Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn - III- Chủ-Nghĩa Nhân-Vị và
Vấn-Đề Dân-Chủ-Hóa Việt-Nam Hiện Nay
Việt-nam nay đã hòa-bình và đã đi vào
phát-triển gần 20 năm rồi. Nhưng dân chúng vẫn còn đói khổ vẫn chưa được hưởng
những quyền tự-do căn bản. Hiện nay Chủ-Nghĩa Xã-Hội đã lỗi-thời, việc tìm kiếm
một mô-hình dân-chủ-hóa hữu-hiệu để thay thế, là một nhu cầu cấp thiết. Từ ngày
Ông Ngô-Đình-Diệm chết (1963) đến nay các nhà lãnh-đạo cũng như trí-thức
Việt-nam nói chung vẫn còn tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho một tiến trình
dân-chủ kinh-tế nhằm giải quyết cơn khủng-hoảng có thể đưa đến sự hưng vong của
toàn thể dân tộc. Đặc biệt trong những ngày tháng gần đây, trong và ngoài nước,
các nhà trí thức và lý thuyết-gia đóng góp ý-kiến càng ngày càng đông đảo. Tiêu
biểu như Tiến-sĩ Phan Đình Diệu, Tiến-sĩ Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), Tiến-sĩ Lê
Đăng Doanh, Tiến-Sĩ Nguyễn Xuân Nghĩa, v.v...
Trong buổi nói chuyện tại Ủy Ban Tổ-chức Trung
Ương ĐCSVN vào ngày 2 tháng 11 năm 2004, Tiến-sĩ Phan Đình Diệu lên tiếng kêu
gọi đổi mới tư-duy. Ông cho rằng “Mô hình Chủ-nghĩa Xã-hội khoa học” kiểu
Mác-Lê vốn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy-lý
và cơ giới luận đã bị
thực tiễn bác bỏ.” Theo Tiến-sĩ Diệu, nếu ĐCSVN vẫn còn tiếp tục duy-trì “định
hướng XHCN kiểu Mác-Lê” thì Việt-nam vẫn tiếp tục bị bế tắc trong cơn khủng hoảng
hiện tại”. Tiến-sĩ Diệu đồng thời ca-ngơị mô-hình Xã-Hội Dân-Chủ” (XHDC) tại
các nước Bắc-Âu là “Chủ-nghĩa
xã-hội của thế-kỷ 21” với mục tiêu “tự-do, công bằng, đoàn-kết,
chắc chắn sẽ có vai-trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại, rất đáng
được chúng ta quan tâm.”
Thật ra cái mô-hình “XHDC” tại các
nước Bắc Âu như Phần-lan, Na-Uy, Đan-mạch, Thụy-điển, đã và đang được các
chuyên gia, trí thức trong và ngoài nước cổ võ như là một mô-hình thích-hợp để
thay thế mô-hình “Kinh-tế Thị-trường theo định hướng Xã-Hôị Chủ-Nghĩa” nhằm
giải quyết cuộc khủng hoảng xã-hôị của Việt-nam hiện nay. Tiến-sĩ Nguyễn Xuân
Tụ (Hà Sĩ Phu) nhận xét rằng: “Phương án xã-hôị dân-chủ là phương án trung
dung. Tuy trung dung nhưng vẫn đòi hỏi sự
dũng cảm và thật lòng, chứ không dùng mẹo được. Cha Ông ta vẫn bảo
“Thật thà là cha qủy quái”. Kinh tế thị-trường theo định hướng xã-hội dân-chủ
thế thôi, dân chấp nhận ngay, vì như thế cũng chính là xã-hôị dân-chủ đa nguyên
pháp trị.” Và một chuyên gia kinh-tế, Ông Nguyễn Xuân Nghĩa cũng nghĩ rằng
ĐCSVN phải thay đổi tư-duy và cơ cấu. Phải chấp-nhận Kinh-tế Thị-trường với
Định-hướng Dân-chủ. Như về kinh-tế phải để tự-do kinh-tế từ dưới bùng lên,
giải-phóng người dân, tự-do sinh hoạt không hạn chế, đối xử công bằng giữa các
địa-phương. Về chính-trị, nhà nước phải giảm bớt sự can thiệp vào guồng máy
kinh-tế nhưng tăng cường chức năng làm luật và thi-hành luật và chấm dứt
độc-quyền cai-trị. (RFA, 6-7-05) Ông goị đây là mô hình Xã-hôị Dân-Chủ.
Nói chung thì trong cái mô hình “Xã-hôị
Dân-chủ” tại các nước Bắc Âu mà các trí thức và chuyên-gia Việt-nam đang cổ võ,
có thấp-thoáng kèm theo hình
ảnh con người có “tình và chí” như “dũng-cảm”, “thật-lòng”, “đoàn-kết”,
“trách-nhiệm”, “trong sáng”, vân vân. Nhưng theo Ông Hà-Sĩ-Phu thì
“Đoàn-kết là sự tập hợp những yếu-tố khác
nhau, các yếu-tố đó muốn gia nhập khối đoàn-kết chung, thì anh nào cũng phải
khoan dung. Đảng khoan dung cho những người khác Đảng, và những người khác Đảng
cũng phải khoan dung với Đảng. Chứ đây không phải là sự khoan dung của người
trên với người dưới, của kẻ cầm quyền đối với người không có quyền. Nghĩa là
cùng bình đẳng mà khoan dung cho nhau, chứ không có chuyện Đảng thống soái hết
rồi mở lòng ban sự khoan dung cho người này người nọ như vua chúa phong kiến.”
(RFI, 2005)
Như vậy, liệu khi đưa vào Việt-nam thì cái hình ảnh con người có “tình
và chí” còn hiện diện trong mô hình XHDC này hay không? Nếu không còn,
thì mô-hình này cũng lại chỉ là một mớ lý thuyết xuông giống như các mô hình
khác, đặc-biệt như Hiến-Pháp1992 của Việt-nam hiện giờ, chỉ là một mảnh giấy
không hồn. Điều 69 Hiến-pháp qui định “công-dân có quyền tự-do ngôn luận, tự-do
báo-chí; có quyền được thông-tin; có quyền hội-họp, lập hội, biểu-tình theo qui
định của pháp-luật.” Trên thực tế, chính-quyền Việt-nam đã vi-phạm trầm trọng
điều 69 của Hiến-pháp bằng điều 4 của Hiến-pháp, do chính họ soạn-thảo và ban
hành. Là một lý thuyết xuông, “Xã-hôị Dân-chủ” Bắc-Âu cũng lại giống như
“Định-hướng XHCN”, thiếu “tình
và chí” nên không
có khả năng huy-động được những nghị-lực thâm-sâu của con người.
Và vì muốn “cưỡng hành”, như triết gia Kim-Định đã nói, lại phải dùng đến
“mưu-gian đạo-đức” như lời-hứa cuội, kèm thêm khủng bố như Tiến-sĩ Nguyễn Văn
Tụ vừa trình bầy. Tóm lại, đúng như Chủ Nghĩa Nhân Vị chủ trương, con người nằm trong cơ cấu
mới là nguyên nhân cốt cán. Chuyển đôỉ cơ-cấu chỉ là chữa bệnh ngoài da.
Để chứng minh, giả sử, ĐCSVN cứ giữ nguyên
mô-hình “Kinh-tế Thị-trường theo Định-hướng XHCN” nhưng hãy đưa ra một
thành-phần lãnh-đạo thực
sự “dũng-cảm,
thật-lòng, đoàn-kết, trách-nhiệm, trong-sáng, vân vân” để làm gương dẫn dắt quần chúng. Trong
trường hợp những người lãnh đạo không đủ nghị-lực và can đảm của những con người đã tu-thân để thực hành các đức-tính này, thì hãy
nhờ tới nhân dân và cơ quan truyền thông tiếp sức, bằng cách cho họ quyền TỰ-DO thực sự
qui-định trong điều 69 Hiến-pháp, để phê-phán, khuyến-khích và can
ngăn lãnh đạo đừng làm việc hại dân hại nước. Được như vậy, tôi tin rằng chỉ
trong một thời gian ngắn, mô hình “Định-hướng XHCN” mà Đảng đã chọn, sẽ không
thua gì mô-hình “Xã-Hôị Dân-Chủ” của Bắc Âu.
Nếu đúng, thì cái giải-pháp con người Bắc-Âu
này cũng giống giải-pháp Nhân-vị mà Ông Diệm và Ông Nhu đã cổ võ hồi giữa
thế-kỷ 20, là mô–hình “Xã-Hội Dân-Chủ Nhân-Vị” với những sắc thái đặc-biệt của nền
văn-hóa cổ-truyền Việt-nam, là “một chính-quyền của Phúc-lợi” (Good Government)
đã được thử nghiệm ở miền Nam Việt-nam từ 1954-1963: Kinh-tế thị-trường với sự
can-thiệp mềm dẻo của một chính-phủ phúc-lợi, thực hiện công-bằng xã-hôị và
dân-chủ thực sự ở hạ tầng cơ-sở với định hướng dân-chủ trên thượng tầng
cấu-trúc. Trọng điểm của chiến-lược dân-chủ hóa Nhân-Vị là từ dưới bùng lên như
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa vừa trình bầy. Tuy nhiên, Ông Diệm nhấn mạnh rằng mô-hình
này hữu hiệu là vì đựơc xây dựng trên những gía-trị độc đáo của Văn-Hóa: (a)
“nó được dung hòa với thực tại” và (b) “quan-niệm thiện-ích chung được những
người trong chính-quyền và ngoài dân chúng thực sự tôn trọng.”
Trong cuốn sách Democracy and Culture, Lý-thuyết-gia về
Dân-chủ David Easton cũng viết:
“Muốn hiểu rõ được cái mức-độ thực-dụng và
hữu-hiệu của một hệ-thống chính-trị, chúng ta cần phải nhìn nhận một sự thật
hiển-nhiên, đó là, tất cả những gì xẩy ra trong nội-bộ của guồng máy chính-trị
đều do nỗ-lực của những người nằm trong guồng máy đó, đương-đầu với hoàn-cảnh
thực-tại đang thay đổi.” “Much light can be shed on the working of a political
system if we take into account the fact that much of what happens within a
system has its birth in the effort of the members of a system to cope with the
changing environment.” (1990)
Như vậy Ông Ngô-Đình-Diệm và David Easton đều
có cái nhìn giống nhau về những vấn đề mà các chuyên-gia và trí-thức Việt-nam
đang tranh-cãi; Và câu trả lời là: mức-độ hữu-hiệu của một mô-hình chính-trị
không phải là do CƠ-CẤU mà là do CON NGƯỜI ở trong cơ-cấu ấy.
IV – Kết Luận
Chủ-Nghĩa Nhân-Vị được xây dựng trên căn bản
Tâm-Linh: đức-nhân và lý-tưởng Thái-Hoà của Việt-Nho. Đứng trên mặt triết học
nhận thức, nó nhận diện và đề cao gía-trị và vị-trí của con người. Là một
chủ-thuyết chính-trị, nó chủ trương phát triển gía-trị và vị-trí này đến mức
cao nhất; chính-quyền có bổn phận tạo điều kiện thuận lợi và làm gương để hướng
dẫn dân chúng (cá-nhân và cộng-đồng) đạt đến mục tiêu này.
Vì thế, Chủ-Nghĩa Nhân-Vị khác hẳn với
khuynh-hướng duy-tâm của Tây-phương và đối đầu với duy-vật của Karl Marx, là
những lý thuyết xuông không thực-dụng và phản khoa-học (Nguyễn-Xuân-Hồng, 1956, tr.98).
Dựa trên lý tưởng Thái-Hoà, Ông Diệm đã đưa ra một mô hình chính-trị mới lạ mà
Ông gọi là “con đường của tiến-bộ”. Đó là một tổng hợp những giá-trị tốt đẹp
nhất của Âu-tây và Á-đông: Trên thượng tầng cấu trúc quốc gia là một chế độ
dân-chủ pháp-trị kiểu Tây-phương được điều hoà để phù hợp với thực tại của đất
nước bằng một bản hiến-pháp dự-trù dành cho hành-pháp nhiều quyền lực cần
thiết. Ở hạ-tầng cơ sở là một nền dân-chủ thực-sự, với một hệ-thống
Ấp-chiến-lược mô-phỏng theo hình thức làng xã cổ-truyền Việt-nam và tiến dần
đến tự-trị về moị mặt.
Hoài-bão của hai người khai sinh ra Chủ-nghĩa
Nhân-vị là muốn chuẩn-bị để mở đường đưa xã-hội Việt-nam tiến vào kỷ-nguyên hậu kỹ-nghệ qua việc tái trang bị cho mỗi con
người Việt-nam một đời sống đạo-đức, để xây-dựng lại và phát-triển nguồn vốn xã-hội đã bị phá-sản sau những năm dài đô-hộ
của Tầu, Tây, và nhất là hậu-qủa “đào tận gốc, tróc tận rễ” do XHCN của người
Việt-nam cộng-sản để lại. Chủ-Nghĩa Nhân-Vị muốn dẫn đường đưa con người
Việt-nam trở về mái nhà thân quen của họ, đó là cái xã-hội có một hệ-thống
đạo-đức rất hữu hiệu, một cuộc sống phong-lưu nhàn tản, là di-sản văn-hoá vĩnh
cửu của người Việt-nam.
Dù Chủ-Nghĩa Nhân-Vị mới chỉ được thử nghiệm
trong một thời gian ngắn ở miền Nam Việt-nam, nhưng trong lãnh vực lý-thuyết
hàn-lâm, Chủ-Nghĩa Nhân-Vị có một giá-trị đóng góp lâu dài và quan-trọng vào
công cuộc phát-triển con người nói chung và đặc biệt là giải-pháp dân-chủ-hóa
đặt trên căn bản “sở-hữu-hóa vô-sản – cơm no áo ấm”. Chủ-Nghĩa NhânVị còn
cống-hiến một căn bản tư-duy mới để dung hòa tư-tưởng “ai thắng ai” của
hệ-thống triết-học duy lý-niệm. Muốn chung sống hòa-bình, cùng nhau tồn tại và
tiến-bộ, Chủ-Nghĩa Nhân-Vị cổ võ cho một hệ-thống tư-duy mới xây dựng trên
lý-tưởng Tâm-Linh, THÁI-HÒA.
Mô-hình “con-người biết tu-thân” của Chủ-Nghĩa
Nhân-Vị đưa ra nhằm giải quyết tận gốc mọi khủng hoảng kinh-tế xã-hội và
chính-trị trong đời sống hàng ngày, đáng được các nhà làm chính sách tham-khảo
kỹ-lưỡng. Cuối cùng, Chủ-Nghĩa Nhân-Vị là một đóng góp quan-trọng vào ngành
chính-trị học đặc biệt là vấn nạn về dân-chủ hóa tại các quốc-gia lạc-hậu và
nghèo-khổ. Giải-pháp mà Ông Diệm đưa ra là xây dựng một chế-độ (dân-chủ)
đạo-đức”.Chiến-lược xây dựng dân-chủ được thực hiện bằng hai cuộc cách
mạng xẩy ra cùng một lúc, với dân-chủ hình thức ở thượng tầng cấu trúc và
dân-chủ thực-sự ở hạ tầng cơ sở. Chiến lược này vẫn còn giá trị thực hành, có
thể giải-quyết vấn đề dân chủ hóa và chiến-lược “xóa-đói giảm-nghèo” tại
Việt-nam hiện nay, đáng được moị nguời lưu tâm.
Tại sao chúng ta lại phải đi mãi đến Bắc Âu để
tìm kiếm một mô-hình, trong khi nó nằm sẵn trong kho tàng của Ông Cha, sao lại
không lấy ra mà xử dụng? Tại sao lại phải hướng ra ngoài, đi khắp thế-giới tìm
một “lý-thuyết suông” để thử nghiệm? Ở miền Nam (1955-1963) trong các khu
dinh-điền, khu trù mật, ấp-chiến lược, vân vân, người dân nghèo đã từng có được
một mảnh ruộng, một miếng vườn, một căn nhà và một đời sống yên bình ấm no, con
cái được ăn học, đau ốm đã có nhà thương thí. Có phải đây là cái xã hôị mà
chúng ta đang muốn thực hiện? Dẫn chứng trên đây cũng cho thấy Ông Diệm đã “bắt
mạch” đúng bệnh trạng của Việt-nam và liều thuốc “Chủ-Nghĩa Nhân-Vị” đã tỏ ra
hữu hiệu, ít là trong lãnh vực kinh tế xã-hội. Nhưng có lẽ “Bụt nhà không
thiêng” nên người ta đã không ngó ngàng gì đến cái di sản dân tộc này? Sẽ không
bao giờ tìm được một mô-hình hữu hiệu một khi con người lãnh-đạo của Việt-nam
chưa biết tu-thân, tề-gia.
Đối với các bạn trẻ, thế hệ lãnh đạo tương lai
của dân tộc, Chủ-Nghĩa Nhân-Vị là một tài liệu tham khảo hữu ích và cần thiết
cho việc học tập và tìm kiếm những giải-pháp chính-trị cho vấn đề Việt-nam hiện
nay. Di-sản tiền nhân là chỗ dựa vững chắc và phù hợp với tình-tự dân-tôc. Chối
bỏ nó là đi xa gốc rễ, sẽ mất định hướng và lạc lối. Dựa trên di sản tốt đẹp
của Cha Ông, các bạn sẽ tạo nên một hệ-thống lãnh đạo mới với một định hướng rõ
rệt. Ngoài ra bài học lịch sử của thế kỷ vừa qua nhắc nhở các bạn rằng:
độc-lập, tự-do và dân-chủ không phải là món quà của Ông già Noel và không có
một chế độ chính trị nào có thể đem lại cho mình nếu tự mình không bền bỉ
đấu-tranh với chính mình, tôn trọng nhân phẩm của mình và các giá trị thiện ích
của cộng đồng. Tìm về cội nguồn chính là mở lại con đường truyền thừa lãnh đạo
đất nước.
Cuối cùng là một bài học từ cái chết của hai
người khai-sinh ra Chủ-nghĩa Nhân-vị: Lãnh-đạo của Việt-nam trong tương lai cần
phải lấy lý-tưởng Thái-Hòa làm căn-bản thiết lập ra những định chế hữu-hiệu làm
đối trọng (counter-balance) với loại chính-trị “Thực tiễn [Realpolitik]”, để
ngăn ngừa những hành động phi dân-chủ, phi nhân bản và coi thường luật-pháp của
những kẻ cuồng-tín muốn lạm-dụng quyền-lực. Các định-chế này còn ngăn ngừa sự
phung phí nhân-vật-lực của đất nước và sự gián-đoạn về lãnh-đạo quốc-gia trong
tương lai.
Ông Cao Xuân Vỹ nói với tôi: “Không có Ông
Diệm, không có Việt-Nam Cộng-Hoà.” (17-3-1995) Thú thật lúc đó tôi cho rằng
“Ông Vỹ nói hơi qúa chăng?” Nhưng khi nhìn lại lịch-sử, đặc biệt khi đọc lại
hồi-ký của Ông Bảo-Đại và những tài liệu về Bang-Giao Quốc-Tế trong giai đọan
Chiến-Tranh Lạnh 1945 – 1975, với các văn-kiện như Hiệp-Định Geneve 1954,
Hiệp-Định Ba-Lê 1973, The
Pentagon Papers (Vol.1) và
các “memos” ghi lại nội-dung những cuộc đối thoại giữa Ngoại-trưởng Henry
Kissinger của Hoa-kỳ và TT Châu-Ân-Lai của Trung Cộng, thì câu nói này hoàn
toàn có căn cứ. Ví-dụ, nếu Ông Ngô-Đình-Diệm không chịu nghe theo yêu-cầu của
Hội-Đồng Nhân-Dân Cách-Mạng (Nhị-Lang, 1990), quyết tâm truất-phế Quốc-trưởng
Bảo-Đại và biến Nam Việt-nam thành một nước Cộng-Hòa thì cuộc tổng-tuyển-cử tái
thống-nhất Việt-nam được người Mỹ trù-liệu trong Hiệp-định Geneve 1954, đã diễn
ra vào tháng Bảy năm 1956 và miền Nam-Việt-nam đã nằm dưới ách cai-trị của
Hồ-Chí-Minh và đảng CSVN rồi. Thật ra, Ông Cao-Xuân-Vỹ muốn ám-chỉ rằng sự hiện-hữu của Việt-nam
Cộng-Hòa đã giúp cho dân-chúng miền Nam thoát khỏi cái họa đẫm máu “cải-cách
ruộng đất” và trí-thức miền Nam thoát được vụ-án “Nhân-Văn Giai-Phẩm” mà ĐCSVN
đã thi hành ở ngoài miền Bắc; Và miền Nam-Việt-Nam đã được hưởng thêm 20 năm
sống trong tự-do, trong khi ở ngoài Bắc dân chúng sống trong tù-ngục với chế-độ
bao-cấp, không khác gì súc-vật. Nhưng
một sự thật lịch-sử cũng không thể quên được, đó là “Không có Ông Ngô-Đình-Diệm
và Ông Ngô-Đình Nhu, không có Chủ-Nghĩa Nhân-Vị,” và tôi cũng không có được cái
vinh-dự viết và gởi bài này đến qúi-vị độc-gỉa, những người đã và đang trăn-trở
thao-thức vì vận nước nổi-trôi!
E. Mounier nói “Đôi khi lịch-sử cũng ban
thưởng cho những kẻ cứng đầu và một hòn đá đặt đúng chỗ cũng có thể xoay chuyển
cả một giòng nước.” Rất tiếc, Ông Diệm và Chủ-Nghĩa Nhân-Vị của Ông đã xuất
hiện ở một nơi và vào một thời điểm đáng lẽ không nên xuất hiện. Nhưng Ông đã
hạ quyết-tâm, “chọn con đường hy-sinh để bênh vực phẩm-gía con người.” Do đó
những gì mà Ông đã thực hiện được trong hoàn cảnh hoàn toàn cô-lập và khó khăn
của miền Nam Việt-nam lúc bấy giờ, chỉ còn nhờ vào sự quyết-tâm và khả-năng
lãnh đạo của Ông và cần phải được lưu lại trong sử sách một cách công bằng và
trung thực.
Nhà thơ W. H. Auden viết: “Lịch sử đối với kẻ
bại trận, chỉ có thể ngửa mặt lên than “Trời”, nhưng chẳng giúp được gì cho họ
mà cũng không thể tha thứ cho họ.” Tuy nhiên tôi tin rằng, người ta có thể hủy
diệt Chủ-nghĩa Nhân-vị và hai người khai sinh ra nó, nhưng không thể cướp đi
những giá-trị thuộc về họ. Do đó trên căn bản đạo-đức nghề-nghiệp, các sử-gia
có bổn phận đem trả lại những gì thuộc về hai Ông Ngô-Đình-Diệm và Ngô-Đình-Nhu
và nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét