“Kẻ hèn nhát hỏi: ‘Có an toàn không?’ Kẻ cơ hội hỏi: ‘Có khôn khéo không?’ Kẻ rởm đời hỏi: ‘Có được tiếng tăm gì không?’ Nhưng, người có lương tâm hỏi: ‘Có là lẽ phải không?’ Và có khi ta phải chọn một vị trí không an toàn, không khôn khéo, không để được tiếng tăm gì cả, nhưng ta phải chọn nó, vì lương tâm ta bảo ta rằng đó là lẽ phải.”
Sài
gòn vừa có một hành động vượt qua mọi suy nghĩ của người dân cả nước. Chị ném
chiếc giày của mình đang mang vào bà Nguyễn Thị Quyết Tâm vào sáng ngày 20
tháng 10 trong một cuộc họp của thành phố với người dân oan Thủ Thiêm, khi bà
Tâm trên bục giảng thuyết, cố gắng xoa dịu người dân oan trong giải pháp đền bù
cho họ bằng việc tiếp tục hứa hẹn những điều mà họ đã nghe không biết bao nhiêu
lần từ hơn hai mươi năm qua.
"Nhân dịp" Giáo sư Chu Hảo bị kỷ luật đảng và một số
trí thức, nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam tuyên bố từ bỏ đảng công sản, tôi gửi
lại bài viết về suy nghĩ của tôi từ 13 năm trước đến các đảng viên công sản đặc
biệt là các đảng viên từng du học tại Ba Lan, Đông Âu từ những năm 60 của thế
kỷ trước như tôi.
Đã quá muộn, nhưng vẫn còn hơn không, mong các bạn đừng tiếp tục
bắt chước con đà điểu...
Thực tình tôi không muốn ồn ào chuyện
này. Nhưng thấy UBKTTW Đảng kỷ luật PGS TSKH Chu Hảo, một trí thức có Tâm, có
Tài, nhiệt huyết đóng góp cho sự phát triển xã hội, người trí thức mà tôi mến mộ,
nên tôi thấy cần tỏ rõ thái độ của mình.
Trần Đông Phong - Gần
đây, một vài vị khán giả của đài truyền hình STBN có liên lạc với người viết để
hỏi thăm thêm về một bài thơ của cụ Phan Bội Châu tặng cho ông Ngô Đình Diệm
vào năm 1933 mà họ đã nghe được trong một buổi nói chuyện giữa người viết và ký
giả Tường Thắng, người phụ trách Chương Trình Lịch Sử Cận Đại trên đài truyền
hình STBN, hồi mấy tháng về trước.
Lý thuyết của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng là chủ
nghĩa Nhân Vị Á Đông do ông Ngô Đình Nhu đề xướng. Cũng như tất cả các chủ
nghĩa và học thuyết khác thường được ra đời do một hoàn cảnh lịch sử, chủ nghĩa
Nhân Vị Á Đông được ra đời do sự đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ
những năm 30-40.
Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 xảy
ra không phải là chuyện bất ngờ đối với các nhà lãnh đạo Đệ I Cộng Hòa. Chỉ mấy
tháng sau khi Tổng Thống Kennedy lên cầm quyền, thấy rõ đường lối của ông, họ
đã đoán biết những khó khăn sẽ xảy đến đối với họ.
Ngay từ khi chủ nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa chủ trương vô thần
xuất hiện tại Việt Nam (1930), không chỉ riêng ông Ngô Đình Diệm, mà tất cả các
anh em ông đều đã chú tâm đến việc nghiên cứu tìm một sách lược đối phó với chủ
nghĩa vô cùng tai hại này. Họ quan niệm rõ ràng rằng. Niềm tin tôn giáo là sức
mạnh vô địch trong cuộc chiến chống lại chủ thuyết vô thần nguy hiểm ấy.
Để mở đầu thư, tôi
xin phép được kể lại một vài mẩu chuyện khá kỳ lạ mà tôi thấy không sao giải
thích được.
Hôm 29 tháng 7, 1981,
tôi và nhà tôi làm một bữa tiệc nho nhỏ, mời bạn bè đến uống rượu chơi cho vui.
Tình cờ hôm ấy lại đúng vào ngày diễn ra cuộc hôn lễ giữa công nương Diana và
thái tử Charles của hoàng gia Anh. Đám cưới vương giả này được cử hành với đầy
đủ nghi thức cổ truyền hết sức long trọng, và được hơn 750 triệu người trên khắp
thế giới theo dõi qua các đài truyền hình quốc tế.
"Trưa thứ Tư, ngày 17.10.2018 Nguyễn Ngọc
Như Quỳnh và gia đình đã đáp chuyến máy bay EVA 398 rời Hà Nội, quá cảnh tại
Taipei và sẽ đến Houston trên chuyến bay EVA 52 vào lúc 11 khuya cùng ngày."
12345678 Nguyễn Văn Trần - Đến nay, những người cộng sản ở Hà Nội viết về chế
độ của họ và những người lãnh đạo chế độ ấy vẫn còn quá ít ỏi. Mỗi người phơi
bày những điều họ nghe thấy hoặc chứng nghiệm khi họ là nạn nhân của chế độ.
Nghe, thấy và chứng nghiệm thường bị giới hạn nên những điều được tiết lộ vẫn
còn là một phần cực nhỏ của một bộ máy kìm kẹp, gian ác khổng lồ bao trùm kín
mít toàn xa hội từ hơn nửa thế kỷ nay.
Nguyễn Xuân
Nghĩa - Để "trục độc", ai muốn hiểu ra cái ác tại
đầu nguồn của đảng Cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh
cho tới mãi sau này, thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.
Kông Kông - Bỗng dưng tôi nhận được
Đèn Cù qua email, bản Final.pdf, tuy có vài chỗ còn highlight màu vàng. Vừa vào
truyện đã gặp ngay một số phương ngữ, với cả tiếng lóng của thời đó và đôi chỗ
hình như viết mà không muốn diễn đạt theo lối văn bình thường, nên bị lúng túng
không ít. Cứ như đang thả hồn theo dòng suối êm ả giữa thiên nhiên hoang dã
Việt Bắc bỗng gặp một nơi nước bị tung lên bất ngờ. Chắc chắn là nhờ lòng suối
nơi đó có một viên đá cuội cản dòng nhưng lại trở nên sinh động. Đẹp. Và cứ
theo cái đẹp đó mà lần mò. Lần mò, vừa để coi mình có hiểu đúng ngữ/nghĩa đặc
thù hay không, vừa muốn theo dõi nội dung chuyện về những nhân vật cao cấp nhất
đảng cộng sản Việt Nam trong thời còn phôi thai.
Cựu
Trung Tá Nguyễn Văn Minh - Trong lá
thư gửi cho một chiến hữu đề ngày 22-9-1952, cuối thư có bài thơ tứ tuyệt trên
đây, thủ
bút của chí sĩ Ngô Đình Diệm.Chúng tôi xin dùng ba chữ cuối của câu 4 để đề tựa cho bài thơ.
Tôi đến ATêKa, an toàn khu (ATK) để làm báo Sự
Thật đầu 1949.
ATêKa, an toàn khu là gì? Là căn cứ địa đầu
não của Đảng cộng sản Đông Dương và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, nằm ở
chân hai con đèo tên Re và So của dãy Núi Hồng chia đôi hai huyện Định Hoá tỉnh
Thái Nguyên và Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Cùng thời gian bao vây Điện Biên Phủ, Trung
ương mở lớp tổng kết cải cách ruộng đất ở sáu xã thí điểm tại huyện Đại Từ sát
nách An toàn khu, do Hoàng Quốc Việt chỉ đạo. Sau tổng kết sẽ triển khai chính
thức đợt 1 cải cách ruộng đất. Tôi đã dự.
Từ Điện Biên Phủ, Thép Mới viết cho tôi: “Mày
ở đầu trận tuyến chống phong kiến, tao ở đầu trận tuyến chống đế quốc, cố lên
hả!”. Hảo hớn, phơi phới.
Thép Mới đón ở ga. Xích lô chở cái thùng gỗ thông đựng sách Tàu
ngất ngưởng và tôi. Thép Mới đạp xe bên cạnh. Lên gác gặp ngay tổng biên tập.
Câu đầu tiên Hoàng Tùng hỏi:
- Mao xếnh xáng thu về được hết âm binh chưa? Có trắng tay
chuyến này không?
Ở trong nước Mao Trạch Đông đang là “chàng cả lố”. Chế giễu ông
ta là bằng chứng của người Mác-xít, Lê-ni-nít. Tôi thì không chế, nhưng sau vụ
chống phái hữu, tôi chẳng còn mặn mà với ông.
Rồi chúng tôi thở phào. Cụ Hồ đã lên tiếng. Có
lẽ là tháng 4 hay 5 năm 1963. Bài báo của Cụ đăng trang nhất báo Nhân Dân. Ký
tên Nguyễn Thanh Long. Ở đúng chỗ sau này đăng bài Nguyễn Chí Thanh chất vấn
dân tộc “sao phải ăn bún?”
Nói rõ Đảng ta phải biết ơn ba đảng cộng sản
Pháp, Liên Xô và Trung Quốc. Vậy là Cụ công khai phản đối Mao. Đám xét lại rất
mừng. Cụ Hồ nhất đinh phải là thích cộng sản văn minh hơn rồi. Chúng tôi hy
vọng Cụ ngăn được Đảng ngả theo Bắc Kinh. Không tán thành Mao chống xét lại để
bảo vệ chủ nghĩa, Cụ đã nói có nên vì đuổi một con chuột (xét lại) mà đang tâm
ném vỡ một cái bình quý không?
Đi từ nửa đêm ở Chợ Đồn Con, Phú Bình, Thái
Nguyên, chỗ vợ con sơ tán, mờ sáng ngày 28 tháng 7 năm 1967, qua phà Đông Xuyên
sông Hồng, tôi đến ngay báo Nhân Dân. Rất sốt ruột. Muốn gặp Châu. Muốn xem anh
đã bình thường lại chưa. Mấy hôm trước tôi rủ anh xem “Chiến tranh và Hoà
bình”, phim Liên Xô chiếu nội bộ ở Viện bảo tàng cách mạng. Ghét Liên Xô, ghét
“hoà bình”, người xem chửi cả cụ Lev Tolstoi, “Sao cái bọn này chúng nó sợ
chiến tranh đến thế chứ nhỉ, lại đem chiến tranh ra doạ ta nữa”. Nhưng Châu rất
đăm chiêu, không để ý tới những cái đó. Lát sau thấy vẻ anh vẫn nghĩ ngợi, bồn
chồn, tôi hỏi có chuyện gì thì anh nói có chuyện hơi lôi thôi, anh vừa bị mất
mấy đoạn trích biên bản hội đàm mới đây của Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt
Nam. Mất kèm cả cái quần lụa của vợ.
Xong hạn cải tạo lao động, tôi về lại Ban nông
nghiệp báo.
Dưới gốc đa, Phan Quang, mới lên trưởng ban
sau cuộc đánh phá xét lại và chuyến đi Bắc Kinh xức dầu thánh; Hữu Thọ hay
“lính dù Kong Le” (chỗ nào đảng uỷ cần đánh dẹp thì phái anh ta đến) một nhát nhảy
mấy bậc lên ghế phó trưởng ban dưới Phan Quang, phổ biến ba quyết định của Ban
biên tập và đảng uỷ về tôi:
1975. Tháng 4. Đại thắng mùa xuân. Như tên hồi
ký Văn Tiến Dũng viết. Và cho tướng Giáp ra rìa đại tiệc. Báo Nhân Dân dành hai
trang đăng bài Bùi Tín tường thuật “giải phóng Sài Gòn”. Xem đến đoạn Bùi Tín
vào Dinh Độc Lập mở tủ lạnh xem “chúng nó” ăn những gì, tôi không đọc nữa. Kiểm
kê sự ăn uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động
quần chúng căm thù bọn bóc lột. Tức là bấm vào cái huyệt ghen ăn tức ở. Mở trí
khôn cho quần chúng ở cái điểm này mới quý đây!
Tin vượt thời gian gần hai chục năm nói đến một việc xảy ra năm 1995 vang dội một dạo ở ngay lãnh đạo cao nhất của Đảng. Vang dội vì đó là tiếng kêu hy vọng đầu tiên mong đưa được ông thần Công lý ra mắt ở trong cái đảng bất chấp sự thật, lẽ phải, pháp lý nhưng lại tự nhận là đạo đức, văn minh này. Một “cuộc đại náo thiên cung” như tôi gọi như thế với nhân vật chính của nó.
Tôi
năm nay đã gần tám mươi, gần năm mươi năm dạy học trong hai chế độ. Học trò
ngót ngét ngàn em, có đứa giỏi đứa dở. Đứa khôn lanh không ít, mà đứa chậm chạp
tối dạ cũng nhiều, nhưng tôi may mắn chưa thấy đứa nào xảo ngôn, bẻm mép và ác
tâm.
SƯ SÃI HỔ PHẬT GIÁO
ẤN QUANG "TAY SAI VC" THA HỒ LÀM LỌAN MỖI NGÀY Để PHÁ HOẠI MIỀN NAM
… Nhưng đến khi
phật tử PGAQ ( Dương Văn Minh) vâng lời các thầy hổ mang giao miền Nam cho VC
thì cũng là đến giờ tàn hung hăng của PGAQ; Thích Thiện Minh bị "quả
báo" trước tiên...Không biết khi bị VC trả ơn ông đã giúp VC cướp được
miền Nam bằng cách tống ông vào tù, tra tấn, rồi treo cổ...trước khi chết, ông
có nhớ đến những năm tháng "Huy hoàng" của PGAQ là đã tha hồ âm mưu,
vu khống, làm hại Quốc Gia VNCH, xách động Phật tử làm lọan, phá rối nền an
ninh của quốc gia, làm tay sai cho cộng sản, giết hại dân lành, nuôi VC trong
chùa, cạo đầu VC cho chúng đội lốt sư sãi, ép buộc sư sãi "tự thiêu,"
đưa bàn thờ ra để ngoài đường, lăn mình vào bánh xe để chận đường không cho
lính đi đánh VC, không cho xe cứu thương, cứu hỏa đi cứu sư "tự
thiêu."
Tội ác của sư sải hổ mang Phật Giáo Ấn Quang không kể xiết. Từ chuyện âm mưu
những trò "tự thiêu" để sát hại TT Diệm cũng là do thầy trò Phật Giáo Ấn Quang, dùng
nhà chùa làm căn cứ cho VC tấn công miền Nam cũng là do Phật Giáo Ấn Quang. Nếu không có sự
góp tay của Sư Sãi Phật Giáo Ấn Quang một số Bắc kỳ Phật tử di cư 54 vô ơn thì QG Miền Nam
đã không xảy ra mất nước vào tay CS.
Phạm Trần - Ông Nguyễn Phú
Trọng, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) được Ban Chấp hành Trung ương
đề cử giữ chức Chủ tịch Nước tại phiên họp kỳ 8 ngày 03/10 (2018), thay thế ông
Trần Đại Quang đã qua đời ngày 21/09 (2018).
Tất cả những người Cộng Sản, Quốc Gia,
Không đảng phái, các tôn giáo... bị tù đày, bị đàn áp, bất công và oan ức do
các chế độ thực dân, độc tài, độc đoán, đô/c đảng và cguyên quyền.
Các chiến sĩ kiên cường đang đấu tranh cho một nền dân chủ - đa nguyên.
Các bạn trẻ thân yêu trong cả nước sắp đưa tổ quốc vào kỷ nguyên dân chủ, tự
do, hòa hợp và phát triển.
Mấy tháng
qua, một số bè bạn ở Paris và một số tỉnh ở Pháp cũng như một số nhà báo Anh,
ý,... hỏi tôi rằng: Sống dưới chế độ cộng sản, ông đã rút ra được những bài học
gì sâu sắc nhất? Quả vậy tôi đã gắn bó với chế độ chính trị do đảng cộng sản
lãnh đạo hơn 46 năm, tôi là đảng viên cộng sản từ tháng 3. 1946, đến nay vừa tròn
45 năm. Tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9.
1945 đến tháng 10. 1982, tức là hơn 37 năm. Nhìn lại cả một quãng đời vừa trải
qua, quả thật có nhiều điều sâu sắc và thấm thía.
Hơn ba
mươi năm chiến tranh đã in dấu sâu đậm lên cuộc sống của cả dân tộc Việt Nam
ta, của mỗi gia đình và mỗi con người. Khi khởi đầu không ai nghĩ chiến sự sẽ
kéo dài, kéo dài mãi đến như vậy. Về sau người ta chịu đựng, kiên trì và nhẫn nại
chịu đựng với ý nghĩ rằng độc lập và tự do là điều quý nhất, có độc lập, tự do
rồi sẽ có tất cả, mọi hy sinh đều là cần thiết cho mục tiêu cao cả ấy.
Nhìn lại những cuộc đấu tranh lâu dài trên đất nước mình, nhìn lại cuộc đời cầm
súng của mình trong 37 năm có lẻ, tôi thấy những gì sâu sắc nhất?
Tôi đang
sống những ngày căng thẳng và chật vật. Mọi cuộc dấn thân đều phải thấu hiểu
trước và chủ động chấp nhận. Những nỗi đau và bất hạnh của nhân dân thối thúc
tôi có thể làm được gì thì phải làm hết sức mình. Những thảm họa mang tầm vóc
dân tộc trẻ em gầy ốm, tỷ lệ chết khi sinh của các em quá cao (57/1000 cao gấp
sáu lần ở Pháp và Mỹ), nạn thất học lan tràn, hàng 300, 000 học sinh bỏ học,
hơn 70, 000 giáo viên bỏ dậy, hệ thống bệnh viện xuống cấp, người bệnh phải
chung nhau hai người một giường, thiếu thuốc men. Nạn tham nhũng, ăn hối lộ của
mọi cửa đè nặng lên cuộc sống người dân lương thiện. Tất cả những điều ấy không
cho phép tôi do dự, tính toán cho riêng mình. Tôi tin là mình đã làm theo lẽ phải
và lương tâm.
Trước tình thế cực kỳ sôi bỏng hiện nay đang diễn
ra trong quốc nội; trước tinh thần quật khởi truyền thống rất dũng mãnh của
toàn dân Việt ba miền Bắc- Trung- Nam qua những cuộc biểu tình của hàng triệu
người dân xuống đường chống Cộng Sản Việt Nam phản quốc đan tiến hành bán ba
Đặc Khu có giá trị chiến lược của đất nước cho Tàu cộng là kẻ thù truyền kiếp
của dân tộc; trước tình trạng vô cùng nguy hiểm là Tàu cộng đang từng bước xâm
lăng đất nước thân yêu của chúng ta nhờ sự tiếp tay đắc lực của đảng CSVN.
Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi
chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi
viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần
trăm được kể lại bằng chữ. Tôi viết những điều mà những thằng lính chúng tôi đã
trực tiếp tham dự nhưng không ai viết lại, trong khi nhiều người đã viết về những
chuyện chiến trường thì hình như chẳng có ai dự.
Huế
đang là một thành phố chết và đang là một thành phố bị bỏ ngỏ. Cả thành phố chỉ
còn lại vài ba ngọn đèn đường, cái sáng cái tối, đạn pháo Việt Cộng nã đều vào
cầu Trường Tiền và khách sạn Hương Giang, đó đây người ta đang đạp xe ba bánh,
xe xích lô đi hôi của.
Ði
lối cầu mới thì được an toàn, nhưng tôi sẽ đi lối cầu Trường Tiền mặc dù cầu
này đang bị pháo. Một chút lãng mạn trong người tôi nổi dậy, chẳng gì cũng chỉ
còn là lần chót. Ngay đầu cầu, một chiếc M-48 nằm chình ình, máy vẫn còn nổ mà
không có người. Lên đến giữa cầu, tôi nói với mấy thằng lính đệ tử.
Lên
đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì
số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc,
căng thẳng.
Huy
mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
"Súng
tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận."
"Còn
gì nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn?"
"Thì
ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới."
Chưa
kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
Hai
người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa
bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí
súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ
mẹ, có xuống không?"
"Tôi
lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ
mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi
lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ
mẹ, một."
"Tôi
lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ
mẹ, hai."
"Trời
đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh
mà."
"Ðụ
mẹ, ba."
Tiếng
ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
Người
trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn
M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến
khác khiêng ném xuống biển.
12 345 Kỳ Cuối Tập “Hồi ký” này tôi đã viết xong từ năm 2000,
nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do... hèn, chứ
chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi thêm một
dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”.
Như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã...
chết!
Nhạc sĩ Tô Hải
Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại, thấy
ngòi bút của mình sao vẫn còn rụt rè, vẫn còn lấp lửng. Mới biết mình vẫn còn
chưa hết sợ sức mạnh tàn bạo của nền “chuyên chính vô sản” mà mình từng nếm
trải. Nhất là sợ rồi đây vợ con mình sẽ phải chịu đựng những đòn thù bẩn thỉu
của bầy dã thú đội lốt người, nếu chẳng may những gì mình viết ra rơi vào tay
chúng.
Đúng lúc tôi chập
chững bước vào lớp Đồng Ấu (Enfantin) trường tiểu học là lúc bố tôi được bổ
nhiệm về làm phó chủ sự bưu điện tỉnh lẻ, tỉnh Thái Bình. Thời gian ấy Thái
Bình là tỉnh đói nghèo nhất nước và cũng là nơi được người Pháp cai trị với bàn
tay sắt nhất! Lý do: quá nhiều vụ nổi loạn!
Về sau, khi đã trưởng thành, tôi mới vỡ lẽ vì sao mảnh đất “bị
gậy khắp nơi tung hoành” ([1]) này lại sinh ra quá nhiều con người khác nhau,
cách mạng thì cách mạng đến cuồng tín, đối kháng thì đối kháng đến cùng cực!
Cũng từ môi trường này, xuất hiện những gương mặt lá phải lá trái, đổi trắng
thay đen đến không ngờ: những người gặp vận may, những tên cơ hội, cách mạng
giả hiệu, cả những “con rối” được cách mạng tạo nên để sau này làm khổ cho cả
ngàn vạn con người!
Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là quân đội
miền Nam sau thất bại Ban Mê Thuột, đã chẳng còn một tí tinh thần chiến đấu
nào. Với số quân và vũ khí do Mỹ để lại, nếu trong tay bất kỳ một tướng nào có
tí lý tưởng, có tí thể diện của con nhà võ, miền Bắc đâu có thể “chẻ tre”,
“thần tốc” đến thế! Nói cho ngay: Chính “phía bên kia” đã... gác súng, không
chiến đấu nữa. Y như một trận bóng mà một bên đã tự nguyện cởi áo rời sân cỏ!
Chẳng thế mà Lê Linh, một vị tướng tư lệnh Quân Đoàn 4 đã nói rất thật với đám
văn nghệ chúng tôi: “Chúng tớ chỉ có chạy và chạy thẳng về Sài Gòn! Quân,
tướng, đơn vị xáo trộn, thất lạc nhau lung tung! Y như một tấm giẻ rách! Làm
quái gì có ai chỉ huy ai mà cứ cãi nhau hoài.” Câu nói muốn nhắc đến hai cuốn
sách chửi nhau về ai thật sự có công của hai vị tướng miền Nam và miền Bắc mà
thắng lợi thuộc về ông tướng... miền Bắc.
Tới hôm nay, 24-9-2006, tôi đã sống thêm được
4 năm nữa để bước vào tuổi 80 đến không ngờ!
Kể từ ngày quyết dứt bỏ nỗi Hèn Nhát đáng
khinh để bắt tay vào viết cuốn Hồi Ký Của Một Thằng Hèn (1995), rồi lại bổ sung
một chương Tôi Đã Hết Hèn (2002) tới nay là đúng 4 năm nữa, tập hồi ký vẫn chưa
được công bố!
Tôi giấu kín nó như...thuốc phiện lậu trong
nhà và cẩn thận đề bằng bút dạ ngoài cái túi đựng nó “Để xuất bản năm 2010”.
Đây cũng là cái năm mà tôi tin tưởng:
—1/ Chủ nghĩa cộng sản quái quỉ này đã...“mồ
không yên mả không đẹp” bởi cái hố mà nó tự đào không đủ sâu đến nỗi nhân dân
đã đẩy nó xuống, nó vẫn bốc mùi đểu cáng thối tha đến mức ngày nào cũng có hàng
vạn người quật chúng lên để rắc vôi bột!
—2/ Tôi đã...chết rồi! Nghiã là nếu chẳng may
cho đất nước này, tới năm 2010 mà bọn lưu manh còn tại vị thì chúng cũng chẳng
thể bỏ tù tôi với các tội “phản quốc”, “gián điệp” cho nước ngoài...như chúng
đã bỏ tù các vị Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương. Lê Hồng Hà... !
Điện Thần Việt tôn thờ chư tướng thần Sinh ra là Tướng chết đi thành thần Thế, Ân, Thanh, Trí, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.
Trình Minh Thế (1922 - 3 tháng 5 năm 1955) (một số tài liệu viết là Trịnh Minh Thế) là một người theo chủ nghĩa dân tộc và là một thủ lĩnh quân sự trong thời gian cuối của cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đầu cuộc Chiến tranh Việt Nam.