Để buộc TT Thiệu phải làm theo ý Hoa Kỳ, TT
Nixon dùng chiến thuật vừa dỗ vừa dọa. Một mặt ông viết thư cho TT Thiệu hứa
hẹn tiếp tục gúp đỡ VNCH, trừng phạt cộng sản nếu vi phạm Hiệp định, một mặt
ông chính thức hăm dọa“không muốn trường hợp TT Ngô Đình Diệm tái diễn” (Xem
Palace Files và Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng). Những tài liệu
liên quan tới những lời TT Nixon nói về TT Thiệu đã được giải mật và lưu trữ
tại Thư viện Nixon ở Yorba Linda, California, cho thấy Nixon rất giận dữ trước
việc ông Thiệu chống đối những điều khoản căn bản của bản dự thảo Hiệp định.
Cuốn băng ghi âm từ 1973 dài 150 giờ và viết lại thành 30,000 trang đã được
giải mật và đã được ông Hughes, nhà chuyên môn nghiên cứu các băng ghi âm của
các tổng thống Mỹ, tiết lộ Nixon đã từng nói trong một phiên họp tại Bạch Ốc về
ông Thiệu: “Tôi không rõ đe dọa đó có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng
làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của hắn nếu cần thiết” (cut off his
head if necessary - Nguồn: BBCvietnam.com June 24, 2009). Dĩ nhiên,
Nixon nói điều này trong lúc nóng giận nhưng cũng phản ảnh một phần sự thật.
Chính tướng Alexander Haig cũng viết trong hồi ký là vào thời điểm đó, tên ông
Thiệu thường được nhắc tới trong các cuộc thảo luận và có người đưa ý kiến ám
sát ông Thiệu. Tướng Alexander Haig viết thêm: “Nixon rất mong muốn giải quyết
chuyện Việt Nam cho xong và chia sẻ sự bực bội và tức giận như núi lửa của
Kissinger đối với người đồng minh cứng đầu này (ám chỉ ông Thiệu) đã gây trở
ngại lớn nhất cho ông trong việc kết thúc cuộc chiến” (1).
Dọa nhau như thế, nhưng Mỹ đã không dám làm,
vì không dại gì gây chuyện rắc rối mới khi sắp đến cuộc bầu cử nhiệm kỳ 2 của
TT Nixon. Vì vậy thầy trò Nixon phải thuyết phục VNCH bằng những hứa hẹn trừng
phạt những vi phạm Hiệp định và tiếp tục viện trợ cho Nam VN. Khi tiếp ông
Nguyễn Phú Đức, Phụ Tá Ngoại Giao của TT Thiệu tại tòa Bạch Ốc, TT Nixon đã hứa
sống hứa chết (he repeated his bedrock assurance) là sẽ bỏ bom Bắc Việt một
cách nặng nề nếu Bắc Việt vi phạm hỏa ước (2). Về phần Ngoại Trưởng
Henry Kissinger (nhận chức Bộ Trưởng Ngoại Giao ngày 22-9-1973) cũng viết trong
hồi ký rằng chính TT Nixon, Bộ trưởng Quốc Phòng và các giới chức cao cấp của
Mỹ đều xác nhận nhiều lần với ông Thiệu là chính phủ Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt
phải tôn trong Hiệp định (3). Hứa như vậy chỉ là để ông Thiệu yên
tâm ký một hiệp ước bất lợi. Thực tế, Mỹ chỉ muốn chấm dứt chiến tranh “trong
danh dự”, có nghiã là lấy được tù binh về, rút chân khỏi vũng lầy VN, mặc cho
Nam VN rơi vào tay cộng sản, trong một “khoảng thời gian coi được” (decent
interval). Vì thế Hành Pháp bầy trò đề nghị Lập Pháp viện trợ cho Nam VN 700
triệu Đô-la. Lập Pháp lờ đi. TT Gerard Ford lại yêu cầu viện trợ khẩn cấp 300
triệu. Quốc Hội lấy cớ nghỉ hè, không thể triệu tập phiên họp cứu xét. Một khi
người ta đã quyết tâm bỏ cho chết luôn, làm sao có thể cho tiền để sống lay lứt
thêm một thời gian nữa?
Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, ông đạo
diễn phù thủ Kissinger mới viết vuốt đuôi “Lúc này tôi nghĩ tới một ông tướng
VN nhỏ bé, một người yêu nước”. Ở một đoạn khác, ông viết: “Tôi có rất
ít tình bạn cá nhân với ông Thiệu, nhưng nhìn ông theo đuổi cuộc chiến đấu một
cách cô độc sau khi người Mỹ rút lui, tôi thấy mến phục ông ấy rất nhiều. Ông
ít được thương hại, cũng cũng không được nhiều người hiểu, nhưng những điều đó
không ảnh hưởng gì tới nhân cách của ông” (4).
Đúng là những lời ai điếu để an ủi. Chính
Kissinger đã tiên đoán với Nixon là sau 2 năm ký Hiệp định Paris, miền Nam VN
sẽ sụp đổ. Các chính khách có thói quen chỉ đấm ngực nhận lỗi sau khi rời chức
vụ. Về trường hợp Việt Nam, cựu Tổng Thống Richard Nixon viết cả một cuốn sách
rút những kinh nghiệm sai lầm, No More Vietnams. Cựu Ngoại Trưởng Henry
Kissinger viết hồi ký có những đoạn xoa vuốt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và gần
đây đã chính thức xin lỗi về những sai lầm của mình. Ông còn xác nhận trong khi
Mỹ chấm dứt viện trợ cho miền Nam thì khối Xô Viết vẫn tiếp tục cung ứng đầy đủ
các tiếp liệu cho Bắc Việt. Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird nói rằng các
khoản viện trợ Mỹ dành cho VNCH đã bị cắt theo yêu cầu của các thế lực chính
trị Mỹ, đưa tới kết qủa chung cuộc là chế độ miền Nam VN thua trận vào ngày
30-4-1975 (VOA 2-7-2007).
Khi nhìn thấy vấn đề thì đã trễ. Nhưng khi tại
chức, họ chỉ nghĩ tới quyền lợi của nước họ, tới ghế ngồi và danh dự của cá
nhân họ. Một tay cầm súng, một tay cầm túi Đô la, họ cứ bước lên đầu người khác
mà đi. Vì vậy, chúng ta phải nhớ, trong trường chính trị, không có đồng minh
vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù vĩnh viễn. Lý tưởng còn thay đổi huống chi
chính sách. Khi nhu cầu đòi hỏi, họ có thể xoay đổi chính sách 180 độ, bất kể
bao nhiêu tiền bạc và xương máu đã đổ ra. Tiền và mạng người được coi là những
chi phí cần thiết cho một giai đoạn với một chính sách giai đoạn. Lúc phải tiêu
là tiêu. Tiêu rồi không tiếc.
Dù quy trách nhiệm lớn nhất cho Hoa Kỳ trong
việc mất miền Nam, chúng ta cũng phải tự nhận lỗi về những khuyết điểm của
mình. Những tính toán sai của các lãnh đạo quân sự và dân sự, nạn tham nhũng,
lính ma lính kiểng, hối mại quyền thế... đều có xảy ra dù không ở mức độ trầm
trọng như dưới chế độ cộng sản. Không thể chấp nhận những tệ nạn này nhưng
chúng không làm mất nước khi ở một mức độ thấp. Dân miền Nam vẫn sống no đủ, tự
do, xây dựng hiện tại và tương lai với đà tiến triển không ngừng. Tội nặng nhất
phải quy vào những kẻ chỉ biết vụ lợi, những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng
sản”. Họ là những con buôn bán lén gạo và thuốc Tây cho cộng sản với giá cao.
Họ là những người hướng về rừng với hoài cảm thời Việt Minh kháng chiến chống
Pháp. Họ là những trí thức viễn mơ đề cao giá trị dân tộc và chống sự hiện diện
của người ngoại quốc trên đất nước. Họ lý luận rằng cộng sản hay quốc gia đều
là người Việt, chắc không xử tệ với nhau như người ngoại chủng xử với dân mình.
Từ đó, họ chống đối chính quyền quốc gia, gán cho mọi thứ xấu và sẵn sàng nghe
theo những lời dụ dỗ của những cán bộ cộng sản nằm vùng. Họ là những người trẻ
bị đàn anh phỉnh gạt bằng những lý luận sai lầm. Cuối cùng, họ là những người
lãnh đạo tinh thần của một số tôn giáo đã vô tình hay hữu ý lẫn lộn chuyện đạo
với chuyện đời, không phân biệt đấu tranh cho công lý với đấu tranh chính trị
để lật đổ một chế độ hợp pháp, chưa kể mộ số tu sĩ là cộng sản nằm vùng khéo
ngụy trang. Để cai trị một xã hội bị lũng đoạn như thế, chính quyền vẫn phải áp
dụng những nguyên tắc dân chủ, hơi mạnh tay là bị kết án đàn áp, sửa đổi luật
lệ cho hữu hiệu thì bị kết án độc tài. Có bàn tay cộng sản nhúng vào mọi chỗ mà
nhiều người không biết, cứ tưởng mình đang tranh đấu cho hòa bình, tự do và
quyền lợi của dân tộc. Chính những người như vậy đã tiếp tay cho cộng sản mau
chiếm miền Nam.
Mất rồi mới tiếc. Mắt mở ra mới thấy mình lầm.
Trong khi dân trong nước đang đấu tranh gian khổ để đòi lại những quyền công
dân và quyền con người đã bị cướp mất, đang vật vã đòi lại và giữ gìn những
phần biển, đảo mà ông cha để lại, chúng ta ở hải ngoại đang làm gì? Còn bao
nhiêu người nghĩ tới quê hương? Có bao nhiêu người dấn thân trong những hành
động tranh đấu đòi công lý và nhân quyền cho anh em ruột thịt trong nước? Hay
đa số chúng ta vẫn thờ ơ, coi đó là việc của người khác? Có người còn tiếp tay
cho những kẻ cầm quyền bán nước và hà hiếp dân dù chính họ đã từng là nạn nhân.
May mắn thay, vẫn còn nhiều người âm thầm tranh đấu, hay ít ra cũng âm thầm góp
công góp của để yểm trợ những người tranh đấu. Họ thuộc đa số thầm lặng, chỉ
lên tiếng khi cần. Vì sống trong những xã hội tự do, các đoàn thể của người
Việt đua nở như nấm gặp mưa. Có những đoàn thể tốt nhưng cũng có những đoàn thể
hữu danh vô thực, thùng rỗng kêu to. Có những người tốt nhưng cũng có những
người chỉ thích danh lợi, thích làm lãnh tụ, mới làm chủ tịch một hội nhỏ xíu
đã mơ và cư xử như một thủ tướng, bộ trưởng, dân biểu tương lai. Do đó sự đố kỵ
và chia rẽ gia tăng, cộng thêm những bàn tay bí mật của cộng sản và tay sai
nhúng vào quậy phá các cộng đồng. Trước những tệ nạn trước mắt, chúng ta vẫn
không thất vọng khi thấy sau 39 năm, cộng sản vẫn chưa chiếm được một cộng đồng
người Việt nào ở hải ngoại, chưa đưa được khối người Việt hải ngoại vào vòng
chi phối và thần phục nhà đương quyền Hà Nội, dù cộng sản đã tốn bao công sức
và tiền bạc để thi hành Nghị Quyết 36.
Kỷ niệm 39 năm miền Nam bị đặt dưới chế độ
cộng sản, chúng ta cần thay đổi phương cách hành động. Chúng ta nên ý thức rằng
việc trực diện đấu tranh với cộng sản phải là việc của người trong nước, người
ở ngoài chỉ có thể yểm trợ tinh thần, ngoại vận và phương tiện. Chúng ta không
nên phí tiền bạc vào những việc phô trương bề ngoài. Hãy dồn phương tiện giúp
anh chị em trong nước. Khi tranh đấu trong thời đại điện tử và thông tin nhanh
chóng như hiện nay, họ cần phải có máy hình, điện thoại di động, computer...
Khi ốm đau hoặc khi bị bắt vào tù, họ cần được tiếp tế lương thực và thuốc men,
chưa kể những hoạt động khác đòi hỏi nhiều phương tiện hơn. Các đoàn thể ở hải
ngoại nên phối hợp trong việc phân phối sự yểm trợ cho trong nước để tránh tình
trạng chỗ ít qúa, chỗ nhiều qúa. Hãy tạo thêm những đường dây liên lạc mới, tìm
kiếm thêm những người dấn thân mới và giúp đỡ họ. Nếu làm được như thế, đồng
bào trong nước sẽ lên tinh thần và phong trào tranh đấu có cơ lớn mạnh nhanh
chóng vì có sự yểm trợ cụ thể và hữu ích của đồng bào ngoài nước.
Mong rằng ngày 30-4 năm tới, chúng ta sẽ có
một nước Việt Nam đẹp hơn nước Việt Nam hiện nay.
Mặc Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét