22 giờ 30. Tiếng loa réo gọi tham dự mít tinh chào mừng cách
mạng thành công sáng sớm mai làm rung cửa kính. Côn đề nghị bật đèn. Tôi đồng
ý. ánh sáng ngập căn phòng. Tàn thuốc lá bừa bãi trên bàn xa-lông. Chúng tôi đã
uống cạn chai rượu thứ nhất. Thiếu úy Bảo và trung sĩ Thân thấm mệt. Tôi dục
hai thằng em kết nghĩa đi ngủ.
- Các em yên tâm, không có chết chóc gì cả, không có biển máu.
Một nhà cách mạng chính cống đã quả quyết với anh rằng, cách mạng đại xá, đại
đại xá.
- Sao lúc nãy anh không chịu nói? Bảo hỏi.
- Anh thử xem em can đảm đến đâu. Tôi đáp.
Bảo và Thân đi ngủ. Còn Côn với tôi. Chai rượu thứ hai được
khui.
- Mày vừa nói gặp nhà cách mạng chính cống.
- Ừ.
- Ai đó?
- Phan Kim Thịnh.
- Thằng ấy?
- Nó chơi giép râu, nón tai bèo.
- Nó nằm vùng?
- Thứ rắn độc. ông đừng ngạc nhiên, nếu chúng ta không chết, sẽ
có dịp nhìn rõ những thằng nằm vùng trong mọi lãnh vực. Và chúng ta sẽ há hốc
mồm.
- Tại sao?
- Vì toàn những đạo đức gia khổ hạnh và chống cộng hơn cả người
chống cộng hung hăng nhất.
- Nó nói cộng sản đại xá à?
- Ừ.
- Mày tin nó?
- Tin mẹ gì, tôi trấn an cu Bảo.
- Tao nghĩ nó đại xá thật.
- Ông nghĩ thì cứ nghĩ. Cộng sản nó làm gì, mình đâu đoán nổi.
Nó bảo không là có, có là không. Nó qua mặt cả thế giới.
- Long?
- Đừng hỏi thêm nữa. Uống rượu đi.
- Tao mở ti-vi nhé?
- Chớ.
- Xem nó nói gì chứ?
- Nó khoe nó đánh Mỹ cút, Ngụy nhào.
- BBC vậy?
- Nó tường thuật cộng sản vào Sài gòn.
- VOA?
- Nó khen Việt cộng.
- Hay là mày với tao ra cổng ngắm nhân gian?
- Không. Ông làm ơn mở cửa cho khói thuốc tan loãng giùm.
Cửa mở. Khí thế cách mạng bên ngoài ùa vào nhà tôi "Nhân
dân" ca hát, hô khẩu hiệu vang trời. "Nhân dân" không ngủ đêm
nay. Họ không ngủ trong bóng tôi. Và họ khóc. Sao 30-4 dài thế? Với tôi, nó dài
hơn cả đời tôi. Côn lại khép cửa. Chúng tôi uống rượu, hút thuốc chờ sáng. Đêm
qua tôi đã chờ sáng. Đêm nay tôi vẫn chờ sáng. Tôi chẳng bao giờ ngu dại tin
rằng cộng sản tha tôi. Ngày Chu Tử bị ám sát, tôi viết bài Nỗi cô đơn của người
cầm bút đọc tại Viện âm nhạc và kịch nghệ quốc gia là tôi đã tiên đoán thân
phận của tôi. Rồi tôi viết thêm bài nữa, đăng trên Sống*. Khẳng định tôi là kẻ
cộng sản không tha, quốc gia không dung. Đến cuốn Tháng giêng ngon như một cặp
môi gần xuất bản tháng 2-1975, tôi miệt thị cộng sản là bọn trả thù vặt và nói
rõ, "đời sẽ có kẻ gọi ta là phản động." Thế thì cộng sản phải trả thù
tôi. Họ không trả thù tôi là họ thiếu lô-gích, họ hết là cộng sản. Cộng sản
không tha tôi, đã đành. Nhưng tại sao quốc gia không dung tôi? Cái thứ gọi là
quốc gia mà biểu tượng là Nguyễn văn Thiệu, Đặng văn Quang không được tôi xếp
hạng quốc gia chân chính. Người quốc gia chân chính chưa hề nắm quyền bính tối
cao. Tôi hằng coi Hà Nội như phỉ quyền, Sài gòn như ngụy quyền. Tôi thiết tha
tranh đấu để có một chính quyền trên quê hương tôi. Muốn thế, cuộc chiến đấu
của tôi phải loại bỏ phỉ quyền tôi tớ của Liên xô và ngụy quyền tôi tớ của Hoa
kỳ. Và đích thị tôi là kẻ cộng sản không tha, quốc gia không dung. Họa may,
quốc gia chân chính sẽ dung tôi. Tôi hy vọng thế.
Nhiều bằng hữu bảo tôi là kẻ nghịch thiên. Tôi không chối cãi.
Tôi xác định thái độ nghịch thiên của tôi:
Thản nhiên ngước mặt ngạo trời
Trong cơn hồng thủy vẫn cười ngả nghiêng
Kể từ đời tắt lửa thiêng
Nỗi ta đối địa nghịch thiên mộng cuồng
Chém ngang độc nhất vô song
Tìm ra cái lẽ vô cùng thênh thang
Hỡi ơi tai đục trần gian
Sao nghe nổi máu cung đàn bão mưa
Hỡi ơi mắt trắng cõi thừa
Sao nhìn nổi ngọc trên thơ tỏ tình
Chung thân can tội nghịch thiên
Còn say cuồng mộng thản nhiên ngạo trời
Tên nghịch thiên ngồi uống rượu với bạn thơ ấu chờ sáng và chờ
chết. Nó kiểm điểm nó. à, nó đã có 50 tác phẩm văn chương, 200 số báo Tuổi
Ngọc, hơn 10 ngàn bài báo. Cộng sản không tha, quốc gia không dung nó nhưng đã
có đứa nào bén gót nó?
- Này Côn.
- Gì?
- Người ta sẽ hâm mộ Con Thúy.
- Tại sao?
- Vì người ta sẽ thấy sau 30-4-75, giống hệt sau 19-8-45. Tôi đã
viết về son phấn cách mạng nhạt nhòa.
- Mày nói đúng.
- Này Côn?
- Gì?
- Ông sẽ thoát biển máu. Tôi, có thể, sẽ thoát biển máu nhưng tù
rục xương. Tôi muốn noi gương nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh.
- Sao?
- Khi tôi chết, đừng ai khóc. Cả ông nữa. Hãy cười, cười, cười?
Côn nín thinh. Giây lát, nó lảng qua chuyện khác.
- Mày biết ông Nguyễn Mạnh Côn làm quân sư cho tướng Vĩnh Lộc
không?
Tôi ngạc nhiên xuýt rơi ly rượu:
- Thật à?
- Thật.
- Hèn chi Chậm bước tiên phong, muộn chiến trường. Chắc chắn,
ông Vĩnh Lộc phải đợi ông Côn hút đủ cữ rồi mới hiến kế. Hóa cho nên, ông Vĩnh
Lộc lên ti vi tối qua sốt ruột dữ.
Tôi nhớ cuối triều đại Ngô Đình Diệm, anh Nguyễn Mạnh Côn ra ứng
cử dân biểu đơn vị quận 3, Sài gòn. Tôi cho anh ta vay tiền bán tập truyện Hoa
thiên lý và đi a-lô vận động giúp anh ta. Hôm ra mắt cử tri ở trường tiểu học
Chí Hòa, anh Côn là người nói thứ nhì, sau Huỳnh Thành Vị. Tốt quá. Vì họ Huỳnh
mở màn cho anh Côn. Tôi ngồi đợi anh hút no thuốc phiện rồi mới rửa mặt, đánh
răng. Rồi chở Vespa, đưa anh lên địa điểm. Chúng tôi tới, cử tri về gần hết. Vì
anh đến trễ, nói sau cùng?
- Ông Ngô Đình Nhu xưa muốn cất nhắc ông Côn, chỉ chê tội
nghiện.
- Nay ông Vĩnh Lộc xài. Vận nước đã hết. Tôi chờ chết là hợp lẽ
trời.
Bèn nốc cạn ly:
- Đời nhà Thanh, dân Tầu mới hít tô phe bạo. Mừng cho Lưu Bang
và mừng cho Lưu Bị. Vì Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng Minh không đong thóc! Ông
Vĩnh Lộc đồng hóa văn nghệ với quân sự. Hỏng, hỏng! Tại hạ có lời chê điểm này.
Đặng Xuân Côn dứt cuộc:
- Bây giờ, quân sư đang nằm "đong", tân Tổng tham mưu
trưởng đi đâu không rõ, "nhân dân" hồ hởi phấn khởi và nhân dân ôm
nhau khóc trong bóng tối.
***
23 giờ. Không biết mấy giờ ở Guam? Bằng hữu văn nghệ của tôi đã
đến đảo Guam chưa, hay còn lênh đênh ngoài khơi, trên hạm đội số 7? Tôi chợt
nghĩ tới những người Việt Nam yêu tự do, chấp nhận báng súng của "lính
thủy đánh bộ" Mỹ, dắt díu nhau leo lên nóc tòa đại sứ Mỹ rồi, sau 8 giờ
30, lủi thủi bước xuống, lếch thếch trở về. Những người Việt Nam thiếu may mắn
di tản đang làm gì giờ phút này? Chắc chắn, họ đang sợ hãi, đang khóc và đang
thèm được chết ngon lành. Đêm qua là đêm không ngủ của tôi. Đêm nay là đêm
không ngủ của Sài gòn, của cả miền Nam. Không ngủ ngoài đường. Không ngủ trong nhà.
Hoặc dẫu ngủ, chỉ là những giấc ngủ chập chờn như tên một tác phẩm của Nhật
Tiến. Trong những giấc ngủ chập chờn, con người thấy chập chờn những huyệt sâu
chôn sống tập thể, những mã tấu vung chặt ngang thây, những băng đạn ria phọt
suối máu... Và tôi, không ngủ để hình tưởng một cái cần xé chứa tảng đá và tôi
ràng giây kẽm gai kín nắp liệng xuống khúc sông nào đó. Tôi chết từng giây. Tôi
biết tôi chết. Tôi sặc sụa. Tôi đau đớn. Tôi giẫy dụa. Trước đó, tôi phải đứng
trước đám đông phán quan y hệt tên da trắng đứng trong vòng vây của dân da đỏ,
phải tự thú mình có tội với Đảng, với Cách mạng, với Nhân dân? Tôi được phép mở
to mắt để nhìn đám đông phán quan của thời đại tôi Chỉ có vài tên cộng sản
chính thống. Còn rặt nhân dân bị cưỡng bức hận thù. à, trong đám nhân dân bị
cưỡng bức hận thù, có vài đứa theo chủ nghĩa dậu đổ bìm leo. Những đứa này to
mồm nhất, nỏ họng nhất. Chúng nó xỉa xói tôi, kết tội tôi, ném đá trúng thân
thể tôi. Chúng nó vớ được cơ hội ngàn năm một thuở để tuyết hận thua kém tôi
mọi mặt. Cỏ hèn vươn vai chống đại thụ. Tôi sợ hãi chứ. Nhưng không sợ hãi bọn
dậu đổ bìm leo. Tôi xón đái ra quần. Tôi nghĩ những giọt nước tiểu của tôi dành
cho bọn dậu đổ bìm leo ở khắp nơi trên trái đất Tôi đã tưới mát cỏ hèn. Đại thụ
đã ban phước cho cỏ hèn. Hãy nhận phước ấy, cỏ hèn? Hãy nhận và đừng ân hận sự
hóa kiếp. Bởi vì, cây cỏ luân hồi vẫn cỏ cây. Chỉ có con người, con người công
chính và việc làm công nghĩa mới được phục sinh rạng rỡ. Và mãi mãi là con
người.
- Long!
- Gì?
- Nếu ngày mai mày chưa chết?
- Thì ngày mốt.
- Nếu không có biển máu?
- Thì chết mòn trong tù ngục.
- Mày chấp nhận chết mòn?
- Tại sao?
- Vì tôi mong gặp hư vô.
- Hư vô là con mẹ gì?
- Là mềm bí ẩn của đời sống. Niềm bí ẩn này chỉ tìm gặp trong
ngục tù, thống khổ và cô đơn.
- Mày sảng chưa?
- Còn rất tỉnh để sợ chết, dẫu chết cách nào, kiểu nào.
- Nghĩa là mày thèm sống.
- Dĩ nhiên.
- Sống mòn và chết mòn?
-Tôi vừa nẩy ý tưởng mới. Tôi muốn tìm hạnh phúc trong bất hạnh.
- Mày lãng mạn.
- Luôn luôn lãng mạn. Lãng mạn đến chết.
Hai đứa tôi cụng ly. Bên ngoài, đường phố xôn xao tiếng nói, rầm
rập bước chân. Tôi không còn tin rằng nhân dân bị cưỡng bức ra đường hoan hô
cách mạng thành công nữa. Nhân dân nghèo khổ đã thật tình và nhiệt tình hoan hô
cách mạng. Tội nghiệp nhân dân! Nếu họ đã đọc Con Thúy của tôi. Đừng trách móc
nhân dân. Nhân dân là thế. "Bạc như dân" mà! Nhân dân oán ghét chế độ
độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và nhân dân hoan hô cách mạng 1-11-1963.
Cách mạng của lũ thoán nghịch không đem lại hạnh phúc cho nhân dân trong vòng
ba tháng, nhân dân lại oán ghét và hoan hô đảo chính, chỉnh lý. Dưới chế độ
quân phiệt Nguyễn văn Thiệu, tham thũng ngập ứ, thối nát tận óc, bất công đầy
rẫy, đàn áp không thương xót, nhân dân thù hận và mong đợi tân cách mang. Nhân
dân lại hoan hô như đã hoan hô. Và rồi, ba tháng sau thôi, nhân dân sẽ ủ ê với
cách mạng vô sản. Kể từ dân tộc Việt Nam làm quen cách mạng, chưa bao giờ niềm
vui kéo dài quá ba tháng. Rốt cuộc, cái dân tộc hẩm hiu này không thiết đoái
hoài tương lai nữa. Tương lai tồi tệ hơn hiện tại và nghiệt ngã hơn dĩ vãng.
- Long?
- Gì?
- Lúc mày đi mua rượu, thằng Tự chạy ngang qua cổng nhà mình.
- Nó là lính thủy sao không theo tầu mà chạy?
- Phải thi hành sứ mạng đến tận 9 giờ. Vả nữa, vợ con nó còn nằm
nhà.
- Sứ mạng gì?
- Gài mìn đánh sập cầu Đồng Nai ngăn chặn xe tăng cộng sản vào
Sài gòn.
- Cầu không sập?
- Tại sao?
NHỮNG NGƯỜI LÍNH THỦY VIỆT NAM CỘNG HÒA NHÂN BẢN
Những người lính thủy được chỉ huy can đảm giao cho sứ mạng đánh
sập cầu Đồng Nai trên xa lộ Biên Hòa để ngăn chặn xe tăng cộng sản tiến vào Sài
gòn đã hoàn tất nhiệm vụ lúc 9 giờ ngày 30-4- 1975. Cả tấn TNT gài kín gầm cầu,
bọc kín chân cầu. Xe tăng cộng sản từ Long Khánh bò vô, bị quân dân Tam Hiệp
đón đánh. Trận chiến hào hùng và lãng mạn này kết thúc mau lẹ nhưng đã làm chậm
bước tiến của cộng sản. Xa lộ lúc ấy, hai bên cầu Đồng Nai, nườm nượp dân chúng
chạy giặc và đông đầy binh sĩ tan hàng. Dân chúng Sài gòn chạy xuôi. Dân chúng
Biên Hòa chạy ngược. Cầu Đồng Nai nghẹt người và xe cộ. Cùng với ông già, bà lão,
thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, những anh lính thủy giữ trọng trách đánh sập cầu
còn nhìn rõ xe tăng cộng sản, bộ đội miền Bắc. Sức công phá của TNT gài dưới
cầu sẽ làm tung bay cốt sắt xi-măng, phạm vi một cây số vuông. Và dân chúng sẽ
bị chết, bị thương vô kể.
Những người lính thủy quay giang dinh, lao nhanh về căn cứ. Cầu
Đồng Nai không bị đánh sập. Nếu là Mỹ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Nếu là cộng sản,
cây cầu sẽ bị đánh sập Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng với Việt Nam,
cây cầu không bị đánh sập. Hình như nhận loại chưa biết chuyện này. Chúng ta
thua trận, còn vì tình thương và lòng nhân đạo nữa.
CHƯƠNG 12
23 giờ 20. Khí thế cách mạng tăng cường độ. Nhân dân chuẩn bị
mít tinh, biểu tình sáng mai từ đêm nay. Đường phố đã nghẹt người, tiếng loa
vẫn réo gọi nhân dân đừng quên bổn phận chào mừng cách mạng thành công. Chai
rượu thứ hai của chúng tôi còn quá nửa. Tôi khó hiểu tại sao đêm nay tôi không
say, dù mệt mỏi, dù ăn ít và uống quá nhiều. Bây giờ, tôi quyết định ra phố xem
diễn tiến cách mạng 30-4-75 có giống cách mạng 19-8-45.
Phải thành thật nói rằng, hai mươi năm sống ở Sài gòn, tôi chưa
hề thấy đêm nào Sài gòn cuồng nhiệt như đêm nay. Y hệt đêm 19-8-45 ở thị xã
Thái Bình của tôi, năm tôi mười tuổi. Dân tộc Việt Nam luôn luôn khao khát cách
mạng vì luôn luôn thèm khát hạnh phúc. Chúng ta đã lạm phát cách mạng, lạm phát
chủ nghĩa. Mà chúng ta vẫn thiếu hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn sơ đủ làm con
người gần gũi con người, đủ để tình tự kết đan tình tự. Khi con người bước gần
biên giới của tuyệt vọng, nó sẽ thấy áng lên từ bên kia ánh sáng hy vọng. Bởi
thế, cách mạng này hư đốn, chúng ta hy vọng cách mạng khác. Cách mạng khác hư
đốn, chúng ta lại hy vọng cách mạng sắp xẩy ra. Nhân dân Sài gòn đang cuồng
nhiệt đón chào cách mạng vô sản, sẽ nguội lạnh vài tháng sau. Có thể vài tuần
sau. Tôi đoan quyết. Vì tôi đã kinh qua một lần cách mạng tháng 8. Cách mạng
tháng 8 ở đêm 30-4 này còn khoác hào quang mười năm kháng chiến chống Pháp
giành độc lập, được khoác thêm hào quang 20 năm chống Mỹ cứu nước.
Người ta không nhìn thấy thiên đường, dĩ nhiên. Người ta chỉ
nhìn rõ trần gian, nơi người ta đang sống đọa đầy và, dù không biết địa ngục ra
sao, người ta vẫn ví trần gian của người ta như địa ngục. Và người ta mơ ước
thiên đường. Nếu thiên đường cộng sản, thiên đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc
Việt Nam được mặc khải như một thiên đường hoang lạnh, ở đó, con người bị tước
đoạt quyền làm người, con người biến thành nô lệ thảm hại của thứ chủ nhân ông
mới, điêu ngoa và bóc lột tận tình là Đảng, con người sống vô vọng trong đói khổ,
ngu dốt, héo hắt, tàn tạ thì chẳng ai mơ ước thiên đường cả. Mặc khải một thiên
đường bánh vẽ, đồng thời, phải hiện thực cái trần gian cho nó rực rỡ ý nghĩa
làm người và no đầy hạnh phúc con người khao khát. Tiếc thay, cả hai điều đều
không có. Và đó là tội ác của Mỹ và đám tướng lãnh thống trị cầy cáo. Kết quả
là đêm nay, 30-4-75, dân Sài gòn như những con phù du dưới ánh đèn cực mạnh của
chủ nghĩa cộng sản lạc hậu. Thiên đường cộng sản sẽ được người Sài gòn khám phá
vào ngày mai. Nó sẽ rỗng tuếch, mốc meo, trơ trẽn, bịp bợm. Người ta sẽ ủ ê,
cay đắng, não nề. Và người ta lại lặng thinh ôm ấp niềm hy vọng cách mạng mới.
Rồi vẫn thế. Và nghìn năm dân tộc này sẽ tăm tối, sẽ chẳng biết hạnh phúc là
cái gì! Thống trách gì đây? Chúng ta khan hiếm lãnh tụ lương thiện? Hay đất
nước chúng ta chỉ có lãnh tụ bù nhìn, chỉ có lãnh tụ thích làm tôi mọi cho
ngoại bang, chỉ có những thằng hề rẻ tiền múa may trò yêu nước bệ rạc?
Ánh sáng của đèn Mỹ trên những trụ đèn bằng cây Mỹ đem từ Mỹ
sang đã soi rõ mầu cờ vô sản đêm Sài gòn đau thương. Tư bản và vô sản cần liên
kết. Như môi và răng. Thiếu tư bản, vô sản mất đối tượng đấu tranh. Thiếu vô
sản, tư bản hết chính nghĩa khai phóng tự do, dân chủ. Cho nên, tư bản không
bao giờ muốn diệt vô sản và ngược lại. Hoa kỳ không thích hại Liên xô. Liên xô
không thích hại Hoa kỳ. Cả hai kết hợp để hại các nước nhỏ chậm tiến. Nỗi thê
lương nhất của thời đại, khốn nạn nhất của thời đại chúng ta là các nước nhỏ
chậm tiến đã xâu xé nội bộ, nhân danh cả tư bản lẫn vô sản. Việt Nam là biểu tượng
thê lương và khốn nạn. Hai mươi năm huynh đệ tương tàn để nghìn năm khó ngóc
đầu dậy. Bao giờ mới lấp hết hố bom Mỹ? Bao giờ rừng mới hồi sinh tan thuốc
khai quang Mỹ? Bao giờ mới trả nợ hết hỏa tiễn Liên xô? Bao giờ mới hết xuất
khẩu nô lệ sang Sibérie, sang Đông âu? Không bao giờ cả. Những nước chậm tiến
trên thế giới mãi mãi phải nghèo khổ. Để sáng danh chủ nghĩa vô sản. Và để sáng
danh cả chủ nghĩa tư bản. Những nước chậm tiến trên thế giới lại mãi mãi cần
phải có chiến tranh. Để Hoa kỳ và Liên xô đọ vũ khí mới. Thế thì ánh đèn tư bản
soi rõ mầu cờ vô sản là chuyện đương nhiên. Liệu nó có soi sáng lương tri nhân
loại? Liệu nó có soi sáng lương tri dân tộc Hoa kỳ?
Tiếng loa phóng thanh "giải phóng" ý nghĩ của tôi, bắt
tôi trở về thực tại. Ngày mai, 1-5, còn là ngày Lao Động quốc tế nữa. Người Mỹ
đã chọn ngày lành tháng tốt để tặng cộng sản Việt Nam. Và bài hát rất xưa lại
vang vọng đêm nay:
Ngoài kia lời non nước
đang nhắc ta
mau nhắc cao giống nòi
yêu mến muôn giống người
Ngoài kia công nhân ơi
quốc tế đang giơ tay đón chào bầy con đoàn kết
từng nhớ những phút chiến thắng
tiền phong đua tranh bao năm
lầm than đau thương trong khốn cùng
Giải phóng thống nhất đất nước
Việt Nam ra công chen vai
cùng thế giới mới sống chung
tranh đấu cuối cùng là đời sống
với giang sơn
công nhân Việt Nam chiến đấu
cùng sống tập đoàn toàn thế giới công khai
và kiến thiết xã hội ngày mai
Lúc đế quốc đang sắp tan rã dần
Ta tiền phong tiến tới
Sức chiến đấu đi xuống miền Đông Nam
Lúc đế quốc đã tàn...
Tham vọng của cộng sản Việt Nam là nuốt gọn các nước Đông Nam Á.
Họ không ngần ngại bộc lộ tham vọng này. Sớm hay muộn thôi, cộng sản sẽ thôn
tính Thái Lan, Mã Lai... "Tiền đồn chống cộng của Đông Nam á" đã bị
san bằng. Cộng sản đã nuốt miền Nam, họ sẽ nuốt Đông Nam á. Có khi lại là điều
hay. Bởi vì, lúc ấy, sự phản công của các nước Đông Nam á sẽ tạo cơ hội thuận
lợi cho người Việt Nam giải thoát quê hương mình khỏi ách cộng sản. Nhân loại
rất nên nếm mùi cộng sản. Chưa nếm mùi cộng sản, nhân loại vẫn ham... làm dáng
cộng sản và tưởng rằng cộng sản là đồ trang trí cho vui mắt đời sống. Bài hát
Công nhân Việt Nam dạo đầu cho cuộc mít-tinh, biểu tình ngày mai, 1-5, vừa chào
mừng cách mạng thành công vừa chào mừng Lao Động quốc tế thành công thật hợp
tình, hợp cảnh. Đảng cộng sản Việt Nam vẫn núp trong áo Đảng Lao Động Việt Nam.
Tôi muốn bài hát bay vút sang Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba... Nhưng nó tắt
ngủm, nhường cho bài Đảng Lao Động Việt Nam.
Đảng Lao Động Việt Nam
Đảng của chúng ta
vì giai cấp cần lao
Đảng mưu giải phóng nước nhà
Đảng chúng ta là mặt trời
Hồ Chí Minh là mặt trời
dìu dắt cho muôn lớp người vùng lên...
Hai đứa tôi đến một góc phố. ở đây, một chị cán bộ giép râu được
bảo vệ bởi thanh niên Cờ Đỏ đang "phổ biến" những bài ca ngợi Bác cho
các em nhi đồng. Các em yêu cầu chị hát bài ca cách mạng. Chị cao giọng:
Như bao cô gái ở trên non
Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon
Tay vót chông miệng hát không nghỉ
Như bao cô gái ở trên non
Như bao cô gái ở Tây Nguyên
Ai nhanh tay vót bằng tay em
Chim hót không hay bằng tiếng hát em
Mỗi mũi chông nhọn hoắt căm thù
Xuyên thây quân cướp nào vô đây
xuyên thây quân cướp nào vô đây
Còn giặc Mỹ cọp beo
Khi còn giặc Mỹ cọp beo
Em chưa ngừng tay vót chông rào làng
Nhưng nay mai giặc chạy rồi
Tre rừng ta làm nhà làm chòi cao
Ê, chân ta đi chưa mỏi
Trời trong xanh
Em còn vót chông rào làng nữa
Ê quân xâm lăng nào vô đây
Chờ bọn bay
Diệt bọn bay...
Các em nhi đồng vỗ tay hoan hô. Chị cán bộ tuyên văn giáo dục
tiếp các em nhi đồng Sài gòn những bài ngắn thù hận giặc Mỹ, thù hận đế quốc.
Không có gì lạ cả. Tháng 7-1954, tôi đã thấy ở những góc phố thị xã quê hương
tôi, các chị cán bộ tuyên văn giáo dục các em nhi đồng thù hận giặc Pháp, thù
hận đế quốc, thù hận địa chủ, ca ngợi Bác Hồ, Bác Mao, ca ngợi Liên xô, Trung
quốc Thù hận "trồng" từ 1954, tiếp tục "trồng" đến 1975, và
vô tận, theo chủ trương "trồng người" của ông Hồ Chí Minh. Tôi biết,
từ chập tối ở các góc phố, ở các khu phố, cán bộ tuyên truyền văn hóa của cộng
sản đã tụ tập thiếu niên, nhi đồng để dạy những bài ca cách mạng cho rộn ràng
cách mạng sáng mai. Về điểm này, cộng sản rất "nghề". Trẻ con mau
thuộc bài và hăng say hát. Tôi chợt nghĩ thân phận tôi. Tôi quả là không khá.
Riêng bài thơ Em bé của tôi đăng trên tạp chí Chỉ Đạo năm 1960 đã đủ gây hệ lụy
cho tôi rồi.
Hôm nay em đi học
Mắt ngời ánh hào quang
Những vì sao mới mọc
Thắp lửa rực huy hoàng
Trang vỡ lòng thầy dậy
Đánh vẫn chữ Việt Nam
Con đi nước con đấy
Đẹp tự bốn nghìn năm
Tay mềm tô nét viết
Xanh mướt nghĩa yêu thương
Chao ơi là tha thiết
Mộng ước gửi ngàn phương
Tiếng em mùa xuân ấm
Bài quê hương loài người
Không biên thùy ngăn cấm
Không ai khóc cuộc đời
Và mãi hồn thơ ấy
Cây hạnh phúc muôn thu
Xin đừng ai nỡ dạy
Em tôi nói căm thù
Tôi đã chống chủ trương "trồng người" của ông Hồ Chí
Minh, của cộng sản. Họ dạy tuổi thơ thù hận, tôi dạy tuổi thơ thương yêu. Cả
đời tôi, tôi loay hoay giáo dục tuổi thơ không thù hận. Rốt cuộc, thù hận hai
phía trút xuống đầu tôi. Cộng sản không tha, quốc gia không dung là vậy
Tôi muốn đi xa thêm. Nhưng chỗ nào cũng thế, Sài gòn đêm nay.
Với cộng sản là rập khuôn. Một cảnh tượng là triệu cảnh tượng. Giống nhau như
khuôn đúc. Một khẩu hiệu là triệu khẩu hiệu. Không được thiếu. Không được thừa.
Những kẻ thiếu sáng tạo mà cứ đòi "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc" nghĩ thật buồn cười.
- Về chứ Long?
- Về thì về.
- Chẳng có gì khác hơn 19-8-1945.
- Giống hệt 1954.
- Thế mà nó thắng?
Đặng Xuân Côn thở dài. "Thế mà nó thắng", bốn tiếng
nghe sao não nùng, ai oán? Hai đứa tôi trở về nhà, tiếp tục cuộc rượu.
"Cõi đời ngoảnh mặt quên xa tiếc", tôi không nghĩ gì chuyện ngoài
phố, chuyện ngày mai nữa. "Ngày mai ra sao rồi hãy hay". Chúa Jésus
đã dạy: "Ngày mai để cho ngày mai lo".
- Long ạ. Tao cho rằng nó đã thắng, nó không cần hủy diệt bọn
nhà văn đâu.
- Ông không hiểu cộng sản. Và ông càng không hiểu hệ lụy văn
chương. Văn chương nó gắn liền với tư tưởng. Con người làm văn chương tư tưởng
sẽ chết nhưng văn chương tư tưởng của nó tồn tại và ảnh hưởng mãi mãi. Cộng sản
không tha bất cứ nhà văn nào chống đối tư tưởng của họ, trừ bọn nhà văn huê tình,
rỗng tuếch... Uống đi và đừng lo cho tôi. Tôi được sống với ông trọn hôm nay là
đáng sống rồi. Nếu tôi phải ân hận là tôi chưa hề làm cho ông vui lần nào. ông
hy sinh cho tôi đủ thứ mà tôi không biết nhường cho ông đứa con gái, hồi chúng
ta ba đào ở Nhà Hát Tây.
- Quên chuyện ấy đi!
- Làm sao mà quên? Ông thất tình ngã xước máu chân! Tôi nên
thanh thỏa chuyện này trước khi tôi chết hay là tôi quằn quại trong ngục tù.
- Mày sẽ gặp hư vô?
- Mong lắm.
Hai đứa tôi cụng ly. Tưởng chừng, ngày xưa còn bé, Vũ và Côn
uống những ly xi-rô Grenadine thơm phức ở đầu cầu Bo. Chúng tôi chơi với nhau
từ tiểu học trường Monguillot. Nhật đảo chính Pháp, có chúng tôi chứng kiến.
Chúng tôi chứng kiến Nhật chặt đứt tay người Việt Nam đói khổ ăn cắp thóc nuôi
ngựa Nhật. Chúng tôi chứng kiến Nhật treo dộng đầu người xuống, trên cây cao.
Rồi chúng tôi đi đếm xác người chết đói, đi ăn mày cơm gạo cứu đói. Chúng tôi
chứng kiến cách mạng 19-8. Ký ức của chúng tôi còn nguyên vẹn Tầu phù tước khí
giới Nhật, tiêu thổ kháng chiến, chiến tranh, di cư... Và hôm nay, giải phóng
Chúng tôi đã trải dài đời mình theo những biến cố chập chùng của đất nước. Đã
hết chưa? Côn chưa muốn hết. Nó đã dựa lưng vào ghế, mắt lim dim ngủ, tay còn
cầm ly rượu.
***
Tôi không biết danh sĩ thời xưa đã mấy ai, chờ chết một ngày dài
nhất đời mình, một ngày dài nhất của dân tộc mình, của thời đại mình. Hình như
chẳng có ai. Thời của người xưa hiền như người xưa. Nên, "một ngày dài
ghê" mới chỉ là "ba thu cộng lại". Thời của người xưa đơn giản
như người xưa. Nên, người xưa thản nhiên chờ đợi cái chết cơ hồ đợi chờ cuộc
phiêu du vào hư vô. Người xưa không bị tưởng tượng cách chết, kiểu chết tính
bằng co rút của tế bào, tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của
nhịp tim. Ngày dài nhất của thời đại chúng ta là hai mươi năm cộng lại. Ròng rã
hai mươi năm phiền muộn, chiến tranh, tang tóc, sinh ly, tử biệt. Chúng ta có
ngày dài nhất lấy máu mà đo, đem nước mắt mà lường vì chúng ta được Hoa kỳ khai
phóng tự do, dân chủ. Ngày dài nhất của chúng ta nghẹn ngào hơn bất cứ ngày dài
nhất nào của loài người, từ khai thiên lập địa. Bởi nó là ngày dài nhất báo
hiệu những ngày dài nhất, những vô tận ngày dài nhất, nhục nhằn nhất, cay đắng
nhất, oan khiên nhất trên quê hương chúng ta. Muốn đo lường chính xác, và muốn
cực tả niềm đau, phải dùng giây kẽm gai viện trợ Mỹ mà kéo chiều dài của ngày
dài nhất. Hiểu tại sao chứ? à, giây kẽm gai viện trợ Mỹ không kịp di tản sẽ rào
quanh nhà tù, trại tập trung cộng sản. Danh sĩ thời xưa thiếu hẳn cảm giác hứng
đòn ý thức hệ. Người thời xưa không thèm nhìn mỏ Con ó, không thèm ngắm móng
Con Gấu. Người thời nay bất hạnh hơn, bị Con ó mổ mù mắt, bị Con Gấu cào bấy
tim. Để chờ chết một ngày dài nhất.
Còn hệ lụy văn chương của danh sĩ thời xưa thế nào? Mới chỉ nghe
kiêu sĩ Cao Bá Quát lên đoạn đầu đài. Nhưng kiêu sĩ Cao Bá Quát bay đầu đâu
phải tại văn chương - tư tưởng? Cái kiêu bước thêm vài bước thành cái cuồng.
Cái cuồng biến thể sang ngông. Và họ Cao làm loạn tiêu sầu. Rượu chưa đủ là
thế. Văn học sử chép lời giăng giối của Cao Bá Quát:
Ba hồi chuông dục: Đù cha kiếp
Một nhát gươm vung: Đéo mẹ đời
Tôi không nghĩ rằng khẩu khí của Cao Bá Quát bình thường vậy. Kẻ
nghịch thiên Cao Bá Quát đếm xỉa chi cái kiếp, cái đời. ông đã chửi cái thế,
cái thời. Theo tôi, ngạo nghễ bước lên đoạn đầu đài, Cao Bá Quát đã sang sảng:
Ba hồi chuông dục: Đù cha thế
Một nhát gươm vung: Đéo mẹ thời
Đấy mới là Cao Bá Quát. Há Ngô Thời Nhiệm chẳng đem thời thế trả
miếng Đặng Trần Thường đó sao? Dẫu gì chăng nữa, Cao Bá Quát không hề bị bức tử
vì văn chương - tư tưởng mình. Danh sĩ thời xưa hạnh phúc gấp bội danh sĩ bây
giờ. Lan Khai bị nhốt vào rọ ngâm nước. Khái Hưng bị dìm dưới sông. Phan Khôi
bị cô lập chết mòn. Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An nằm tù, Nhân Văn Giai
Phẩm đi cải tạo.... Tôi hiểu thân phận tôi sẽ ra sao, sắp ra sao.
Nhưng tôi bằng lòng thân phận tôi, tự hào thân phận tôi. Tôi
chống cộng sản tự nguyện. Mười lăm năm cầm bút của tôi, tôi không hề điếm nhục
ngửa tay nhận tiền của Mỹ, của các chế độ Sài gòn để làm công việc đánh đĩ văn
chương - tư tưởng. Tôi chống cộng sản và vì lý tưởng chống cộng sản, tôi chống
luôn cả chính sách xấc xược của Mỹ áp đặt lên số phận dân tộc tôi, chống luôn
cả tập đoàn thống trị bù nhìn và bè lũ điếu đóm, chống luôn bọn tham nhũng thối
nát, bất tài, vô tướng, chống luôn đám hề chính trị rẻ tiền. Nói tóm lại, tôi
chống tất cả những gì nuôi dưỡng cộng sản và làm sáng chính nghĩa cộng sản.
Theo tôi, những bất công xã hội, những đàn áp phát-xít đã dồn dân chúng miền
Nam vào con đường cùng. Dân chúng xa quốc gia, gần cộng sản là bởi lãnh đạo
quốc gia ngu dốt. Tôi chống cả đảng phái hèn mạt lẫn những kẻ đội lốt tôn giáo
lãnh đoạn chính trường. Người ta bảo tôi có lắm kẻ thù. Tôi không tin. Tôi đã
viết 50 tác phẩm văn chương. Độc giả của tôi nuôi dưỡng tôi tận tình, cống hiến
tôi đời sống vật chất dư dả. Tôi tự hào là một nhà văn chuyên nghiệp nhiều độc
giả nhất nước, nhiều độc giả tuổi trẻ nhất nước. Những kẻ coi tôi là kẻ thù là
những kẻ không được tôi xếp vào hạng kẻ thù của tôi Họ ở dưới kẻ thù của tôi vô
số bậc. Còn những kẻ đố kỵ tài năng của tôi, cay cú với lòng yêu mến của độc
giả của tôi dành cho tôi là những kẻ luôn luôn đứng sau tôi, xa tít tắp. Họ rất
đáng tội nghiệp và cần được khích lệ như những người có triển vọng ở tương lai.
Tôi cô đơn sáng tạo. cô đơn chiến đấu và cô đơn chết. Nhân danh điều thiện,
người thiện chống việc ác, kẻ ác tôi chết. Tôi chưa biết cộng sản bức tử tôi
kiểu nào.
Tôi bỗng có một nỗi sợ hãi mới, sợ hãi hơn cả sợ hãi chết trầm.
Là cộng sản không quăng tôi vô biển máu hay bắt tôi chết mòn trong tù ngục. Nếu
cộng sản không thèm trả thù tôi, không thèm đếm xỉa đến tôi, tôi sẽ bị sống
nhục nhã. Vì văn chương, tư tưởng của tôi chẳng giá trị tí nào. Và con người
tôi cũng vô giá trị. Tôi sẽ cúi gầm mặt ở bất cứ nơi đâu trên trái đất. Tôi hết
dám chống cộng sản, trừ khi tôi là đứa vô liêm sỉ.
Nỗi sợ hãi mới đã giúp tôi thản nhiên chờ đợi đao phủ và hình cụ
của nó.
***
24 giờ rồi. Tôi đã trải qua một ngày dài nhất trong đời tôi, một
ngày mà nhiều đời người không có. Văn hào Walter Scott viết: "Không ai đủ
giầu để mua lại dĩ vãng đích thực của mình". ở đâu đó, ngoài nước Việt
Nam, sẽ có một người Việt Nam tiếc rẻ: "Tôi là tỷ phú, thừa mứa tất cả,
chỉ thiếu một Sài gòn, ngày dài nhất". Và đó, bất hạnh trong hạnh phúc.
Tôi đầy đủ ngày dài nhất ở Sài gòn. Và, cũng đó, hạnh phúc trong bất hạnh.
1988
PHẦN PHỤ LỤC
NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ QUÊ HƯƠNG
(Trong vidéo Giọt Nước Mắt Cho Quê Hương)
Trung Tâm Thúy Nga Paris sản xuất
Thù hận dân tộc khởi sự từ cây cầu định mệnh này. Nước mắt quê
hương bắt nguồn từ dòng sông oan nghiệt này. Lịch sử nào cũng có những thời của
chiến tranh và những thời của hòa bình. Thời của chiến tranh mười năm vừa qua
trên giang sơn gấm vóc Việt Nam. Nó vừa qua bằng những giọt lệ. Không phải là
giọt lệ reo vui hòa bình mà là giọt lệ bẽ bàng phân chia tổ quốc. Một lần huyền
thoại Lạc Long Quân - âu Cơ. Một lần Thập nhị sứ quân làm đau đớn ý nghĩa đồng
bào. Một lần sông Gianh buồn tủi. Và, bây giờ, sông Bến Hải ô nhục. Vẫn một
dòng sông biểu tượng của xa rời tình tự, của đứt khúc anh em, nhưng hôm nay,
dòng sông ngầu đỏ ý thức hệ. Thù hận dân tộc có xuất xứ rõ nét bằng ý thức hệ,
bằng chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ với dân tộc chúng ta. Thì mặc kệ nó thôi, cái vĩnh
cửu của Việt Nam là cần thiết. Tổ tiên chúng ta đã biết ngậm thống khổ, đã can
đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, đã kiên nhẫn chiến đấu cho sự tồn tại vĩnh cửu
của Việt Nam. Cuối cùng, sông Gianh chỉ còn là hồi tưởng một thời ta xa nhau,
một thời tình yêu héo úa, một thời hạnh phúc ngẩn ngơ. Chúng ta cũng biết ngậm
thống khổ, cũng biết can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, cũng biết kiên nhẫn xây
dựng lại một miền quê hương đổ vỡ sau hòa bình què cụt. Để lấp sông Bến Hải. Để
con người gần gũi con người. Để anh yêu em, nhớ em như ca dao đã dạy chúng ta
yêu nhau, nhớ nhau. Thế thì miền Nam thân yêu, cái nôi đời êm ái, đã ru chúng
ta niềm hy vọng, đã phả vào hồn chúng ta nỗi ước mơ làm lại quê hương, làm đẹp
quê hương, làm đoàn tụ quê hương, làm rực rỡ quê hương. Chúng ta tiếp nối kinh
nghiệm của tiền nhân; ý chí của tiền nhân, dũng cảm của tiền nhân, vượt lên mọi
thống khổ, vượt lên mọi thù hận. Để Việt Nam mãi mãi ngạo nghễ dưới mặt trời.
Và, vậy đó sự phồn vinh bắt đầu ở miền Nam, ý nghĩa rạng ngời của đời sống bắt
đầu ở miền Nam. Chúng ta sáng tạo một thời yêu thương thay đổi một thời thù
hận. Chúng ta bắt nòng súng nở hoa thơm ngát hương nhân ái. Chúng ta bắt đạn
câm. Chúng ta bắt tạo hóa mỉm cười độ lượng. Rồi, như tiền nhân, bằng trái tim
bồi hồi, xao xuyến những giấc mơ xanh; bằng những nốt nhạc nhẩy múa trên môi:
"Việt Nam, Việt Nam nghe tự vào đời... Việt Nam không đòi xương máu... Tự
do, công bình, bác ái muôn đời..." Chúng ta đã có miền Nam, nơi đồn trú
của tình tự dân tộc, của lãng mạn dân tộc, của cao thượng dân tộc, của thi ca
chan chứa tình người, của tiểu thuyết tràn trề nhân bản, của âm nhạc đưa hồn
lên cao. Để tô thắm triết lý Rồng Tiên, để keo sơn cái còn vĩnh viễn của Việt
Nam. Chúng ta đã quên thở dài. Chúng ta cất tiếng hát...
Buồn thay, chúng ta chưa được hát no đầy giọng ca, chưa được hát
đẫy đà nốt nhạc thì cây cầu định mệnh kia cựa quậy, dòng sông oan nghiệt nọ nổi
sóng, thứ sóng tham vọng của chủ nghĩa cộng sản xâm lược. Những giọt nước mắt
Việt Nam bắt đầu ứa ra từ miền Bắc. Rồi những giọt nước mắt chẩy dài theo tuổi
nhỏ quắt queo đeo trên lưng cái hiện tại ê chề miệt mài bước đường vô định,
theo dân hiền bị cưỡng bức chuyên chở đau thương mà lê chân dọc lối mòn vô
vọng. Nước mắt cùng máu rướm chân không thấm vào lòng đất quê hương. Nước mắt
trên vai phụ nữ dân công gồng gánh. Nước mắt lên thác xuống ghềnh. Nước mắt
nhục nhằn của thân phận Việt Nam đã làm cỏ rừng xúc động, đã làm đá suối nghẹn
ngào. Họ thiếu trái tim nên họ không ái ngại đất lún. Họ thiếu con mắt nên họ
không thương xót trẻ thơ vác súng đạn băng rừng, vượt núi. Và họ gây chiến
tranh. Súng đã nổ. Đạn cộng sản khiến ứa máu thanh bình của chúng ta. Bây giờ
là nước mắt miền Nam. Nước mắt của chết chóc, của thương tích, của sợ hãi. Nước
mắt của mẹ già. Nước mắt của em bé. Nước mắt của tất cả. Phải làm những giọt
nước mắt ngừng chẩy. Phải ngăn chặn chiến tranh. Tuổi trẻ miền Nam giã từ gia
đình đi lo việc cứu nước, giữ nước...
***
Tổ quốc gọi, tuổi trẻ lên đường. Vất bỏ lại những phù phiếm vật
chất và chấp nhận cuộc đời gian nan. Bởi vì, đã là lính, đã tình nguyện vào nơi
gió cát. Những vầng trán kiêu hãnh ngẩng cao: Danh dự, Trách nhiệm, Tổ quốc
Vinh quang bao giờ cũng phải trả giá bằng nhiệt tình và lòng tự phụ. Nhiệt tình
là phóng thẳng lên phía quân thù, là chỉ biết tiến không biết lùi, là chỉ biết
thắng không biết bại, là thèm sống vinh và sợ chết nhục. Tự phụ là vừa chiến
đấu bảo vệ non sông ngoài tiền tuyến vừa bảo vệ hạnh phúc cho đồng bào ở hậu
phương.
Hãy hồn nhiên, em bé! Hãy nhẩy múa, hát hò, reo vui Em đừng thèm
nghĩ đến chiến tranh, em bé nhé? Chiến tranh là ác quỷ. Đã có anh diệt ác quỷ.
Em bé thiên thần ơi, mãi mãi là mắt ngọc, tóc ngọc, môi ngọc, lời ngọc, hồn
ngọc. Để anh nhẹ bước chiến chinh. Người lính Việt Nam cộng hòa tuyệt vời.
Chẳng còn ngôn ngữ nào cao quý hơn để vinh danh lính của chúng ta, những con
người biết sống, biết chiến đấu và biết chết. Hơn cả hào hùng, lính của chúng
ta lãng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc và
cả cho tình yêu của mọi người. Nói rõ rệt, lính của chúng ta chiến đấu để làm
rực rỡ ý nghĩa của Cái Thật, Cái Tốt, Cái Đẹp của con người. Đó là những người
lính đi chiến đấu vì con người, vì tình người, vì đạo nghĩa Việt Nam, vì tình
tự Việt Nam, vì những cái tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam. Yên vui hậu phương, đó
là mềm vui của người lính sa trường, đó là lý do chắc tay súng và ngắm đúng kẻ
thù. Không có thứ huy chương nào xứng đáng cho sự hy sinh của người lính Việt
Nam cộng hòa cả. Chắc chắn, họ không chiến đấu vì huy chương. Lý tưởng chiến
đấu của họ chỉ được nhìn thấy khi chúng ta chứng kiến họ đứng giữa biên giới
sống chết. Họ sống vì cái sống của mọi người. Họ chết cũng vì cái sống của mọi
người. Người lính đã quên cả sự sống lẫn sự chết của mình. Và ngay cả lúc đứng
giữa biên giới của sống chết, người lính Việt Nam cộng hòa vẫn còn thừa niềm
xúc động để nhỏ nước mắt xót thương đồng bào mình trong điêu linh, tang tóc của
chinh chiến. Có lẽ, chúng ta đã vô tình không chịu hỏi lính của chúng ta nghĩ
gì. Vậy thì anh làm ơn trả lời đồng bào anh, anh đã nghĩ gì, người lính?
***
Không, anh còn khiêm tốn lắm, người lính Việt Nam cộng hòa. Đề
đồng bào anh nghĩ về anh, nghĩ về lính lãng mạn, hào hùng mà biểu tượng là
người lính nhẩy dù Nguyễn Đình Bảo. Quân sử việt Nam đã trân trọng viết bằng
son thắm những trang chính xác về thiên thần mũ đỏ. Chẳng thể thiếu sót tên
tuổi và chiến tích vang động đất trời của chiến sĩ dù. Hơn cả chính sử, ngoại
sử, huyền sử, tiểu thuyết dã sử còn đưa lính mũ đỏ vào trong những lớp sương
mầu thần thoại. Hãy hỏi những con chim đậu trên giây điện xem chúng có ngậm
nhạc ngợi ca Nguyễn văn Đương, Nguyễn Đình Bảo. Hãy hỏi kẻ thù xem họ có
nghiêng mình trước sự dũng cảm của những người lính dù ở lại Charlie. Cho phép
tôi được nhỏ một giọt nước mắt muộn màng tưởng mộ những người lính dù đã đi vào
lịch sử.
***
Chiến tranh là trò chơi thô bỉ. Không ai thích chơi trò chơi của
chiến tranh cả. Con người sinh ra không phải để săn đuổi giết nhau. Chúng ta
không chơi chiến tranh, chúng ta chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Vì thế, nước mắt còn
ứa ra tội nghiệp cho tuổi trẻ miền Bắc bị cộng sản tước đoạt linh hồn đích thật
Việt Nam để nhồi nhét vào đầu óc họ cái lý tưởng phi nhân bản, phi dân tộc, cái
lý tưởng giải phóng bịp bợm của chủ nghĩa mù, của chế độ điếc, của lãnh tụ ngu.
Hãy nhìn những người bộ đội "sinh Bắc, tử Nam"? Hãy nhìn họ, hãy suy
nghĩ về cái chết của họ, sẽ có một lời kết án nghiêm khắc chủ nghĩa cộng sản.
Cộng sản cứ đẩy họ vào một chiến thắng ảo tưởng. Bộ đội miền Bắc cứ chết thảm,
cứ thua nhục... Bằng súng đạn, hỏa tiễn của Liên xô, Trung quốc, cộng sản Việt
Nam đã cầy nát quê hương miền Nam của người Việt Nam, đã sát hại người Việt
Nam. Rõ ràng, cộng sản Việt Nam vì cái chủ nghĩa quốc tế vô sản mà phản bội
quốc gia. Chính nghĩa quốc gia thuộc về chúng ta, của chúng ta. Chính nghĩa ấy
đã được người lính Việt Nam thắp sáng ở khắp chiến trường. Nơi nào người lính
Cộng Hòa đến, nơi ấy cộng sản thảm bại. Nơi nào cờ vàng chiến thắng tung bay,
nơi ấy tự do, thanh bình, no ấm. "Việt Nam không đòi xương máu".
Chúng ta đòi hòa bình để xây dựng đất nước chúng ta phồn thịnh, dân tộc chúng
ta hạnh phúc, thương yêu. đoàn tụ. Nhưng cộng sản điên cuồng "thề phanh
thây, uống máu" chúng ta, chúng ta cần dạy dỗ họ những bài học nhân bản,
để họ trở về con người đầy đủ nhân tính, để hủy diệt thú tính của họ. Chúng ta không
thèm mơ ước chiến lợi phẩm tính bằng xác T-54, bằng AK, bằng B-40. Chúng ta mơ
ước những cánh đồng lúa chín, những nhà máy phun khói, những chuyến tầu đến đi,
những mái trường rộn rã tiếng chim non ca hót. Chúng ta không gây chiến mà
chúng ta phải tham chiến. Và vì chiến tranh, chúng ta mất mát khá nhiều. Nước
mắt vẫn rơi theo máu rơi. Những giọt nước mắt cay đắng nhất vẫn là những giọt
nước mắt của người vợ lính đi nhận xác chồng tử trận.
***
Đã bao nhiêu người vợ lính mắt đẫm lệ đi nhận xác chồng? Đã bao
nhiêu người vợ lính tìm thấy xác chồng và chẳng biết xác chồng mình ở đâu? Tôi
lại xin được nhỏ giọt nước mắt muộn màng ngưỡng mộ chinh phụ của thời đại tôi.
Và không thể nào tha thứ cho cộng sản. Chủ nghĩa hèn mạt của họ, thêm một lần,
chứng tỏ sự phi dân tộc của họ. Họ đã xúc phạm đến cả những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Họ đã dẫm giép râu lên phong tục, tập quán ngàn đời của người
Việt Nam. Cộng sản không khước từ một cơ hội nào để bắt máu chẩy, để đòi nước
mắt rơi, để chém giết. Cộng sản đem chiến tranh vào thành phố. B-40 của họ đã
thụt cháy bàn thờ tổ tiên của chúng ta ngày Tết. Họ đã bắn đạn AK nát phong bao
mừng tuổi trẻ thơ. Đạn tội ác của cộng sản thay pháo đốt mừng xuân. Bầy thú dữ
vô thành phố. Những gì đã xảy ra? Đi hỏi thùng rác đầu đường, thùng rác cũng
phẫn nộ vì bị găm đạn cộng sản. Đi hỏi con chó rên rỉ dưới chân cột đèn, con
chó cũng phẫn nộ vì bị găm đạn cộng sản. Đừng hỏi người. Đừng hỏi. Hãy nhìn
khói bốc mù trời thành phố. Hãy nghe đạn nổ kinh hoàng. Hãy ngắm những khuôn mặt
sợ hãi. Và những giọt nước mắt đêm xuân... Và rồi sẽ có một định nghĩa về những
giọt nước mắt.
Đánh đâu thua đấy, càng đánh càng thua. Cộng sản đã phải trả giá
chua cay cho vụ Mậu Thân đến nỗi Hồ Chí Minh phẫn mà chết. Cộng sản lại tiếp
tục trả giá chua cay cho mùa hè đỏ lửa. Họ đã phiêu lưu vào chiến tranh một
cách dại dột. Họ không thể ngờ họ đã phải đương đầu với anh hùng miền Nam. Mỗi
người lính Cộng hòa là một hào kiệt, một tráng sĩ... Sa lầy quân sự ở chiến
trường miền Nam vì tham vọng xâm lăng, cộng sản đã bóc lột đến giọt mồ hôi lao
động cuối cùng của dân miền Bắc. "Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng",
dân miền Bắc đã phải dân công thủy lợi phục vụ chế độ bạo tàn hơn cả nô lệ thời
thực dân. Phẩm cách con người hầu như bị tước đoạt hết và quyền sống thì chẳng
còn. Vì "giải phóng miền Nam" mà dân miền Bắc đói khổ, ngu dốt, lạc
hậu. Bộ đội đã mượn xuống tuổi 16? 16 tuổi phải cầm súng lao vào chỗ chết. Cái
ưu việt của chủ nghĩa, cái nôi của loài người, cái đỉnh cao trí tuệ cộng sản ở
những chiếc xe đạp thồ đá, thồ cây...
***
Nhưng mà giọt nước mắt cho Việt Nam bẽ bàng nhất, thê lương nhất
thì lại ở đây, ở ngay nước Mỹ. Những kẻ phản chiến đã để lương tri của họ ngủ
vùi trong một thời mê sảng. âu châu văn minh, âu châu của công bình, bác ái đã
nhắm mắt lại toa rập với những kẻ phản chiến một chiều. Buồn cho âu châu ấy, âu
châu của trí tuệ âu châu biết phán xét đã quên trí tuệ cựu lục địa, bám gót bọn
chăn bò Mỹ để lên án bom đạn Mỹ và giả vở không đếm xỉa hỏa tiễn Liên xô, đại
bác Trung quốc. Rốt cuộc, âu châu và Hoa Kỳ đều bị đám khố rách cộng sản huyễn
hoặc một cách đáng thương hại. Thế trận thay đổi bằng sự trợ giúp đắc lực của
phản chiến Mỹ, báo chí Mỹ, truyền thông Mỹ và âu châu. Chúng ta khó tin sự phản
tỉnh. Bởi vì, cá sấu chưa cười khi nhai nghiến con mồi. Bởi vì, nỗi khổ của dân
tộc chúng ta vẫn còn sáng giá cho bọn làm dáng tiến bộ, làm dáng hòa bình...
***
Nỗi khổ của dân tộc chúng ta còn là đường rầy oan nghiệt cho
chuyến tầu hữu nghị phản phúc của nước lớn nghiến nát thô bạo. Bom Mỹ, hỏa tiễn
Liên xô, đại bác Trung quốc đã tàn phá đất nước chúng ta hai mươi năm. Nhân
danh ai, nhân danh cái gì? Lái buôn súng đạn, phù thủy chủ nghĩa đem thân phận
tổ quốc chúng ta, đem xương máu dân tộc chúng ta mua bán, đổi chác? Chẳng có gì
cao quý để nhân danh cả, ngoài quyền lợi tư bản và quyền lợi cộng sản. Những
tâm hồn tư bản bần tiện, những tâm hồn cộng sản bần tiện, những tâm hồn bá
quyền bần tiện, bọn đấu thầu chiến tranh lại lột lưỡi đấu thầu hòa bình. Mỏ con
ó cứ nhọn. Móng vuốt con gấu cứ sắc ác điểu và ác thú ôm nhau hôn, ôm nhau
khiêu vũ trên bãi tha ma. Cùng với sự phản phúc của tư bản, sự bẻ gẫy lương tâm
của thế giới tự do, nước mắt Việt Nam ứa ra cho một chia lìa đòi đoạn...
***
Chúng ta lại ra đi. Lần này chúng ta bỏ tổ quốc ra đi. Làm sao
có thể đo được mức độ nước mắt Việt Nam tuôn rơi cho một chuyến đi não nề? Nước
mắt chia lìa tình tự dân tộc, hai mươi năm trước bắt nguồn từ dòng sông Bến
Hải. Bây giờ, nó bắt nguồn từ dòng sông nào? Có lẽ, người Việt Nam sẽ đặt cho
dòng sông ấy một cái tên. Phải, một cái tên. Để nhớ. Để kể cho con cháu nghe.
Tên nó là Phản Bội. Thế thì nước mắt chia lìa tình tự dân tộc, hai mươi năm
sau, bắt nguồn từ dòng sông Phản Bội. Hai mươi năm hai lần người Việt Nam sống
đời du mục, thân phận du mục của thời đại đông đầy chó sói chủ nghĩa, cá sấu ý
thức hệ. Lần thứ nhất, chúng ta tỵ nạn trên quê hương chúng ta. Lần thứ hai,
chúng ta tỵ nạn ở những nơi chốn nào trên trái đất? Ôi, di cư? Ôi, di tản? Di
tản ê chề gấp bội di cư. Hai mươi năm, tưởng chừng mới hôm qua. Mới hôm qua 1954...
***
Người Mỹ nói "lịch sử đã sang trang '? Chúng ta phải hiểu
họ chẳng còn thiết tha gì tới lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ nữa. Con thò
lò nào cũng có sáu mặt lương tâm. Và nó có thể thản nhiên cắn gẫy bất cứ thứ
lương tâm nào không có lợi cho nó. Nhìn lại di cư 1954 để so sánh di tản 1975,
chúng ta mới vỡ lẽ. Nước Pháp thua trận vẫn còn chinh phục được lòng biết ơn
của chúng ta, vì họ đưa chúng ta vào Nam tử tế, họ xứng đáng văn minh và nhiều
văn hóa. Nước Mỹ thua trận là thua hết. Họ thiếu văn hóa. Tinh thần trọc phú
bần tiện Mỹ thể hiện rõ rệt ở cuộc di tản 1975 tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở sài gòn.
Họ cam kết bảo vệ tự do, dân chủ miền Nam, họ đem danh dự tiệp Chủng Quốc Hoa
kỳ làm lời hứa. Rồi họ phản phúc. Chúng ta thật sự hiểu lòng dạ Hoa kỳ từ lúc
Gerald Ford tuyên bố: "Lịch sử đã sang trang." Sự sang trang của lịch
sử hoa kỳ ngoạn mục nhất, đối với họ, là cảnh tượng người Việt Nam đi tìm tự do
một mình bằng thuyền gỗ lênh đênh trên đại dương. Bây giờ, thuyền nhân Việt Nam
dũng cảm hơn dân tộc Mỹ, hơn loài người. Thuyền nhân Việt Nam vinh danh Tự Do
cao quý Thuyền nhân Việt Nam đã mở mắt cho thế giới hoan lạc, ích kỷ bằng những
giọt nước mắt khó quên của một thời đại mê sảng. Chẳng hiểu bọn phản chiến Mỹ
ngu xuẩn, tôi mọi không công cho cộng sản có dám căng mắt nhận diện thuyền nhân
Việt Nam ở địa danh buồn bã Poulau Bidong, Poulau Tengah, Sikew, Palawan, Song-
kla... Hãy nhìn kỹ, thế giới thiển cận và trí tuệ những kẻ lên án chiến tranh
Việt Nam tại âu châu, Mỹ châu và úc châu! Hãy nhìn kỹ xem những người trải dài
thân phận mình suốt cuộc chiến hai mươi năm có phải là những người hiếu chiến,
có phải là những người gây chiến, có phải là tội phạm chiến tranh? Không, người
Việt Nam đấy, người Việt Nam nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, của chủ nghĩa tư bản,
của hỏa tiễn Liên xô, của bom đạn Hoa kỳ, của sự tráo trở, bịp bợm hèn mạt của
các nước lớn đấy. Lý tưởng tự do dân chủ của Mỹ, lý tưởng cách mạng giải phóng
của Liên xô đã bị người Việt Nam yêu quê hương mình tha thiết phải bỏ quê
hương, bỏ sự nghiệp ngàn đời của tổ tiên để lại mà sống kiếp lưu đầy. Và những
giọt nước mắt Việt Nam lưu vong ứa ra. Những giọt ngọc Việt Nam đánh dấu mốc
đường oan của nhân loại. Em yêu dấu, hãy để những giọt nước mắt Việt Nam vang
vọng đất trời...
Giọt nước mắt nhục nhằn
trên xiềng gông chung thân
Giọt nước mắt đợi chờ mòn nỗi đá ôm con
Giọt nước mắt thê lương
Giọt nước mắt quê hương
nghe buốt răng sâu, cây thù lá hờn...
Giọt nước mắt chẩy dài
theo thuyền nhân lênh đênh
Giọt nước mắt nghẹn ngào
biển ướp muối khô tim
Giọt nước mắt oan khiên
Giọt nước mốt cô đơn
ngơ ngác hỡi em quê người đảo điên
Giọt nước mắt lung linh màu nàng ngoan
hong tâm sự nát tan
mai em mình lớn khôn
ôi giọt nước mắt cho những thân phận sốt se
cho những tâm hồn tái tê
cho những con người não nề...
Giọt nước mắt tỏ tình thương ngàn xua hư vô
Giọt nước mất tội nghiệp còn thế giới hoang vu
Giọt nước mắt tâm tư
Giọt nước mắt ươm mơ
rơi xuống em ơi. xanh ngọc vàng tơ...
Phải lắm, em ạ, chúng ta chẳng cần những giọt nước mắt thế giới
xót thương chúng ta. Chúng ta nhỏ nước mắt xót thương chúng ta và xót thương
thế giới. Anh muốn giọt nước mắt của em, giọt nước mắt thuần khiết Việt Nam của
em, nhỏ xuống làm lay động cái bóng tối u mê phủ kín lương tri của loài người.
Hãy khóc, em ơi, bởi vì, những giọt nước mắt sẽ làm anh em mình khônlớn, sẽ làm
anh em Việt Nam mình khôn lớn. Chúng ta cần thiết khôn lớn bằng những giọt nước
mắt thống khổ. Để làm lại quê hương Việt Nam mai này. Chúng ta đi không phải ở
lại. Chúng ta đi để về, sẽ về, phải về. Thiên đường đích thực là quê hương
chúng ta, là Việt Nam yêu dấu, chỉ là Việt Nam thôi. Mọi nơi khác đều là cõi
tạm và đều trống vắng. Vậy thì, anh rất sợ nước mắt không còn long lanh trong
mắt em. Khi ấy, em đã quên nỗi khổ. Và em quên nỗi khổ, anh quên nỗi khổ, anh em
mình không thể trở về Việt Nam được. Thế nên, những giọt nước mắt lưu vong sẽ
nhắc nhở chúng ta một thời bơ vơ trên những thiên đường lạnh buốt. Giọt nước
mắt hôm qua nhỏ xuống vuốt ve nỗi khổ. Giọt nước mắt hôm nay nhỏ xuống nuôi
dưỡng nỗi khổ. Chúng ta quên nỗi khổ, ta quên luôn quê hương ta, dân tộc ta. Em
yêu dấu, anh muốn tâm sự:
Giả sử ngày mai em về Sài gòn
em sẽ mang gì cho quê hương?
Em có còn gì cho quê hương?
sau nhiều năm biệt xứ
sau nhiều năm quá khứ nhầu úa?
Giả sử ngày mai em về Sài gòn
Em có còn là em nữa không?
Em có còn ngọt ngào suối trong
Em còn thuộc ca dao,
còn giữ áo cho nhau thuở nào?
Sợ em đã quên mùi hoàng lan đêm xuân
quên hương cau, thông vàng, bụi phấn
Dậu hoàng cúc thu dạt dào nỗi mình xưa
nhớ chăng em. thềm trưa mây mưa?
ôi giả sử ngày mai em về Sài gòn
Em thành người xa lạ quê hương
Em thành người đường quen xóa bóng
Linh hồn em lạnh cóng
Em vừa hay đã mất Sài gòn
Thế thì những giọt nước mắt lưu vong sẽ soi sáng nỗi khổ Việt
Nam, em ơi! Nỗi khổ ấy ở quê nhà, nỗi khổ ấy ở quê người. Nỗi khổ ấy chỉ hết
khi những giọt nước mắt vỡ ra thắp rực một hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là ngày anh
em mình hồi hương. Em, ngày mai sẽ đến. Anh em mình về Việt Nam như loài én báo
hiệu mùa xuân trên khắp đất nước. Đêm đen của chủ nghĩa cộng sản tuyệt tích.
Chúng ta đã xóa nó rồi.
***
Tiếng khóc Việt Nam vút lên trời. Trăng ngậm ngùi. Tiếng khóc
Việt Nam phóng ra biển. Biển xao xuyến. Mẹ già nằm đó. Mẹ đợi chờ định cư mòn
mỏi. Mẹ chết. Linh hồn mẹ lại vượt biển về quê hương. Đất quê hương sẽ ấm hồn mẹ.
Mẹ đã đến Sài gòn bồi hồi như đêm vĩnh biệt thành phố ấy.
***
Nhưng Sài gòn ra sao? Nước mắt vẫn cần cho thành phố bất hạnh
đó. Một thi sĩ viết:
Sài gòn trong nhà gửi nỗi buồn
Ra sân, ra ngõ trống, đời trơn
Ra phường, ra phố, ra tăm tắp
Nơi những đề lao giữa núi rừng
Sài gòn trong nhà mẹ ngóng con
Mắt sông cát lấp đã rêu cồn
Miệng thầm kinh nguyện lòng nghi hoặc
Ôi mãi cầu xin vẫn mỏi mòn
Sài gòn trong nhà vợ nhớ chồng
Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung
Nhớ nhiều, nhớ mãi. không quên nhớ
Buổi tối tay anh bị siết còng
Sài gòn trong nhà con đợi cha
Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà
Bao giờ bố mới về đây bố
Con lớn khôn rồi biết xót xa
Sài gòn trong nhà đầy ưu phiền
Rất hài hoà cảnh tượng chìm đen
Tủ giường. bàn ghế, nồi, xoong, chảo
Cùng với người chung một nỗi niềm
Sài gòn trong nhà vắng như tờ
Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xua
Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi
Và con nhện cũng chán giăng tơ
Sài gòn trong nhà, Sài gòn ơi
Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi
Hãy im lặng đến thời lên tiếng
Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời
Sài gòn trong nhà buồn bã, Sài gòn ngoài phố ủ ê. Khuôn mặt
chính xác của phồn vinh không giả tạo của xã hội chủ nghĩa đã phơi bày rõ rệt
dưới ống kính trung thực của Tây phương. Nó là phần thưởng cao quý của những kẻ
đòi hòa bình tức khắc ở Việt Nam. Hòa bình rồi đó. Hòa bình lâu rồi đó. Người
đổi đời sống với ma ở nghĩa địa. Người lượm từng chiếc túi ny-lông dơ bẩn rửa
sạch để bán kiếm tiền mua gạo chợ đen. Hòa bình rồi đó. Thù hận khởi sự, nhân
quyền bị chà đạp, nhà tù mở rộng cửa lùa con người vô tội vào. Hòa bình rồi đó,
một hòa bình rỗng tuếch, đói khổ. Thiên đường bánh vẽ cộng sản lộ nguyên hình.
Cách mạng cai trị bằng chính sách gạo.
Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Vẫn thứ roi gạo phũ phàng đã quất nát bao tử dân miền Bắc, lại
quất ê chề bao tử dân miền Nam. Ông Hồ Chí Minh hứa hẹn: "Đánh xong giặc
Mỹ ta sẽ xây dựng lại bằng mười năm xưa." Chẳng phải thế đâu, chẳng bao
giờ có xây dựng mà chỉ có băng hoại, băng hoại đến cả tình người. Con người
tưởng đã được đoàn tụ trong khốn cùng, vẫn bị cưỡng bức ra đi. Lưu đầy tại quê
nhà? Đi đâu? Những miền tù ngục ngụy trang kinh tế mới. Phấn cách mạng, son
giải phóng đã nham nhở trên mặt hề chế độ cộng sản. Người Việt Nam lại đi, lại
đói khổ, lại lếch thếch, lại bơ vơ. Và đó là định nghĩa tự do, hạnh phúc của
Việt Nam dân chủ cộng hòa biến thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những ai
còn ảo tưởng cộng sản nữa đây? Hãy nghe dân gian lên tiếng:
Từ khi ta có Bác Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào...
Mãi mà là khó khăn, là con người oằn vai, cong lưng thay trâu bò
trong một xã hội tô son khẩu hiệu "Xã hội cộng sản không còn người bóc lột
người". Cái xã hội tồi tệ đó, lãnh tụ ăn đặc táo và dân chúng ăn khoai mì,
ngô, gạo hẩm ròng rã ba chục năm và sẽ ngàn năm...
Ai sinh ra cái củ mì
Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Con người bị nô lệ hóa, bị bóc lột tận cùng sức lao động, bị đói
khổ, bệnh hoạn. Vậy mà chế độ cứ trơ trẽn khoác lác "Lao động là vinh quang".
Vậy mà Tố Hữu cứ nịnh hót Hồ Chí Minh:
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa của em thơ, lụa tặng già
Sữa nào tặng em thơ? Lụa nào tặng cụ già? Cụ già nằm rên rỉ trên
nền đất trong căn nhà ọp ẹp vùng kinh tế mới. Em thơ vừa nhay vú mẹ vừa khóc vì
mẹ ăn khoai mì vú làm sao căng sữa? Đảng thay người bóc lột người. Và người lam
lũ, khốn nạn gấp trăm lần người dưới ách thống trị thực dân, đế quốc. Người đã
có cách mạng, vẫn lao động thi đua với trâu bò. Người đã bị cưỡng bức
"tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa" tồi tệ.
Và đây là Cung Thiếu Nhi của xã hội chủ nghĩa ấy, là trường học
dạy bài "trồng người" của ông Hồ Chí Minh. Ở Cung Thiếu Nhi, ở Nhà
Trẻ, ở Mẫu Giáo, ở Tiểu Học cộng sản, tuổi thơ đập đá mưu sinh, đập nát hồn
nhiên hoa bướm. Tuổi thơ vừa đập đá vừa hát:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng
Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông
Ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng chiến
đã thành công...
Kháng chiến đã thành công. Và hạnh phúc của tuổi thơ là đập đá.
Em bé Sài gòn ơi, ngưng đập đá một chút, được không? Người chị dân công phẫn
nộ, quắc mắt diều hâu chống đối cộng sản bóc lột sức lao động ơi, ngưng phẫn nộ
một chút, được không? Em gái Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt ơi, ngưng cấy
lúa một chút được không? Cho tôi hỏi:
- Sài gòn vui không em?
Và chúng ta đã nghe câu trả lời:
- Sài gòn chỉ vui khi các anh về.
***
Các anh sẽ về. Quân ta sẽ về. Súng đạn sắp theo người về giải
thoát dân tộc. Chúng ta có quyền hồi tưởng những chiến thắng Pleime, Bastogne,
Bình Long, Kontum, Quy Nhơn, Quảng Trị, Đồng Tháp... Chúng ta có quyền nghĩ tới
ngày động đất niềm vui. Bởi vì, chúng ta ra đi chiến đấu cho tự do, không đi
tìm tự do. Bởi vì, chúng ta ra đi ngậm thống khổ và còn long lanh những giọt
nước mắt, không đi tìm hoan lạc và những trận cười vô nghĩa. Đau khổ làm chúng
ta khôn lớn, làm hy vọng phục quốc của chúng ta mọc mầm. Nước mắt làm chúng ta
không quên nhục nhằn mất nước và tưới xanh hy vọng của chúng ta. Chúng ta sẽ về
như những người lính Cộng hòa năm xưa đã về thủ đô Sài gòn sau mỗi vinh quang
chiến thắng. Vùng trời quê hương ta sẽ rộn ràng câu ca nhân ái:
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đáp yên vui dài lâu
Bấy giờ, em ơi, giọt nước mắt cho Việt Nam đoàn tụ, hạnh phúc,
thương yêu...
10-1987
NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ SÀI GÒN, VỀ VIỆT NAM
(Trong vidéo Giã Biệt Sàigòn )
Trung Tâm Thúy Nga, Paris, sản xuất
Còn nhớ Sài gòn không? Thành phố tóc gẫy chia ly, thành phố mắt
mờ giã biệt một cuối tháng tư lạc tay thù. Còn nhớ Sài gòn không" Những
tháng nhung xanh cũ, những ngày lụa đào xưa, thành phố ấy, Sài gòn yêu dấu, mặt
trời thắp sáng ước mơ, ánh trăng soi rõ kỷ niệm. Mỗi vỉa hè là một giải chiêm
bao. Mỗi đoạn đường là một cơn hạnh phúc. Đã thấm niềm tưởng tiếc rồi đó, sau
mười năm lưu lạc. Có chỗ nào tuyệt diệu hơn Sài gòn? Thành phố ấm quanh năm.
Thành phố lá tương tư nhạc gió. Những đêm mưa, bụi khói khóc hư vô. Cổ tích ướp
hơi thơ. Tình ái ngát hương thu nghìn cũ. Sài gòn dệt thơ làm nắng. Giữa tim hạ
đã là xuân lãng đãng huyền thoại trong lối lụa Tú Xương, trên nền gấm Huyền
Trân. Chỉ cần một câu vọng cổ, đã xao xuyến hồn già. Chỉ cần bước chân giao
mùa, đã xanh mắt trẻ thơ, hồng môi thiếu nữ. Ơi thiếu nữ Sài gòn, những cô gái
áo dài tha thướt phố phường, những cô gái áo ngắn gọn gàng công xưởng, những cô
gái đồng phục nhịp nhàng trên đường xây dựng và bảo vệ quê hương, những cô gái
Việt rộn ràng tiếng trống Mê Linh, miệt mài vó ngựa Bùi thị Xuân...
Vó ngựa lại một phen tung bụi mịt mù đất nước. Chiến tranh xâm
lăng từ phương Bắc tràn xuống. Như tất cả tuổi trẻ thành phố, nông thôn, những
chàng trai Sài gòn xếp bút nghiên theo việc đao cung, tạm biệt phồn hoa để dấn
thân bảo vệ non sông. Mỗi tấc đất quê hương ông cha gửi lại đều ký thác bằng mồ
hôi, nước mắt và máu. Thì chiến đấu giành lại từng tấc đất lọt vào tay quân thù
cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt và máu. Tuổi trẻ Việt Nam đã kiêu hùng, vẫn kiêu
hùng, mãi mãi kiêu hùng. Sự kiêu hùng ấy đã làm nên những chiến thắng Bạch
Đằng, Chi Lăng, Đống Đa...lại làm nên những chiến thắng Bình Long, Kontum,
Quảng Trị... Tuổi trẻ Sài gòn đã vinh dự đóng góp xương máu cho những trang sử
đấu tranh của giống nòi...
***
Trái tim dân tộc đã nhiều lần rạn nứt phân chia đòi đoạn. Hôm
nay, thêm lần nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên
nỗi đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sài gòn là một
niềm nhớ không tên. Có nhớ Sài gòn không? Có nhớ niềm nhớ không tên, niềm nhớ
ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có nhớ cổng trường
xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường cũ lá me mưa xanh mướt
ái ân? Sài gòn, niềm nhớ nhung trên những vệt sọn môi, trong ánh mắt và trong
hơi thở. Sài gòn, niềm nhớ nhung trong hạnh phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non
và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua. Ở hôm nay ta sống và
ngày mai ta chết. Ở nghìn dặm kẻ chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu
phường. Ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố
sắc...
***
Từ một niềm nhớ không tên, Sài gòn đã thành nỗi đau có tên. Hãy
hình tưởng, Sài gòn, người tình chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù
có ố gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sài gòn, thành phố của
ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong mỗi
trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên những thù hận,
thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt lệ hôm nay. Hy vọng
hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy những đe dọa ban ngày, những
hãi hùng ban đêm. "Nếu cột đèn biết đi, cột đèn sẽ vượt biển tìm tự
do". Ai đã nói giùm tâm sự cột đèn Sài gòn? Dân tộc Việt Nam hiền hòa và
luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời nghiệt ngã, lại hóa ra thuyền nhân
khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển.
Biển dẫn người về đâu? Về đâu và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền
muộn. Đất đưa người ra biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu
lưu. Biển dẫn người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát,
niềm sợ hãi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rõ rệt tên tuổi
của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân...
Bỏ quê hương ra đi, để lại Sài gòn héo hắt trong tay thù. Còn
nhớ Sài gòn không? Nghĩ gì về Sài gòn bây giờ? Sài gòn bây giờ ra sao? Đừng hỏi
mưa, hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bã trốn khỏi thành phố rồi. Hãy hỏi mẹ
lang thang góc phố. Hãy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hãy hỏi chị ngồi lê chợ
trời. Hãy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng hôn những
vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người. Sài gòn bây giờ
như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến muông thú Bách Thảo cũng
gầy mòn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ vãng là bệ rạc hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ
Sài gòn đã kềnh càng ghẻ lở vì nước phèn thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em
nhỏ đã trắng rã vì khoai sắn triền miên. Sài gòn ra đường không áo dài. Sài gòn
ra đường không cười nói, líu lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nhìn lên
là công an độc ác. Thời tiết Sài gòn bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sài
gòn bây giờ dằng dặc ngậm ngùi. Sài gòn bây giờ ở trong nhà với những phiền
muộn, thở dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh,
ngao ngán...
***
Nhưng có phải xa Sài gòn là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hãy
hình tưởng trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hãy hình
tưởng sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hãy hình tưởng hải tặc tàn bạo
cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hãy nhìn thật lâu, thật kỹ
ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi là Quán trọ
trước cổng thiên đường. Hãy nhìn rõ ràng những bước chân em bé lên ba, lên năm,
trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu tại sao "Tôi biết tôi sẽ
buồn". Chừng đó lòng hoài hương bừng bừng sống dậy, thuyền nhân ao ước một
ngày về cùng Sài gòn gấm vóc ngày xưa...
***
Đâu riêng gì Sài gòn phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi,
đều bị phá sản, của cải và tình nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi
ngạo nghễ tung bay. Hà Nội đã rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám
người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xã hội chủ nghĩa bước
giật lùi. Không còn ai chết đói mà chỉ còn những ai đói rách triền miên. Đất
nghìn năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật và người đồng hóa, vật
và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau. Những kẻ khố rách đi giải
phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sài gòn tăm tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng
Hà Nội. Hãy quan sát Hà Nội, thủ đô của "phẩm cách con người",
"đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ". Hãy tìm cho Hà Nội một định nghĩa
chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những hình ảnh sống động và đích thực của Hà
Nội và đang của Sài gòn dưới mầu cờ kiêu ngạo ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh
hoa của Sài gòn đã bị đẩy ra vỉa hè. Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm.
Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa chiều. Gửi gì về cho Sài gòn? Một an ủi, một
mơ ước hay một hứa hẹn? Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa
hè, góc quán, gửi gì về? Gửi gì về?
Gửi gì về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất
ngất sầu đau? Gửi gì về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi
gì về cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi gì về cho bờ xa, cho bãi
rộng? Gửi gì về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi gì về cho rừng sâu, cho biển
thẳm. Gửi gì về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi gì về cho hoa bưởi,
hoa cau? Gửi gì về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi gì về cho câu hò lan tỏa, cho
điệu ru ấm nồng? Gửi gì về cho đường thơm tình tự, cho ngói đình ái ân, cho
nhịp cầu thương nhớ? Gửi gì về? Gửi gì về? ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần
như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa
hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy cái đơn giản nhất, cái bình thường nhất đều đã
bùi ngùi nhất trên khói sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta.
Gửi gì về? Cho gửi một mơ ước trở lại.
***
Mơ ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với
quê hương ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nhìn xuống. Nha Trang cát trắng với cầu
Bóng huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng ái
ân. Ta vào trường Võ Bị tìm lại dấu chân cũ, hình bóng xưa của những chàng trai
"vốn giòng hào kiệt". Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu. Hẳn nhiên,
nhiều người đã "áo bào thay chiếu anh về đất", về tận lòng đất Việt
Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời Nhiều người đã ra đi, mang theo tâm sự Đặng
Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già. Ta rời trường Võ Bị
Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi trường còn đó, buồn bã với
cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự nhiên mơ mộng, một ngày nào, học trò
cũ về làm xôn xao dĩ vãng. Hồi tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ
của hồi tưởng, ta đã ra công trường Hòa Bình của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay
qua đồi, vào thăm viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta
về, ta về cùng nắng ấm Sài gòn. Con đò đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ
khóc thầm vì vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố Tự Do
kia. Tiếng còi tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc nhở vạt hoàng
hôn sông khói. ôi, Sài gòn, một miếng Sài gòn thôi, đã đủ lòng ta ấm áp phương
xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sài gòn. Hồn ta là phố phường cũ, là
dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm thì với Sài gòn: "Em, Sài gòn ra sao?
Còn nguyên màu áo, còn nuôi chiêm bao, còn chờ đợi nhau? Em, đường thương lối
nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời gió, nước mắt mây mưa, đã mất gì chưa"?
Đừng, đừng mất gì cả, bởi vì ta vẫn mơ một ngày về.
***
Hưng vong là luật chung của muôn đời. Dâu biển đã xẩy ra cho cả
tư tưởng, nói chi một triều đại, một chế độ hay một chủ nghĩa. Một thi sĩ đã
định nghĩa cái không bao giờ có dâu biển, không bao giờ chết:
Ai cũng chết cả rồi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam
Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất:
Me ơi, tha thiết lắm rồi
Mất gì không mất tình người Việt Nam
Người Việt Nam vĩnh viễn. Tình Việt Nam vĩnh cửu. Đã không mất
con người thì không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương
cũng không mất. Còn đó, Sài gòn với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo
Tàng Viện, với Lăng ông Bà Chiểu. Còn đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối mùa hè
rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. Còn đó, Huế với lăng tẩm, điện
đài. Còn đó, Huế với "dấu xưa xe ngựa" với "nền cũ lâu
đài". Còn đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên những
thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người không chết,
người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ý nghĩa sống của người vẫn vàng thắm nhụy
sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi chuông Thiên Mụ gọi về những
xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi
vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một triều đại đã khuất lấp ngậm ngùi. Còn đó, Huế với
sông Hương núi Ngự, với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. Còn đó, Huế với những lá
đò dìu nhẹ trên mặt nước bình yên. Còn đó, Huế với giòng An Cựu "nắng đục
mưa trong" và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ.
Sao em không về thăm thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà
Còn đó, Huế, còn nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt
chiếu, với những nụ cười thật đẹp, thật thơ. Còn đó sân trường Đồng Khánh bướm
trắng tung bay. Còn đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. Còn đó, còn nguyên
đó, khi ta về Còn đó, Hà nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường Cổ Ngư thơ
mộng thuở học trò. Còn đó đền Quan Thánh. Còn đó đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, hồ
Gươm, tháp Rùa. Còn đó khu Giảng Võ Văn Miếu, chùa Một Cột. Còn đó 36 phố
phường...
Còn quê hương Việt Nam. Còn nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng
bao giờ đánh mất tình người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Mãi mãi
Việt Nam. Mãi mãi Việt Nam...
7-1986
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét