngang cổ tù nhân chấn song sắt lớn, đầu chui không lọt. Tường phía sau có cửa gió cao vút, bít kín giây kẽm gai. Từ khu này sang khu kia phải qua một lần cửa sắt luôn luôn khoá chặt. OSS-1177 Hubert hay 007 James Bond vào phòng giam Chí Hòa cũng hết cựa quậy. Tướng cướp Điền Khắc Kim nổi tiếng nhờ vượt ngục Chí Hòa. Sức mấy! Hắn đã “mua” chúa ngục. Người ta xâv cái bể nước dưới chân château d’eau. Nhà bếp nấu nước sôi đổ ra máng. Máng chẩy vào bể. Bể có bốn cái rô-bi-nê để trật tự lấy nước phân phối cho các phòng. Đại khái, vài nét đan thanh về “lịch sử” Chí Hoà phần hình thức.

Đã vào Chí Hòa, vào Trại Cải Tạo Trường Kỳ thì kể như khó về gặp vợ con. Tôi thiếu may mắn trên đường tù. “Biệt kích văn nghệ” Nhã Ca được tha sớm. “Biệt kích văn nghệ” Dương Nghiễm Mậu được tha sớm. “Biệt kích văn-nghệ” Doãn Quốc Sĩ đi lao động. Tôi nằm Chí Hòa. Thượng đế xa lắc của tôi ơi, có phải Ngài thử thách sức chịu đựng gian khổ của tôi đến mức nào sẽ ban tặng tôi ân sủng mức ấy không? 17 tháng ở đề lao Gia Định tôi đã rã rượi, đã bi quan, đã chẳng còn thiết tin tưởng gì nữa. Tôi ngỡ tôi biết ước mơ từ 3C-1. Không đâu, tôi chưa biết ước mơ. Tôi chán luôn cái tham vọng văn chương cần thiết trả lời Cộng sản một câu nói khinh miệt “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh”. Ý của họ muốn nói: Thế giới đâu thèm đọc sách của chúng tôi. Nhìn Chí Hòa là không thể nghĩ gì nữa. Nhìn Chí Hòa là nhìn cay đắng dàn trải, là nhìn tủi nhục mênh mông, là nhìn nỗi chết chờ đợi.

Chúng tôi ngồi giữa sân nắng chang chang. Người ta bắt chúng tôi phơi nắng cả tiếng đồng hồ. Ở tối quen, ra nắng lâu, tôi chuếnh choáng. Tôi biết say nắng. Và tôi độc quyền dùng chữ say đau khổ. Đầy đọa chúng tôi chán chê, người ta chia chúng tôi thành hai nhóm. Khám xét giỏ bị lung tung, người ta lùa chúng tôi vào lò bát quái. Mỗi nhóm một phòng, chúng tôi lên lầu 1 khu FG, khu hắc ám nhất của Chí Hòa. Lúc ấy, kẻng tù báo trưa. Cai ngục, một tên ngoài hai mươi tuổi, mặt mày dữ tợn. Khóa ba lần khóa cửa xong, hắn thị uy:

- Tên tôi là Phách. Trưa nay khắc phục dạ dầy, chiều tính. Có gì đề xuất không?

Đoàn Kế Tường nhanh miệng:

- Cho xin cái chổi và cấp chiếu cá nhân.

Cai ngục Phách nói:

- Khắc phục chờ đợi.

Ở đề lao, chúng tôi được cấp chén nhựa, ca nhựa, muỗng nhựa và chiếu. Chuyển trại, đề lao đòi lại hết. Chúng tôi cần chiếu, ca chén gia đình đã gửi. Cai ngục Phách quan sát khắp lượt rồi chỉ tôi.

- Anh kia!
Tôi nhìn cai ngục:
- Cán bộ gọi tôi?
Hắn gật đầu.
- Lại đây.
Tôi bước ra.
- Tên gì?
- Vũ Mộng Long.
- Tù bao lâu?
- 17 tháng.
- Tốt, cho làm trưởng phòng tạm thời.


Tôi “được” phong chức trưởng phòng lâm thời, các khu ở Chí Hòa không có số phòng chỉ có số lầu. Phòng của tôi đông anh em trẻ. Tôi bớt buồn vì gặp lại Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng, Đặng Hải Sơn. Thêm nghị viên Hoè và ông phó tỉnh Đà Nẳng. Đằng Giao và Nguyễn Mạnh Côn ở phòng bên cạnh. Nhờ tài vẽ, ở đề lao Gia Định, Đằng Giao được trang trí phòng cưới khi có đám cưới của cai ngục và minh họa bích báo… Sang Chí Hòa, Đằng Giao trúng số phát cơm cho cachot ngay lập tức. Ở tù, được ra ngoài làm những công việc vẽ vời, sơn phết, gánh nước, cắt tóc, quét dọn, nuôi heo, thì khuây khỏa và biết nhiều chuyện. Chẳng hạn gánh nước sôi hay gánh cơm cho các phòng sẽ dễ dàng “kiếm” và “nhìn mặt” bằng hữu. Nhưng cái khuây khỏa và cái biết nhiều chuyện kéo theo những hệ lụy. Một trong những hệ lụy là bị nghi nghờ làm “ăng-ten”. Ai cũng thích ra ngoài, không được ra thì cay cú người được ra. Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, giáo sư triết học và văn chương tức họa sỉ Bố vẽ cho tưần báo Con Ong, tưần báo Người, đã bị nguyền rủa, bị đánh đập ở khu A đề lao Gia Định chỉ vì được gọi ra ngoài vẽ số các phòng tù, trang trí vở chép bài ca cho công an quản giáo. Chỉ có một Lữ Hồ biết Lữ Hồ nói gì với công an thôi. Vậy mà tù nhân trong phòng quả quyết với nhau đã nghe rõ Lữ Hồ “chửi bới anh em Phục Quốc”! Và, nhân danh những người không biết vẽ, không được ra, người ta xúm nhau kết án Lữ Hồ, hành hạ Lữ Hồ, xúc phạm thân thể Lữ Hồ. Người ta bất lương ở điểm thành khẩn nói với người khác rằng chính mắt người ta trông thấy rõ, nghe rõ. Và người khác lại nói với người khác ghê gớm hơn. Ở tù, một người phán xét một người làm “ăng-ten”, hình như, được coi là yêu nước, kiên cường, bất khuất. Cho nên, bị chuyển sang phòng mới, từ lời buộc tội “chửi bới anh em Phục Quốc”, Lữ Hồ được tăng thêm tội “chỉ điểm công an bắt Phục Quốc”. Vân vân. Cả đề lao Gia Định gớm ghiếc Lữ Hồ. Anh ta có tội gì đâu? Nếu có, chỉ là tội biết vẽ. Mà ở tù, Hồ Chí Minh đã tự thú “Mỗi lời mỗi việc không tự chủ, để chúng đắt đi tựa trâu bò” 2. Chưa bao giờ tôi thấy triết lý sống Ngu si hưởng thái bình rực rỡ ở nhà tù. Không ai đàm tiếu, thị phi thằng Ổi, thằng Xoài, thằng Mít ra ngoài làm việc và báo cáo chuyện trong phòng với công an cả. Người ta chỉ thị phi Lữ Hồ, Đằng Giao. Nhà Phật dạy đúng. “Hơn người khác là một cái tội”. Tôi không biết Lữ Hồ đã sang Mỹ gặp vợ con chưa. Những dòng này viết cho vợ con anh. Tôi khẳng định, nhân danh những gì tôi biết, Lữ Hồ không bần tiện như người ta kết án anh. Cái tội của anh do khẩu nghiệp. Anh đã không biết giữ miệng, oang oang bầy tỏ lòng khinh bỉ những ông trí thức khoa bảng cùng bị nhốt chung một phòng với anh. Bọn hèn mọn này đã trả đòn anh một cách đê tiện. Và đó là sự cao thượng, sự bao dung của quốc gia. Và đó còn có thể gọi là chính nghĩa quốc gia được chăng?

Cai ngục Phách, sau khi phong chức trưởng phòng lâm thời cho tôi, bèn hỏi:
- Thuộc Nội quy chưa?
Tôi đáp:
- Rồi.
Hắn quát:
- Đứng nghiêm chỉnh. Anh chưa thuộc Nội quy. Cán bộ hỏi phải lễ độ trả lời, thưa dạ cung kính.
- Dạ.
- Trách nhiệm phòng này thuộc về anh. Rõ chưa?
- Thưa cán bộ, rõ.
Vậy là tôi “bị” làm trưởng phòng lâm thời, “bị” dồn vào cái thế trên đe dưới búa. Trưởng phòng tù, phòng của tù nhân sẵn sàng cho mình ăn đòn và đưa mình ra ngoài cho cai ngục đánh đòn.

- Thưa cán bộ…
- Gì?
- Cán bộ chọn người khác.
- Anh dám chống đối chỉ thị của cán bộ à? Chống chỉ thị của cán bộ là chống cách mạng, chống Đảng, chống Nhà Nước, chống Nhân Dân. Tôi bắt anh làm trưởng phòng.

Cai ngục Phách bỏ đi. Nửa tiếng đòng hồ sau hắn trở lại mang cho chúng tôi một cái chổi chà và ba cái thau nhôm. Một vài anh em đã lượm được những đoạn giây thép lớn. Thế là chế tạo bếp, bắc thau nhôm lên, dùng túi ni-lông quấn chặt mà nấu nước sôi pha mì, pha bột… Tôi rét run, sợ cai ngục Phách đến “đột xuất”. Nổi lửa trong phòng giam là vi phạm Nội quy nặng nề. Tôi không dám hé miệng, ngại anh em sỉ vả. Ôi, trưởng phòng tù, cái “địa vị” nhục nhằn của tôi. Anh em biết điều, nấu nướng xong, chà rửa đít thau láng coóng. Có thau nhôm là lý tưởng, anh em nấu mì suốt đêm, thay phiên nhau nấu. Mì nấu nóng hổi chưa đã, anh em chơi mì xào lạp xưởng, tôm khô.

Lệ ở Chí Hoà là tù nhân được tắm hai lần một tuần lễ. Trật tự viên cho chúng tôi biết phòng của chúng tôi tắm vào thứ tư và thứ bẩy. Mỗi ngày, buổi sáng, phòng được đổ đầy một phuy nước. Nước này chỉ dùng để xối cầu tiêu, rửa chén muỗng, rửa mặt đánh răng. Phòng cử người xuống hồ múc nước vác lên. Cái phòng của tôi có vẻ… lâm thời quá.

Sống ở Chí Hòa mới đủ hai ngàv đã tới thứ bẩy. Sự bi thảm xẩy ra vào đúng thứ bẩy. Tù nhân chờ đợi đi tắm. Đợi xế trưa vẫn không được tắm, tù nhân “quen thói” đề lao Gia Định, thay phiên réo gọi um sùm.

- Báo cáo cán bộ, phòng mới xin đi tắm!
Réo gọi vô ích. Chừng không thèm réo gọi nữa, cai ngục Phách dẫn xác đến.
- Đứa nào vừa réo đấy?
Nghị Hoè đáp:
- Không có đứa nào cả, chúng tôi xin đi tắm.
Cai ngục Phách nghiến răng:
- Mày dám hỗn à?
Nghị Hoè nói:
- Nảy, cán bộ đừng có mày tao. Nội quy không cho phép cán bộ gọi tù nhân bằng mày.


Cả phòng nhao nhao: “Cán bộ mất dậy. Cách mạng vô giáo đục…” Đoàn Kế Tường hét:

- Đ.M. cán bộ. Đ.M. cách mạng!
Cai ngục Phách lĩnh vội. Phòng của chúng tôi reo hò chiến thắng. Nhưng Chí Hòa không phải Gia Định. Không có chấp pháp ở đây. Càng không có sự làm dáng dân chủ cho nền cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở đây. Ở đây là Chí Hòa, là Trại cải Tạo Trường Kỳ, là nơi tôi nhìn cay đẳng dàn trải, nhìn tủi nhục mênh mông, là nơi tôi nhìn nỗi chết. Cai ngục Phách đã trở lại. Hắn trở lại với lũ đầu trâu mặt ngựa trật tự. Hắn hách dịch:

- Đứa nào đòi đi tắm?
Nghị Hòe hiên ngang:
- Tôi.
Cửa phòng mở. Cai ngục bảo Nghị Hoè bước ra. Cửa phòng khép lại, gài chốt liền.
- Còn đứa nào nữa?
Dương Đức Dũng dơ tay.
-Tôi.


Đoàn Kế Tường sợ bạn đi một mình bị úm, vội vàng dơ tay. Thêm ông Phó tỉnh hành chánh Đà Nẳng và vài anh em trẻ nữa. Tất cả bị dẫn tới một chỗ nào đó của khám Chí Hòa. Tới giờ cơm chiều, chẳng có ai về cả. Phòng họp. Hoàng Mạnh Hùng và Đặng Hải Sơn đề nghị anh em chia làm hai nhóm tranh đấu. Nhóm thứ nhất “đánh” trước, nếu “thua”, nhóm sau tiếp tục. Cả phòng tuyệt thực. Bấy giờ, Tư Long đã sang Chí Hòa nắm chức vụ trưởng khu FG. Chí Hòa có bốn khu, như tôi đã tả. Đáng lẽ, nó hoàn toàn thuộc về sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng có sự tranh chấp giữa Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm nên khu ED do Cục Quản Lý Các Trại Giam của bộ Nội Vụ quản lý. Cao Đăng Chiếm chơi Mai Chí Thọ, cho khu ED hưởng quy chế đặc biệt. Với ba khu AH, BC, FG, khu ED là thiên đàng của Chí Hòa. ED là nơi dừng bước cải tạo của sĩ quan cảnh sát đặc biệt. Lần lượt, người ta rời rừng già về đây, rồi người ta lại ra đi. Thời gian ở đây, người ta sống thoải mái. Cửa phòng giam mở từ sau lúc điểm số. Người ta kéo nhau xuống sân đánh bóng chuyền, đọc báo, tắm giặt, tán gẫu giữa các phòng. Chiều tối, người ta trở lên phòng ăn cơm. Rồi ngủ.


Tư Long, hung thần của đề lao Gia Định, được báo cáo phòng của chúng tôi tuyệt thực, kéo “binh mã” ồn ào tới. Hắn xăn tay áo, nổi giận vì sẽ phải tự kiểm với lãnh đạo của hắn vụ này.

- Những anh nào tuyệt thực?
Hoàng Mạnh Hùng đứng lên. Đặng Hải Sơn đứng lên. Nhiều anh em khác đứng lên.Đợi không còn ai đứng lên nữa, Tư Long ra lệnh mở cửa. Những người tuyệt thực tay không kéo nhau ra khỏi phòng. Cơm canh chưa chia bị khuân về bếp. Chập tối, cai ngục Phách xuất hiện. Hắn gọi tôi:

- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Ra đây.
Tôi bước sát tường có chấn song sắt.
- Mày làm Trưởng phòng mà để chúng nó gây loạn hả?
Tôi cãi:
- Thưa cán bộ, giữ trật tự phòng không phải nhiệm vụ của tôi. Vả lại, tôi chẳng có quyền gì với anh em cả.
Hắn mím môi:
- Bố láo. Mày là đại diện cách mạng, tại sao không có quyền? Tao đã cho mày quyền mà.

Và hắn thò tay qua chấn song, tát tôi một cái đau điếng. Nó “dám” tát vị… đại diện cách mạng.

- Mày hết là Trưởng phòng. Cút về chỗ.
Hắn gọi Trật tự viên của phòng do hắn chỉ định, hạch hỏi:
- Đứa nào chửi cách mạng?
Trật tự viên lắc đầu:
- Thưa cán bộ, tôi không biết.
- Thật chứ?
- Thật.
- Theo tao.
Hắn mở cửa phòng dẫn anh Trật tự phòng đi “làm việc.” Phòng của chúng tôi không còn Trưởng phòng nữa. Khi anh Trật tự phòng trở về, mặt mày sưng vù, môi toét ra, ròng ròng máu. Thế đấy, cái định nghĩa sơ khởi của Chí Hòa triều đại Lê Duẩn. Anh tù nhân bị chỉ định làm Trật tự viên của phòng no đòn nằm một xó trên nền xi-măng nhớp nhúa. Cai ngục bắt chúng tôi ngủ ngay, dù chưa nghe kẻng báo ngủ. Hắn cảnh cáo:

- Dở trò đêm không ngủ là ốm đòn. Đây là nhà tù, hiểu chưa?
Tử ngày đi “học tập cải tạo,” lần đầu tiên tôi bị ăn cái tát tai. Kể ra thì vẫn may mắn. Cái “danh vọng” chỉ định nó chua xót thế, cái “danh vọng” bon chen nó còn chua xót dường nào! Ở đời, có danh là có họa. Ở tù, có danh là khốn nạn. Tất cả, nhắm vào cái danh của con người mà săn đuổi, mà buông cung, mà phóng dao, mà bêu nhục. Nghĩ cũng bẽ bàng cho cả những ai rắp ranh “có danh gì với núi sông.”
° ° °

Trưa hôm sau, tất cả những người tuyệt thực trở lại phòng. Anh nào anh nấy mặt méo xệch, khát nước rã họng. Hung thần Tư Long dẫn họ lên lầu, bắt họ ngồi ngoài hành lang, cấm nói chuyện, cấm ngủ, cấm nằm. Tư Long không cho họ uống nước. Mỗi người đều phải viết Tự kiểm nhận lỗi và cam kết không tái phạm. Chưa đủ, cai ngục thứ hai tên Quỳnh, bắt chúng tôi xếp hàng ngồi nghe hắn “lên lớp.” Hắn chửi chúng tôi là ký sinh trùng của xã hội, là những kẻ hèn mọn hung hăng nhanh và đầu hàng lẹ, những kẻ chửi lén cách mạng và không dám đương đầu và đổ lỗi cho nhau. Và đây là những câu thấm thía:


- Các anh sợ khó, sợ khổ mà cũng học đòi chiến đấu ư? Chiến đấu cho lý tưởng cao cả hay chiến đấu cho sự tắm rửa? Chưa từng thấy ai chết vì thiếu tắm cả. Mà chiến đấu hoặc bằng tư tưởng hoặc bằng súng đạn, không ai chiến đấu bằng chửi lén. Các anh cứ tự hào quốc gia các anh cao cả mà tôi nhận xét các anh chẳng cao cả chút nào. Các anh vừa ngu vừa dốt. Ngu nên không biết thân phận tù đầy. Với cách mạng không có yêu sách mà chỉ ngồi chờ ban phát mọi ân huệ. Đã là tù thì mất hết tự do, hiểu chưa? Các anh chì còn tự do hít thở vì cách mạng không quản lý nổi khí trời. Dốt nên bầy trò tuyệt thực tranh đấu cho đứa ngu. Người Cộng sản dám chiến đấu trong tù thực dân, đế quốc vì các đồng chí đang chiến đấu bên ngoài. Các anh rã đám, chủ Mỹ cút, đầy tớ Ngụy nhào rồi, chiến đấu vô vọng. Muốn chiến đấu, các anh phải học tập người Cộng sản. Người Cộng sản vào tù, không thèm thăm nuôi, không bắt tội vợ con mình nhịn ăn uống tiếp tế quà bánh cho mình. Các anh mừng rỡ nhận quà, sung sướng ăn uống khi con các anh đói. Thư từ gởi về không tỏ tình cảm với gia đình, hết xin món này lại xin món nọ. Thế thì chiến đấu cái gì? Cả nước đói khổ, chúng tôi cũng đói khổ, riêng gì các anh mà than vãn. Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.

Tôi không hiểu tại sao cai ngục Quỳnh dám dạy chúng tôi bài học chống Cộng sản sâu sắc thế? Có lẽ, hắn kiêu ngạo, hắn khinh chúng tôi. Cộng sản lớn kiêu ngạo lớn, Cộng sản nhỏ kiêu ngạo nhỏ. Lần thứ nhất tôi thấy một tên cai ngục đánh trúng tâm huyệt tù nhân quốc gia. Cái trò thăm gặp của Cộng sản đã làm tù nhân vốn sợ khó, sợ khổ càng sợ khó, sợ khổ. Nó nuôi dưỡng tinh thần hưởng thụ và ỷ lại của tù nhân. Nó tạo ra một ám ảnh: luôn luôn sợ hãi bị cúp tiếp tế thực phẩm. Nó gây chia rẽ giữa tù nhân: tiếp tế nhiều, tiếp tế ít và không ai tiếp tế. Tôi dám nói rằng, nếu Cộng sản cấm tù nhân gặp mặt thân nhân, khước từ quà bánh, thuốc men gia đình tiếp tế, chúng ta sẽ có khá nhiều anh hùng tù ngục. Cộng sản hiểu thấu thủ thuật làm hư đốn những kẻ chống đối họ. Tù nhân của chúng ta quên mất điều này. Người ta dễ dàng ngủ yên bằng mọi thỏa mãn của kẻ thù. Cái làm người ta thức, người ta tỉnh, người ta nuôi chí phục hận là sự ngược đãi của kẻ thù. Bởi vậy, thay vì cảm ơn Cộng sản đầy đọa mình, tù nhân của chúng ta thường oán thán họ. Tư tưởng này đã trở thành tai họa cho tôi khi tôi bị đầy tới trại tập trung khổ sai lao động 3.Tôi bị ép giữa hai gọng kìm tù nhân và cai ngục.

Cai ngục Quỳnh “lên lớp” về Nội quy:

- Quốc gia các anh cũng có Nội quy đấy. Nội quy của nhà tù, của trại lính, của trường học, của các lớp huấn luyện, của các trại hè… Ở chỗ nào có sinh hoạt tập thể là phải có Nội quy. Các anh đa số là trí thức thì phải hiểu rõ ý nghĩa của Nội quy. Tù binh chiến tranh gặp kẻ chiến thắng phải chào kính. Quốc tế quy định vậy. Cấm nổi loạn, cấm trốn trại. Nội quycủa cách mạng có bắt các anh hoan hô cách mạng, có bắt các anh bò đâu? Chỉ bắt các anh tuân lệnh cán bộ, giữ trật tự, vệ sinh phòng, ăn ngủ đúng giờ giấc, đừng cãi cọ, đánh nhau, mua bán, đổi chác, tuyên truyền nhảm nhí… Vệ sinh là giữ sức khỏe cho các anh.

Hắn nói toàn những điều nhân đức. Cuối cùng, hắn bắt những người tuyệt thực đứng dậy. Hắn nhìn anh em, nhếch mép cười rồi bỏ đi. Buổi chiều, những người “đòi đi tắm” trở lại phòng hết, trừ Đoàn Kế Tường. Họ bị cai ngục Phách dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào cachot khu FG. Không chịu nổi cachot Chí Hòa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài:

- Chí Hòa không phải là đề lao Gia Định.

Qua một tuần gạn lọc thành phần, chúng tôi nhập phòng bên cạnh. Ở đây, tỷ phú Phạm Quang Khai làm trưởng phòng. Tôi sống chung với tư sản mại bản Chợ Lớn như Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài; với tư sản mại bản Saigon như Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn văn Trương (Khai Trí), Nguyễn văn Trương (bột giặt Viso); với Đằng Giao (bị vào phòng), Nguyễn Mạnh Côn, Đỗ văn Lựu và những khuôn mặt cũ của đề lao Gia Định. Và với cả du đãng, sát nhân… Đời tù lại có nhiều chuyện mới.

--------------------------------

1
Những người lần đầu tiên bị tù gọi là tù con so
2
Ngục Trung Nhật Ký, thơ Hồ Chi Minh
3
Đọc Trại Tập Trung, cùng một tác giả và nhà xuất bản.

CHƯƠNG 22

Chí Hòa không phải là đề lao Gia Định. Để có nhận xét này, nhiều tù nhân đã sưng mặt, phù mỏ. Kinh nghiệm Chí Hòa được phổ biến ở phòng mới. Bây giờ, mọi người mới vỡ lẽ, với Cộng sản không có đòi hỏi, không được phép đòi hỏi. Với Cộng sản, phải giành lại. Muốn giành lại, phải chiến đấu. Khi chưa đủ sức trực diện chiến đấu, cần biết “xếp tàn y lại để dành hơi.” Theo Cựu ước, có một thời im lặng và một thời lên tiếng. Đa số chúng ta không quán triệt cái thời của mình. Nên đã ồn ào lên tiếng vào thời cần thiết im lặng. Do đó, sự lên tiếng vội vàng đã lạc lõng trong hoang vu của thế sự. Mà, buồn thay, sự lên tiếng vội vàng thường hụt hơi. Cuối cùng, nó biến thể thành những gấu ó lẫn nhau vô tích sự, những chụp mũ bôi bẩn lẫn nhau bệ rạc. Rồi tiếng nói nào dõng dạc cho đúng thời? Tôi sợ rằng sẽ không có tiếng nói ấy.



A, tôi cần giới thiệu những nhân vật của phòng tôi. Trước hết là Trần Thành, nhà tài phiệt lừng lẫy Chợ Lớn, một trong những tài phiệt đã góp phần thao túng nền kinh tế miền Nam. Tất cả tỷ phú đều keo cú, bần tiện. Điều này là chân lý. Trần Thành thoát khỏi cái chân lý khốn kiếp. Ông ta hào sảng, cởi mở. Tôi nhớ, có thời gian ngắn sống chung với các ông Hoàng Kim Quy, Lý Sen, Lâm Huê Hồ, Trương Vĩ Nhiên, Trần Thành ở đề lao Gia Định, khu C-1, vào dịp đề lao bắt đăng ký tiền mặt, chỉ cho tù nhân giữ lại 30 đồng. Tỷ phú Trần Thành đã phát tiền tặng các tù nhân “con bà phước.” Ông ta không thèm đăng ký. Ai không nhận tiền, ông ta buồn bã, cố nằn nì được tặng. Trái lại, “vua kẽm gai” Hoàng Kim Quy khó ai xin nổi ông một điếu thuốc lào Cái Sắn chính gốc, hút xong là phê lăn kềnh. Tỷ phú Hoàng Kim Quy, nghị sĩ của nước Việt Nam Cộng Hòa, đã tặng tù nhân đề lao Gia Định, một “giai thoại” bất hủ. Ở đề lao, tù nhân được gửi tiền mua quà. Bài ca nhại lại nhạc và lời Quê em của Nguyễn Đức Toàn sau đây, diễn tả sinh hoạt đề lao:
Trong phòng giam khu C
Thường xuyên 40 người
Một tù hai gang chiếu
Trưa chờ cơm cháy
Sáng chờ chia nước sôi
Ngày điểm danh hai lần
Tờ mờ sáng tinh mơ
Anh em chưa thức dậy
Đã thấy hàng đầy sân
Thôi thì rau, thôi thì chuối
Tương chao, bánh mì, thuốc rê, thuốc lào…
Đủ các mặt hàng, từ dao cạo, cà-phê, trà, rượu, cán bộ phục vụ can phạm với giá cắt cổ. Đó là hiện tượng, không phải bản chất. Tỷ phú Hoàng Kim Quy gửi mua một ký cà-chua. Hôm đó, hàng về trễ. Khi chia, ông bận ngủ trưa. Lúc ông thức dậy, Trưởng phòng bảo ông nhận hàng. Nhà tỷ phú không nhận, ông bắt chia lại để ông chứng kiến. Cả phòng đành gom cà-chua một đống, chia lại. Tù nhân Hoàng Kim Quy đòi hỏi công bằng và hợp lý… chia hàng ở nhà tù, nhưng chưa hề thấy ông đòi hỏi công bằng và hợp lý cho dân chúng ở nghị trường. Mà sự công bằng ông đòi hỏi ở nhà tù cũng chỉ cho riêng ông. Ông lại chỉ đòi hỏi với các bạn đồng tù. Bởi vì, ông ta là một khuôn mặt tiêu biểu của cơ cấu quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nên tôi thấy cần thiết nhắc lại “giai đoạn” bất hủ này. Những “chuyện buồn nhỏ nhặt” xẩy ra ở đề lao thường do các bậc “đại nhân” gây ra. Chẳng hạn, vị đại khoa bảng họ Vũ, ăn cắp chai tầu-vị-yểu (chai nhựa) của bạn đồng tù nghèo nàn, cãi nhau vì cơm chia cho mình có vẻ thiếu cân lạng, bị cai ngục mỉa mai: “Trí thức miền Nam các anh thế đấy a!” khiến đau lòng… trí thức. Nhưng ta trở lại tỷ phú Trần Thành.



Ông ta tình nguyện chùi rửa cầu tiêu và lau quét sàn phòng giam không cần các Tổ cắt cử trực sinh. Luôn luôn, trên môi điếu thuốc lá Ăng-lê, nhà tỷ phú Trần Thành làm công việc “‘đầy tớ” một cách vui vẻ. Không hề nghe ông ta thở dài, tiếc của, than thân, ông nói: “Còn sống, còn hy vọng làm lại.” Tinh thần lạc quan của ông ta đã dạy tôi can đảm chịu đựng. Tôi bỗng quên cay đắng, tủi nhục và nỗi chết. Tôi cũng nhớ nằm lòng câu nói của cai ngục Quỳnh: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản”. Sự khinh miệt của Cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh” lại sôi sục đáy tim tôi. Mỗi tù nhân hiểu “học tập cải tạo” một ý.



Nhiều người khước từ những bài học Cộng sản. Riêng tôi, tôi thành thật cám ơn “lời vàng ngọc” của gã cai ngục tầm thường, có thể, hắn đã cường điệu, hắn đã cương, đã bứt khỏi giáo điều của các lãnh đạo hắn. Song, quý hóa thay là ngón võ “đem cái đạo của thiên hạ trả lại thiên hạ.” Tôi nhập tâm câu nói: “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng sản.” Chúng ta đã, đang chiến đấu chống Cộng sản, chỉ tiếc rằng, trong chúng ta còn khá đông những kẻ tưởng tượng đau khổ mà chiến đấu. Và, tệ hại hơn, còn khá đông những kẻ nhục mạ nỗi đau khổ chống Cộng của người khác. Để độc quyền chống Cộng bằng đau khổ tưởng tượng. Chí Hòa là nơi tôi sẽ học hỏi nhiều hơn.



Nhân vật thứ hai của phòng tôi là Đào Mậu, Bang trưởng bang Quảng Đông, Saigon. Nhà tỷ phú này già nua, thâm trầm, ít nói, không có nét “đan thanh” nào cần diễn tả. Nhân vật thứ ba là Tăng Tài mà Đoàn Kế Tường đã phong chức Tư lệnh hải quân đường sông. Mọi vận chuyển lúa gạo đường sông miền Nam nằm trong tay ông Ba Tầu bụng phệ không biết viết cả chữ Tầu lẫn chữ Việt này. Tăng Tài, chắc chắn, thuộc huyết thống Tăng Sâm, rất có công lao vận chuyển thuốc Tây vào mật khu cho Cộng sản. Thế mà vẫn bị nhúm. Vì tư sản mại bản. Tư lệnh hải quân đường sông có bệnh thích cầm nhầm, bệnh “mất áo trắng đòi áo thâm.” Hôm chúng tôi bị khám hành lý, Đặng Hải Sơn xếp dọn đồ tù bị lục tung thấy lạc cái khăn tắm. Trưởng phòng yêu cầu anh em tự giác lôi hành lý của mình ra cho Đặng Hải Sơn tìm khăn. Cái khăn của Đặng Hải Sơn bị “lạc” vào bị của Tăng Tài. Vị tư lệnh hải quân đường sông thản nhiên nói: “Đây là khăn của tôi, nhưng nếu anh Sơn mất, tôi xé chia đôi”.



Đặng Hải Sơn ngao ngán: “Thôi, ông giữ mà dùng, giữ nguyên chiếc.” Dĩ nhiên, tỷ phú Tăng Tài cười rất đẹp và không cần… cám ơn.



Nhân vật thứ tư là Trương Viso. Nhà tư sản mại bản Việt 90% gốc Hoa 10% này có đức tính thích-hơn-người. Nước đã chia đều cho tù nhân dùng vào việc cá nhân. Trương Viso vẫn “chôm” nước xối cầu tiêu của phòng. Đoàn Kế Tường lãnh nhiệm vụ phân phối nước, chửi um lên. Trương Viso vẫn trơ ra. Anh em tặng Trương Viso hỗn danh Trương thớt me. Tôi hỏi ông ta:



- Ông không xấu hổ à?
Trương Viso tỉnh bơ:
- Xấu hổ gì? Đứa nào tức giận tôi, nó sẽ mau chết. Còn tôi, tôi cứ sống lâu.

Cái triết lý sống của Trương Viso sẽ hay lắm, nếu ông ta đừng xâm phạm vào quyền lợi của người khác. Người Tầu mưu sinh đất khách đã sống với triết lý đó. Mày cứ chửi ông, cứ coi thường ông đi, rốt cuộc ông giầu hơn mày, mạnh hơn mày.


Tôi vừa kể những khuôn mặt tư sản mại bản Chợ Lớn. Bây giờ, điểm mặt tư sản mại bản Saigon, Việt Nam chính gốc. Nhân vật cự phách hàng đầu vẫn là Phạm Quang Khai, tư lệnh hải quân đường biển. Ông Khai có những 50 chiếc tầu chở dầu chiến lược. Ông trở thành tỷ phú, được báo Newsweek của Mỹ xếp vào hạng 1 trong 10 người giầu nhất Việt Nam nhờ chiến tranh. Ông Khai không làm buồn ai, không làm hại ai cả nhưng vì quá tiếc của, vợ con lại… di tản từ khuya, ông đâm ra lẩm cẩm. Ông bị kẹt lại là do muốn di tản hết chổi cùn giế rách.



Chúa tầu mà không đi lọt, âu cũng là thiên định. Và còn là nguồn an ủi của những ai phải ở lại với Cộng sản. Ông tư lệnh hải quân đường biển Phạm Quang Khai có thú vui vá quần xà-lỏn. Hai cái quần của ông mỗi ngày một dầy, liệng xuống sông là chìm nghỉm. Đã thế, ông còn chơi râu. Tù nhân trên 50 tuổi, Đảng cho phép chơi râu, tuy Đảng rất thèm râu dành độc quyền cho Bác Hồ chơi. Ông Khai chơi râu, cai ngục khó chịu lắm. Hồi sống chung với ông Khai ở 1C-1 đề lao Gia Định, tắm sau ông là đợi dài. Ông… gội râu đã mất hai mươi phút, giặt quần xà-lỏn đụp hai mươi phút. Ông đeo kính lão cả giờ ngủ. Mỗi ngày, ông nằm “đạp xích-lô” ba lần, mỗi lần ông đếm dủ 3000 vòng. Để chữa bệnh trĩ, ông nói thế. Ông cũng đọc kinh, bấm đốt tay thay vì lần tràng hạt, mỗi ngày ba lần. Bốn giờ ông đã dậy đọc kinh, “đạp xích-lô”. Lúc ông đọc kinh, quan sát ông, tôi suýt phì cuời. Tay trái là tràng hạt, tay phải cầm quạt quạt phành phạch, miệng bập bập liên hồi. Tuy đọc kinh có vẻ tập trung tư tưởng lắm, nhưng đôi mắt ốc nhồi của ông vẫn ngó ra phía cửa xem cai ngục có đi tuần “đột xuất”. Hễ nghe bước chân cai ngục là ông Khai “phanh” miệng cái rốp. Sau khi đọc kinh, ông cung kính vái lậy tường tù và… tù nhân. Cai ngục nực ông vô cùng. Thằng Phách đã xỏ ông: “Anh Khai, anh đừng dỡ trò nhà có của đóng cửa đi ăn mày nhé! Cách mạng chưa tịch thu quần đùi của anh đâu. Anh bêu riếu cách mạng vừa vừa thôi.” Vậỵ là ông Khai liệng quần xà-lỏn đụp tại Chí Hòa. Ông đã giải phóng quần xà-lỏn, giải phóng công nhân xà-lỏn, không nỡ bóc lột thêm. Thú vui nặng tính chất “tỷ phú” của ông là làm cô-lếch-sông gói giấy đựng mì. Ăn mì xong, ông giữ lại cái bao, vuốt ve phẳng phiu, xếp ngay ngắn, cất vào bị. Anh em xin, làm đóm hút thuốc lào, ông không cho. Bị khám hành lý, cô-lếch-sông bao mì của ông bị cai ngục tịch thu, ông nằn nì xin lại vài cái. Cứ vậy, dài dài. Ông lẩm cẩm hay máu tỷ phú nó thế. Đồ thăm nuôi của ông, ông không tiêu thụ hết, nhất định để mốc vất thùng rác chứ chẳng dại cho các “con bà phước”. Đấy, nhà tỷ phú Phạm Quang Khai, ngang cơ tỷ phú Hoàng Kim Quy. Vua tầu dầu và vua kẽm gai giống hệt nhau.



Ông vua thứ ba, vua hóa chất Nguyễn Công Kha hỗn danh Kha muối 1, không đến nỗi keo cú và ích kỷ như hai vua tầu dầu, vua kẽm gai, nhưng có tính lo xa. Nghĩ rằng chỉ sợ hết thức ăn sớm, không chịu nổi canh bí rợ nấu muối. Ngày thăm nuôi, gia đình gửi vào ba miếng thịt bò bíp-tếch, một con gà rô-ti… Thay vì đã có sườn kho theo kiểu ‘’chả chìa”, thịt chà bông, thịt kho ăn dài hạn, bíp-tếch, gà rô-ti thưởng thức ngay cho sướng miệng. Không, người lo xa Nguyễn Công Kha ăn một miếng bíp-tếch bò thôi. Hai miếng kia rắc đầy muối, bỏ vô hũ, để dành tuần sau! Còn chú gà rô-ti, hôm sau đã có chất nhờn trên da, vua hóa chất nhờ bạn tù nghèo lột da, xé thịt rồí… ướp muối. Xương và da nhờn tặng “con bà phước”. Mất cả tỷ bạc mà vẫn ướp muối bò bíp-tếch thì… lạc quan thật. Ông Kha có hai niềm vui. Một: Khom lưng cúng Phật. Ông là người thân cận của hòa thượng Thích Tâm Châu. Một hôm, đang say mê cúng Phật, ông quên cai ngục Phách đứng ngoài hành lang theo rõi ông.



- Anh kia!
Vua hóa chất giật mình:
- Làm gì thế?
- Tôi tập thể dục, cán bộ ạ!
- Thành khẩn đi, anh lễ lạy ai?



- Dạ, tôi lễ Phật.
- Anh mất tự do rồi, cấm chỉ anh lễ Phật.
- Nhà nước chủ trương tự do tín ngưỡng.
- Trong tù không có tự do, hiểu chưa?
- Hiểu.
Ông Kha mất niềm vui cúng Phật. Hai: hàn những lọ nhựa, keo nhựa, xô nhựa bị thủng. Ông hàn giúp bất cứ ai nhờ ông. Để thay thế niềm vui cúng Phật, lợi dụng xuống tắm, ông lượm sợi giây điện lớn, cục đá nhỏ đem lên phòng chế kim khâu, ông Kha tỉ mỉ đục cái lỗ xuyên chỉ thì tuyệt. Vua hoá chất cung cấp kim may túi, may quần xà-lỏn, vá áo cho Đặng Hải Sơn, Mai Đức Khôi…



Nhân vật tư sản mại bản tôi sắp kể chưa lên hàng vua là Bùi Kim Bảng 2, con trai của giáo sư Bùi Hữu Sủng. Ông ta, chủ một viện Bào Chế Âu Dược, tròn như hột mít. Chỉ có một điều đáng nói về ông Bùi Kim Bảng. Các phòng giam tại Chí Hòa, cầu tiêu xây ở góc phòng, sát sàn nước. Phải leo lên cái tam cấp mới đại, tiểu tiện được. Do đó, tù nhân gọi công việc đại tiện là lên sân khấu. Ông Bùi Kim Bảng có thói quen lên sân khấu vào đúng bữa cơm trưa. Ác nghiệt thay, ông “diễn trò” giữa lúc anh em ăn dở dang. Trò của ông “thối” vô cùng, ông lại “chơi ra-phan”, chấp tất mọi la lối, chửi thề. Đó là mẫu trí thức chỉ biết mình và thói quen của mình. Khác hẳn người tự trọng Khai Trí Nguyễn Văn Trương, chờ khuya mới “lên sân khấu” vì mắc bệnh trĩ, không muốn phiền ai đợi mình lâu.
Ngoài mấy nhân vật tư sản mại bản, trừ Trần Thành, mà sống chung với họ mòn đời, chắc chắn, tôi không học được ở họ một điều gì hữu ích. Họ chỉ than van, oán trách rồi mơ ước Cộng sản thua. Để họ được trả lại những gì Cộng sản đã tước đoạt của họ. Nhân sinh quan của họ không thay đổi, dẫu họ đã bị xoáy tròn trong cơn lốc tháng 4 năm 1975 và đã tận mắt chứng kiến sự khốn cùng của dân tộc họ mà chính họ chịu trách nhiệm lớn. Có những kẻ sinh ra chỉ biết làm giầu và chẳng thèm biết đến ai. Những kẻ ấy, ở bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn chẳng thèm biết đến ai. Bất hạnh cho dân tộc ta là có khá nhiều hạng người ấy.



Tôi kể sang những nhân vật chính trị của một chính phủ… buồn cười: Chính phủ liên bang Đông Dương. Câu chuyện như thế này:



Cụ Đỗ Văn Lựu, cựu đại tá Ngự Lâm Quân, thời đeo lon trung úy đã đồn trú tại tô giới Thượng Hải, bố vợ của tướng Phạm Văn Phú. Cụ Lựu vốn là bạn thân của ông Bùi Ngọc Phương. Ông Phương, hẳn mọi người còn nhớ rằng, đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù về tội Công ty dầu lửa chi đó. Cụ Lựu có một đệ tử tên là Nguyễn Văn Cương mà Đằng Giao tặng biệt đanh Cốc Chính Cương. Cốc Chính Cương, kỹ sư canh nông còn trẻ, được chế độ mới lưu dụng và xử dụng vào công tác đắp đập Ông Nhiêu làm thủy lợi. Đập Ông Nhiêu thất bại. Cốc Chính Cương bị phê bình phá hoại. Vừa lo sợ, vừa phẫn nộ, Cốc Chính Cương gặp cụ Lựu, phịa chuyện có 7000 tinh binh, sẵn sàng điều động. Cụ Lựu dậy hồn trẻ, muốn báo đáp non nước tấm thân già tin Cốc Chính Cương và nhập cuộc. Cụ rủ Bùi Ngọc Phương, con rể của tác giả Mồ Cô Phượng. Ông Phương mê cầu cơ và nhiều thủ đoạn, lại có máu lãnh tụ. Để chính thức được nhận là Tổng thống chính phủ Liên bang Đông Dương, ông Phương mời cụ Lựu và vài vị tổng trưởng về thánh thất Cao Đài. Ông thuê đồng tử, trinh nữ nhập cơ nói những điều ông đã dặn. Cơ lên, chỉ đúng ông Bùi Ngọc Phương mà phán “Chân mạng đế vương”. Cụ Lựu tin, nhiều tổng trưởng tin. Ngô Khởi dạy: Khi xuất quân, không tin cái thế tất thắng ở mình thì chỉ còn cách bói mu rùa. Thời gian sau 1975, con người bối rối, nôn nóng cứu nước đến mê muội, tin cơ là chuyện thường. Và Bùi Ngọc Phương hiểu tâm lý con người quá xá. Nhưng, những Lê Khải Trạch, Nguyễn Cao Thanh, Vũ Đăng Dung không tin cơ đâu. Họ tin 7000 tinh binh của Cốc Chính Cương mà họ tưởng là của tướng tuẫn tiết Phạm Văn Phú, vì cụ Đỗ Văn Lựu nói. Rốt cuộc tổng thống Bùi Ngọc Phương, phó thủ tướng Đỗ văn Lựu, các tổng trưởng vào tù. Cốc Chính Cương vào tù luôn. Phòng tôi có cụ Lựu, ông Phương, chàng Cương. Họ nhìn nhau cười trừ. Những chiến sĩ chống Cộng bằng… cầu cơ còn tiếu lâm hơn cả ông Đinh Xuân Cầu chống Cộng với Mỹ của Trương Phiên. Tôi bỗng thấy mình ngu dại. Có ai nguyền rủa kẻ sắp chết đuối bạ cái gì cũng níu không nhỉ?



Nhân nói về chính phủ Liên Bang Đông Dương… cầu cơ, tôi kể một câu chuyện xẩy ra tại Đề Lao Gia Định. Một tù nhân tâm sự với tôi rất thành khẩn:
- Ông tin tôi đi, Mỹ đã đổ quân lên Trường Sa, chờ ngày giải phóng Saigon. Nó viện trợ 2 tỷ đô la. Mấy trăm ngàn xe hơi Mazda đã có sẵn ở Trường Sa rồi.
- Dựa vào đâu mà ông bảo tôi tin?
- Cứ tin đi!
- Ai nóí?
- Thì cơ nói chứ ai nói!
Hơn một nghìn ông thầy bói đã bị đi học tập cải tạo mấy tháng chỉ vì dám đoán cái thế tất thua của Cộng sản và sự thành công vượt biên. Tôi mà chỉ sống chung với tỷ phú và tổng thống, tổng trưởng, ngày tháng tù sẽ dài vô tận. May mắn chừng nào, cái vũ trụ Chí Hòa của tôi còn có sát nhân, tướng cướp, án tích du đãng cũ, bộ đội đào ngũ, cán bộ mất phẩm chất cách mạng. Và Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường, Hoàng Mạnh Hùng, Đặng Hải Sơn, Khai Trí, Nguyễn Mạnh Côn, Phan Thành Trường, Mai Đức Khôi, Cốc Chính Cương… Phan Thành Trường, kỹ sư cầu cống, tốt nghiệp tại Pháp, con trai bà hiệu trưởng Trưng Vương. Anh về nước phục vụ, dạy học ở Trường Kỹ thuật Phú Thọ. Không chấp nhận chế độ Cộng sản, anh gia nhập tổ chức chống Cộng của những người lính nhẩy dù.
o O o



Vài nét về vài nhân vật của phòng mới của tôi do Phạm Quang Khai “lãnh đạo”. Những nhân vật đề lao mà tôi đã sống với họ như Phan Bá Thúc, Hà Năng Đắc… thì miễn kể. Niên trưởng phòng tôi là cụ Ngao Song, người Nùng, 80 tuổi, cựu đại úy Biệt khu Hải Yến. Nhi đồng phòng tôi là Nguyễn Ngọc Phước, 8 tuổi, móc túi ở bến xe đò. Đã có một tờ báo dành cho độc giả từ 7 đến 77 tuổi, phải có một nhà tù dành cho tù nhân từ 8 đến 80 tuổi. Trẻ không tha, già không thương là nhà tù Cộng sản.

Lần đầu tiên, kể từ ngày bị bắt, tôi mới có dịp sống chung phòng với anh Nguyễn Mạnh Côn. Cơn nghiện đã tha anh, không hành hạ anh nữa. Thuốc phiện hút chất nước trong cơ thể con người. Thiếu thuốc phiện, anh Côn “mập” ra, thứ mập thê thảm. Trông anh như bị phù. Mắt anh lờ đờ và tất cả tinh anh của anh biến mất.



Tính ra, tôi đã sang Chí Hòa hơn một tuần. Đoàn Kế Tường vẫn nằm cachot rùng rợn của khu FG. Đằng Giao đã chia cơm nước cho cachot FG kể rằng, các “lãnh tụ” Vinh Sơn nằm ở cachot, chưa bị xử tử. Cha Nghị, “tướng” Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đủ mặt. Cha Nghị đã mù vì tuổi già mà cachot tối om, tanh tưởi, nhầy nhụa. Tôi chờ Đoàn Kế Tường về tả tỉ mỉ bên trong cachot FG.



Không có Giáng Sinh tại Chí Hòa. Sau khi đã ổn định các phòng mới, tù nhân được mua giấy, phong bì, tem, bút viết thư báo tin cho gia đình biết trại mới và thể thức thăm nuôi. Bút viết xong phải nộp cai ngục. Gọi là thăm nuôi chứ chỉ nhận quà thôi. Lệ Chí Hòa lạ lắm. Có án mới được gặp vợ con, thân nhân. Chúng tôi là tù nhân không án tích, không xét xử. Khác với đề lao Gia Định, mỗi tháng, Chí Hòa cho nhận quà một lần. Gia đình không nhận thư là kể như đợi tháng sau. Thư tù thay thế giấy thông hành qua cửa khám. Vụ mua hàng dẹp bỏ. Chúng tôi phải chờ gần Tết mới nhận quà mừng xuân. Sinh hoạt của Chí Hòa, chúng tôi đã quen. Kẻng báo thức: Dậy, đánh răng, rửa mặt, chuẩn bị điểm danh. Điểm danh xong, xuống hồ xách nước. Màn xách nước sôi nổi nhất. Anh em tình nguyện lao động, cãi vã, giành giật phục vụ tập thể. Xách nước có lợi lớn. Thứ nhất, được múc một thùng xối từ đầu xuống chân làm một “quả” tắm chớp nhoáng. Thứ hai đem theo cái bình bốn lít lấy đầy nước xối cầu ưu tiên. Nếu bồ ruột đi xách nước, ta xung phong trần truồng, cầm bàn chải chà cầu, bồ của ta sẽ tặng ta trận tắm ngoạn mục trên “sân khấu”. Chúng tôi, 60 tù nhân, một ngày được cung cấp 20 thùng nước. Phòng có một cái phuy nên xô nhựa lớn nhỏ của tù nhân bị trưng dụng chứa nước. Phòng nhờ một tù nhân bảo quản nước. Năm ca nước cho mỗi người một ngày dùng vào các dịch vụ đánh răng, rửa mặt, rửa chén, rửa đít. Đi cầu chỉ xử dụng hai ca nước công dội cầu. Đi tiểu, một ca thôi. Ai xử dụng nước phải hỏi quản lý và bị giám sát. Bồ bịch thì du di. Quản lý nước thường lời cả xô. Chàng tắm thoải mái buổi tối nhưng chàng phải bỏ ngủ trưa để canh gác nước. Nước qúy nên có màn bán nước. Bốn ca một cục đường. Một ca một điếu thuốc lào thật phê. Những kẻ bán nước là “con bà phước”, không cần đánh răng vì không bàn chải và kem đánh răng, không cần rửa mặt và không cần rửa chén.



Người ta đã cho chúng tôi tắm đúng hạn kỳ. Tuần lễ hai lần tắm, mỗi lần 8 phút. Tắm không dám sát xà phòng. Đã tắm là khỏi giặt quần áo. Mà giặt quần áo là khỏi tắm. Bởi vậy, nhiều tù nhân chậm chạp chơi trò mặc quần áo vừa tắm vừa giặt. Tỷ phú Phạm Quang Khai hết thú gội râu. Đang tắm, chưa xối sạch xà phòng, nghe tu hít thổi, phải ra xếp hàng, điểm danh rồi lên phòng. Bệnh ghẻ ở Chí Hòa tái phát, leo thang vun vút.



Sau mục xách nước tới mục lau sàn phòng, chia nước sôi… âm ấm. Rồi pha bột, ngâm mì. Rồi cờ tướng, đô-mi-nô. Rồi thuốc lào vặt, tán láo. Rồi chờ cơm trưa. Kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi dựa tường, ngồi bó gối, nằm nhớ nhà, nhớ đời…



Trưa ở Chí Hòa hiu hắt vô cùng. Tôi chưa biết âm ty, hẳn nhiên, vì tôi chưa chết. Dẫu tôi chết, tôi khó phục sinh để diễn tả những gì tôi thấy dưới âm ty. Nhưng mà, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, tôi đã nghe rõ những âm thanh quái đản từ phòng dưới. Làm sao tôi viết chính xác những âm thanh một đời chỉ có một lần được nghe nhờ ngụp lặn giữa dòng bất hạnh? Cảm giác của tôi, lúc ấy, là rờn rợn, nổi da gà. Tôi đã hình tượng hàng tỷ con ròi lúc nhúc trên lớp phân đang ồn ào đòi hỏi một thứ quyền sống. Tôi cũng còn hình tượng một đại hội âm ty báo cáo thành quả tội ác của qủy sứ. Và liên hoan… Bây giờ, ngồi viết hồi ký Nhà tù, tôi thèm được, một lần nữa, nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe lại những âm thanh quái đản mà tôi nghĩ đã trở thành điệu ru tuyệt đời của tôi. Chí Hòa, tôi đã mô tả thật kỹ ở tiểu thuyết Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang. Tôi mô tả theo sự tường thuật của các tù nhân Chí Hòa. Đúng đấy nhưng chưa thực. Hôm nay mới thực, bất cứ một chi tiết nào của Chí Hòa, của Chí Hòa sau cái người ta gọi là cách mạng, giải phóng. Để có cái thực, tôi phải nằm nghiêng sát tai trên sàn xi-măng, trong nỗi hoang vu của trưa Chí Hòa, nghe những âm thanh quái đản. Thỉnh thoảng, ở cái sa mạc loài người đó, giọng nói nhọn hoắt của một nữ tù phóng ra: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người bệnh nặng’’. Giọng nói nhọn hoắt chìm vào im lặng cố tình. Ngay con chim sẻ đậu trên sợi kẽm gai của cửa gió phòng giam cũng buồn bã nín thinh. Nhân loại bên ngoài càng nín thinh. Và đồng loại nín thinh kỹ hơn. Đôi khi, đồng loại bên ngoài ầm ỹ chát chúa để khỏa lấp những vô tình chủ mưu. Khi đó, bên trong, giọng nói đã hụt hơi, rời rã: “Báo cáo cán bộ, cachot A-4 có người sắp chết”! Nhiều nhà văn triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất hay dạy triết lý giáo khoa thư lớp đệ nhất của chúng ta, hằng đề cập tới tiếng thét của cô đơn. Ở đâu chúng ta nghe rõ tiếng thét của cô đơn? Ở chấp vá, vay mượn tư tưởng của các triết gia thế giới rồi nhập nhằng nhận là sáng tạo của mình? Hoặc ở sự tưởng tượng sau cuộc vui chóng tàn? Hoặc ở cung cách làm dáng tư tưởng trong văn chương? Riêng tôi, tôi thấy tiếng thét của cô đơn ở những buổi trưa, những ban đêm tù ngục; tiếng thét của cô đơn ở ngay quê hương tôi, ở nơi tôi sinh ra, khôn lớn, đau khổ, chịu đựng và hy vọng. Nếu sự chịu đựng đau khổ để tạo dựng ngày mai hạnh phúc thì, tôi khẳng định rằng, ngày mai hạnh phúc của dân tộc tôi phải do người quê hương tôi tạo dựng ngay trên quê hương tôi. Hạnh phúc của dân tộc tôi không bao giờ ở Mỹ châu, Âu châu hay Úc châu, không bao giờ là những đồng đô-la lạc quyên mập mờ, không bao giờ là những chiến khu thuê rừng đất khách, không bao giờ là vo ve của bọn nhặng đấu thầu nỗi khổ, rao bán nghẹn ngào của dân tộc. Trước hết và sau hết, bọn giả vờ yêu nước chưa đủ kiến thức nghe và hiểu nỗi cô đơn của dân tộc họ. Cả Cộng sản lẫn quốc gia. Bổn phận của nhà văn là lay động cái bóng tối u mê phủ kín những tham vọng đê tiện làm què quặt dân tộc, làm u ám quê hương. Người ta đã khước từ cái sứ mạng cầm bút đó. Rốt cuộc, mặt trận mà Cộng sản sợ hãi nhất là Mặt trận Văn hoá thì hoàn toàn im lặng, thụ động. Thụ động buồn tênh trong cái thế tư tưởng quốc gia đối kháng tư tưởng mác xít, chủ nghĩa nhân bản đối kháng chủ nghĩa phi nhân. Đôi khi, tôi rất tội nghiệp tôi. Trải dài đời mình chịu đựng mọi oan khiên, nhục nhã để cống hiến đời sống, ít ra, những trang sách về tù ngục Cộng sản chính xác nhất, chẳng những vô tích sự mà còn bị căng thây lãnh hàng trăm mũi tên bẩn. Tôi dứt khoát tuyên bố, sau khi ký tên hoàn tất hồi ký Nhà tù và Trại tập trung, tác phẩm của tôi sẽ không còn hai tiếng Cộng sản nữa. Tôi không chống Cộng nữa. Tôi noi gương các tiên chỉ, lý tưởng văn nghệ hải ngoại, cúi gầm mặt trước bạo lực, thản nhiên trước những rên siết, quằn quại của tổ quốc, dân tộc, nói chuyện tình yêu, viết chuyện ăn uống. Để được tiếng đứng đắn, không công kích ai. Để được lòng cả quốc gia lẫn Cộng sản. Để được cả Cộng sản và quốc gia khen ngợi. Và được cả những đứa bần tiện nhất trên đời ngưỡng mộ. Tôi đã chọn lựa một thái độ. Tôi không ngu đi chống Cộng một mình, nhịn đói chống Cộng. Để bị quốc gia bêu nhục. Để bị Cộng sản nguyền rủa. Có lẽ, tôi nên trở về Chí Hòa của tôi.



Kẻng trưa báo thức: Dậy, chờ nước sôi. Phải nói nước đun sôi. Tôi chưa thấy nước sôi ở Chí Hòa bốc khói khi gánh lên phòng. Sinh hoạt phòng giam ồn ào. Lại cờ tướng, đô-mi-nô ăn đấm lưng, hút thuốc lào vặt, tán gẫu và ngồi thẫn thờ nhớ vợ, thương con. Láng giềng của tôi, phòng bên trái là tù hình sự, có Nguyễn Đăng Viên, anh ruột của nhà văn Mai Thảo; phòng bên phải là tù phản động gồm toàn con cháu các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhờ đi tắm ngang qua phòng nhau, chúng tôi nhận ra nhau dễ dàng. Người ta bảo các ông Ngô Khắc Tinh, Hồ Văn Âm bị giam ở Chí Hòa. Tôi chưa gặp mặt họ. Tôi ước ao chuyển phòng khắp 4 khu Chí Hòa. BC là khu tôi thích đến, vì trong truyện ngắn Ánh lửa đêm tù tôi đã tả một phòng giam BC do Nguyễn Thụy Long kể. Có một sự kiện buồn cười giữa Nguyễn Thụy Long và tôi. Tác giả Loan mắt nhung mới là du đãng thứ thiệt, tay giang hồ hạng nặng, từng nằm quân lao Gò Vấp, khám Chí Hòa. Nguyễn Thụy Long khoái tôi, ưa tâm sự với tôi về cuộc đời ngang dọc của anh. Long thật hiền. Anh em tặng biệt danh Trâu Nước Quách Tỉnh. Mê quãng ngày hành hiệp của Long, tôi viết Điệu ru nước mắt. Thấy tiểu thuyết du đãng thành công, Nguyễn Thụy Long bèn sáng tác Loan mắt nhung. Rồi hàng loạt tiểu thuyết bụi đời. Được nhờ giới thiệu Loan mắt nhung sau bìa sách, tôi đã cho Trần Đại lu mờ trong vùng trời giang hồ. Đến khi Nguyễn Đình Thiều viết loại truyện này, tôi để một Nguyễn Thụy Long tung hoành, khai thác đề tài mới. Tôi thích đến khu BC, bởi vậy. Nhân vật Quân của Ánh lửa đêm tù là hình ảnh Nguyễn Thụy Long.



Kỷ luật ở Chí Hòa “sắt thép” hơn đề lao Gia Định. Qua đây, kể như hồ sơ của chúng tôi đã khép lại, hết còn bị hành hạ tự khai. Thay vào sự hành hạ tinh thần, Chí Hòa khủng bố tinh thần, đày đọa thể xác và thường xuyên đe dọa tù nhân bằng những quyết định tự chế của từng cai ngục. Tư Long, tôi nhắc lại, là tên Cộng sản nằm vùng, bán vé và xếp chuyến xe đò Minh Trung lộ trình Saigon – Đà Lạt. Sau 30-4-75, hắn đeo quân hàm đại úy công an, nắm chức vụ Trưởng trại đề lao Gia Định. Bây giờ, Tư Long bị hạ tầng công tác, xuống chức Trưởng khu FG. Chắc chắn, vì lờ đờ bị hạ tầng công tác nên Tư Long đã hung hăng ở Chí Hòa. Cai ngục và đám trật tự thuộc hạ cai ngục đều hắc ám và thường xuyên rình mò phòng tôi. Có điều lạ là qua Chí Hòa, chúng tôi ăn cơm hai bữa với canh bắp cải hầm xương heo. Ăn no nê. Đằng Giao giải thích: Bếp do sĩ quan cảnh sát khu ED phụ trách và Bộ Nội Vụ cung cấp thực phẩm. Nhưng tuần trăng mật cơm canh chẳng kéo dài, Sở Công An tiếp thu bếp, tù nhân phải ăn cơm với bí rợ nấu muối. Và đội cấp dưỡng gồm lũ công an can tội hiếp dâm, ăn cướp… Ở Chí Hòa, người ta không phát chén, ca, muỗng, chiếu. Các “con bà phước” phải xin những cái bình nhựa đựng nước tương, nước mắm của tù nhân thừa bình, cắt bỏ phần trên, lấy phần dưới đựng canh. Cơm thì chia vào túi ny-lông. Bốc cơm, húp canh. Chúng tôi cắt bị cói may chiếu. Đặng Hải Sơn và Mai Đức Khôi đã trở thành tay thợ may tài tình. Mép chiếu viền vải đàng hoàng. Nhét tiền vào viền vải, chắc ăn nhất, cai ngục đâu ngờ mà lục xét.



Vài hàng về Mai Đức Khôi, hỗn danh Độc thủ phản động. Khôi, sĩ quan tốt nghiệp Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chiến đấu cụt một cánh tay, chủ trương một hãng thông tấn tư. Can tội phản động. Dáng dấp thư sinh, bướng vô tả, ăn thua đủ với cai ngục nhưng nhường nhịn bạn bè, nhất là những người ít tuổi. Chỉ một tay thôi, Độc thủ phản động có thể cắt quần xà-lỏn, sửa sơ-mi bằng dao nắp lon sữa bò mài sắc và kim giây đồng do Nguyễn Công Kha chế tạo. Tất cả ba-lô may bằng túi đựng phân bón và chiếu may bằng bị cói phá ra của phòng đều đo Khôi cụt và Đặng Hải Sơn đảm trách. Thoạt đầu, “con bà phước” nằm sàn xi-măng. Qua vài kỳ thăm nuôi, ai cũng có chiếu made by Khôi cụt.



Đoàn Kế Tường đã ra cachot. Tường nói:
- Gần Tết rồi, nhớ anh em quá, đành làm kiểm điểm nhận lỗi và hứa không tái phạm. Với lại cachot Chí Hoà châm quá, không chịu đựng thêm nổi. Em đã cố gồng thử sức, rốt cục xìu.



Có Đoàn Kế Tường, không khí phòng sinh động hẳn. Tường, dân Quảng Trị, giọng nói nặng nề khó nghe mà ham nói nhiều, nói lớn. Tính nóng nẩy, ưa dính vào chuyện bất bình của kẻ khác, không nể nang chi già trẻ, nếu già trẻ sai trái. Bản chất tốt nhưng đầy mặc cảm xuất thân bần hàn. Nằm cachot FG ngót bốn tuần, có lẽ, Đoàn Kế Tường đã truy nã kỹ lưỡng thân phận mình nên dáng điệu buồn bã, mệt mỏi. Tự nhiên, trong những tâm sự riêng tư, Tường bầy tỏ sự thù hận Uyên Thao và khai hết mọi lầm lẫn thuở cộng tác với nhật báo Sóng Thần. Tường hối hận đã gián tiếp dính vào vụ ám sát Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm Đông Phương. Có cuộc trần tình giữa Đoàn Kế Tường với Đằng Giao về chuyện hất Chu Tử khỏiSóng Thần. Hoàng Mạnh Hùng và tôi ngồi nghe. Nội bộ Sóng Thần được mổ xẻ ở nhà tù Chí Hòa. Tôi đâm ra ớn. May mà tôi đã giã từ làng báo từ năm 1970. Và tôi không ngạc nhiên khi hay tin ký giả Đạm Phong bị bắn chết ở Hoa Kỳ.

- Nó cho cậu viết thư chưa?

- Rồi, ngay sau ký tên dưới bản kiểm điểm. Nó hứa đưa thư đến tận nhà.

- Nhà ai?



- Chị em.
- Còn vợ con?
- Thôi, các anh ạ, quên chuyên ấy đi.



Tôi thấy Đoàn Kế Tường rơm rớm nước mắt. Tường kể trận đòn hội chợ, kể những ngày cachot thê lương, kể những lần đối thoại trong bóng tối với cha Nghị, với Ali Hùng và với một nữ tù nhân. Cuộc đời Đoàn Kế Tường là một cuốn tiểu thuyết đầy tình tiết lâm ly. Thông minh, có chí song gặp đàn anh tồi. Rồi cứ nằm gọn trong móng vuốt của đàn anh phù thủy và làm âm binh mê muội đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Từ nhập thế, Đoàn Kế Tường chỉ có một lần làm đúng và làm theo ý mình. Là chống Cộng sản tự nguyện. Sau 30-4-1975, Tường thất chí, bỏ bê vợ con, sống lang thang ở các vỉa hè với chiếc xích lô đứng tên mình. Đạp xích lô để đủ tiền hút Lucky! Chán nghề đạp xích lô, Tường bán xe, tậu chiếc ba gác. Chán đạp xe ba gác,Tường tìm Dương Đức Dũng kiếm đường vào mật khu. Không có mật khu, hai chàng thành lập một tổ chức phản động, kết nạp toàn sinh viên, học sinh. Họ mời cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Tài chính do nhà quảng cáo Thái Sơn và Phó giám đốc khách sạn Palace bảo trợ. Hai chàng tuổi trẻ đều là ký giả nên hăng say xuất bản báo lậu. Bất hạnh cho cả hai và tổ chức là tên công an Đỗ Hữu Cảnh (luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng, nằm vùng) lọt vào tổ chức. Tất cả dính lưới Mai Chí Thọ. Muốn diệt trọn ổ, Mai Chí Thọ dùng Đoàn Kế Tường làm cò mồi. Những ngày đầu vừa bị bắt, công an ngụy trang thường dân dẫn Tường tới Caféterie Palace, bảo Tường ngồi riêng một bàn. Bất cứ ai quen biết Tường, sà lại chào hỏi Tường là bị nhúm. Phó giám đốc khách sạn Palace bị nhúm tại đây.



- Em ngồi đọc kinh thầm cầu nguyện đừng có ai quen biết vô đây. Em đã gặp anh Hoàng Anh Tuấn dắt xe đạp xì bánh ngang qua, em chỉ sợ anh ấy ngó thấy em.



Đoàn Kế Tường bị bắt cuối năm 1975.
- Anh ạ, cái màn này đã làm em choáng váng. Khối người kết tội em chỉ điểm bắt “đồng chí”.



Chuyện này, cả Tường lẫn Dũng và Thái Sơn đã kể cho tôi nghe ở đề lao Gia Định. Tôi càng yêu mến người bạn tuổi nhỏ của tôi. Trong Bầy sư tử lãng mạn, tôi có viết về Tường và Dũng để tỏ lòng ngưỡng mộ. Chúng tôi lại gặp nhau ở Chí Hòa. Dũng ăn đòn toét môi, nằm cachot FG một đêm. Tường ăn đòn oằn thân thể, nằm cachot FG ngót nghét một tháng. Sẽ chẳng có một dòng chữ nào viết về Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và sư tử lãng mạn chống Cộng sản cô đơn và tuyệt vời ngay trên đất quê hương. Người ta đã truy điệu, đã suy tôn những liệt sĩ tưởng tượng hy sinh trong những cuộc chiến đấu chiêm bao. Nhưng mà đó không phải là chuyện của tôi. Chuyện của tôi chỉ là những anh em đang thoi thóp ở các miền tù ngục quê mẹ ngàn đời đòi đoạn. 
--------------------------------
1
Hiện đã có mặt tại Huê Kỳ.
2
Hiện đã có mặt tại Pháp.

CHƯƠNG 23

Trước Tết năm 1978 ba ngày, chúng tôi nhận được quà thăm nuôi của gia đình. Trừ các tù nhân “con bà phước”, thư từ của chúng tôi đã về tận nhà. Mỗi khu một ngày thăm nuôi. Không khí Chí Hòa rộn ràng những ngày cuối năm. Sự nhận quà ở Chí Hòa khác hẳn đề lao Gia Định. Có vẻ… dân chủ một tí. Tù nhân được gọi xuống phòng thăm nuôi nhận những túi bị đề tên mình. Trật tự viên khám đồ, không cần sự giám sát của cai ngục. Giả vờ vất hai gói thuốc lá xa túi quà của mình thì sự kiểm soát dính theo trạng từ qualoarement. Quên giả vờ hay tiếc của thì sự kiểm soát tỉ mỉ và bị hạch hỏi lung tung. Cái màn đổ thịt kho ra thau, dùng đũa khoắng tứ tung không có ở Chí Hòa. Được cái dễ này, mất cái dễ kia. Ở đề lao Gia Định, quà cáp vào, tù nhân loay hoay rỡ ra bỏ vào bị vào keo. Bánh kẹo, đường thẻ, mì vụn, sữa bột ưu tiên cất trước. Rồi mới đến nước mắm, mỡ phi hành, xì dầu, thịt kho, tôm kho… Những món cần tiêu thụ ngay như bánh cuốn, bún chả, phở xào để riêng ra. Thời gian dành cho dịch vụ “thăm nuôi” mất cả tiếng. Sau đó, mồ hôi toát đầm đìa, mỡ màng nhớp nhúa đầy tay. Làm một phát tắm gội thoải mái rồi enjoy là nhất. Ở Chí Hòa, chỉ có một ca nước rửa tay. Thưởng thức quà cáp của vợ con cũng kém phần hứng thú. Chẳng ai đặt ra, nhưng đã thành lệ: Tù có thăm nuôi mời “con bà phước” chung vui một bữa đầu tháng. Ở Chí Hòa đông anh em quen biết còn vui hơn. Ta chơi góp quà ăn liền enjoy tập thể. Đủ các thứ, đủ các món. Tết Chí Hòa, chúng tôi có dưa hấu, bánh chưng, giò chả… Tư Long cho phép “liên hoan” ba ngày Tết, tính từ đêm 30. Trong ba ngày này, miễn điểm đanh, miễn báo cáo và miễn… tắm. Lợi dụng “liên hoan”, chúng tôi xào mì, xào hủ tíu, nấu chè bột xả láng.



Đêm 30 Chí Hòa năm 1978 là đêm rộn rã nhất trong đời tù của tôi. Phòng bên phải loan tin:


- Đàn anh đón nghe nhé, chúng em ca nhạc trắng đêm.

- Đêm không ngủ hả?

- Dạ. Đêm chờ quân ta về.

- Có sân khấu không?

- Nhạc cụ, trống phách đàng hoàng.

Đoàn Kế Tường khoái lắm. Bản tính của Tường sống động. Tường đại diện phòng tôi liên hệ với phòng phản động trẻ.

- Đàn anh có thăm nuôi không?

- Có.

- Tưởng không có, đàn em thẩy sang.

- Thiếu cà-phê thôi.

- Cái đó chịu à. Này đàn anh, ô dưới các em gái hậu phương hứa hẹn hát chào mừng các anh trai tiền tuyến đấy.

Những phòng ô của FG dành riêng nhốt đàn bà, con gái và con nít có mẹ đi tù! Con nít theo mẹ đi tù, mẹ lại mang bầu và cha lao động cải tạo rừng già là một điểm sáng chói của chủ nghĩa Mác Lê bách chiến, bách thắng. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, còn có người mẹ mang bầu dắt con vào tù về tội mua bán xăng nhớt của bộ đội nhân dân! Các nữ tù ở phòng ô được hưởng đặc ân, đặc lợi. Đặc lợi: hồ nước ngay trong phòng, nước tràn trề ngày đêm. Đặc ân: Hàng ngày ra dạo vườn hai tiếng, phơi quần áo, co quần áo. Nhiều em trẻ và mướt lắm, diện đáo để. Chúng tôi thường đứng sát tường, ngắm các em nhởn nhơ qua song sắt nhà tù. Khu FG là khu lẫy lừng, tù nhân phải lẫy lừng. Vậy đa số các em dưới ô FG, theo Đằng Giao, đều đã dính vào những vụ tán tỉnh yêu đương quý vị cán ngáo có Honda 90, Vespa Sprint dại gái, lùa quý vị này vào đường tình sử để bồ tèo lột Honda, Vespa và đôi khi, thủ tiêu luôn quý vị ấy. Đoàn Kế Tường nhiều sáng kiến. Tường chỉ chúng tôi từng em và đặt tên nhân vật nữ Kim Dung cho mỗi em.

Ngay chập tối, phòng phản động trẻ đã phóng tín hiệu xuống dưới ô:

- Trên văn nghệ trước, dưới văn nghệ sau nhé!

Dưới ô, một em trả lời.

- Ô-kê!

Các nhà tư sản mại bản sợ văn nghệ phiền phức, bèn đi ngủ sớm. Như thế, khỏi tham gia văn nghệ và có lý do chính đáng “làm việc” với cai ngục, nếu bị gọi ra.

- Đàn anh!

Đoàn Kế Tường đáp.

- Rõ.

- Tụi em chơi bạo đấy. “Thà một phút huy hoàng rồi sụp tối”…

- Chơi đi.

- Chơi chứ. Đàn anh yên chí, tụi em vừa tuyên thệ sống chết có nhau, trung thành với tổ quốc. Chỉ FG chơi thôi. Các khu khác vượt biên, hình sự lem nhem, bộ đội đào ngũ sẽ vểnh tai nghe.

- Bạo lắm.

Chúng tôi chờ đợi vài phút. Bỗng trỗi dậy một tiếng hô dõng dạc mà tôi nghĩ toàn thể tù nhân Chí Hòa đều nghe rõ.

- Nghiêm! Quốc kỳ chào!

Tôi vốn chán cái trò “chào cờ, mặc niệm, suy tôn tổng thống” từ ngày khôn lớn. Mười tuổi, tôi say mê chào cờ đỏ sao vàng, suy tôn Hồ Chủ Tịch. Vào đời, sự say mê nguội lạnh nhưng bị cưỡng bức chào cờ vàng ba sọc đỏ, suy tôn Ngô tổng thống ở ngoài đường, trong rạp xi-nê. Thì đành đứng nghiêm mà lòng ấm ức. Một lần, chỉ một lần thôi, tôi rưng rưng nước mắt thấy lá cờ quốc gia quen thuộc không còn nữa vào buổi sáng 1-5-1975. Tôi xuống phố. "Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ". Mưa rơi ngập mắt tôi. Bây giờ, nghe bạn tuổi nhỏ hô “nghiêm”, tự nhiên, tôi đứng nghiêm, lòng chứa chan hoài cảm và hồn phất phơ lá cờ tổ quốc. Cả phòng tôi đứng nghiêm, trừ những nhà tư sản mại bản và mấy tên bộ đội đào ngũ. Chúng tôi hướng mắt sang phòng bên cạnh, hình tưởng quốc kỳ, bàn thờ tổ quốc hương trầm nghi ngút. Bản quốc ca vang lên, hùng tráng. Bản quốc ca vang lên từ nhà tù Chí Hòa. Lâu đài âm thanh muốn rạn gẫy song sắt, xiềng gông. Chúng tôi hát theo. Rồi các khu khác hát theo. Cai ngục không có phản ứng. Họ cố tình “thả giàn” ba ngày Tết. Và họ sẽ bất lực đàn áp cả nhà tù. Sự nguội lạnh và rửng rưng chào cờ của tôi được hâm nóng và tha thiết đêm trừ tịch năm ấy. Từ đó, cờ tổ quốc trong tim tôi. Một đời chỉ cần chào cờ một lần thật xúc động. Tôi đã chào cờ một lần. Tôi ước ao được chào cờ thêm lần nữa, trên quê hương tôi. Ngoài ra, tôi sẽ khước từ chào cờ ở bất cứ nơi nào. Nó phù phiếm, giả tạo và chẳng cưu mang một ý nghĩa nào. Anh sẽ phản đối tôi, dĩ nhiên. Vì anh chưa hề hưởng hạnh phúc chào cờ, hát quốc ca trong khám Chí Hòa. Nếu anh có hạnh phúc ấy, anh sẽ phải suy nghĩ lại lòng yêu nước của anh. Người đau khổ sẵn sàng tin nghe người sung sướng. Nhưng người sung sướng khó mà tin nghe người đau khổ. Do đó, giữa anh và tôi đã có một biên giới, một đoạn tuyệt về ý niệm đời sống.

- Chú ý, phút mặc niệm các chiến sĩ hy sinh vì tổ quốc, các chiến sĩ bị Cộng sản sát hại bắt đầu…

Điệu sáo ai oán não nùng của Tiêu Sử phản động vụt bay khỏi phòng giam, lãng đãng trong vùng trời Chí Hòa. Im lặng tuyệt đối. Tiếng sáo buồn “mặc niệm” đã khiến chúng tôi rơm rớm lệ. Anh đã hiểu tại sao những tiểu thuyết của tôi sáng tác ở Pháp chỉ nhằm mục đích vinh tôn tuổi trẻ chiến đấu ở quê nhà. Bởi rằng tôi đã nhìn thấy họ chiến đấu, nhìn thấy họ sa cơ, nhìn thấy họ tin tưởng, nhìn thấy họ bất khuất. Tôi đã nhìn thấy họ can đảm cả trong lúc sa cơ thất thế. Nhân danh họ, nhân danh lòng son sắt và sự chịu đựng thống khổ của họ, tôi có quyền khinh bỉ những kẻ mộng du chiến đấu, những kẻ giả hình chiến đấu dẫn dắt những tâm hồn đích thực chiến đấu vào chiêm bao. Tiếng sáo ngừng lại. Phút mặc niệm chấm dứt. Không có suy tôn lãnh tụ. Lãnh tụ nào đáng suy tôn? Lãnh tụ đáng suy tôn là tuổi trẻ Việt Nam anh dũng, là sư tử lãng mạn của dân tộc. Họ vừa mới làm lễ chào cờ, mặc niệm. Họ vừa mới hát quốc ca trong tù. Họ thách đố bạo lực và quyền uy Cộng sản.

- Bây giờ sang phần văn nghệ, đàn anh ạ!

- Vẫn lắng tai nghe đây.

- Mở đầu chương trình, DzũngThị Nghè trình bày ca khúc Vết thù trên lưng ngựa hoang của Phạm Duy tặng anh Duyên Anh.

Dzũng Thị Nghè chắc phải mê Dzũng Đakao lắm. Chú nào đó đã mánh mung dấu được cây Harmonica nhỏ. Chú thổi nhạc dạo. Sáo hòa theo. Giọng hát Dzũng Thị Nghè đầm ấm. Giàn trống là mấy cái xô nhựa và thau nhôm. Tôi thấy “văn nghệ khám” sáng giá quá. Tôi rất cảm động được hát tặng bài hát mở đầu, bài hát Phạm Duy lấy ý một đoạn trong Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang làm lời. Tôi không ngờ, lưu lạc bất cứ một trại giam nào, một phòng tù nào cũng gặp khá đông độc giả của mình. Mà độc giả tuổi trẻ yêu mến tôi nhất. Họ đến với tôi, an ủi tôi, giúp đỡ tôi, săn sóc tôi. Và đó chính là tai họa. Tai họa tới từ hai phía 1. Tôi chăm chú nghe Dzũng Thị Nghè. Bài hát dứt, chúng tôi vỗ tay. Phòng phản động trẻ vỗ tay quyết liệt. Dưới ô, các em gái “bis bis” loạn xì ngầu. Tiếng hát Dzũng Thị Nghè, tiếng hát của tuổi trẻ hiên ngang như tiếng nhạc Thạch Sanh. Tiếng hát xuyên qua tường xi-măng cốt sắt, luồn qua trần phòng, sàn phòng, lách ngang chấn song tù, lan tỏa khắp không gian. Tiếng hát tin tưởng một niềm vui lệch đất, nghiêng trời.

- Sau đây Hiền lừa hát tặng anh Đoàn Kế Tường và các anh bản Ra khơi của Phạm Duy.

Hiền lừa hẳn đá bóng ngang cơ Bồn lừa. Chú nhỏ hát thật tốt. Đến đoạn cuối, hợp ca bốn bè. Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng cảm khái hát theo. Văn nghệ do phòng phản động trẻ đảm trách kéo dài khoảng hai tiếng đồng hò thì được kết thúc bằng bài Quê em của Nguyễn Đức Toàn. Cả phòng hát. Khi tới câu: “Bao là gươm, bao là súng, dựng lưỡi lê lên đi lấy lại làng xưa. Bao lòng dân, bao chờ mong, quân ta sẽ về, quân ta sắp về”.., các bạn trẻ reo hò:

- Quân ta sắp về rồi!

- Quân ta về giải phóng Saigon tới nơi rồi…

- Quân ta phải về, anh em vững niềm tin.

Vỗ tay tưng bừng. Cứ như pháo mừng thắng trận. Bỗng nhiên, bên phòng hình sự rầm rầm la lối. Đoàn Kế Tường hỏi vọng sang:

- Chuyện gì thế?

- À, có thằng khốn nó hát “quân ta đếch về”, tụi này sửa nó cho bõ ghét.

- Thôi bỏ qua đi, nó cũng mong quân ta về nhưng quân ta chưa về, nó nản nó than “quân ta đếch về” đấy.

- Ô-kê, nghe anh.

Bây giờ, các em tù nữ chơi văn nghệ. Các em hát toàn nhạc sến. Vậy mà nghe cũng thấm thía. Lâu lâu nghe nhạc sến triết lý “hai với hai là bốn, thực tế thế mà khôn” hay “con Thúy con Hồng nhìn em khẽ nói, Tao biết rồi mày đang đón người yêu”… thú vị ra phết. Tôi chỉ đủ can đảm lắng tai nghe hai ca khúc sến. Bèn đi nằm. Văn nghệ dưới ô thiếu hấp dẫn nên nó tàn mau. Nửa khuya, có lẽ cảm khái văn nghệ phòng tập thể, một giọng hát tuyệt vời từ cachot bung ra. Ali Hùng. Đích thị người nhái Ali Hùng. Chàng diễn tả ca khúc Tôi ru em ngủ của Trịnh Công Sơn. Chúng tôi đang nằm, ngồi hết dậy nghe người tử tù gửi một thông điệp cuối cùng cho đời sống. Đã nhiều đêm, ở đề lao Gia Định tôi nghe tiếng sáo gió của Ali Hùng. Đêm nay, tôi nghe chàng hát. Cachot FG Chí Hòa xoáy mòn thân phận của tử tù trước ngày nó trở về cát bụi. Tôi chưa thấy, ở một chế độ nào, tù nhân bị tuyên án xử tử và Chủ tịch Nhà Nước khước từ sự khoan hồng mà vẫn phải kéo dài tháng ngày đợi chết trong quan tài xi-măng. Đúng vậy, cachot FG Chí Hòa là thứ quan tài xi-măng. Tôi đã biết những cachots FG xây sát cầu thang mỗi lần xuống sân tắm. Tận mắt, tôi nhìn nước ở sàn cachot rỉ ra nhễu giọt liên tục. Thì tôi đoán nổi sự ẩm ướt thường xuyên. Không có ánh sáng vào cachot FG.

Người ta đã kiểm soát được ánh sáng. Có lẽ, khoa học kỹ thuật Cộng sản đang nghiên cứu phương pháp kiểm soát không khí. Và Nội quy của nhà tù Cộng sản sẽ có điều cấm tù nhân thở tự do.

Một chút về cachot FG Chí Hòa: Chiều dài của cachot 1 thước 50 phân. Chiều ngang, 70 phân. Chiều cao, 1 thước 80 phân. Tường bê-tông cốt sắt. Cửa sắt dày, ba ổ khoá. Một ô cửa nhỏ giữa cửa lớn đúng tầm mắt tù nhân đứng để cho cai ngục rọi đèn vô xem tù nhân còn sống hay đã chết và để đưa cơm nước cho tù nhân. Cachot FG Chí Hòa trên lầu chót, hai dẫy đối diện, cách nhau một hành lang hẹp không đèn, dù đèn vàng hiu hắt. Do đó, cachot ngàn năm tối tăm. Dưỡng khí lùa vào hành lang. Tù nhân hít thở qua 6 cửa nhỏ, gọi là “cửa gió”. Bên trong cachot có cái xô. Tù nhân tiểu tiện, đại tiện vô đó. Không có giấy chùi đít. Tù nhân sẽ noi gương súc vật nếu không muốn xé quần áo làm giẻ chùi hay nếu không muốn nhịn uống dùng nước rửa đít. Mỗi ngày, tù nhân được phát hai ca nước đun sôi. Không có chiếu. Tù nhân nằm, ngồi trên sàn xi-măng đã đóng lớp phân tiểu khô quánh của các tù nhân bị nhốt ở cachot qua nhiều chế độ. Con người đã được chủ nghĩa Cộng sản ưu việt bảo vệ với đầy đủ phẩm cách làm người. Nó hít thở nhiều uế khí, nhiều thán khí và rất ít dưỡng khí. Nó chỉ được mặc một bộ quần áo. Hàng tuần, chủ nghĩa ưu ái cho nó đi tắm một lần. Nó xách xô phân tiểu theo. Trước hết, nó đổ phân tiểu xuống cống, rửa sạch xô. Rồi nó tắm gội, giặt quần áo. Chủ nghĩa giám sát nó trần truồng tắm gội. Vì chủ nghĩa quản lý con người. Không tìm ra sự trắc ẩn trong danh từ quản lý nên chủ nghĩa mặc kệ sự ghẻ lở của con người tắm thiếu xà phòng. Con người tắm xong, giặt quần áo xong, vắt khô quần áo rồi mặc và xách xô lên cachot đợi lần tắm giặt, đổ phân tiểu kế tiếp. Nó sẽ phơi quần áo trên giây thân thể trong bóng tối mịt mù cho đến khi khô. Ấy đó, cachot FG Chí Hòa, nơi các tử tù Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng đã sống chờ chết, nơi Đoàn Kế Tường đã sống và đã phát biểu: “Với cachot FG, mọi thứ cachot trên đời đều vô nghĩa”, nơi báo chí Mỹ không bao giờ sủa ăng ẳng đòi “cải thiện chế độ lao tù”. Có cơ may nào dẫn họ vào cachot FG Chí Hòa? Những kẻ từng gang họng lên án “Chuồng Cọp Côn Sơn" sẽ xấu hổ lắm khi họ được phép “tham quan” – tham quan thôi – một cachot thứ yếu của khu FG khám Chí Hòa dưới chế độ quang vinh Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Thanh Minh, đại úy trốn trình diện học tập, người đã từng coi tù Cộng sản ở Côn Sơn, nói với tôi hồi chúng tôi sống ở phòng 6C-1 đề lao Gia Định: “Chuồng cọp thấm mẹ gì! Nó chỉ là thứ cũi sắt nhốt những thằng vi phạm kỷ luật, những thằng sách động tù nhân. Nó rực rỡ ánh sáng và tràn đầy dưỡng khí”. Đại úy Lê Thanh Minh mới chỉ so sánh Chuồng Cọp với cachot khu A đề lao Gia Định mà anh đã bị nhốt. Trên tất cả những điều tôi muốn nói, tôi muốn hỏi báo chí Mỹ đã từng ủng ẳng đòi Việt Nam Cộng Hòa “cải thiện chế độ lao tù” là họ nghĩ gì về những tử tội phải kéo dài tháng ngày đợi chết ở cachot FG Chí Hòa. Có nên phất ngọn cờ Quyền Chết của con người bên cạnh Quyền Sống của con người? Và tôi cũng muốn hỏi qúy vị tự xưng mình là Đại Diện cho tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng ở Việt Nam, đòi hỏi Cộng sản – có vị còn hách dịch bắt Cộng sản Việt Nam – thả hết tù nhân ra khỏi các nhà tù, có vị nào đã nằm tù Cộng sản? Tôi biết đích xác những vị to mồm nhất đều là những vị đã phè phỡn, ít nhất, 20 năm ở ngoại quốc. Hôm nay, quý vị ấy đấu thầu tù nhân bằng nước bọt, quý vị ấy dùng tù nhân làm thang để leo lên sự nghiệp ái quốc, ái quần. Quý vị ấy tưởng tượng nỗi khổ của tù nhân, mở đồ hộp cho chó ăn mà liên tưởng cảnh đói của tù nhân quê hương. Nếu quý vị còn liêm sỉ nên câm họng lại. Bởi vì, có đến 99 phần 100 tù nhân chính trị, tù nhân tư tưởng, tù nhân của lương tâm đã, đang nằm trong các nhà tù Cộng sản Việt Nam, bị đày đọa quằn quại thì có, bị hành hạ khốn đốn thì có, nhưng rên siết thì không. Và, chắc chắn, ai cũng muốn phỉ nhổ vào mặt những kẻ đấu thầu nỗi khổ của mình. Tôi dám nói điều này: Tất cả những lên tiếng của bất cứ một cá nhân, một hội đoàn nào yêu cầu Cộng sản thả tù nhân đều vô tích sự và chỉ làm phiền tù nhân. Cái tích sự, nếu có – bắt buộc phải có, đi buôn cần kiếm lời – là ồn ào quảng cáo tên tuổi mình. Người Việt Nam quốc gia hải ngoại chỉ có mỗi cách can thiệp hữu hiệu nhất cho tù nhân là đầy đủ lực lượng quân sự giải phóng dân tộc, xóa bỏ mọi nhà tù, trại tập trung Cộng sản. Cách thứ hai, kém hữu hiệu, nhưng làm tăng sự can đảm để tù nhân sống mà hy vọng ngày được giải phóng là âm thầm vận động Amnesty international, âm thầm vận động các Tổ chức quốc tế có thế lực, âm thầm vận động với chính phủ các nước viện trợ nhân đạo cho Cộng sản Việt Nam để họ làm áp lực, để họ can thiệp cho tù nhân đỡ bị hành hạ điêu đứng và cho những tù nhân già cả, bệnh hoạn được tha. Cách thứ ba thiết thực nhưng khó thực hiện, là đóng góp tiền bạc, mua thuốc, gửi tiền tặng vợ con tù nhân để vợ con họ vững lòng nuôi chồng đợi ngày đoàn tụ gia đình. Cách này khó thực hiện vì sẽ chẳng vị đại diện nào chịu bỏ tiền mà quyên tiền thì tiền cứ muốn chạy vào túi riêng! Trên mọi địa hạt, hai kẻ đối nghịch không nhường nhau một bước. Cộng sản không thể bảo quốc gia đừng chống nó. Quốc gia không thể “ra lệnh” cho Cộng sản thả tù vô điều kiện. Tranh đấu là tốt, nhưng chớ quên lô-gích. Những kẻ thích đại diện hư ảo, thích nhân danh hư không (ai cho phép đại diện, ai cho phép nhân danh) thường giả vờ quên lô-gích, biết chuyện phù phiếm, vẫn rêu rao lấy danh. Nghĩ mà đau cho tù nhân. Họ chẳng biết cachot FG, chẳng được chào cờ, mặc niệm ở khám Chí Hòa, đã đành, họ còn chẳng biết 20 năm chiến tranh, dân tộc họ ra sao; họ ngậm miệng hôm qua, họ to mồm hôm nay và to mồm hơn cả tù nhân đã kinh qua ngục tù Cộng sản! Bọn đấu thầu nỗi khổ sao hiểu nổi cái hào sảng của tù nhân, hiểu sao nổi cung cách sống chờ chết mòn của tù nhân. Cái hào sảng của Ali Hùng, chẳng hạn, sống đợi chết, vẫn Tôi ru em ngủ.

Giọng Ali Hùng bồng bềnh lãng mạn, chan chứa cảm xúc. Hòa âm cho bản nhạc chàng hát là nỗi hiu quanh ngục tù. Nơi tiếng hát bay ra, cachot FG, như nơi tiếng đàn Thạch Sanh thoát lên. Đã cổ tích dưới hang lấp kín đá. Sẽ cổ tích Chí Hòa mai sau. Người ta sẽ kể cachot của Ali Hùng lớp phân dầy mấy phân, thấm nước mắt của tù nhân oan khiên, thấm máu của tù nhân tự sát, qua các triều đại, qua những cách mạng. Người ta sẽ ngợi ca đoạn kết cổ tích Chí Hòa y hệt đoạn kết cổ tích Thạch Sanh. Không có con người trả thù con người. Lý Thông trở về đời sống hèn mọn của nó. Con người Thạch Sanh không nỡ giết nó. Nhưng trời không tha nó, Trời bắt nó chết thảm. Những đứa gian ác sẽ hoá thành bọ hung hết. Thạch Sanh ở mãi với lòng người, ngự trị mãi hồn đời. Ali Hùng và những ai làm tốt, làm đẹp cho quê hương sẽ ở mãi lòng người, ngự trị mãi hồn đời. Chàng biết uống giọt sống cuối cùng, dám uống giọt sống cuối cùng. Những người tử tù kéo dài thời gian đợi chết ấy không cần ai đại diện họ xin kẻ thù họ cả. Bọn đại diện, bọn cai thầu tù ngục đã vấy nhơ lên sự thản nhiên sống chểt của họ. Ali Hùng đó, chàng đã làm xong bổn phận của chàng với dân tộc chàng. Chàng thơ thới đợi ngày về đất. Trước khi nhập cõi, cái chết gần kề, trong bóng tối mông lung của thời đại, Ali Hùng vẫn lên tiếng.


Tôi ru em ngủ

Một sớm mùa đông
Em ra ngoài ruộng đồng
Hỏi thăm cành lúa mới
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa thu
Em đi trong sương mù
Gọi cây lá vào mùa
Con đường thật buồn
Một ngày cuối đông
Con đường mịt mù
Một ngày cuối thu
Em vào mùa hạ
Nắng thắp trên cao
Và mùa xuân nào
Ngẩn ngơ tình mới
Đi nhẹ vào đời
Thầm thì gót chân
Em gọi nụ hồng
Vừa tàn cuối sân
Nghe tình chợt buồn
Trong lá xôn xao
Để mùa xuân sau
Mua riêng tình sầu
Tôi ru em ngủ
Một sớm mùa xuân
Em hôn một nụ hồng
Hỏi thăm về giọt nắng
Tôi ru em ngủ
Hạ cũng vừa sang
Em hôn lên tay mình
Để chua xót tình trần


Chàng kết thúc ca khúc chàng diễn tả bằng cái “fade out”: Em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… em hôn lên tay mình, để chua xót tình trần… Rồi bốn bề im lặng. Em hôn lên tay em và em chua xót cuộc đời, chua xót tình người. Còn anh không chua xót gì cả, anh không cần em đại diện anh xin kẻ thù của anh tha anh, em hiểu chưa? Chúng tôi ngồi hút thuốc rê, thuốc lào chờ Ali Hùng hát thêm bài mới hay thổi sáo gió. Thiên hạ đã ngủ hết. Và Ali Hùng cũng bặt tiếng. Tôi hiểu Ali Hùng đuối sức rồi. Cachot FG đã xử tử anh từng phút. Những phát súng găm thân thể anh, hôm nào đó, khi anh dựa lưng cột sân bắn, sẽ là những phát súng ân huệ. Người ta sẽ ban ân huệ chết cho anh ra sao, Ali Hùng? Trước hết, người ta bắt anh há rộng miệng, tống kín họng anh một trái chanh để anh hết đòi hỏi một ân huệ cuối cùng dành cho tử tù. Rồi, người ta bịt mắt anh. Không có linh mục rửa tội giùm anh đâu. Anh bị âm thầm dẫn đến một huyệt mộ đào sẵn. Chắc chắn, vào đêm khuya. Người ta kê súng vô thái dương anh, bóp cò. Anh rơi luôn xuống huyệt. Người ta lấp đất và san phẳng. Chẳng có bia mộ đâu. Những cái chết đích thực của anh hùng quốc gia, quốc gia chân chính, đừng hòng người quốc gia biết để làm lễ truy điệu, đừng hòng người quốc gia biết ngày chết để làm giỗ chạp. “Chinh phu tử sĩ mấy người, nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”. Ai đã gọi hồn Ali Hùng nhỉ?



Chúng tôi trải qua ba ngày Tết ở Chí Hòa. Theo… truyền thống nhà tù Cộng sản, ba ngày Tết tù nhân được ăn cơm với thịt. Cộng cả ba ngày, mỗi tù nhân hưởng một lạng thịt. Văn nghệ rộn ràng trọn ba ngày. Với tôi, văn nghệ chấm dứt sau bài ca của Ali Hùng. Sinh hoạt Chí Hoà trở lại bình thường. Tỷ phú Trần Thành đổi phòng và được giữ chức nuôi lợn. Hàng ngày, ông xách cái xô đến các phòng xin cơm thừa. Làm gì còn cơm thừa? Ông Tư Nhì có cái ghe đánh cá bên Chánh Hưng. Vì không chịu gia nhập Hợp tác xã, muốn làm ăn cá thể, ông bị vào tù và ghe của ông bị tiếp quản. Nhân vật Tư Nhì to con, cao lớn, bụng phệ như ông ve dầu Nhị Thiên Đường, hàm răng vàng chóe, vui tính, tốt dạ. Vì ông Tư Nhì khoẻ, phòng đề cử ông nhiệm vụ chia cơm. Chức quản lý nước đã giao lại cho Đoàn Kế Tường, lý do: Tường không ngủ trưa. Được một tuần yên lành sau Tết thì phòng phản động trẻ bị chuyển khu nguyên vẹn. Đó là phản ứng muộn màng của Chí Hòa đối với đêm văn nghệ trừ tịch. Lãnh đạo đã họp và quyết định phân tán mỏng phòng phản động trẻ. Sẽ khối chú vào cachot. Cai ngục Phách bắt đầu có thái độ với phòng của chúng tôi.


Một sáng điểm danh như thường lệ, Trưởng phòng Phạm Quang Khai mặc quần xà lỏn, áo sơ mi, đứng nghiêm:

- Báo cáo cán bộ, phòng 60 người, hiện diện đủ.

Chúng tôi ngồi xếp hàng 5, mỗi hàng 10 người. Mọi hôm, ông Khai báo cáo thế là xong. Nhưng cai ngục Phách dở chứng:

- Ai dạy anh báo cáo thế?

- Tôi vẫn báo cáo.

- Anh thuộc Nội quy không, đọc điều 1 xem nào!

Ông Khai quíu lưỡi. Chẳng có thằng tù nào thèm thuộc Nội quy cả, vì không thèm học.

- Anh phải học Nội quy, cả phòng phải học Nội quy Chí Hòa. Riêng anh, làm đến chức Trướng phòng thì nên biết cách báo cáo. Anh phải đọc sơ yếu lý lịch rồi mới báo cáo. Rõ chưa?

- Rõ.

- Báo cáo lại.

Ông Khai đứng nghiêm:

- Tôi, Phạm Quang Khai, sinh năm 19… tại..,, hộ khẩu thường trú số… đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, thành phố Hồ Chí Minh, can tội tư sản mại bản, bị bắt ngày… tháng… năm 1975, Trưởng phòng báo cáo cán bộ phòng có 60 can phạm, hiện diện đủ.

Cai ngục Phách, thằng oắt tì, gật gù:

- Được.

Buổi chiều, hắn tới đưa cho ông Khai 4 trang Nội quy đánh máy gồm 44 điều. Nội quy đề lao Gia Định có 11 điều thôi. Sáng hôm sau, vẫn cai ngục Phách điểm danh. Ông Khai báo cáo xong, hắn “giáo dục”:

- Anh Khai đọc Nội quy, cả phòng lắng nghe học thuộc. Tôi sẽ bắt đọc, anh nào không thuộc Nội quy sẽ bị cấm tắm, cấm nhận quà… Rõ chưa?

- Rõ.

Trưởng phòng Phạm Quang Khai đau khổ đọc 4 trang Nội quy và chúng tôi đau khổ ngồi bó gối nghe.

- Anh Khai!

- Dạ.

- Sao anh đọc như ăn cướp vậy, mắt liến la liến láu? Mai đọc thật chậm.

- Dạ.

Cai ngục Phách nhận chỉ thị hành phòng tôi. Phòng hình sự bên cạnh đâu phải đọc Nội quy. Nhờ tiết mục học thuộc Nội quy, Đoàn Kế Tường chế ra trò giải trí. Tường cầm Nội quy, phổ nhạc vào những điều khoản, thứ nhạc hát xong thì quên mình đã hát gì. Chúng tôi nghe Tường hát, ôm bụng cười. Tường bảo học kiểu này chóng thuộc. Trong cảnh khốn cùng, kẻ nào làm cho người khác cười vui, kẻ ấy là Bồ Tát. Đoàn Kế Tường đã là Bồ Tát. Giữa không khí sôi nổi học Nội quy, phòng chúng tôi tiếp nhận linh mục Nguyễn Văn Tự Do và anh Đình (tôi không nhớ rõ họ, hình như Võ Xuân Đình). Linh mục Nguyễn Văn Tự Do, tên căn cước là Nguyễn Văn Tự, người giảng Phúc Âm trên Đài Phát Thanh Saigon. Ông bị bắt về vụ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Vụ này hơi ly kỳ và được thần thoại hoá ở đề lao Gia Định năm 1977.

Tù nóng kể cho tù nguội 2: Đức Mẹ hiện ra ở nhà thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Thiên hạ hay tin, ào ào kéo về hành hương, cầu nguyện. Hoa dâng lễ ngập cả nhà thờ, Cộng sản không ngăn cấm nổi. Có một người tê liệt ngồi trên xe lăn, sai vợ con chở tới và đẩy xe vào nhà thờ cầu khẩn ân huệ. Anh ta đứng dậy, chạy nhẩy bình thường. Cộng sản sợ hãi, bắt anh ta đem đi đâu chẳng rõ. Đồng thời, một số linh mục cũng bị bắt, trong số đó có linh mục Nguyễn Văn Tự Do và linh mục Hoài Linh 3. Ngoài các linh mục còn thêm một nhân vật “kỳ bí” Hồ Ngọc Anh. Nhân vật này bị Cộng sản chọc mù mắt ở cachot, Đức Mẹ vẫn ban ân nhìn đời sống rõ như ban ngày, bị Cộng sản bỏ đói, Đức Mẹ vẫn nuôi nấng… Vân vân. Hồ Ngọc Anh nằm cachot khu A đề lao Gia Định. Tôi không tin. Gặp linh mục Nguyễn Văn Tự Do, ông không chịu giải thích. Nhưng ông thích bàn luận chuyện chính trị. Và ông bị kết tội phản động. Anh Đình nói là anh cộng tác với nhật báo Chính Luận, rất thân Đặng Văn Sung. Tổng số tù nhân phòng tôi nâng lên 62 người. Có linh mục Tự Do, các tù nhân Thiên Chúa giáo mừng ra mặt. Chúa đã gửi linh mục Tự Do đến phòng của chúng tôi.

Trưởng phòng Phạm Quang Khai bị đọc Nội quy hai tuần liền mệt đừ. Ông ta chưa thuộc hết và chúng tôi, mỗi người mới thuộc vài điều đề phòng bị cai ngục Phách truy bài. Hắn chưa truy bài “học tập’" thì bị đổi sang khu khác cùng với cai ngục Quỳnh. Cai ngục mới điểm đanh. Trưởng phòng Khai báo cáo kiểu cai ngục Phách, bị hạch hỏi:

- Sao anh râu ria thế?

Ông Khai ngẩn tò te:

- Tôi già rồi, được phép để râu.

- Râu ria là dài dòng chứ không phải râu của anh. Râu của anh ai thèm quan tâm. Báo cáo vắn tắt.

Vậy là ông Khai thoát nạn kể sơ yếu lý lịch đọc Nội quy 44 điều. Làm Trưởng phòng khổ vô cùng. Thế mà ông Khai khoái. Ông ôm luôn chức Thư ký phòng, ông chủ tọa các phiên họp cuối tuần rồi ông gò lưng tôm nắn nót biên bản. Dường như, những người đã có địa vị chức tước xã hội thì ở nơi chốn nào, hoàn cảnh nào vẫn thích chức tước, địa vị.

Hai hung thần Quỳnh, Phách cút, Đoàn Kế Tường hát cho cả phòng nghe bài Em đến nuôi anh một chiều mưa, nhạc Tô Vũ, lời Đoàn Kế Tường.


Em đến nuôi anh một chiều mưa

Em đến nuôi anh một chiều đông
Nuôi lần này ở ngay khám Chí Hòa
Em đến nuôi anh lầm than quá
Cầm cái phong bì
bước qua cổng khám
là đến phòng nuôi
Em đến nuôi anh trình xong giấy
Em đến nuôi anh bàn cu Phách
gần bên thằng Quỳnh
Mặt nhìn mặt hồi lâu Tư Long mới phán một câu
“Hiện thời còn đây
Ngày mai nuôi đâu
thư sẽ gửi sau
Nếu hên xuống Long Thành
Nếu xui tới Lao Bảo
Và xa hơn, ngoài Bắc
Nếu không gắng học tập
Sẽ chui ấp Hoả Lò
Cải tạo thêm mười năm
Chắc mai mốt anh về
Sẽ lê giống anh Quang què
hay là cuộc đời buồn như Ngao Song
như Nguyễn Mạnh Côn

Lòng nhủ thầm lần sau nuôi anh
một túi đầy hơn
Em ước mơ kỳ thăm nuôi tới
Em đến nuôi anh còn khu F
Và chưa chầu trời…

Quang què tức là đại úy nhẩy dù Quang (tôi không nhớ họ anh ta), ông Đô trưởng của 3C-1 mà tôi đã giới thiệu sơ sơ ở phần thứ hai Nhà tù, hiện đang sống chung phòng với chúng tôi. Sống chung với chúng tôi nên kể ông Phường trưởng Phạm văn Diện, bạn đồng nằm vùng của Vũ Hạnh. Nhờ nằm vùng, Diện được chỉ định làm Phường trưởng một Phường thuộc quận 3. Rồi bị kết án “mất phẩm chất cách mạng”. Và vô tù. Diện vẫn nuôi hy vọng cách mạng sẽ soi sáng nỗi oan cho mình. Anh ta có vẻ nguy hiểm nhưng nể nang Đoàn Kế Tường. Tường ngông nghênh, chấp hết, ăn nói mạnh bạo, phản động quyết liệt. Có tài nhại nhạc, nhại thơ. Đoàn Kế Tường đã nhại bài Đi chơi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Rất tiếc, tôi nhớ có vài câu, xin ghi ra đây gọi là nhớ người bạn tù:

Hôm nay ngày thăm nuôi

Xe cộ chạy ngược xuôi

Tay em xách cái giỏ
Tay kia cầm gói xôi…
Được anh em tán thưởng Em đến nuôi anh một chiều mưa, Đoàn Kế Tường chế tạo thêm Kỷ vật cho em đưa tên các bô lão râu dài, bệnh tật của phòng vào lời:


Em hỏi anh

Em hỏi anh: Bao giờ trở lại
Xin trả lời đến Tết mới về.

Anh trở về thành cụ Ngao Song
hay ít ra cũng bằng cụ Hà Năng Đắc
Anh trở về già như cụ Lựu
Anh trở về tóc trắng Nguyễn Mạnh Côn
Anh trở về
Đem bệnh trĩ của Nguyễn Văn Trương
hay bệnh lao của Bùi Kim Bảng
Anh trở về
điếc lòi Phan Bá Thúc…

Cứ thế, ngày trôi nhanh. Nhờ Bồ Tát Đoàn Kế Tường. Tù đầy không hứa hẹn chi cả. Chúng tôi luôn luôn ở tư thế chuẩn bị đổi phòng, chuyển trại, luôn luôn nghĩ rằng tương lai nghẹn ngào hơn hiện tại.
--------------------------------

1
Sẽ viết rõ ở Trại tập trung.
2
Tù nóng: Tù vừa mới bị bắt. Tù nguội: Tù đã nằm đề lao lâu.
3
Cũng làm nhạc nhưng không phải nhạc sĩ Hoài Linh.

1      2           4      5      6      7     8

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét