Hứa Hoành
"Tôi xin phép từ
chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là người lãnh
đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa lịnh của chúng
tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền
công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại được trả quyền công dân
trước..." (Lời cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trả lời một cán bộ CS, khi họ
đến nhà định làm lễ, quay phim "trả quyền công dân cho ông").
Hàng năm, cứ đến ngày oan trái 30 - 4, tôi lại
bâng khuâng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đãbỏ mình vì nước. Làm tướng giữ
thành, thành mất, tuẫn tiết theo thành, ngày xưa có Tổng đốc Hoàng Diệu (1828 -
1882), Tổng đốc Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873)... Ngày nay có Thiếu tướng
Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Thiếu tá quận trưởng Bồng Sơn Hoàng
Lê Cương (1972) và hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác, đãtự sát để giữ tròn
khí tiết, không để lọt vào tay kẻ thù làm nhục. Họ nêu những gương hy sinh cao
quý, tiết liệt, lịch sử ghi nhớ muôn đời.
Hai mươi năm chiến tranh, một cuộc chiến tranh vệ
quốc sáng ngời chính nghĩa quân dân miền Nam đãhy sinh hàng triệu người, chỉ vì
muốn bảo vệ một lý tưởng "Ðộc lập, tự dỏ và không muốn đất nước rơi vào
tay CS. Nhưng cuối cùng phải thất bại trong nỗi uất hận, nghẹn ngào.
Năm nay, nhân ngày tang tóc đau thương của toàn
thể dân tộc Việt Nam, chúng tôi muốn nhắc lại với thế hệ mới lớn lên, về những
cái chết oai hùng. Trong phạm vi bài nầy, chúng tôi kể lại những ngày sau cùng
của một chính khách thanh liêm, cương trực, suốt đời giữ được tiết tháo và lòng
yêu nước: người đó là cụ Trần Văn Hương, hai lần làm đô trưởng Sàigòn, hai lần
làm thủ tướng và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
chỉ được 3 ngày. Cụ Hương mất đi không một lời cáo phó. Cụ mất, nhưng gương hi
sinh và thái độ sống của người quân tử mà cụ nêu gương không bao giờ mất. Tuy
là người đồng hương, vì nhà tôi ở chỉ cách nhà người chị ruột của cụ Trần Văn
Hương chừng 300 mét, trên đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Ðức Khổng Tử
và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau, thuộc hàng con cháu, nên
tôi không được quen biết với cụ. Tháng Hai năm 1975, tôi là thành viên của một
phái đoàn vận động thành lập Viện Ðại học Long Hồ cho 3 tỉnh Vĩnh Long Kiến
Phong và Vĩnh Bình, có đến tư thất của cụ ở đường Phan Thanh Giản Sàigòn, để
yết kiến và xin cụ giúp đợ Tháng 3 năm 1975, cụ với tư cách là Phó Tổng Thống,
có đến tại hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến
lễ chấp nhận thành lập Viện Ðại Học Long Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo
Dục Ngô Khắc Tỉnh ký trước mặt cụ. Mặc dầu rất nhiều lần giữ những địa vị cao
trong chính trường miền Nam, nhưng cụ Trần Văn Hương là một người có đời sống
giản dị, mẫu mực, thanh liêm không bất cứ một ai có thể mua chuộc được. Khi thôi
việc, cụ Hương sống cuộc đời chật vật nhưng vẫn giữ được tư cách.
Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1904 tại làng Long
Châu, nay thuộc quận Châu Thành Vĩnh Long, trong một gia đình nghèo. Nhờ học
giỏi và được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà
Nội học trường Cao đẳng Sư Phạm... Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương
được bổ về dạy tại trường Le Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà
ông đãtheo học mấy năm trước. Thời gian từ năm 1943 - 1945, ông Hương là giáo
sư dạy môn văn chương và luân lý tại trường nầy. Sau đó ông Hương được đổi lên
làm Ðốc học tỉnh Tây Ninh.
Năm 1945, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền khắp
3 kỳ, nhóm Việt Minh mới của Trần Văn Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ)
cử cụ làm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với Việt Minh được
mấy tháng, thấy họ không thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương từ
chức. Tuy vậy cụ vẫn còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ mặt thật
của Việt Minh là CS, tìm cách khủng bố, ám sát thủ tiêu những người yêu nước có
tinh thần quốc gia, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán thuốc tây cho nhà thuốc của
dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim Quan) ở góc đường Lê Lợi và chợ Bến Thành
bây giờ).
Theo tài liệu của tình báo Mỹ, ông Hương có hai
người con: Trần Văn Dinh và Trần Văn Doi (Giỏỉ). Hồi còn theo học trường
"College de Can Thơ" kháng chiến nổi lên, Doi bỏ học theo kháng
chiến. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp cùng một lúc với hội nghị
Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Doi theo xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha
con không bao giờ gặp nhau nữa. Ông Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc Viện Hối
Ðoái dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cho biết "Ông Trần Văn Giỏi (không
phải Dõi) ở tại Sàigòn, bên cạnh ông Hương như một người cố vấn."
Năm 1964, ông Hương làm Thủ tướng chính phủ, tình
báo Mỹ có đem lại một hồ sơ cho biết cụ có người con theo CS. Cụ Hương thẳng
thắn nhìn nhận và cho biết từ đó cho đến nay, cụ không còn liên lạc gì với
người con đó hết. Khi cụ tham chính, thì nguòi con lớn là Trần Văn Doi ở kế cận
đóng vai người cố vấn thân tín.
Tháng 7 - 1967, ông cùng với ông Mai Thọ Truyền,
ra ứng cử chức Tổng Thống chỉ được 10% số phiếu, về hạng tư. Tháng 5 - 1986,
ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng
Nguyễn Văn Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng Thống 1971 - 75, ông Trần Văn Hương làm phó
tổng thống, và khi ông Thiệu từ chức tổng thống giữa lúc tình thế đất nước lâm
nguy,ông Hương được đôn lên làm tổng thống dùng theo hiếp pháp.
Các chi tiết về cuộc đời của cụ Trần Văn Hương
trong những ngày tháng cuối cùng, được bà Phan Cẩm Anh cùng chồng là bác sĩ,
người có dịp gần gũi với cụ Hương kể lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần
lớn trong bài ấy: "Hương trà năm cũ" trong bài viết để đồng bào, đồng
hương có dịp biết thêm về nhiều chi tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ còn
sốt lại. Kính xin anh chị Phan Cẩm Anh thể nhận nơi đây lòng biết ơn của tác
giả.
"... Nhiều năm trước, khi tôi học trung học,
một buổi tối sau khi dùng cơm, chị tôi dẫn tôi đến phủ "cây tùng" để
thăm Mai Hương, một người bạn cùng "khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây
giờ vừa lập gia đình với đại úy Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần Văn Hương.
Ba chị em đứng trò chuyện dưới táng cây của phủ phó tổng thống. Thình lình, cụ
Hương từ trong nhà bước ra, nhìn về phía chúng tôi, gật đầu, rồi đưa tay ra
hiệu bảo Mai Hương theo cụ vào trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với
chị tôi:
- Ông cụ vừa mới la.
- La về chuyện gì vậy?
- Ông cụ nói: "Sao không mời bạn bè vào phòng
khách nói chuyện đàng hoàng mà để bạn đứng dưới gốc cây. Ông cụ nói tiếp:
"Tiếp bạn đến chơi như vậy là không trọng bạn chút nào hết."
Ðó lần đầu tiên tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe
thuật lại những lời cụ trách, lòng tôi tự nhiên nhen nhúm một cảm tình đầy quý
trọng. Sau đó, tôi có dịp trở lại phủ phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp
vào nhà bảo sanh. Vì lẽ phu quân Mai Hương bận công vụ, nên Mai Hương cho tài
xế đến nhờ tôi và em gái tôi giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những lần
đó, tôi chẳng có dịp nào giáp mặt cụ Hương.
Thời gian trôi qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn
Minh ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng sớm ngày đầu mất nước, tại ngôi biệt thự
cũ kỹ nằm khuất trong ngõ hẻm ngăn đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong
biệt thự này đã đau đớn đem đặt giữa nhà hai xác người cùng nhau tìm cái chết.
Họ vừa chia nhau ống thuốc ngủ đêm qua. Ðó là đại úy Phan Hữu Chương và vợ là
cựu trung úy Trần Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn vài lời trăng trối "xin nhờ
lòng tha thứ của cụ Hương và gia đình vì không thể sống khi đất nước rơi vào tay
kẻ thù." Ðôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con trai còn thơ dại, nhờ ông
bà nội (em rể cụ Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi biệt thự bao phủ một bầu
không khí ảm đạm và im lìm đó, nơi một căn phòng khác trên lầu, cụ Hương đóng
cửa, im lặng, trầm mình trong nỗi đau khổ của một người đãtừng lãnh đạo đất
nước, bây giờ đành tâm chứng kiến giờ phút suy vong, cảnh nhà tang chế. Nỗi đau
khổ của cụ ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được cụ hé môi thổ lộ.
Nhưng ý định cùng chồng đi tìm cái chết của Mai
Hương, không được toại nguyện bởi lẽ một người cháu đem Mai Hương đi cấp cứu.
Sự sống của Mai Hương đãđược các bác sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc. Nhờ
đó Mai Hương trở thành một chiếc cầu để tôi có cơ hội biết thêm chút ít về cụ
Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng của cụ.
Nhiều lần Mai Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự
trên để thăm các con của Mai Hương, hiện đang sống nương nhờ vào ông bà nội.
Tôi đãchứng kiến cảnh sống đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn
của gia đình cụ Hương. Cụ Hương luôn luôn sống lặng lẽ một mình trong căn phòng
nhỏ ở trên lầu.ăn phòng bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là
sang trọng. Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật còn lại là hai chiếc ghế
bành, một cái tủ đựng quần áo đãcũ, một chiếc bàn con trên đó cụ để một tượng
Phật Di Lạc. Căn phòng có một cửa ăn thông ra sân thượng. Hầu cận, săn sóc cụ
là người em rể của cụ mà tôi gọi theo như Mai Hương là Dượng. Phía dưới lầu là
các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường phía trong của khuôn viên biệt thự,
có lẽ trước kia là nhà kho, bây giờ trở thành nơi tá túc qua ngày cho các thân
nhân gồm các em và cháu của cụ, vì phải gặp cảnh khó khăn dưới quê, tìm về
Sàigòn nương náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng thống Thiệu đã cấp từ thời
trước.
Ngôi biệt thự nầy, trước khi cấp cho cụ Hương,
tổng thống Thiệu đãchỉ thị phải sửa chửa, chỉnh trang lại đàng hoàng, nhưng cụ
từ chối viện lẽ cụ già rồi, không làm việc gì ích nước lợi dân được nữa, nên
không muốn làm hao tốn công qũy. Do đó, đến khi CS vào, ngôi biệt thự trên
chẳng phải là mồi ngon cho cán bộ của họ tranh nhau giành giật chiếm đoạt như
các ngôi biệt thự xinh xắn khác. Tường biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều
chỗ vở bung lên, màu vôi trải qua nhiều năm tháng vàng ố không được trùng tu,
sơn quét. Hình ảnh cụ lúc nầy như một con chim đại bàng sa cơ, gãy cánh mà vẫn
cố giương đôi cánh mang thương tích của mình để bảo bọc chim non. Tôi được nghe
kể lại cứ mỗi lần người nhà bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm bạc, lâu
lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho cụ để bổ dưỡng, cụ hỏi xem
mọi người trong nhà có được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu người nhà thường trả
lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn hiểu sự thật của chữ
"có" nên thường cụ để dành lại thức ăn ngon trên mâm, hầu đem xuống
nhà cho con cháu.
Có những lần tôi theo Mai Hương đến thăm ông bà
nội các con Mai Hương, lúc trở về, ra tới cánh cổng, tôi quay đầu nhìn lên sân
thượng thấy cụ Hương, ngồi yên lặng trên đó. Mình cụ để trần, mái tóc bạc
trắng, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước không hề di động... Tôi thấy cụ Hương
ngồi trên sân thượng như vậy nhiều lần, và những lần như vậy, trên đường đạp xe
về nhà, hình ảnh già nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn quẩn mãi trong đầu óc
tôi.
Một hôm, có lẽ cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa
một củ sâm Ðài Loan và nói với tôi:
- Bà nội sắp nhỏ biểu chị đem củ sâm nầy đi bán.
Ðó là củ sâm người ta tặng cho ông cụ từ lúc ông cụ sang Ðài Loan, còn cất giữ
mãi đến bây giờ. Ông nói chắc không dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền đong
gạo cho sắp nhỏ.
Mai Hương mở gói giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn
vẹn bằng hai phần ba bàn tay, nằm giữa mấy lớp giấy gói đãcũ. Nhìn qua, ai cũng
biết củ sâm được gói kỹ lưỡng, và bị lãng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu lắm
rồi, nay mới được nhớ lại. Tôi nhìn củ sâm nghẹn ngào. Một nhà giáo thanh bạch,
một người lãnh đạo quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân làm tài
sản. Cụ đâu có nén vàng nào có thể đem bán lấy tiền đong gạo cho đàn cháu, hay
giúp đỡ người thân đang tá túc trong nhà, những người đa ?37;t nhiều liên lụy
vì các hoạt động chính trị của cụ.
Khoảng hơn một tuần sau, ông nội các cháu, tức em
rể cụ Hương, ghé lại nhà Mai Hương và tôi (lúc này Mai Hương và tôi sống chung
với nhau trong một căn nhà nhỏ ở quận Tân Bình) kể cho chúng tôi biết là ông
vừa làm theo ý cụ Hương: đem mấy bộ đồ veste còn tốt của cụ ra chợ trời bán. Ðể
an ủi người nhà bớt đau lòng, cụ Hương bình thản giải thích:
- Từ đây cũng đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán
đi chớ để làm chi!
Số tiền bán áo trên, chẳng ở trong túi được bao
lâu, vì ngay sau đó bà Út đi chợ mua đồ ăn cho sắp nhỏ. Gia đình cụ Hương đa
?#7883;u chung số phận đau khổ và bi đát tột cùng từ tinh thần đến vật chất khi
miền Nam rơi vào tay CS. Có một sự kiện làm tôi chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến,
lòng thêm kính mến và cảm phục cụ Hương: Trước khi chính quyền CS cho tổ chức
cuộc bầu cử quốc hội (bịp) đầu tiên, cụ Hương được họ thông báo sẽ có một buổi
lễ để chính phủ trả quyền công dân cho cu Sau đó, để có buổi lễ được quay phim
tuyên truyền, khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc "chính sách khoan
hồng, rộng lượng" của nhà nước đối với những "thành phần" như
cụ, cụ dõng dạc nói:
- Tôi xin phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền
công dân này. Dù gì tôi cũng là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ,
nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm
trong các trại cải tạo, chưa được trả quyền công dân trước. Tôi sẽ là người sau
cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đã
được nhận.
Ðại diện của chính quyền CS không ngờ sự thể xảy
ra như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp máy thu thanh, thu hình. Vài ngày sau cụ
nhận được lịnh quản thúc tại gia 3 năm. Cụ Hương nói với người nhà:
- Bọn nó cũng chẳng cần phải quản thúc tao. Tao
già và đau yếu như vầy, có khi nào bước chân ra khỏi nhà đâu mà cần phải quản
thúc! Vào năm 80 tuổi, mỗi lần theo Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các
cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức
khỏe của cụ sa sút nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi:
- Ông cụ dạo nầy yếu quá. Ông lại dứt khoát không
muốn vô nhà thương khám bịnh hay chữa trị gì cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao
rồi. Dượng muốn nhờ Cẩm Anh có quen ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà
khám bịnh giùm cho ông cụ. Nếu không thì Dượng chẳng yên tâm.
Nghe ông Dượng nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu,
cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà thương cấp cứu. Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định
đòi người nhà phải đưa cụ về ngay. Cụ một mực từ chối, không chịu để điều trị
trong bịnh viện đã thuộc về tay chính quyền CS.
Mặc dầu có quen biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ
ngay đến nhà tôi, lúc ấy còn là một người bạn, vì trong hoàn cảnh không biết
tương lai ra sao, nên chúng tôi chưa nghĩ đến việc lập gia đình. Tôi nhận lời
Dượng, hứa tìm một bác sĩ của "chế độ mình" để nhờ khám bịnh cho cụ.
Khi nghe tôi trình bày, nhà tôi chẳng chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần
đầu tiên nhà tôi đến, cụ bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nhìn mặt vì mắt cụ đa
?7901;. Cụ Hương hỏi nhà tôi:
- Con đến đây thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm
khó dễ con không?
Nhà tôi trả lời:
- Thưa cụ, cháu chỉ làm bổn phận và công việc của
người thầy thuốc, cháu không ngạị
Cụ xúc động, ghé người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu
nhà tôi. Nhà tôi tiếp:
- Thưa cụ, cháu là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh
nghiệm và kiến thức hãy còn ít, chữa bịnh cho cụ, nếu có điều gì không biết,
cháu sẽ về đọc sách lại.
Cụ Hương vui vẻ, mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay
nhà tôi như để trấn an.
Từ đó nhà tôi lui, tới với cụ thường xuyên để thăm
bịnh cụ. Dường như việc trị bịnh đối với cụ chẳng có gì quan trọng, cụ không
quan tâm lắm, mặc dầu cụ luôn luôn là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những
lời dặn của bác sĩ. Ðiều làm cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để
cụ nói chuyện. Do đó, nhà tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi khám
bịnh. Cụ nói thuốc men cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp
gởi về tặng cụ. Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người em rể cụ
đem ra chợ trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đình con cháu đong gạo. Một hôm
cụ kể cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau:
- Con biết không, chú có thằng em đến thăm (cụ
xưng chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà tôi lớn hơn cụ vài tuổi) nó đem đến
một hộp sữa bò còn tặng chú 5 đồng (lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1
đồng tiền mới). Chú thương nó có tình, nhưng nghĩ nó phải đạp xích lô cực khổ
để sinh sống, nên chú không nỡ lấy. Nhưng nếu chú không nhận thì "sợ nỏ
buồn tội nghiệp", nên chú chỉ nhận có 5 đồng, còn hộp sữa thì bảo nó đem
về cho gia đình (lúc ấy sữa rất khó mua). Người mà cụ kể là "thằng
em" một cách thân mật chính là thuộc hạ cũ của cụ.
Cụ Hương còn tâm sự với nhà tôi những chuyện lúc
cụ còn trẻ. Có một thời gian cụ cùng với một người con trai (Trần Văn Doi) theo
hoạt động cho Việt Minh chống Pháp. Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của Việt
Minh, cụ dứt khoát trở về lại trong Nam và mất liên lạc với người con trai từ
lúc ấy. Người con trai nầy đã ở lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS. Sau
khi Sàigòn bị chiếm, anh có về thăm cụ với vợ là một bác sĩ VC. Có lẽ sự lui
tới của cặp vợ chồng nầy cũng nhằm mục đích theo dõi cụ.
Cụ Hương cũng có một người con khác đang sinh sống
tại California. Anh có một đứa con bị bịnh Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa
trị trước năm 1975. Ða ? lần anh muốn bảo lãnh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói
với nhà tôi:
- Trước kia đại sứ Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi,
chú đãtừ chối. Bây giờ đời nào chú lại xin chính quyền CS để được đi.
Những lần đi thăm bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự
nhiều hơn về những vụ buồn trong cuộc đời tham chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến
tên của những người mà cụ đặc biệt quý mến như bác sĩ Bạch Ðình Minh. Cụ ngậm
ngùi kể:
- Bác sĩ Minh là một người mà chú rất quý trọng.
Hồi trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám bịnh mà không có đồng hồ đeo tay. Chú
mua tặng cho bác sĩ Minh một cái, nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả
lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh phục vụ trong quân đội hết lòng tận tụy và giàu
tinh thần trách nhiệm, chú đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng "Bảo
quốc huân chương" cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận viện lẽ
ông đang làm việc ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho những người xả thân
chiến đấu, hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần khác cụ hỏi nhà tôi:
- Con có biết bác sĩ Trần Lữ Y không?
Nhà tôi thưa:
- Bác sĩ Trần Lữ Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y
khoa.
Cụ Hương tâm sự:
- Hồi trước bác sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho
chú, họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa bịnh. Thằng Trần Lữ Y đi theo chú, xin
lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần Lữ Y bằng "thằng", vì chú thương nó như
con chú vậy. Khi máy bay ghé Manille, suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của
họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra phố kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú
nghe có người nói bác sĩ Trần Lữ Y qua đời bên Pháp vì bịnh ung thư, có đúng
như vậy không?
Nói tới đây, cụ im lặng hồi lâu như nén sự xúc
động. Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ Trần Lữ Y vẫn còn khỏe mạnh ở bên
Pháp và có phòng mạch tư, gần với phòng mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi
vội vàng ghé lại thăm và nói cho cụ Hương biết tin thật về bác sĩ Trần Lữ Ỵ
Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay nhà tôi mà chẳng nói gì. Hai giòng nước mắt từ
từ lăn trên má cụ.
Mặc dầu sức khỏe cụ Hương lúc đó đa ?sút nhiều, đi
đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn
một cái chuông điện, trên bàn luôn có một cái chuông nhỏ để khi cần người nhà,
cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán phục cụ có trí nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ nguyên
văn câu nói của từng người, ngày tháng, giờ giấc của sự kiện đãxảy ra. Cụ không
quên từng chi tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với nhà tôi rằng:
- Chú nghĩ người làm chính trị phải có giáo dục và
đạo đức. Khi tham chính tất nhiên chú chấp nhận có phe đối lập, nhưng dầu khác
lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là (xin
giấu tên), trong một buổi họp quốc hội, đã đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú
nói những lời vô lễ (xin không ghi lại câu vô lễ nầy)... Vì dân biểu nầy đáng
con chú. Chú buồn và tiếc cho người làm dân biểu mà không biết đến chữ
"lễ", không tỏ ra có tư cách của người học thức, chớ không buồn về
lập trường đối lập của họ.
Một hôm đến thăm cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng
"sớm muộn gì con cũng phải ra đi". Chuyện ra đi không biết khi nào
mới thành công, nhưng không bao giờ con bỏ ý định đó. Chẳng phải vì miếng cơm
manh áo, hay sự cực khổ mà phải bỏ quê hương. Nhưng vì cuộc sống lúc nào cũng
thấy bị đe dọa, thiếu an toàn, ngủ một đêm thức dậy có thể bị bắt vì bất cứ một
lý do viển vông nào. Nghe nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà không
nói gì. Mãi một lúc sau, cụ thở dài chép miệng:
- Có lẽ chú làm không đúng khi ra lịnh ngăn người
ta ra khỏi nước trong những ngày hỗn loạn.
Lúc nhà tôi từ giãcụ ra về, cụ ôm hôn nhà tôi và
nói:
- Chú gặp con muộn quá!
Vào tháng 4 - 1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt
biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà tôi có đến thăm cụ lần cuối. Biết cụ rất
buồn, nhưng cụ giấu kín tình cảm để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó,
tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình do anh chị tôi bảo lãnh.
Một ngày trước khi đi, tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản, đứng một mình
bên chiếc cổng sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa thoát khỏi cảnh đời vô vọng,
tăm tối, và một nỗi buồn khi biết rằng mình sẽ mất bao nhiêu gắn bó thân thuộc
khi lìa khỏi nơi đây. Cụ Hương vẫn là hình ảnh làm cho lòng tôi se thắt, là một
cánh sen nổi trên dòng nước đang giao động của tâm hồn tôi.
Dưới đây là hai mẩu chuyện được nhắc lại như một giai
thoại. Hồi tháng 4 năm 1954, khi có sự vụ lịnh của thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ
nhiệm cụ Hương làm đô trưởng Sàigòn - Chợlớn, thì cụ đi làm việc hàng ngày bằng
chiếc xe đạp Alcyon. Khi vô tòa đô chính nhận việc, người lính gác cổng chận
lại và không cho cụ vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Ðô Trưởng" họ cũng
không tin. Cụ phải trình sự vụ lịnh mới được bổ nhiệm, người lính mới hoảng
hồn, định chắp tay lạy cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn xe đạp vô
làm việc. Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh (1964), hàng tháng chính phủ trả
phủ cấp thêm 10.000 đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả lại công quỹ, vì cụ nói
"không có chuyện gì cần phải xài."
Nhắc lại về thái độ của cụ Trần Văn Hương trong
những ngày đen tối của đất nước chúng tôi thấy có hai sự kiện đáng ghi nhớ:
Cuốn hồi ký "Saigon et moi" của cựu đại
sứ Pháp tại Việt Nam, ông Mérillon kể lại: "Mãi tới tối 18 - 4 - 1975, đại
sứ Hoa Kỳ Martin mới cho ông (Mérillon) hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN." Ðại
sứ Martin nói:
- Từ giờ phút này nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò
tái lập hòa bình cho VN.
Mérillon chuyển lời nói nầy cho Phó Tổng Thống
Trần Văn Hương. Ông Hương nói:
- Ông Ðại sứ à! Tui đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn
đánh, tui đánh tới cùng. Tui không muốn lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước
tui, tui xin thề ở lại và mất theo nước này.
Ðến ngày mất nước, đại sứ Martin còn đến gặp cụ
Hương và nói:
- Ngài đi với tôi sang Mỵ Chánh phủ Mỹ sẽ nuôi
dưỡng Ngài suốt đời, tôi nhân danh chánh phủ Hoa Kỳ đến mời Tổng Thống ra khỏi nước
với bất cứ phương tiện nào mà ngài muốn. Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm
cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống
mãn phần.
Cụ Trần Văn Hương mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp):
- Thưa ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay
rất là nguy hiểm. Ða ?73;ến nỗi như vậy, Mỹ cũng có phần trách nhiệm trong đó.
Nay ông Ðại Sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Ðại sứ. Nhưng tôi đãsuy
nghĩ kỹ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào
được Saigon, thì bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền
Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại chia xẻ
một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám
ơn ông Ðại Sứ đãđến thăm tôi.
Tới đây, tôi lại nhớ đến liêm sỉ và tiết tháo của
một người lãnh đạo Cam Bốt, một nước láng giềng mà dân ta thường hay có thái độ
coi thường. Ðó là ông hoàng Sirik Matak, Phó Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4
định mệnh ấy (1975) khi quân Khmer đỏ sắp tràn ngập Phnom Penh, Ðại Sứ Mỹ tại
đây là John Gunther Dean đến mời hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông
Sirik Matak từ chối và trả lời bằng thư sau:
"Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher
Ami)
Tôi rất thành thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề
nghị giúp đỡ của Ngài đưa chúng tôi đến nơi tự do, nhưng tôi không thể ra đi
một cách hèn nhát như thế.
Về phần Ngài và quốc gia to lớn của Ngài, tôi
không bao giờ ngờ rằng Ngài sẽ bỏ rơi một dân tộc đãchọn tự dọ. Quý Ngài đa ?7915;
chối bảo vệ chúng tôi, chúng tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho
Ngài và quốc gia của Ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời của quý ngài.
Nếu tôi chết ở đây trong nước tôi mà tôi yêu, thì
thôi mặc, bởi vì tất cả chúng ta đa ?73;ược sanh ra để rồi một ngày nào đó thì
chết. Tôi chỉ có làm một lỗi lầm là đa ? nơi Ngài và tin nơi những người Hoa Kỳ
Xin Ngài và bạn thân, nhận nơi đây những cảm tình
trung thực và thân ái của tôi.
Sirik Matak,
Theo lời người dịch, thư này sau mấy năm, có lần được
đọc trong một phiên họp Quốc hội Hoa Kỳ, và được lưu giữ trong văn khố Quốc Hộị
(Trích bài biết của BS Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3 năm 1998).
Hứa Hoành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét