Giữa
tháng 3 năm 1978, Tư Long ra lệnh cho chúng tôi lên một phòng trên lầu 3. Phòng
này, tù nhân vừa bị chuyển khu hay chuyển trại, bừa bãi rác rưới. Tôi đã viết,
Cộng sản "giải phóng" tù nhân chế độ cũ chiều 30-4-1975 thì ngay sáng
sớm 1-5-1975 đã có tù mới. Và tù cũ lần lượt bị lùa vào. Thực sự, Chí Hòa đã
xao xuyến từ 28-4-1975. Tù nhân nào "đấm mõm" chúa ngục là ra về thơ
thới hân hoan. Đến trưa 30-4-1975, cả chúa ngục lẫn tù nhân "tốt số"
bỏ Chí Hòa mà chạy. Còn lại đám tù "xấu số" không thể phá cửa ngục,
đành đợi cách mạng "giải phóng". Một tù nhân de luxe không được
"giải phóng": Ông tướng Trần Quốc Lịch.
Người ta đồn rằng, ở
Chí Hòa có nhiều ma, đặc biệt là Con Ma Vú Dài mà nhật báo Hoà Bình của linh mục
Trần Du đã khai thác ròng rã mấy tháng. Con ma vú dài, chúng tôi không được hân
hạnh… ngắm vú nó. Nhưng, tôi biết chính xác đã nhiều tù nhân tự tử hay chết
đòn, chết bệnh ở Chí Hoà. Tại sao biết chính xác? Vì, tôi đã sống chung phòng với
một cán bộ cải huấn khám Chí Hòa. Oan hồn, chướng khí dầy đặc vùng tù ngục này.
Người ta bảo rằng, chỉ khi nào tất cả cửa phòng giam, cổng khám, mở tung ra một
lượt, oan hồn mới phiêu diêu miền cực lạc hay về thiên đàng và chướng khí mới
tiêu tan. Cửa phòng giam, cổng khám đã mở tung một lượt. Oan hồn mới, chướng
khí mới dầy đặc hơn. Ở Việt Nam, sau mỗi cách mạng thì tỷ số nhà tù tăng lên.
Nhà tù thực dân trên quê hương tôi khiêm tốn hơn nhà tù cách mạng, bất kể cách
mạng gì. Hãy nói cách mạng vô sản giải phóng con người. Nó giải phóng nhà tù
Chí Hòa ra sao?
Các ống nước dẫn lên lầu bị cắt. Tấm bảng để tù nhân giỏi dạy học tù nhân dốt bị
gỡ. Cấm dạy dỗ lẫn nhau. Dạy dỗ kiến thức đồng nghĩa với tuyên truyền phản động.
Cấm bút. Cấm giấy. Tù nhân lúc nhúc trong phòng giam như đàn gà kỹ nghệ. Cách mạng
không sơn lại tường tù. Do đó, tường phòng giam chúng tôi còn đầy máu muỗi, máu
rệp, còn đầy tên tù nhân ghi rõ năm tháng tiền giải phóng, còn đầy những lời thề
huyết hận giang hồ. Trên một bức tường có vẽ hình con rồng đang lộn bằng gạch
non. Vốn thận trọng và sợ trách nhiệm, ông Trưởng phòng Phạm Quang Khai quan
sát tỉ mỉ phòng mới. Rồi ông báo cáo vụ con rồng với trật tự. Trật tự báo cáo
Tư Long. Chúa ngục Tư Long lồng lộn chạy lên. Hắn điên tiết vì đám tù cũ đã
"chơi" hắn. Long là rồng. Chúa ngục Rồng mà tù dám cho rồng lộn thì…
phản động quá, xúc phạm nặng nề tới cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác Lê bách
chiến bách thắng.
- Trưởng phòng đâu?
Ông Khai le te bước sát tường:
- Tôi đây.
- Ai vẽ con rồng?
- Tôi không biết
- Anh phải biết.
- Chúng tôi vừa lên đây, thấy rồng đã vẽ sẵn, vội vàng báo cáo ngay.
- Anh vẽ.
- Tôi không vẽ.
- Đồng bọn anh vẽ.
- Thưa cán bộ, chúng tôi không vẽ.
- Tôi bảo anh vẽ.
- Tôi đâu dám vẽ.
- Vậy anh biết ai vẽ. Tôi chỉ thị anh kiếm ra ai vẽ nội trong một giờ. Không kiếm
ra, cả phòng chịu kỷ luật.
Tư Long hầm hầm bỏ xuống với đám trật tự đầu trâu mặt ngựa. Ông Khai, nhà tỷ
phú Phạm Quang Khai, vua tầu dầu chiến lược Phạm Quang Khai bị tên bán vé xe đò
át giọng thì ngồi thừ, đau khổ. Đổi đời mà. Con lạc đà có thể chui qua lỗ kim,
ông Khai khó mà tìm được thằng nào vẽ con rồng lộn xỏ Tư Long. Ông thở dài thườn
thượt, trong khi, anh em quét phòng, chia chỗ nằm. Nước trong phòng không còn một
giọt, cầu tiêu ngập phân, thối um, tanh tưởi. Sàn nước nhơ nhớp. Chẳng cần một
giờ, Tư Long sai liền trật tự lên dán miếng giấy "niêm phong" phòng
và tuyên bố:
- Cúp nước một tuần. Cúp tắm một tuần.
Tưởng tượng một tuần lễ không có nước xối cầu! Anh em nhao nhao cào cấu ông
Khai:
- Nhanh nhẩu đoảng, thật thà hư.
- Con rồng kệ mẹ nó, con c… cũng có sao! Báo cáo, báo cáo…
- Già mà ngu.
- Đọc kinh ra nước đi!
Ôi cha, ông Khai lãnh búa. Đúng là trên đe dưới búa. Chức sắc nhà tù khổ vậy
đó. Tội nghiệp ông Khai. Ông đã bị cai ngục đì, còn bị anh em rủa. Đạo đức như
linh mục Tự Do, hiền lành như anh Võ Xuân Đình mà cũng chê ông Khai tối dạ. Với
Cộng sản thì phải gian dối, thành thật là lãnh đòn. Cái triết lý sống giả khùng
của Bẩy Bốp Nguyễn Ngọc Tân hay nhất. Nguyền rủa ông Khai chán chê đâm ra mỏi
miệng. Đành chịu đựng một hình phạt hiện thực xã hội chủ nghĩa, một hình phạt
mà tôi tin rằng, ở Pháp, Bùi Kim Bảng vẫn nhớ, ở Mỹ, Hoàng Mạnh Hùng, Nguyễn
Công Kha chưa quên. Nhưng nhân loại chưa biết. Các vị đại diện tù đòi hỏi nhân
quyền chưa biết. Rằng, con người đã có những ngày sống như con vật.
Chúng tôi bị cúp hai lần tắm. Không sao. Nhưng một tuần không rửa mặt, đánh
răng, không có nước rửa bát, rửa đít, xối cầu tiêu thì hãi hùng quá. Cai ngục
Quỳnh đã dạy: "Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống Cộng
sản". Mấy ai nhập tâm câu này? Thay vì chịu đựng để, nói theo Tố Hữu,
"Nuôi đi em cho đến lớn đến già, mầm hận ấy trong lòng xương ống máu. Để
mai mốt thêm hăng hồn chiến đấu, mà hôm nay em đã nhóm trong lòng", người
ta hết than vãn lại gấu ó lẫn nhau. Dân tộc đã trưởng thành sau kinh qua lịch sử
nghẹn ngào 30-4-1975, song vẫn còn nhiều người chưa khôn lớn, kể cả người trong
tù và người ngoài tù, người trong nước và người ngoài nước. Chúng ta hằng nhắc
nhở Phù Sai nằm gai nuốt mật nhớ thù, Câu Tiển nếm phân nuôi hận. Nhắc nhở
thôi, chúng ta không thích noi gương… Ba Tầu. Ba Tầu là Ba Tầu, dẫu thù hận ở
không gian và thời gian nào cũng đồng dạng, đồng tình. À, chúng ta sẽ chỉ thích
anh Ba Tầu Hàn Tín. Mới bị dở nón chào thằng cai ngục đã nghĩ mình khuất thân
ghê gớm, đã so sánh mình với Hàn Tín. Có tài năng như Hàn Tín hãy so sánh với
Hàn Tín. Nhưng Hàn Tín xin cơm thuở bần hàn chứ không chịu "ăn cắp cháy,
ăn vụng thịt, ăn tranh phần cơm heo". Tôi cần "phanh" tôi lại,
trở về kỷ luật khốn kiếp mà Cộng sản bắt chúng tôi chịu đựng. Mỗi ngày, chúng
tôi, mỗi tù nhân, chỉ được hai ca nước uống. Hai ca khoảng nửa lít. Nước uống
cung cấp sáng và trưa. Cơm canh đều đặn. Nửa lít nước một ngày cho một tù nhân
sống trong phòng giam 62 người, một người ba gang tay chỗ nằm. Trời đang mùa nắng,
mồ hôi thường xuyên toát ra, nửa lít nước kỷ luật! Chúng tôi không dám pha bột,
pha sữa, pha mì, không dám đánh răng, rửa mặt. Tự nhiên, cả phòng khen anh Nguyễn
Mạnh Côn và tặng anh biệt danh Dr. Anti-Hynos, vì từ khi vào tù, anh Côn khước
từ đánh răng. Chúng tôi phải xé áo, xé quần thành những miếng nhỏ. Để lau chén,
muỗng sau bữa ăn. Và để chùi đít sau khi đại tiện. Tôi cố nhịn ỉa đến mức tối
đa. Tôi thèm táo bón. Bất hạnh thay, vào đúng cơn khốn khó này, nhiều anh em bị
bệnh tiêu chẩy. Trưởng phòng Phạm Quang Khai kêu gọi anh em khắc phục… ỉa! Người
ta có thể nhịn ăn, nhịn uống chứ không thể nhịn đái, nhịn ỉa. Cầu tiêu ngập gần
ngang mức gạch, xây cao che phần không tiện để ra của "kép tù" trên
"sân khấu". Rốt cục, các "kép tù" đành ngồi trên hàng gạch
xây, coi như "màn nhung" mà "diễn tuồng" đại tiện. Ông anh
kết nghĩa Khai Trí của tôi đau khổ nhất. "Ai đau khổ vì bệnh trĩ"?
Không khí phòng giam "ngạt ngào" mùi phân tiểu. Chúng tôi thở, chúng
tôi ăn, chúng tôi uống, chúng tôi ngủ, chúng tôi ước mơ, chúng tôi hy vọng
trong mùi phân tiểu nồng nặc.
Có lẽ, dưói ngọn cờ quang vinh của Đảng và bằng thành tích bách chiến bách thắng
của chủ nghĩa Mác Lê, các thứ vi trùng đều bị tiêu diệt hết. Nên, tù nhân không
được chích ngừa một thứ bệnh gì cả. Cũng tốt thôi. Qua ngày thứ hai, Tư Long
cho phép xách hai thùng nước dội cầu. Cầu đã đầy nghẹt, hai thùng nước thấm
thía gì! Giá có con lươn anh hùng, lươn dũng sĩ thả vô trước vài tiếng đồng hồ
rồi dội mạnh nước là "thông suốt vấn đề khẩn trương" và "hồ hởi
phấn khởi" và "đột xuất bay mùi hương cách mạng". Chúa ngục Tư
Long gian ác không cho mượn cây gậy thọc cầu. Thành thử phân ì ạch rút như sự
tiến bộ ì ạch của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vậy đó, chúng tôi chịu đựng
liên tiếp bốn ngàỵ. Thấy không có ai chết, Tư Long "giải phóng" phòng
của chúng tôi ngày thứ năm. Chúng tôi xách nước "giải phóng" cầu
tiêu", chà sàn nước, rửa phuy… Chúng tôi tắm gội. Vẫn chỉ 8 phút. Lúc ấy mới
hiểu hạnh phúc đánh răng và hạnh phúc… rửa đít.
Sinh hoạt của phòng dần dà trở lại bình thường.
Thời kỳ này, chiến tranh biên giới Miên-Việt đã gay go. Các tỷ phú Tầu, các nhà
tư sản mại bản không được ra ngoài làm việc nữa. Trần Thành hết nghề nuôi heo.
Trương Vĩ Nhiên hết nghề y tá. Trương Vĩ Nhiên độc quyền nhập cảng phim ảnh Hồng
Kông, Đài Loan. Anh ta là chủ nhiều rạp chiếu bóng lớn. Ở đề lao Gia Định, anh
gánh cơm cho các phòng khu C-1. Cộng sản chọn có hai nhà tư sản mại bản đưa ra
tòa: Lý Sen và Trương Vĩ Nhiên. Lý Sen lãnh án 15 năm. Trương Vĩ Nhiên 20 năm.
Đến năm 1982, toàn bộ tư sản mại bản Chợ Lớn được tha hết. Không nghe nói Lý
Sen, Trương Vĩ Nhiên có "trúng số" hay không. Những ngày Trương Vĩ
Nhiên làm y tá, chúng tôi dễ chịu. Anh đề nghị bác sĩ Việt cộng cho tù nhân giữ
hết thuốc tư. Chúng tôi khỏi đăng ký thuốc ở Y Tế, mất công ốm đau phải xin rút
thuốc. Tư Long vẫn "ghim" phòng của chúng tôi. Hắn chủ trương
"đong đo, cân đếm" tinh vi. Một tù nhân nửa lít nước uống và một lít
nước xử dụng dịch vụ cá nhân, mỗi ngày. Tư Long nghiêm cấm trò "tắm gỡ"
khi xuống hồ xách nước. Tù nhân chơi màn múc đầy thùng rồi nhấn mạnh cho nước
trong hồ tràn ra "tắm gỡ", Tư Long cấm luôn. Hắn cấm đem theo bình
múc nước riêng. Cuối cùng, cấm nước nhễu trên hành lang. Những người tình nguyện
xách nước hết tình nguyện. Phòng lại ủy cho tổ. Tổ cắt người vác nước. Tư Long
bắt vác nước trên vai không được nhỏ một giọt nào. Thành ra, thùng nước không đầy.
Tôi nhớ bốn ngày cấm nước, chúng tôi đứng trên lầu nhìn xuống hồ. Thấy bọn trật
tự đánh bóng chuyền xong thì nhẩy vào hồ nước đùa rỡn. Tư Long muốn chúng tôi
đau đớn. Hắn đã nhầm. Đảng của hắn đã nhầm. Chủ nghĩa của hắn đã nhầm. Nếu đích
thực là con người, đắm chìm trong bất cứ một nghịch cảnh nào, con người vẫn tồn
tại với đầy đủ ý nghĩa làm người.
Một số anh em được gọi đi lao cải ở trại tập trung. Cai ngục nói rõ
đi lao động cải tạo. Tôi dùng chữ được thay chữ bị. Thoát khỏi
FG đã hạnh phúc, thoát khỏi Chí Hòa hạnh phúc nhân lên. Vậy thì Chí Hòa không
phải là chốn cải tạo trường kỳ, là chốn tù nhân nằm chờ chết mòn bằng bệnh hoạn,
bằng tuyệt vọng. Rồi sẽ đi… Những cuộc phiêu lưu mới đang đợi những bước chân sắp
tê liệt. Trong số anh em đi lao cải có Phan Thành Trường, Nguyễn Đình Bách,
Quang què, Cốc Chính Cương… Thời kỳ này, Cao Dao 1 đã
"thống lĩnh" một "ngọn núi" Chí Hòa. Võ Long Triều từ đề
lao Gia Định sang. Nguyễn Đan Quế cũng đã có mặt. Họ không vào phòng tôi. Nhóm
luật sư "Nhân Quyền" ngự ở khu AH. Tôi không nghe kể tên Huỳnh Thành
Vị. Như vậy, Chí Hòa đã nhiều nhân vật. Càng đông càng vui. Khu FG thay đổi
toàn bộ cai ngục. Tư Long vẫn còn nhưng hắn không lảng vảng rình mò nữa. Một
tên cai ngục mà Đoàn Kế Tường đặt cho hắn cái tên "Đề Xuất" – vì hắn
ưa hỏi phòng có đề xuất gì không sau khi điểm danh – đã tặng chúng tôi một bài
học đề xuất. Hắn hỏi hoài khiến ông Khai phải… đề xuất:
- Báo cáo cán bộ, phòng chật chội quá.
- Bao nhiêu người?
- Năm mươi nhăm.
- Tôi ghi nhận, sẽ nghiên cứu giải quyết.
Ngay buổi trưa, cửa phòng mở, ông Khai nhận thêm 15 tù nhân hình sự gồm các tội
móc túi ăn trộm. Dĩ nhiên, ông Khai lại bị công kích về tội "ngứa mồm"
đề xuất. Đoàn Kế Tường ra mặt chống đối ông Khai. Chưa hết đâu, hôm sau, ông
Khai tiếp nhận 5 tù nhân hình sự khác. Các tù nhân hình sự được chuyển tới Chí
Hòa đều đã nằm ở nhà giam các quận. Mà nhà giam các quận là nơi con người biến
thành ròi bọ. Hoàng Mạnh Hùng đã nằm nhà giam quận 3 một tháng. Anh kể những tệ
trạng khốn kiếp xẩy ra. Cai ngục ngó lơ, mặc kệ vua tù và triều đình lộng hành.
Thảm cảnh ức hiếp, bóc lột tù yếu và bắt cả tù yếu làm công việc "thổi
kèn" để thoả mãn thú tính của tù mạnh còn ghê tởm gấp bội những
"xen" tôi đã diễn tả về các phòng tạm giữ trong tiểu thuyết của tôi.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, vệ sinh ở các nhà giam các quận thả nổi. Chấy rận
lổm ngổm, ghẻ lở kềnh càng. Một tháng tắm một lần. Ốm no bò dậy. Những màn đấm
đá tàn bạo. Những màn trốn ngục táo bạo. Vua tù dám mua cai ngục một chai xì-dầu
thủy tinh giá cắt cổ. Nó sai đàn em đập chai, nhắm bụng nó mà đâm mạnh. Đừng
đâm chết. Bị thương nặng thôi. Cai ngục chở nó tới bệnh viện Đô Thành. Nó… vượt
ngục ở đây dễ dàng.
Bị mắc mưu "đề xuất", phòng chúng tôi rộn ràng tiếng văng tục, chửi
thề, lổm ngổm chấy, rận, cái ghẻ… Sự tranh giành cơm nước, chỗ nằm sinh động một
đời tù Cộng sản. Rồi cũng quen đi vì đã có lần chịu đựng bốn ngày kỷ luật cúp
nước. Tôi đã tưởng những mùi thối tha, tanh tưởi của phân tiểu, của máu mủ tù
ngục sẽ làm mình quên bất cứ mùi tanh tưởi, thối tha nào bên ngoài, khi tôi ra
đời. Rốt cuộc, tôi lại phải tương tư những mùi thối tha, tanh tưởi, hôi hám của
tù ngục. Bởi vì, những mùi nồng nặc nhất của tù ngục vẫn thơm hơn những mùi
kháng chiến, đấu tranh của đám cai thầu vô lại, của bọn mưu đồ danh phận bằng nỗi
bất hạnh của dân tộc và tổ quốc chúng nó.
Phòng chúng tôi đã chẵn 70 mạng. Nước giới hạn, tắm giặt giới hạn, bệnh ghẻ tái
phát và tăng trưởng thật lẹ. Tôi bị cảm cúm. Đoàn Kế Tường xoa dầu cù là, cạo
gió. Ở "chuồng" lâu ngày, da chúng tôi mỏng và thịt bủng. Những vết cạo
gió chẳng cần đợi lâu, hôm sau thôi, đã nhiễm trùng, sưng mủ. Tôi đã trải qua
"mùa ghẻ" đề lao Gia Định. Thêm "mùa ghẻ" Chí Hòa. Tất cả
tù nhân đều bị một thứ nấm "ăn" ở hạ bộ gây ngứa khó chịu. Hễ gãi mạnh
xước da là thành ghẻ mủ ngay lập tức. Bởi vậy, tiến sĩ Hoàng Mạnh Hùng sáng tạo
một kiểu gãi thần sầu. Dùng bàn chải đánh răng mà… chà ghẻ! Chà nhẹ nhàng. Bệnh
ghẻ nham hiểm như Cộng sản. Ban ngày nó không hành mình, đợi lúc mình nằm ngủ
nó mới ngứa. Hòa tấu khúc "đàn Ta-Lư" thường chơi đêm khuya. Âm thanh
phóng ra đời sống chỉ là những tiếng "xoàn xoạt" liên tục. Vậy thì,
bàn chải gãi ghẻ ban đêm và đánh răng ban ngày! Chúng tôi đã nuốt cái ghẻ. Anh
Nguyễn Mạnh Côn ca ngợi ghẻ, nếu ghẻ mọc một mụn duy nhất ở đốt xương sống cuối
cùng, gần hậu môn. Anh bảo có thằng cái ghẻ để gãi cũng đê mê lắm. Anh Côn nhận
xét đúng. Để móng tay ngón út đùa bỡn với chú cái ghẻ ở đốt xương cùng thì tuyệt
cú mèo. Nếu cái ghẻ là những thằng chụp mũ, là những thằng phản phúc, là những
thằng hèn mọn bắn sau lưng, núp bóng tối đâm lén ta, chúng nó rất xứng đáng nằm
ở đốt xương sống cuối cùng, gần hậu môn ta. Thiếu những thằng này, cuộc đời giảm
nhiều thú vị. Ở trong bất hạnh, bạn cần tìm kiếm hạnh phúc. Tôi kiếm hạnh phúc
từ ca nước ấm. Giúm muối bỏ vô, tôi lên "sân khấu" ngâm "toàn bộ".
Ôi, đang ngứa bạo mà ngâm nước nóng, sướng sao mà sướng. Sướng hơn làm tình, sướng
rên mé đìu hiu… Nếu tôi được soi gương lúc tôi thả "toàn bộ" vào nước
nóng, tôi sẽ có định nghĩa chính xác về các tĩnh tử nghệt, thộn, đờ đẫn… Phi ghẻ
bất thành tù. Gãi trong cơn ngứa đã đời lắm, nhưng xót xa sau cơn ngứa. Ngâm nước
nóng trong cơn ngứa, đang ngâm thì đê mê mà ngâm xong thì "hồ hởi phấn khởi."
Nhân vật tiểu thuyết của tôi nằm khám Chí Hòa bị ghẻ nước, đã khám phá ra chân
lý hạnh phúc. Là đốt nến cho nhễu từng giọt xuống mỗi mụn ghẻ. Sức nóng của giọt
nến vừa độ không làm phỏng da nên mỗi giọt nhỏ xuống một mụn ghẻ cơ hồ mỗi giọt
sướng nhỏ xuống hồn. Nến không thể dùng cho hạ bộ, cái hạ bộ đen thui, mỏng
teo. Phải nước ấm và muối. Nước ấm gây cảm khoái và muối làm se. Cái tứ khoái của
cổ nhân cần thêm khoái lấy ráy tai, khoái ngoáy lỗ ghèn, khoái gãi ghẻ, khoái
ngâm hạ bộ ghẻ vào nước ấm… Khoái lấy ráy tai, người Việt Nam nào chả biết, chả
thích. Khoái ngoáy lỗ ghèn, ít ai biết. Nếu biết, người ta sẽ nghiện. Ở tù, bạn
đến phòng nào cũng kiếm ra một vài tài năng lấy ráy tai, ngoáy lỗ ghèn, tẩm quất.
Người ta chọn sợi tóc dài nhất trên đầu bạn, nhổ ra, chập đôi, se lại. Có tí
an-côn rửa sợi tóc càng tốt, không có chẳng sao. Bạn nằm thẳng cẳng. Người ta vạch
mắt bạn, đưa sợi tóc vào cái lỗ ghèn ở đầu con mắt, người ta xoáy sợi tóc. Cảm
giác của bạn lâng lâng. Nước mẳt bạn trào ra. Bạn khoái tỉ cao độ, hắt xì hơi.
Và bạn sẽ hiểu, trên đời có nhiều lạc thú, những lạc thú thiếu be bét trong cuốnLạc
thú ở đời của ông Lâm Ngữ Đường. Đời bạn, luôn luôn, gặp những lúc muốn hắt
xì hơi mà không hắt xì hơi nổi. Bạn khó chịu. Bạn tức tối. Bạn ngước nhìn mặt
trời hoài, vẫn không hắt xì hơi. Bạn thèm hắt xì hơi. Một phát thôi, bạn sẽ sảng
khoái liền. Bạn ơi, lúc ấy, bạn được ngoáy lỗ ghèn, bạn sẽ hắt xì hơi lu bù.
Anh Nguyễn Mạnh Côn đã thử ngoáy lỗ ghèn. Và anh ấy tuyên bố: "Sướng gấp bội
say thuốc phiện." Ngoáy lỗ ghèn dễ dàng thôi, muốn lâng lâng thì được lâng
lâng tức thời, chỉ cần tốn một sợi tóc. Ngâm hạ bộ ghẻ vào nước ấm, bạn sẽ nhịn
uống bột Bích Chi và rồi, chính cái ca nhựa bạn ngâm hạ bộ, bạn sẽ múc nước
đánh răng, rửa mặt và uống bột Bích Chi.
Vào thời kỳ ghẻ ngứa tưng bừng này, chúng tôi không được ăn cơm nữa. Chí Hòa luộc
bột mì nuôi tù nhân. Mỗi bữa, mỗi tù nhân nhận hai cục bột luộc to bằng nắm
tay. Bột mì của Đức Giáo Hoàng tặng bị pha với bột khoai mì xã hội chủ nghĩa. Bột
luộc ăn với canh bí rợ nấu muối. Đề lao Gia Định còn chịu khó gọt vỏ bí, chứ
Chí Hòa để nguyên vỏ. Tôi sợ nhà bếp lười biếng rửa luôn. Tù nhân phải se giây
ni-lông rút từ bị đựng phân bón 2 làm…
dao cắt bột thành từng khoanh. Có người cầu kỳ cắt bột nhỏ như con cờ, chan
canh vào mà nuốt. Linh mục Nguyễn Văn Tự Do chế một lối súp tù. Ông bấu bột
ngâm nước đường. Bột rữa ra, ông khuấy đều mà húp. Đa số cầm cả cục bột ngoạm
cho xong chuyện. Tôi cũng ngoạm cả cục. Tay cầm tán đường mía, tay cầm bột luộc,
tôi ăn. Ăn để sống. Đôi khi, tự an ủi mình, tự vuốt ve mình cho bớt tủi vì chậm
chân không di tản kịp, chúng tôi vừa gãi ghẻ vừa hội thảo:
- Con người ăn nổi mấy bữa một ngày?
- Ba.
- Chúng ta đã ăn ba bữa.
- Đúng.
- Ăn sơn hào hải vị, ăn Hamburger, McDonald, uống Whiskey, Cognac, Coca, Pepsi,
Fanta… đi cầu có thơm không nhỉ?
- Thối.
- Chúng ta đã đi cầu cũng thế.
- Lái xe Cadillac, hay Mercedes và nằm tù rồi có chết không?
- Chết hết.
- Thế nào là sống?
- Biết tận cùng của thống khổ.
- Chúng ta đã sống. Đã sống, đã biết sống. Thế đủ rồi. Ai có thể từ sự biết sống
của mình, gởi lại cho đời sống điều gì đó càng tốt. Chẳng gửi lại thì thôi.
Như thế, chúng tôi đã ngoạm bột luộc, an phận ngoạm bột luộc. Tuyệt nhiên,
chúng tôi không bình phẩm những người may mắn thoát vòng tù tội và đang sung sướng
ở nước ngoài. Chúng tôi không hề biết gì về họ. Không hề biết gì về người khác
mà phán xét người ta là thái độ của quân vô lại. Có lẽ, tôi không nên điểm mặt
vô lại. Tự chúng nó, chúng nó đã chường nguyên mặt vô lại. Xin cám ơn quan tòa
Thời Gian.
Cuối tháng 3-1978, bọn sát nhân, bọn trộm cắp bị chuyển trại. Tình trạng hỗn loạn
của phòng tôi chấm dứt.
Nhà tư sản mại bản Đào Mậu rồi Tăng Tài được thả. Lệnh tha đọc ngay tại phòng.
Chúng tôi hân hạnh tiếp đón thượng khách: Linh mục Nguyễn Quang Minh, nhân vật
hàng đầu của vụ án nhà thờ Vinh Sơn. Cùng với linh mục Nguyễn Quang Minh còn có
linh mục Chức và vài người nữa. Linh mục Chức nói hơi nhiều, nói gần như ba hoa
chích chòe. Ngược lại, linh mục Minh trầm lặng. Ông nằm hàng giữa phòng, cả
ngày ngồi trầm tư. Các con chiên quấn quanh linh mục Minh nhờ ông "làm lễ."
Tôi đã chứng kiến cảnh linh mục treo mùng ngồi trong, con chiên xưng tội ngồi ngoài,
hồi tôi ở chung với linh mục Pham Minh Thiện tại đề lao Gia Định. Nhưng cảnh
"rước lễ" ở Chí Hòa, tôi nghĩ, là cảnh "rước lễ" bi thảm và
tuyệt vời nhất của lịch sử Thiên Chúa giáo. Nửa đêm, chờ tù nhân ngoại đạo ngủ
kỹ, linh mục Nguyễn Quang Minh ngồi dậy. Ông cũng mặc quần xà lỏn, áo sơ-mi như
mọi tù nhân. Tôi không biết, không hỏi bằng cách nào linh mục Minh có
"bánh thánh" và "rượu lễ." Vốn là tù nhân khó ngủ, thao thức
gần sáng mới nhắm mắt, nên tôi đã được nghe nhiều điều lạ xẩy ra ban đêm. Thí dụ
những lời báo cáo hồ đồ của tù nhân ở cachot, những tiếng khóc của con nít, những
câu hát của nữ tù dưới ô… Và rồi, được chứng kiến cảnh "rước lễ". Ở
Chí Hòa, không có tuần tra ban đêm. Khi kẻng báo ngủ điểm, các cửa sắt hành
lang khóa kỹ. Những việc vi phạm Nội quy có sợ là sợ những tên bộ đội
đào ngũ, những tên cán bộ mất phẩm chất cách mạng nhòm ngó thôi.
Cùng lúc linh mục Minh ngồi dậy, các con chiên cũng lần lượt ngồi hết dậy, vì
đã dặn dò "đêm lễ," tất cả đều giả vờ ngủ. Dưới ánh điện vàng, linh mục
Nguyễn Quang Minh áo sơ-mi, quần xà lỏn, ngồi khoanh chân thầm thì rao Phúc Âm.
Các con chiên tội nghiệp chung quanh đang kính cẩn hướng về Cha của họ. Hình tưởng
Chúa Jesus "thấy quần chúng, bèn leo lên núi. Khi ngài đã ngồi thì các môn
đồ tớì cùng Ngài. Ngài mở miệng dạy họ:
Phước cho kẻ có lòng nghèo khó, vì nước Trời là của kẻ ấy.
Phước cho kẻ buồn thảm, vì sẽ được yên ủi.
Phước cho kẻ nhu mì, vì sẽ thừa thọ đất.
Phước cho kẻ đói khát về sự công nghĩa, vì sẽ được no đủ.
Phước cho kẻ hav thương xót, vì sẽ được thương xót.
Phước cho kẻ cỏ lòng trong sạch, vì sẽ thấy được Đức Chúa Trời.
Phước cho kẻ chịu bắt bớ vì sự công nghĩa, vì nước Trời là của kẻ ấy.
Phước cho các ngươi khi người ta lăng nhục, bắt bớ và vu cho mọi điều ác vì cớ
ta.
Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng các ngươi trên Trời là lớn… 3
Linh mục Nguyễn Quang Minh ở trong hoàn cảnh khốn khó hơn. Quân dữ bốn bề. Ông
không có núi mà leo. Ông ngồi giữa căn phòng hôi hám của khu FG Chí Hòa làm
sáng danh Thiên Chúa. Chắc chắn, Chúa Jesus đã ban phép truyền âm cho linh mục
Minh để ông giảng Phúc Âm cho con tin theo "bí kíp" truyền âm. Vẫn
bài giảng bất hủ đó thôi, tôi nghĩ vậy. Ông bác bỏ mọi nghi lễ của Giáo Hội.
Nghi lễ vụ hình thức. Hình thức là giả dối. Chúa nghèo, Chúa không giầu. Chúa
đi chân đất. Chúa đâu có trình diễn như Đức Giáo Hoàng. Nên Chúa đã là Chúa.
Linh mục Nguyễn Quang Minh mang hình ảnh Chúa, tâm hồn Chúa vào Chí Hòa. Ông ngồi
một lúc thì dơ tay lên. Lần lượt, các con chiên đứng dậy, rời chỗ nằm của mình,
giả vờ ngang qua chỗ Cha, ngồi xuống, há miệng nhận "bánh thánh" rồi
giả vờ lên cầu tiêu, rồi trở về chỗ của mình. Linh mục Nguyễn Quang Minh sẽ lên
nước Thiên Đàng gặp Chúa Jesus, sẽ kể cho Chúa Jésụs nghe chuyện "sống đạo
giữa tù" dưới thế. Các ông cha di tản, vượt biên về hết Địa Ngục, cần báo
trước, Địa Ngục có nhiều món hấp dẫn hơn Thiên Đường. Chúa Jesus tìm đến chỗ
cùng khổ. Các ông cha tìm đến nước Mỹ sung sướng. Chúa ơi, kẻ ngoại đạo thương
Ngài lắm. Ngài bị khá đông chiên ghẻ nhân danh Ngài mà buôn bán, đổi chác…
Linh mục Nguyễn Quang Minh là người khả kính. Ông sống chung với chúng tôi đến
cuối tháng 4 năm 1978, thì rời phòng. Từ đó, tôi không được nghe nói gì về ông
nữa. Tôi đã đàm thoại với ông hai lần. Cả hai lần, ông đều khẳng định:
"ông tin tôi chứ, ông Duyên Anh? Không to tát như người Cộng sản phóng đại.
Không có đường hầm, không có đài phát thanh, không có máy in bạc giả, không có
súng đạn, không có chống trả gì trong nhà thờ Vinh Sơn cả". Phải, không có
gì cả. Linh mục Nguyễn Quang Minh không bao giờ làm phản động. Người Cộng sản
đã chọn nhà thờ Vinh Sơn, đã bịa đặt thế. Mục đích của họ là dằn mặt những người
Thiên Chúa giáo quá khích hậu thuẫn Đức Cha Thuận về thay thế Tổng giám mục
Bình và lấy cớ bắt nhốt một số linh mục và trí thức công giáo. Một số tổ chức
chống Cộng sản sau 30-4-75 do các lãnh tụ công giáo lãnh đạo đều bị ghép dính
vào vụ nhà thờ Vinh Sơn, kể luôn tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng và Ali Hùng.
Linh mục Minh, linh mục Chức và những người dính líu vụ Vinh Sơn xuống phòng lầu
1 dành cho những tù nhân đã thành án. Nhưng tử tù Vinh Sơn vẫn thoi thóp trên
cachot FG. Chúng tôi gặp mặt Ali Hùng lần chót hôm chàng được xuống hành lang xế
phòng tôi tắm nắng. Người nhái Ali Hùng đã thành bộ xương cách trí. Mắt chàng
trũng sâu, thâm quầng. Người tử tù biết mình chết, biết mình phải chết mà cứ bị
kéo dài nỗi sống thảm. Nhân loại vẫn chưa vỡ lẽ Cộng sản đâu. Chúng ta cần
"giáo dục" nhân loại: Dưới chế độ Cộng sản, sống đã nhục nhã mà chết
càng nhục nhằn. Muốn sống không được sống, muốn chết không được chết. Hình như,
nhân loại dần dà mất tính người. Bạn thử công khai giết một con chó nấu rựa mận
ở nước Pháp coi, cô đào Brigitte Bardot sẽ điên lên, sẽ nhân danh Hội Bảo Vệ
Súc Vật truy tố bạn ra tòa án. Thế nhưng, bọn khủng bổ sát hại "đồng
bào" cô ta, cô ta không có ý kiến. Đó là nhân loại, là lương tri, mọi chuyện
để bắn phá giáo đường, xúc phạm thánh là trắc ẩn, là xúc động dành cho đồng loại
của nó, thời đại của nó.
Một tuần, sau ngày linh mục Nguyễn Quang Minh ra đi, linh mục Nguyễn Văn Tự Do
ra đi nốt. Đoàn Kế Tường nóng lòng đi lao cải. Phiên họp cuối tuần nào, Tường
cũng xin ghi vào biên bản. "Tôi tình nguyện lao động cải tạo mười
năm." Sự tình nguyện của Đoàn Kế Tường trở thành chuyên hài hước. Không ai
trả lời Tường cả. Với Tường, ở phòng tập thể hai tháng là thời gian quá lâu. Tường
bực bội, gây gỗ lung tung. Người bị Tường gây gỗ thường xuyên là Trưởng phòng
Phạm Quang Khai. Song song vụ gây gỗ Tường-Khai là vụ đấu tranh tư tưởng quốc
gia, Cộng sản giữa Mai Đức Khôi và Phạm Văn Diện. Tôi nhớ Khôi cụt đã kê tủ đứng
vào họng Phạm Văn Diện câu này: "Anh mất mẹ nó phẩm chất cách mạng rồi, đợi
bao giờ lấy lại phẩm chất cách mạng hãy đấu tranh với tôi. Cỡ tôi đâu thèm đấu
tranh tư tưởng với cựu phường trưởng." Khôi cụt yêu cầu ghi vào biên bản.
Và Khôi cụt liên tục "ra làm việc" cả tuần. Trước Khôi cụt, Quang què
đã công kích Diện những lần Diện thở giọng Cộng sản trong buổi họp. Nhưng Phạm
Văn Diện, nhờ bị Khôi cụt chửi thẳng mặt, được thay thế Phạm Quang Khai nắm chức
Trưởng phòng. Diện biết điều, gặp riêng Khôi cụt xin lỗi. Có Diện cai trị, bọn
bộ đội đào ngũ ngoan ngoãn. Diện nể nang Tường nên mọi chuyện trong phòng tốt đẹp.
Đoàn Kế Tường hết đối tượng công kích thì bầy trò chọc cười Tư Nhì. Ông Tư Nhì
chuyên hút thuốc lá nhãn hiệu Lá Vàng 20 điếu gói bằng bao ni-lông.
Anh ta nhiều thuốc mà hút tiết kiệm, không đốt liên miên giống chúng tôi. Muốn
được Tư Nhì tặng nguyên gói, Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng phải song ca hai
bè một đoạn nhạc của Phạm Duy, theo điệu bài Tiếng đàn tôi.
Ông Tư
Nhì ơi
Cả phòng hết thuốc rê rồi,
Ông Tư Nhì ơi!
Mình ông còn Lá Vàng thôi…
Để quên
ngày tháng Chí Hòa, Đoàn Kế Tường và Dương Đức Dũng thi hát nhạc sến xem ai thuộc
nhiều nhạc sến nhất. Kiến thức nhạc sến của tôi dồi dào vào dịp này. Đoàn Kế Tường
có khiếu hài hước, có trí nhớ thật tốt. Tường thuộc nhạc "cách mạng"
đủ bài. Bài nào Tường cũng chêm một câu phản động. Thí dụ, bài Cô gái vót
chông.
... Còn
giặc Mỹ cọp beo
Khi còn giặc Mỹ cọp beo
Em chưa ngừng tay vót chông rào làng
Nhưng mai đây giặc chạy rồi
Tre rừng ta làm nhà làm chòi cao
Tường hát
rất thành khẩn:
… Nhưng
nay mai giặc chạy rồi
Thằng Việt Nam lại nhốt thằng Việt Nam…
Một hôm,
cả phòng cười lăn lộn. Ông Khai cười rung râu, Tường mượn cuốn lịch tay Quân
đội nhân dân của bạn tù xem. Dở trang ghi lộ trình hỏa xa, Tường đọc lớn:
"Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1000 ki-lô-mét. Thành phố Hồ Chí Minh, Chí
Hoà, 1 ki-lô-mét. Thành phố Hồ Chí Minh, đề lao Gia Định, 3 kí-lô-mét… Thành phố
Hồ Chí Minh, nhà tôi, 100 ngàn ki-lô-mét!"
Ấy đó, niềm vui FG. Chúng tôi buồn như vậy, vui như vậy. Cạnh nỗi buồn, niềm
vui còn có khoái gãi ghẻ và khoái ngoáy lỗ ghèn. Mọi việc sẽ bình thường, nếu
con người can đảm chịu đựng và cố gắng tìm kiếm sự bí ẩn trong thống khổ.
--------------------------------
Đã
sang Bỉ năm 1984 và chết ở Bỉ năm 1986. Một người tài giỏi, không thích hợp với
bất cứ chế độ nào và ở bất cứ chế độ nào cũng nằm tù.
|
|
Thân
nhân thường mua túi đựng phân bón chứa quà gửi vào cho được nhiều và tiện.
|
|
Bài
giảng trên núi của chúa Jesus theo Thánh Matthew, trong Kinh Thánh, bản tiếng
Việt của hội Gideons quốc tế.
|
CHƯƠNG
25
Chiến dịch
đánh tư sản năm 1978 tàn bạo đến nỗi Chí Hòa leo thang tù nhân. Phòng của tôi
chứa 90 người. 90 người thay phiên lên “sân khấu”, điều này thôi đã đủ nói lên
sự bi đát của chế độ ngục tù cộng sản. 90 tù nhân một cái cầu tiêu hạn chế nước
xối. Khó mà hiểu tại sao tôi còn sống sót. Khó mà hiểu tại sao chúng tôi còn sống
sót. Khó mà hiểu tại sao con người có thể vượt qua những hình phạt của thù hận
để tồn tại. Và, càng khó mà hiểu tại sao con người thích trừng trị con người
nghiệt ngã thế. Tôi đối nghịch tư tưởng cộng sản, người cộng sản bắt tôi, giam
nhốt tôi, hành hạ tôi là điều “công bình, hợp lý” nặng tính chất lê-nin-nít.
Nhưng cơ man đàn bà buôn bán và con cái họ vì sự “hợp lý” nào mà phải vào tù,
phải ngồi bó gối suốt đêm ở sân Chí Hòa, khóc lóc sầu thảm? Ánh sáng quang vinh
của Đảng có vinh quang thêm? Marx không bần tiện thế. Engels không bần tiện thế.
Chỉ có lãnh tụ cộng sản Việt Nam mới vô liêm sỉ bắt đàn bà, con nít lùa vào các
nhà tù về tội buôn bán mà họ nâng quan điểm lên hàng tư sản. Suốt đời, tôi mãi
mãi bị ám ảnh bởi tiếng khóc khô cổ nghẹn lời của những người vợ, chồng đã bị
lưu đầy, vợ con còn bị tước đoạt chỗ dung thân, bị tống vào tù, bị phơi nắng, dầm
sương hai ngày đêm mới “nghiên cứu” phòng nhốt dồn họ vào chen chúc nhau nằm,
ngồi như súc vật. Tố Hữu ca ngợi Hồ Chí Minh: “Tự do cho mỗi đời nô lệ,” rồi
chính Tố Hữu và đồng bọn biến đồng bào thành nô lệ, thứ nô lệ tồi tệ hơn cả nô
lệ thời trung cổ. Bài học của cai ngục Quỳnh đánh thức tôi: “Chiến đấu từ đau
khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống cộng sản.’’ Tôi đã nghiến răng nuốt đau
khổ, từng phút, từng giây. Với tôi, đau khổ là thực phẩm nuôi dưỡng tôi khôn lớn.
Văn chương một chút và lãng mạn một chút, tôi mơ ước khám phá ra niềm bí ẩn của
đời sống trong cực kỳ thống khổ. Những trang sách của ngày mai sẽ đỡ tẻ nhạt
hơn những trang sách ngày qua. Có lẽ không, chắc chắn, ước mơ đã cho tôi sự tồn
tại.
Sau chiến dịch đánh tư sản, Chí Hòa mở cửa đón tiếp các giáo viên Việt gốc Hoa
mà họ bảo là thân Trung Cộng và làm gián điệp cho Trung Cộng. Những người này,
trước 1975, đã cộng tác mật thiết với Việt cộng, đã “nằm vùng” Chợ Lớn. Thêm nữa
là những người khờ khạo, nghe lời Mai Chí Thọ, đăng ký về Tầu. Trung Cộng dựng
vở “Hoa nạn” chơi Việt cộng phản bội đàn anh. Hai chiếc tầu của họ đã vào vùng
biển Vũng Tầu. Trung Cộng gây áp lực thì chỉ khổ Tàu máu mặt ở Chợ Lớn. Chí Hòa
đầy nghẹt tù… Tầu. Nền tù ngục sầm uất, phát đạt. Chiến tranh biên giới Miên –
Việt càng ngày càng khốc liệt. Chúng tôi biết qua những mảnh giấy báo “ngụy
trang” gói quà thăm nuôi. Ở Chí Hòa, tù nhân cách biệt hẳn với xã hội loài người.
Không được nghe ra-đi-ô, không được đọc báo. Tù nhân mòn mỏi theo tiếng kẻng
răn đe. Tôi đã ngỡ mình sẽ chết tại khu FG. Bất ngờ, tháng 7-1978, chúng tôi
chuyển sang khu AH, cả phòng.
AH là thiên đường của Chí Hòa so với FG địa ngục. Không còn ED chế độ riêng lẻ
và đặc biệt nữa. Nhà Nước xã hội chủ nghĩa đã thống nhất nhà tù Chí Hòa. Bốn
khu đều thuộc quyền quản lý của Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn ăn
uống giống nhau nhưng cung cách quản chế khác nhau, tùy thuộc Trưởng khu. Trưởng
khu AH tên là Vũ. Anh ta còn trẻ, trên 30 tuổi, tóc hơi loăn xoăn, bồng bềnh,
khuôn mặt tươi tỉnh. Đợi chúng tôi chia chỗ nằm, sắp xếp hành lý xong, anh ta đến
với hai cai ngục, trẻ như anh ta. Trưởng khu Vũ tự giới thiệu tên tuổi, chức vụ
của mình, rồi “tâm sự”:
- Chúng tôi không phải là công an gốc. Đồng chí Thuận, đồng chí Phong đây và
tôi đều từ quân đội điều sang ngành công an quản giáo can phạm. Chúng tôi đảm
trách khu AH. Tất cả sẽ dễ dàng với anh em trong khả năng của chúng tôi, yêu cầu
anh em đừng gây khó khăn cho chúng tôi. Ai làm Trưởng phòng bên FG?
Phạm Văn Diện đáp:
- Báo cáo cán bộ, tôi.
- Anh tiếp tục làm Trưởng phòng. Chúng tôi sẽ cố gắng giữ quân số phòng các anh
là 50, tối đa 60. Anh chuẩn bị cho anh em đi tắm.
Trưởng khu Vũ nói năng nhẹ nhàng. Rõ ràng, anh ta không phải là cai tù chuyên
nghiệp như Hai Phận vĩ đại, cai tù nằm vùng như Tư Long anh hùng. Anh ta là
lính.
Người lính chiến, dưới bất cứ chế độ nào, dưới bất cứ mầu cờ nào, đều hào sảng
hơn công an, cảnh sát. Sự dễ dàng mở màn bằng cuộc tắm giặt “bao giờ xong thì tự
giác xếp hàng.” Ông Phạm Quang Khai lại được gội râu. Chúng tôi tắm giặt cạn mấy
hồ nước, nước chẩy vô không kịp. Mấy tháng tắm 8 phút không dám xát xà phòng,
nay được kỳ cọ, xát xà phòng, cảm giác hạnh phúc tràn trề. Trưởng khu Vũ ngồi
hút thuốc lá chờ chúng tôi tắm và dẫn chúng tôi về phòng. Chúng tôi phơi quần
áo ở hành lang trước phòng mình. Anh ta nói:
- Vì thiếu cán bộ mà lại đông phòng, chúng tôi không thể cho các anh tắm mỗi
ngày một lần. Vậy một tuần các anh tắm ba lần, mỗi lần nửa tiếng đồng hồ. Nước
dùng trong phòng sẽ tăng lên.
Chúng tôi được cấp thêm một cái phuy. Mấy ngày đầu, xuống hồ xách nước, tự do xối
nước. Rồi AH dùng máy bơm nước lên các lầu. Chúng tôi xách nước vào phòng đỡ vất
vả. Trưởng khu Vũ cho chứa nước vào các xô, các bình cá nhân, ngoài hai phuy đầy
tràn. Nước ê hề, nạn ăn cắp, sự gây gỗ chia nước chấm dứt. Trật tự khu AH hoàn
toàn mới và không đến nỗi cô hồn. Một hôm, có thằng trật tự FG sang AH, chúng
tôi xầm xì, lo ngại. Trưởng khu Vũ biết, anh ta trấn an ngay:
- AH là AH, FG là FG.Tất cả do cán bộ không do trật tự.
Nhưng Trưởng khu Vũ đuổi tên trật tự FG xuống lầu 2. Anh ta cho chúng tôi mượn
tông-đơ, kéo, lưỡi lam. Chúng tôi cắt tóc cho nhau. Và tôi biến thành thợ hớt
tóc “hạng nhất.” Những khách hàng đầu tiên bị tôi “thí nghiệm” đều có những mái
tóc đặc biệt. Tôi đã chơi kiểu tóc Jules César cho văn hào Nguyễn Mạnh Côn, kiểu
tóc Indonésie cho Đoàn Kế Tường, kiểu tóc Tintin cho Đằng Giao… Cuối cùng, tôi
chỉ còn cắt kéo tỉa dao. Và thân chủ của tôi là Ngụy Nghiên Trinh, Dương Đức
Dũng, Hoàng Mạnh Hùng. AH là thiên đường của Chí Hòa so với FG địa ngục là vậy.
Tôi không hiểu sự dễ dãi có nằm trong chính sách của Đảng? Có một chiều, sau
khi điểm danh, Trưởng khu Vũ ở lại xem chúng tôi sinh hoạt. Rồi anh ta hỏi:
- Anh nào là Nguyễn Mạnh Côn?
Anh Côn đứng dậy:
- Tôi đây.
- Anh ngồi yên đi, đừng đứng dậy. Anh nào là Đằng Giao?
- Tôi đây.
- Anh nào là Duyên Anh?
- Tôi đây.
- Anh nào là Đoàn Kế Tường?
- Tôi đây.
- Dương Đức Dũng?
- Tôi đây.
- Đặng Hải Sơn?
- Tôi đây.
- Mai Đức Khôi?
- Tôi đây.
- Các anh nhà văn, nhà báo, các anh có tội với Đảng chứ không có tội với ai hết.
Các anh lao động đầu óc, khác mấy anh tư sản mại bản. Tôi kính trọng các anh với
tư cách cá nhân. Tôi là bộ đội, đang là công an tạm thời, chờ chuyển ngành hoặc
giải ngũ. Tôi đã lấy vợ. Vợ tôi người Thủ Đức.
Chúng tôi “hội thảo bỏ túi” và đồng ý với nhau nên thận trọng với những dễ dãi
của AH. Trưởng khu Vũ thích nói chuyện vớí “các anh nhà văn nhà báo”. Anh ta mời
chúng tôi hút thuốc lá và không ngần ngại đến xin thuốc lá chúng tôi khi hết.
Trưởng khu Vũ dễ dãi với toàn khu AH. Đặc trách lầu 3 có cai ngục Thuận và
Phong cũng dễ dãi. Đằng Giao được gọi ra ngoài trang trí phòng họp và vẽ Nội
san Chí Hòa, tối tối đem về phòng một bình nước nóng hổi. Tôi có những đêm ngủ
ngon lành. Hạnh phúc tới về đêm. Hạnh phúc trong ca nước ấm pha muối ngâm
“cái sự thừa thãi” mà gây rắc rối ở tù. AH cho phép tù nhân ra hành lang phơi nắng
tuần lẽ hai lần và tự do nói chuyên với phòng lân cận. AH và FG, là hai thái cực.
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai thái cực. Cộng sản đầy rẫy mâu thuẫn.
Ở AH, chúng tôi đã nhìn rõ Ngô Khắc Tỉnh, Hồ Văn Châm vì hồ tắm của AH sát khu
BC. Chúng tôi còn thấy mấy người Đại Hàn trên phòng. Thời kỳ này, Nguyễn Đình
Toàn đã từ đề lao Gia Định qua Chí Hòa và “trụ trì” khu FG. Đứng ở hành lang AH
phơi nắng, tôi nhìn Nguyễn Đình Toàn gầy ốm tắm dưới hồ nước FG. DươngĐức Dũng
đã sống chung với Nguyễn Đình Toàn tại 5C-2 đề lao Gia Định và được tác giả Tro
than dạy truyền khẩu mấy ca khúc như Saigon, niềm nhớ không tên, Lưu
đầy giữa quê nhà… Cũng vào thời kỳ này, tướng cướp lừng danh Điền Khắc Kim đã bị
đem ra nhốt ở Thanh Hóa, bị dẫn về khu AH. Cả khu xôn xao vì súng lên đạn dẫn độ
Điền Khắc Kim lên cachot. Sinh hoạt của chúng tôi lại đều đặn, bình thường, buồn
bã. Nhiều người đã quên FG bốn ngày cúp nước hãi hùng. Tất cả đã quên bài giảng
của cai ngục Quỳnh; “Chiến đấu từ đau khổ, cố mà học nếu muốn chống cộng sản.”
Chúng ta có một đức tính khả ái. Là dễ quên đau khổ. Ngay ở trong tù. Một chút
sướng nhỏ đã đủ quên khổ lớn. Và hễ được vuốt ve là quên tranh đấu. Người cộng
sản ưa xử dụng hai danh từ bản chất và hiện tượng. Tôi cho rằng
trưởng khu Vũ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Bởi vì,
khi con người vụt thức tìm lại cái bản chất đích thực của nó, chủ nghĩa cộng sản
sẽ nghiêm chỉnh phê bình nó mang hiện tượng xấu. Cái tốt đối với chúng ta là
cái xấu đối với cộng sản. Nói rõ ràng hơn, cái thiện của con người, cộng sản gọi
là hiện tượng. Cái ác của cộng sản, họ gọi là bản chất. Hiện tượng và bản chất
lại còn được xử dụng lung tung. Đảng sai, Đảng đổ vạ cho cán bộ và bảo đó là hiện
tượng. Đảng đúng, Đảng bảo đó là bản chất. Bản chất của Đảng, thực ra, chỉ là
gian ác và gian ác. Vậy nên chấp nhận hiện tượng của Trưởng khu Vũ, thứ hiện tượng
dễ chịu và đối nghịch bản chất Tư Long, bản chất Đảng.
Dần dà, chúng tôi nhận ra Trưởng khu Vũ không “đóng kịch.” Anh ta còn nhiều
tính người. Anh ta còn là con người. Đừng hòng một chúa ngục tặng tù nhân thuốc
lá và tỉnh bơ xin thuốc lá tù nhân. Tôi suy nghĩ mãi về sự gần gũi của con người
và sự tìm đến nhau của con người. Và đó là cảm hứng Thơ tù của tôi,
cũng là oan khiên của đời tôi. Một hôm, cai ngục Thuận gọi Nguyễn Mạnh Côn,
Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng và tôi ra “làm việc.” Ở bàn giấy đầu hành lang đã
pha sẵn bình trà và những cái ly nhựa. Trưởng khu Vũ chờ chúng tôi. Anh ta rót
trà:
- Làm việc gì đâu. Lấy cớ mời các anh ra uống trà chơi. Các anh chịu khó đứng
nhé!
Xong tuần trà, anh ta nói:
- Các anh không ở đây lâu đâu. Tôi cũng không ở đây lâu đâu. Tôi không thích
công tác quản giáo tù nhân. Tôi ít tuổi hơn các anh, xin các anh một điều: Đừng
chống đối cán bộ quản giáo, bất cứ nơi nào. Họ không có quyền bắt các anh,
không có quyền tha các anh nhưng có quyền hành hạ các anh, đầy đọa các anh vào
chỗ chết thảm.
Thật khó hiểu Trưởng khu Vũ. Tác giả Cộng sản là gì? Nguyễn Mạnh Côn
về phòng bình luận: “Thằng đó không phải là cộng sản.” Tôi bỗng nhớ câu thơ bất
hủ của Hoàng Cầm: Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam. Trưởng khu Vũ cư xử tốt
với mọi tù nhân, anh ta nặng cảm tình với nhà văn, nhà báo 1. Nhờ một tên trật tự hiền lành làm môi giới,
chúng tôi “mua” cai ngục Thuận bằng quần tây, áo sơ-mi mang vào tù mà khó mặc về
nhà. Cai ngục Thuận thèm ăn diện, mặc cả tiền luôn. Thế là, chúng tôi lần lượt
gặp mặt vợ con. Chuyện này, trưởng khu Vũ không hề biết- Mà chúng tôi không ngu
kể cho anh ta nghe.
Đầu tháng 8, Phạm Văn Diện đi lao động cải tạo. Nguyễn Sơn La và Nguyễn Kiến
Thiết phòng cạnh, đổi sang phòng chúng tôi. Nguyễn Sơn La, đại úy quân đội nhân
dân, dân Quỳnh Côi, Thái Bình, giải phóng miền Nam xong thì được chuyển sang
ngành thương nghiệp, can tội mất phẩm chất cách mạng, vào tù. Anh ta làm Trưởng
phòng. Nguyễn Sơn La vui nhộn, thật thà và không ngại ngần khoe sơ yếu lý lịch…
bần cố nông. Anh ta bảo vì thèm ăn ngon, mặc đẹp mà xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa.
- Bố tôi đặt tên tôi là Sơn La vì tiên đoán sẽ mất tỉnh Sơn La.
Anh ta nói oang oang. Đã hai lần ra tòa, lần nào cũng đeo quân hàm và huân
chương đầy ngực. Nguyễn Kiến Thiết, thiếu úy quân đội nhân dân, đệ tử của Nguyễn
Sơn La, chung một tội thụ hưởng khẩn trương, quên Bác quên Đảng. Anh ta làm trật
tự phòng. Cả hai phản động hơn phản động. Trưởng khu Vũ phá lệ Chí Hòa, không
phát giấy làm biên bản họp cuối tuần, Nguyễn Sơn La dẹp bỏ họp cuối tuần luỏn.
Sau hết, điểm danh buổi sáng cũng lơ là. Tháng 8 năm 1978, thằng con trai đầu
lòng của tôi trốn khỏi Việt Nam. Tôi nhận thư nhà bảo tin: “Cu Tí về Long
Xuyên, nhưng còn rong chơi dọc đường.” Tôi lo lắng vô cùng. Chỉ sợ Cu Tí bị bắt,
bố tù, con tù thì rắc rối to. Hầu như, từ hôm con tôi xuống thuyền, ngày nào
tôi cũng có thư. Đến hôm, thư nhà báo tin: “Cu Tí ghé cù lao ông Chưởng rồi mới
về ở với cậu Tư.” Tôi thở phào sung sướng. Con tôi đã tới hòn đảo nào đó. Nghĩa
là tôi không sợ nó vào nhà tù cộng sản. 19 tuổi, tôi làm cuộc phiêu lưu Hà Nội
– Saigon, tưởng đã dài. 16 tuổi, Chương còm phiêu lưu vĩ đại hơn tôi, gian khổ
hơn tôi. Con tôi đã vượt biển thành công, tôi nuôi hy vọng mới: Vợ tôi sẽ đưa một
hai đứa con tôi ra đi thành công. Còn tôi, tôi bình thản sống đời tù, “sống bằng
không mà chết cũng bằng không.” Tôi đã sống một thuở bơ vơ và sẽ sống tiếp thuở
bơ vơ còn lại.
Ở AH, Bùi Kim Bảng và Ngụy Nghiên Trinh nhận lệnh tha. Bùi Kim Bảng, nhân vật
thần sầu, kịch sĩ lên “sân khấu” đúng giờ giấc, cũng để lại một kỷ niệm… tư sản
mại bản. Ông ta nằm cạnh tên tù hình sự Lê Anh Kiệt. Biết chắc mình được về,
ông ta nhờ cai ngục đem lại tặng Lê Anh Kiệt cái bị cói có hai món đồ. Lê Anh
Kiệt hí hửng dở ra. Một: Gói thuốc lá Saigon giải phóng đầu lọc còn đầy
nhưng đã mốc thếch. Hai: Gói tôm khô đã mọc rêu xanh. Tên tù hình sự đành liệng
vô thùng rác. Ông Bùi Kim Bảng không hút thuốc lá. Dịp Tết, gia đình ông gửi
cho ông một gói mừng xuân, ông mời tôi một điếu, hút một điếu rồi để dành chờ
được tha mới… tặng đệ tử. Ông Bảng về xum họp gia đình, cả phòng mừng rỡ. Chúng
tôi có thể yên lòng ăn cơm trưa, ông Bảng về, ông Phạm Quang Khai mất trộm. Mấy
thằng hình sự cấu kết “đi chợ” gần hết “kho” thực phẩm của ông. Ông la lối rùm
beng, kê khai hàng chục thứ. Trưởng phòng Nguyễn Sơn La yêu cầu anh em cho ông
Khai khám hành lý. ông thu hồi ít bánh, ít mì, sữa bột, đường, thịt chà bông của
ông, chúng nó đã ăn bằng hết hồi đêm. Nguyễn Sơn La không báo cáo Trưởng khu và
cai ngục. Ông Phạm Quang Khai mất trộm, ông "ướp muối” Nguyễn Công Kha giật
mình, Ồng Kha nuôi thằng bộ đội đào ngũ tên Việt, ông gửi nó giữ hộ mấy kí-lô
thịt chà bông. Nó treo gần cầu tiêu. Mỗi ngày, đi cầu, ông Kha đều kiểm soát.
Ông phấn khởi vì cái bị cói lúc nào cũng nặng. Thấy bạn mất bò, ông lo, ông gở
bị xuống, định đem về chỗ mình. Than ôi, chỉ có mấy cục gạch!
- Sao thế này, Việt?
- Cháu không biết.
- Tao nuôi ong tay áo à?
- Ai bảo ông nuôi ong?
Nhà tư sản giận tím mặt. Vô sản nhà tù đã vùng lên và đã thắng lợi tư sản mại bản.
“Bạn tù, tình nhà thổ.” Một tên tù cảm khái nói. Ăn no nê thịt chà bông của ông
Khai, và ông Kha xong, đám hình sự lên đường đi lao cải. Hai nhà tư sản tiếc rẻ.
Giá chúng nó đi sớm vài ngày!
Phòng chúng tôi tiếp nhận một số tù nhân vượt biên và hai ông già Tàu, can tội
đăng ký hồi hương Trung quốc. Một ông tên Dương Hải Làn, ông kia Hoàng Mậu
Thìn. Ông Dương đỏ da, thắm thịt, khuôn mặt giống hệt Lê Nin. Ông Hoàng nhỏ
thó, thấp bé. Hai ông nằm cạnh nhau, thân thiết nhau vô cùng. Tháng 9-1978, Chí
Hòa có dịch… kiết lỵ. Tôi quên chưa kể, giữa tháng 7, tù nhân không còn được ăn
bột luộc nữa. Mà ăn bo bo. Bo bo nhai mỏi răng, nuốt mỏi cổ. Thoạt mới ăn, bo
bo nấu như nấu cơm, thấy là lạ. Bo bo tiêu hóa thật nhanh. Ăn chừng nửa tiếng đồng
hồ sau là lên “sân khấu” ào ào. Rồi đói. Mới hay, bo bo chẳng béo bổ gì. Nhiều
tù nhân ăn bo bo bị bệnh tiêu chảy. Tiêu chẩy biến sang kiết lỵ. Tưởng tượng một
phòng giam có mười tù nhân kiết lỵ thường xuyên trên “sân khấu.” Tanh tưởi đến
buồn mửa. Y tế ở Chí Hòa tồi tệ lắm, kém xa đề lao Gia Định. Thiếu thuốc riêng
là khốn khổ khi bênh hoạn. Sợ kiết lỵ truyền nhiễm cả phòng, Trưởng khu Vũ dành
riêng một phòng nhốt những tù nhân mắc bệnh. Đó chỉ là sáng kiến riêng của Trưởng
khu Vũ, không phải chính sách y tế của các nhà tù xã hội chủ nghĩa.
Dịch… kiết lỵ coi như không đe dọa phòng của chúng tôi nữa. Thì bất đồ ông
Dương Hải Làn ngã bệnh. Ông sốt có hai hôm mà hốc hác rõ rệt, da giẻ tái lại.
Bác sĩ khu AH, một bà Nam bộ tập kết, đến khám bệnh cho ông Dương Hải Làn cười
mỉa ông giả vờ ốm. Và không cho uống thuốc. Bác sĩ tù có nhiều vị vĩ đại hơn
Bác Hồ. Tỷ dụ, bác sĩ Lý Sen. Nhà tư sản mại bản Chợ Lớn này thừa liêm sỉ đeo ống
nghe rà tim phổi bệnh nhân tù. Hãy nghe những lời khuyến cáo của bác sĩ Lý Sen ở
đề lao Gia Định:
- Gội đầu nhớ khom lưng mà xối nước. Đứng thẳng xối nước, con vi trùng gàu nó
bám vào dái, nó kết tụ ở đấy là sinh ghẻ!
Tôi không hiểu ông Dương Hải Làn bệnh gì và biến chứng của nó, cũng không hiểu
bệnh khởi sự từ lúc nào, nhưng cười mỉa ông ta ốm giả vờ thì bà bác sĩ Việt cộng
(bác sĩ đàng hoàng) này bất hủ. Sang ngày thứ tư, ông Dương Hải Làn hôn mê, cứ
ôm chặt ông Hoàng Mậu Thìn mà rên ư ử. Ông ta bỏ ăn uống, tiểu tiện ra chỗ nằm.
Trưởng phòng Nguyễn Sơn La báo cáo. Bác sĩ Quang của đề lao Gia Định khám bệnh.
Ông Dương Hải Làn được khiêng ra khỏi phòng. Và ông chết trên đường đến bệnh viện
Chợ Rẫy. Chúng tôi được uống mỗi ngày bốn viên thuốc và cấm phòng đúng một tuần.
Nghĩa là không được ra ngoài tắm và phơi nắng. Ông Dương Hải Làn chết vì bệnh
đau màng óc. Ông ta chết rồi, nhà tù mới cho phòng tôi uống thuốc ngừa đau màng
óc và lập “hàng rào” y tế. May sao, chúng tôi không có ai… chết theo ông Dương
Hải Làn.
Sau khi lệnh cô lập phòng tôi bãi bỏ, Trưởng khu Vũ gọi tôi ra “làm việc.” Anh
ta mời tôi uống trà Thái Nguyên, hút thuốc lá Sông Cầu.
- Hôm qua có mấy người ngoại quốc thăm Chí Hòa.
- Phái đoàn nào đó, cán bộ?
- Ân xá quốc tế!
- Họ đến làm gì?
- Thăm anh.
- Thăm tôi?
- Lãnh đạo chỉ cho họ gặp anh Cao Dao và khước từ không cho gặp anh. Anh có khả
năng được tha sớm đấỵ.
Trưởng khu Vũ gọi tôi ra báo tin thế. Tôi biết vậy, ngậm miệng chẳng nói với
ai. Tự đấy sự tuyệt vọng của tôi vừa le lói một ánh lửa hy vọng. Chắc chắn,
Amnesty International đã can thiệp cho một số nhà văn, nhà báo mà tôi may mắn lọt
vào danh sách ấy. Tôi biết tôi không thể bị thủ tiêu, bây giờ can đảm hơn mà chịu
đựng chờ ngày về đời. Tôi cảm giác mạnh khỏe, bền bỉ. Tôi đã mơ hồ thấy niềm bí
ẩn của đời sống. Hôm qua không giống hôm nay và ngày mai khác hẵn ngày mai kế
tiếp. Bỗng nhiên, tôi trở thành người trầm lặng nhất trong phòng. Tôi không khó
chịu chuyện “’tổng thống” Bùi Ngọc Phương “tuyển lựa” nhân viên cho Phủ tổng thống
ở nhà tù nữa, dù ông ta vẫn tiếp tục ngớ ngẩn. Nếu có người lạc quan coi Bộ
chính trị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam là con nít, người ấv chỉ là “tổng
thống cầu cơ” Bùi Ngọc Phương. Ông ta bảo ông ta chơi thân với ông đại sứ Mỹ
bên Thái Lan và ông yêu cầu Trưởng khu cho ông giấy ông viết thư nhờ bạn ông
giàn xểp với Đặng Tiểu Bình đừng lộn xộn chuyện Việt Nam! Trưởng khu Vũ đùa bỡn:
- Anh có biết thư anh sẽ đến đâu không?
- Biết chứ.
- Đến đâu?
- Thái Lan.
- Đến cát-sô. Anh là tổng thống cát-sô. Thế mà cũng có người theo anh chống cộng sản!
Phó thủ tướng Đỗ Văn Lựu rầu rĩ tổng thống đến thối ruột. Tổng thống y hệt Lão Ngoan Đồng, chấp nhận cuộc phỏng vấn tranh cử của ký giả Dương Đức Dũng một cách thành khẩn. Và ngồi bói bài đoán vận nước! Nhưng mà tổng thống và phó tổng thống đã ra đi. Buổi chiều hôm ấy, cai ngục Thuận đến gọi:
- Anh Bùi Ngọc Phương.
- Có.
- Anh Đỗ Văn Lựu.
- Có.
- Hai anh chuẩn bị hành trang khẩn trương.
Cai ngục Thuận khuất bỏng. Tổng thống không thèm thu xếp hành lý tù. Người đứng giữa phòng, vỗ tay ba tiếng:
- Anh em thân mến!
Tổng thống ứng khẩu bài diễn văn hứa hẹn nẩy lửa:
- Giờ phút quan trọng của lịch sử đã điểm…
Mới đến đây thì cai ngục Thuận xuất hiện đột xuất. Tổng thống đang hùng dũng, trầm giọng:
- Những ngày sống với anh em, nếu tôi có gì sơ sót, anh em bỏ qua đi nhé! Cám ơn…
Và tổng thổng vội vàng gom đồ tù ra đi. Tổng thống ra đi, phòng giam buồn hẳn.
Những bạn tù đề lao Gia Định của tôi lần lượt ra đi. Tôi sẽ nhớ suốt đời tán đường
của cụ Đỗ Văn Lựu. Hôm đó, chúng tôi hết đường ăn bột luộc. Thấy tôi gặm bột
suông, cụ Lựu đem cho một tán. Đằng Giao bẻ tư, chia phần cho Tường, Dũng và
tôi. Cắn nhìn từng chút đường đã thấy ngọt lịm họng. Hạnh phúc nó vẫn đơn sơ và
đến đúng lúc người ta cần định nghĩa nó. Từ khi tôi còn viết nhật báo Sống,
tôi đã không ưa Đằng Giao. Anh ta cũng chẳng ưa gì tôi. Vào tù, chúng tôi trở
thành thân thiết gần như sống chết có nhau. Vì chúng tôi đã hiểu nhau, thương
nhau. Đằng Giao làm cho tôi tất cả những gì anh ta có thể làm ở khu AH Chí Hòa,
kể luôn việc, trước khi về phòng, nhóm bếp, nấu nước sôi, đổ bình xách về để
tôi ngâm ghẻ và pha bột Bích Chi, pha mì. Anh ta không mày tao, không ông tôi với
tôi nữa. Mà gọi tôi là “ông thầy.”
- Được ra, ông thầy dọt không?
- Dọt chứ.
- Ông thầy vẫn viết à?
- Chứ biết làm nghề mẹ gì?
- Tư tưởng của ông thầy tôi sợ lại làm ông thầy khốn đốn. Tôi, xưa ghét ông thầy
cay đắng, sống chung với ông thầy mới thấy chúng nó xét đoán sai lầm. Khó ai chứa
nổi tâm hồn ông thầy.
- Có ông, thừa rồi.
Đằng Giao vào nghề báo rất ly kỳ. Anh ta tên thật là Trần Duy Cát, bạn thân của
Đỗ Tiến Đức, cùng nhóm anh em di cư Nhà Hát Tây. Đỗ Tiến Đức, thuở mới viết
lách ký bút hiệu Đằng Giao. Cậu Cát thất nghiệp dài, nhờ Đức xúi vào làm nhân
viên dân sự Nha Chiến Tranh Tâm Lý, mỗi kỳ Chiến sĩ cộng hòa viết một
bài do Đỗ Tiến Đức cung cấp, ký Đằng Giao. Cậu Cát, lúc rảnh rỗi, ngồi vẽ vớ vần
giết thì giờ. Thư ký tòa soạn Chiến sĩ cộng hòa thấy cậu vẽ đẹp bèn
sai cậu vẽ thay vì viết. Cậu Cát mừng húm. Cậu vẫn ký Đằng Giao. Bạn vàng Đỗ Tiến
Đức tặng cậu bút hiệu đó luôn. Rồi Đằng Giao trở thành người trình bày tuần
báo, tạp chí đẹp nhất Sàigòn, nhà “cách mạng” lối trình bày nhật báo không phi
lê dọc. Dĩ nhiên, cậu bắt chước báo Tây. Sự lủng củng giữa Trọng Tấn và Hoàng
Anh Tuấn đã biến Đằng Giao thành thư ký tòa soạn nhật báo Thân Dân, Tranh
Đấu và Sống. Đằng Giao là một hiện tượng thư ký tòa soạn, một thư ký
tòa soạn không biết viết bài, dù chỉ viết một cái tin.
- Ông thầy, ông thành thật nghĩ gì về người cộng sản?
- Nói theo kiểu Nhậm Ngã Hành nhé.
- Ừ.
- Tôi khen nó giỏi và tôi khinh nó hèn.
- Nó giỏi?
- Nó đã chiến thắng, nó đã bỏ tù chúng ta.
- Nó hèn ?
- Nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp như cầu thủ bóng đá nhà nghề, cấm viết như
treo giò vĩnh viễn. Là đủ thỏa mãn thù hận rồi. Bắt nhốt chúng ta, hành hạ
chúng ta mà chi.
- Ông thầy đúng.
- Đúng chứ. Như ông, tội tình chi mà chúng nó hầm lâu vậy? Chúng nó nhúm cả vợ
ông, cả đứa con sơ sinh của ông vào tù. Cộng sản bần tiện, không tuyết hận nổi
Chu Tử, chúng nó om ông.
Đằng Giao im lặng. Người họa sĩ này chỉ cằm cọ và chưa hề vẽ bức tranh chống Cộng
nào. Biệt kích văn nghệ Dương Nghiễm Mậu, cộng sản tha sớm. Biệt kích văn nghệ
Nhã Ca, cộng sản tha sớm. Có 9 tháng tù. Biệt kích văn nghệ Doãn Quốc Sĩ, 4
năm. Biệt kích văn nghệ Duyên Anh, 5 năm 5 tháng. Đằng Giao lâu hơn 2.
- Cộng sản còn ngu nữa.
- Ngu sao, ông thầy?
- Nó mang trọng tội với dân tộc, với tổ quốc. Nó đã làm hỏng cái cơ may nghìn
năm một thuở mà nhân loại thèm muốn.
- Là sao?
- Là cơ may văn minh, văn hóa, khoa học, kỹ thuật Đông Tây tổng hợp trên quê
hương Việt Nam. Đem những tinh hoa nó học ở Liên Xô, ở Đông Âu về, hòa với tinh
hoa ta học ở Mỹ, ở Đức, ở Pháp, ở Nhật về sẽ thành cái của Việt Nam. Hai mươi
năm Mỹ đào tạo cho miền Nam bao nhiêu chuyên viên, chưa kịp xử dụng, nó bỏ tù
và bỏ… chợ trời. Đến nỗi, người ta phải chuồn khỏi xứ sở. Nó không ngu thì nó
kiêu ngạo ngu xuẩn. Nó sẽ tiếc hộc máu mồm. Muộn rồi. Cái truyền thống trả thù
vặt của dân tộc mình cứ thế tiếp nối, không ngóc đầu lên nổi. Triều đại nọ phá
hủy mọi công trình của triều đại kia. Người nào hay hơn ta là y rằng ta không
phục, không tranh đua mà chỉ tìm cách bôi bẩn.
- Thôi, ông thầy ạ! Tôi mong ông thầy ở lại với tôi khi được tha. Ông thày chả
nên đi.
- Hiểu rồi, ông ơi! Tôi biết đi cũng dở, ở không xong. Số tôi nó vậy, trót vậy.
- Tôi không đi. Tôi thề tôi không đi.
Đó là lần Đằng Giao nói chuyện với tôi lâu nhất, từ dạo chúng tôi sống chung ở
Chí Hòa. Tôi mơ hồ thấy tôi sắp chuyển trại. Tháng 9, ăn cơm với thịt heo mừng
“ngày lễ lớn” xong, Chí Hòa đi lao động cải tạo sôi nổi. Liên tiếp một tháng,
đêm nào cũng ồn ào tiễn đưa, dặn dò. Tù hình sự nói văng mạng. Chẳng ai thèm kiểm
soát ngôn ngữ, tư tưởng lúc chuyển trại đêm khuya. Các anh trên lầu của các khu
tha hồ nhận bừa các em dưới ô là người tình. Anh chị đối thoại nẩy lửa. Đoàn Kế
Tường đã thức, đứng sát tường, ngó qua song sắt quan sát. Tường mơ ước dựng một
bộ tiểu thuyết về nhà tù. Tôi thì lại mơ ước dựng một tiểu thuyết với nhan đề Ở
một nơi không có nhà tù. Cuối cùng, tôi mơ ước viết truyện thần thoại. Nhưng mọi
ước mơ sẽ chỉ nhằm mục đích trả lời cộng sản: “Thế giới đâu đã đọc sách của các
anh.” Ước mơ đó, tưởng đã tàn lụi ở những ngày cuối đề lao Gia Định và ở những
ngày đầu Chí Hòa, bây giờ lại hừng hực trong tâm hồn tôi. Có lẽ, tôi là tù nhân
may mắn đã nhập tâm bài học đáng giá của cai ngục cộng sản: “Chiến đấu từ đau
khổ, cố mà học nếu muốn chiến đấu chống cộng sản.” Tối cố học, tôi chăm học. Rốt
cuộc, sự thống khổ đã trở thành không tưởng với những ai xa lạ nó. Giữa những
người đó và tôi đã có một cuộc ly dị buồn bã. Và tôi là con gọng vó bơi ngược
giòng. Bao nhiêu con gọng vó bơi ngược giòng trong thờỉ đại khốn kiếp của tôi.
Tôi đã chê cộng sản ngu, đại ngu, chí ngu là làm mất cơ may nghìn năm một thuở.
Hỏi một câu ngớ ngẩn chơi. Nếu Quốc Gia Bắc tiến chiếm Hà Nội, thì sự việc sẽ xảy
ra như thế nào? Tôi e rằng cũng giống cộng sản chiếm Saigon, sợ còn tệ hơn. Bởi
vì, cái truyền thống trả thù vặt của dân tộc ta nó án ngữ tầm nhìn xa của sự nghiệp
kiến quốc. Cho nên, người Việt Nam cứu nước rất giỏi mà giữ nước thì rất dở,
làm cho dân giầu nước mạnh càng quá dở. Vấn đề đặt ra cho những người muốn làm
lại quê hương Việt Nam. Thù hận dân tộc đã không giải quyết được gì, sẽ không
giải quyết được gì. Phải truy nã thân phận mình, phải ra công tìm lại bằng được
nhân sinh quan Việt Nam nguyên thủy thì mới hy vọng có ngày mai đại phúc của giống
nòi. Điều này, tôi muốn nói với cả người cộng sản lẫn người quốc gia. Tư tưởng
chiến đấu của tôi thể hiện rõ rệt trong hai tác phẩm Sỏi đá ngậm ngùi và Một
người Nga ở Saigon. Tôi là người Việt Nam. Tôi không chống đối dân tộc và tổ quốc
tôi. Nhưng tôi chống đối bất cứ một chủ nghĩa, một chế độ nào không đem lại hạnh
phúc cho dân tộc tôi, tước đoạt phẩm cách làm người, chà đạp tự do, dân chủ, tạo
dựng thù hận, hình phạt, tù ngục, chiến tranh… Những chủ nghĩa, chế độ ấy mang
bất cứ một nhãn hiệu nào, tư bản hay vô sản, cộng sản hay quốc gia, tôi đều chống
đối. Và ngay cả một chế độ nào đạt nổi lý tưởng thanh bình, hạnh phúc, yêu
thương, đoàn tụ cho dân tộc, nhà văn không được phép quên lãng bổn phận phản
kháng. Để hạnh phúc thăng hoa. Thiên đường nối tiếp những thiên đường. Chúng ta
đang sống trong bối cảnh lịch sử mà nhân loại và dân tộc cần thiết những tiếng
thét phẫn nộ của tư tưởng đối nghịch mọi tư tưởng phi nhân. Nhưng, hình như, những
tiếng thét đó chỉ đem lại bất hạnh cho nhà văn phản kháng. Y luôn luôn bị khu
trừ ở những nơi y ngậm thống khổ nhả từng sợi giây máu thức tỉnh thù hận. Thù hận
trút xuống y không thương xót.
Cho nên, tôi thường nuối tiếc ước mơ tôi đã mơ ước trong nhà tù. Giá tôi không
được thả về, giá tôi không đánh đu với số phận vượt biên ra ngoại quốc, tôi,
mãi mãi, hình tưởng bên ngoài như mơ ước trong tù của tôi. Tôi sẽ mang mơ ước
xuống huyệt mộ. Cầu mơ của tôi, tiểu thuyết của tôi, tôi đã không cho
nhân vật của tôi đến cầu mơ. Mà tôi, tôi ngu dại đếncầu mơ. Có gì bên kia
dốc mơ? Bạn có thể trả lời giùm tôi. Và rồi, cho phép tôi trở lại Chí Hòa.
--------------------------------
Đầu
năm 1982, tôi gặp cai ngục Thuận. Anh ta bị sa thải khỏi ngành công an, lấy
cô vợ miền Nam làm nghề uốn tóc. Trưởng khu Vũ cũng bị sa thải. Cai ngục
Phong mê một em tù, giúp em này trốn trại. Anh chị rủ nhau vượt biên, bị bắt
và nằm tù chưa ra. Thuận kể vậy: Anh ta xin tôi 100 bạc.
|
|
Đằng
Giao về sau tôi 9 tháng.
|
CHƯƠNG
26: CHƯƠNG CUỐI CÙNG
Nhà tù của tôi
rất nhiều tiếng gọi không thể vọng ra bên ngoài
Những tiếng gọi bỡn đùa sự hoang vắng
những tiếng gọi chọc cười niềm trắc ẩn
mà tôi nghe ròng rã nghìn đêm
mà tôi nghe tưởng đã khùng điên
bởi mỗi lần một tù nhân vĩnh biệt
Báo cáo cán bộ: Cachot có người chết
Thế giới vẫn phóng lên sáng rực tín hiệu nhân quyền
Và nhà tù của tôi vẫn bóng tối triền miên
ở biệt giam hàng chục kiểu còng ngồi còng đứng
còng chéo hai tay còng chung một cụm
còng rướn ngón chân còng dộng ngược đầu
còng khoan dung một lối chết thật lâu
để thấm thía lòng yêu tự do dân chủ
Báo cáo cán bộ: Cachot có người tự tử
Nhân loại thường cảm thông nỗi khổ rất mùa màng
và phải rất thời trang
nên cụ thể dễ biến thành trừu tượng
Nỗi khổ khác hẳn niềm sung sướng
nó cần quên ngay
nó không được phép rên xiết dài dài
Một đêm mưa lạnh
tôi nghe tiếng trẻ thơ kêu kinh hoàng trong hiu quạnh
Bố ơi bố ơi Mẹ chết rồi
Anh khó hiểu nổi nhà tù của tôi
Người cha bị lưu đầy ra hải đảo
Người mẹ mang bầu dắt con theo cải tạo
rất nhiều tiếng gọi không thể vọng ra bên ngoài
Những tiếng gọi bỡn đùa sự hoang vắng
những tiếng gọi chọc cười niềm trắc ẩn
mà tôi nghe ròng rã nghìn đêm
mà tôi nghe tưởng đã khùng điên
bởi mỗi lần một tù nhân vĩnh biệt
Báo cáo cán bộ: Cachot có người chết
Thế giới vẫn phóng lên sáng rực tín hiệu nhân quyền
Và nhà tù của tôi vẫn bóng tối triền miên
ở biệt giam hàng chục kiểu còng ngồi còng đứng
còng chéo hai tay còng chung một cụm
còng rướn ngón chân còng dộng ngược đầu
còng khoan dung một lối chết thật lâu
để thấm thía lòng yêu tự do dân chủ
Báo cáo cán bộ: Cachot có người tự tử
Nhân loại thường cảm thông nỗi khổ rất mùa màng
và phải rất thời trang
nên cụ thể dễ biến thành trừu tượng
Nỗi khổ khác hẳn niềm sung sướng
nó cần quên ngay
nó không được phép rên xiết dài dài
Một đêm mưa lạnh
tôi nghe tiếng trẻ thơ kêu kinh hoàng trong hiu quạnh
Bố ơi bố ơi Mẹ chết rồi
Anh khó hiểu nổi nhà tù của tôi
Người cha bị lưu đầy ra hải đảo
Người mẹ mang bầu dắt con theo cải tạo
Bài thơ
nhan đề Tiếng gọi không thể vọng ra ngoài tôi làm ở khu AH Chí Hòa.
Bài này và 15 bài khác không có trong tậpThơ Tù 1) nhưng tôi đã cho dịch sang Pháp văn trọn vẹn
30 bài thơ tù của tôi, 30 bài thơ tôi đã đọc ỏ Centre Pompidou, Paris; Theatre
Action, Grenoble; Salle des fêtes, Paris 7è. 2
Đề lao Gia Định và Chí Hòa gây cho tôi nhiều cảm hứng thơ. Phải đợi qua AH,
"đời sống" thoải mái, tôi mới sáng tác. Ở bài Chút tâm sự của
người làm thơ trong tù, trên đầu tập Thơ Tù, tôi đã viết rõ, tưởng chẳng cần
diễn tả thêm. AH mỗi ngày mỗi vơi bạn tù tốt nên phải dùng thơ lấp vào. Ông Tư
Nhì đã được tha. Anh Võ Xuân Đình, anh Mai Đức Khôi đã đi lao cải. Ở nhà tù, mỗi
lần chia tay kể như mỗi lần vĩnh quyết. Tôi nghĩ nên ghi cái cảm xúc ấv vào
thơ. Ít ra, nó cũng bớt ẩn ức vô tích sự. Thế thì, tôi đã làm khá nhiều thơ, ở
Chí Hòa. Khác với Đoàn Kế Tường, buồn quả hóa khùng, khùng quá cứ nhè ông Phạm
Quang Khai mà sinh sự. Mấy ông tư sản mại bản Việt Nam có thú vui khó ngửi. Là
thường xuyên khoe khoang sự phú quý đã trở thành "vang bóng một thời."
Lại khoe oang oang:
- Thằng út nhà tôi sang năm tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Con cháu gái lớn, tiến sĩ
kinh tế rồi.
- Các cháu tôi cũng tiến sĩ, kỹ sư hết.
Đoàn Kế Tường xía vào:
- Chưa hay đâu. Con cu ly bến tầu, con điếm, con ma-cô tốt nghiệp tiến sĩ, kỹ
sư mới bảnh. Còn con cái bọn làm giầu bằng chiến tranh, muốn bảnh và xứng đáng
khoe khoang phải đậu bằng cấp ma-cô, đĩ điếm, trộm cắp!
Các nhà tư sản mại bản nín thinh. Vì đúng quá. Lần khác, một nhà tư sản mại bản
cao hứng kể thành tích đóng góp cho công cuộc chống cộng:
- Tôi đã tặng thương phế binh 200 xe lăn, mỗi Tết đều lì xì cảnh sát quốc gia
vài triệu.
Đoàn Kế Tường nổi giận:
- Ông hút máu họ 2 lít, ông chích cho họ một ống sérum. Mà ông xuất tiền túi
bao giờ? Ông bị phạt thuế, xin xỏ tiền phạt mua xe lăn tặng lính què. Của sở
thuế, phúc ông. Ông lưu manh số một.
Nhà tư sản mại bản lại nín thinh. Cứ vậy, tối ngày, Chí Hòa công kích lẫn nhau
khiến hồn thơ của tôi bay lên cachot. Tôi bắt đầu thèm động. Cái động lao
cải ở trại tập trung. Con người bị giam hãm một nơi chật chội quá lâu đâm ra bẩn
tính, hẹp hòi, cố chấp. Riết rồi, chỉ thấy ở nhau những điều xấu xa mà quên ở
nhau những điều tốt đẹp. Và rồi, khi thoát đời tù vẫn quên những điều tốt đẹp
mà chỉ nhớ những điều xấu xa nẩy sinh ở nơi tù túng, nơi con người bị xếp dưới
hàng con vật. Tôi nghĩ, sống mãi với cái tĩnh, cái tĩnh ao tù của
Sở Công An, của đề lao Gia Định, của Chí Hòa, da đã mỏng, thịt đã bủng mà hồn
càng mỏng, càng bủng. Như bốn ngày bị Tư Long cúp nước, mọi người gần gũi nhau,
thông cảm nhau. Như những ngày thoải mái AH, mọi người xa rời nhau, khó chịu
nhau cả túi thăm nuôi lớn và túi thăm nuôi bé. Buồn, nản nhất là chỉ tù nhân Việt
Nam gấu ó tù nhân Việt Nam. Tù nhân Ba Tầu không gấu ó nhau, không quan tâm đến
sinh hoạt của tù nhân Việt Nam. Tôi thèm cái động của lao cải. Để
xem, ngoài trời, con người tù có cao cả hơn, đại lượng hơn.
Phòng của chúng tôi lại thu nhận những người bệnh kiết lỵ bị cách ly trả về. Vi
trùng Amibe khinh thường "thuốc dân tộc" của chế độ cộng sản. Bệnh kiết
lỵ khó tiêu diệt ở nhà tù. Tôi thấy một điều thật mâu thuẫn. Những người mắc bệnh
tiêu chẩy "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" lên kiết lỵ đều thuộc…
giai cấp "con bà phước," giai cấp vô sản chính thống trong nhà tù.
Giai cấp tư sản ăn thịt bò bíp-tếch "ướp muối" cả tuần, ăn gà rô-ti
thiu "ướp muối" cả tháng, đâu có bị tiêu chẩy, kiết lỵ. Tôi đã ăn,
ròng rã mấy năm, thịt kho ướp tầu vị ỵểu trong keo nhựa đến nỗi thịt chua lè.
Mà vẫn không hề bị tiêu chẩy, kiết lỵ. Nhưng "con bà phước" ăn cơm,
ăn bột luộc, ăn bo bo với canh bí nấu muối thì bị Tào Tháo đuổi tơi bời. Mâu
thuẫn này nặng nề ngoài đời. Kẻ nghèo suốt đời kiết, dẫu cách mạng vô sản là
cách mạng của người nghèo. Công an khu vực chơi với vô sản chính thống thì đói,
chơi với tư sản thì no, lại còn được tặng quần bò� 3 của con cháu tư sản phản động theo Mỹ gửi
về. Những kẻ chống cộng sản đã không chịu khai thác kỹ lưỡng cái mâu thuẫn này.
Để tôi đếm những bạn tù đề lao Gia Định của tôi xem còn ai: Hoàng Mạnh Hùng, Đặng
Hải Sơn, Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng, Phạm Quang Khai. Tư tưởng chiến đấu mới
của tuổi trẻ rải rác trong tiểu thuyết của tôi bắt nguồn từ những buổi thầm thì
đàm thoại với Hoàng Mạnh Hùng ở nhà tù. Anh ta quy định rõ rệt Hà Nội là phỉ
quyền, Sàigòn là ngụy quyền. Từ sau chính biến tháng 3 năm 1945, Việt Nam chưa
có chính quyền. Người Việt Nam chân chính phải chiến đấu để tạo dựng một chính
quyền thì mới giương danh chính nghĩa quốc gia. Anh ta chống đổ máu, chống tàn
sát thêm ở Việt Nam. Tàn sát 500 tên lãnh tụ lớn, nhỏ của cộng sản Việt Nam. Là
đủ. Hạnh phúc phải được ban phát cùng khắp. Tốt nghiệp tiến sĩ bên Mỹ, về nước
anh ta khước từ chức vụ Thứ trưởng Văn hóa Giáo dục, dạy ở Thủ Đức. Vợ
con đi Mỹ trước cả 1975, anh ta ở lại chiến đấu. Tồi đồng ý với anh ta nhiều điểm.
Đặng Hải Sơn, nghị viên đơn vị Tùng Nghĩa, không tái tranh cử vì không thích
làm bù nhìn nữa. Anh ta tâm sự một câu đáng suy nghĩ: "Phải ra Cam Ranh,
nhìn thông non Đà Lạt mà Trần Thiện Khiêm và bè lũ bán cho Nhật, nó chặt ngọn,
chặt gốc vất lại, chỉ lấy một khúc giữa thôi, khi ấy không yêu nước sẽ thấy yêu
nước." Đặng Hải Sơn về Sàigòn làm báo, chủ trương cơ sở xuất bản Hải Âu với
Trần Dạ Từ. Anh ta cùng quan điểm với Hoàng Mạnh Hùng. Tôi rất quý mến Đặng Hải
Sơn. Anh ta trầm tính, sâu sắc 4. Đoàn
Kế Tường và Dương Đức Dũng kể và vẽ sơ đồ cachots đề lao Gia Định, Chí Hòa thật
chi tiết cho tôi nghe. Nhờ đó, tôi mô tả cachot FG không sai mấy.
Bạn tù tôi đã sống với họ, đã vui buồn cùng họ từ Gia Định rồi lại sống với họ,
vui buồn cùng họ bên Chí Hòa còn có năm người. Chẳng biết hôm nào chúng tôi
vĩnh biệt nhau.
° ° °
Giữa
tháng 11 năm 1978, cai ngục Thuận đem đến một danh sách. Hắn ta đứng ngoài hành
lang đọc lớn:
- Có.
- Đặng Hải Sơn.
- Có.
- Nguyễn Thái Hà.
- Có.
- Vũ Mộng Long.
- Có.
- Chuẩn bị đồ cá nhân.
Cả phòng xôn xao. Khai Trí, Phạm Quang Khai, Nguyễn Công Kha thở phào. Vì thoát
lao cải. Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng buồn hiu. Vì danh sách thiếu tên mình. Cửa
phòng mở. Đằng Giao hớt hãi vào:
- Tôi cũng đi.
- Không đọc tên ông mà.
- Thằng Thuận bảo tôi về chuẩn bị hành lý.
Thu xếp hành lý thật nhanh. Chúng tôi còn thì giờ tạm biệt nhau, ông Khai bắt
tay tôi:
- Ông đi may mắn.
- Cám ơn ông.
Đoàn Kế Tường ôm lấy tôi, khóc như con nít. Tôi nhớ lời hai của Đoàn Kế Tường ở Trả
lại em yêu của Phạm Duy, bèn rống lên lấy khí thế cơ hồ Kinh Kha qua Dịch
Thủy:
… Anh sẽ ra
đi về tận miền Bắc
Anh sẽ ra điChẳng mong ngày về
Trả lại em yêu
Chí Hòa chật chội
Kỷ luật Tư Long
Ngón đòn cu Phách
Buổi chiều thăm nuôi
Ngóng hoài em tới
Nuốt nhanh miếng thịt
Nuối tim con mình…
Cai ngục
Thuận đã trở lại. Chúng tôi rời phòng. Giã từ AH. Giã từ phòng giam đã giúp
mình thoát chết bệnh đau màng óc. Tôi đeo bị, xách giỏ, bước xuống dưới, ngồi xếp
hàng cạnh phòng của các tù nữ. Ở đâv, đã có một nhóm tù ngồi đợi lệnh. Sau khi
gom đủ số tù nhân các khu ghi trong danh sách, cai ngục Thuận dẫn chúng tôi
sang khu BC.
Cai ngục khu BC tiếp nhận chúng tôi, điểm sổ, điểm danh, ký tên vào danh sách rồi
đưa chúng tôi lên lầu 3.
Tôi biết thêm BC. Chí Hòa bát giác hay Chí Hòa bát quái có bốn khu, tôi đã đặt
chân lên ba khu. BC chỉ là chỗ dừng chân, lâu nhất chứng hai tuần lễ. Từ đây,
tôi sẽ bị tống đến một chân trời lao cải nào đó. Ở phòng mới BC toàn tù nhân lạ
và chung một tội: Phản động. Chung một tội không phải là chung một tâm sự.
Trong lịch sử chống cộng sản ở Việt Nam, chưa giai đoạn nào "phồn thịnh"
như giai đoạn này. Đủ tầng lớp quần chúng chống cộng sau 30-4-1975. Trí thức
có. Bình dân có. Nông dân có. Công nhân có. Nghèo có. Giàu có. Ông già có. Niên
thiếu có. Phụ nữ có. Sinh viên có. Học sinh có. Thậm chí, lơ xe đò, phu nhà đòn
cũng nức lòng tham gia các tổ chức chống cộng sản. Tù nhân chính trị hiện hành
đông hơn tù nhân sĩ quan và viên chức chế độ cũ trình diện học tập cải tạo. Chẳng
ai biết, chẳng ai đếm xỉa đến cái khối tù nhân chính trị vô danh này. Thế giới
thường băn khoăn cho số phận mấy ông công chức cao cấp phủ Tổng thống. Và muốn
cứu các tù nhân… tư tưởng nàv! Để giải trí cho đỡ buồn thì can thiệp với Nhà Nước
cộng sản thả ông sư vượt biên, ông cố đạo vượt biên, ông nghị sĩ hay ông bộ trưởng
đều phúc đức cả. Những kẻ chiến đấu đích thực không cần ai can thiệp xin tha.
Chiến đấu là chấp nhận thiệt thòi. Anh lơ xe đò, anh phu nhà đòn, chắc chắn,
không bao giờ thèm quan tâm cái tước vị Chủ tịch hay Tổng thống. Nhưng vào tù,
các anh khổ hơn những ông chiến đấu với âm mưu Chủ tịch, Tổng thống. Hiển
nhiên, các anh ấy sẽ bị liệt vào giai cấp "con bà phước." Chung một tội
mà không chung một tâm sự là vậy.
Ổn định chỗ nằm xong, Đằng Giao hỏi tôi:
- Mình sẽ đi đâu, ông thầy?
Tôi lắc đầu:
- Chịu.
- Tôi thèm đi xa.
- Tận nơi nào?
- Sơn La, Lào Kay..
- Nếu chúng ta là sĩ quan, là viên chức cao cấp, là nghị sĩ, là dân biểu. Bọn
mình là nhà văn, nhà báo độc lập, thiếu "hân hạnh" thăm Lăng Bác. Chỗ
xa nhất, theo tôi, mình có thể đến là Gia Lai, Kontum.
- Trại Gia Trung.
- Có cả chục trại ở Gia Lai, Kontum. Được nhập trại Gia Trung, mình sẽ gặp các
ông Doãn Quốc Sĩ, Mặc Thu, Thái Thủy, Thanh Thương Hoàng, Trịnh Viết Thành,
Chóe, Tô Ngọc…
- Tôi muốn mình đến một nơi nó cấm mình thư từ về và nhận thư từ đến. Kéo dài
thêm sự vô vọng của vợ con, tôi nản quá.
- Bạn ơi, tôi cũng muốn vợ con tôi coi như tôi đã chết.
Không có tù nhân nào bất hạnh hơn tù nhân không được xét xử, không có án phạt.
Chúng tôi mòn mỏi. Vợ con chúng tôi mòn mỏi. Tôi cảm tưởng tôi tù trong, vợ con
tôi tù ngoài. Sự trừng phạt của hận thù khiếp đảm quá. Tôi đã viết bài thơ tặng
nó.
Gửi cho
anh đôi mắt
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết nhìn sự trơ trẽn ngục tù
và nó thấy nó bọ hung lầm lũi
Gửi cho anh cái mũi
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ngửi mùi tanh tưởi cachot
và nó thấy nó côn trùng câm nín
Gửi cho anh cái miệng
để anh ráp trên khuôn mặt hận thù
Nó sẽ biết ăn thực phẩm trâu bò
và nó thấy nó nghìn năm rác rưởi
Gửi cho anh cái lưỡi
để anh ráp vô họng hận thù
Nó sẽ biết tập tành nói chuyện thương yêu, lãng mạn, mộng mơ
và nó thấy nó xụt xùi muốn khóc
Gửi cho anh bộ óc
Gửi cho anh trái tim
Gửi cho anh ái tình
Gửi cho anh cuộc đời dạt dào cảm xúc
Gửi cho anh con người hào hoa đích thực
Gửi cho anh
gửi tặng hận thù
(Thư Tù, trong tuyển tập Poèmes de prison).
Gửi tặng
thù hận hay gửi tặng những kẻ nuôi dưỡng thù hận dân tộc, thù hận con người?
- Tôi xuống tinh thần rồi, ông thầy ạ!
- Xuống tinh thần nguy hiểm lắm.
- Chết là cùng.
- Chết dai dẳng, chết không đúng ý mình muốn. Mà chết vô ích. Ngu sao chết, sống
để nhìn chứ. Bạn ơi, coi như mình chết thì được, chết thật thì không nên. Niềm
bí ẩn của đời sống thường đến thật chậm. Bạn biết chúng ta sống bao nhiêu ngày
trong tù chưa?
Đằng Giao tính nhẩm:
- 31 tháng, tức là 930 ngày.
Tôi nói:
- Cổ nhân phán: Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Ta cứ coi rằng một
ngày tù của cổ nhân bằng một ngàn ngày tù cộng sản của ta, thì 930 X 1000, ta
đã nằm tù 930,000 năm rồi bạn ạ! Ta nhập cõi từ khuya, lo chi chuyện sống chết.
Đằng Giao cười méo xệch:
- Ông thầy an ủi tôi hay an ủi ông thầy?
Tôi chớp mắt:
- Ta an ủi nhau, Đằng Giao ạ!
Quả thật, chúng tôi đã trải qua 930,000 năm ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định, ở
Chí Hòa. Có gã tù nhân nào đó đã ngạo nghễ nói: "Mười năm tù như một giấc
ngủ trưa." 930,000 năm chỉ là 930,000 giấc ngủ trưa. Thu nó lại, 930 ngày
mới bằng một góc giấc ngủ trưa. Có chi phải ồn ào cái nỗi tù đầy của mình nhỉ?
Chúng tôi ở BC đã đuợc một tuần, sinh hoạt như AH. Đằng Giao bị chỉ định làm
Trưởng phòng. Mỗi sáng nhìn sang AH, tôi thấy quần áo phất lia. Bèn hiểu là
Đoàn Kế Tường, Dương Đức Dũng hỏi thăm mình. Ở BC, nhìn xuống hồ tắm, tôi thấy
rõ bộ trưởng Ngô Khắc Tĩnh hơn. ông vốn thấp, mặc quần xà lỏn, áo thung, ông
càng thấp, ông Thợ Lặn 5 hết
ngụp lăn trong danh vọng quyền bính mà lặn ngụp trong ngục tù. Ngắm ông xách
hai thùng nước bỗng tội nghiệp ông vô cùng.
Đến ngày thứ 10, một cán bộ hồ sơ đến phòng, mở rộng cửa "làm việc" với
chúng tôi. Chiếc bàn gỗ kê sát cửa. Anh ta gọi tên từng tù nhân và yêu cầu tù
nhân bước gần bàn, đứng nghiêm, đọc sơ yếu lỷ lịch của mình để anh ta xem hồ sơ
ghi đúng hay sai. Mỗi tù nhân riêng một hồ sơ đựng trong một tấm bìa. Đằng
Giao, Nguyễn Mạnh Côn "can tội văn nghệ sĩ phản động," cán bộ hồ sơ
xác nhận đúng. Anh ta nói thêm:
- Các anh đi lao động cải tạo đúng 3 năm thì về. Còn vài tháng nữa thôi, án phạt
tính từ ngày các anh bị bắt.
Đến lượt tôi khai "can tội nhà vàn phản động" cán bộ hồ sơ lắc đầu:
- Anh nghề nghiệp "nhà văn phản động", can tội đảng viên Duy Dân trốn
trình diện học tập, trong tổ chức chống phá cách mạng hiện hành. Nhưng anh cũng
đúng 3 năm là được tha.
Tôi bàng hoàng giây lát. Rồi tôi xét lại Hai Nghiêm và lão cán bộ của Viện Kiểm
Sát Nhân Dân Trung ương 6. Cộng
sản không bao giờ nói thật. Cộng sản chơi trò giả đạo đức rất tài. Tôi quên mất
lời khuyên của người công an chấp pháp miền Nam đã "làm việc" với tôi
lần đầu tiên ở Sở Công An: "Trong tù, tuyệt đối không tin ai." Nhưng
mà tội gì thì tội, không được xét xử, không có án phạt thì ngày về xa lơ xa lắc.
Tôi không tin lời anh cán bộ hồ sơ nữa. Đằng Giao càng không tin. Tù nhân tự
hào là mình từng đi guốc vào bụng cộng sản, mình đã nằm tù cộng sản năm 1948 là
Nguyễn Mạnh Côn, thì tin tưởng ra mặt.
Trật tự đem cơm trưa hôm ấy là con trai của nhà thơ phúng biếm nổi tiếng một thời,
can tội trộm cắp. Cậu ta cho chúng tôi biết chúng tôi sẽ rời Chí Hòa sáng sớm
ngày mai.
- Đi đâu?
- Cháu không biết.
- Gần hay xa.
- Còn tùy.
- Tùy gì?
- Tùy thực phẩm ăn đường. Nhà bếp đang lo luộc bột. Hễ các chú được phát ít thì
đi gần, phát nhiều thì đi xa.
Cậu con trai của nhà thơ nói đúng. Sáng sớm hôm sau, trước giờ kẽng báo thức,
chúng tôi được lệnh rời phòng. Vệ binh võ trang giải chúng tôi xuống sân vòng
ngoài. Tôi không còn thấy bên trong Chí Hòa. Vĩnh biệt nó, vĩnh biệt FG, AH,
BC. Chúng tôi bị chia thành bốn nhóm, đứng xếp hàng đôi. Kẽng báo thức điểm một
lúc thì bốn chiếc xe vận tải chuyên chở súc vật chầm chậm chạy vào. Rồi xe quay
đầu lại. Nhóm chúng tôi đầu danh sách nên được "chiếu cố" trước. Cán
bộ hồ sơ, hôm nay, mặc đồng phục công an nhân dân, đeo súng ngắn. Vệ binh rất
đông, kè kè AK nạp đạn.
- Nguyễn Mạnh Côn.
- Có.
- Lên xe!
Người ta phát cho mỗi tù nhân một cục bột luộc khá lớn. Đi gần thôi, tôi nghĩ
thế. Tù nhân ném hành lý lên sàn xe rồi leo sau. Không có thang. Mỗi chiếc xe tải
nhồi nhét 50 thằng tù. Chở heo, tối đa, 30 con. Đằng Giao và tôi lên xe sau
cùng. Trần xe và thành xe đan lưới sắt lợp vải bố. Cửa sau là song sắt lớn, hàn
xì vững chắc. Tù nhân lên xe xong, cửa khóa chặt và vải bố buông kín. Tuy
nhiên, vẫn có thể he hé vải bố nhìn ra. Tôi thấv, trên nóc ca-bin xe sau tôi, một
vệ binh ôm súng ngồi. Trong ca-bin, một vệ binh khác. Ngoài ra, còn một chiếc
jeep gắn đại liên. Đảng và Nhà Nước cộng sản võ trang hùng hậu dẫn độ đám tù ốm
đi học tập cải tạo.
- Ông thầy đoán thử, nó đưa mình về nghĩa địa nào? Đằng Giao hỏi.
- Lát nữa sẽ biết. Tôi nói.
- Thử cho đở buồn.
- Nếu xe ra đường Lê Văn Duyệt, rẽ trái là mình đi Kà Tum, Trảng Lớn.
- Rẽ phải?
- Lại đợi đến bùng binh đường tầu. Rẽ phải, ta về miền Tây, ta vô trại Vườn Đào
ở Cai Lậy hay xuống Năm Căn, Cái Đước… Đi thẳng rồi rẽ trái, ta xuôi chiều Phan
Thanh Giản ra xa lộ Biên Hòa. Hễ qua cầu Đòng Nai, ta ra miền Trung. Mà một cục
bột, tôi cho rằng, mình ghé Rừng Lá thôi.
- Có thể Long Thành, Suối Máu chăng?
- Với cộng sản, cái gì cũng có thể.
Xe đã chuyển bánh lạo xạo trên lớp đá răm. Lát sau, nó qua cổng khám lớn Chí
Hòa mà cách mạng vô sản gọi là Trại cải Tạo Trường Kỳ. Bây giờ mới thực sự
giã biệt Chí Hòa, nơi chốn mà nô lệ hay độc lập, cách mạng nhân vị hay cách mạng
vô sản, chỉ thấy người Việt Nam bắt nhốt người Việt Nam, chỉ thấy người Việt
Nam đọa đày người Việt Nam. Xe đang chạy từ từ. Đường Hòa Hưng đây. Tôi hé tấm
bố, cố tìm một cách vô vọng xem có thấy vợ con mình ngơ ngác đứng trên hè phố đợi
chuyến xe tù ngang qua. Cảnh tượng đìu hiu vô cùng. Tấm bảng quán Ly Tao của danh
ca Ngọc Long đã hạ. "Kẻ đi, người lại dáng lao xao." Đằng Giao và tôi
căng mắt nhìn Saigon. Xe rẽ bên phải. Chúng tôi thoát Kà Tum, Trảng Lớn. Xe qua
bùng binh đường tầu, chạy thẳng luôn. Chúng tôi hết về miền Tây. Xe rẽ xuôi chiều
Phan Thanh Giản. Tôi phải nhường chỗ cho anh em khác. Cũng chẳng thích ngắm
thêm nỗi ưu phiền giăng mắc kín thành phố thân yêu cũ.
Tôi đã vỡ lòng cay đắng ở sở Công An. Tôi đã nhập môn thống khổ ở đề lao Gia Định.
Đau thương của tôi, tôi rấm ở Chí Hòa, kể như đã chín. Đã chín những hệ lụy
trong cái tĩnh của nhà tù. Còn những hệ lụy nào nữa, sắp phơi ra cái động của
trại tập trung. Tôi sẽ mang về cái gì hay chẳng bao giờ mang về cái gì. Tôi sẽ
tồn tại hay tôi sẽ bị hủy diệt. Điều đó không quan trọng, không cần thiết. Sự
quan trọng là biết sống và dám uống tới giọt đắng cuối cùng của cuộc sống. Tôi
sẽ cố gắng sống với hy vọng được thưởng thức giọt đắng cuối cùng của cuộc sống.
Để khôn lớn và để không thẹn làm người.
Ivry sur
Seine
Tháng 5-1987
--------------------------------
Thơ Tù,
Nam Á, Paris 1984.
|
|
Poèmes
de prison. Les Editions de Caux, Thụy Sĩ, sắp xuất bản.
|
|
Việt Cộng
gọi quần Jean là quần bò.
|
|
Đặng Hải
Sơn vượt ngục Sa-Ác TH-6 năm 1980, thành công, vẫn sống "lưu vong"
tại Saigon.
|
|
Bút hiệu
viết báo của Ngô Khắc Tĩnh, ông đã khoe như vậy.
|
|
Amnesty
International và International Pen, trong những thư gửi cho nhà cầm
quyền Việt Nam can thiệp trả tự do cho tôi, đều được trả lời: Duyên Anh
không phải là nhà văn. Và họ đã khước từ phái đoàn AI xin gặp tôi tháng
8-1978. Nhưng trong Giấy Ra Trại, họ vẫn ghi tôi can tội "nhà văn
phản động".
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét