- Anh đã
suy nghĩ kỹ chưa?
- Rồi.
- Anh suy nghĩ cái gì?
- Rồi.
- Anh suy nghĩ cái gì?
- Sự viết lại.
- Không, tôi muốn, trước hết, anh suy nghĩ về gia đình anh, cha mẹ anh, ông bà
anh, giai cấp anh, ấu thơ anh, niên thiếu anh. Ông nội anh là nhà nho nghèo
nàn, khí tiết. Cha anh là một tiểu thương lận đận. Ấu thơ anh ảm đạm. Niên thiếu
ánh khốn khổ. Anh, đáng lẽ, phải là vô sản. Tại sao anh phản bội giai cấp của
anh? Tại sao anh chống cộng sản? Ngụy quyền cho anh gì? Nó thường xuyên đe dọa
anh, ghét bỏ anh, bắt anh đi lính. Anh trốn chui trốn lủi. Anh tưởng nó tạo cơ
hội để anh mua villa, tậu xe hơi à? Không, anh đã lao động khó nhọc bằng tài và
sức của anh. Anh còn xứng đáng hưởng ngàn lần hơn nữa cơ.
Chẳng còn gì đau đớn,
nhục nhã hơn bị một thằng mình khinh bỉ nó mà đành ngồi im nghe nó “lên lớp”
mình. Tất cả đều cam đành như tôi. Hãy nói cho tôi biết vị anh hùng nào dám cãi
lại, dám to tiếng với công an chấp pháp ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định, ở khám
Chí Hòa hay ở bất cứ trại tập trung nào! Sự can đảm, tinh thần bất khuất chỉ
tìm thấy ở các buổi diễn thuyết của các ngục sĩ khi đã thực sự thoát khỏi móng
vuốt của kẻ thù. Và cũng chỉ tìm thấy trong đòi hỏi của những anh không hề bị
tù, không hề biết 90 ngày “tự khai” liên tiếp ra sao! Có nhiều kẻ đã bỏ qua cái
tuổi “tri thiên mệnh”, tóc bạc phơ, răng rụng hết rồi mà vẫn khoái huyễn hoặc
người khác bằng sự gian dối với chính mình. Tôi muốn thí dụ một ông trung tá đã
giải ngũ từ lâu. Tôi sẽ không nêu tên ông ta để ông ta yên tâm nhắm mắt mà đi
về với đất … Mỹ. Cộng sản không hề bắt sĩ quan giải ngũ đi trình diện học tập
(Mãi đến khi Trung Quốc đánh phá miền Bắc, họ mới đến tận nhà còng sĩ quan giải
ngũ vào tù). Vị trung tá nọ sợ quýnh lên, khăn gói đi trình diện, nghĩ rằng “đi
sớm về sớm”. Cộng sản đưa vị ấy đi hơi xa và hơi lâu. Khi về, thoát nanh vuốt
kẻ thù, vị ấy làm thơ ví mình như anh hùng, vì sự “đi sớm về sớm” như mối thù
nặng nghìn cân. Và dọa nạt lung tung. Và làm phán quan xét tội những người mà
vì ấy không hề ở chung với họ ngày nào. Vị ấy quên sờ gáy để nhớ bức chân dung
Hồ Chí Minh và lời tự khai thành khẩn: “Đây là họa phẩm đắc ý nhất trong sự
nghiệp của tôi”! Nhớ chưa, phán quan. Hay phải nhắc bức chân dung vẽ ở trại
nào?
-
Anh đã suy nghĩ bản chất giai cấp của anh chưa?
-
Tôi ít nghĩ tới tôi.
-
Anh không phải trí thức chứ?
-
Đúng thế.
-
Anh không phải địa chủ chứ?
-
Đúng.
-
Anh không phải tư sản chứ?
-
Đúng.
-
Anh không phải cường hào ác bá chứ?
-
Đúng.
-
Anh chưa nợ máu với nhân dân chứ?
-
Chưa hề.
-
Vậy anh tự quyết định thành phần giai cấp của anh đi.
-
Tôi là tiểu tư sản.
-
Sai rồi. Anh là vô sản. Anh là người vô sản đã quên bản chất của mình, rồi phản
bội giai cấp mình. Anh nên tỉnh ngộ trở về với giai cấp.
-
Muộn rồi, anh ạ.
-
Tại sao muộn?
-
Vì tôi luôn luôn nhận tôi là con người phi giai cấp. Con người lương thiện là
đủ, cần gì khoác ao giai cấp cho nó?
-
Anh hơn Nguyễn Mạnh Tường và Trần Văn Giàu không?
-
Tôi không dám ví với ai cả.
-
Đầu hàng giai cấp mới khó. Trở về giai cấp của mình thật dễ.
-
Với tôi tất cả đều khó. Tôi mệt mỏi rồi, tôi chán nản rồi. Tôi không thiết gì
nữa.
-
Anh mệt thật à?
-
Phải, tôi mệt!
-
Vậy anh về nghỉ, hôm khác chúng ta làm việc.
Ba
Trung nhận chỉ thị của ông Mai Chí Thọ, quay tôi như quay chong chóng. Nó bảo
tôi suy nghĩ một chuyện, rồi nó xoáy vào tâm thần bấn loạn của tôi một chuyện
khác. Nó bắt tôi nhận thuộc thành phần giai cấp vô sản để làm gì chứ? Quả thật,
tôi cũng chẳng hiểu tôi thuộc thành phần nào, giai cấp nào trong xã hội loài
người. Giai cấp là cái con mẹ gì? Đứa khốn nạn nào trên trái đất này đặt ra
thành phần giai cấp? Thượng Đế sinh ra con người có bảo nó mày thuộc giai cấp
nào đâu. Con người tự gây khó khăn cho con người. Không, chủ nghĩa ép buộc con
người phải nhận rõ thành phần, giai cấp của mình. Đề thù hận thành phần, giai
cấp khác. Điều khác lạ, đối với tôi, là người cộng sản không bắt tôi nhận bất
cứ một tội gì khác, ở cái địa chỉ chung của chủ nghĩa nầy, ngoài giai cấp tôi.
Họ bắt tôi truy nã thân phận tôi. Tôi đã truy nã. Không, nhất định, không bao
giờ tôi là vô sản hay tư sản, trí thức hay công nhân. Tôi là một người bình
đẳng với mọi người trên trái đất, đúng ý Thượng Đế. Nếu Thượng Đế – Thượng Đế
là tôi trong ý nghĩ tôi sắp nói – phán: “Duyên Anh, mày thuộc giai cấp vô sản
đấy!”, tôi sẽ bằng lòng khoác nhãn hiệu vô sản lên con người tôi. Ngoài ra,
đừng ai nên qui định thành phần, giai cấp con người. Bởi vì, nó sẽ tương tự chủ
trại chăn nuôi phân loại súc vật: Bò gầy, bò mập, bò nhiều sữa, bò ít sữa, bò đắt
tiền, bò rẻ tiền, bò giống nọ, bò giống kia … Chủ nghĩa đâu phải chủ chăn nuôi.
Có lẽ, chủ nghĩa cộng sản đã là chủ chăn nuôi từ lâu mà loài người chưa biết
chăng. Chủ nghĩa đê tiện đó đã đánh dấu giai cấp bằng thù hận, như chủ trại
chăn nuôi đã đánh dấu súc vật bằng sắt nung đỏ. Tôi không hiểu nổi cộng sản,
không ai đoán nổi mưu đồ của cộng sản. Trò chơi của họ biến đổi khôn lường.
Nhưng có một kiểu chơi của họ tôi đã hiểu và chỉ hiểu bằng kinh nghiệm rạc rài.
Đó là cung cách đối xử, ngôn ngữ đối thoại của lãnh tụ. Đại lãnh tụ của họ,
Phật hơn cả Phật, Chúa hơn cả Chúa. Nghiên cứu những danh ngôn Hồ Chí Minh sẽ
thấy. Còn họ, luôn luôn cao thượng, lịch sự. Mỗi ông Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung
Ương là mỗi thi sĩ hiếu hỉ. Họ không làm mất lòng anh khi anh được gặp họ, dù
anh là … nhà văn, nhà thơ, nhà báo phản động. Những gì anh muốn – dĩ nhiên đừng
muốn tự do ra khỏi nhà tù – họ giải quyết liền, hiệu quả tức khắc. Anh đừng
quên, sau khi chia tay anh, ho phủi tay bằng chỉ thị cấp thừa hành. Và họ sẽ
sẵn sàng phê bình nghiêm khắc kẻ thừa hành chỉ thị của họ trước mặt anh. Cộng
sản có một câu rửa tội tuyệt diệu: Hiện tượng chứ không phải bản
chất. Hiện tượng bắt buộc khác bản chất. Bản chất của chủ nghĩa – của chế độ –
tốt đẹp, lý tưởng. Hiện tượng của cán bộ – của đảng viên – sai lầm. Bản chất
của Đảng quang vinh, rực rỡ. Đảng họp bàn, quyết định thủ tiêu trên 1 triệu 500
ngàn dân, mùa Cải Cách Ruộng Đất năm 1956. Lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn vĩ đại. Chỉ
có hiện tượng Trường Chinh sai lầm, tạm mất chức Tổng Bí Thư, để Đảng … sửa
sai. Vậy đối tượng chiến đấu của anh là ai? Là mấy cậu công an vênh váo, là mấy
chú bộ đội khờ khạo, là mấy anh cán bộ ngớ ngẩn? Không, phải là lãnh tụ và thủ
thuật của họ. Từ 30 năm nay, chúng ta chỉ nói cộng sản gian ác và cộng sản
ngọng nghịu, ngu đần. Chúng ta quên không chứng mình cái gì, đứa nào biến con
người thành ngọng nghịu, ngu đần. Để chúng ta chạy bán sống, bán chết. Bây giờ
chúng ta vẫn tiếp tục mỉa mai những nạn nhân của chủ nghĩa, của lãnh tụ. Chúng
ta dồn nạn nhân của chủ nghĩa, của những kẻ bị bóc lột tàn bạo nhất – của những
kẻ chưa kịp sống, chưa biết mùi vị ái tình, của những kẻ tưởng hy sinh cho tổ
quốc mà hóa ra đã hy sinh cho sự sống lâu của lãnh tụ. Mấy thế hệ bộ đội, công
an chết rồi. Trường Chinh, Lê Duẩn, Tố Hữu, Phạm Văn Đồng, và toàn bộ gánh hát
già nua Cộng Sản Việt Nam cứ sống nhe răng giả, cứ diện tuồng tích cũ mèm, cứ
phì nộn tươi thịt thấm da, hồng môi, sáng mắt. Trong khi bộ đội gian khổ chiến
trường Kampuchia, ăn rau muống nhiều quá, môi thâm sì, hốc hác, thảm hại. Anh
muốn tiêu diệt chủ nghĩa và lãnh tụ hay muốn tiêu diệt con người? Tiêu diệt con
người thì anh không có khả năng đâu, anh chỉ hò hét, lạc quyên, tranh giành.
Anh sẽ là hiện tượng. Mà tiêu diệt chủ nghĩa, lãnh tụ thì anh phải cần con
người. Anh phải vận dụng khả năng của anh nói cho con người thấm thía. Rằng,
con người là công cụ thù hận của chủ nghĩa và lãnh tụ, con người ăn cỏ khô
thành sữa để lãnh tụ vắt mà uống. Kế thượng sách để tiêu diệt cộng sản Việt Nam
– tôi muốn nói với đồng bào của tôi thôi – là biết hoán chuyển vị thế
của hiện tượng và bản chất, là biết phơi bày chính xác thủ thuật
và tâm địa của lãnh tụ, là biết lôi ra cái đốn mạt của chủ nghĩa, là biết tạo
thế cho âm binh vây hãm phù thủy, là biết gây chia rẽ tan nát trong những “giai
cấp cộng sản” – ít nhất, cộng sản Việt Nam có đến chín giai cấp hưởng thụ khác
nhau và giai cấp đông nhất, hy sinh kỹ nhất, không được hưởng thụ là giai cấp
bộ đội, chưa kể giai cấp giải phóng quân bị đào thải tức tưởi. Kế hạ sách là
đem quân ít của mình đánh quân đông của kẻ thù. Còn thứ kế đem quân tưởng tượng
đánh cộng sản và hô hoán những chiến công chiêm bao thì miễn bàn. Bởi đó là kế
mưu sinh ô nhục như kẻ làm băng nhạc giả, in sách lậu của bọn gian manh.
Không
để tôi nghĩ lâu, sáng hôm sau, Ba Trung gọi tôi ra. Vẫn gói Nông Nghiệp và ly
cà phê đen trên bàn. Bên ngoài, mưa xối xả, hất cả vào chỗ tôi ngồi. Ba Trung
không đóng cửa. Nguyên tắc làm việc của công an không đóng kín cửa phòng khi
đối diện can phạm tay không bị còng. Nó sợ can phạm, bất chợt, hạ nó, áp đảo để
vượt ngục.
-
Anh Duyên Anh, người ta bảo anh khôn lắm.
-
Người ta hay các anh?
-
Bạn anh. Có những điều tôi kể ra sẽ làm anh sửng sốt. Bây giờ là phút nói thật,
bởi vì, bây giờ, anh đã nằm gọn trong lưới cách mạng. Mọi người trong các anh,
từ Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Mai Thảo … đều có hai cán bộ văn hóa
của chúng tôi, ở cục R, nghiên cứu. Chúng tôi nghiên cứu các anh ở nội thành, ở
R, ở Hà Nội. Anh có bao nhiêu bút hiệu, chúng tôi nắm hết. Kể cả những bút hiệu
anh ký ở mục Nhìn xuống cuộc đời trên báo Tuổi Ngọc. Chúng tôi
nghiên cứu bút pháp của các anh, diễn biến tư tưởng của các anh; chúng tôi theo
dõi sinh hoạt của các anh, liên hệ giữa các anh. Tại sao chúng tôi dành nhiều
công sức cho các anh thế? Vì chúng tôi sợ các anh, muốn có các anh. Vì các anh
nguy hiểm, vì các anh bị ngụy quyền bạc đãi. Nghĩ thử coi, anh Duyên Anh, trong
các anh, đã có ai được ngụy quyền dịch tác phẩm phổ biến ra nước ngoài? Ai
trong các anh đi họp Văn Bút Quốc Tế được Nguyên Văn Thiệu trả tiền vé máy bay
và tiền tiêu vặt? Cái ngu xuẩn của ngụy quyền là nó không biết kết hợp các anh
thành một chiến tuyến văn hóa. Nếu nó kết hợp được, và các anh đừng chia rẽ
nhóm, chửi bới lẫn nhau, chiến tranh còn kéo dài bất phân thắng bại và, có thể,
chỗ anh đang nằm là chỗ của tôi. Nguyễn Khánh tuyên dương các anh làm chúng tôi
hoảng hốt. Nó là thằng duy nhất biết sức mạnh của mỗi ngòi bút là một sư đoàn.
Nó mới nói ngòi bút của nhà báo, chưa đề cập đến sức mạnh của nhà văn, của
những người làm tư tưởng cuốn hút nhân dân.
Ba
Trung dẫn tôi vào ngơ ngác mới. Lãnh đạo của nó đã dạy bảo nó huyễn hoặc tôi.
Tôi sửng sốt thiệt tình. Tôi đâu dám tưởng tượng cộng sản đánh giá chúng tôi
ghê gớm thế. Từ khởi sự cuộc đời văn chương, tôi đã nghĩ mình viết văn mua vui
cho độc giả để mưu sinh. Hoàn toàn tôi không có tham vọng gì vào văn chương.
Tôi thấy Nguyễn Du vĩ đại đã khépTruyện Kiều bằng hai câu bình dị và khiêm
tốn:
Lời
quê góp nhặt dông dài
Mua
vui cũng được một vài trống canh
Tiền
bối vĩ đại không hề “phi lộ” đao to búa lớn. Rằng, ta, Tố Như, làm văn chương
vì mục đích này nọ. Hậu bối ễnh ương xem chừng khoái làm con bò văn học nghệ
thuật. Đâu ngờ, cái sự mưu sinh bằng chữ nghĩa của mình lại được cả cộng sản
lẫn quốc gia rình rập kỹ vậy. Cộng sản thì tôi đã biết ở Sở Công An. Quốc gia
thì vừa biết khi sang Paris và gặp anh Phương Linh Châu. Ở Sàigòn, tôi chưa được
quen anh Châu. Anh ta làm việc cho Trung Ương Tình Báo và đặc biệt theo rõi
tôi. Anh cho biết, trong thân tình và việc đã qua rồi, anh quán triệt cá tính
của tôi, từ cách ngồi viết ở tòa soạn đến cách ngồi uống cà phê ở vỉa hè, giờ
giấc sinh hoạt, liên hệ bạn bè… Người được anh chị thỉ theo dõi tôi là chủ bút
tuần báo Tuổi Ngọc. Tôi giật mình. Giật mình hơn, Trung Ương Tình Báo định
bắt tôi và gài tôi vào cái thế phải làm việc cho họ với tư cách chủ bút một tờ
báo của họ. Nhờ một sĩ quan già lục hồ sơ của tôi, đoán tử vi và nói chưa đến
lúc bắt tôi, nên tôi thoát. Ông Thiệu trị nước có thầy bói bên cạnh! Trung Ương
Tình Báo cũng có thầy tử vi! Anh kể rất nhiều kỷ niệm theo rõi tôi. Tóm tắt,
quốc gia rình rập tôi mà tôi không hay. Hôm nay, nhờ cộng sản, nhờ quốc gia
tiết lộ, tôi bỗng thấy nhà văn chúng tôi phi thường quá. Ôi, cuộc mưu sinh của
tôi sao mà lận đận, sao lắm kẻ rình mò, hãm hại thế! Vẫn chẳng có gì đáng để
tôi kiêu hãnh. Ta vẫn phải đi trên sầu đạo dằng dặc hệ lụy. Cái gì ta để lại ở
cuối sầu đạo mới đáng để ta kiêu hãnh. Và ta chỉ bằng lòng chịu phán xét, lúc
ấy.
-
Thế giới biết nhiều về nhà văn, nhà thơ của chúng tôi hơn biết các anh. Tác
phẩm của nhà văn, nhà thơ chúng tôi đã dịch mười thứ tiếng. Còn các anh, chạy
vạy xuất bản đã khó, thu tiền về còn nhục. Đã nhà văn nào của các anh diễn
thuyết ở Hoa Thịnh Đốn, Đông Kinh, Ba Lê? Nhà văn của chúng tôi xách va li đi
khắp thế giới. Các anh đều làm lợi cho ngụy quyền, cho Mỹ mà cả Mỹ lẫn ngụy
quyền đều bạc đãi các anh. Đàn áp các anh. Bỏ rơi các anh. Anh nghĩ sao?
-
Tôi nghĩ chính nhờ bị bạc đãi, bị đàn áp, bị bỏ rơi mà chúng tôi đã trở thành
chúng tôi.
-
Thành tội phạm?
-
Vâng, tội phạm của chiến thắng của các anh.
-
Kỳ-Thiệu về, giả sử thế, chúng nó có cứu các anh chăng?
-
Không. Chúng sẽ giết tôi hoặc nhốt tôi mãi mãi.
-
Anh đã làm lợi cho chúng nó?
-
Tôi ích kỷ để nói với các anh rằng tôi chỉ làm lợi cho tôi, cho vợ con tôi. Nếu
anh thích, và như nhận xét của anh, tôi làm lợi cho quê hương.
-
Anh sẽ làm lợi cho quê hương chứ chưa làm lợi cho quê hương. Anh quyết định đi.
Tôi nhắc lại, người ta bảo anh khôn lắm. Dễ hiểu thôi, anh là mẫu người thân
lập thân, anh phải khôn anh mới là Duyên Anh. Anh đã dự định bán tuần
báoNgười để lách thoát cái thế tranh chấp của Thiệu-Kỳ-Minh, thoát sự trả
thù của Đặng Văn Quang, Hoàng Đức Nhã. Anh làm Tuổi Ngọc để thoát ký
quỹ mười triệu đồng. Anh hô hoán những “đêm của lính” để được động viên tại
chỗ. Anh lợi dụng Trần Hữu Thanh để viết hịch tham nhũng, chửi Thiệu qua miệng
người khác. Anh lợi dụng diễn đàn Quốc Hội để viết diễn văn cho nghị sĩ, dân
biểu đối lập phát biểu tư tưởng đối kháng của anh, trong khi, anh giả vờ làm
báo con nít. Anh đã khôn, anh nên khôn thêm một lần cuối.
Cộng
sản nó đi guốc trong bụng tôi. Nó biết tôi ngàn lần hơn tôi biết nó. Và tôi
thua nó là hợp lý.
-
Sự khôn của tôi đã là tai họa. Tôi không muốn khôn nữa.
-
Anh lại khôn rồi đấy. Đừng khôn với cách mạng. Tôi hỏi anh, bị chúng tôi bắt,
anh biết chắc Thiệu-Kỳ sẽ nhốt mãi mãi hoặc giết ngay, nếu chúng “giải phóng
dân tộc”, anh tin ai cứu anh? Quốc tế à? Với quốc tế, anh vô danh tiểu tốt.
Quốc tế đâu đã đọc sách của các anh mà can thiệp cho các anh. Anh chỉ có một hy
vọng cuối cùng. Chúng tôi tha anh. Muốn được tha, là người khôn, anh tự hiểu
anh nên làm gì.
Ba
Trung nâng tôi lên, rồi đap tôi ngã chúi. Nó không bắt tôi nhận tôi là vô sản
nữa. Hôm nay, nó “mạn đàm” với tôi về sự khôn của tôi và sự nắm linh hồn tôi
của cộng sản và kích thích tự ái của tôi và nói rõ ẩn ức của tôi với chế độ cũ.
Tôi không ngần ngại gì mà không nói những ẩn ức của tôi với chế độ cũ, từ sau
1-11-1963. Trước hết, tôi bất bình cái thái độ du côn của Nguyễn Cao Kỳ. Ông ta
là thứ thủ tướng bất xứng về mọi phương diện. Vì bài phiếm luận của tôi đăng
trên nhật báoTin Báo, đụng chạm tới Đô trưởng Văn Văn Của (Đô trưởng say rượu,
bắn súng loạn cào cào, quân cảnh Mỹ còng tay nộp cho Ty Cảnh Sát quận 1,
Sàigòn), ông ta họp báo bỏ túi, gọi tôi là côn đồ, đòi đánh nhau tay đôi
nếu là Văn Văn Của và đóng cửa Tin Báo. Gọi tôi là côn đồ tức là
đồng hóa tôi với “Việt Cộng ác ôn côn đồ”. Tôi chưa bỏ theo Việt Cộng đấy. Tôi
ngậm trái thù, trả đũa liên tiếp Nguyễn Cao Kỳ và tay chân. Hôm nay vẫn chưa
nguôi hận. Đáng lẽ, không bao giờ có tuần báo Con Ong, tuần
báo Người, nếu Đinh Trình Chính, đầy tớ của Kỳ, cho tôi xuất bản tuần
báo Búp Bê. Chính ghét tôi, chấp nhận truyện tranh nhảm nhí “charlot
Nguyễn Thọ” và chỉ “lưu tình” khi ông sắp mất chức Tổng trưởng Thông Tin. Tôi
làm báo nhi đồng trong hoàn cảnh khó khăn. Và Búp Bê đình bản sau năm
số. Trở về nhật báo, tôi hung hăng, tôi tàn bạo, tôi sa lầy, tôi đầy ngất ân
oán giang hồ. Từ đó là Thương Sinh dẫm lên tất cả. Kỳ và Chính đã không để tôi
làm Duyên Anh viết truyện mơ mộng. Chúng nó dồn tôi vào con đường bất mãn, tôi
đi hết sai lầm này đến sai lầm khác, và tôi bị chụp bủa bởi cái lưới ngộ nhận
oan nghiệt. Tôi rất muốn làm công việc nhỏ mọn có ý nghĩa cho đời sống. Và tôi
chỉ gặp bọn quyền bính bỏ lửa vào tay mình. Một lần nữa, tôi xuất bản tuần
báo Tuổi Ngoc khổ lớn, tôi cố giã từ nhật báo, tuần báo nham nhở. Bấy
giờ là triều đại của Thiệu và Tổng trưởng Giáo dục Lê Minh Liên. Ông Châu Kim
Nhân giới thiệu tôi với Liên. Tôi trình bày sự cần thiết phải có một tờ báo cho
thiếu niên trong cái sa mạc sách báo tuổi trẻ. Ông Liên đồng ý. Ông hứa yểm
trợTuổi Ngọc mỗi kỳ 500 số cho tới khi nó vững. Tôi mừng quá, hí hửng tính
500 số x 20 đồng bằng 10,000 đồng x 4 kỳ bằng 40,000 đồng, vừa đủ tiền bìa và
công in offset cho 4 số báo. Chừng báo ra mắt, tôi gọi dây nói cho văn phòng
của ông Liên. Tôi được viên bí thư trả lời:
-
Ông Tổng trường chỉ thị rằng mỗi kỳ báo, ông cho tùy phái đem lên Bộ 10 số báo,
và Bộ sẽ trả bằng mandat mỗi tam cá nguyệt!
Tôi
định chửi cha cái bộ … vô giáo dục đó một câu. Lại thôi, bèn đáp:
-
Báo tôi nghèo không có tùy phái và không bán cho Bộ nữa. Ông thưa với ngài Tổng
trưởng giùm, nếu ngài ấy rảnh, ghé tòa soạn, tôi cho 500 số, về đọc, rồi bán ký
tính giá đồng nát.
Bực
quá, tôi viết Ngựa chứng trong sân trường để mở mắt bọn ngu xuẩn ở Bộ
Giáo Dục, viết tiếp Bò sữa gặm có cháy, dạy lũ Thiệu cách huấn luyện nhi
đồng. Đổng lý của Tổng trưởng Thông Tin Trương Bửu Điện mời tôi đến Bộ … thông
cảm. Bò sữa chuyển vào phủ tổng thống. Sáu tháng không trả lời cho
hay không cho xuất bản. Nhà Nguyễn Đình Vượng đã in xong xuôi, chỉ còn chờ giấy
phép. Cuối cùng, vì thương cụ Vượng, tôi phải “xin được tự ý xóa bỏ hai chương
phê bình tổng thống” để Bò sữa gặm cỏ cháy nhởn nhơ gặm cỏ cháy. Tôi
đã khốn đốn vì cuốn sách này khi làm việc với công an cộng sản.
-
Thế nào, anh Duyên Anh?
-
Anh muốn thế nào?
-
Muốn anh tiếp tục nghề viết của anh. Trước hết, anh phải kiểm điểm toàn bộ sai
lầm của anh trong vòng 15 năm, kiểm điểm toàn bộ quá trình viết lách của anh.
-
Tôi sẽ viết trong tự khai.
-
Không, anh sẽ viết trên báo Đảng, viết ở nhà anh.
-
Tôi viết trong tù cũng được chứ.
-
Anh viết trong tù, nhân dân sẽ nói công an cưỡng ép anh viết. Anh viết ở nhà
anh, nhân dân tin anh thành khẩn.
Một
phút thôi, một sợi tóc như Thạch Lam viết, sau những dồn nén không tài nào nhịn
nổi, tôi nhìn thẳng vào đối mắt liến láu của Ba Trung:
-
Anh không đủ tư cách tha tôi. Anh cũng không đủ tư cách cưỡng ép tôi viết.
-
Đảng thừa tư cách.
-
Anh không phải là Đảng.
-
Ai là Đảng?
-
Tố Hữu.
-
Tố Hữu không phải công an.
-
Vậy công an biết gì về văn chương mà luận bàn.
Ba
Trung đập bàn. Nó đứng dậy, đôi mắt ánh lên thù hận. Tôi tưởng nó sắp đấm vỡ
mặt tôi. Nó lại ngồi xuống:
-
Anh mệt rồi. Hôm nay làm việc hơi căng.
Tôi
lặng thinh. Nó đưa tay bóp trán:
-
Anh về phòng nghĩ. Cầm gói thuốc về hút.
-
Cám ơn. Tôi không hút thuốc nữa.
-
Tại sao?
-
Vì ở tù có nhiều thứ cần phải nhịn.
Nó
thông mình lắm, hiểu ý câu nói của tôi. Nó mỉm cười rồi đưa tôi về phòng. Tôi
không biết Ba Trung đã làm việc với Hoàng Anh Tuấn ra sao. Nó có gợi ý cho Tuấn
kiểm điểm quả trình viết lách và hứa hẹn gì không. Tuấn đã chuyển trại, tôi mất
dịp rút kinh nghiệm để đối phó với Ba Trung. Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu
chưa hề bị gọi ra. Luôn luôn, tôi cô đơn. Tôi nhớ, cuối năm 1950, sau khi quy
định thành phần giai cấp, loại bỏ toàn bộ trí thức và đảng phái ra khỏi kháng
chiến, cộng sản tổ chức một khóa chỉnh huấn cho văn nghệ sĩ. Những Xuân Diệu,
Thế Lữ, Nguyễn Tuân … sau khóa hoc, đã ỉa lên tác phẩm cũ của mình những bài tự
kiểm gớm ghiếc. Thơ thơ, Gửi hưởng cho gió chỉ còn là hai đống
phân trong nhãn quan vô sản. Thế Lữ tha hồ mà chửi Nhất Linh và Tự Lực Văn
Đoàn. Nguyễn Tuân coi Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua là sản
phẩm của bồi tiêm thuốc phiện (tạp chí Văn Nghệ, liên tiếp 3 số, đầu
1951). Vẫn trò chơi bắt nghệ sĩ phóng uế lên sự nghiệp mình, Trịnh Công Sơn đã
tự kiểm để được làm ở Sở Thông Tin Văn Hóa thành phố. Loại bài tự kiểm của
Trịnh Công Sơn đã làm ngao ngán tuổi trẻ ngưỡng mộ nhạc của Sơn. Từ đó, Sơn say
mèm. Bố già Á Nam Trần Tuấn Khải tự kiểm trên tờ Văn Nghệ Giải
Phóng mới nản chứ! Người nản nhất, xấu hổ nhất là Trần Việt Hoài. Anh đã uất
ức làm bốn câu thơ trước khi chết:
Đầy
tớ Mỹ ngã gục
Bồi
Tàu, Nga reo vui
Riêng
cháu con nòi Việt
Ôi,
xiết bao ngậm ngùi
Tôi
đã thấy nghệ sĩ tự kiểm thuở chưa làm văn chương. Tôi vừa thấy nghệ sĩ tự kiểm
khi đã làm văn chương. Tốt nhất, tôi nên tự khai trong tù. Dương Nghiễm Mậu
hoàn toàn đúng. Chúng tôi không có tội với nhân dân. Chúng tôi cứ nhận phứa
phựa có tội với chế độ. Lẽ phải ở bất cứ không gian, thời gian nào, đều nằm gọn
trong tay kẻ mạnh. Điều đó đã thành chân lý muôn thuở. Để tự vệ, để tồn tại, tổ
tiên ta đã có di chúc “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Buổi chiều, Ba Trung gọi
tôi ra. Lần này, ở phòng của nó còn thêm một người mà Ba Trung giới thiệu là
nhà văn cách mạng. Nó không nói bút hiệu nhà văn đó và tôi cũng chẳng buồn hỏi.
Một lần, Trần Kim Thanh, nhà văn Hà Nội, đã nói với tôi: “Ở miền Bắc của chúng
tôi có công an văn nghệ”. Nhà văn vừa gật đầu chào tôi, chắc chắn là nhà công
an văn nghệ, thứ lính kín của văn học nghệ thuật.
-
Buổi sáng căng quá, chiều nay chúng ta nói chuyện văn chương, Ba Trung giáo
đầu.
Nhà
công an văn nghệ hỏi tôi:
-
Anh hiểu thế nào là một nghệ sĩ?
Tôi
nói:
-
Anh muốn có một định nghĩa chính xác về hai tiếng nghệ sĩ?
Nhà
công an văn nghệ đáp:
-
Phải.
-
Anh có phải công an không?
-
Tại sao anh hỏi thế?
-
Tôi có hai lối trả lời. Một lối cho công an và một lối cho nghệ sĩ.
-
Tôi là nhà văn.
-
Hân hạnh cho tôi lắm lắm. Anh có đọc thơ cũ, thơ mà Xuân Diệu phủ nhận không?
-
Không.
-
Vậy tôi đọc cho anh nghe Xuân Diệu định nghĩa nghệ sĩ và tôi rất chịu.
Và
tôi anh dũng đọc thơ đồi trụy, thơ vàng cho cộng sản nghe.
Tôi
là con chim
Tới
từ núi lạ
Ngứa
cổ hót chơi
Khi
ánh sáng vào reo um khom lá
Khi
trăng khuya lên ủ mộng xanh tươi
Chim
ngắm suối đậu trên cành bịn rịn
Hót
tự nhiên nào biết bởi sao ca
Tiếng
to nhỏ chẳng xui chùm trái chín
Khúc
huy hoàng không giúp nở bông hoa
Cứ
hót mãi thế mà chim vỡ cổ
Héo
tim non cho quá độ tài tình
Cả
ánh sáng bảo lần giây màu đỏ
Rồi
một ngày sa rụng giữa bình minh
Tôi
rả rích chẳng qua trời bắt vậy
Chiếc
thuyền lòng nước chảy phải trôi mau
Gió
đã nổi cho nên buồm phải dậy
Hồn
vu vơ lời ấy bởi mây đào…
Đoạn
kết, tôi nhìn Ba Trung, đọc một cách say sưa:
Tôi
là con chim
Tới
từ núi lạ
Ngứa
cổ hót chơi
Hãy
nghe lấy còn như sao rỉ rả
Nói
làm chi tôi không biết trả lời!
Ba
Trung cười:
-
Con chim Xuân Diệu vô tội vì nó lãng mạn. Con chim Duyên Anh khác xa.
Nhà
văn nghệ công an đưa sang vấn đề khác:
-
Tôi thấy văn nghệ Sàigòn không chuyên nghiệp.
Nó
vừa mới bảo tôi định nghĩa người nghệ sĩ, chẳng tỏ thái độ đúng hay sai, đã vội
vàng chuyển mục.
-
Ý anh muốn nói văn nghệ Sàigòn không tốt nghiệp ở một trường chuyên nghiệp nào
ra, phải không? Tôi hỏi.
-
Đúng.
-
Tôi công nhận đúng, song chỉ đúng với nghệ sĩ trình diễn, đa số, họ đã không ở
trường ca nhạc, kịch nghệ nào ra cả. Nhưng, theo tôi, nghệ sĩ Sàigòn thì chuyên
nghiệp đúng nghĩa. Tất nhiên, nghệ sĩ Hà Nội không thể có cái đúng nghĩa ấy.
-
Tôi cần được giải thích.
-
Câu giải thích thật đơn sơ: Các anh không ôm một nỗi cô đơn nào cả.
-
Các anh ôm nỗi cô đơn? Các anh cô đơn bằng hưởng thụ.
-
Anh còn muốn nghe nữa không?
-
Còn chứ.
-
Đừng mỉa mai vội. Tôi tin anh là nhà văn, dù anh có phục vụ ở ngành công an.
-
Xin lỗi.
-
Anh đừng xin lỗi tôi, vì sự xin lỗi của anh càng tăng thêm vẻ mỉa mai.
Ba
Trung giả vờ có việc đột xuất, rời khỏi phòng. Người nhà văn công an, dân miền
Bắc chính cống, hình như, nhiều quyền hành hơn Ba Trung nằm vùng. Nó dục tôi:
-
Ta tiếp tục.
-
Tôi xin phép được hỏi anh và anh trả lời chính xác, thành khẩn, rồi từ những
câu vấn đáp sẽ có kết luận chuyên và không chuyên.
-
Đồng ý.
-
Có bao giờ anh thấy, ở rạp hát nào đó, tại Hà Nộihay bất cứ tỉnh huyện nào ở
miền Bắc, dù mưa hay nắng, dù bão to hãy yên lặng, khi đến giờ bắt buộc phải
kéo màn mà chỉ có vài khán giả không?
-
Không, không bao giờ. Nhà hát của chúng tôi luôn luôn đông nghịt, bất kể giông
bão.
-
Có bao giờ anh thấy, ở vỉa hè Hà Nội, tác phẩm và tên tác giả nằm ngổn ngang
không?
-
Không, không bao giờ. Chúng tôi có mấy trăm ngàn xã, mỗi xã một thư viện. Tác
phẩm của nhà văn của chúng tôi được xuất bản, ít nhất, cả 100 ngàn cuốn, chưa
đáp ứng yêu cầu.
-
Chúng tôi khác các anh, khác ghê gớm. Ở Sàigòn, sân khấu cải lương vẫn phải kéo
màn đêm mưa đột xuất dù khán giả vài chục người. Nghệ sĩ vẫn đông đủ. Tuồng
tích không bị cắt xén. Giọng ca ngọt bùi hơn, tiếng đàn tha thiết hơn trong nỗi
hoang vắng ấy. Ở những phòng trà, gặp đêm giông tố, khách thưởng ngoạn vỏn vẹn
một người thôi, ca sĩ của chúng tôi vẫn trình diễn, và đã diễn tả hết cái cô
đơn của con người trong quạnh hiu, trống trải. Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật
là mỗi cuộc phiêu lưu. Nó đi từ nhà xuất bản đến nhà phát hành. Nó được xếp vào
chỗ quan trọng của hàng sách hay bị xuống vỉa hè thì nó vẫn có linh hồn. Tóm
lại, chúng tôi thường xuyên trực diện nỗi cô đơn, uống từng giọt cô đơn trong
đời sống. Còn các anh, các anh được người ta lùa khán giả cho kín rạp để ca
múa, các anh được người ta chỉ thị vỗ tay hoan hô, các anh được người ta khuân
sách về xã ấp mà ra lệnh độc giả … học tập. Các anh không có nỗi cô đơn. Các
anh chỉ là nghệ công hay nghệ nhân. Các anh chưa từng là nghệ sĩ. Như tôi mới
là nghệ sĩ. Vì trọn đời tôi, tôi lạc lõng trong sương mù cô đơn; trọn đời tôi,
tôi bị truy nã, săn đuổi; trọn đời tôi, tôi bị đố kỵ, ghen ghét; trọn đời tôi,
tôi bị ngộ nhận, phản phúc. Bằng những cái đó, tôi trở nên chuyên nghiệp, tôi
tồn tại và tôi có những cái mà người khác không có. Không có so sánh trong tác
phẩm nghệ thuật, không có chối bỏ trong tác phẩm nghệ thuật. Anh có cái mà
người khác không có, mà tôi không thể có vì anh không phải là người khác, không
phải là tôi, không thích đồng hoa, đồng dạng, đồng hành. Tôi xin nhắc lại:
Những gì đã được quần chúng công nhận thì không thể chối bỏ. Sự chối bỏ chỉ có
tính cách nhất thời và gian dối. Nhiều chế độ đã bị xóa bỏ, tác phẩm nghệ thuật
và nghệ sĩ vẫn tồn tại. Đã không thể chối bỏ được tác phẩm nghệ thuật thì cũng
không thể bắt nghệ sĩ chối bỏ nghệ thuật của nó bằng bá đạo.
-
Anh kiêu ngạo qua, anh Duyên Anh ạ! Mỗi nhà văn nổi tiếng ở Saigon là một cái
rốn của vũ trụ. Đã Vũ Khắc Khoan kiêu ngạo, Mai Thảo kiêu ngạo, Nguyễn Mạnh Côn
kiêu ngạo… lại cả đến Dương Hùng Cường, Hoàng Hải Thủy cũng kiêu ngạo.
-
Theo tôi, kiêu ngạo là tự do, dân chủ là nhận đường phấn đấu. Anh phải là cái
gì mới được quyền kiêu ngạo chứ? Và kiêu ngạo của nghệ sĩ vô tội. Nó khiến anh
khó chịu nhưng nó không bỏ tù được anh, không bắt anh nhịn đói, không cưỡng ép
anh tự khai…
-
Anh ám chỉ tôi?
-
Anh là nhà văn mà…
-
Phải, tôi là nhà văn.
-
Tôi đang biểu dương anh. Tại sao anh không thích tôi kiêu ngạo? Anh nên nghiên
cứu kỹ lưỡng về trường hợp tôi. Trong một xã hội phân hóa toàn diện, băng hoại
từ gốc rễ, một mình tôi cô đơn với mớ kiến thức còm cõi, đòi làm lại cuộc đời
xum họp, bình yên, yêu thương và chia xẻ; một mình tôi viết 50 cuốn sách, làm
200 số báo đẹp, tôi rất xứng danh kiêu ngạo. Sự lao động chân chính của tôi hơn
các anh. Đã ai trong các anh viết nhiều bằng tôi?
-
Anh có thể khắc phục sự kiêu ngạo được không?
-
Anh bảo tôi kiêu ngạo thì tôi kiêu ngạo. Anh đừng có định kiến gì về tôi, anh
sẽ thấy tôi chả kiêu ngạo tí nào. Độc giả tuổi nhỏ của tôi có bảo tôi kiêu ngạo
đâu. Chỉ những kẻ tự ti mặc cảm mới bảo tôi kiêu ngạo, chỉ những đứa thù ghét
tôi mới bảo tôi kiêu ngạo.
-
Tôi khuyên anh nên truy nã bản thân hiện tại của anh, anh nên tự hỏi anh nên ở
đâu, nói chuyện với ai. Câu trả lời của anh cho chính anh sẽ giúp anh toàn
diện.
-
Cảm ơn anh. Tôi trả lời luôn: Tôi là nhà văn độc lập bị khép tội phản động,
đang ở tù và làm việc với … nhà văn chiến thắng. Tôi không dám chết anh hùng vì
tôi sợ làm anh hùng, nhưng tôi tình nguyện chết dần chết mòn theo cung cách
chết bình thường của những tù nhân bình thường.
Tôi
nhìn nhà văn công an:
-
Anh còn gì hỏi thêm tôi nữa không?
Nhà
văn công an móc thêm gói thuốc đen Tam Đảo, bốc ra, mời tôi:
-
Anh nhớ Hà Nội chứ?
Tôi
nhả khói thuốc:
-
Nhớ.
-
Hà Nội vẫn y nguyên như thời niên thiếu của anh. Căn nhà số 13 đường Ngô Thời
Nhiệm chưa bị bom Mỹ san bằng. Chỉ có con ngõ Lệnh Cư ở Khâm Thiên đã bị B52
xoá bỏ dấu tích kỷ niệm của anh và căn nhà số 42 Cửa Bắc của “bác nhà” bị sập
đổ. Bác gái chết vì bom Mỹ năm 1969, anh biết chứ?
-
Bố tôi đã kể.
-
Anh còn yêu Hà Nội không?
-
Tại sao không? Hà Nội hay Sàigòn đều là thành phố của quê hương chúng ta.
-
Anh muốn về Hà Nội?
-
Dĩ nhiên, tôi để lại Hà Nội muôn vàn kỷ niệm.
-
Bạn cũ của anh còn nguyên vẹn. Anh Nguyễn Thịnh giữ chức vụ quan trọng trong
ngành xuất bản âm nhạc. Anh Đàm Việt Minh ở trong hội nghiên cứu văn học. Anh
Lê Huy Luyến dạy ở đại học. Anh còn người em út tên là Vũ Hổ.
-
Vâng, nó bị bắt vì trốn lính và đang nằm ở Lào Kay.
-
Bác trai cho anh biết?
-
Vâng.
-
Vũ Hổ là thứ Trần Đại của Hà Nội. Anh đã viết truyện du đãng về em anh đấy.
-
Vinh dự quá.
-
Tôi đến thăm anh với tư cách đồng nghiệp. Tôi thành thật nói với anh điều này
để anh suy nghĩ: Nhạc sĩ Hoàng Dương, tác giả bài Hướng về Hà Nội, đã mang
giày của giặc, về với cách mạng, vẫn được trọng dụng. Hiện nay, anh Hoàng Dương
dạy nghệ thuật ở Viện Kịch Nghệ Âm Nhạc Hà Nội.
-
Cám ơn anh.
-
Điều này nữa: Anh không thể kiên trì bằng người cộng sản. Với cộng sản, nhiều
người muốn chết mà cứ bị sống khi họ đã bị đánh dấu.
-
Cám ơn anh. Tôi duy tâm và tôi tin sống chết có số.
Người
nhà văn công an cho tôi một túi thuốc là Sông Cầu và gói kẹo Hà Nội. Tôi nhận
một gói tượng trưng và vài cái kẹo mềm. Ba Trung trở về đúng lúc. Người nhà văn
công an bắt tay tôi, tạm biệt. Tôi về phòng, ân hận vì mình quá … kiêu ngạo,
không thèm hỏi bút hiệu của nhà văn công an. Ít ra, nó đã đọc tôi, đọc
kỹ Trường cũ và Ngày xưa còn bé của tôi. Nó biết nhiều về
gia đình tôi, bạn bè tôi, kỷ niệm Hà Nội của tôi. Nó chịu khó nghe tôi mà không
đập bàn, dù tôi là can phạm. Tôi không nghĩ tất cả đảng viên trung cấp đều mất
hết lương tâm. Người cộng sản đáng tội nghiệp. Họ bị chính đồng chí của họ rình
rập, soi mói. Sự ám ảnh bị rình rập trở thành thói quen, thành lý tưởng nên họ
đi rình rập lẫn nhau. Lãnh tụ cộng sản muốn có một phút sống thực với lòng mình
mà cũng không được. Còn những đảng viên nhỏ, những viên chức đối tượng đảng
viên thì phải đeo hai cuộc đời khốn khổ trên một cuộc đời hệ lụy. Cuộc đời khốn
khổ thứ nhất là cuộc đời với tiếng nói giả dối, xu phụ, phét lác. Cuộc đời khốn
khổ thứ hai là cuộc đời với tiếng nói thành khẩn chỉ dám nói thầm với mình và
đầy mặc cảm không ai thèm tin mình. Xuân Thiều, nhà văn quân đội miền Bắc,
người Vinh, đảng viên trung kiên của đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh đã dặn
chúng tôi nên giữ kín những vụ liên hệ ăn uống, chơi bời với anh ta. Người đảng
viên ấy mở miệng nói một câu xót xa: “Ngoài Marxisme, tôi còn thờ chủ nghĩa
Marimite và bảo vệ nó tới cùng.” Lý tưởng nào rồi cũng ở cái nồi cơm, niêu cá!”
Nếu xưa có kẻ si tình than thở: "Than ôi, chí lớn trong thiên hạ không đầy
đôi mắt mỹ nhân” thì nay, những đảng viên cộng sản trung cấp và trung kiên than
thở: “Than ôi, lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa Mác-Lê không đầy cái nồi cơm”!
Xin có lời chia buồn muộn màng với Marx, với Engels dưới lòng đất; với Lenine,
với Hồ Chí Minh trong hòm kính đìu hiu.
“Với
cộng sản, nhiều người muốn chết mà cứ bị sống khi họ đã bị đánh dấu.” Tôi không
biết nên tin câu này như lời dọa nạt sinh tử hay lời căn dặn chân tình. Thôi,
đành tin Trời Đất khi đã hết dám tin ai. “Trong tù, tuyệt đối không tin ai”.
Người công an già miền Nam bắt tôi luôn luôn nhớ thế. Tôi vốn ham ngạo báng cả
thần thánh lẫn ma quỷ. Trên đường mưu sinh, ở đoạn nào đó, người ta chỉ gặp may
mắn và may mắn, người ta bỗng quên số phận mà chỉ tin vào tài năng. Đến lúc
tuột dốc, người ta chợt tỉnh ngộ và người ta ngây thơ bấu víu lấy cái thiêng
liêng vô hình để hy vọng. Buổi sáng ngày 8-4-1976, tôi đi tìm thấy bói Kim ở
đường Chị Lăng, Phú Nhuận một lần nữa. Ông thầy bói mù gieo quẻ dịch. Đồng tiền
bắn ra khỏi đĩa. Gieo lại. Bấm. Đoán.
-
Trốn đi!
-
Cụ đã bảo mệnh vững?
-
Mệnh vẫn vững nhưng hôm nay nhằm ngày rất xấu của Mậu Dần tức là vợ ông. Trốn
đi chừng ba tháng sẽ thoát tù tội.
-
Nếu không trốn?
-
Sẽ bị bắt trong ngày hôm nay!
-
Rồi sao?
-
Cũng sẽ về thôi. Vài năm đấy.
-
Mấy năm?
-
Không thể rõ. Đừng lo chết trong tù, bảo đảm mệnh vững. Ông Mạnh Côn mới nguy.
-
Chắc chắn mệnh vững?
-
Chắc chắn. Bị bắt thì đừng quên Thường Tung: “Mềm còn, cứng mất”!
-
Cám ơn cụ.
Buổi
chiều 8-4-1976, đánh đu với số mệnh và cũng chẳng vất vợ con cho ai, tôi nằm
nhà. Và bị bắt. Đúng quẻ Dịch của thầy bói Kim. Đã tin cụ Kim, tôi càng tin
mệnh mình vững. Mà nó không vững thì cũng đành như tên một cuốn sách của Dương
Nghiễm Mậu: Cũng đành. Tôi lại thở than với Nguyễn Du:
Cũng
đành nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần ra sao.
Thử xem con tạo xoay vần ra sao.
CHƯƠNG 9
Không phải là Ba Trung nữa. Cũng không phải là phòng làm việc của
Ba Trung. Tôi đang “đương đầu” với người công an chấp pháp khác. Y nói tiếng
Nghệ Tĩnh nặng nề. Trên bàn của y không có cà phê, không có thuốc lá. Những
ngày “trăng mật” của tôi và công an chấp pháp, hình như, chấm dứt. Tôi đã đụng
độ 4 chấp pháp tại Sở Công An Thành Phố. Người thứ nhất, biểu tượng của miền
Nam, chẳng bao giờ muốn bị nhuộm đỏ linh hồn, đã chỉ điểm cho tôi biết chỗ nào
là bom, mìn, chông, bẫy trên tử đạo và triết lý sống đời tù cộng sản. Người thứ
hai, biểu tượng của nằm vùng láu cá, muốn chứng tỏ mình cao thượng. Người thứ
ba, biểu tượng của nền văn nghệ công an. Và người thứ tư. Để xem, y là biểu tượng
cái gì.
- Anh làm tự khai.
- Tôi đã làm.
- Tôi bảo anh làm tự khai với tôi.
- Khai gì nữa? Tôi đang khai dang dở thì người ta ngừng lại mạn đàm. Tôi muốn
coi bản tự khai dang dở để khai tiếp.
- Tôi là chấp pháp mới của anh, mọi việc bắt đầu lại.
- Nhưng khai gi?
- Quá trình, cuộc đời anh từ mười tuổi đến ngày bị bắt. Anh nhập bằng cái sơ
yêu lý lịch của anh.
Y đem cho tôi 10 tờ giấy khổ giấy in roneo và cây Bic:
- Trang nào xóa bỏ, anh không được phép xé, phải nộp đủ mười tờ. Anh nhớ chưa?
- Tôi nhớ.
- Yêu cầu của tôi là mỗi ngày anh viết 20 trang: sáng 10, chiều 10.
- Tôi không phải là máy viết.
- Ngày xưa, một ngày anh viết cho mấy nhật báo? Anh tự hào viết nhanh nhất nước
mà.
- Viết nhanh vì không cần suy nghĩ.
- Tự khai không cần suy nghĩ.
- Không suy nghĩ là thiếu thành khẩn.
Tôi hiểu ngay thủ đoạn của tên chấp pháp này. Y muốn tôi viết nhanh là y đã
giăng bẫy. “Chúng ta có nhiều thời giờ”. Tôi nhớ Ba Trung. Và tôi không cần phí
lời nữa. Tôi cầm bút, viết “phăng-tê-di” hai chữ Tự khai. Trong hàng chục
chữ ghép sau chữ tự như tự do, tự hào, tự lực, tự lập, tự cường, tự chủ, tự vấn
… tôi thấy có tự sát là bi đát nhất mà vẫn kém não nùng hơn tự thú, tự kiểm, tự
khai. Tự khai – tự thú – tự kiểm. Nhà thơ Paul Éluard đã viết tự do trên
lá, trên hoa, trên bảng đen, trong trái tim … Tôi viết tự khai trên
cái gì, trong cái gì? Nhà văn chúng ta không bị công sản bắt về các tội hình sự;
chúng ta không hề là công cụ của chế độ, của thế lực nào; chúng ta không đảng
phải đối nghịch ý thức hệ, tư tưởng; chúng ta đã là những con người của lương
tâm. Và thế, hơn cả mọi thứ … giai cấp tù, nhà văn là tù nhân của lương tâm
(prisonnier de conscience). Cộng sản bỏ tù cả lương tâm. Họ không có lương tâm,
chủ nghĩa của họ không có lương tâm. Họ đã giết chết thi sĩ của tình yêu, của
lương tri con người là Vũ Hoàng Chương. Họ đã đầy thi sĩ làm thơ tả giọt nước mắt
của người yêu là Thế Viên. Họ đã còng chân xích tay người viết cổ tích là Doãn
Quốc Sĩ. Họ đã bắt cả lương tâm phải tự khai để truy nã niềm bí ẩn của lương
tâm. Đó là cộng sản. Còn những kẻ không hề bị tự khai, nhưng luôn luôn tự nhận
mình ấm áp lương tâm, cũng học đòi phán xét tù nhân của lương tâm. Trên cái gì,
trong cái gì, tôi đã viết tự khai? Trên cay đắng phận người và trong cô đơn cõi
đời. Trên cái gì, trong cái gì, tôi cần nói, sắp nói, sẽ nói với bọn học đòi
phán xét tù nhân của lương tâm? Hãy để câu trả lời đó.
Như Tử Trường Tư Mã Thiên ôm nỗi đau dao hoạn hèn mọn. Ôi, 2000 năm cũ, lương
tâm kẻ sĩ Tư Mã Thiên lên tiếng – Tiếng nói duy nhất của thời đại – vì nỗi oan
khiên của Lý Lăng, của con người. Lương tâm vằng vặc trăng sao ấy đã chịu nhục
hình. Bằng hữu Tử Trường đâu, chiến hữu Tử Trường đâu, tri kỷ Tử Trường đâu? Họ
đứng trước mặt Tử Trường. Xanh mặt vì sợ bạo quyền, không dám bênh Tử Trường.
Run rẩy vì sợ bổng lộc, không dám cứu Tử Trường. Trơ mắt ếch nhìn kẻ sĩ thọ
hình nhục nhã. Rồi phán xét mỉa mai: Tại sao chẳng can đảm chết đi, tại sao cam
đành bị thiến. Cũng may, Tư Mã Thiên không bị tù, không bị tập trung lao cải.
Chứ không sẽ: Thằng Tư Mã Thiên làm ăng-ten, bán bè bạn, quỳ gối bò đi lãnh khẩu
phần, xí gạt anh em nửa đêm dậy nấu nước pha cà phê rồi uống một mình, bị chọc
thủng một mắt rồi! Vân vân và vân vân … Tư Mã Thiên cô độc, đem tâm sự nói với
người xưa. Và cái tồn tại, cái để lại ở cuối đường hệ lụy, cái làm phục sinh sự
chết là Sử Ký Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên vĩnh cửu, lúc nào cũng gần gủi con
người. Bằng tác phẩm. Bọn phán quan đâu rồi nhỉ? Chúng nó chết rửa xác, chẳng
còn ai thèm nhớ, thèm biết chúng nó sau khi chúng nó “phản tỉnh” và đã thực hiện
những số báo tưởng niệm, tưởng mộ, đã quyên tiền bỏ túi và tuyên bố giúp vợ con
kẻ sĩ tù nhân của lương tâm. 2000 ngàn năm cũ mà ngỡ gần nhau gang tấc. Tự
tình khúc của Cao Ba Nhạ có làm xúc động lũ sâu bọ triều đình nhà Nguyễn
đâu. Đã hiểu thế thì cũng chẳng cần Tân tự tình khúc mai này. Có lẽ, Ru
khúc, Sầu khúc, Tình khúc đẹp hơn. Và, trong khi, ngậm trái đắng để làm gì
hơn Sử Ký của Tư Mã Thiên, hãy ngâm thơ Nguyễn Bá Trác: "Chỉ ta
ta biết, lòng ta ta hay”. Hoặc cùng bằng hữu ở Paris, đêm đêm, vật ngã vài chai
hồng tửu, nghe Quỳnh Dao thở nhẹ:
Thôi, đành ru ta với ta
bằng xót xa< br />đêm già,
ngục đá
Rượu mềm môi nuối tiếc kiêu sa phôi pha
Ở dĩ vãng hiện về rét mướt phồn hoa…
Rồi đọc thơ Nguyễn Bính:
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Sau cái sơ yếu lý lịch, tôi ngừng lại. Tên chấp pháp – cứ như võ hiệp Kim Dung,
chấp pháp, trưởng lão chấp pháp, mã đầu chấp pháp – ngồi hút thuốc, nhìn tôi viết.
Y không mời tôi một điếu. Đúng là bản chất vắt chày ra nước của quê hương Hồ Chủ
Tịch vĩ đại! Hay y cố tình thay đổi cung cách đối xử?
- Tôi nghĩ viết lâu rồi, không thể viết đúng yêu cầu của anh được.
- Phải khắc phục mọi khó khăn.
- Tôi không biết khắc phục.
- Thì tuân hành mệnh lệnh. Anh đọc nội quy chưa?
- Tôi đã đọc.
Nội quy trại giam, Điều 1: “Can phạm phải triệt để tuân hành chỉ thị và mệnh lệnh
của chiến sĩ và cán bộ trong trại giam”.
- Vậy tuân hành đi.
Tôi tuân hành. Tôi cho chữ bò chậm chạp trên trang giấy. Tôi viết như học trò
viết “Ecriture”. Tôi bỏ hàng thừa. Tôi để lề rộng. Đến giờ cơm trưa, chỉ mới được
hai trang.
- Viết xong 10 trang thì anh về dùng cơm.
Y ngồi ì. Tôi ngồi ì. Không phải tôi không viết nổi mà là tôi chán viết. Chắc
chắn, tôi tìm cách đổi chấp pháp. Với chúng tôi và với tất cả can phạm phản động
hiện hành (những người chống cộng sau 30-4-1975), hễ chấp pháp làm việc không nổi
hoặc không đủ khả năng làm việc với can phạm, Phòng Chấp Pháp thay thế công an
chấp pháp khác. Can phạm có quyền nói thẳng với chấp pháp: “Tôi không thể làm
việc với anh”. Chế độ Nguyễn Văn Thiệu cũng không hề đánh đập, tra tấn nhà văn,
nhà báo khi họ bị bắt về bất cứ tội gì. Nhiều can phạm phản động hiện hành bị
tra tấn bằng các kiểu còng, khóa ở đề lao Gia Định, bị đánh ở Cục Quân Báo (Tổng
Nha Cảnh Sắt cũ) và trại Tô Hiến Thành. Những nhà văn bị bắt trong chiến dịch
2-4-1976 không hề bị đánh thẩm vấn ở Sở Công An, đề lao Gia Định, không hề bị
chửi rủa tàn tệ. Đập bàn, quát tháo là căng nhất. Đưa vào cachot là biện pháp
cuối cùng. Nắm được cái thế khỏi sợ ăn đòn, tôi bèn viết hoa lá cành về thời tiểu
học. Ba Trung đã ra lệnh cho tôi: “Anh bỏ bớt râu ria thời thơ ấu”. Tôi quên Ba
Trung, râu ria với tên chấp pháp Nghệ Tĩnh. Đoạn đời lớp ba ở huyện Phụ Dực, bị
ỉa đùn trong lớp, tôi miêu tả kỹ lưỡng. Ông đói, mày cũng đói. Máy thèm ăn chứ
ông không thèm ăn. Cơm tù hấp dẫn gì! Đúng năm trang chữ ruồi bò, y bảo tôi:
- Nghỉ, chiều viết tiếp.
- Chưa đủ 10 trang.
- Tôi bảo nghỉ!
- Tôi sợ buổi chiều không đủ 20 trang.
- Tôi bảo nghỉ. Đó là mệnh lệnh!
Bao tử của y chỉ thị y ban mệnh lệnh. Ăn cơm tập thể mà trễ bữa thì chỉ còn vét
đĩa. Đã có ý đồ, tôi năn nỉ y:
- Tôi đang hăng say viết.
- Nghỉ!
Y dằng bút khỏi tay tôi. Rồi y kêu quản giáo dẫn tôi về phòng. Buổi chiều, y
theo quản giáo đến tận phòng đón tôi ra làm việc. Cũng như buổi sáng, y ngồi
hút thuốc, không thèm mời tôi. Tiếp tục quãng đời thơ ấu, tôi sang trang thứ
sáu. Vẫn cung cách lề rộng, hàng thưa, chữ ruồi bò, tôi viết tự khai, viết những
gì mà Ba Trung bắt tôi viết. Người chấp pháp miền Nam đã dặn dò tôi: “Anh sẽ phải
làm tự khai nhiều lần. Vậy, khi viết phải sáng suốt mà nhớ những gì mình đã viết”.
Tôi rất sáng suốt, lúc này, lúc mà tôi viết những gì tôi đã viết theo lệnh của
Ba Trung. Được thêm hai trang, chấp pháp xứ Nghệ ra lệnh nghỉ. Y nhìn tôi, cười
ruồi, gật gù:
- Anh thèm hút một điếu thuốc không?
Tôi có thói quen hễ viết là phải hút thuốc lá. Và hút liên miên. Ở nhà tù cộng
sản, khi công an gọi ra làm việc, tù nhân không được phép mang theo thuốc lá và
không được phép hút nếu công an không cho phép. Gã chấp pháp xứ Nghệ đã nghiên
cứu kỹ lưỡng thói quen của tôi, y bắt tôi thèm hút để ban phát một ân huệ này,
y sẽ đánh giá chúng tôi như những tên hèn mọn. Tôi chưa kịp trả lời, y nói tiếp:
- Anh Nguyễn Mạnh Côn rất chân thật. Anh ta thèm hút thuốc phiện, chúng tôi đem
bàn đèn vào cho anh ta hút.
Tôi lặng thinh. Gã công an xứ Nghệ đã móc gói thuốc lá khỏi túi, đặt giữa bàn với
hộp diêm Thống Nhất.
- Anh Côn viết tự khai thành khẩn lắm. Có đoạn anh ta chạy tội là đã không huấn
luyện Hoàng Anh Tuấn, Nhã Ca và anh chống cộng sản. Các nhà văn trẻ của Sàigòn
đã phản bội Nguyễn Mạnh Côn, phản thầy, chống cộng sản.
Tôi bắt đầu khó chịu.
- Anh Côn khai hết những điều không lấy gì làm đẹp đẽ về bản thân anh và nhiều
người khác.
Tôi chợt nhớ thủ đoạn gây mâu thuẫn của công sản mà tôi đã đọc trong cuốn sách
nào. Sự khó chịu sơ khởi dành cho anh Côn bỗng tiêu tan ngay. Người ta đã chọn
anh Nguyễn Mạnh Côn là người quen tôi nhất để tạo niềm thù hận giữa tôi và anh
Côn. Và tôi sẽ không ngần ngại trả đũa anh Côn. Và người ta sẽ nắm vững những
gì anh Côn muốn dấu diếm. Đem bàn đèn vào nhà tù cho tù nhân hút thuốc phiện là
điều không tưởng. Và nữa, chưa từng bao giờ anh Côn huấn luyện chúng tôi viết
văn và chống cộng sản. Gã công an xứ Nghệ dừng ở đó. Y nhắc lại câu hỏi:
- Anh thèm hút một điếu thuốc không?
- Không. Tôi đáp.
- Hút đi, tôi chiêu đãi anh.
Y cầm gói thuốc lên:
- Tại sao anh khước từ?
Tôi mỉm cười:
- Vì tôi không thèm.
- Tại sao anh không thèm?
- Tôi đang được Đảng giáo dục. Thưa anh, bài học tập đầu tiên của tôi là khắc
phuc mọi thèm muốn.
- Tốt.
Y bỏ gói thuốc vào túi.
- Chúng ta mạn đàm thân mật nhé?
Tôi nói:
- Tùy ý anh.
Y tỏ vẻ bực tức một cách rất … chân tình:
- Tại sao tùy ý tôi?
Tôi cũng tỏ ra rất chân tình:
- Anh Ba Trung khẳng định chúng tôi đang ở tù. Ở tù thì không được phép tùy ý
mình.
Y cười:
- Anh ở tù với Đảng, với Cách Mạng, không ở tù vì tôi, với tôi. Đồng chí Ba
Trung hơi lệch lạc tư tưởng. Bỏ cái hiện tại ở tù của anh đi, anh Duyên Anh. Ta
nói chuyện khác.
Y chuyển đòn:
- Tôi đã đọc anh, đọc thật kỹ. Anh kiêu ngạo lắm. Viết phóng sự nguyền rủa cộng
sản và bêu rếu lãnh tụ của chúng tôi, anh bảo anh viết bằng chân. Viết tiểu
thuyết nham nhở, anh bảo anh viết bằng tay trái. Viết truyện trẻ con, anh bảo
anh viết bằng tay phải. Viết tự khai, anh viết bằng gì?
Gã công an chấp pháp xứ Nghệ dồn tôi vào thế bí. Tôi trả lời thế nào? Nếu hôm
nay, ngồi ở quán Đào Viên số 82 Rue Beaudricourt quận 13, Paris của người đẹp
Lan Phương, bất cứ một thằng cộng sản nào hỏi câu tương tự, tôi sẽ đầy đủ can đảm
và dũng cảm trả lời: “Tôi viết tự khai bằng củ cà-rốt của tôi”! Nhưng tháng 5
năm 1976, tôi nằm bẹp trong xà lim của Sở Công An Nội Chính, sự cao ngao của
tôi mềm xìu. Tôi đã hèn mọn, tầm thường. Và tôi buồn bã nói:
- Anh hiểu tôi khó trả lời, hỏi mà chi?
- Hỏi để biết mà đánh giá tự khai của anh.
Gã chấp pháp xứ Nghệ xua tay:
- Thôi, anh đừng trả lời câu hỏi ấy nữa. Tôi trấn áp anh, tôi nhận khuyết điểm.
Nhìn tôi. Cái vẽ hãm tài trên khuôn mặt buổi sáng của y biến mất. Như thể, y đã
lột mặt. Giọng nói của y, tuy trọ trẹ, mà đầy tình cảm:
- Anh Duyên Anh ạ, tôi vẫn còn ấm ức truyện dài mang tính cách tự thuật Trái
chín rấm của anh.
Tôi chột dạ. Thằng này đọc tôi kỹ quá.
- Tôi cho sau Con sáo của em tôi, Cái diều, Nắng chiều quê nội, Đại dương
trong lòng con ốc nhỏ là những kế tiếp xem TRÁI CHÍN RẤM có ngọt ngon bằng
trái chín cây. Tại sao anh không viết thêm?
- Vì nó không thể chín.
- Nói thật đi, vì anh lấy vợ địa chủ và anh quên giai cấp của anh. Tôi biết, thằng
Hữu sẽ đưa con Mai, em gái nó, vào đời khi bố mẹ nó chết. Anh em nó sẽ ê chề
trong đời sống tư sản mà ông chú Nghiêm của nó là biểu tượng khốn kiếp. Cuối
cùng, sẽ giống thằng Vọng, Hữu sẽ đi tìm cách mạng. Anh sẽ hơn mọi nhà văn cách
mạng nếu dòng văn chương của anh không bị cắt đứt bởi giai cấp cố hữu của anh.
Bản chất của anh là vô sản. Chưa muộn gì đối với anh. Anh có thể trở về sông
Trà Lý. Xa dòng sông tình nghĩa ấy, anh phiêu lưu quá đà. Anh viết truyện Chiến
tranh mèo chuột rồi đổi thành Rồi hết chiến tranh, anh phản bội giai
cấp đích thực của anh, anh gọi giai cấp vô sản là chuột, mỉa mai cách mạng vô sản
là thiếu chính nghĩa và tạo chính nghĩa cho bù nhìn mèo và thực dân phú ông.
Anh nghĩ Đảng không quan tâm vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ bắt cái bộ Dân Vận của ngụy
quyền cấm anh viết phóng sự Tiền Mẽo, Sến Việt và ký Thương Sinh trên
nhật báo Sốngà? Anh bơ vơ, anh lạc lõng, anh tự nhận “Cộng sản không tha,
quốc gia không dung”. Cộng sản nào không tha anh? Cộng sản dung anh. Anh về suy
nghĩ đi …
Gã chấp pháp xứ Nghệ dẫn tôi về phòng. Y đã chơi tôi một đòn cân não, khiến tôi
thao thức không ngủ suốt đêm. Y biết tôi nhiều mà tôi hoàn toàn không biết y.
Cũng như những người đã chống cộng, đang chống cộng ầm ỹ chẳng hề biết tí ti gì
về Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mãi mãi, người ta
đánh giá cộng sản qua mấy chú bộ đội khờ khạo, nói ngọng. Con đường tù, con đường
hệ lụy, xem chừng, còn hứa hẹn thật dài. Dương Nghiễm Mẫu đã dọn sẵn 12 năm.
Tác giả Cũng đành không thích đếm những ngày tù, tháng tù. Tôi yêu
Dương Nghiễm Mậu. Và tôi nói Dương Nghiễm Mẫu là nhà văn tôi yêu nhất. Cộng sản
biết tôi nhiều hơn tôi biết tôi.
Ít độc giả thân mến nào của tôi nhắc tới truyện dài TRÁI CHÍN RẤM mà Con
sáo của em tôi là chương nhất. Truyện dài này mang nhiều dáng dấp tự truyện.
Tôi chỉ muốn diễn tả lòng hy sinh cao quý của người anh dành cho em gái. Hữu sẽ
đưa em vào đời. Nó quên cả xuân đời của nó. Nó chịu đựng mọi đau đớn, moi nghịch
cảnh. Khi tận mắt chứng kiến hạnh phúc của em, Hữu mới nghĩ đến mình. Thì nó đã
héo hắt. Đã cuối thu. Sở dĩ tôi bỏ rơi TRÁI CHÍN RẤM vì không thể kéo dài một
điệu buồn bã mấy trăm trang sách. Gã chấp pháp xứ Nghệ đã đổ vạ vợ tôi làm tôi
quên giai cấp vô sản. Tôi đã chống đối sự quy định giai cấp cho con người.
Nhưng tôi không hiểu tại sao cộng sản cứ muốn tôi xác nhận tôi thuộc gia cấp vô
sản. Cộng sản bảo dung tôi và cộng sản bắt tôi, giam nhốt tôi nhục nhã. Và họ bảo
tôi về suy nghĩ.
Không bao giờ tôi còn được gặp người chấp pháp xứ Nghệ nữa. Y lại bỏ rơi tôi.
Cho đến một buổi chiều cuối tháng 6 năm 1976, cai ngục mở của với tờ danh sách
can phạm đánh máy.
- Những người có tên sau đây…
Phòng B của tôi, lần lượt Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Hồng Dương, Đặng Hải
Sơn và tôi, hành trang tù, rời khỏi phòng. Chúng tôi xếp hàng đôi với nhiều can
phạm khác của các phòng. Ngồi xuống theo mệnh lệnh, chúng tôi chờ đợi. Chưa hiểu
thân phận mình sẽ trôi dạt tới cái địa chỉ khốn kiếp nào của nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, vừa mới thành công vĩ đại bầu cử quốc hội
cả nước. Tôi, thật sự, mất hết từ đêm 8-4-1976. Tôi còn gì bây giờ nhỉ? Còn chứ,
tôi an ủi tôi: Ta còn nhà tù!
- Mình đi đâu, Mậu?
- Có lẽ về đề lao Gia Định hoặc sang Chí Hòa. Đi đâu thì cũng là đi tù, ông ạ!
Bốn giờ, chúng tôi nghe cai ngục đọc danh sách lần chót. Rồi đứng dậy, hai người
một cái còng nhãn hiệu USA, cộng sản còng tay chúng tôi, đẩy chúng tôi lên xe
bít bùng. Tôi nhớ, năm 20 tuổi, xem một cuốn phim nhan đề “Ma vie commence en
Malaisie”. Cuốn phim mô tả thân phận một phụ nữ Anh trong lửa đạn và sự chiếm
đóng của Nhật ở Mã Lai. Người ta thường bắt đầu cuộc sống đích thực bằng nỗi khổ
đích thực. Dường như, chỉ bằng nỗi khổ mà con người kinh quá, nó mới khám phá nổi
những bí ẩn của đời sống và biết bắt đầu cuộc sống của mình tự đoạn nào. Một
hôm, tôi gặp Bùi Duy Tâm ở ngã tư Phan Đình Phùng – Trương Minh Giảng, Sàigòn.
Anh ta vừa từ trại cải tạo ra. Anh ta nói với tôi: “Bây giờ, chúng ta nhìn rõ cả
trái đất. Song tới phút này thì cũng đáng kể là tới.” Định mệnh đưa tôi đi
xa hơn cái tới đáng kể của bạn tôi. Tôi bị còng tay dẫn vào Sở Công
An. Ngót hai tháng trời nằm đây, tôi đã tra vấn tôi không ngừng. Tôi được thảnh
thơi nhìn lại 15 năm viết tiểu thuyết của tôi. Chữ nghĩa của tôi đã không làm
tôi xấu hổ. Chỉ có niềm ân hận là tôi chưa xuất bản bộ truyện 1200 trang Vẻ
buồn tỉnh lỵ. Cuốn cuối cùng của bộ truyện vẽ cảnh đời đau đớn, ngơ ngác 1954,
y hệt cảnh đời bi đát, não nề 1975. Toàn bộ của nó là lịch sử 10 năm (1944 –
1954) dưới mắt và trong ý nghĩa tuổi thơ trôi nổi theo vận mệnh dân tộc. Cách mạng
và chiến tranh. Hòa bình và thù hận. Mỗi đổ vỡ đều có thể xây dựng lại, trừ nỗi
băng hoại tình người. Tôi rất tiếc đã mất cơ hội trở thành nhà văn tiên tri. “Nếu
cần thì ta làm lại tất cả”. Từ tra vấn trong cô đơn, tôi chợt thấy tâm hồn tôi
có một chuyển mùa kỳ lạ. Và tôi bỗng thèm sống, khao khát sống. Tôi muốn bắt đầu
cuộc sống của tôi ởMột địa chỉ chung của chủ nghĩa. Cuộc phiêu lưu đi tìm ý
nghĩa cho đời sống của tôi còn dài, vô hạn định. Nỗi thống khổ đầu tay của tôi
là một thử thách nhẹ so với nỗi thống khổ của các văn hào thế giới. Nỗi thống
khổ mà các nhà văn lừng lẫy của nhân loại đã trực diện, đã đương đầu, đã kiên
nhẫn chịu đựng, đã phấn đấu im lặng ví như trái núi. Nỗi thống khổ tôi đang ngậm
chỉ là cái móng tay. Cái móng tay chớ vội ồn ào khi trái núi nín thinh, bình thản
liếm máu trên vết thương của mình mà cống hiến cho đời sống những ý nghĩa tuyệt
với về tình yêu và hạnh phúc.
Trước đây, tuyệt nhiên tôi không có tham vọng văn chương. Hoặc nếu người ta bắt
tôi phải công nhận tôi có tham vọng văn chương thì tham vọng văn chương ấy là
thứ tham vọng giới hạn bằng vong đai biên giới quốc gia. Lúc này, lúc tay tôi
đang đeo còng chế tạo tại USA, tham vọng văn chương của tôi cuồn cuộn, sóng
gió, bão táp. Tôi thèm trả lời người cộng sản một câu nói đầy miệt thị “Thế giới
đâu đã đọc sách của các anh”! Phải, thế giới chưa hề biết chúng tôi như những
nhà văn rực rỡ nhân bản. Thế giới chỉ biết chúng tôi, chỉ nghĩ về chúng tôi như
Nguyễn Ngọc Nghĩa ăn cắp tượng Chàm, như Phạm Văn Đổng mở sòng bạc, chứa thổ đổ
hồ, như Hoàng Đức Nhã ngu si, nham nhở, như Nguyễn Văn Thiệu hèn mọn, như Đặng
Văn Quang đốn mạt và bầy chồn cáo tham nhũng, lũ tướng lãnh đào ngũ trước lệnh
đầu hàng, như bọn y sĩ ăn cắp… Thế giới, đáng lẽ, phải biết Đinh Hùng, Vũ Hoàng
Chương, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Hải Chí, Cung Tiến, Phạm Duy, Thanh Tâm Tuyền,
Võ Hồng, Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Anh Tuấn, Phạm Thiên Thư… Nhưng, với thủ tướng
Nguyễn Cao Kỳ say mê “Cô Gái Đồ Long”, với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu say mê
“Căn nhà ngoại ô”, với Bộ trưởng Ngô Khắc Tỉnh mê hái hoa và vì mê gái chạy trốn
không kịp, thế giới, hôm nay, vẫn tưởng miền Năm không có nhà văn lỗi lạc như
miền Bắc. Miền Nam chỉ biết làm chiến tranh, làm giàu, không biết làm văn học
nghệ thuật đúng nghĩa!
Tôi đã leo lên xe. Chúng tôi đã leo lên xe. Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy. Tấm
vải bố trùm kín mít. Xe nổ máy. Rồi lăn bánh. Giã từ Sở Công An, giã từ một địa
chỉ chung của chủ nghĩa. Tôi đi tới một địa chỉ khác. Giã từ và cám ơn những
cay đắng, nghẹn ngào vỡ lòng. Cám ơn nó đã cho tôi bắt đầu cuộc sống và tham vọng
văn chương.
4-1985
PHẦN THỨ HAI
THỐNG KHỔ NHẬP MÔN
(ĐỀ LAO GIA ĐỊNH)
THỐNG KHỔ NHẬP MÔN
(ĐỀ LAO GIA ĐỊNH)
CHƯƠNG 10.
Chuyến xe
đời chập chùng hệ lụy đổ chúng tôi xuống một địa chỉ mới. Địa chỉ mới, với tôi.
Với dân tộc tôi thì nó đã quen thuộc đến cũ mèm. Số 4 đường Phan Đăng Lưu, Quận
Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, là địa chỉ mới ấy. Trước ngày 30 tháng 4 năm
1975, không ai cần biết số 4 đường Chi Lăng, tỉnh Gia Định. Những kẻ biết nó đều
bất hạnh. Vì nó khoác cái nhãn hiệu hãi hùng: Đề lao Gia Định. Cũ hơn cả
Nha Cảnh Sát Đô Thành, đề lao Gia Định do thực dân Pháp xây dựng. Nó nằm giữa
Tòa án Gia Định và Tòa Tỉnh trưởng Gia Định. Nhà tù luôn luôn sát khít tòa án.
Hình phạt và công lý gắn bó nhau. Ông Ngô Đình Diệm làm cách mạng nhân vị, ông
ta chỉ xoá tên… phế đế Bảo Đại. Đề lao Gia Định vẫn còn nguyên. Và cách mang
nhân vị của ông ta dùng đề lao Gia Định giam nhốt những người đối lập chế độ
nhân vị. Cơ chừng nhân và vị đã nặng mùi, từ đó. Trong sự nghiệp khai phóng tự
do, dân chủ của Hoa Kỳ, người Mỹ ít quan tâm tới đề lao Gia Định. Bằng tinh hoa
kiến trúc Hiệp Chủng Quốc, họ đã tặng Việt Nam Cộng Hòa hai nhà tù thật hiện đại,
thật tư bản. Để nhốt và khai thác Việt Nam cộng sản. Ở Tô Hiến Thành. Đôi mắt
chú Sam đã nhắm tít khi ngang qua đề lao Gia Định. Do đó, đề lao không được hưởng
văn minh và tự do Hoa Kỳ. Nó bệ rạc cả nội dung lẫn hình thức. Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975, cách mạng vô sản tiếp quản đề lao. Rồi, vì Chi Lăng đổi tên
Phan Đăng Lưu, dân chúng tự ý đổi tên đề lao Gia Định thành nhà tù Phan Đăng
Lưu, mặc dù, nhà nước cộng sản ghi rõ trên văn thư là Trại T-20. Vị anh hùng
giai cấp Phan Đăng Lưu đã được phục sinh như một cai ngục vĩ đại của một nhà tù
mà cổng treo tấm bảng nền vàng chữ đỏ: Không có gì quý hơn độc lập tự do! Câu
nói bất hủ của Hồ Chí Minh chỉ sáng nghĩa và sáng giá khi con người vào tù bởi
độc lập, tự do. Và con người phải chui qua cái cổng, chui dưới tấm bảng nền
vàng chữ đỏ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Dân tộc Việt Nam đã loay hoay
với độc lập, tự do ngót nửa thế kỷ. Chúng ta loay hoay giành độc lập, tự do giữa
chúng ta. Rốt cuộc, mãi mãi, chúng ta ngậm ngùi “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”. Người Việt Nam đã nhân danh cái của thiên hạ mà tàn sát nhau. Chưa ai chịu
truy nã phận mình. Chúng ta điên rồ trong trò chơi của ý thức hệ. Và tàn cuộc,
chúng ta hành hạ lẫn nhau. Chưa đủ, chúng ta thù hận nhau, chém giết nhau. Khi ấy,
cánh đồng mầu mỡ quê hương, cỏ dại nhiều hơn lúa.
Bạn biết chợ Bà Chiểu chứ? Đằng sau Lăng Ông ấy mà! Bên đây đường, cổng đề lao.
Bên kia, hông chợ. Biên giới của tự do và tù đầy ngắn ngủn. Chuyến xe đời chập
chùng hệ lụy qua cổng chính. Cổng khép kín ngay. Xe ngừng lại. Tấm vải bố kéo
lên. Chúng tôi, hai người chung một chiếc còng tay, nhảy xuống đất. Người ta mở
cổng và lùa chúng tôi vào sân trong kín đáo. Buổi chiều hôm ấy không có nắng.
Trời âm u. Chúng tôi ngồi trong sân thứ hai. Chúng tôi đi đứng tự do ở cái sân
nhỏ, chung quanh tường cao giăng giây kẽm gai ngọn đỉnh. Một bạn tù vỗ vai tôi:
- Duyên Anh.
Tôi nhận không ra.
- Thế Viên đây mà.
Thế Viên, trời ơi, tác giả thi phẩm ướt tình Người yêu tôi khóc, giáo sư
văn chương của trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho! Năm nào, anh đã giới thiệu tôi
với cử tọa buổi diễn thuyết của tôi ở trường Gioan 23, Định Tường. Sau đó,
chúng tôi sang Cồn Phụng, thăm ông Đạo Dừa. Thế Viên có mái tóc bồng bềnh, đôi
mắt thật thi sĩ. Anh chưa từng chống cộng sản. Một nhà giáo tận tâm, một thi sĩ
lãng mạn, suốt đời ca ngợi tình yêu, tại sao anh vào tù?
- Hệ lụy, anh Duyên Anh à!
Thế Viên đã về Nhà Trang, dạy ở đó cho đến đại nạn hồng kỳ. Là giáo chức, không
một ngày quân trường, anh chỉ bị học tập tại nhiệm sở của anh vài tuần và tiếp
tục nghề nghiệp theo giáo trình, giáo án của chế độ mới. Tháng 4-1976, anh vô
Sàigòn thăm Doãn Quốc Sĩ, ăn cơm trưa với Sĩ. Đáng lẽ, Thế Viên về sớm là thoát
nạn. Định mệnh của anh nằm trong sự quyến luyến của Doãn Quốc Sĩ. Sĩ đã lưu bạn
hiền uống cà phê, kéo dài những phút hàn huyên. Tác giả Dòng sông định mệnh đâu
biết người ta đã bủa lưới vây bắt anh. Công an ập vào căn nhà trong căn hẽm dài
đuờng Thành Thái. Người ta còng tay Doãn Quốc Sĩ. Người ta đọc lệnh bắt anh.
Tác giả Đoàn người hóa khỉ đã tận mắt nhìn người hóa khỉ. Thế Viên
dính lưới một cách oan uổng. Không hề có lệnh bắt anh. Anh không được Trần Bạch
Đằng chiếu cố. Trần Bạch Đằng vẫn chưa cho anh “một chỗ đất sống dưới ánh mắt
trời”. Những tên công an nằm vùng, gã sinh viên đại học Vạn Hạnh, học trò cũ của
Thế Viên, đã đích thân còng tay thầy của nó và đưa thầy nó vào cuộc phiêu lưu ê
chề, nhục nhã. Nó gặp thầy, không nghiên mình như Carnot, mà bắt thầy nó đứng
nghiêm. Và nó bảo thấy nó can tội thi sĩ phản động!
Tên sinh viên đại học nằm vùng này không phải là tên cộng sản mầm non học thói
Đặng Trần Thường thứ nhất và duy nhất. Trước nó cả ba chục năm, nhà văn Lan
Khai, tác giả Cái hột mận, Ai lên phố cát, đã bị học trò bỏ vào rọ tre,
đeo đá nặng và thả xuống sống chết sặc sụa. Thế Viên may mắn hơn Lan Khai, Khái
Hưng. Anh không bị đếm tung từng chết trầm. Anh chỉ bị học trò bắt đi… học tập.
Người cộng sản sẽ trả lời thế nào về tình nghĩa, về đạo đức, về phẩm cách qua sự
việc bắt nhốt Thế Viên? Bản chất của công sản là phản bội. Lãnh tụ Hồ Chí Minh
đã thủ tiêu bao nhiều bằng hữu, bao nhiêu đồng chí sáng giá hơn mình? Chúng ta
chưa có bằng chứng cụ thể. Bằng chứng cụ thể là thi sĩ Thế Viên được học trò cộng
sản đền ơn bằng còng, xích và ngục tù. Những anh cộng sản làm dáng ở Paris, ở
Bonn, ở Amsterdam, ở Londres, ở Washington, có gợn chút ưu tư? Sự mỉa mai không
dành cho những anh tập sự phản bội, tập sự dẫm nát tình nghĩa. Mà, hơi buồn, lại
phải dành ưu tiên cho ông nhà văn Kẻ Tà Giáo. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo là con rể
ông Trương Gia Kỳ Sanh, là em rể tên cộng sản khát máu Trần Bạch Đằng. Cả nước
đều rõ. Trần Bạch Đằng tuyên bố: “Bọn văn nghệ Sàigòn không có đất sống dưới
ánh mắt trời”. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo tham dự phiên họp đầu
tiên của Hội Văn Nghệ Giải Phóng. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo được
Trần Bạch Đằng cài đi nằm vùng ở Tin Sángcủa bọn Ngô Công Đức, đi Bắc về
Nam. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo sang Mỹ dẫn lời Bertol Bretch: “Buồn
cho thời đại, nói chuyện với cỏ cây cũng là một tội lỗi”. Nhiều người biết. Nhiều
báo đăng. Chúng ta khó chịu cái thái độ bất lương trí thức của ông nhà văn với.
Người nên nói lời của Bertol Bretch chỉ là Vũ Hoàng Chương, là Thế Viên. Những
kẻ nhởn nhơ công tác theo chị thỉ của Trần Bạch Đằng, một giai đoạn nào đó,
trong khi, các thi sĩ “nói chuyện với cỏ cây” chết rũ trong tù là những kẻ
không được tha thứ. Song, người “quốc gia” vốn rộng lượng. Và những kẻ đã cộng
tác với kẻ thù của họ, vẫn ngông nghênh, vẫn mục hạ vô nhân, tưởng thiên hạ mù
và câm hết, ong óng một giọng bịp bợm rẻ tiền: “Tôi không nuôi một ảo tưởng
nào. Và điều mong ước dĩ nhiên của tôi là tiếp tục dùng ngòi bút để phục vụ người
Việt đang định cư ở hải ngoại”. Nuôi ảo tưởng nào cho một giai đoạn nào? Nước Mỹ
không có Trần Bạch Đằng, sẽ có ai? Đó là ưu tư của người “quốc gia”, nếu họ còn
chống cộng và còn tham vọng giải thoát quê hương. César nói: “Kẻ thù có thể tha
thứ, kẻ phản bội phải ném vào chuồng cọp”. Những kẻ phản bội, những tên ở lại,
đã xách súng lùa anh em đi họp chào mừng cộng sản, đã viết báo cộng sản, đã làm
việc với công sản và đã vượt biên bằng thuyền và bằng máy bay sang Mỹ, sang
Pháp. Bằng chứng rành rành, đọc tên đứa nào, đứa nấy cúi mặt câm nín. Thì vẫn
công khai múa mép và múa bút. Thì vẫn được hoan nghênh như chiến sĩ đấu tranh
cho tự do, dân chủ. Và nạn nhân của chúng nó thì bị vùi dập tơi bời, bị dồn vào
cuối đường cô đơn, tuyệt vọng. Người “quốc gia” còn một hạng, mà dưới mắt và
trong ý nghĩ đốn mạt của nó, ai cũng là cộng sản, nếu đã nằm tù cộng sản và nếu
trốn khỏi đất nước muộn màng. Cái hạng chống cộng bằng sách vở này, chưa một
phút nhìn giép râu dẫm trên đường phố Sàigòn, chưa một giây nếm nổi chua xót của
tổ quốc, quá khích đến tội nghiệp. Có lẽ, sự cường điệu quốc gia chỉ nhằm khoả
lấp một co cẳng chạy dài, vất lại một quá khứ bần tiện.
- Gia đình tôi chưa biết tôi ở tù. Thế Viên buồn bã nói.
- Họ đã cho viết thư mà. Tôi nói.
- Tôi đã viết hai lần. Không thấy gia đình trả lời, không có ai gửi quần áo,
thuốc men, tiền bạc.
- Anh còn tiền không?
- Còn. Tôi đăng ký mấy chục.
Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ngồi yên lặng. Tôi nhìn sang phía Thế Viên, thi
sĩ của tình yêu. Người yêu của anh, những người yêu của anh còn khóc? Tại sao
người ta không bắt chủ nhiệm nhật báo Xây dựng, nhật báo Tự Do chống
cộng khét lẹt? Tại sao người ta không bắt Thanh Lãng? Câu trả lời có phần lợi
cho sự “ân trả oán đền” của cộng sản. Linh muc Nguyễn Quang Lãm đã lôi Thái Bạch
ra khỏi Tổng nha Cảnh Sát quốc gia và bảo đảm hành vi “nằm vùng “ của nó. Linh
mục Thanh Lãng đã xin ông Nguyễn Văn Thiệu thả Vũ Hạnh và cho nó một chỗ ngồi ở
Trung tâm Văn Bút Việt Nam. Ban chấp hành Văn Bút bình yên. Thế Viên không chống
ai thì lận đận. Chắc chắn, anh đã không thích May cờ giống thi sĩ Tướng
Lĩnh, không thích Ngày mai giống thi sĩ Hoàng Trúc Ly gửi đăng Sàigòn
giải phóng vội vàng. Anh cũng không thích giống văn sĩ Lan Đình, tuyết hận
Nguyễn Mạnh Côn chê Từ hôm khởi chiến của mình, bị loại ra giải văn học
tổng thống bằng loạt bài Thâm cung bí sử trên Tin Sáng. Anh ngồi
chồm hổm, thi sĩ của chúng ta. Nông dân Moritz của Giờ thứ hai mươi lăm chỉ
vì trời mưa, chỉ vì vợ đẹp mà lưu lạc mấy chục nhà tù phát xít, đồng minh. Thi
sĩ Thế Viên chỉ vì ly cà phê hàn huyên, chỉ vì Người yêu tôi khóc mà
đã lưu lạc hai nhà tù cách mạng. Tôi đi tù không oan uổng. Sự hèn mọn của công
sản ở đó, và từ đó, loài người có thể phán xét công lý cộng sản.
Chúng tôi bị phân thành ba nhóm. Ba tên công an chức sắc của đề lao Gia Định xuất
hiện. Họ ngó chúng tôi như lái buôn nô lệ chọn người. Cười nói một lúc, họ thỏa
thuận, mỗi tên nhận một nhóm. Nhóm của tôi vào sau cùng. Chúng tôi, Hồng Dương,
Nguyễn Hữu Hiệu và tôi, được đưa vào khu C-1. Dương Nghiễm Mậu, Đặng Hải Sơn,
Thế Viên đến khu khác. Đề lao Gia Định, thời Pháp đô hộ có mỗi khu A. Khu A cũ
kỹ, ẩm thấp, nhưng đầy đủ “tiện nghi”. Người Pháp lập một thư viện nhỏ, tràn ngập
tiểu thuyết trinh thám, gián điệp. Sang thời cách mạng nhân vị, ông Ngô Đình Diệm
trùng tu khu A và cất thêm khu B mái phẳng xi-măng cốt sắt. Qua cách mạng vô sản
thống nhất cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh “tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc” hơn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, xây liền một mạch hai khu C-1,
C-2. C-1 và C-2 mỗi khu có 7 phòng và 12 cachots. Cachot hay biệt giam đối diện
phòng giam tập thể. Biệt giam khu A có phòng nhốt bốn, năm tù nhân, còng tay,
xích chân dính chùm 1. Trưởng
khu C-1, bí danh Sáu Cầu, người Quảng Ngãi. Ông ta bảo chúng tôi đứng xếp hàng.
Một công an quản giáo dở sổ ghi tên tù nhân mới nhập trại. Sau này, tôi biết
tên hắn là Hùng, dân Củ Chi “thành đồng cách mạng”. Tù nhân tặng hắn biệt danh
Hùng kẽm gai.
Hồng Dương rất thông minh. Anh ta kéo tôi đứng cuối cùng hàng. Để có thể biết
anh em ai vào phòng nào. Nguyễn Hữu Hiệu vô phòng 3 C-1. Hồng Dương đã xong thủ
tục. Tôi là kẻ cuối cùng. Khám xét hành lý của tôi hồi lâu, gã quản giáo cật vấn
lý lịch:
- Họ và tên?
- Vũ Mộng Long.
- Bí danh?
- Không có.
- Nghề gì?
- Viết văn.
- Viết tiểu thuyết ba xu hả?
- Phải
- Bút hiệu?
- Duyên Anh.
- A, Duyên Anh viết Điệu ru nước mắt.
Sau khi ghi lý lịch của tôi vào sổ tù, sổ đoạn trường, gã quản giáo hỏi tôi:
- Tại sao anh viết Điệu ru nước mắt?
Tôi đáp:
- Tôi sẽ trả lời với cán bố chấp pháp.
Có nghĩa rằng, cai ngục, anh không có quyền thẩm vấn tôi. Gã quản giáo cay cú.
Hắn cũng là tên nằm vùng. Tôi hiểu hắn đã đánh dấu tôi. Đó là điều dại dột, là
sự lãng quên lời dặn “Chớ dại chết ở cái lỗ chân trâu”.
- Anh đã viết Kẻ bị xóa tên trong sổ bụi đời?
- Phải.
- Bao giờ anh viết Kẻ được xóa tên trong sổ tù?
Hắn không cho tôi trả lời, vẫy tay xua tôi ra chỗ Hồng Dương. Một tên cai ngục dẫn
tôi đến phòng cuối dãy. Chúng tôi vào phòng 6 C-1. Ở đây, tôi gặp lại các anh
em của tôi: Thanh Thương Hoàng, Chóe, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn.
Như tất cả các phòng giam tập thể của C-1 và C-2, 6 C-1 của tôi thấp lè tè, lợp
tôn. Nó dài tám thước, rộng bốn thước. Hồ nước, cầu tiêu ở trong đó luôn. Người
ta xây bục xi măng cao khỏi nền đất hai gang tay làm bục ngủ. Có một miếng trống,
thấp gần cửa để chia cơm nước. Trần phòng là những thanh xà mười tròn, chồng
lên nhau thành hình vuông, đầu người chui không lọt. Chẳng hề có cửa sổ, cửa
gió. Chúng tôi tiếp dưỡng khí qua ô nhỏ vừa bằng cuốn sách bỏ túi trổ giữa cửa
sắt. Trưởng phòng và Trật tự viên dùng dây đo lại toàn phòng để chia chỗ nằm đồng
đều cho tù nhân. Khi phòng đã chật, thêm tù nhân mới là một sự vất vả. Chia chỗ
thường dẫn đến gây gỗ, mỗi tù nhân bị bớt một chút xíu chiều rộng. Cuộc chia chỗ
kéo dài nửa tiếng, tôi được đúng hai gang tay chiều rộng. Bằng hai gang đo này,
tôi chỉ có thể nằm nghiêng hay nằm ngửa, đặt đôi tay lên bụng, không nhúc nhíc.
Hành lý của tù nhân được treo lên những thanh sắt trần sát tường. Tù nhân có,
ít nhất, một cái bị cói và một cái giỏ plastic. Bị đựng kẹo, bánh, đường, bột,
mì vụn, thuốc lá, thuốc cảm sốt và quần áo. Giỏ đựng chén, muỗng, nước mắm, thức
ăn mặn. Tất cả bằng nhựa. Mọi đồ kim khí bị nghiêm cấm. 6 C-1 thêm Hồng Dươngng
và tôi, là 52 người. 52 người chiếm một diện tích 32 thước vuông tính cả cầu
tiêu, hồ nước, sàn tắm, chỗ chia cơm nước.
Xong thủ tục nhập phòng và sau bữa cơm chiều vội vã, tôi có dịp tìm hiểu phòng
6 C-1. Trưởng phòng, thiếu tá cảnh sát đặc biệt Lâm Văn Thế, ngoài 50 tuổi, điềm
đạm, nhẫn nhục. Ông Thế thuộc thế hệ kháng chiến Nam Bộ. Năm 1954, thay vì xuống
Cà Mau ra Bắc tập kết, ông ta đã ngược lên Sa Huỳnh. Nửa đường, ông ta bỏ về. Rồi
ông cộng tác với cảnh sát quốc gia, tự học thi đậu tú tài, tự học Anh ngữ.
Trong tù, ông ta học chữ Nho bằng phấn viết trên bục xi măng với ông hiệu trưởng
trường Tàu. Phấn bị cấm, ông nhúng ngón tay vào ca nước mà học. Ông Thế bị bắt
ngay đêm 30-4-75 tại nhà. Trật tự viên, Dzũng quan tài, một du đãng trẻ, lừng
danh sau vụ cướp súng của bộ đội, bắn nhau với công an, bị bắn què cẳng và bị
đánh gãy răng. Thư ký phòng là nghị viên hàng tỉnh Nguyễn Tấn Lợi. Đó là ba chức
sắc của phòng 6 C-1. Ngoài ra, phòng 6 tập hợp đủ thành phần: Tư sản mại bản Chợ
Lớn, phản động trẻ tuổi, đầu trộm đuôi cướp, án phạt của chế độ cũ về những
thành tích bất hảo. Và nhà văn, nhà báo, nhà vẽ, nhà đạo diễn! Cái xã hội tù ô
hợp nầy chửi thề văng tục suốt ngày, kèn cựa nhau từng tí. Nó khác xa với sĩ
quan trình diện học tập hay công chức cao cấp trình diện học tập. Trình độ văn
hóa và tâm tính hoàn toàn chênh lệch nên đối nghịch nhau liên miên. Tôi được
nhiều độc giả du đãng và phản động trẻ săn sóc. Và đó là những hệ lụy suốt thời
gian tôi trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định.
Năm chúng tôi, Thanh Thương Hoàng, Chóe, Hồng Dương, Thân Trong Kỳ và tôi, xúm
quanh nhau hút thuốc lá, chuyện trò.
- Chúng mày là chuyến xe vét đấy. Bên Sở chỉ còn một Nguyễn Sĩ Tế vẫn nằm
cachot. Thanh Thương Hoàng nói.
Tác giả Cánh chim mỏi đưa tay gãi háng:
- Tao bị ghẻ nặng rồi.
Anh tiếp:
- Đêm sang đây thật hãi hùng. Chúng tao cứ tưởng nó đem đi thủ tiêu.
Làm sao tôi quên đêm ấy. Bản lề phòng giam kèn kẹt ghê rợn. Nó nhiễm đầy Đảng
tính nên kỹ thuật dọa nạt của nó tuyệt vời. Một kẻ bất cần đời như Hoàng Anh Tuấn
mà nghe đọc tên mình thì rối loạn, chụp vội mỗi cái điếu cày ra đi, quên cả
hành lý. Con người rất con người là phải biết sợ bỏ rọ ngâm sông. Thiếu nỗi sợ
đó, con người vô tri giác. Và phê bình nỗi sợ đó, phán xét nỗi sợ đó, dành cho
các phán quan Nói Phét ở những nơi bày tỏ sư dũng cảm không bị đánh thuế. Tôi
đã thấy các vị phán quan bệnh hoạn này trên đất nước của Lincoln. Hình như, tất
cả đều ngậm miệng, đều khom lưng trước quyền uy ảo tưởng Hoàng Cơ Minh. Chủ
nghĩa tôi mọi thường tỏ ra thiếu hào sảng với đồng nghiệp oan khiên và đồng bào
oan khổ. Một giây Hoàng Anh Tuấn thôi, sẽ không còn nhớ chụp cái điều cày ra
đi. Mà sẽ đứng nghệt mặt, xón đái ra quần. Vậy thì, chưa kinh quá khốn cùng,
nên câm họng, chớ nên luận anh hùng hay chụp mũ bừa bãi. Không hề kiếm nổi một
anh hùng tù ngục trong ngục tù cộng sản đâu. Chỉ có những kẻ bất trí, những kẻ
thiếu chí lớn, ngông nghênh với đám cai tù chăn trâu cắt cỏ, tự hạ thấp mình
cùng lũ công an nói ngọng. Để chết dại ở lỗ chân trâu. Thảng hoặc, những anh
hùng tù ngục được vinh tôn bởi một tù nhân vô loại “xuống bếp ăn vụng thit, ăn
cắp cơm cháy, ăn tránh phần cơm heo”, tưởng đã chẳng hiển hách, còn bị nhục
thêm. Không có gì xấu hổ để bị bắt hay tình nguyện vẽ tranh Hồ Chí Minh trong
tù cả. Biết nhẫn nhục “vẽ chân dung Hồ Chí Minh cũng như vác củi, cuốc đất”. Sự
bảo trọng thân xác kiểu “cũng như” đã phô bày sự tồn tại lãng nhách trong một
pho hồi ký thuật viết lách còn phải học tập lâu ngày. Lãnh tụ cộng sản không chấp
nê những tiểu tiết trong nhà tù. Không có thằng lãnh tụ cộng sản nào làm anh
hùng trong nhà tù cả. La fin justifie les moyens. Chúng nó hèn hạ để tồn tại, để
trở thành "cha già dân tộc", để trở thành Tổng bí thư và Uỷ viên Bộ
Chính trị Trung ương Đảng. Trong Ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh không ngần
ngại tự khai:
Ở đời trăm sự đều cay đắng
Cay đắng đâu bằng mất tự do
Mỗi lời mỗi việc không tự chủ
Để chúng dắt đi tựa trâu bò.
“Cha già dân tộc”, chủ tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại sống mãi” đã mất thế tự chủ, đã
biến thành trâu bò cho cai ngục dắt dẫn, sai bảo. Thế giới đã quên cái hèn của
Hồ Chí Minh, chỉ còn nhớ cái vĩ đại của một người đọc Tuyên Ngôn độc lập,
khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Chúng ta đã không khai thác cái khía cạnh ở tù hèn hạ của lãnh tụ cộng sản.
Chúng ta chỉ khai thác cái khía cạnh ở tù hèn hạ của chúng ta. Không hiểu nổi
tâm sự và chí lớn của đại bàng, bằng thù vặc cá nhân, bằng đố kỵ hẹp hòi, bằng
kết tội và phán xét thiếu suy diễn và a dua, những con chim sẽ mãi mê lép nhép.
Rốt cuộc, cái tư tưởng anh hùng tù ngục nằm gọn trong tiếng ăn: “Ăn vụng,
ăn cắp, ăn tranh”. Và nó chỉ có thế. Nó không thoát nổi thứ địa ngục tồi tệ với
mấy trăm trang sách vô tích sự, viết lấy được, mà kiên nhẫn doc, người ta dễ
dãi cách mấy cũng khó tìm nỗi hạt bụi thông minh, vết chấm tài hoa.
- Nhưng mà hên. Chóe nói.
- Hên sao? Tôi hỏi.
- Vừa sang tới đây, nó lùa chúng tao vào hội trường. Anh em đủ mặt. Thiếu anh Tế
và bọn mày. Đang đêm, Mai Chí Thọ đến.
- Nó thăm hỏi chúng tao. Tình cảm ra phết. Bố Côn đứng phắt dậy, đại diện anh
em xin xỏ. Anh em buồn quá. Bố ấy đói thuốc đâm ra ngớ ngẩn. Thằng Trịnh Viết
Thành nổi đóa. Tao phải nói bố Côn không đại diện ai cả, bố ấy đại diện cho
riêng bố ấy thôi.
- Rồi sao?
- Mai Chí Thọ cười.
- Rồi sao?
- Chúng tao yêu cầu gặp vợ con. Mai Chí Thọ ô-kê. Thằng nầy thủ đoạn vô song.
Nó bảo anh em ghi địa chỉ để nó sai người đi báo gấp. Và sáng hôm sau, chúng
tao gặp vợ con, tiếp tế ê hề … Chúng mày sẽ được gặp vợ con.
- Sang đây làm việc gì chưa?
- Chưa. Nó quên rồi.
Anh em đủ mặt. Thế là, ngoài nhà văn, nhà báo quân đội đi trình diện học tập
theo diện sĩ quan, đám văn nghệ sĩ và ký giả bị bắt trong chiến dịch 2-4-76 đã
bị lùa hết về đề lao Gia Định, trừ Nguyễn Sĩ Tế vẫn cô đơn ở cachot Sở Công An.
- Phòng 5C-1 có Doãn Quốc Sĩ, Sao Biển, Hoàng Vĩnh Lộc, Vương Hữu Đức, Minh
Đăng Khánh. Anh em khác trụ trì khu A, khu B, Chiểu nói. Được gần gũi nhau cũng
đỡ buồn.
Khi kẻng tù báo ngủ Chiểu nói riêng với tôi:
- Ngày về xa lắm đấy, Duyên Anh ạ! Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên.
Tôi về chỗ của tôi. Không ai được phép giăng mùng. Dzũng quan tài muốn chia máu
đồng đều cho muỗi. Vì 52 tù nhân nhồi nhét vào diện tích 32 thước vuông nên Trật
tự viên Dzũng quan tài đặt lệ:
- Cấm nằm co kiểu xếp thìa.
- Cấm nắm kiểu chân nầy gác lên đầu gối chân kia.
- Sắp lớp kiểu cá mòi hộp, đầu anh này là chân anh kia nằm cạnh.
- Cấm tiểu tiện ban đêm.
Chúng tôi tuân lệnh. Anh mập nằm nghiêng, anh gầy nằm ngửa. Tất cả nằm thẳng
không nhúc nhích. Tôi nằm cạnh Nguyễn Tấn Lợi và Chóe, hai tên cùng to xác. Tuy
kẻng tù đã điểm nhưng ngọn đèn nê-ông không tắt. Nó sẽ sáng đến lúc điểm danh sớm
hôm sau. Đêm đầu, lạ nhà tù, tôi khó nhắm mắt. Nhớ câu thơ của Sông Hồ “Chuyện
buồn nhỏ nhặt liệu mà quên” mà Thanh Thương Hoàng vừa khuyên vừa khuyến cáo,
tôi suy nghĩ mãi. Có lẽ, mọi chuyện buồn nhỏ nhặt hết, kể cả chuyện buồn ở tù.
Những ngày còn nằm bên Sở Công An, tôi đã ao ước chuyển trại. Tôi muốn biết khoảng
20 nhà tù trong thời gian ba năm. Tôi thiếu cái thung dung của Dương Nghiễm Mậu.
Mậu tính mười hai năm. Tôi chỉ dám tính một cái mốc. Cộng sản đặt mỗi mốc tù ba
năm. Nếu tôi độc thân như Mai Thảo, Như Phong, mọi việc quá dễ dàng. Tôi có người
vợ yếu đuối, đau ốm quanh năm và ba đứa con còn nhỏ dại. Nằm tù, mà cứ lo chuyện
xảy ra ngoài đời thì mau héo hắt lắm. Tôi vào tù, chắc chắn, bằng hữu đã sợ vạ
lây mà xa tránh. Nghĩ ngợi lung tung, rồi ý nghĩ lại trở về nồi cháo thịt chiều
8-4-76. Tôi thèm gặp vợ con tôi để hỏi nồi cháo thịt có bị cháy đen. Nồi cháo
hay thân phận tôi? Chóe đang ngáy pho pho. Lợi đã co một chân và gác chân kia
lên đầu gối chân co. Mồ hôi của hai tên phì lũ chảy sang chỗ tôi khiến lưng tôi
nhơm nhớp. Tôi nhổm dậy, dựa lưng vào tường, kiếm thuốc lá hút và quan sát năm
mươi mốt ổ bánh mì trong lò. Có mỗi ô cửa gió, dưỡng khí ít, thán khí nhiều, mà
con người vẫn sống, vẫn ăn, vẫn ngủ. Tiếng ngáy, tiếng gải ghẻ soàn soạt, tiếng
mớ tạo thành một hợp âm. Thỉnh thoảng, cái chân gác lên đầu gối của anh này rơi
bịch xuống ngực anh kia, hay chân anh kia đạp trúng đầu anh nọ, thì những tràng
chửi thề văng ra. Nhưng tù nhân cứ ngủ. Mùi vị đề lao mới ghê. Mồ hôi chua, hôi
nách, mũ ghẻ và mùi cầu tiêu, quyện lấy mùi thuốc lá, thuốc lào, nước mắm, mắm
ruốc … Cơ hồ, tôi thoáng thấy mùi đau khổ.
Thả hồn theo khói thuốc, tôi về gõ cổng nhà tôi. Im lặng. Bên ngoài cũng đã là
một ngục tù. Và vợ con tôi đang thoi thóp trong ngục tù bao la đó…
--------------------------------
Đọc Sỏi
Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả. Nam Á Paris xuất bản 1985.
|
|
ên
thật của Thanh Thương Hoàng là Nguyễn Thanh Chiểu.
|
CHƯƠNG 11
Quá khuya, sương trải thật nhiều. Những giọt sương, đọng trên lá
cây bên sân Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định, rơi xuống mái tôn nhà tù như những giọt
buồn ray rứt. Khu C-1 xây dài theo bức tường biên giới đề lao và tòa tỉnh – đã
trở thành Trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh. Nếu tính phòng 7 C-1 là đầu,
thì đầu khu C-1 sát khít vỉa hè đường Phan Đăng Lưu. Tôi nhớ thuở Bùi Thế Cầu
làm Tỉnh trưởng Gia Định, hay ghé đây thăm bạn … tổng đốc Gia Định Thành. Và
tôi không quên những cây vú sữa chung quanh sân. Bây giờ, những giọt sương, đọng
trên lá vú sữa, não nề rơi xuống mái tôn nhà tù. Và tôi ngồi giữa cái hoang vu
của kiếp người, nghe điệu sáo thấm vào hồn mình. Nguyễn Vĩ đã diễn tả.
Sương rơi
… Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang …
… Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang …
Những giọt sương của Nguyễn Vĩ đã rơi vào năm 1935, năm tôi “mang tiếng khóc
ban đầu mà ra” đời. Vẫn là hạt sương của 40 năm trước, 40 năm sau nó tuyệt tích
âm điệu thánh thót. Nó không còn là vết thương của một người nữa. Nó đã ngậm
oan khiên của lịch sử giống nòi. Nó đã rơi xuống xác hai triệu người Việt Nam
chết đói, một triệu rưỡi người Việt Nam chết Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu triệu
người Việt Nam chết thủ tiêu – bom đạn chiến tranh. Hôm nay, nó rơi xuống roi gạo
mác xít, rơi xuống thuyền gỗ lênh đênh vượt biển, rơi xuống các trại tị nạn ô
nhục, rơi xuống nhà tù, trại tập trung. Giọt sương theo nỗi đổi đời, đã thành
giọt nước mắt. “Nếu cột đèn biết đi, nó sẽ đi tìm tự do”. Thuyền nhân nào đó đã
trả lời phóng viên một đài phát thanh ngoại quốc thế. Sự ví von thật hay. Cột
đèn không biết đi. Con người biết đi. Nhưng con người đã dừng lại sau chuyến đi
dài. Người Việt Nam không thích nhớ những gì đáng nhớ, phải nhớ; không thích
quên những gì cần quên, nên quên. Cái truyền thống hẩm hiu nhất của dân tộc ta
là nhớ thù vặt và ham trả thù vặt. Triều đại này lật đổ triều đại kia, tiêu hủy
mọi công trình xây dựng tốt đẹp, kể luôn công trình kiến trúc. Cao Miên còn
hãnh diện có Đế Thiện Đế Thích, chúng ta còn gì? Phải cám ơn ông thực dân Pháp
một tí. Nhờ ông chiếm đất nước tôi nên chúng tôi còn chút xíu lăng tẩm, thành
quách triều đại Nguyễn Phúc Ánh. Ông sang muộn, những kẻ phục Lê lật đổ Nguyễn
sẽ san bằng những lăng tẩm, bia mộ, đền đài ở Huế! Nhưng mà những kẻ nhớ thù vặt,
trả thù vặt tận tình nhất vẫn là cộng sản Việt Nam. Mắt mờ thù hận, óc ủng thù
hận, cộng sản Việt Nam đã dẫm nát báu vật và giam nhốt tài năng của dân tộc.
Còn chúng ta, chúng ta bảo vệ báu vật và tài năng ra sao? Chúng ta hất hủi, hờ
hững, kèn cựa. Và với triết lýthoát là tới, chúng ta đã quên những oan
khiên mà giọt sương vẫn ngậm, vẫn rơi đều đặn xuống thân phận Việt Nam. Dân tộc
đang kiên nhẫn bước trên sầu đạo để chiến đấu, để tìm ý nghĩa rạng ngời cho lịch
sử. Quê hương đang cựa quậy. Chúng ta dừng lại, dầu chúng ta khác hẳn cột đèn.
À, chúng ta cũng đi chứ! Chúng ta đi giật lùi. Đã nhiều dâu biển trong kẻ thù của
chúng ta. Chưa có dấu hiệu sắp dâu biển trong cung cách chiến đấu để chiến thắng
kẻ thù của chúng ta. Mọi lãnh vực, chúng ta đứng. Rồi nằm. Và nhai lại. Khi đó,
những giọt sương đã “đổi đời” và không ngừng rơi xuống những xót xa, nghẹn ngào
bắt thức tỉnh, suy tư.
Sự suy tư của tôi gần gũi nhất. Là cái “nội các” của ông Đinh Xuân Cầu. Trực
giác của tôi cho tôi biết mục sư Trương Phiên đã bịp chúng tôi. Tôi chợt nẩy sự
ngờ vực từ hôm Trương Phiên dọa tôi rằng công an mật đã bao vây nhà tôi. Hắn muốn
cắt đứt đường về của tôi. Rồi hắn bảo tôi cho tổ chức mượn mấy lạng vàng. Tôi
viết thư về nhà. Con gái tôi trả lời thay vợ tôi. Tôi đọc thư, lòng dạ tan nát.
Con tôi viết: “Mẹ bị mù rồi hay sao ấy, bố ạ! Mẹ chẳng còn nhìn rõ cái gì”. Có
lần, vợ tôi đã không đọc rõ chữ và tôi phải cầu cứu Bùi Duy Tâm. Tôi tin ngay.
“Nhà cạn tiền rồi, bố về lo cho các con”. Tôi chưa về, vì nghĩ vợ con tôi chưa
biết công an mật lởn vởn trước nhà tôi. Trương Phiên chở em vợ hắn đến An Đông
lấy vàng. Hắn đã thất vọng. Hắn vẫn quả quyết ông tướng Ngô Quang Trưởng còn ở
trong “bưng”. Đặng Xuân Côn đề nghị: “Chỉ cần đưa ông Trưởng về Sàigòn, dẫn ông
tướng này gặp vài người là thừa vàng chiến đấu”. Trương Phiên nồng nhiệt hứa hẹn
thực hiện kế hoạch Đặng Xuân Côn. Những chuyến “ra đi” của “nội các” cứ bị hoãn
lại. Lần thì Nguyễn Cao Kỳ bay về bưng bắt Bùi Thế Lân, gây áp lực với Hội Đồng
Bảo Quốc. Lần thì địch “báo động đỏ”, giăng lưới các cửa biển. Vân vân . Trương
Phiên có tài nói và diễn xuất. Mục sư mà. Hắn phô bày chí lớn của hắn bằng bí
danh Trương Mộng Hoàng. Họ Trương ôm giấc mộng trở thành hoàng đế! Hắn nói,
ngay cả tôi nghe, cứ tưởng hắn dốc tâm can vì nước. Có nhiều lúc, kẻ khôn ngoan
bỗng ngu xuẩn một cách tội nghiệp. May cho tôi, khi qua nhà số chẵn đường Tăng
Bạt Hổ, nhân xem ti vi, tôi đã ngỡ ngàng. Báo chí Mỹ thân Cộng đã chụp đầy mặt
tướng lãnh lưu vong tặng Việt cộng. Ông thì đang rót rượu, ông thì đang lau
bàn… Việt cộng thuyết minh thêm. Mỗi chân dung tướng lãnh hiện rõ trên màn ảnh
nhỏ. Có ông Kỳ, ông Trưởng … Tôi quyết định trở về sau vài tuần lưu lạc ở Hòa
Hưng, Bảy Hiền. Thoạt tiên, tôi đến nhà bà Nguyễn Đình Vượng, địa chỉ tạp chí Văn.
Tôi nhờ bà liên lạc với vợ tôi. Vợ tôi lên đón tôi chập tối. Sáng tỉnh mơ hôm
sau, tôi đến Phú Nhuận. Tôi lại về nhà. Rồi tôi ở nhà luôn. Rồi tôi đi về lung
tung. Chẳng thấy bóng dáng công an nào. Ông Đinh Xuân Cầu và Sao giò bị bắt
trong tháng 1-1976. Tôi bình yên. Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thiện Ngọ … bình yên.
Chúng tôi vẫn gặp nhau ở một tiệm thợ may trong chung cư Nguyễn Thiện Thuật.
Trương Phiên tuyệt tích.
Tôi không đánh giá Trương Phiên như một công an cộng sản lùa chúng tôi vào lưới.
Thấp hơn, tôi đánh giá hắn như một tên lợi dụng tinh thần chống cộng của mọi
người. Hắn khôn khéo đạo diễn, thảy cái bè chuối xuống nước đúng lúc. Sau
30-4-75, rất nhiều tên làm tiền và làm tình bằng những thủ thuật phục quốc và rất
nhiều người mất vàng, mất trinh, rồi vào tù. Hoàng hôn của miền Nam nó thảm thiết
vậy đó. Tôi sẽ viết ở những trang sắp tới. Ông Đinh Xuân Cầu nghĩ rằng Trương
Phiên là gián điệp Mỹ. Năm 19 tuổi, lòng chứa chan mộng ước, tôi theo Duy Dân
lên rừng Ban Mê Thuột làm cách mạng. Trở lại Sàigòn thất học, bơ vơ, tôi thù hận
chính trị, cách mạng. Và tôi đã diễn tả sự khinh miệt lãnh tụ trong tiểu thuyết Ảo
vọng tuổi trẻ. Năm 1975, lòng chứa chan uất ức, tôi đi chống cộng sản. Và tôi
cũng trở về, chán nản, bơ vơ. Rốt cuộc thì tôi vào tù, mất toi một lạng vàng
cho sự nghiệp chống cộng đến chiều. Ít ra, tôi đã trung thành với khẩu hiệuChống
cộng đến chiều đầy hệ lụy mà tôi đã viết từ thuở tôi cầm bút chống cộng.
Nhưng sự bẽ bàng chống cộng tàn mùa của tôi, một mình tôi chịu. Và tiếp tục nói
dối cả với vợ con tôi, với Đặng Xuân Côn: “Tôi đã vào chiến khu, đã gặp Ngô
Quang Trưởng, đã gặp Mỹ với khí giới tối tân!” Ở tù, tôi quen bao nhiêu con người
chống công tâm huyết, trẻ có, già có. Họ cũng bị bịp như tôi. Bạn đã hiểu tại
sao tôi khinh bỉ những tên lái buôn chống cộng, những công ty đấu thầu chống cộng.
Tôi chưa cháy niềm tin chống cộng. Tôi vẫn chống cộng. Vì dân tộc, chắc chắn,
là viễn vông. Vì những con người đã dấu diếm tôi, đã săn sóc tôi, đã kỳ vọng
nơi tôi, ở các căn nhà hẽm phố Trần Quý Cáp, phố An Đông, phố Tăng Bạt Hổ, phố
Tô Hiến Thành, Bảy Hiền, Xóm Mới. Chính xác, tôi chống cộng với tuổi trẻ, với
các bạn Pháp và Việt của tôi. Tôi không chống cộng với lãnh tụ ghẻ lở, với cây
mục vô tích sự, với lái buôn, cai thầu. Và tôi tin vào sự quật khởi của dân tộc
tôi, không tin vào các thế lực ngoại bang.
Kẻng tù báo thức làm sự suy tư của tôi ngừng lại. Tù nhân bắt đầu ồn ào. Hãy tưởng
tượng đống sơ mít, nhặng bu đầy, bị đụng khẽ. Tù nhân đã vo ve như thế từ lúc kẻng
báo thức đến lúc kẻng báo ngủ. Sự tranh chỗ tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa
mặt náo nhiệt vô cùng. Không có nhường nhịn ở nhà tù. Luật đời và luật tù giống
hệt nhau. Thằng nào manh, thằng ấy chủ động. Những thằng mạnh, cộng sản biết
dùng người lắm, là những thằng cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, du đãng được
sử dụng vào các chức Trưởng phòng và Trật tự viên. Những thằng này, bất cứ hoàn
cảnh nào, đều biết cách đàn áp anh em để thủ lợi. Dưới chế độ cộng sản, các vua
tù bị thoái vị. Trưởng phòng mất quyền bóc lột, hà hiếp tù nhân. Ở đề lao Gia Định,
cộng sản ban phát cho Trưởng phòng ân huệ ra ngoài khiêng đồ tiếp tế của thân
nhân tù nhân, mỗi tuần lễ. Ra khiêng đồ sẽ được gặp vợ con trong năm phút. Để bảo
vệ quyền lợi khốn kiếp này, Trưởng phòng đã ghi những câu nói mỉa mai của tù
nhân, báo cáo Trưởng khu hay Cán bộ giáo dục. Tùy theo mức “phản động” nặng hay
nhẹ, tù nhân sẽ bị viết tự kiểm, sẽ bị cấm viết thư, sẽ bị cấm nhận quà tiếp tế,
sẽ bị nằm cachot. Không phải Trưởng phòng nào cũng đê tiện. Cộng sản chọn người
xứng đáng cho công việc xứng đáng. Khi nó đã chọn, đừng hòng từ chối. Từ chối
là chồng đối chế độ. Chống đối chế đó ở nhà tù là mút chỉ ăn cơm hẩm. Đừng hòng
tình nguyện. Tình nguyện là có ý đồ. Có ý đồ là bị điều tra. Ở bất cứ nhà tù
nào, dưới bất cứ một chế độ nào, trên bất cứ một quốc gia nào, bạn đừng đòi hỏi
tự do. Bạn chỉ được đòi ân huệ và chớ dại dột yêu sách. Yêu sách, bạn sẽ được
nâng quan điểm lên bất mãn. Mỗi nhà tù một quy chế. Cái hợp lý ở đề lao Gia Định
sẽ là cái vô lý ở khám Chí Hòa. Chính sách nhà tù cộng sản thả nổi. Ở đề lao
Gia Định, bạn có quyền tuyệt thực. Sang khám Chí Hòa, bạn tuyệt thực thì bụng bạn
đói mà thân bạn no đòn. Những kẻ chỉ loanh quanh các trại cải tạo không nên lạm
bàn về nhà tù. Trại cải tạo là động. Nhà tù là tỉnh. Trại cải tạo là ánh sáng.
Nhà tù là bóng tối. Ở trại cải tạo, cộng sản gọi bạn là trại viên. Nhà tù, cộng
sản gọi bạn là can phạm. Ở trại cải tạo, bạn sống chung với các chiến hữu. Ở
nhà tù, bán sống chung ô hợp với đủ mọi thành phần xã hội. Ân huệ của Trưởng
phòng là ra ngoài khiêng đồ, gặp vợ con, hít no dưỡng khí, tắm nắng thỏa thuê,
tuy còng lưng, mỏi tay. Ân huệ của Trật tự viện là đi đổ rác, phơi quần áo, tha
hồ liếc nhìn các phòng, các cachots và gặp gỡ "anh em” ở đống rác, ở chỗ
phơi quần áo. Ấy, ân huệ nhỏ mọn thế thôi, mà cộng sản dư khả năng tạo ra mọi
ngờ vực, mọi phôi pha tình người. Trưởng phòng Lâm Văn Thế không thuộc loại đê
tiện. Ít nhất, ông ta cũng là sĩ quan. Dzũng quan tài không tệ, nhưng đám mafia
6 C-1 cậy thế nó để tác yêu, tác quái ở hồ nước.
Không một tù nhân nào được tắm bằng nước chứa trong hồ. Nước này chỉ dùng xối cầu
tiêu, rửa chén, rửa mặt, đánh răng và rửa … đít. Tù nhân bị cấm sử dụng giấy vệ
sinh. Mafia 6C-1 bất chấp luật lệ. Nửa đêm, chúng thay phiên nhau tắm để ngủ
ngon. Mỗi ngày, vòi nước lùa qua ô cửa gió 2 lần. Nước đầy hồ, tù nhân mới được
tắm. Tù nhân trần truồng đứng xếp hàng. Mafia cầm vòi nước. Tôi đếm thử những cái
tích tắc, tính ra mỗi tù nhân hưởng 10 giây đồng hồ tắm gội. Bị mafia ăn cắp một
giây. 520 giây tắm cho 52 tù nhân đa số bị ghẻ lở! Không thể sát xà phòng. Ngôn
ngữ tục tĩu nhất đã phóng ra ở sân tắm vào giờ nước vào. Những ngày Sáu Cầu làm
Trưởng khu, không có điểm danh. Trưởng phòng đếm tù, rồi báo cáo cán bộ là
xong. Những ngày này, tù nhận được nhận cà phê và trà. Mỗi ông tù có một cái vợt
vải nhỏ. Màn tắm táp sáng nay đã xong. Tù nhân ngồi chờ nước sôi và nghe nhạc
cách mạng oang oang từ cái ô-pạc-lơ gắn trên nóc phòng 7C-1. Tôi thích nhất bài Tình
em biển nhớ của Nguyễn Đức Toàn. Có lẽ, tôi thích nhất hai câu đầu. Ở cái
lúc chui rúc trong chuồng gà kỹ nghệ, sự nghiệp tiêu tan, thân thể lênh đênh, vợ
đau con dại mà thưởng thức giọng hát Đỗ Dậu nỉ non: Chưa có hôm nào đẹp
như hôm nay, đất nước thanh bình, lòng ta mê say… thì dẫu là Khổng Tử, vẫn
cần thiết chửi thầm. Thân phận tù cộng sản nó cay đắng khôn cùng. Nó không bị
xét xử. Nó không có án. Nó không biết ngày về. Ba cái không chưa đủ làm điên,
còn sáng, trưa, tôi nghe hát chưa có hôm nào đẹp như hôm nay!
Nhưng mà nước sôi đã tới. Cai ngục mở cửa. Trật tự viên xách xô nhựa ra. Tù
nhân tín cẩn gánh nước từ bếp khu A sang, múc đầy xô. Trật tự viên xách vào. Chỗ
chia cơm nước lại sinh động. 52 cái ca nhựa bầy sẵn. Tù nhân đứng hết dậy. 104
con mắt nhìn Trật tự viên chia nước sôi. Ăn thua từng giọt. Cãi nhau vì mì đã bỏ
sẵn vô ca mà không ưu tiên chia nước trước. Phân bì ca nhỏ sao nước bằng mức ca
lớn. Vân vân … Nước chia xong, tù nhân đem về chỗ của mình. Anh không có cà phê
thì đổi nửa phần nước cho anh có cà phê lấy chút đường và... cái bã. Những anh
ăn chung thì vừa ngâm mì vụn vừa pha cà phê. Mì ăn dứt, ta nhâm nhi cà phê, hút
thuốc rê, thuốc lá, thuốc lào. Các anh máu mì, máu cà phê, thì pha bột Bích
Chi, bột đậu xanh… Cách mạng kể ra tốt chán. Tù nhân điểm tâm bằng sự… nhịn ăn
uống của vợ con mình! Chấm dứt điểm tâm là màn rửa ca, rửa muỗng. Bụng đã có tí
sinh tố, tù nhân thay phiên nhau đi cầu. Và đây mới là hoạt cảnh. Anh tù lên
giàn bắn. Anh ta chơi ra-phan. Những anh tù khác vừa nghe đạn nổ, vừa ngửi thuốc
súng. Hàng tràng chửi thề tới tấp. “Xối nước đi”! Ngôn ngữ cách mạng phong phú.
“Xối khẩn trương. Xối tối đa. Xối thoải mái. Xối nhanh. Xối mạnh. Xối vững chắc”!
Anh tù cứ thản nhiên … rặn. Hòa bình rồi. Thống nhất tổ quốc rồi. Đi đâu mà vội.
“Khẩn trương cho người khác tiếp quản cầu tiêu chứ”? 52 tù nhân xếp hàng đi cầu.
Thì đâu vào đó cả. Cách mạng không sai lầm. Đảng ta luôn luôn sáng suốt. “Khắc
phục ỉa đi!” “Khắc phục cái củ cà-rốt, đi cầu chứ đi sang Liên Xô sao?” “Mẹ
anh, nhân dân làm chủ cái cầu hay anh làm chủ? Đầu óc tư hữu lạc hậu!”
Cuối cùng, mọi việc đều tốt. Tù nhân chơi cờ tướng, chơi đô-mi-nô. Khích bác
nhau một chặp, chơi văng bậy và suýt chơi chân tay. Ông Thế say sưa học chữ
Tàu. Ông hiểu trưởng Tàu say sưa học tiếng Việt. Các ông Tàu Chợ Lớn bị xử ức.
Cộng sản nó bảo: “Anh ở nước tôi mấy đời rồi, anh không hoc nổi tiếng nước tôi,
học viết chữ nước tôi, chúng tôi khônglàm việc với anh qua thông ngôn. Học
đi, chừng biết viết Tự khai hãy nghĩ chuyện về sum họp gia đình.” Các
ông Tàu thộn mặt. Và tự giác mình đã láo lếu mấy đời. Tù nhân chia từng nhóm.
Nhóm ngồi hút thuốc tâm sự. Nhóm ngồi gãi ghẻ. Nhóm ngồi nặn trứng cá, nhổ tóc
sâu. Chuyện tù sao mà nhiều thế! Nói hoài nói hủy. Thuốc rê đốt um khói. Thuốc
lào rít liên hồi. Ở 6C-1, tôi yêu nhất hai chú bé phản động mà tôi quên tên.
Hai chú bé dưới 18 tuổi, không tranh giành cơm nước, không chửi thề nói bậy.
Hai chú bé nằm dưới sàn chia cơm và bắt được hai con dế chui vô phòng. Thế là
hai chú bé đá dế, cười nói hồn nhiên. Tôi biết chắc hai chú bé không hề nuôi một
tham vọng nào khi đi làm phản động. Không thích cộng sản, các chủ bé chống cộng
sản. Đi chiến đấu hồn nhiên, vào tù hồn nhiên, đau khổ hồn nhiên và chiến thắng
vẫn hồn nhiên. Đất nước cần những tâm hồn chiến đấu không thèm toan tính ấy.
Hai chú bé con nhà nghèo, không một ai tiếp tế. Chỉ sống bằng cơm tù, ai cho gì
cũng từ chối. Cuộc chiến đấu của tôi còn vì những chú bé như hai chú bé này.
Tôi bị lừa gạt niềm tin hai lần. Lần thứ nhất, tôi 20 tuổi. Lần thứ hai, tôi 40
tuổi. Tôi không muốn những chú bé Việt Nam bị lừa gạt niềm tin chiến đấu. 20 tuổi,
tôi viết:
Tổ quốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em
Từ niềm tin đầu đời bị lừa gạt, tôi chở sự phẫn nộ vào cuộc sống. Và rồi tôi bơ
vơ, lạc lõng. Tôi trở thành kẻ quá khích của điều thiện, một thứ cuồng sỉ khó
ai dung dưỡng nối. Kẻ quá khích của điều thiện chỉ đem về cho nó những thù ghét
cay đắng, những ngộ nhận nghiệt ngã, những săn đuổi không thương xót. Không phải
bất cứ ai cũng có thể giải tỏa nỗi ẩn ức của mình bằng chữ nghĩa. Tôi nghĩ tới
những tác động phá phách của tuổi trẻ mất niềm tin và cả những bất động nữa. Cả
hai điều thiệt thòi cho quê hương. Bọn buôn bán tuổi trẻ đã không hề nghĩ đến sự
thiệt thòi ấy. Chúng nó chỉ biết làm lợi cho chúng nó. Và tôi lên tiếng. Tiếng
nói của tôi chìm vào hư vô bởi những khỏa lấp của quyền lực và tài lực. Thêm nữa
là sự rút đầu xuống cát của đà điểu văn nghệ. Chẳng ai ngu si đi tìm những oan
khiên cho mình. Ai cũng biết khôn ngoan sống chiều lòng người, vừa lòng người,
đẹp lòng người, khen luôn những cái không đáng khen của người, suốt đời ngậm miệng
không chê người… Cái triết lý sống bần tiện này không nên có ở những người cầm
bút trong thời đại hôm nay. Anh đừng nói anh chuyên viết và bình luận văn học,
không dính dáng chính trị. Chúng ta đang sống ở kỷ nguyên mà con người khó
thoát khỏi quỹ đạo chính trị. Anh không làm chính trị, anh cũng không có thái độ
chính trị nữa sao? Vậy sự từ bỏ Việt Nam sang Mỹ của anh là thái độ gì? Kỷ
nguyên nghệ thuật vị nghệ thuật đã chấm dứt và nó rất lạc hậu đối với hiện cảnh
và thảm cảnh Việt Nam. Người cộng sản chỉ mong anh không có thái độ chính trị,
chỉ mong anh bàn về ăn mặc, uống trà, để khen anh. Họ đã khen anh. Và rồi họ sẽ
nuốt anh. Như họ đã nuốt anh em của anh, dẫu có người chưa hề có thái độ chính
trị. Thế Viên chẳng hạn. Vũ Hoàng Chương chẳng hạn. Anh khôn lõi. Tôi dại dột.
Nếu các hào kiệt Nhân văn giai phẩm đã khôn lõi, chắc chắn, đã không
có dấy động tuyệt vời của chữ nghĩa. Anh khôn lõi, anh được tôn sùng. Tôi dại dột,
tôi bị ghét bỏ. Nhưng tôi hãnh diện về sự dại dột của tôi. Và tôi ngạo nghễ
khinh thường thơ văn không chính kiến của anh hôm nay là:
Thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
Thơ văn cột rỗng
Lớp son mầu mè tỉa tót công phu
Thứ thơ văn tửu hậu trà dư
Thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống
Thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
Thơ văn nằm khi bạo lực diễn hành
Thơ văn tô móng tay khi dân tộc đói nhăn răng
Thơ văn nhẫy nhụa môi son vênh vang trưng diện
Tôi viết văn, làm thơ chẳng hề đeo tham vọng đi vào văn học sử hay bất tử. Với
tôi, đó là chuyện hề kệch cỡm. Trước năm 1975, rất nhiều lần, tôi thành thật
nói tôi viết văn để mưu sinh. Không biết làm nghề gì cả, tôi làm nghề viết văn.
Và tôi đã sống bằng nghề viết văn, hoàn toàn sống bằng nghề viết văn. Không có
thiên chức hay sứ mạng gì trong văn chương của tôi cả. Chưa từng ngửa tay nhận
tiền của cơ quan ngoại quốc nào để vừa viết văn vừa ăn vừa lo nộp sách. Cũng
chưa từng ngửa tay nhận tiền của Mạnh Thường Quân nào. Tôi bán chữ nghĩa của
tôi thẳng cho nhà xuất bản. Tôi là công nhân chữ nghĩa, nếu anh muốn gọi thế.
Tôi bắt đầu có tham vọng văn chương từ hôm Huỳnh Bá Thành, bí danh Ba Trung, tác
giả Vụ án hồ con rùa, đại diện đảng Cộng sản Việt Nam, nói với tôi một câu
đầy miệt thị: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh.” Rồi trải qua ba nhà tù,
hai trại tập trung ròng rã 6 năm. Rồi nhìn lại một Sàigòn bán máu đỏ mua gạo
đen, nhìn lại một sản phụ không sữa nuôi con bị vắt vú ba lần mới được mua sữa
bò giá chính thức, nhìn lại cảnh chó và người mưu sinh chung ở đống rác, nhìn lại
vô số … Rồi tôi vượt biển và nhìn đồng bào tôi bị ngược đãi tại quán trọ trước
cổng thiên đường. Tôi càng thấy tôi nên có tham vọng văn chương. Tham vọng văn
chương của tôi sẽ không bao giờ đi vào văn học sử. Tôi nghĩ chúng ta cần có tổ
quốc đã. Thiếu tổ quốc, hình như, không có lịch sử và mọi chuyện đều vá víu tạm
bợ. Vậy thì tham vọng văn chương của tôi, bây giờ, là ngày mai của tổ quốc tôi.
Muốn có ngày mai của tổ quốc, tôi phải chiến đấu. Văn chương của tôi là văn
chương chiến đấu, là tư tưởng dấy động, là chữ nghĩa lên đường; không thể là
văn chương chết, là tư tưởng ngồi, là chữ nghĩa nằm. Văn chương ấy phải làm thế
giới xúc động mà cảm thông nỗi khổ của dân tộc tôi. Tôi đã sung sướng thực hiện
được một bước trong ngàn bước tham vọng văn chương của tôi, dẫu tôi cô đơn, âm
thầm làm một mình, dẫu tôi bị móng vuốt của đố kỵ hèn mọn cào cấu chảy máu, dẫu
tôi bị bạo lực cộng sản bức tử. Nói tóm lại, tôi thích được gọi là người viết
văn có chính kiến và chấp nhận mọi thiệt thòi, vật chất và tinh thần, cho kẻ
ham bày tỏ chính kiến rõ rệt, dứt khoát. Tôi đọc ở Remarque câu này: “Khi thế
giới còn những bọn hung tàn vô nhận đạo mà mình biết mình đủ khả năng chống đối,
lại không dám chống đối, là mang tội ác.” Tội ác trên cả tội lỗi, ghê gớm lắm.
Tôi sợ mang tội ác nên tôi tiếp tục chống đối, sau thêm một phen bị lừa gạt niềm
tin ở tuổi 40. Tôi đã chiến đấu ngoài đời và trong văn chương. Ở hoàn cảnh tôi
năm 1975, anh không dám phản động đâu. Chưa ai lãng mạn hơn tôi. Với tôi, tất cả
đều trực diện chiến đấu, không phục kích, chiến đấu công khai. Cuộc chiến đấu của
tôi rất trẻ nên tôi cần dẹp bỏ bọn lái buôn lý tưởng của tuổi trẻ.
Tôi ngồi suy nghĩ vẩn vơ một chặp thì đến giờ phát thuốc. Mọi sinh hoạt ngừng hẳn.
Tù nhân chen nhau ở chỗ chia cơm nước. Vì cửa phòng mở rộng, ai cũng thèm đứng
gần cửa để hít dưỡng khí. Y tá tù bê một khay thuốc.
- Ai bệnh cảm cúm?
Tù nhân bị cảm cúm dơ tay. Mỗi người cầm sẵn một ca nước. Y tá múc thuốc bột bằng
muỗng cà phê từ cái hủ thủy tinh. Thuốc cảm giống màu xi măng nên tù nhân đặt
tên nó là thuốc xi măng. Tù nhân uống thuốc trước mặt y tá.
- Ai cảm sốt?
Tù nhân cảm sốt dơ tay. Thuốc cảm sốt y hệt thuốc cảm cúm. Nghĩa là thuốc xi
măng ở cùng cái hủ.
- Ai đau bao tử?
Đau bao tử được uống xi rô màu hồng.
- Ai đau tim?
Bệnh tim tương tự bệnh bao tử, nên trị bằng … xi-rô màu hồng luôn.
- Ai tiêu chảy? Ai ghẻ mủ? Ai kiết lỵ?
Ba bệnh nầy chung một triệu chứng. Và bệnh nhân uống Xuyên Tâm Liên, món
thuốc trị bá bệnh, trị cả ung thư nữa. Tù nhân đau bao tử và đau tim… giả vờ
đông hơn cả tù nhân đau thật sự. Vì xi-rô có đường. Tù nhân cần chất đường,
thêm chất đường cho đỡ hại cơ thể! Cách mạng nắm vững vấn đề. Do đó, đau tim và
đau bao tử chỉ được phát một muỗng cà phê xi-rô hồng. Các thứ bệnh “điều trị”
xong, y tá phát thuốc tư. Thuốc tư là thuốc của thân nhân gởi vào nhà tù cho tù
nhân. Thuốc phải đăng ký ở Phòng Y Tế của đề lao. Muốn xử dụng hôm nay, tù nhân
phải thông báo y tá từ hôm qua. Y tá ghi vào sổ. Tù nhân đăng ký thuốc tư có số
riêng. Trừ thuốc bổ, các thứ thuốc bệnh phải uống trước mặt y tá. Khi tù nhân bị
bệnh đột xuất, thí dụ trúng gió, ngộp thở, bất kể ngày đêm, trưởng phòng ghé miệng
sát cửa gió, nói lớn: “Báo cáo cán bộ, phòng … có người bệnh nặng.” Bác sĩ nhà
tù sẽ đến cấp cứu. Bệnh nguy kịch, tù nhận được chở qua bệnh viện Nguyễn Văn Học.
Màn phát thuốc chấm dứt. Cửa phòng khép lại, khóa kỹ. Y tá sang 7C-1. Thời khoá
biểu đề lao được áp dụng trúng phóc. Đến giờ cơm trưa. Cơm trưa đề lao ăn lúc
mười giờ. Cửa phòng mở. Trật tự viên và hai “trực sinh” ra khiêng cơm và thức
ăn vào. Tù nhân thay phiên nhau, hàng ngày, hai người chịu trách nhiệm quét
phòng, lau sàn phòng, bục ngủ, chà rửa sàn nước, cầu tiêu, khiêng cơm. Cơm nước
chia xong, phải lau sàn và rửa thùng đựng cơm, thùng đựng thức ăn sạch sẽ. Một
ngày làm công việc này gọi là trực nhật, và người làm gọi là trực sinh! Theo luật
nhà tù xã hội chủ nghĩa, phòng giam tập thể chia thành nhiều tổ, mỗi tổ 10 tù
nhân lãnh đạo bởi Tổ trưởng và Tổ phó. Vậy một phòng giam có Trưởng phòng (chủ
tịch nhà nước), Phó phòng (phó chủ tịch nhà nước), Trật tự viên (Tổng Bí thư),
Thư ký (ban bí thư trung ương đảng), các Tổ trưởng, Tổ phó (uỷ viên trung ương
đảng). Mỗi tối thứ sáu họp phòng, kiểm điểm … thành tích tù. Biên bản ghi một
câu đúng chỉ tiêu đặt ra: “Các can phạm triệt để tin tưởng vào sự khoan hồng
nhân đạo của Đảng và Nhà Nước, quyết tâm học tập cải tạo tốt để sớm được về sum
họp gia đình. Trước khi bế mạc, các can phẩm hồ hởi, phấn khởi liên hoan văn
nghệ bằng hợp ca bản Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Biên bản này
được đọc lớn cho cả phòng nghe. Mọi người nhất trí.” Trực sinh do Tổ trưởng chỉ
định từng cấp thuộc tổ mình. Trưởng phòng, trật tự viên, thư ký được miễn trực
nhật.
104 cái ca nhựa được bày thứ tự thẳng hàng. Trật tự viên phân phối cơm và thức
ăn. Cơm gạo hẩm, đầy cả cỏ ngọn. Thức ăn bữa thì hai miếng đậu kho, bữa thì su
su kho, bữa thì cá ngừ hay cá đuối kho, bữa thì canh rau muống già, canh bí rợ.
Kho và nấu canh bằng muối. Đậu kho tuyệt tích từ tháng 8-1976. Muốn ăn miếng thịt
cà ri hay thịt khô, phải đợi mấy ngày lễ lớn. Thường xuyên là cá biển ươn kho.
Ươn phát thối thì cà-ri cá. Cá biển lừng danh đến nỗi tù nhân đặt cho những tên
mỹ miều như: Trần Thị Lệ Đuối, Lệ Ngừ… Cuối cùng, các loại cá biển nhà tù mang
chung tên của một ca khúc cách mạng: Đàn Ta-Lư. Bởi vì, tù nhân bị ghẻ mà
ăn cá ngừ, cá đuối thì gãi bằng thích. Khi gãi ghẻ, tù nhân bảo gẩy đàn Ta-Lư! Tính
tính tính tính tang tính tình … Đàn em reo vang, đàn Ta-Lư. Vừa gãi ghẻ, vừa
nghe danh ca hạng nhất Hà Nội là em Tường vi hát Đàn Ta-Lư, sẽ giật giật
tuyệt cú mèo. Chia cơm ồn ào gấp bội chia nước sôi. Đôi khi, đấm đá xảy ra giữa
các ông tù trộm cướp với các ông tù mafia. Trưởng phòng giả vờ đui điếc. Báo
cáo cán bộ, đêm nó nấu bao ni-lông, nó đổ vào mắt là mù.
Bữa cơm trưa vừa dứt là kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi
im lặng. Bây giờ, phòng giam mới là cái lò nướng bánh mì đúng nghĩa. Nắng hừng
hực trên mái tôn. Sức nóng hầm da thịt. Tù nhân mình trần, quần xà lỏn nằm
nghiêng, nằm ngửa trên bục xi-măng. Mồ hôi tuôn xối xả. Nguyễn Hải Chí thấm ướt
cái khăn tắm đặt lên ngực cho mát mà ngủ. Chừng thức giấc, cái khăn khô rom. Mồ
hôi không ra ở ngực, nó ra ở lưng. Vài tù nhân quên Nội qui, cởi truồng nằm
ngửa tênh hênh, ngáy pho pho. Thân phận con người như những con heo cạo lông
phơi bày trên sạp bán thịt. Không hiểu tại sao tù túng thế, khổ cực thế mà tính
dục vẫn chưa bị diệt. Kìa tù nhân cởi truồng nằm ngửa, khẩu đại bác đang dựng đứng.
Và trong giấc mơ hoa ở lò nướng bánh, hắn đã bắn máy bay, đạn phọt lên! Hắn
cựa quậy. Rồi hắn vội lấy khăn che dấu khẩu đại bác. Tôi ngồi dựa lưng vào tường
quan sát. Chẳng biết một mai sống sót về, tôi có đủ khá năng diễn tả một buổi
trưa hè trong một phong giam ở đề lao Gia Định? Tôi viết về những cuốn sách
dính dáng tới nhà tù. Tôi tưởng tượng. Tôi viết mò. Tôi gian dối với độc giả.
Tôi vừa tìm ra cái lý do văn học của chúng ta thiếu tác phẩm lớn, tác phẩm tầm
vóc quốc tế, dù quê hương chúng ta đầy dẫy đề tài kích thước, để cống hiến cho
các nhà vẫn thống lĩnh đỉnh núi trong suốt ba thập niên cách mạng, thù hận, chiến
tranh, giải phóng, chia lìa, đổ vỡ, lưu đày, đói khổ, ngục tù… Nhà văn lỗi lạc
của chúng ta ở miền Bắc đã bị cưỡng bức sa đọa hóa tư tưởng. Họ đã bị hoàn toàn
tê liệt sự rung động và sáng tạo. Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền Nam thì
ít sống, sợ sống, lười sống. Hãy đọc Sống chỉ một lần xem Mai Thảo sống
ra sao. Sống loanh quanh thành phố, lang thang phòng trà, tửu điếm, hộp đêm.
Sau một kinh qua vỡ núi lấp sông của dân tộc, Mai Thảo cứ nhởn nhơ sống theo
phong cách đó và thản nhiên tái bản Sống chỉ một lần. Những tài năng đoạt
giải nhất, giải nhì khác? Chưa có biến chuyển khác lạ. Vẫn nhai lại. Tôi xác định
thêm một lần nữa: Tôi chỉ là người viết tiểu thuyết mưu sinh tầm thường, không
đáng kể. Tôi kỳ vọng những tác phẩm lớn ở những nhà văn lỗi lạc của chúng ta.
Không có, vì họ sợ sống. Thế Phong đã đưa ra một đề nghị lạ lùng: “Muốn có tác
phẩm lớn, phải nhờ bọn thống trị lôi các nhà văn ra bùng binh Chợ Bến Thành, quất
roi xuống thân phận họ, họ sẽ viết.” Có vẻ sa-đích. Mà đúng. Nhà văn của chúng
ta thiếu phẫn nộ bởi lánh xa mọi phẫn nộ của dân tộc. Có kẻ đã thể nghiệm sự phẫn
nộ, sự thống khổ của quê hương đấy. Kẻ ấy giương danh nhà văn chân chính, chê
tư tưởng thiên hạ “Cao hơn giép râu cộng sản”, viết pho sách ngót nghét nghìn
trang để chỉ phô diễn sự “Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh phần cơm heo”. Chẳng nên
làm nổi danh kẻ này bằng cách nêu tên ông ta và tên “tác phẩm để đời” của ông
ta. Tôi vừa vỡ lòng cay đắng, đang nhập môn thống khổ, nhưng tài còm của tôi vẫn
khó hứa hẹn diễn tả nổi một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định.
Thật sự mà nói, muốn có tác phẩm văn học lớn, chúng ta phải chờ đợi các nhà văn
trẻ thế hệ sau 1975.
Kẻng báo thức lại khua. Tù nhân lại ồn ào. Vòi nước đã chuyển qua ô cửa gió.
Như buổi sáng, nước đầy hồ rồi thì mỗi tù nhân có 10 giây tắm, gội không sát xà
phòng. Cuộc tắm hà tiện nước của cách mạng chấm dứt khi vòi nước kéo mạnh ra.
Người ta đã nhìn đồng hồ mà ban ân huệ tắm. Y tá xuất hiện với hai chai thuốc
ghẻ xanh và vàng. Xanh là Bleu de méthylène. Vàng là gì, tôi không rõ. Vàng, nếu
tôi đúng, là môn thuốc ghẻ cổ lỗ sĩ chế bằng diêm sinh và lưu hoàng, mùi hôi
khó tả và xức ghẻ thì xót điếng người. Y tá rót thuốc xanh và vàng vô hai cái lọ
thủy tinh mà Trật tự viên có bổn phận bảo quản. (Nhà tù sợ tù nhân tự sát hoặc
sát hại nhau bằng mảnh thủy tinh). Thêm một hoạt cảnh đề lao. Ghẻ mủ, ghẻ nước,
hắc lào đều bôi thuốc xanh, thuốc vàng. Hai tù nhân bôi thuốc cho nhau. Ghẻ đề
lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè “của quý’ mà lập chiến khu. Tù nhân nầy cởi truồng,
chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Thuốc vừa bồi xong, tù nhân nọ vội lấy quạt
quạt lia lịa. Vì thuốc xót vô cùng. Tù nhân bị bôi thuốc dẩy nẩy. Kẻ nhảy tăng
tăng, kẻ quạt lia chia. Một vũ điệu ngoạn mục của đề lao Gia Định. Chừng hết
xót, tù nhân đã được bạn bôi thuốc sẽ bôi thuốc trả nợ bạn. Và quạt. Bục tù biến
thành sân khấu nhảy múa. Mà người biên soạn vũ điệu ghẻ là cách mạng, là Đảng
quang vinh! Có tù nhân ghẻ tứ tung bèn sơn thuốc xanh khắp mình mẩy và được
phong làm chim xanh, mang tên Mỹ: Mr. Blue Bird. Ông Thế kể đã có tù nhân chết
vì … ghẻ, tháng trước, tại 6C-1. Tù nhân tên Tuấn, trung úy cảnh sát đặc biệt.
Anh ta vốn mắc bệnh phong tình. Vô đề lao, anh bị ghẻ mủ. Anh ta tuyệt vọng,
khước từ uống và bôi thuốc của vợ gửi vào. Anh ta khước từ tắm luôn. Ghẻ ăn
chung quanh mắt anh. Nhà tù mời vợ anh vô thuyết phục anh. Anh vẫn khước từ. Người
ta đưa anh vô bệnh viện Nguyễn Văn Học. Anh chết. Bởi anh tình nguyện chết.
Hoạt cảnh ghẻ hạ màn. Cơm chiều đến. Cơm chiều giống cơm sáng. Chia chác, ăn uống,
rửa ca muỗng xong, tù nhân chơi đô-mi-nô, cờ tướng, chuyện trò, hút thuốc, nhớ
vợ con, mong đợi thả về và chờ kẻng báo ngủ. Thế đó, trừ những hôm thăm nuôi,
mua hàng, họp cuối tuần, sinh hoạt ở các phòng giam đề lao Gia Định giống hệt
nhau. Một ngày như mọi ngày. Cô đơn trong thống khổ. Rã rượi trong tủi nhục.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét