Nguyễn Nhơn - Trích: "Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam hiện nay,
có hai xu hướng đối lập nhau: nhà cầm quyền thì đề cao ý thức hệ, tiếp tục nhìn
thế giới qua lăng kính ý thức hệ xưa cũ, trong khi đó, dân chúng, hoặc ít nhất
một bộ phận càng lúc càng lớn của dân chúng, lại đề cao chủ nghĩa quốc gia,
xem chủ nghĩa quốc gia như một lý tưởng để tranh đấu, trước hết, chống lại chủ
nghĩa bá quyền của Trung Quốc" - Nguyễn Hưng Quốc
Không
đúng! Cần phân biệt giữa "Chủ nghĩa Quốc gia" và "Tinh thần Dân
tộc"
Nationalism
khác với National Espirit
Dân tộc
Việt Nam không bao giờ chịu hệ lụy vì bất kỳ chủ thuyết nào
Cũng vậy,
không nên lầm lẫn giữa Khổng giáo và Việt Nho
Việt
Nho, Hà đồ – Lạc thư có trước
Khổng
tử "thuật nhi bất tác" thuật giải về sau
Dân
Quân miền Nam chống xâm lăng cọng sản
Bảo vệ
Tự do, no ấm cho 18 triệu đồng bào Miền Nam
Trên
tinh thần Quốc gia - Dân tộc
Chống
lại chủ nghĩa Duy vật tam vô
Vô Tổ
quốc - vô gia đình - vô tôn giáo
Dùng
"Tinh thần Dân tộc" chống chủ thuyếc mác xít ngoại lai
Sĩ phu
Miền Nam, tiêu biểu Ngô Đình Nhu
Xác định
chủ nghĩa cọng sản là nọc độc
Cần phải
giải trừ cho Đất nước Việt Nam
Nền
giáo dục Miền Nam đặt trên nguyên lý:
Dân tộc
- Nhân bản - Khai phóng
Chớ
không phải thứ chủ nghĩa Quốc gia
Hẹp
hòi và cực đoan kiểu Đức Quốc xã
Cho
nên hiện tại
Cần cổ
võ cho giới trẻ ý thức mạnh mẽ
Về
tinh thần Dân tộc truyền thống
Để
trang bị tinh thần hăng hái
Chống
lại và xóa bỏ hung tàn việt cọng
Xây dựng
lại truyền thống nhân - nghĩa của tổ tiên
"Việc
Nhân – Nghĩa cốt ở yên dân
Quân
điếu phạt trước vì khử bạo"
Khi diệt
xong ngoại xâm mới thực thi Nhân nghĩa
"Lấy
Đại Nghĩa để thắng hung tàn
Đem
Chí Nhân mà thay cường bạo"
"Dân
nước tôi, nòi giống hùng cường Lạc Long
Làm
gái toàn là Trưng Vương
Làm
trai rạng hồn Quang Trung"
Nói giống
Lạc Việt văn minh "Lúa nước"
Hơn bốn
ngàn năm văn hiến
Khi
CƯƠNG khi NHU đúng lúc
Không
bao giờ để hệ lụy bởi một thứ chủ thuyết nào.
Nguyễn
Nhơn
“VIỆT NAM GIỮA Ý THỨC HỆ VÀ CHỦ NGHĨA QUỐC GIA”
Nguyễn
Hưng Quốc (VOA) - Trong bài “Trận chiến chính trong thế kỷ 21”, tôi nêu lên một
số luận điểm của các học giả Tây phương: Tất cả đều cho yếu tố chính làm phân
hóa thế giới và dẫn đến các cuộc chiến tranh, lạnh hay nóng, khốc liệt trong thế
kỷ 20 đã thuộc về dĩ vãng là ý thức hệ. Rộng hơn cả chính trị, trong toàn bộ
lãnh vực nghiên cứu nhân văn hay khoa học xã hội hiện nay, hầu như không ai nhắc
đến ý thức hệ nữa. Trước, các lý thuyết gia cho ý thức hệ là một thứ đại tự sự
hoặc siêu tự sự (grand narrative / metanarrative) và thời đại của các siêu tự sự
ấy đã qua và được thay thế bằng các tiểu tự sự. Sau, nhiều người cho cả lý thuyết
nói chung, vốn là kết tinh của các siêu tự sự ấy cũng mất dần sức quyến rũ: Nhiều
người gọi thời đại chúng ta đang sống hiện nay là thời đại hậu-lý thuyết
(posttheory).
Ở đây,
Việt Nam là một ngoại lệ. Trên các diễn đàn chính thức và chính thống ở trong
nước, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định là mâu thuẫn chính hiện
nay vẫn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, là Việt Nam và
Trung Quốc vẫn là hai nước đồng chí anh em trong khối xã hội chủ nghĩa, là Việt
Nam vẫn cương quyết đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù, theo lời
thú nhận của Nguyễn Phú Trọng gần đây, có khi đến tận cuối thế kỷ 21, vẫn chưa
thực hiện được!
Những
quan niệm như vậy không những lạc hậu mà còn là một ảo tưởng, một ảo tưởng lạc
hậu của những kẻ lú. Trên blog này, ở một số bài, tôi có nhắc đến một ý kiến của
Benedict Anderson, trong cuốn Imagined Communities: Reflections on the Origin
and Spread of Nationalism (1983): Ông cho, với cuộc chiến tranh giữa Việt Nam
và Campuchia năm 1978 và chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979, chủ
nghĩa quốc gia đã thay thế vai trò của ý thức hệ chính trị trong việc quyết định
các quan hệ quốc tế giữa nước này và nước khác.
Việc
thay thế ấy càng hiển nhiên hơn nữa sau năm 1991, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa
bị sụp đổ hoàn toàn ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, chính chủ nghĩa quốc gia chứ
không phải là ý thức hệ chi phối (a) toàn bộ các quyết định tách rời hay gộp
chung các biên giới chung quanh mỗi nước; (b) xác định ai là công dân và ai
không phải là công dân; (c) khẳng định ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia; và cuối
cùng, (d), khẳng định các quyền dành cho người dân thiểu số. Tất cả các cuộc
chiến tranh và xung đột ở Trung Âu và Đông Âu sau năm 1991 đều gắn liền với chủ
nghĩa quốc gia.
Ở châu
Á, văn hóa hay văn minh – nói theo chữ của Samuel P. Huntington – cũng không phải
là yếu tố gây đoàn kết hay chia rẽ trên bàn cờ chính trị khu vực. Những tranh chấp
về lãnh thổ, đặc biệt là lãnh hải giữa Trung Quốc với Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật
Bản, hay ngay cả với Philippines thời gian gần đây là một minh chứng: Trên lý
thuyết, theo cách phân chia của Huntington trong cuốn The Clash of
Civilizations and the Remaking of World Order, Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam
đều có chung một nền văn minh, nền văn minh dựa trên Khổng giáo. Giữa Trung Quốc
và Nhật Bản cũng có rất nhiều điểm chung. Ngay cả giữa Trung Quốc và
Philippines, nhữngđiểm chung cũng không ít: Mặc dù Philippines chịu nhiều ảnh
hưởng của Tây phương, từ Tây Ban Nha đến Mỹ, ở đó Thiên Chúa giáo đóng vai trò
chủ đạo, nhưng vốn là một quốc gia đa sắc tộc, một phần không nhỏ của
Philippines có gốc rễ từ Trung Hoa và cùng với họ, ảnh hưởng của Khổng giáo. Vậy
mà họ vẫn hục hặc với nhau. Ấn Độ và Pakistan cùng chia sẻ với nhau, hoặc toàn
bộ hoặc một phần, văn minh Hồi giáo, nhưng họ vẫn đánh nhau.
Có thể
nói, ở châu Á, đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á, trong khi vai trò của ý thức hệ
đã thuộc về quá khứ, vai trò của “văn minh” vẫn chưa nổi lên và chưa có ý nghĩa
gì đáng kể, mối quan hệ quốc tế giữa các nước vẫn bị chi phối một cách mạnh mẽ
bởi tinh thần quốc gia: Nước nào cũng muốn khẳng định bản sắc của mình dựa trên
lịch sử và nước nào cũng nhắm đến mục tiêu có lợi cho chính mình; ở nước nào
chính phủ cũng giương cao ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để tập hợp quần chúng và tạo
thành sức mạnh.
Chỉ có
ở Việt Nam là khác.
Trong
hơn một thập niên vừa qua, không phải chính phủ mà là những người đối lập hoặc
độc lập với chính phủ mới là những kẻ hô to khẩu hiệu quốc gia nhiều nhất.
Không phải chính phủ mà là những người ly khai hay các nhà báo và các blogger bị
chính phủ cấm đoán hay trấn áp mới là những người hay bàn đến vấn đề độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nhất. Không phải chính phủ mà những người dân thấp
cổ bé miệng đứng ra tổ chức các cuộc xuống đường biểu tình để, nhân danh chủ
nghĩa quốc gia, chống lại âm mưu bành trướng của Trung Quốc.
Nói một
cách tóm tắt, ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng đối lập nhau: nhà cầm quyền
thì đề cao ý thức hệ, tiếp tục nhìn thế giới qua lăng kính ý thức hệ xưa cũ,
trong khi đó, dân chúng, hoặc ít nhất một bộ phận càng lúc càng lớn của dân
chúng, lại đề cao chủ nghĩa quốc gia, xem chủ nghĩa quốc gia như một lý tưởng để
tranh đấu, trước hết, chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Tính
chất đối lập ấy có thể được nhìn thấy rõ qua các cuộc biểu tình chống Trung Quốc
trong gần một thập niên vừa qua: Trong khi dân chúng xuống đường biểu tình chống
Trung Quốc thì công an, theo lệnh của nhà nước, lại trấn áp một cách tàn bạo.
Không những trấn áp trong các cuộc biểu tình với những dùi cui, cùi chõ và đế
giày mà còn trấn áp sau các cuộc biểu tình với những sự vu khống và những bản
án thô bỉ căn cứ vào tội danh “trốn thuế” hay “hai cái bao cao su đã qua sử dụng”.
Tại
sao nhà cầm quyền Việt Nam lại cứ khăng khăng bám víu vào cái ý thức hệ cũ kỹ
như vậy để nhắm mắt trước nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc và sẵn sàng đạp vào
mặt dân chúng như vậy?
Lý do
tương đối dễ hiểu: Họ sợ Trung Quốc hơn sợ dân.
Một số
nhà báo nhiệt tình ở trong nước hy vọng một ngày nào đó họ có thể làm thức tỉnh
giới lãnh đạo để giới lãnh đạo nhận thức được tính chất trầm trọng của nguy cơ
bị Hán hóa, từ đó, biết sử dụng ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để đoàn kết mọi người,
hình thành một trận tuyến chung bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia.
Tôi
không tin và cũng không mong chuyện ấy xảy ra sớm. Tôi biết nhà cầm quyền Việt
Nam hiện nay sẽ không bao giờ công khai lên tiếng chống Trung Quốc cho đến khi
nào họ đối diện với nguy cơ bị dân chúng Việt Nam lật đổ. Tất cả các nhà độc
tài đều biết cách sử dụng chiến tranh, nhất là chiến tranh chống ngoại xâm, dù
một cách vờ vĩnh, để đoàn kết dân chúng và để có cớ trấn áp những người đối lập
một cách có… chính nghĩa (nhân danh an ninh quốc gia!)
Trong
tương lai, khi nhà cầm quyền Việt Nam mạnh bạo lên tiếng chống Trung Quốc, tôi
không biết họ có chống được hay không; tôi chỉ biết chắc một điều: Họa độc tài
sẽ kéo dài thêm một thời gian nữa.
Tiến
sĩ Nguyễn Hưng Quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét