Thứ Tư, 7 tháng 5, 2014

DƯƠNG THU HƯƠNG - BÊN KIA BỜ ẢO VỌNG PHẦN 1

CHƯƠNG 1
Người đàn bà thầm nghĩ: “Tại sao mình đã yêu Nguyên đến thế?”…
Cô chăm chăm nhìn anh qua làn ánh sáng xanh tái của rạng đông. Anh còn đang ngủ say, vừa hiền vừa xa lạ, như một hình nhân bằng sáp. Gương mặt, gờ cong trên sống mũi, vành tai… Vẫn con người ấy, da thịt ấy, trước kia anh là vầng hào quang ở trong cô. Giờ, không còn toả ra hơi ấm của tình yêu và niềm vui sống.
Người chồng xoay mình nằm nghiêng, những sợi râu ở cằm anh khẽ cọ vào má vợ. Một cảm giác ghê tởm và cách biệt khiến người đàn bà ngồi nhổm lên:
“Quái lạ, sao râu anh ta thưa vậy?” Cô nhìn chồng lần nữa, tựa lưng vào tường, thờ thẫn.
Ngoài hành lang, có tiếng chân bước rồi ai đó đánh rơi chiếc xô loảng xoảng.
- Làm gì mà ầm ĩ lên thế, vừa mới bảnh mắt ra?...
Giọng đàn bà oang oang. Đó là tiếng quát của mụ Tòng, một người đáng khiếp sợ trong khu nhà. Đáp lại tiếng mụ, một giọng đàn ông nhỏ nhẹ, hốt hoảng:
- Xin lỗi chị, cái quai xô bị tuột lúc nào tôi không hay.
Không thấy mụ Tòng nói gì thêm. Giáo sư Lê, người đàn ông vừa đáp lời đã đi xuống cầu thang, tiếng dép lệt sệt vọng xa dần. Rồi không gian hoàn toàn yên tĩnh. Lúc ấy khoảng bốn giờ, thành phố còn chưa thức giấc nhưng ánh sáng đã lan toả trên vườn tược, phố xá và lọt qua khe cửa mỗi căn phòng. Đó là thứ ánh sáng độc địa, trộn lẫn sương mù với nắng ấm cuối xuân. Người đàn bà rùng mình, vì cô chợt thấy cái đầu chồng nhô trên tấm chăn giống như đầu tượng gỗ trong phòng bảo tàng, xa lạ làm sao, dưới làn ánh sáng xanh tái đang chuyển dần sang màu thiếc loãng. Một tiếng kêu vụt dậy trong cô:
“Kẻ dối trá ti tiện… đã có thời mình yêu anh ta như một kẻ cuồng si”.
Ngày đầu tiên cô gặp anh là một sớm oi nồng tháng sáu. Lúc đó, Linh là nữ sinh trường đại học năm thứ hai. Giáo viên bộ môn phái Nguyên xuống phụ đạo cho lớp học văn của cô. Đa số học viên là nữ. Các cô gái sớm hiểu biết, giàu mộng mơ và biết giá trị của mình. Các cô tò mò phỏng đoán về anh chàng giáo sinh trẻ tuổi, nổi tiếng là thần đồng, cô nào cô nấy nuôi hy vọng về một mối thiện cảm sẽ nảy sinh. Và Nguyên xuất hiện, trong bộ quần áo xoàng xĩnh bằng vải thô không se sợi, người tầm thước, mắt sáng, tóc đen nhánh, giọng nói đầy tự tin. Khiêm nhường nhưng lạnh lẽo, anh không nhìn tới bất cứ cô gái nào trong lớp - một lớp nổi tiếng về các cô gái xinh đẹp nhiều tài lẻ trong toàn trường. Những bụi phấn trứng bám trên ngón tay anh, và những hạt gầu rơi xuống vạt áo. Chiếc khuy áo cổ bị đứt và vết mực dây trên cửa tay… Anh hấp dẫn mọi người bằng vẻ say mê nồng nhiệt những cao vọng tinh thần. Anh nói về văn hoá Phục hưng, các nhân tố tiến bộ của xã hội tư bản mới, những dao động thời đại và điểm xung yếu của nền móng xã hội cũ, lòng khát sống và sức mạnh của cá nhân đòi phát triển - động lực vĩ đại đã đẩy lùi bóng tối Trung cổ, đưa con người bước lên những bậc thang rực rỡ của nhân văn… Kiến thức sắc bén và toàn diện của anh khiến cô kinh ngạc. Vẻ ơ hờ của anh như một thứ etxăng mầu nhiệm tưới lên ngọn lửa si mê của cô ngay từ phút đầu tiên. Hồi đó, cô mười chín tuổi. Xinh đẹp và dịu dàng, cô khiến cho đám thanh niên nghiêng ngửa ở bất cứ nơi nào cô đặt chân tới. Trước đó một năm, cô hứa hôn với anh chàng hàng xóm, theo gợi ý của bà dì ruột, người đã nuôi cô thuở còn thơ tới lúc trưởng thành. Anh chàng này mê mẩn Linh từ năm cô mười sáu, một mối tình cuồng nhiệt và ngưỡng vọng. Anh ta đẹp trai, ăn nói ngọt ngào, biết chiều chuộng cô và biíet mọi nhẽ lo toan cho đời sống. Giá không gặp Nguyên, mọi sự sẽ xuôi dòng… Nhưng cô đã gặp anh, và cô đã gánh chịu sự ruồng bỏ của cả gia đình, những lời đàm tiếu mỉa mai khinh miệt của dân phố, sự căm ghét và những nhục mạ của người yêu cũ…
“Trời ơi, mình đã yêu Nguyên hơn cả cuộc sống của mình…”
Giá như cô không yêu anh đến thế? Một cuộc sống dừa thừa đã chờ đợi cô. Vị hôn phu của Linh chỉ còn mong tới ngày cô ra trường để làm lễ cưới. Gia đình lo cho anh ta một ngôi nhà khang trang, các thứ đồ gỗ đắt tiền và những tiện nghi sang trọg mà người đương thời mơ ước. Chiếc xe máy anh ta đưa đón Linh luôn luôn thay đổi và bao giờ nó cũng là loại đắt tiền nhất. Áo quần anh ta mặc và may sắm cho người yêu là trang phục thời thượng. Hấp lực của đời sống vật chất không phải không mạnh mẽ đối với con người. Sau khi từ hôn, Linh đã thức đêm hàng năm ròng máy quần áo thuê kiếm tiền cho bà dì giả lễ. Cô đã ngủ gục trên giảng đường, giữa hai giờ học hoặc trong cuộc chuyện trò của đám bạn gái. Cô thèm một bát vằn thắn hay một miếng bánh mì kẹp chả vào những buổi tối mùa đông cóng rét, khi bài học chưa xong. Cô đã chờ đợi anh, thay vì được đưa đón. Và cô đã nhẫn nại chịu dựng cảnh sống tùng tiệm rau muối trong những năm chung sống đầu tiên…
“Phải, mình đã yêu anh ấy với tất cả tình yêu mà người đàn bà có thể có…”
Những hàng ghế trống vắng nơi giảng đường, buổi chiều nào đó họ đã hò hẹn nhau. Một vòm cây giữa trưa hè, toả bóng xuống sân cỏ, anh đã giảng cho cô nghe “Thần khúc” của Đăng tơ, với một âm điều thâm trầm phía sau giọng nói:
- Sao em cứ luôn ngạc nhiên trước các dữ kiện của đời sống và những biến cố của các cá nhân trong xã hội?... Đừng nhìn họ như những vị thánh. Thần thánh chỉ sống trong trí tượng của loài người thuở sơ khai. Bây giờ, con người đã đủ khôn để hiểu rằng vĩ nhân nào cũng có ba mươi phần trăm sự siêu phàm còn bảy mươi phần trăm kia dành cho kiếp sống trần tục. Bởi lẽ đó họ cũng sẽ giật mình khi gió dông sấm sét, sẽ đau đớn dày vò khi mất mát quyền lợi riêng, sẽ có những ngộ nhận và lầm lẫn…
Anh đã ném ra khỏi bệ thờ những thàn tượng ở trong cô nhưng chính anh lại biến thành một thần tượng mới. Anh thường mỉm cười nhẹ nhàng ẩn chút giễu cợt ở khoé môi anh Linh tìm thấy sự vững vàng. Trong ánh mắt diệu vợi của anh cô thấy những kinh nghiệm sống và một tâm hồn trắc ẩn. Người đàn bà run lên vì những hồi ức yêu đương cuồn cuộn chảy trong tim. Buổi tối ấy, trong bóng tối rạp chiếu bóng, anh đã vuốt ve những ngón tay cô. Họ đang xem cuối phim màu “Rôbinxơn”. Cô bị cuốn hút vào các giai điệu, còn anh anh ghé sát bên cô thì thầm:
“Âm nhạc là thứ nghệ thuật dễ lôi cuốn hơn cả. Vì thế nó dễ lừa mị con người. Em biết không, Rôbinxon là hình ảnh con người hùng của thời trước. Làm người hùng thời nay khó hơn nhiều. Không cuộc đấu tranh nào phức tạm và hiểm nguy hơn cuộc đấu tranh của con người với chính con người…”
Lúc ấy, cô đã sửng sốt nhìn anh. Và trong bóng tối đôi mắt anh rực lên, vừa dịu dàng vừa xa vắng. Vẻ đẹp trí tuệ nở bừng trong đôi mắt đó, những những đoá hoa thần bí trồi lên trên sóng nước. Cô xiết chặt tay anh, muốn hôn lên bàn tay ấy, muốn nói với anh ngay tức khắc, rằng cô mãi mãi yêu thương và tôn thờ anh…
Họ đã sống những tháng năm tuyệt đẹp. Cho đến lúc cô phát hiện được những bài báo dối trá của anh, vẻ khinh khi của đồng nghiệp, những lời đàm tiếu sau mỗi chuyến đi, mỗi lần thăng lương, thăng chức. “Không cuộc đấu tranh nào phức tạp và hiểm nguye hơn cuộc đấu tranh của con người với chính con người…” Kẻ nói lời nói đó đã thoả hiệp. Con người có đôi mắt rực sáng và vẻ ưu tư dịu dàng kia đã cúi nhìn xuống đất… Anh đã tước bỏ mọi niềm tin của cô. Như thế, anh cũng tiêu diệt luôn tình yêu đi cùng với nó…
“Tại sao, tại sao…”
Linh không thể cắt nghĩa. Tâm trạng cô rối loạn vì hối tiếc tình yêu đã mất, vì hoảng hốt trước những đổ vỡ đe doạ tương lai, vì một hy vọng âm thầm và mãnh liệt níu kéo đời sống yêm ấm cũ, nhưng đồng thời con người tỉnh táo của lý trí lại mỉm cười chế giễu và chỉ cho cô biết rằng trái tim cô đã lìa bỏ Nguyên, rằng đôi mắt cô đang nhìn anh với cái nhìn lạnh lẽo và sự khinh khi, căm ghét đã khiến những sợi râu anh chạm vào da thịt cô cũng gợi nên sự nhờm tởm.
Người đàn bà nghĩ:
“Kẻ dối trá ti tiện. Lẽ ra, mình không thể nằm chung với anh ta trên một chiếc giường...”
Lúc đó, Nguyên lại trở mình, anh vươn vai, ngáp. Linh trân trân nhìn chòng: Thật kinh sợ cái giây phút người ta chợt nhận thấy ngôi nhà mình trú ngụ tồi tàn, dơ dáy, cây hoa trướ cửa chìa đám lá bụi bặm, một thần tượng từ bóng tốiliêng thiêng của đền đài bị ném ra dưới anh mặt trời chang chói, hiện nguyên hình là khúc gỗ mốc meo...
- Phương Linh, trời sáng chưa em?
Nguyên cất tiếng hỏi, giọng ngái ngủ.
- Có lẽ trời sáng rồi.
Linh đáp.
Nguyên mở mắt, mỉm cười.
- Lại định gây sự phải không, cô bé rắc rồi?
Đôi tay ấm nóng của anh vươn rộng ra, ghì đầu vợ vào ngực mình:
- Bỏ em ra nào.
- Sao thế?
- Không sao cả, nhưng em muốn trở lại câu chuyện tối qua.
- Lại chuyện tối qua?...
Nguyên mở mắt, nhìn vợ với nụ cười độ lượng: đừng trở lại câu chuyện ấy làm gì. Thời cuộc, chiến thắng, chiến bại, chân lý, nguỵ lý... Tất cả những thứ ấy hãy đặt ngoài cánh cửa căn phòng này. Ở đây chỉ có em và bé Hương Ly là tồn tại với anh.
Nguyên ôm choàng lấy Linh, dụi đầu vào ngực cô. Tóc anh đã có sợi bạc.
“Tại sao người ta có thể bạc tóc ở tuổi ba mươi hai?...”
Linh băn khoăn nghĩ. Bố mẹ Nguyên đã về hưu vài ba năm nay, sống ở một ngôi nhà khá đẹp với khu vườn rộng ngoại ô. Cả hai cụ đều chưa bạc tóc. Hồi Linh yêu Nguyên tóc anh đén có ánh xanh như lông một loài chim. Mỗi khi có món tóc xoà xuống trán, Nguyên đưa tay chậm rãi vuốt ngược lên. Linh yêu cử chỉ ấy của anh. Biết bao lần chờ cô trước cổng trường, anh đã đưa tay vuốt mái tóc đẹp đẽ ấy...
Nguyên vẫn ôm vợ nồng nàn. Tình yêu của anh nhân lên với quãng thời gian chung sống. Đó không phải là một thông lệ.
- Con người cần gia đình như con thú cần hang ổ - Anh nói – Em có nhớ đời sống của loài gấu không?... Suốt mùa đông, nó trốn rét trong hang, chỉ gặm mỡ lòng bàn tay mà sống. Chúng ta cũng chỉ là một loài gấu. Chúng ta cần nơi trú ngụ, nơi trốn tránh mùa đông với những bão dông. Chỉ cần khép cửa phòng lại, ôm em với Hương Ly trong vòng tay, anh quên hết mọi khắc nghiệt của cuộc đời...
Nguyên ngừng lại, áp tay lên môi vợ. Lúc đó, Linh thấy thương anh, nhưng đồng thời cô cũng nhăn mặt vì ghê tởm. Gương mặt anh cũ kỹ, thảm hại làm sao?...
Người đàn bà vội nhắm mắt để xua đuổi ý tưởng ấy. Cô vội vã hỏi:
- Sao anh nóng thế, sốt à?
Nguyên đáp:
- Không. Anh khoẻ như một con gấu và anh yêu em.
Linh gạt tay chồng, nhưng anh đã ghì lấy cô, cuồng nhiệt.
- Thôi đi anh, trời sáng rồi kìa.
- Không có sáng và cũng không có tối. Căn phòng này là thế giới riêng biệt của chúng ta.
- Không.
Người đàn bà bật lên một tiếng kêu ngoài ý muốn vì những sợi râu thưa thớt của anh lại đâm vào má cô một lần nữa, và lần này, cảm giác xa lạ, nhờm tởm gia tăng tới mức cô không sao chịu nổi. Tiếng kêu đó khiến Nguyên bừng tỉnh. Anh ngẩng lên nhìn gương mặt nhợt nhạt của vợ, hỏi:
- Có chuyện gì thế em?
Linh không đáp, nhưng bỗng dưng nước mắt ứa quanh bờ mi chảy ròng rờng trên má. Từ ngày họ yêu nhau chưa bao giờ cô khóc. Nguyên nghĩ:
“Không ngờ cơ sự đến nỗi này”
Anh tung chăn, đứng đậy mặc áo và kéo tấm màn che cửa sổ. Bầu trời mùa xuân lồng lộng hiện ra.
- Đừng dẫm chân xuống đất thế, anh lại viêm họng mất thôi. Đôi dép cói em để dưới gầm bàn kia kìa
Dù đang khóc, Linh vẫn kêu theo thói quen. Nguyên quay lại nhìn vợ: Gương mặt cô tràn ngập tâm hồn anh. Ngày cưới, gương mặt ấy cũng trẻ trung xinh đẹp như bây giờ. Một gương mặt không chịu khuất phục thời gian.
Anh ngồi xuống ghế, tìm bao thuốc:
- Nói đi em.
- Em ghê sợ anh, sau câu chuyện ấy.
Nguyên châm thuốc, Linh nhìn anh, rồi nhắc lại:
- Em ghê sợ, anh hiểu không?
- Anh hiểu.
- Nhưng chính em, em không hiểu. Chưa bao giờ em rơi vào trạng thái này. Anh làm em sợ hãi.
Nguyên gạt tàn vào chiếc vỏ ốc, chậm rãi nói:
- Nói đúng hơn là em khinh bỉ anh.
- Không.
- Anh biêt
- Không. Không...
Linh kêu to, nhưng cô hiểu rằng anh nói đúng và cô oà khóc. Nguyên ném mẩu thuốc, định an ủi vợ nhưng anh sực nhớ rằng cử chỉ đó giờ đây không có ý nghĩa gì. Anh lại ngồi xuống, châm điếu thuốc thứ hai:
- Nín đi em, cần bình tĩnh chuyện trò. Anh đã phấp phỏng từ lâu tai hoạ này. Đối với một người nhe em, không chóng thì chầy cái ngày hôm nay cũng sẽ đến…
- Anh đổ lỗi cho em?...
Linh cao giọng. Nguyên lắc đầu, nhưng anh chưa kịp nói, cô đã tiếp:
- Không, không… đừng đổ lỗi… Anh hãy nghe đay, từ khoảng mùa hè năm ngoái trở lại, người ta đã nói đến tai em những lời to nhỏ về anh. Không phải anh Trọng, không phải anh Nam, cô Tâm hay anh Phúc… Những người anh không ngờ tới, do những mối liên quan bên ngoài mà em biết được. Họ đàm tiếu về những bài báo anh viết, về mối thân tình giữa anh và tổng biên tập, về những chuếyn đi Châu Âu và Đông Âu của hai người, về những buổi tiệc tùng đón rước linh đình ở khắp các thành phố và tỉnh lỵ các anh đặt chân tới. Em không phải là một cô bé đeo khăn quàng, em cũng hiểu lòng đó kỵ và sự độc ác của con người đối với nhau, em đã dò hỏi nhiều nguồn tin và đôi lúc trò chuyện với anh để tìm hiểu sự thực hoặc có lúc anh im lặng để biểu lộ lòng khinh thị… Chỉ cần một cái lắc đầu của anh, chỉ cần anh xua tay hay nhíu tràng mày, em sẵn lòng quên hết mọi lời đồn thởi. Chỉ cần nhìn khoé môi anh nhếch lên, em tin rằng đám đông kia thấp hèn, nhảm nhí, và con người chính trực như anh thật khốn khổ khi phai chịu đựng họ… Em đã tin anh đến thế…
Linh ngừng lại, cô nấc lên và nước mắt chan hoà chảy trên gương mặt. Nguyên cúi đầu, gạt tàn vào chiếc vỏ ốc. Những ngón tay run run. Anh nói:
- Anh xin em bình tĩnh. Anh biết mình có lỗi. Nhưng nói cho công bằng hơn, có một phần lỗi của cuộc đời.
- Anh đừng đổ lỗi cho cuộc đời. Đó là lối thoát hèn kém nhất. Anh hãy nói đi, tại sao anh đã hành động như một… - Người đàn bà ngừng lại, khoé mép hằn sâu xuống, cô chưa tìm được lời diễn đạt. Nguyên vẫn rít thuốc, anh cúi nhìn một con bọ rùa bị lật ngửa đang quay tròn trên nền đá hoa:
- Linh này, anh sẽ nói hết mọi chuyện. Không phải để tìm sự tha thứ của em, nhưng để em khách quan hơn trong việc nhìn nhận con người…
Người đàn ông ném mẩu thuốc cuối cùng vào cái gạt tàn, ngẩng lên. Vợ anh nhìn anh chăm chú, chờ đợi. Cặp mắt nâu rọi những tia sáng trong và lạnh như thuỷ tinh. Dưới đôi mắt ấy, hai gò má mịn hồng. Một vẻ đẹp nghiệt ngã và thơ ngây. Nguyên rùng mình, anh khẽ dẫm chân lên con bọ rùa vài giây rồi nói:
- Anh sẽ không bào chữa như tối hôm qua. Xưa nay, anh vẫn yêu cầu đám bạn đồng nghiệp không được nói chuyện công việc trước mặt em, vì anh không muốn em làm quen với những thứ em không quen được. Nhưng bây giờ, điều ấy không cần nữa…
Con bọ rùa ngọ nguậy. Nguyên bỏ chân ra, nó lại quay tròn, cố lật bụng xuống:
- Em có hiểu được tâm lý của một người đàn ông, kẻ chèo lái con thuyền đời sống trong gia đình?
- Tâm lý học không dính líu gì tới những bài báo dối trá cả.
- Trước ngày cưới, anh là một chàng sinh viên tự do, ngoài những giờ ở bên em, anh có thể gặm bánh mì suông tuần này qua tuần khác mà đọc sách..., nhưng, có em rồi có Hương Ly, đời sống vui thú hơn nhưng cũng nặng nề hơn. Anh, kẻ chèo lái con thuyền gia đình, đã kinh hãi nhìn những con thuyền khác chìm dần xuống đáy nước.
Anh ngừng lại, trán hằn rõ nếp nhăn.
- Anh không muốn em thiếu một tấm áo mới, anh không muốn con thèm một đôi giày.
Vẻ đau đớn hiện trong khoé mắt anh khiến cô phải quay đi. Sống mũi cô cay xè. Nguyên nói tiếp:
- Hồi mới ra trường, anh đã hăm hở như chàng kỵ mã vừa lên lưng ngựa. Không quá bòng bột như em, nhưng anh cũng bị thiêu đốt bởi ước muốn làm một con người chính trực. Con người ấy dùng ngòi bút để đấu tranh cho cách mạng, giành quyền năng cho công lý, ca ngợi tiến bộ, phanh phui những xấu xa, ti tiện còn tồn tại trong đời sống... Không riêng anh, nhiều đồng nghiệp của anh cũng chung ý tưởng đó. Nhưng dần dà, anh hiểu rằng ước muốn của con người luôn cách biệt bởi một khoảng thời gian và không gian quá dài rộng so với lòng kiên nhẫn của chính họ. Anh được phân công đi nhiều nơi. Nơi nào, người ta cũng được dặn dò trước để cư xử với phóng viên thật tốt, để trình bày những báo cáo tuyệt hay. Ở đâu, họ cũng thích thổi phồng thành tích và giấu diếm những khiếm khuyết. Đó là căn bệnh phổ biến. Chủ nghĩa thành tích khoả lấp những mối hiểm nguy và tô vẽ lên hiện trạng thật của xã hội. Nó tạo cho con người niềm vui mù loà cũng như trạng thái bình an giả tạo, một mặt đất phẳng che đậy những rạn vỡ âm thầm dưới đáy sâu... Cố nhiên, mọi người đều hiểu rõ điều ấy sẽ đưa đời sống chung của cộng đồng tới đâu. Nhưng ai có can đảm để chống lại mọi thói quen đã ngự trị ở mọi nơi, mọi lúc?... Ở một xã hội mà quyền năng của mỗi cá nhân chưa được xác quyết, tất thảy hành động của chúng ta tuỳ thuộc vào dòng chảy chung.
Nguyên dừng lại, đốt tiếp điếu thuốc. Bé Hương Ly trở mình lầm bầm nói mê. Linh cúi xuống vỗ con cho nó ngủ tiếp. Trong khoảng thời gian ấy, tiếng chim bên ngoài lảnh lót vọng vào.
- Những năm đầu, anh day dứt, băn khoăn, đã bất bình, phản kháng. Sau anh hiểu rằng chỉ nghĩa thành tích kia không chỉ là một thói quen vô thức của người đời. Nó gắn liền với lợi ích của một số cá nhân và vì thế nó sẽ được nuôi dưỡng trong thói giả dối, tàn nhẫn và sự vô liêm sỉ... Người ta gặt thêm cho mình một món lợi tức, nghĩa là đẩy tình trạng chung của xã hội thêm một bước tới bờ vực hiểm nguy. Nhưng để tiêu diệt những dục vọng xấu xa ấy, phải là một viên tướng có tên lửa và thiết giáp trong tay. Nhưng anh, anh chỉ là một tên lính bộ binh quèn với khẩu CKC và vài viên đạn bắn lẻ...
Nguyên nhếch môi, hình như anh định cười nhưng nụ cười không tới. Linh vẫn im lặng nhìn chồng. Nguyên nói tiếp:
- Sau rồi, anh cũng quen dần với tình trạng ấy. Còn gì hơn thế được?... Mình là một trí thức, nhưng đồng thời cũng là một viên chức của nhà nước. Là viên chức, anh hoàn thành cái phần việc cơ quan đã giao để tháng tháng có quyền lĩnh đồng lương. Vả chăng, đời sống có bao giờ hoàn thiện? Cái hôm nay ta thấy đúng ngày mai đã lại sai. Con sông hôm nay, mai hoá những bãi bồi. Người đời cũng vậy, ai dám xác nhận giá trị thật của họ? Tốt hơn hét, hãy nói những lời người ta muốn nói.
Linh ngắt lời chồng:
- Anh tự an ủi tài tình thật. Nhưng xưa nay em có nghe giọng điệu đó đâu?
- Đúng thế, chính vì em!...
- A, lỗi lại thuộc về kẻ khác?
- Đừng nói to đi Linh – Nguyên cau mày - Người ta nghe thấy đấy. Xưa nay, gia đình mình vẫn êm ấm nhất trong khu nhà này... Anh không ngoa đâu, Anh yêu em và muốn chiều chuộng em. Mà em lại là một cô bé học trò, không chịu chấp thuận bất cứ sự thực nào ngoài những dòng chữ tím, không tha thứ ch bất cứ ngoại lệ nào. Em thơ ngây như đứa trẻ nhưng lại ương bướng như bà hoàng. Bởi lẽ đó, anh không muốn cho em biết...
- Những sự thực thế thói gian dối của anh?
- Có hai sự thực: Một sự thực trần trụi và một sự thực con người mong muốn.
- Cái gì tồn tại trong lòng mong muốn thì được gọi là ước mơ. Một người làm báo chân chính không thể chơi cái trò phù thuỷ đánh tráo ước mơ với hiện tại.
- Nhưng nếu cái trò ấy làm đẹp lòng cả hai phía?
- Đừng sống vì muốn làm đẹp lòng người này hay kẻ khác. Anh phải giữ niềm tin và lòng chính trực của anh.
- Nhưng anh không phải là ông chủ báo, và Linh quên rằng... Linh nhìn chồng chằm chặp, không lời, hai má đỏ bừng vị giận giữ. Nguyên bóp vụn mẩu thuốc trong tay hạ giọng:
- Ngay trong đời thường, đã mấy ai dám nói lên những sự thực khắc nghiệt. Cả khu nhà này, ai cũng biết con chị Hồng là một đứa trẻ dị hình, xấu xí. Vừa sứt môi vừa thừa ngón tay, cái đầu lại qúa to trên cái cần cổ vặn vẹo. Nhưng đối với chị ấy, nó là tất cả vàng bạc trên thế gian. Một người trung thực đến tàn nhẫn như em, em có can đảm bảo chị ấy rằng: Con chị là một thằng tàn tật?...
- Nhưng đứa con không phải là một thành phần công nghiệp hay nông nghiệp. Cũng không phải là kết quả của một phương thức sản xuất hay cách làm ăn.
- Đối với người đàn ông, cái gì họ đã đặt vào niềm tin, danh dự và khát vọng, nó sẽ ngang bằng với cuộc sống của chính họ. Đôi khi nó còn cao giá hơn những đứa con.
- Anh nói dối… Điều ấy ghê tởm quá…
Linh gần như hét lên. Nguyên định nói điều gì đó nhưng lại thôi vì đứa con choàng dậy, ngơ ngác nhìn bố mẹ. Và sau đó vài giây, một giọng nói thô lỗ vọng vào:
- Hôm nay đến phiên nhà anh Nguyên quét cầu thang. Quét xong nhớ trả bảng trực nhật cho cô Hồng.

CHƯƠNG 2
Mưa kéo những sợi chỉ bạc ròng qua khung cửa. Cuối xuân, có những cơn mưa lạ lùng như cuộc hôn phối giữa thứ mưa phùn ngày Tết Nguyên Đán và những cơn mưa rào hối hả đầu hè. Hai vợ chồng Nguyên ngồi đối diện nhau ua chiếc bàn làm việc. Bé Hương Ly đã được gửi về ông bà nội chiều qua. Cả hai đều im lặng. Họ đã nói với nhau nhiều ngày đêm, chẳng còn điều gì để nói thêm, nhưng cũng chưa đi đến sự ngã ngũ cuối cùng.
Người chồng đã vun đầy một đống tàn thuốc. Ngón tay anh thâm xì, đầu lưỡi đắng nghét không còn cảm giác mùi vị. Anh lắng nghe mưa rơi, lần trở lại mùa mưa dầm trước ngày cưới... Ngày đó ngâu kéo dài tuần nọ qua tuần kia. Đường lầy khủng khiếp. Khu học xá lại càng tồi tệ hơn. Vậy mà anh chẳng có lấy một chiếc ấo mưa cho ra hồn. Đi đón Linh, anh trùm một tấm ni lông rách mép. Dạo đó, họ còn quá trẻ, và tình yêu xoá đi hết thảy những khó khăn. Chỉ cần vài chiếc bánh bao không nhân cũng đã là một bữa tiệc ngon lành. Linh may quần áo gia công để bà dì trả lễ cho gia đình chàng hôn phu cũ. Cô dành dụm được ít tiền, nhưng lại bị mất cắp trước ngày cưới vài tuền. Mất món tiền, Linh lao vào làm ngày làm đêm đến mức lăn ra ốm.
“Nấu cháo hoa cho em ăn với đường. Mẹ em còn sống thích nhất là cháo trắng...”
Linh bảo anh như thế. Cô nằm trên giường, gương mặt trắng như mỡ đông. Nguyên se lòng, anh tìm cà mèn, gom nhặt tiền đi mua phở cho cô. Lúc đi, anh quên đem ni lông theo. Nửa đường, trời đổ mưa to. Khi chạy được tới cửa hàng, người anh ướt như chuột lột. Hàng phở ấy treo một tấm gương, tuy đã ố nhưng còn soi khá rõ hình ảnh đám khách ăn trong đó. Vô tình, Nguyên nhìn thấy mình giữa bọn họ. Một chàng trai gày còm, trắng xanh, bận quần vá đúng và áo sơ mi lỗi mốt. Từng món tóc ướt bết vào trán anh, nước nhỏ ròng ròng. Anh móc nắm tiền lẻ, đếm mãi. Lão chủ quán hất hàm: Bỏ cả mèn ra... Cái nhìn của gã khinh thị. Mặt Nguyên nóng ran, anh bỏ cà mèn xuống. Bọn người xung quanh không để ý tới anh, họ đang mải ăn xì xụp. Tuy nhiên, Nguyên có cảm tưởng rằng hàng chục cặp mắt mọc phía sau gáy họ đổ dồn vào nhìn mình. Đám người ấy đều béo tố, ăn mặc bảnh choẹ hơn anh. Đấy là khoảnh khắc đầu tiên, anh hiểu được nỗi đau đớn của sự nghèo nàn. Và anh đã ra lệnh cho mình: Không bao giờ được lâm vào cảnh nghèo túng... Anh đã cố gắng, đã làm hết sức mình để kiến tạo cái tổ ấm êm này... Làn da mịn màng kia, đôi má hồng hào tươi mát kia, làn tóc óng ả kia... cả cái dung nhan ngời ngợi của cô, anh đã cố công gìn giữ... Giờ đây tất cả trôi tuột khỏi tay anh, cũng chính bởi sự gắng gỏi đó. Tại sao đời sống lại hàm chứa những bất công tàn bạo như thế? Tại sao niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của con người lại tạo dựng lên trên những nghịch lý không thể dung hoà?... Trời ơi, giá như anh cứ cam chịu tuân theo cái nguyên tắc đã thờ phụng hồi còn trai trẻ?... Anh có thể làm những gì? Chỉ là những mẩu đưa tin vắn tắt, chung chung, nhạt nhẽo. Thỉnh thoảng mới có thể đưa vào đó một bài in có chất lượng: Sự trung thực cho phép. Phải tới một giai đoạn nào đó, người ta mới chấp nhận được những bài báo loại đó. Và tới giai đoạn ấy, đời sống của anh, của cả gia đình anh sẽ trôi dạt tới đâu?... Không, không, anh không thể đơn độc tồn tại, anh không thể tuân theo lý tưởng một cách mù loà. Một con người làm sao có thể tách khỏ quá trình vận hành chung của xã hội...
Linh quá tàn nhẫn và bất công đối với anh. Ngày họ mới cưới nhau, khi Nguyên còn là một phóng viên quèn, cả hai vợ chồng chỉ có ba chiếc áo và đò vật duy nhất trong căn phòng này là chiếc chạn đựng thức ăn bằng gỗ thùng ghép lại. Linh không đòi hỏi gì anh, cố vui vẻ với những bữa cơm chan nước lọc và dăm quả cà muối. Cô bòn nhặt tiền mua vải vụn may quần đùi cho chồng và lấy phần từng điều thuốc lá quấn cho Nguyên trong những buổi họp liên hoan. Linh chưa bao giờ ngỏ với anh một lời ước muốn: dù là một đôi dép, một tấm áo hoa hay một chiếc quần kiểu mới. Trang phục cũ kỹ đối nghịch với dung nhan lộng lẫy của cô. Sinh hoạt tằn tiện làm màu má hồng của cô nhạt dần xuống. Nguyên đã nhận thấy điều ấy rõ nhất khi cô mang thai bé Hương Ly... Anh xót xa, anh không thể viết mãi những bài báo không được duyệt. Anh đầu hàng đời sống, tuân thủ các ước lệ và khi đó, chỉ cần một phần ba trí thông minh sẵn có, anh đã dễ dàng thành đạt... Cuộc sống vật chất của họ thay đổi nhanh như có phép màu. Linh đón nhận cuộc sống đó cũng hồn nhiên như cô đã từng chịu cảnh sống eo hẹp cũ, không mảy may đắn đo ngờ vực. Cô tin anh, nhưng anh đâu phải một vị thần có phép cải tử hoàn sinh, một siêu nhân có khả năng xoay chuyển những thói quen đang ngự trị trong xã hội?... Co vừa cao thượng và thông minh nhưng lại vừa giản đơn đến lạ lùng và tàn bạo. Giờ đây, cô khinh bỉ và kết tội anh, làn môi hồng như môi con trẻ và đôi mắt nâu trong vắt, rọi những tia sáng mê dại lòng người...
Người đàn ông nhìn vợ, thấy ngọn roi bỏng rát quất lên tim. Cô cũng vừa đưa mắt nhìn lại anh, giận dữ và khinh thị. Còn anh, anh yêu cô cồn cào điên dại, yêu từ ngàn xưa và ngay chính khoảnh khắc này...
Linh cũng im lặng suốt cả buổi sáng như Nguyên. Họ đã thức gần trọn đêm qua, nhưng cô không muốn ngủ. Nỗi lo sợ mạnh mẽ hơn, chiếm lĩnh cả con tim lẫn khối óc người đàn bà. Từ lúc nhận ra rằng tình yêu với Nguyên đã chết, Linh cũng thấy ngay một khoảng trống heo hút trong lòng: một ngôi nhà vừa đổ sụp sau cơn bão, một cùng đất sụt lở chỉ còn để lại vực sâu. Thế giới tâm linh của cô như một thành trì đâu đâu cũng có dấu vết của anh. Từ viên đá lát đường tới cây trụ chính, từ mỗi hành lang bí ẩn tới những ụ châu mai... Bố mẹ cô qua đời lâu rồi. Họ chỉ còn là những ảnh hình lãng đãng trong sương mù quá khứ. Cả những niềm ưu ái, cả những nỗi nhớ nhung họ gợi lại trong cô cũng xa xôi như ánh nắng cuối chiều. Còn anh, anh đã sống trong cô, tràn đầy và vang động. Mỗi ánh mắt của anh khiến cô run rẩy, mỗi lời nói của anh, tâm hôn cô vọng lại những hồi âm như vách núi ném vào thung lũng tiếng hú gọi của rừng sâu.
- Đời sống có thể là tất cả đối với con người nhưng cũng có thể là những giá trị phù ao. Ngay lúc gã trọc phú say sưa vì ruộng vườn, nhà cao, sân rộng thì cây gậy thần định mệnh đã chỉ ra cái ngày chúng biến thành bụi cát phù du. Không có vương quốc sang giàu nào tồn tại được lâu bèn cũng gió bão của thời cuộc. Và bởi vậy, sự nỗ lực xoay xoả của con người với các tiện nghi vật chất thật tầm thường. Khi đã ý thức rõ điều đó, chúng ta có thể yên tâm với một cuộc sống trọn vẹn, đúng với ước nguyện và lương tâm mình...
- Anh chưa bao giờ tìm cách tự thổi phồng mình trước con mắt mọi người cũng như trước mắt em. Anh không thể đem lại cho em cuộc sống sang giàu, anh cũng không thể đảm bảo cho em những an nhàn thư thái. Đời sống vận động, và tất cả sẽ vận động theo. Nhưng anh sẽ cố gắng để em đặt niềm tin vào lời hứa này: tình yêu và lòng tự trọng...
Trong bóng mát của giảng đường, cô ngả đầu vào vai anh tin cậy. Khoảng không gian và thời gian dài rộng trên cõi đời không còn lạnh lẽo, mênh mông từ ngày cô gặp được anh. Anh, vừa là bến cho thuyền cô thả neo, vừa là đỉnh non cho cô trèo tới. Cái thế giới đẹp đẽ của cao vọng tinh thần anh đã dựng lên trong cô vĩ đại quá, trùng điệp quá. Và bởi vậy, khi đổ vỡ nó cuốn hút một phần đời cô xuống tận đáy sâu...
“Thật điên rồ, mình đã yêu Nguyên đến thế...”
Cơn giận dữ làm sôi sục máu huyết trong tim cô. Nhưng lúc ấy, cô chợt thấy làn gió cuốn lên tấm rèm che cửa và khoảng trời xanh lơ hiện ra, vói làn mây trắng nõn nà. Cái hình ảnh dung dị ấy khiến người đàn bà dịu đi. Tấm rèm cửa lại bay lên cuốn vào song cửa. Tấm rèm ấy, Nguyên mua ở Buycarét, trong một kỳ họp ngắn ngày. Chất vải mịn, màu cẩm thạch, nổi những vân hoa óng ánh như bọt nước. Căn phòng của họ thật thanh lịch với những bức tường cao, quét vôi xanh dịu và tấm thảm rộng trải nền, nổi lên những bông hồng. Chiếc tủ buýp phê lót kính, phản chiếu các viền vàng trên miệng bát, chén, màu duyết dụ của những chiếc cốc pha lê chuyên dùng uông vang, con búp bê Nhật Bản tóc kết hạt cườm, chiếc chìa khoá mạ vàng cắm vào vòng tròn của hộp đồng hồ báo thức... Tất cả những thứ đồ vặt vãnh ấy được đắp đổi dần dà trong một cuộc sống ngày càng trù phú, giống như những hạt phù sa bám vào bờ đất, cho tới lúc nào đó người ta mới nhận ra. Linh giật mình: có lẽ, chính ta thờ ơ quá... Có lẽ, đời sống ngặt nghèo và tăm tối hơn những lý tưởng sẵn có trong bản thân ta... Chiếc đồng hồ treo tường buông hồi chuông thánh thót, con hoạ my thả một tiếng hót dài tiếp theo hồi chuông. Và sau đó, căn phòng lại trở nên yên tĩnh. Người đàn bà ngước nhìn chiếc đồng hồ treo tường cổ mà chồng cô đã đem về sau một chuyến đi Nga. Rồi ánh mắt cô lại lướt qua tấm vải phủ máy thu hình có những hình thêu Udơbếch, qua chiếc cátsét 555 đặt trên nóc tủ sách, qua bức tượng thần Vệ nữ Milô... Dường như tất cả những đồ vật ấy cùng lúc nhìn cô với con mắt chế nhạo và buồn bã: “Thưa bà, cho đến hôm nay bà mới lần tìm xứ sở của chúng tôi.
Thưa bà, chắc chắn người ta không thể kiếm chúng tôi như nhặt mấy mảnh vỏ sò trên bờ biển. Thưa bà...”
Linh thấy lòng se lại vì xót thương. Phải chăng cái tổ ấm này được tạo dựng chính vì cô, và bé Hương Ly? Nguyên đâu phải thứ đàn ông bị những ham muốn tầm thường chế ngự?... Bao năm gần gũi anh cô hiểu rằng trong cõi đời loại đàn ông như anh không phải là dễ kiếm. Chưa lần nào cô nhìn thấy gương mặt anh nở nang, mãn nguyện trước một chiếc xe máy, một chiếc đài truyền hình tối tân hay một bữa tiệc sang trọng dư thừa... Không, tất cả tiện nghi của cái đời sống này đối với anh chỉ là phương tiện, anh cần có chúng để tìm được tiếng cười của cô, để giữ màu hồng trên má cô, để tiếng reo đùa của đứa con nhỏ vang lên ròn rã... Cô hình dung lại những lần anh trở về, sau các chuyến đi xa, nụ cười dịu dàng trìu mến của anh, dáng vẻ điềm tĩnh có đôi phần mệt mỏi khi anh trao cho cô những quà tặng... đó là dáng vẻ của một con chim mẹ tha mồi về tổ. Thật độc ác và bất công nếu cô kết tội con người vị tha ấy...
Những cơn nức nở âm thầm dâng. Nước mắt trào qua mi người đàn bà, lặng lẽ rơi từng giọt.
Nguyên buông điếu thuốc vừa rút chưa kịp châm, tới bên vợ:
- Nín đi Linh, em muốn gì?
- Em không biết.
- Em từ bỏ anh?
- Không, nhưng em không còn yêu anh nữa.
- Vậy chúng ta sẽ sống ra sao?
-...
- Anh yêu em. Bao giờ anh cũng yêu em.
- Nhưng em không còn yêu anh được.
-...
- Từ bây giờ, chúng ta chỉ có thể coi nhau như những người quen.
- Còn con?
- Nó sẽ ngủ với em. Mẹ con em trải chiếu ở góc phòng.
- Không, anh sẽ ngủ ở đó. Mẹ con nằm trên giường.
- Em không ngủ trên chiếc giường mua bằng những đồng tiên dơ dáy.
Nguyên âm thầm nhìn vợ nghĩ:
“Em là kẻ cuồng tín. Em là tín đồ trung thành và quyết liệt của những lý tưởng thời niên thiếu, không tha thứ, không khoan nhượng bất kỳ ai...”
Anh thu dọn đồ đạc, trải chiếu vào góc nhà. Xong anh kéo tậm nệm trên giường xuống. Nhưng cô đã bảo anh:
- Bỏ tấm nệm đó ra, em không cần.
Giọng nói nghiệt ngã của cô khiến anh tái người. Nhưng ngay lúc đó, anh cũng biết rằng anh yêu cô cuồng dại. Đặt hai chiếc gối xuống chiếu, anh xoa tay đờ đẫn. Anh nhìn cặp đùi tròn đầy, đều đặn của Linh dưới làn lụa mỏng. Anh thèm được gối đầu lên đó, tìm cảm giác thanh thản và ấm áp của người thuỷ thủ bị đầy ra hoang đảo vừa được trở về...
Bà giáo Phượng, cô ruột Linh, thường quảng cáo quán bún ốc ở phố Lý Quốc Sư ngon nhất Hà Nội. Bà đã đưa cô tới đó vài bận. Tấm biển ghi nguệch ngoạc hai chữ: “Ốc nóng” trước ngôi nhà nhỏ. Không có gì sang trọng hơn. Bàn ghế khấp khểnh, cái thấp cái cao nhưng bún trắng và ốc béo tuyệt trần. Thứ nước dấm chưng ớt mỡ cay sè lưỡi hấp dẫn các bà các cô khắp thành phố. Nhưng hôm nay, hai người không gặp may. Nhà hàng đã treo biển “hết” từ lúc chín giờ sáng.
Bà Phượng bảo:
- Giờ cháu muốn tới đâu?
Linh đáp:
- Đâu cũng được cô ạ. Cháu không đói.
- Thế thì uống một ly ca cao nóng vậy. Có một quán cô quen...
Họ đạp xe song song trên đường. Trời lạnh. Đám con gái choai choai cố trưng diện lần lữa những mốt áo vừa được ném ra hồi mùa đông. Bà Phượng cười mỉm, bảo cháu gái:
- Xem cái lũ công ngu ngốc chưa kìa? Thời cô, người ta cũng đã mặc kiểu áo ấy.
- Vâng.
Linh đáp theo thói quen. Óc cô trống rỗng.
Bà Phượng liếc nhìn Linh:
- Cháu làm sao vậy?
- Thưa cô, không.
Những chiếc lá sấu già rơi xuống. Một thằng cà lơ trạc mười tám mười chín đạp xe vượt lên:
- A, bà già trông cũng còn tươi ra phết. Còn cô em thì xinh tuyệt. Sao nhìn anh lạnh lẽo thế em?...
Linh im lặng. Thằng ranh con ngượng ngùng lẩm bẩm gì đó rồi phóng xe đi. Bà Phượng than thở:
- Thời buổi quái gở, lũ trẻ ranh mất nết nhan nhản đầy đường.
Họ rẽ qua một ngã tư nữa, tới tiệm càphê. Không có biển quảng cáo, cũng không có mũi tên làm tín hiệu. Bà giáo dẫn Linh qua một ngõ hẹp, qua vài quán nước chè, nới túm tụm đám dân ápphe của thành phố. Sau đó họ chui qua cái cổng thấp lè tè kiểu cổ để leo lên một cây cầu thang nhỏ, chênh vênh.
- Vào đây, khéo không ngã.
Bà Phượng gọi. Linh đang đứng trước hành lang. Làn khói xám mờ mờ khiến cô ngạt thở. Khoảnh khắc sau, cô mới quen bầu không khí đậm đặc khói thuốc và khói càphê. Phòng trà này không rộng, nhưng độc đáo. Bàn ghế được thay bằng những gốc cây đánh xi bóng loáng. Bình đựng tàn thuốc rặt một thứ khổng lồ, tráng men nâu. Một tấm tranh sơn dầu trường phái Barôc, rực rỡ man dại. Một đầu nai khô, giương đôi mắt thuỷ tinh lồi nhẵn bóng nhìn thế gian. Hai lọ thuỷ tinh hình bán nguyệt treo áp tường, đối diện qua chiếc đầu nai, trồng vạn niên thanh. Linh ít vào các quán, cô có đủ các thứ nước giải khát trong nhà. Lâu dần, cô có cảm giác ghê sợ khi bắt buộc phải rẽ vào đâu đó để uống một cốc nước chanh hay ăn một tô phở, Linh sợ thiếu vệ sinh, sợ cả cái không khí thường trực ở những nơi người ta tìm đến để trốn tránh cuộc sống gia đình.
- Quán cà phê này có tiếng trong thành phố. Ở đây cháu sẽ gặp những người có tên tuổi.
Bà Phượng ghé tai Linh, thì thào. Rồi bà quay sang tươi cười chào chủ nhân.
- Bà Phượng dùng gì ạ?
Chủ quán tì tay lên tủ kính, nghiêng đầu hỏi. Ông ta trạc tuổi năm mươi, da đen bóng, mắt tinh ranh.
- Xin ông hai tách cacao nóng, thứ kèm bơ.
Chủ quán gật dầu, đoạn quay vào buồng trong:
- Lan.
- Dạ.
- Hai cacao béo.
- Vâng, năm phút nữa sẽ có.
- Bà lấy bánh chứ? – Ông ta hỏi bà Phượng.
- Vâng.
- Vẫn thứ bánh như mọi khi.
- Thứ đó, nhưng bơ có tươi không?
- Bánh hàng tôi bao giờ cũng ngon nhất Hà nội.
Người đàn ông đáp, và thêm:
- Ông bạn của bà vẫn dùng loại bánh đó. Có lẽ, lát nữa ông ấy cũng tới đây.
- Thế à...
Bà Phượng đáp, cổ và hai tai đỏ lựng lên. Lúc đó, cô bé tên Lan vừa bưng ra hai tách cacao bốc khói:
- Cháu uống đi cho nóng – Bà Phượng hối hả giục – Mùi cacao thật dễ chịu.
Chủ quán nói:
- Để có được mùi thơm ấy tôi phải giữ gìn rất công phu. Loại hộp cacao nhôm ngày xưa còn khá. Bây giờ, người ta làm bằng giấy nến, chểnh mảng một tí là mốc, mất mùi ngay. Cứ gì nước ta, cả thế giới này mỗi ngày một phú quý giật lùi.
Bà Phượng cười:
- Chỉ riêng ông là chẳng phú quý giật lùi thôi, đúng không? - Chủ quán cười, vừa đắc ý, vừa giễu cơt.
Một người khách nữa bước vào. Y trạc tuổi chủ quán những còm cõi thất thểu. Bận bộ đồ xơ xác, lem nhem gương mặt dầu dãi, trông y hệt một kẻ quen ngủ trên ghế công viên và ngồi uống bia quanh những mẹt mực nướng, nem chạo đầu chợ.
- A, chào ông bạn.
Y chào chủ quán, ném chiếc tủi thổ cẩm đeo vai xuống sàn và chọn một chiếc ghế sát tường để lấy chỗ tựa.
- Ông chưa đi Sàigon à?
Chủ quán hỏi.
- Chưa. – Y đáp.
- Sao vậy ?
- Chán. Không có lý do nào hơn… Mà lạ thật, ai cũng háo hức đi Sài gòn. Chỉ tôi là không. Từ ngày giải phóng tới nay tôi đã đi năm lượt. Quá đủ rồi.
- Nhưng dù sao Sài gòn cũng đẹp gấp trăm lần Hà Nội.
- Ờ, có thể… Nhưng cái đẹp còn tuỳ thuộc vào cảm quan của mỗi người. Ví như cái bình đất nung này ông đặt trên những cái bàn xù xì bằng gốc cây thì tuyệt đẹp, và trong căn phòng này nữa, với những hàng sấu sum xuê ở ngoài kia… Nhưng nếu nhắc chúng sang một chiếc bàn tròn sang trọng của phòng khách nào dó trọng một khách sạn ở Sài gòn thì tức khắc sẽ trở thành lố bịch. Con người cũng thế thôi, cần phải tìm một khung cảnh thích hợp cho mình.
- Tôi như ông, tôi chọn quách Sài gòn làm đất sống. Cả một biệt thự ba tầng. Ở ngoài này, có ngủ mê cũng không thấy.
- Chính thế, người anh em ạ. Với người khác, tôi là một thằng điên. Với tôi, họ là những kẻ khờ. Sài gòn không phải là đất gốc của tôi. Đấy là nơi tôi đến chơi chứ không phải đến ở. Cuộc sống con người không giống con chim định cư. Con chim chỉ cần cái tổ. Con người không thể chỉ cần một căn nhà, dù đó là biệt thự hay lâu đài chăng nữa… Thôi, ông bạn hãy đem quyển sổ nợ của tôi ra đây… A ha, một ngàn tám trăm đồng chẵn… Hôm nay, ghi thêm cho tôi một bao Samít và một chén cà phê đen…
Y bóc bao thuốc, châm một điếu và lim dim nhả khói. Chợt y nhìn thấy Linh, mắt y chợt bàng hoàng. Linh cảm thấy điều đó, cô cúi xuống. Lát sau, khi Linh ngẩng lên, có hai người khách nữa bước vào. Một người đàn ông cao lớn, rất khó định tuổi. Có lẽ ông ta năm mưoi, hoặc hơn nữa. Nhưng cũng có thể ông ta mứoi chỉ ngoài bốn mươi. Cả vẻ mặt lẫn dáng điệu người khách lạ đều biến đổi mau lẹ và đường đột. Ông ta đi với một thiếu phụ trẻ nhưng đã xồ xề, mặt trát đầy phấn, lông mày kẻ chì dài chót thái dương. Vừa bước qua ngưỡng cửa, thấy bà Phượng, người khách lạ sượng sùng dừng lại:
- Phượng, Phượng…
Ông ta lắp bắp:
- Phượng có khoẻ không?
- Cảm ơn, tôi vẫn thường thường.
Bà Phượng đáp lại bằng một giọng nhã nhặn nhưng đầy ẩn ý. Mắt bà lia như chớp, lục soát người đàn bà trẻ đứng trước mặt mình. Từ đôi guốc hia dưới những móng chân sơn đỏ tới chiếc túi khoác vai, từ cặp đùi ngắn dưới lớp vải bò tới cặp môi tô son vụng về nằm giữa gương mặt vuông và ngắn… Môi bà nhếch lên:
- Còn anh? Chắc chắn còn khoẻ chứ?
- Cảm ơn Phượng…
- A, trông anh còn thịnh vượng lắm. Kìa, giới thiệu người quen với chúng tôi đi.
Bà Phượng tươi cười, mắt bà rực lên một thứ ánh sáng lạ lùng. Quay sang Linh, bà tiếp:
- Đay lầ Phương Linh, cháu con ông anh cả tôi. Đây là nhạc sỹ Trần Phương, tác giả những bài hát mà cháu vẫn thích…
Linh giật mình, ngước lên: Té ra đây là con người lừng lẫy, tác giả những bức tranh sơn mài cả châu Á biết tên và những bài hát nổi tiếng.
- Cháu… chào chú.
Cô khẽ nói. Vì từ lúc vào phòng trà người khách lạ cứ cuối đầu nên tới lúc đó ông ta mới nhìn thấy Phương Linh. Gương mặt ảm đạm chợt loé lên. Nhưng rồi lại chìm xuống sau lớp mù vây bọc. Mắt ông ta đẹp, mày rậm, mi dài.
- Chào cô.
- Nhạc sĩ đáp với giọng êm dịu, gần như nhút nhát.
Ông ta chưa kịp nói gì thêm, người đàn bà trẻ đi cùng đã kéo tay áo nhạc sĩ, tự giới thiệu:
- Tôi là Ngọc Minh, phóng viên tạp chí nghiên cứu âm nhạc.
Xong, cô kéo ghế ch nhạc sĩ và cho mình. Trần Phương ngoan ngoãn ngồi xuống.
- Nào, cho chúng tôi một bao ba số và hai càphê. Cô phóng viên quay lại bảo chủ quán – Sao hôm nay ông lừ đừ như say thuốc lào thế?... Này, tôi mới phát hiện ra một hàng bánh ngọt tuỵêt hảo ở Hàng Bông Nhuộm, ông nên tới đấy mà đặt. Trên tài bánh ở dây. Tất cả những ai được quảng cáo đã nếm bánh và cảm ơn tôi rồi đấy.
- Vâng, tôi sẽ cảm ơn cô cả trăm lần.
Chủ quán đáp, đích thân bưng càphê với thuộc lá ra. Trần Phương quay ra cửa sổ, nhìn những vòm lá sấu chắc chắn để khoả lấp nỗi ngượng ngùng. Khi nhìn nghiêng hai viền mi ông ta như có màu tím thẫm, và dưới viền mi ấy, rọi chiếu một thứ ánh sáng thăm thẳm cô đơn.
Linh chợt ái ngại: Hẳn ông ấy chẳng vui thú gì khi nghe người đàn bà trát bự phấn son kia thao thao bất tuyệt. Hẳn con người không may mắn này chứa nặng những ưu tư. Cô muốn nói một lời nào đó với ông:
- Cháu thuộc rất nhiều bài hát của chú.
- Cám ơn cô, có đáng gì vài ca khúc bình thường.
Nhạc sĩ đáp, vẻ khiêm nhường. Ông cúi xuống, thận trọng gạt tàn thuốc vào bình. Linh nói tiếp:
- Cả những bức tranh của chú nữa, mặc dù cháu không hiểu biết nhiều về hội hoạ.
- Vâng, mấy bức đó tôi vẽ đã lâu rồi. Nói cho công bằng, xem cũng tạm được…
Trần Phương đáp và nở nụ cười biết ơn. Khi ông ta cười, hai hàm răng đều đặn, trắng như men sé ánh lên khiến người ta ngỡ ông còn là một chàng trai. Bà Phượng không rời mắt nhìn ông:
- Cô cháu tôi và đám thiếu nữ mộ tài của ông lắm. Chắc chắn ông còn gặp nhiều may mắn.
Nhạc sĩ im lặng, hai gò má ửng lên, da mặt ông màu nâu, cạo nhẵn.
Bà Phương bất chợt bảo:
- Tôi còn giữ được một số ảnh lưu niệm ngày trước. Anh nhớ cô bạn Hảo của chúng tôi không?
- Có nhớ, Phượng ạ - Trần Phương đáp nhẹ nhàng – Khi nào gặp, Phượng cho tôi gửi lời thăm Hảo. Chị ấy quả là một con người có ý chí.
- Anh cũng là một người có ý chí đấy.
- Không, tôi chưa dám tự nhận một phẩm chất quý báu như vậy.
- Nhưng anh đã nhận những phẩm chất còn cao quý hơn, phải không?
Bà Phượng nói lấp lưởng, rồi cất tiếng cười. Trần Phương im lặng. Ông có vẻ chịu đựng người đàn bà kiêu kỳ và chao chát này. Phương Linh bỗng dưng khó chịu với cô ruột của mình, cô buột miệng:
- Hôm nay cô lạ thế? Chú Trần Phương hiền thật.
Bà Phượng cười chế nhạo. Nhưng Trần Phương quay sang nhìn Linh với cặp mắt đen dông bão:
- Cô bé thật tốt bụng... Cảm ơn cô.
Nhạc sĩ nói. Lúc ấy, bà Phượng thẫn thờ nhìn cháu. Niềm linh cảm lo âu khiến mắt bà đờ dại:
- Ta phải về thôi cháu... Cô có việc phải đi.
Bà lắp bắp bảo Linh rồi tới trả tiền chủ quán. Góc tường bên kia, người khách đeo chiếc túi thổ cẩm bẩn thỉu rít từng hơi thuốc lớn. Y nhìn Linh với nỗi buồn không che giấu. Cô phóng viên đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc vào túi quần bò, cô đọc :
- Hết ngày dài tới đêm thâu. Chúng ta đi trên đất Phi Châu… Tuyệt thật. Anh Phương, anh có nhớ những câu thơ trong vở Hòn đảo Thần Vệ nữ không?...
Trần Phương không trả lời.

CHƯƠNG 3
Cuộc sống gia đình có thể là thiên đường, cũng có thể là địa ngục. Từ ngày Linh biết Nguyên đã tiến thân bằng những bài báo ít lương tâm nghề nghiệp, quan hệ giữa họ như viên sỏi lăn trên bờ dốc không dừng lại được. Nguyên cố gắng chịu đựng vẻ lạnh nhạt khinh khi của vợ. Anh cần cù làm tất cả những công việc anh có thể làm được để giúp Linh. Đứa con ngủ với mẹ, nhưng suốt ngày quanh quẩn bên bố. Bữa cơm nó ngồi giữa hai người bi bô trò chuyện. Cặp vợ chồng cố giữ không khí êm đềm giả tạo, nhưng đôi khi nỗi nhục nhã dâng lên khiến Nguyên nghẹn họng và khiến Linh tự sỉ nhục mình. Tuy nhiên, điều ấy cũng không đau xót bằng những phút giây hồi ức yêu đương chợt quay lại như ngọn lửa bùng lên trong than tro của thời gian sống đã qua.
Sáng hôm ấy, thay vì viết một bài báo theo chỉ thị của tổng biên tập, Nguyên xuống chợ Đồng Xuân mua cua bể về làm nem, xào miến. Khi việc nội trợ vừa xong, Linh ở trường về. Bé Hương Ly cầm chiếc càng cua chạy tung tăng :
- Mẹ, mẹ ơi rửa mặt mau lên. Hôm nay cơm ngon lắm.
Linh bảo con :
- Đi ăn với bố, mẹ không muốn ăn bây giờ.
- Ứ ừ, mẹ phải ăn cơ. Không ăn, ở lớp con không được phát phiếu bé ngoandddấy.
Linh ôm con, vuốt mái tóc tơ của nó. Con bé thông minh và có trí nhớ ghê gớm. Mới năm tuổi, nó đã thuộc nhiều đoạn trong truyện Kiều:
- Mẹ rức đầu. Đã có bố cùng ăn với con rồi mà?
- Mẹ ngốc thế ? Bố là bố, mẹ là mẹ chứ. Bố ngồi một bên, còn mẹ phải ngồi một bên. Con chia cho mỗi người một cái càng cua nhé ?
Con bé dỗ dành, mắt đau đáu nhìn sang mẹ. Sống mũi người đàn bà cay xè. Cô thương con và thương thân.
- Linh ăn đi kẻo ốm mất.
Nguyên nói, và thêm:
- Sao mấy hôm nay, má em…
Anh không nỡ nói hết câu. Đến tuần nay, Linh gày tóp hai má lại. Người đàn bà rùng mình, không đáp lời chồng, cô im lặng ngồi vào bàn ăn cơm. Ăn xong, Linh mở tủ lấy cam bổ rồi nhìn những miếng cam xếp hình nan quạt trên đĩa.
Nguyên bảo vợ :
- Em ăn trước đi.
Linh cầm miếng cam ăn như cái máy. Thậm chí cũng không lột vỏ cam cẩn thận như thường lệ. Bất chợt, cơn dông mùa xuân giật tung hai cánh cửa khiến người đàn bà bừng tỉnh. Cô ném mảnh vỏ cam vào chiếc sọt đựng giấy vụn góc phòng rồi ngồi xuống ghế, nhìn mảnh trời tối thẫm bên ngoài. Những vì sao li ti đã mất. Đợt mưa đầu tiên rắc xuống, tạt chéo qua ánh điện giống như những sợi thuỷ tinh. Chớp loé lên, viền sáng vòm lá, rồi sau đó là tiếng sấm rền vọng từ phía cuối chân trời :
- Hình như Linh mệt. Ngủ trước đi rồi anh cho con ngủ sau.
Nguyên dè dặt nói với vợ. Anh đã tự xác định rằng phải chịu đựng cuộc sống lạnh lẽo này cho tới lúc Linh hồi tâm. Dù một năm, hai năm, ba năm hoặc lâu hơn nữa. Anh vẫn hy vọng vãn hồi được hạnh phúc của mình.
Linh không trả lời Nguyên, cô lẳng lặng đánh răng rồi xuống chiếu nàm. Tiếng mưa gõ đều đều ru người đàn bà vào trạng thái nửa tỉnh nửa mơ. Cô vẫn thấy tiếng xào xạc của cơn dông bên ngoài lẫn tiếng hát lanh lảnh của một nữ ca sỹ qua máy truyền thanh. Nhưng cô lại thấy phố xá, ánh đèn nhà cửa, những gương mặt thân quen chìm vào làn sương dày đặc. Có ai đó thầm thì nhưng không rõ lời. Một con đường trải rộng dưới chân. Ven đường mọc đầy những dây leo xanh lá lám tấm màu huyết dụ…
- Em sốt phải không ?
Giọng Nguyên từ nơi nào xa xôi vẳng tới. Bàn tay ai đặt trên trán cô, giống bàn tay mẹ trước khi bà bị cơn sốt thương hàn cướp đi sự sống. Năm đó, Linh bảy tuổi. Hai năm sau, ba cô cũng chết theo. Ông yêu vợ quá nên không còn tình thương dành cho Linh nữa. Ông đã bỏ cô để đi theo bà…
- Linh…
Ai gọi cô bằng giọng trìu mến ấy ?... À Nguyên… Anh đứng bền ngoài cửa sổ khu học xá, dúi vho cô chiếc bánh mì nóng kẹp patê. Trời rét tám đọ, xuất cơm chiều hai bát, mới bảy rưỡi đã tối đã hết veo. "Cô bé mắt nâu của anh…". Chỉ có tình yêu mới dạy con người những lời lẽ ấy… "Chết thôi, tay em đứt rồikìa. Làm gì mà vội vã thế? Đưa đây anh buộc lại cho…" Mắt anh xót xa như mắt mẹ ngày xưa. Anh, tình yêu đầu tiên của cô, một chút ấp ui của người mẹ đã khuất, một chút quyền uy của người cha không còn, một chút tình tương thân huynh đệ… và khao khát của tuổi hai mươi.
Linh choàng tay qua cổ chồng, trong trạng thái mơ màng. Nguyên quỳ xuống, hôn tới tấp lên mặt vợ. Ánh đèn soi rõ từng sợimi trên mắt cô, nhưng anh vẫn bàng hoàng. Cô đã tha thứ cho anh chăng? Con người quyết liệt và khe khắt?... Hơi ấm từ quãng thời gian yêu đương sâu thẳm toả vào máu huyết họ niềm vui sướng. Và sự gần gũi đã thành thói quen dẫn họ cùng đặt chân lên một lối mòn, Nguyên tắt đèn, lúc đó, một tia chớp loé sáng ngoài khuôn cửa. Và tấm màn che gió phồng lên…
Khoảng ba giờ sáng, tiếng còi xe lửa từ ga Hàng Cỏ vọng tới, Linh bừng tỉnh. Cô vươn vai. Cánh tay chạm vào bộ ngực trần ấm nóng của Nguyên. Giật mình, người đàn bà ngồi nhổm dậy. Nguyên ngủ say, tóc xoã trên gối. Hơi thở anh phảng phất mùi thuốc lá rẻ tiền. Bao giờ, anh cũng tiết kiệm dành dụm cho vợ con. Linh nhớ lại mọi chuyện và nỗi hổ thẹn khiến cô nóng ran người. Mình đã chung đụng với Nguyên không vì tình yêu mà bởi thói quen. Một phút buông thả trong bóng tối. Chỉ có những con thú mới tìm đến với nhau vì tiếng kêu khác giống và chỉ những kẻ ngu muội mới cúi đầu tuân thủ thói quen và những ước lệ…
Khi Nguyên thức dậy, anh thấy vợ ngồi vò võ trong ánh chập choạng của rạng đông. Cô nhìn anh với cặp mắt thâm quầng. Nguyên thông minh, anh hiểu tất cả :
- Anh xin lỗi em.
Cô không đáp.
Anh ôm gối trở lại giường mình. Nhưng đôi mắt trống rỗng và nhức nhối của Linh vẫn đuổi theo anh. Nguyên tìm bao thuốc rồi trở lại ngồi bên vợ, với chiếc gạt tàn bằng vỏ ốc:
- Nếu em muốn, anh sẽ không bao giờ tới gần em.
Anh nói.
Linh dường như chẳng chú ý tới lời nói của anh, cô thì thầm :
- Em khinh anh. Bây giờ, em khinh cả chính mình.
- Đừng nói thế. Chẳng có gì nghiêm trọng như em tưởng. Em là người đàn bà quá giàu suy tưởng và khe khắt.
- Đúng. Với mọi người chẳng có gì là nghiêm trọng.
Linh biết chồng nói chính xác: Chẳng có gì nghiêm trọng thật. Khu nhà này ai cũng kính trọng Nguyên. Một trí thức trẻ giàu hiểu biết, sống nghiêm túc và độ lượng với mọi người. Một người chồng yêu vợ thắm thiết và một người cha mẫu mực. Anh đã dẫm chân lên cái bục dành cho những người có uy tín trong xã hội quá sớm so với tuổi của anh… Có lẽ, mình là một người đàn bà quá quắt. Có lẽ, cuộc đời thật bao hàm nhiều bóng tối và bụi bặm hơn ta tưởng. Một thành phố biển chẳng hạn… những con đường sạch sẽ rợp bóng dương, những kiốt bán đồ lưu niệm, con tàu và những bầy chim trên mặt nước màu lam… Nhưng nếu ta trở lại nơi ấy vào lúc mùa nghỉ mát đã qua. Ta đã thấy trên cảng lớp nước đầy rác rến lẫn váng dầu. Những bãi cát nhớt nhát rong biển và vây cá. Mùi tanh chài lưới và mùi hôi những con tàu cọ rửa bốc lên… Hãy tha thứ cho Nguyên…
Người đàn bà nhìn chồng. Anh đang châm thuốc. Mấy nếp nhăn nhỏ hằn trên trán. Vài hạt gầu trắng rơi trên vai. Một người đàn ông thật sự sống vì công việc. Nhưng công việc ấy để làm gì? Linh lại thấy nỗi uất tức dâng tới cổ khi cô nghĩ tới những bài báo dối trá của anh. Anh thông minh nhưng không đủ lòng can đảm để sống đúng với mong muốn của mình. Anh đã thoả hiệp để kiếm được một chỗ đứng vững vàng trong xã hội và thu về những mối lợi cho bản thân. Căn phòng này, những bông cẩm chướng rực rỡ trong bình pha lê. Tấm thảm len nổi những bông hồng lớn. Những đồ gỗ bóng lộn kia… Các tiện nghi… Và cả tấm áo ngủ sang trọng cô đang mặc trên người. Được những thứ sang trọng ấy, anh đã đánh mất vầng hào quang ngày trước.
Linh thuộc lớp người sinh ra sau cách mạng, và ngọn gió của nó đã thấm đãm tâm hồn cô, những ý tưởng tốt đẹp của nó đã thống trị tinh thần cô từ thời thơ ấu, không một dao động nào của đời sống có thể dập xoá được. Bản tính quyết liệt và trung thực, cô không chấp nhận sự thoả hiệp. Mặc dù, về phương diện lý trí, cô đã thấy những phức tạp của cuộc sống sinh tồn và tha thứ cho Nguyên, nhưng trong tâm linh, làn ánh sáng rực rỡ của những ý tưởng thời niên thiếu đốt anh thành tro tàn dĩ vãng. Tình yêu của cô với anh đã chết, không thể vãn hồi.
- Em sẽ đi khỏi đây.
Linh nói, sau hồi lâu im lặng.
- Anh xin em. Chúng ta cần phải giữ gìn danh dự cho chính mình và cho bé Hương Ly. Anh thề rằng anh sẽ không đụng tới một sợi tóc em khi nào em chưa cho phép.
- Nhưng em không muốn nhìn bộ mặt của một người dối trá.
- Linh này, có lẽ với những người đàn bà khác, sự trung thực tối cao mà họ cần có ở người chồng là trung thực với tình yêu. Anh trung thành với em ngay cả trong ý nghĩ. Chẳng lẽ điều ấy không đủ cho em…
- Nhưng anh đã không trung thành với chính phẩm giá của mình. Em không thể yêu một người đã đánh mất phẩm giá…
- Em khắc nghiệt quá. Em tưởng rằng anh không nghĩ ngợi, không cay đắng vì điều đó sao?... Đã nhiều lần… và nhất là chuyến đi miền Trung vừa rồi. Khi anh nhìn những người đàn bà gày gò xanh xao vờ cào cỏ ruộng khoai để các phóng viên thu hình ruột anh thắt lại. Là đàn ông, không lẽ anh lại khóc. Anh đuổi cậu nhiếp ảnh đi, tới bên một bà già hỏi :
- Bác cào cỏ khoai của đội hay của nhà?
Bà ta quay lại, gượng mặt võ vàng lầm lụi:
- Khoai nào của bầy tui? Của hợp tác bên tê.
Anh lại hỏi:
- Sao các bác lại tới đây cào cỏ?
Bà ta ném cây cuốc xuống, ngồi thở hổn hển và đáp:
- Mấy ông lãnh đạo xã bảo tới đây làm cho báo chí chụp phim. Ruộng bầy tui nứt thụt ống chân, có giọt nước mô mà trồng khoai cấy lúa. Hai tháng nay nỏ có hột cơm vào bụng. Bữa diếp nghe có đoàn các chú về, hợp tác lên huyện xin nếp về chia cho mỗi nhà hai cân với ba lạng thịt heo… Nói xong, bà ta lau mồ hôi giục: "Chú có hình nhanh lên cho bầy tui về. Nhọc quá". Lúc đó, anh không nghĩ được gì hết. Mắt anh nhoè đi. Anh định bảo những người đàn bà tội nghiệp ấy về nhà. Nhưng vừa định mở miệng, một trở lực âm thầm đã buộc anh phải ngừng lại. Rồi ý thức của một viên chức buộc anh gọi cậu nhiếp ảnh kia trở lại chụp hình. Cậu ta thì thào: "Dân đói quá anh ạ. Em không dám ghi hình rõ phải làm mờ đi. Tại sao người ta lại bảo mình rằng huyện này làm ăn tấn tới lắm?..." Anh không trả lời cậu ta nhưng anh biết rõ bí thư huyện là một kẻ dốt nát. Do một vài thành tích, nói đúng hơn là may mắn, ông ta được cất nhắc từ một xã phía bắc lên vũ đài chính trị. Ở đó, ông ta tự thấy mình là một vĩ nhân, có sứ mạng dẫn dắt dân chúng làm cách mạng triệt để. Và ông ta quyết biến huyện của mình thành ngọn hải đăng của toàn quốc!...
- Tại sao người ta lại tin dùng một kẻ dốt nát và hám danh như thế?
- Sự cất nhắc người này, tấn phong người kia nhiều khi phụ thuộc vào hàng loạt những yếu tố ngẫu nhiên mà ta không giải thích được. Em đừng ngắt lời, anh sẽ kể tiếp nhân vật đó. Với ảo vọng trở thành ngọn cờ đầu cho cả nước, ông ta bắt tay vào thực hiện hàng loạt các công trình cải tạo sản xuất, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, quy hoạch lại ruộng đồng và các công trình kiến thiết cơ bản. Việc cấu trúc nền kinh tế bao giờ cũng là việc hệ trọng nhất của một xứ sở hay một quốc gia. Lẽ ra, nó phải được giao cho những bộ óc vĩ đại, đầy đủ kiến thức khoa học và kinh nghiệm xã hội. Nhưng ông bí thư huyện uỷ kia chỉ mới học qua bậc tiểu học. Với một kiến thức như thế, lẽ ra ông ấy chỉ nên làm thủ lĩnh một gia đình gồm một bà vợ và bảy tám đứa con, thiết lập nền kinh tế trên hai mẫu ruộng với vài sào vườn chứ không thể tổ chức đời sống cho hàng triệu con người trên một địa dư phức tạp. Tham vọng lớn, quyền hành trong tay, đương nhiên ông ta sẽ đưa ra những công trình phiêu lưu, những kế hoạch cảm ính không có cơ sở khoa học bảo đảm. Ông ta bắt dân chặt rừng thông để trồng lúa. Nới xưa kia trồng lúa ông buộc họ trồng mầu. Năm vạn người được huy động làm một công trình thuỷ lợi mà sau đó những cánh đồng thuần hoá trở thành khô cạn, đất nứt lọt chân trâu. Những cánh đồng khác lại chìm trong nước úng. Thật là khủng khiếp khi tham vọng và quyền lực được đặt vào một bộ óc tối tăm. Lúc đó sự tàn phá sẽ xảy ra, trên một bề rộng và trong một chiều sâu mà sự huỷ diệt của đạn bom cũng không sánh nổi.
- Nhưng nếu ông ta là người trung thực? Có thể tha thứ cho một kẻ thành thực nhưng ngu dốt chứ?
- Cái đó tuỳ em… Nhưng nếu như người ta luôn luôn tha thứ cho những người tốt bụng và làm hỏng việc thì kết cục xã hội sẽ tàn lụi. Còn vị bí thư huyện này thì không thành thực lắm đâu. Một người thành thực không thể nghĩ ra cái mẹo phát gạo nếp với thịt lợn cho dân trước khi các đoàn khách trung ương về. Mùi xôi và mùi thịt sẽ đánh lừa cấp trên và làm hoa mắt đám cán bộ tuyên truyền. Đấy là cái mánh của dân tiểu thương.
- Thế những người làm báo? Chẳng lẽ họ dễ bị lừa đến thế?
- Chẳng có ai bị lừa cả. Người ta nhìn thấy ngay sự thật. Nhưng có một sự thật mạnh mẽ hơn chế ngự họ: Ấy là cỗ máy đã vận hành, đừng dại dột mà cản lại nó. Em đã đi xe, em biết, Má phanh và dây phanh là hai thứ luôn luôn phải thay vì hao mòn hư hại. Công việc cũng thế thôi. Khi tổng biên tập báo gọi anh tới và bảo rằng: Huyên Y khálắm, lá cờ đầu của phong trào. Cậu hãy tới tìm hiểu và viết ngay một bài báo cho kịp đăng số đầu tháng. Nhanh chân lên kẻo các báo khác chớp mất thời cơ. Nghe đâu Hội đồng Bộ trưởng đã có quyết định tăng huân chương cho họ rồi đấy… Sau khi nhận một cái lệnh như thế, anh lên đường. Và rồi anh chứng nghiệm cái sự thực cay đắng kia. Nhưng anh chỉ nhận biết chứ chưa thể nắm được toàn bộ các cứ liệu xác thực về nó. Mà người ta cũng không bao giờ muốn anh nắm được các cứ liệu về sự thất bại tồi tệ của chính họ. Liệu anh có dám tự biến mình thành viên đá ném vào cỗ xư đang chạy kia không?... Nó sẽ nghiền nát anh như chơi. Mà người ghét bỏ anh trước tiên có khi lại chính là ông tổng biên tập thân thiết ấy. Ông ta đang muốn báo có những cơ hội tốt để cấp trên chú ý và gây được tiếng vang. Giờ, anh lật lại vấn đề, phủ nhận một sự thực đã được công bố, khẳng định những xét đoán của cá nhân anh… Việc đó hoàn toàn giống việc ta tự biến mình thành viên đá nhảy vào cỗ xe: Cho dù xe có thể chạy chậm đi chút ít, số phận viên đá sẽ thế thôi: hoặc nát vụn hoặc vỡ thành dăm bảy mảnh…
- Anh đã chọn phương án ít hiểm nguy nhất với mình. Chính thế những hiểm nguy và đau khổ đã dồn xuống vai những người nông dân héo hắt kia. Ở một vùng xa xôi thế, khi những người có trách nhiệm hiểu ra sự thực, bao nhiêu thất thiệt sẽ xảy ra.
- Đấy là điều đáng tiếc, nhưng không ai tránh được.
- Ở nơi nào còn những trí thức tồi tệ như anh, ở đó còn tội ác. Có lẽ, nếu anh ngu dại hơn người ta còn có thể ta thứ cho anh được. Nhưng anh tinh khôn quá, sâu sắc quá. Anh giống một tên tội phạm giết người không phải vì mắc bệnh thần kinh, không phải vì trạng thái thương tổn của tâm linh mà vì y có ý thức cặn kẽ về việc phải làm.
- Em điên đấy à? Sao lại hét lên thế?... Em phải hiểu rằng giả sử anh làm ngược lại cái guồng quay đang chuyển động cũng không có một hiệu quả gì hết. Đó là sự thực vô cùng đơn giản mà em không chịu hiểu.
- Nhưng đã bao giờ có giả sử đó đâu.
Linh vẫn khăng khăng hét lên như vậy, hai má đỏ bừng. Nguyên thở dài, hạ giọng:
- Anh chỉ là một hạt cát, Linh ạ. Nếu độc thân, anh có thể liều lĩnh. Nhưng đã có em và có con…
- Em không ăn miếng cơm của anh nữa. Em sẽ đi khỏi đây ngay bây giờ…
Cô vùng đứng lên. Nguyên đứng lên theo, với vẻ tuyệt vọng:
- Anh nghĩ rằng anh nói với em tất cả mọi chuyện để…
- Anh nhầm…
Cô mở tủ, lấy quần áo xếp vào chiếc va ly nhỏ mà bà dì đã mua cho cô hồi được tin cô trúng tuyển vào Trường Đại học. Đã mấy năm nay, chiếc va ly đó dùng chứa những thứ đồ cũ không dùng tới: Chiếc màn cá nhân. Tấm vỏ chăn hoa thời nữ sinh và những tấm áo ngắn cũn cỡn cô còn giữ làm kỷ niệm. Linh mở nắp valy, mùi băng phiến bay lên lẫn mùi ngái của quần áo cũ. Cô tần ngần lật từng thứ lên xem.
Nguyên đứng ở góc phòng, liên tục rít thuộc. Tay anh run bắn. Anh không dám nhìn Linh. Gió lùa vào phòng, thổi tàn thuốc rơi xuống nền đá lát. Mấy bông cẩm chướng rụng đầy mặt bàn. Có đến tuần lễ nay Linh không thay hoa. Cô là linh hồn của gian phòng này. Cô là linh hồn của chính anh. Nếu cô ra đi, cuộc sống thức của anh cũng sẽ đi theo. Nhưng làm sao níu kéo được?
Những sợi tóc sau gáy cô óng ả quá. Cả vòng hông nở nang kia. Cô có một thể chất đầy quyến rũ. Nhưng tâm hồn cô còn quyến rũ hơn. Nó là kim cương, cứng và sáng chói. Nó cắt đứt, rạch vỡ bất kể thứ kính nào. Cô không biết tha thứ cho mình và cho bất cứ ai…
“Giá có thể cầu xin được?...” Nguyên nghĩ – Anh cs thể quỳ xuống, không hổ thẹn, xin cô hồi tâm. Nhưng anh hiểu điều đó không ích gì nên đành đứng im rít thuốc. Một con cánh cam bay lọt vào phòng, vè vè bay lượn. Bé Hương Ly bị tiếng đập cánh của nó làm thức giấc. Con nhỏ ngồi nhổm lên:
- Mẹ ơi.
- Mẹ đây.
Linh quay lại. Hương Ly nhìn chiếc valy chất đầy áo quần:
- Sao mẹ lại cất quần áo vào valy?
- Mẹ mang tới nhà bà.
- Để làm gì cơ?
- Mẹ ở đó.
- Thế còn quần áo của con đâu?
- Trong tủ. Con ở lại đây với bô.
- Không, con cũng đi cơ...
Con bé kêu, chạy nhào tới ôm cổ mẹ:
- Con ứ ở đây. Con cũng đi với mẹ.
- Nhưng nhà bà chật lắm. Còn các cậu, các dì, rồi em Hưng, em Bảo...
- Thế thì ở lại nhà mình. Con ứ cho mẹ đi đâu.
Bé Ly kêu lên. Nó quay lại nhìn bố, và dường như thấy không khí yên ắng một tai hoạ nào đấy sắp tới, nó khóc oà lên:
- Mẹ ở đây cơ, mẹ ở đây...
Con bé khóc to quá, Linh vội vã bịt miệng nó lại:
- Hương Ly, im đi nào, im đi chóng ngoan...
Đám tóc mềm mại của đứa con phủ lên mặt người đàn bà như một lớp tơ hiền dịu. Da thịt nó xộc vào mũi cô một mùi hương non nớt xé lòng...
- Nào nín đi con gái ngoan của mẹ... Nín đi...
Nguyên mở cửa, bước ra ngoài. Anh đi tới cuối phố, tha thẩn quanh mấy hàng thuốc rong, đốt hết cả một bao Sông Cầu. Khi anh trở về, mẹ con Linh đã ôm nhau ngủ. Trên má họ còn ngấn nước, Nguyên quỳ xuống hít mùi thơm từ mái tóc vợ toả ra và hưởng cái cảm giác gần gụi với gương mặt anh thờ phụng. Lúc ấy, Linh bắt đầu ngủ say. Cô đắm vào một giấc mơ nặng nề. Cô thấy mình bị một con thú lạ rượt đuổi trên đồng. Con thú tựa như con bò, nhưng cao lớn hung tợn hơn. Đầu nó vừa giống loài bò vừa giống sư tử, với bộ long sơn dương hung hung tía. Hai mắt con thú lồi ra, đỏ và bóng như thuỷ tinh. Cánh đồng khô nẻ và những vết nứt ngoằn nghèo chia cắt. Thỉnh thoảng, Linh lại thụt chân xuống kẽ nứt và cô phải nghiến răng để rút bàn chân đã tuột hết da lên để chạy tiếp. Con thú mỗi lúc một gần. Không thể cất được một tiếng kêu. Mặt trời bỏng rát trên đầu. Mồ hôi nhễ nhại tràn vào mắt, xót muốn loà. Bỗng nhiên, một ngôi nhà mọc lên trên khoảng đồng quạnh quẽ. Linh định náu vào trong đó nhưng hai cánh cửa sập lại. Rồi phía trước bức tường quét vôi trắng loá, những người đàn bà xuất hiện. Họ trùm khăn đen, mặt héo úa võ vàng, mắt họ nhìn ớo loang loáng dưới vành nón lá.
- Tôi không có lỗi... Xin đừng nhìn tôi như thế...
Linh muốn hét lên nhưng lưỡi cô đã dính chặt vào hàm. Mấy người đàn bà im lặng giờ cào cỏ lên. Mặt đất khô nẻ trải dài tới chân mây. Gió ào ào chạy qua, tung bụi. Linh ngã vật xuống. Nhưng cùng lúc ấy, con thú cũng biến mất và một đôi mắt đắm đuối nhìn cô qua lớp khói thuốc:
- Cô bé tốt bụng quá... Xin cảm ơn cô...

CHƯƠNG 4
Sau những cơn mưa ngắn, trời nắng. Mây trong suốt, màu lam thẫm khiến ta phải nhớ lại câu thơ của Josep: “Mẹ khuấy lơ xanh giữa sắc trời...”. Các vòm lá được rửa sạch lấp lánh như vàng diệp giữa ban ngày. Thi thoảng, một bông phượng nở quá sớm, chấm phá không trung nụ hôn đỏ chót. Nhạc sỹ Trần Phương mê mải ngắm cây cỏ.
Buổi sáng, ông thích tới đây, ngắm mảnh vườn xinh xắn trên cái sân hình bát giác và nghe rặng trúc vàng rì rào trong gió. Ở đây, ông gặp những nhạc sỹ mới vào nghề hồi hộp cầm tới những ca khúc đầu tay. Những nữ ca sỹ xinh tươi sống áo rực rỡ sà xuống như bầy chim mùa lúa chín. Họ ngưỡng mộ tài năng của ông. Họ yêu ông vì vóc dáng đường bệ, vì đôi mắt vừa đắm đuối, vừa lạnh lẽo, vì gương mặt vừa kiêu sa, vừa u uất đắng cay. Nhiều khi, chính Trần Phương cũng ngạc nhiên. Ông không hiểu vì sao mình đã chinh phục đàn bà dễ dàng đến như vậy?...
Giờ, ông ngả lưng trên ghế đá, ngắm nghía cảnh trời. Cô thư ký Hội đi tới:
- Thưa anh, Hội nhạc sỹ Liên Xô gửi công văn mời anh sang dự Hội nghị âm nhạc Phương Đông.
Trần Phương định cầm phong bì, nhưng ông lại thọc tay vào túi áo, lơ đãng trả lời:
- Cảm ơn. Nhưng cô nói với các anh trong Hội là tôi đang mệt. Cử ai đi cũng được.
- Thưa anh, công văn mời đích danh. Cô thư ký đáp.
- Thế à?...
Trần Phương hỏi với nụ cười nửa miệng. Rồi ông hờ hững cầm chiếc phong bì, bỏ vào túi. Một tốp nhạc sỹ trẻ vừa đi qua sân, cúi đầu kính cẩn chào ông. Đối với họ, ông là một trái núi. Đối với ông, họ là một lũ người đáng thương hại.
Tốp nhạc sĩ trẻ vừa lên, người lái xe đã đi xuống. Anh ta nổ máy, chờ đợi. Một người đàn ông lạ mặt, có lẽ là khách từ phía Nam ra, bước lên xe. Cánh cửa sập lại và chiếc xe bon ra cổng. Trần Phương ngồi lặng hồi lâu. Đầu óc ông hoàn toàn trống rỗng. Chiếc xe đó xưa kia đã từng đưa đón ông. Và gã lái xe đã từng nổ máy, mở sẵn cánh cửa chờ.
“Phù du”
Nhạc sĩ tự bảo mình. Nhưng lòng ông đau nhói. Vết thương chưa kịp kín miệng. Nhạc sĩ đứng lên, đi đi lại lại để xua đuổi cơn ám ảnh. Ông đếm lại những bước đi học theo chiều dài của khoảng sân phụ và lắng nghe tiếng dương cầm từ hội trường tầng hai đổ xuống. Đột nhiên, ông thấy bóng một người con gái lướt qua cổng ngôi nhà. Tim ông đạp lồng lên. Ông phải cố gắng để khỏi chạy ra đường. Ông nhận ra người đã làm ông sững sờ ngay giây phút đầu tiên, trong quán cà phê mịt mù khói thuốc. Ông đứng lại, nhìn qua bức tường rào để xác định hướng đi của cô rồi trở lại nhà chứa xa, lấy chiếc xe Honda 50 của mình, phóng ra cổng.
Phương Linh dắt xe, thong thả đi học theo hè phố. Xe cô vừa bị xẹp lốp vì găm phải chiếc đinh; Cô đưa xe tới nhà một người quen nhờ vá. Đang đi, chợt Linh cảm thấy có ai đó đang nhìn từ phía sau lưng. Cô quay lại:
- A a a...
Người đàn bà bất giác buông tiếng kêu ngạc nhiên. Đáp lại lời cô là một nụ cười trìu mến:
- Chào cô bé tốt bụng... Tôi vẫn nhớ cô từ hôm ở quán cà phê. Khi tôi chịu ơn ai, tôi nhớ người ấy mãi.
Mặt Linh cứng đờ, phải vài giây sau, cô mới trở lại bình tĩnh:
- Chào chú, chú đi đâu ạ?
- Tôi tới cơ quan có chút việc. Xe cô hỏng lốp à?
- Vâng.
- Xe tôi cũng bị mất lửa. Tiện đường, cùng đi với cô.
Trần Phương nói nhẹ nhàng, giản dị. Giọng ông ấm. Và đôi mắt ông thật đẹp. Linh chưa gặp người đàn ông nào có đôi mắt đẹp như thế.
- Cô có mỏi không?
- Dạ, không.
- Sắp tới cửa hàng chữa xe rồi chứ?
- Vâng.
- Hôm nay trời dễ chịu thật. Nhưng chỉ vài tuần nữa là sẽ nóng gay gắt.
- Vâng.
- Hà nội chật hẹp quá, đúng là một thành phố thực dân cổ lỗ. Không biết đến bao giờ nó mới có thể trở thành thành phố văn minh theo tiêu chuẩn của thế kỉ hai mươi?... Cô Linh sinh ở đâu nhỉ?
- Dạ, ở nhà thương Hàng Gà.
- Một cô bé Hà Nội chính cống. Cô đã ra nước ngoài lần nào chưa?
- Chưa ạ, mà có lẽ cũng chẳng bao giờ.
Trần Phương lắc đầu, họ đã tới cửa hàng chữa xe Linh quen.
- Cô bé cho xe vào đây chứ?
- Thưa… vâng… chú…
Tự dưng, Linh bỗng ngượng ngùng khi gọi Trần Phương là chú. Nhất là khi bà giáo Phượng không có ở đây và giữa hai người chưa có mối liên quan nào được xác định. Nhạc sĩ nhìn cô, nheo mắt cười :
- Thôi đi cô bé. Đừng xưng hô như thế nữa. Em cũng đã khá lớn và tập làm người trưởng thành vài ba năm rồi, phải không? Hai má Linh nóng bừng, môi máy động. Cô chìm vào cảm giác ngây ngất như lần đầu tiên trong đời, mẹ cho cô ăn rượu nếp.
Họ vào quán cà phê gần đó.
Trần Phương lấy ghế cho Linh ngồi, giúp cô treo túi lên tường rồi bảo bà chủ quán.
- Bà có thể cho tôi nghe vài đĩa nhạc chứ.
Bà chủ gật đầu :
- Dạ, tôi sẽ bảo cháu ngay.
Trần Phương ngồi xuống bên Linh
- Em thích nghe gì?
- Em không biết. Tuỳ… ông…
Cô đáp lời, thành thực và có đôi chút ngượng ngùng.
- Bà cho tôi bản Chèo thuyền của Menđensen… Ở đây yên tĩnh, mình nghe bản nhạc đó là thích hợp nhất.
Ông đứng lên, bước những bước dài khoát hoạt với dáng điệu một lãnh chúa bước trên vùng đất của mình.
- Em yêu âm nhạc chứ?
- Vâng.
- Âm nhạc khiến loài người trong sạch hơn và lương thiện hơn. Từ xưa, nhifu triều đại đã dùng lễ trị và nhạc trị. Đó là cách thức điều khiển con người êm dịu nhất. Em đã xem lễ giáng sinh ở nhà thờ chưa?
- Cũng có một lần… Nhưng hồi đó, vì nhỏ quá nên em không còn nhớ nữa.
- Tiếc thật…
Trần Phương nheo măt lại. Giữa hai làn mi, dâng lên ngọn thuỷ triều tối sẫm. Linh im lặng nhìn ông.
Trong các giá trị tinh thần loài người đã tạo ra, âm nhạc là một giá trị đáng kể. Nó phổ biến và có tinh nhân loại sâu xa. Chính vì thế mà tôi đã chọn…
Linh biết những bức tranh của Trần Phương rất nổi tiếng, chúng được in đi in lại ở các nước Á châu. Ngân hàng nhà nước đã đề nghị xây cho ông một biệt thự bằng số ngoại tệ thu được nhờ tác phẩm của ông.
- Em uống càphê đi chứ.
Trần Phương đẩy tách càphê về phía Linh, tay ông chạm vào tay cô và trong tích tắc niềm giao cảm báo cho cả hai người biết rằng họ đã thuộc về nhau, người đàn bà cúi xuống. Nhạc sĩ chăm chú nhìn cô. Gương mặt tươi mát quá. Một làn da rực rỡ không son phấn. Đôi mắt nâu mở rộng với những tia nhìn trong như nước mùa thu. Sau đôi mắt ấy là một tâm hồn thơ trẻ. Cô chưa hề có vũ khí tuỳ thân… Trần Phương kiểm lại những người đàn bà sà vào tay ông. Các màu áo sặc sỡ của họ, những thứ son phấn họ trát lên mặt và mùi nước hoa hút đàn ông như nam châm hút sắt. Những điệu bộ họ diễn trước ông: Nhún vai, nghiêng đầu giả bộ kiêu sa hay ngây thơ nhí nhảnh. Đột nhiên, cả mớ thức ăn đã tiêu hoá đó khiến ông muốn buồn nôn. Đã bao nhiêu năm nay, ông mới gặp một người đàn bà lành mạnh như cô giáo trẻ này:
- Em chính là âm nhạc.
- Ông nói gì cơ ạ ?
- Em có tâm hồn âm nhạc. Em lại là một cô giáo. Cả hai điều đó đều vô giá.
- Ông… quá khen…
Linh cố thốt ra vài tiếng rời rạc.
Trần Phương đứng dậy, tìm phích nước sôi pha thêm. Linh thấy bộ râu quai nón xanh biếc bao quanh hàm nhạc sỹ. Nó khiến gương mặt ông càng đẹp hơn.
- Em xem đã vừa độ ngọt chưa?
- Dạ, cảm ơn… anh…
Những âm thanh trầm bổng như du đẩy mạn thuyền, tiếng rì rào bất tận của sông nước, và vầng trăng soi trên cánh buồm phiêu bạt…
Trần Phương ngồi xuống bên cô, khuỷu tay tì trên mặt bàn: - Em có thể ngồi thêm một lát với tôi?
- Vâng.
- Hôm nay, thật là một ngày thần tiên.
- Em tưởng rằng một người được ngưỡng mộ như anh…
- Tôi là một kẻ cô đơn.
- Cô em nói rằng, một người danh tiếng như anh, lúc nào cũng…
- Con người có nhiều nỗi cô đơn. Nhưng nỗi cô đơn ghê rợn nhất là cô đơn giữa đồng loại của mình…
Nhạc sĩ gục đầu vào bàn tay, mảng tóc đen xổ xuống trán. Giây lát, những nếp nhăn hiện trên gò má và ánh mắt ánh lên nỗi buồn. Linh thấy lòng đau nhói. Cô biết ông đang nghĩ tới những thua thiệt. Gương mặt của kẻ bị đoạ đầy. Một tình thương gần giống tình mẫu tử khiến người đàn bà dậy lên ước muốn điên cuồng: ôm ấp, vỗ về và che chở cho ông.
- Bao giờ anh lại được gặp em?
Trần Phương khẽ hỏi.
- Em không biết… tuỳ anh.
- Ba giờ chiều mai nhé, và tại đây?
- Vâng.
Nắng đã liếm hết hàng gạch đầu tiên của phòng trà. Linh hối hả đạp xe về. Nhạc sĩ đứng nhìn theo cô cho tới lúc co khuất sau ngã rẽ. Ông chợt thấy không gian trống vắng.
- Ba giờ chiều mai…
Đã lâu lắm ông mới bồn chồn vì một cuộc hẹn. Nỗi bồn chồn chỉ có ở những chàng trai hai mươi… Co bé trời cho ta. Thật lạ lùng. Cặp mắt nâu mở trước ông cả một khoảng trời ngập tràn ánh nắng...
°
- A, Anh Phương, anh Phương… Tìm anh hết cả hơi.
Trần Phương đang đi, chợt nghe cô Ngọc Minh oang oang gọi. Phố đông, người qua lại tò mò đưa mắt nhìn. Trần Phương ngượng tím mặt lại. Thấy người đàn bà sặc sỡ như con vẹt trước mặt mình, ông những muốn quay đi. Nhưng rồi ông sực nhớ rằng cô là kẻ ham mộ tài năng của ông nồng nhiệt nhấ. Cô đấu tranh cho ông ở tất cả mọi nơi, kêu gọi sự ủng hộ của tất cả mọi người, chạy chọt thuyết phục cáp trên trả lại cho ông cương vị cũ. Giống như một con hổ cái, cô lên mọi diễn đnf, và những bài báo choang choang của cô khiến những ai nhút nhát phải sởn gai ốc…
- Khiếp, tìm anh ở tất cả các xó xỉnh đều không thấy. Đưa ngay cho em tấm ảnh của anh năm mười tuổi.
- Sáng mai nhé?
- Không, ngay bây giờ.
- Thế thì phải đến nhà tôi.
- Xong ngay thôi, nếu vợ anh không giở trò ghen tuông.
Ngọc Minh cũng đi Honda 50, nói xong cô phóng vọt lên phía trướ. Những tấm dây sặc sỡ đính trên hai vai áo bay phấp phới khiến cô giống như một diễn viên trong trang phục múa Rôngchiêng. “May mà cô ta không đi sóng vai với mình ngượng ê mặt”. Trần Phương thầm nghĩ. Khi ông dắt xe qua cổng, Ngọc Minh đã đứng dưới chân cầu thang, chờ.
- Cô hiểu cho tôi nhé, bà ấy đang ở nhà…
Nhạc sĩ nhăn nhó bảo cô phóng viên rồi trèo lên cầu thang. Vợ chồng ông ở cả ba căn phòng trên tầng hai biệt thự này. Cây cầu thang gỗ, xoáy hình trôn ốc, đã lúc lay mà Sở nhà đất thành phố chưa chịu cho người đến chữa. Khoảng mười lăm phút sau, Trần Phương cầm tấm ảnh xuống:
- Cô tha lỗi cho tôi, tấm ảnh này kẹp giữa những bản nhạc viết cách đây hai chục năm nên tôi phải mày mò mãi.
- Anh sợ đến mức không dám mời em lên uống một tách trà sao?
Nhạc sĩ không trả lời, mặt ông nhăn lại.
- Đùa anh một chút thôi…
Cô phóng viên nói rồi ngửa mặt lên cười sằng sặc. Hết tràng cười ngạo nghễ, cô nhảy lên xe phóng đi.
Trần Phương nhìn làn khói phút từ ống xả và những dây vải sặc sỡ trên vai cô phóng viên, bỗng dưng buồn nẫu ruột. Ông ngần ngại nhìn cầu thang rồi đứng yên. Có gì chờ đợi ông tren đó? Một người đàn bà mà ông đã chán ghét hai mươi năm nay… Nhạc sĩ đặt tay lền thành tựa cây cầu thang cũ kĩ. Đó là thứ kiến trúc dành cho những bà chúa mặc áo nhiễu màu lam và những ông hoàng búi tó. Các bậc thang bằng gỗ phiến mỏng, đen bóng như sừng. Thanh vịn chỉ lớn hơn cây đòn gánh chút ít, cong xoắn lại. Giá gỗ đỡ chân thang hình trụ, lì như đá chưa hề có một vết nứt. Các bộ phận cấu thành cây cầu thang đều nguyên vẹn nhưng mối liên kết giữa chúng đã rã rời. Nó xui ông nhớ tới một cái gì đó đã tàn tạ, trong quá vãng nhưng còn lay lắt tồn tại tới bây giờ. Không ai qua lại và thấy gương mặt thẫn thờ của nhạc sĩ lúc đó. Gió nhè nhẹ hút vào khoảng trống, mùi bụ ở các góc tường thiếu nắng lan trong không khí đánh thức những cảnh tượng một gánh hát rong trong trí nhớ người đàn ông. Hồi nhỏ, ông mê xem cải lương như một kẻ hiếu sắc mê gái đẹp. Các đoàn cải lương thỉnh thoảng lại tạt qua cái tỉnh lị quê ông, trên một cô xe ngựa cọc cạch hoặc dăm chiếc xe tay. Chừng ba giờ chiều mấy cô đào trẻ và xinh nhất gánh tô son trát phấn ngồi trên xe tay diễu quanh thị trấn. Sau họ, một chiếc xe khác chở biển quảng cáo:
Xin chú ý đón coi:
Đoàn cải lương Lệ Thanh đêm nay trình diễn vở Hận tình không trả.
Tấm bảng lớn vẽ hình trái tim bị lưỡi gươm xuyên qua. Núp sau tâm bảng đó, một gã kép gày gõ thu mình như con mèo ốm, tay gõ trống liên tục: Tùng tùng tùng… Dân tỉnh lỵ từ sau các bức mành xô ra nhìn. Lũ trẻ con cuống cuồng chạy theo, vừa hò reo, vừa đánh trống miệng. Trong đám trẻ con ấy, bao giờ cũng có ông. Bố mẹ Trần Phương có cửa hiệu làm bánh ngọt, thuộc loại khá giả trong tỉnh, không bao giờ cho cậu con trai đích tôn thừa tự đi xem hát hoặc đi câu: những trò họ coi là nhảm nhí. Nhưng Trần Phương nhờ ơn huệ của bà nội. Bà to lớn, xồ xề, trông dữ tướng nhưng chiều cháu rất mực. Nhờ cái túi tiền căng phồng già kim băng của bà mà cậu bé Phương được hưởng mọi niềm vui thú. Chiều dó, cậu xin tiền bà ăn phở rồi lẻn tới rạp hát. Giưa các dãy ghế lở sơn, khấp khểnh, cậu ngồi thui lủi nhnf bầu đoàn thê tử gánh hát rong. Khi không to son trát phấn, không đeo hạt thuỷ tinh hay kim sa, kim tuyến, họ chỉ là một đám người vàng vọt, héo úa. Da dẻ họ nhăn nhúm, áo quần họ nhàu nát. Họ ngồi ăn quanh một cái kệ gỗ thay mâm. Mấy miếng đậu kho hành với đĩa rau muống luộc. Vài cô đào chửa bụng phưỡn ra dưới vạt áo cánh. Anh kép đánh trống ban chiều mặc quần đùi để lộ hai ống chân khẳng kheo. Cái rạp hát rẻ tiền bốc lên mùi khai của nhà về sinh phía sau và mùi cột trầu khô của đám dân buôn nhổ xuống góc tường. Chú bé Phương đã ngắm nhìn khong chán mắt, với nỗi tò mò kinh sợ, vẻ tàn tạ, túng quẫn của kiếp sống lang bạt… Nhưng vài giờ sau, khi đêm xuống và những ngọn đèn được thắp lên rọi sáng sân khấu. Đám người hẹn mọn quanh đĩa rau muống luộc và đậu kho hành kia biến mất. Dưới ánh sáng trắng loà, hiện lên các hoàng tử mắt như sao, các tráng sĩ oai vệ, các nàng công chúa kiều diễm. Đời sống như những nàng tiên cá nhô lên, trên ghềnh đá của đại dương thần bí và rực rỡ. Ông, chú bé lên sáu tuổi, bị lôi cuốn bởi phép màu nhiệm ấy. Ông nín thở khi họ giờ lên cây kiếm gỗ quét nhũ hoặc cái đầu lâu gỗ lăn công cốc dưới sàn. Ông mở tưởng những nữ vương má hồng, mắt đen, xiêm y lộng lẫy. Ấn tượng vè kiếp sống bờ bụi của gánh hát rong và mảnh đời chói lọi của họ dưới ánh đèn đã nhiễm vào máu ông, cái giả và cái thật trộn vào nhau, không có ranh giới mà chỉ có những điểm dừng chuyển tiếp. Nó chế ngự ông như quy luật của đất trời ngàn xưa chế ngự muông thú, cỏ cây. Kể từ năm mười sau tuổi, cho tới bây giờ Trần Phương khong hề ý thức rằng liều độc dược kia đã điều khiển ông như một Thái hậu quyền uy điều khiển quốc gia sau tấm màn… Giờ đây, khi cô phóng viên đã đi khuất, đứng lặng trong bóng tối ẩm và lạnh cảu cầu thang ông mới cảm thấy mệt mỏi, chán chường như anh hát chỉ ăn rau muống và đậu kho hành mà phải múa kiếm ba màn liền trên sân khấu.
- Thật ngán ngẩm. Lẽ ra mình nên lờ cô ta từ ngoài phố…
Nhạc sĩ lẩm bẩm, nặng nhọc trèo lên từng bậc thang. Ông thèm ngủ. Vừa mở cửa, ông đã cởi áo ngaòi, ném lên ghế rồi tới giường nằm:
- Anh Phương, xem cho em kiểu áo này có hợp không?
Bà Hoa, vợ ông gọi ông phía sau tấm màn che gió. Bà mới may một chiếc sơmi mới bằng xoa cát màu hồng để dự buổi lễ tân.
- Kiểu ấy hợp với em lắm.
Trần Phương đáp, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Anh có nhìn đâu mà biết hợp? Sao anh thiếu lịch sự đến thế nhỉ?
Bà cao giọng trách móc. Nhạc sĩ nghe vợ xô ghế ầm ầm. Cơn điên tức trào lên khiến ông muốn giáng cho vợ một cái tát. Nhưng ông lại năn nỉ:
- Anh đã nhìn trước rồi mà. Cho anh nghỉ một lúc.
- Anh vô tình lắm, chẳng bao giờ anh thèm để ý tới em.
Bà Hoa tấm tức:
- Với những người chồng yêu vợ, một tấm áo mới là niềm vui chung.
- Biết rồi, biết rồi, khổ lắm…
- Em là một người đàn bà bất hạnh.
Bà Hoa ngồi xuống ghế, nước mắt chảy ra và bà bắt đầu kể lể:
- Em đã tin cậy anh, em đã nhầm lẫn. Trước kia thiếu gì người tài giỏi, đẹp đẽ yêu thương…
Trần Phương nhắm mắt. Lạy trời, cái điệp khúc quen thuộc hai mươi năm nay lại bắt đầu. Hơn hai mươi năm trước, ông đã gặp bà tại một quán giải khát vùng tự do. Lúc đó đội văn nghệ lên tiền duyên phục vụ bộ đội. Ông sốt, phải nằm lại cửa rừng, chăn quấn tới cằm, khuôn mặt võ vàng hốc hác. Bà chủ quán đem cho ông bát cơm nóng với măng xào ớt. Ăn xong, ông uống vài viên ký ninh rồi tựa lưng vào vách nứa, nhìn mưa rơi. Những cơn mưa rừng dầm dề quất lên cây lá một âm điệu buồn tẻ. Gió ràn rạt lùa các hẻm núi và thi thoảng, tiếng nai lạc lõng vọng qua màn nước vang tới. Trần Phương chưa bao giờ rơi vào cảnh sống nhàm chán ấy. Chính lúc đó, ông đã gặp bà. Một khuôn mặt bèn bẹt, ửng đỏ. Sống mũi gẫy và mái tóc ngắn cũn. Dù đang tuổi thanh xuân, cái tuổi bất cứ người con gái nào cũng trở nên đáng yêu, bà vẫn không gợi cho ông được mảy may cảm xúc về cái đẹp. Nhưng bù lại, bà có một ngôi nhà ấm áp ngay cạnh quán càphê. Mẹ bà tần tảo nuôi gà, trồng rau, buôn bán hàng xén để bán cho dân phố cửa rừng và đám chiến sỹ qua lại. Hai mẹ con bà đón ông sang, chăm bẵm như chăm bẵm một đứa trẻ và quý báu như quý báu một ông hoàng. Ông, con người quen được nuông chiều mắc vào tấm lưới ấy. Khi ông thức tỉnh thì đã muộn. Vả chăng, bà có một ông chú, giữ cương vị tối quan trọng trong Nhà nước. Cái cây đó sẽ toả bóng mát xuống đầu ông…
- Thôi, đừng khóc nữa…
Trần Phương bảo vợ.
- Anh vô tình lắm. Em là một kẻ bất hạnh…
Vợ ông vẫn kể lể, sụt sịt. Những giọt nước mắt lăn trên hai gò má đỏ rực của bà.
- Tôi xin cô, cho tôi nghỉ một lúc. Đừng vẽ chuyện ra…
Người đàn ông nói gác cánh tay lên trán để nén bực dọc.
Đêm tân hôn, khi đám cưới vừa tan. Bà mẹ vợ tắt đèn hoa đăng chỉ còn để cây đèn hoa kỳ. Dưới ánh lửa chập chờn, ông đã nhìn khuôn mặt bèn bẹt của bà với cặp mắt hầu như không có lông mi, và nỗi ghê sợ trỗi dậy trong tâm trí ông. Cảm giác ghê sợ ấy theo đuổi ông suốt khoảng thời gian họ chung sống, len lỏi giữa những giờ ái ân và những ngày lạnh nhạt, dai dẳng như căn bệnh mãn tính. Giờ đây, nó hoà nhập với lòng căm ghét khiến ông điên lên, muốn chấm dứt tức khắc cuộc sống giả trá nặng nề… “Bà ấy chết hoặc chính mình chết đi cũng được…” Người đàn ông nghĩ. Mọi sự sẽ nhẹ nhõm hơn. Nhưng sau ý tưởng ấy, ông chợt thấy chiếc Moscovic trắng lao qua mảnh sân hình bát giác, và gã lái xe mở sẵn cánh cửa chờ, theo thói quen. Tim ông quặn lên. Và một tiếng nói từ bên kia ngọn triều đen thầm vọng tới:
- Không.
°
Con người có thể bị áp đảo bởi những tham vọng rất khác nhau. Một gã hà tiện quáng mắt trước những đống vàng ra sao thì Phương Linh cũng quáng mắt trước tài năng và dáng vẻ cao thượng của nhạc sĩ Trần Phương như thế. Đang loạng choạng bước dưới đáy sâu thất vọng, tình yêu mới đã dắt cô lên. Hình ảnh con người kiệt xuất kia đã chiếm lĩnh trái tim cô đến mức thế gian chỉ còn tồn tại mờ nhạt như những bức tranh trong đáy nước. Ở đâu, lúc nào cô cũng chỉ nhìn thấy ông ta: Bên kia mái tóc mềm của đứa con, giữa hai bải giảng, hoặc trên con đường đậm đặc bóng cây đưa cô tới trường…
“Trần Phương… Trần Phương…”
Bất chợt, cô lại gọi tên ông thầm thì. Dáng vóc đường bệ và những bước đi của một lãnh chúa trên vùng đất trị vì, đôi mắt đen mênh mông, hàm râu xanh biếc… Trước vầng hào quang ấy, Nguyên chỉ là một anh ký giả quèn, thảm hại, ti tiện và giả trá. Từ lần gặp gỡ đầu tiên tới cuộc hẹn hò sau, hai mươi bảy giờ đợi chờ là nỗi khắc khoải. Người đàn bà đếm từng phút một, ngay trong giấc ngủ chập chờn. Thậm chí, cô cũng không biết tới điều giản đơn này: người đàn bà khôn ngoan trong tình yêu phải bắt tình nhân chờ đợi… Bởi thế, ba giờ chiều hôm sau, khi Trần Phương bước vào quán giải khát. Linh đã ngồi đó với gương mặt tái nhợt:
- Em đấy à?
Ông hỏi, mắt rực lên.
- Vâng.
Cô đáp, giọng lạc đi. Ngọn lửa tinh quái trong người đàn ông chợt tắt khi ông nhìn vào đôi mắt nâu chân thực của cô. “Đúng là một cô bé vừa cởi khăn quàng”. Ông nghĩ. Tất cả những kinh nghiệm dạn dày của mình trong đời sống tình ái sẽ trở thành tội ác với người đàn bà này. Chưa ai yêu mình với một tâm hồn thánh thiện đến thế… Ông bỗng nhớ tiếc tuổi hai mươi, nhớ tiếc chùm hoa cam nở trong khu vườn tỉnh lỵ, tiếc nụ hôn đầu tiên đã đặt lên môi người đàn bà không yêu nhưng ham muốn, tiếc những tháng ngày dài dặc đã qua - với cuộc hôn nhân lầm lạc và những cuộc tình vụng trộm, những người đàn bà hoặc ngu ngốc cuồng si, hoặc trơ tráo vì dục vọng… Giá như dĩ vãng tan biến đi như làn khói và cuộc đời ông lại bắt đầu, ông sẽ đem tuổi trẻ của ông tới cho cô, với chùm hoa cam thơm ngát, với những run rẩy tuổi hai mươi.
- Xin lỗi em…
Ông vừa nhìn cô đăm đăm, vừa nói.
- Sao lại thế? Anh có lỗi gì đâu?...
Linh ngơ ngác hỏi lại. Trần Phương thầm lén bóp chặt tay cô trong tay ông và đáp:
- Anh có lỗi, vì anh không còn tuổi trẻ để đem tới cho em.
Mặt Linh đỏ lên, cô lắc đầu:
- Không…
Và nghĩ một vài giây, cô lắc đầu quả quyết: - Không cần.
Bà chủ quán rượu bưng ra hai tách càphê. Bản “Chèo thuyền” của Menđensơn lại vang lên. Họ ngồi im lặng nhìn nhau qua những bông hoa đồng tiền đỏ. Họ có thể ngồi như thế mãi, nhưng quán trà đã có thêm khách mới: Một hạ sỹ công an dẫn hai thanh niên vào. Cả ba người đều nhễ nhại mồ hôi. Hẳn là họ vừa đi bộ một quãng đường dài. Anh hạ sĩ công an hất hàm bảo hai gã trai đi cùng ngồi xuống, đoạn quay vào gọi:
- Cho mấy cốc chanh đá bà ơi.
Xong, anh lật mũ ra quạt, tóc bết mồ hôi. Lúc đó, Linh mới thấy hai thanh niên bị xích chung bởi một sợi xích. Một gã trạc hai mươi nhăm tuổi, gã kia trẻ hơn. Cả hai đều ăn mặc tươm tất. Có lẽ chúng vừa bị bắt và trên đường trở về phòng giam. Gã lớn tuổi có đôi mắt dài, một mí, sống mũi thẳng và hàng ria con kiến. Gã kia trắng trẻo, thấp bé hơn, môi đỏ và tóc vuốt dài như kép hát. Chúng không có gương mặt của kẻ sát nhân bẩm sinh. Người ta có cảm giác rằng, vừa mới đây chúng còn chìa tay xin mẹ tiền để mua đôi giày mốt mới.
- Tội phạm gì thế, đồng chí công an?
Nhạc sĩ hỏi, chìa bao thuốc mời anh hạ sĩ. Anh ta quay lại, mắt tròn xoe. Rồi đột nhiên, anh ta reo lên:
- Đúng rồi, bác là nhạc sĩ Trần Phương?
Người đàn ông nheo cười, mắt nheo lại:
- Tôi gặp anh ở đâu nhỉ?
- Bác không nhớ cháu à? Cháu ở trại 27, năm ngoái thủ trưởng mời bác lên thăm trại và nói chuyện với anh em. Có mấy cô ca sĩ lên theo biểu diễn…
- Xin lỗi, trí nhớ tôi tồi thật.
- Thế nào bác cũng lên thăm trại nữa nhé… Ở trại, nhiều đoàn báo chí tuyên truyền lên tham quan nhưng chưa ai nói chuyện hay như bác. Chúng cháu thèm nghe chuyện lắm, coi giữ tù nhân, mình cũng gần như bị tù, quanh năm không nhìn thấy phố xá…
Nhạc sĩ bật lửa, châm thuốc cho chàng trai. Ông mỉm cười vì vẻ bồng bột không thích hợp gì mấy với nghề nghiệp của anh ta. Quay sang hai gã bị xích, ông hỏi :
- Khách mới của trại à?
Lúc đó, anh hạ sĩ nhớ ra nhiệm vụ của mình, đứng lên :
- Thôi, chào bác nhé. Cháu phải đưa bọn này đi. Tù trốn trại, can án hai lần, tổ chức móc hàng trong nhà nước tuồn cho gian thương.
Hai gã tù quay đi, không còn giữ vẻ nhâng nháo ban đầu. Hoạ sĩ ngồi xuống, trầm ngâm hút thuốc. Linh nhìn theo đám người vừa ra khỏi phòng trà, nói:
- Trông họ tử tế đấy chứ? Lòng tham biến con người thành quái vật. Giá như ta tiêu diệt được mọi dục vọng, xã hội sẽ tốt đẹp bao nhiêu?...
Trần Phương ngẩng lên nhìn Linh, cười. Mắt ông ánh lên những tia cười cợt và chế giễu khiến cố đỏ bừng hai má :
- Tại sao anh cười em?
Thay vì trả lời, ông im lặng nhìn cô với đôi mắt trìu mến, đắm đuối hơn.
- Anh nhìn em như nhìn một đứa bé miệng còn hơi sữa?
- Chính thế, cô bé ạ - Ông đáp thong thả, và xiết chặt bàn tay cô trong tay mình – Anh không nghĩ rằng em ngây thơ đến thế. Em tin rằng tiêu diệt mọi dục vọng thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn ư?... Đó là một ý tưởng sai lầm về nguyên lý. Xã hội là guồng máy vĩ đại mà động cơ thúc đẩy nó vận hành là sự liên kết của các dục vọng cá nhân. Tiêu diệt dục vọng của con người tức là tiêu diệt động cơ thúc đẩy xã hội tiến bộ.
- Nhưng chính tham vọng cũng đẩy con người vào vòng tội lỗi.
Linh rụt rè đáp lại.
- Tất nhiên, tất nhiên… Mọi sự vật đều bao hàm hai mặt đối lập đen và trắng, sáng và tối… Điều quan trọng hơn cả không phải là tiêu diệt dục vọng của con người mà phải là tổ chức hợp lý để nó đem lại lợi ích cho cá nhân cũng như cho cả cộng đồng, để quyền sống của kẻ này không tiêu diệt quyền sống của người kia, và các xung động của dục vọng trong xã hội hướng vào các mục tiêu tốt đẹp. - Trần Phương ngừng lại, khe khẽ thở dài:
- Nhưng đó chính là điều khó khăn nhất mà loài người tìm kiếm rất lâu, và sẽ còn phải tiếp tục tìm kiếm nữa.
Những lời lẽ ấy, nếu Linh để tam, hẳn cô đã nghe được nhiều lần trong các cuộc chuyện trò giữa Nguyên với đám trí thức trẻ. Nhưng giờ đây, đặt vào miệng của người đàn ông cô đang mê đắm, nó bỗng trở thành những kiến thức siêu việt và mới lạ. Cô im lặng nhìn ông, với ánh mắt tràn ngập niềm ngưỡng vọng và tôn kính...
°
Thuyền từ từ ngược dòng. Từ đầu cầu Bắc Giang tới đây chừng vài cây số đường chim bay mà phải đi mất hơn hai giờ. Chủ thuyền không vội vã, vừa ngắm sông nứoc vừa sải mái chèo hệt như một tài tử. Trọng, phóng viên trong tổ của Nguyên ghé tai anh, bảo :
- Tụi mình vớ được lão lái thuyền ngất ngư quá. Chắc kiếp trước lão là con một gã thượng thư.
Nguyên đáp :
- Kệ. Mình cũng chẳng vội vã gì. Sớm muộn ngày mai cũng sẽ tới.
Hai người nhận nhiệm vụ viết một bài báo dài đăng ba số liền về cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám. Đi tàu hoả tới ga Bắc Giang, họ rẽ vào Ty văn hoá xin một số tài liệu và giấy giới thiệu để làm việc với phòng văn hoá huyện. Phó trưởng ty phụ trách bảo tàng nói rằng ông đã gọi điện thoại xuống huyện. Khi họ tới Bố Hạ sẽ có người tới đón. Hai phóng viên từ biết ông phó ty, rẽ vào chợ ăn cơm đầu ghế. Đó là lối ăn tốt nhất đối với nghề làm báo. Một đĩa cơm trắng, gạo thơm mùi lúa, hai bìa đậu rán bằng nửa bàn tay, vài lát thịt kho tàu trong suốt với ít dưa muối xổi. Một bữa cơm lý tưởng khi anh xa nhà mà túi tiền không chặt. Lúc hai chàng phóng viên thưởng thức bữa cơm bình dân với vẻ hài lòng thì trong các quán cơm tư nhân gần đó, cánh lái xư, đám chạy vật tư công trường, dân buôn chuyến kêu bia chai, bia hộp, gà quay ầm ĩ.
Trọng bảo :
- Chúng ta phấn đấu đến bao giờ mới đạt tới mức sinh hoạt của mấy gã lái buôn kia ?
- Đừng thắc mắc chuyện ấy – Nguyên trả lời – Chúng ta là những chi tiết bị đóng chặt vào một cỗ máy. Cỗ máy ấy lăn tới đâu, chúng ta tới đó. Còn đám dân kia là phần tử tự do. Họ chuyển động theo các lực hấp dẫn khác. Đừng buồn phiền, trong cuộc đời mỗi người có một cách lựa chọn, được thứ này thì đừng tiếc thứ kia.
- Lý thuyết của anh cùn bỏ mẹ.
- Tớ không được tân tiến như các cậu.
- Xì, không tân tiến nhưng anh khôn ngoan nhất báo. Tụi tôi có được các anh cũng phải mòn dăm bảy đôi giày.
Nguyên mỉm cười im lặng. Anh thường biết im lặng đúng chỗ. Hai người uống nước rồi ra bến xe. Khoảng hai giờ sẽ có xe ngựa lên Bố Hạ. Nhưng Nguyên nảy ra ý định đi đò dọc vì bến xe đông khách quá và vì anh đã nghe nói tới cái thứ này nhiều lần trước. Trọng tán thành ngay. Anh ta béo, ngồi đợi ở bến xe nóng nực này đến chảy mỡ ra mất.
- Đi đi thôi, tốn kém hơn chút ít cũng không sao. Anh chàng bảo Nguyên – Còn ở bến xe này chắc tôi chết ngạt.
Họ nhảy lên xích lô, xuống bến đò sông Thương thuê đò. Con đò, nhổ neo lúc mặt trời vừa ngả… Người chủ đò chèo đò chậm rãi. Đầu khoang đằng kia vợ ông ta lúi húi đánh vẩy một con cá trắm nặng tới hai kilô. Đứa con gái chừng mười hai, mười ba tuổi, đen như cháy, ngồi rang lạc. Hai chàng phóng viên dán mắt vào cánh tay lực lưỡng của người đàn ông đặt trên cây dầm chèo. Các vồng thịt nổi lên, săn như rễ cây, bóng loáng. Phía trước họ, mặt trời hoàng hôn tãi vàng trên sóng. Hai bờ cát viền cỏ như phủ một lớp bụi mịn màng. Vài con bò vục mõm uống nước khiến mặt trời chiều vỡ tan thành những mảnh vụn. Hai cánh tay người chủ thuyền dần dần ngả sang màu đen thẫm trên mặt nước đỏ tía. Mỗi khi mái chèo khuấy nước ta lại có cảm giác như gợn máu của một con vật tế lễ ướt loáng lên. Rồi các ráng đỏ phía tây tắt hẳn và mặt nước hoá tím như cánh bèo. Người đàn bà lom khom chiu qua khoang thuyền, gọi :
- Cơm đã xong. Bố nó ra mời.
Người chủ thuyền không quay lại, đáp :
- Mày với con cái Thu ăn trước đi, rồi ra chèo thuyền cho tao.
Chị vợ nín lặng, lom khom chiu trở lại phía sau. Ở đó, trong bóng tối, hai mẹ con lúi húi ăn cơm. Nguyên nghe tiếng bát đũa lanh canh, tiếng họ thì thào:
- Mẹ ăn thêm bát nữa, con xới?
- Thôi.
- Trưa mẹ bỏ cơm cơ mà?
- Ăn vừa cho nhẹ bụng còn chèo. Kẻo bố mày chửi.
Chị ta nhẹ nhàng lần theo mui thuyền, như cái bóng tới sau lưng chồng :
- Xong rồi, bố nó ra mời cơm kẻo nguội mất.
- Có lạc rang cho tao không đấy?
- Có. Tôi bảo con Thu ủ trong ấm tích. Còn chai rượu gác ở cái góc sạp như mọi khi.
Người đàn ông đứng dậy, đưa mái chèo cho vợ:
- Chèo thong thả thôi, nghe chưa… Con nước đang dâng đấy.
Sau khi dặn vợ bằng cái giọng quyền uy đó, ông quay sang mời hai người khách:
- Hai bác nhắm với tôi chén rượu?
Họ cảm ơn và từ chối. Chủ thuyền đi về phía sau khoang thuyền ăn cơm. Mùi rượu nặng lan trong gió. Cái bóng đen đúa của ông ta in lừng lững trên trời đêm. Tiếng gạt nước gieo vào không gian đều đặn. Phía tây, trên nền lam thẫm, ngôi sao đầu tiên đã mọc. Nguyên ngửi thấy mùi mồ hôi chua chua của người đàn bà trong gió.
Anh bảo Trọng:
- Cậu biết chèo không? Chèo đỡ chị ta một lúc.
- Không, đến bơi tôi cũng không biết nữa là.
- Tiếc thật. Tôi cũng không biết chèo.
Gió từ thượng nguồn thổi mạnh hơn. Con thuyền ngược dướn lên theo mỗi nhịp chèo nặng nhọc. Giữa tiếng gió, tiếng mái chèo quạt nước, nghe rõ tiếng thở hổn hển của người đàn bà trẻ. “Khoảng ba mươi tuổi là cùng… Có thể là chưa đến…” Nguyên nghĩ. Ban chiều, anh ta đã thấy gương mặt chị. Không thể gọi là xinh đẹp nhưng đậm đà, với nước da nâu sậm, đôi mày cong đen nhánh trên cặp mắt lá dăm. Thứ nhan sắc mộc mạc ta đã gặp trong các điệu chèo cổ và một nẻo đường tít tắp giữa vùng quê. Chị ta chỉ hơn Linh vài tuổi nhưng phải sống với một ông chồng đã ngoài năm mươi, cục cằn, thô lỗ. Người đàn bà này mơ ước gì? Phải chăng chị tơ tưởng đến một lời nói dịu dàng, một tấm khăn hay một chiếc áo mới khi mùa xuân tới? Trong cuộc sống buồn tẻ lênh đênh trên sông nước, tháng ngày vật lộn với mưu sinh, có niềm vui nào thắp sáng lên chuỗi ngày đơn điệu của chị. Có hy vọng nào khiến chị thức tỉnh niềm vui sống?... So với người đàn bà dã man này, vợ mình là một bà hoàng. Một bà hoàng ích kỷ, gàn dỡ và tàn nhẫn… Cô ta còn muốn những gì nữa ở mình. Một người chồng tận tuỵ, trung thành, đủ sức néo giữ con thuyền gia đình giữa thời gian khó. Mình đã hy sinh những thú vui của một thằng đàn ông để mẹ con Linh được sung sướng: Một chai rượu Tây, một gói thuốc ngoại hạng, những cuộc bù khú với đám độc thân để có thể gặp gỡ những người đàn bà ưa phiêu lưu tình ái… Vậy mà cô ta không tha thứ… Linh, em là kẻ cực đoan nhất trong những kẻ cực đoan ở trên dời. Em không bao giờ chịu thấu hiểu đời sống. Em chỉ một mực thờ phụng những thánh nhân của thời thơ dại; những mẫu người lý tưởng đã được vẽ ra. Trước kia, thần tượng đó là mình. Nhưng mình làm sao tồn tại được, nếu chỉ là một cục thuỷ tinh như em mong muốn?
- Ta mượng chủ thuyền manh chiếu - Trọng bảo Nguyên - Ngồi mãi mỏi lưng lắm… Nghĩ ngợi gì mà thần người ra thế?
Nguyên ngoái cổ vào trong khoang gọi chủ thuềyn. Ông ta vẫn ngồi im như tượng phía mũi, chai rượu đặt một bên. Nghe Nguyên hỏi, ông ta bảo đứa con gái:
- Thu, đem mảnh chiếu buồm trải lên cho các bác nằm.
Đứa bé từ bóng tối của khoang thuyền nhô lên, cắp chiếu bên nách. Nó trèo lên mũi, thoăn thớt đi tới sau lưng mẹ, trải tấm chiếu cói xuống. Rồi, vẫn im lặng như thế, nó trở lại mũi thuyền đằng kia, tụt xuống khoang. Hẳn nó chui giữa những bì sắn khô mà ngủ. Không chờ bạn, Trọng nằm kềnh xuống trước:
- Mát quá Nguyên ạ… - Anh ta kêu lên – Mà trăng đẹp chưa kìa. Không ngờ chuyến đi này thú thế.
Nguyên nằm xuống bên cạnh, cảm thấy bầu trời xa xôi hơn, đe doạ hơn khi nhìn chúng từ phía dưới. Khoảng không gian lồng lộng và cách với như chứa đựng những thiên thạch, bụi tinh tú, sẵn sàng ném xuống đầu ta. Một đám cháy giữa thinh không kia rất có thể bùng nổ và lúc ấy mấy con người bồng bềnh trên chiếc thuyền này sẽ giống mấy hạt bụi lửng lơ giữa khoảng không nghiệt ngã của tai hoạ:
- Nghĩ gì mà im lặng thế Nguyên?
Trọng lên tiếng:
- Hồi nhỏ, tôi thích đọc văn Thạch Lam. Cảnh tượng đem nay cũng giống như văn chương của ông ta miêu tả: một con đò lững thững trôi, với hai con người mơ mộng.
- Trước đây, tôi không nghĩ rằng cậu lãng mạn thế. Nhưng đêm nay, trăng đẹp thật.
Nguyên tán đồng.
Trăng đã lên trên dãy núi cuối chân trời. Từ dãy núi đó tới dòng sông là dài đồng bằng hư ảo. Hai bờ, giờ đây không còn là bãi cát hay viền cỏ mà là những rặng tre dầm chân trong làn nước. Bóng tre đan già vào nhau như tấm rèm trăng khiến con thuyền trôi qua một ảo động được tạo bằng trò chơi của đêm đen và mặt nguyệt. Vợ chồng chủ thuyền không chèo nữa mà dùng cây sào đẩy thuỳen đi dưới các lùm tre khiến lũ chim ngủ đêm trong đó bay tán loạn. Một con quáng mắt rơi xuống thuyền. Trọng đưa tay chụp nhưng nó đã vọt qua bàn tay hộ pháp của anh.
- Đẹp thật.
Nguyên nhắc lại. Nhưng phía sau vầng trăng anh lại nhìn thấy ánh sáng của thành phố. Căn phòng có những bông cẩm chướng úa héo và tấm màn gió màu xanh. Buổi sáng cuối xuân, Linh đã tuyên bố rằng cô không còn yêu anh nữa…
- Liệu sáng mai đã đến Bố Hạ chưa Nguyên?
Trọng lại cất tiếng hỏi. Người đàn bà rút cây sào rồi đáp lời thay:
- Cùng lắm mười giờ sáng thôi, bác đừng sốt ruột.
- Chúng tôi còn phải lên Cầu Gỗ.
Trọng giải thích.
Người đàn bà cúi rạp xuống để luồn qua một vòm trúc, rồi nói:
- Bác đừng lo. Từ Bố Hạ lên Cầu Gỗ chẳng mấy chốc. Thỉnh thoảng em vẫn lên đấy mua than. Chạy bộ cũng chỉ vài giờ, các bác có xe lo gì?...
Nguyên hỏi:
- Chị đã vào nhà bảo tàng ở đây chưa?
- Nhà thờ cụ Đề ấy ạ?... Có chứ. Dân chúng em ở đây mỗi năm giỗ cụ một lần.
- Ai đặt ra cái lệ ấy?
- Không ai đặt ra cả. Từ thời cụ tổ em đã có ngày giỗ ấy rồi. Cái kiếp dân mình khổ, thờ cụ để cụ độ trì cho. Ngày đánh Pháp, cứ trận nào có người ở đây cầm quân là thắng cả. Nói có Trời có Phật, cụ Đề thiêng lắm.
Chị ngừng lời, dún con sào thật mạnh. Thuyền lao khỏi vòm trúc, vọt ra giữa dòng nước. Từ đây trở đi, haibờ không còn cây lá, dãi đầy ánh trăng. Nguyên thấy tấm chiếu mát lạnh, bảo Trọng:
- Sương xuống ướt cả chiếu. Cậu có buồn ngủ vào khoang mà nằm.
- Không. Lạ thật, chẳng buồn ngủ chút nào hết. Mọi tối, gà lên chuồng là tôi díp mắt lại. Vợ tôi cứ gọi tôi là Trí ngủ...
- Mình cũng thế, mắt ráo hoảnh.
- Mấy giờ rồi.
- Tám giờ bốn mươi hai phút.
- Ở thành phố, ngày dài hơn.
- Ừ, ở đây đêm dài hơn. Càng xa các thành phố lớn, nhịp điệu của đời sống càng chậm. Năm ngoái tôi đến một xã miền biển. Một xã có vài ngàn dân mà nằm trên ba hòn đảo nhỏ. Người ta đi lại bằng thuyền. Những con dê bơi nhung nhăng từ đảo này sang đảo khác. Ở đấy, cậu có tưởng tượng được không, hầu như các gia đình đều dùng nồi đất. Ngay cả muôi và thìa múc canh của họ cũng bằng đất nung mộc. Hỏi ra, hợp tác xã mua bán chỉ chở ra đảo dầu hoả, kim chỉ và giấy học sinh...
- À, tại vì mình thiếu xăng. Sự giao lưu tư tưởng và văn minh vật chất quyết định bảy mươi phần trăm sự phát triển xã hội... Mà anh Nguyên này, anh đã mua được cuốn truyện ngắn của Pautôpxki chưa đấy?
-...
- Sao anh im lặng thế?
- Tôi nghĩ tới anh và những chuyện khác phía anh.
- Tới tôi? Tôi có chuyện gì vậy?
- Tại sao đang từ chuyện phát triển xã hội anh lại nghĩ ngay đến Pautôpxki?
- Tôi chẳng biết. Nhưng điều đó có quan hệ gì?
- Có chứ. Từ lâu tôi đã để ý rằng chúng ta không có thói quen nghĩ điều gì đó cho đến đầu đến đũa. Giống như kẻ vừa xới lên một mảnh đất, chưa kịp trồng trọt gì đã bỏ sang vùng đất khác. Nó chứng tỏ chúng ta thiếu khả năng tư duy sâu sắc và triệt để, mà thiếu khả năng đó, thì đừng hy vọng có được thành công trong bất cứ một lãnh địa nào. Thói quen hời hợt và nông nổi sẽ đưa chúng ta tới nhiều lầm lẫn và thua thiệt trong đời sống... Còn Pautôpxki, anh thích ông ta lắm phải không?
- Rất thích.
- Đã có một thời, Pautôpxki là tác giả gối đầu giường của tôi cũng như của những người cùng thế hệ chúng ta. Tôi đã đọc đến thuộc lòng Bông hồng vàng, Bình minh mưa, Naxlia cô gái làm ren... Ngay bây giờ, nhắm mắt lại tôi cũng có thể tả cho anh nghe các ngôi nhà gỗ ven rừng Nga, mùa thu vàng trên thượng lưu sông Oka, những nẻo đường sương mù giá băng phương Bắc, bụi tử đinh hương lấp loáng dưới bụi mưa, và những căn phòng treo tranh của Matixơ, của Rêpin, nơi tà áo dài phụ nữ sột soạt và mùi nước hoa khiến ta mê mẩn... Pautôpxki là nhà văn của các cảm xúc học trò, giấc mơ đầy hoa táo và uất kim hương, những niềm ưu ái dễ dàng, những may mắn kỳ diệu mà người ta có thể nhặt chúng dễ dàng như nhặt những quả dẻ trên đồi Nhã nam vào mùa thu... Không, tôi không thể còn yêu Pautôpxki được nữa. Anh sung sướng hơn tôi vì anh còn ngưỡng mộ được ông ta khi ba mươi lăm tuổi đời. Anh đúng là một chàng thiếu niên nặng sáu mươi tư cân rưỡi.
- Anh bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Nói ra anh sẽ không tin đâu... Ba mươi hai...
- Đúng là không thể tin được.
- Tôi nói tiếp ý nghĩ của tôi về những chuyện này. Đã lâu lắm, tôi có ý định nói với anh là thói quen không đẩy tới tận cùng một suy tư sẽ dẫn chúng ta tới một lối sống cạn cợt. Nếu rất nhiều người nhiễm thói quen ấy, thì điểm yếu kia sẽ trở thành đặc tính của một nhóm lớn trong xã hội hay của cả cộng đồng. Dân tộc nào cũng có những ưu điểm kèm theo những khiếm khuyết. Nhưng một dân tộc mạnh là một dân tộc biết nhìn thẳng vào những khiếm khuyết của chính mình. Bởi lẽ, sự khai tử sẽ xuất hiện ở chính nơi nào có chứng bệnh viên mãn. Một bác học vĩ đại huỷ diệt quãng đời sáng tạo kể từ lúc ông ta nghĩ rằng tư tưởng của mình đã hoàn thiện hành trình tư duy của nhân loại. Một nhà căn sẽ đánh mất bản thân khi ông ta nghĩ rằng tác phẩm của mình là ở chót vót các đỉnh cao. Một viên tướng sẽ không còn cầm quân được khi không nghĩ nổi một điều gì mới mẻ hơn là say sưa về những chiến công oanh liệt cũ. Chỉ còn sống bằng quá có nghĩa là đã chết. Ngạn ngữ Pháp đã có một câu rất hay. "Đừng khua động tro tàn của các hài cốt...“ Thế đấy, tôi muốn nói với anh rằng chính chúng ta, những trí thức, sứ mạng của chúng ta không phải là vuốt ve lòng kiêu hãnh mà là nhìn cho thấu những nhược điểm của dân tộc sớm hơn tất cả mọi người...
Nguyên dừng lại. Anh chợt nhận ra rằng mình đã nói qua nhiều. Trọng sững sờ nhìn Nguyên.
- Trời ơi, con người lạ lùng này...
Anh thốt lên trong óc não: "Anh ta có những ý tưởng thật sắc bén và cao quý. Trong khi đó, anh ta lại hành động như một kẻ làm công ngoan ngoãn. Và quái gở hơn, cam chịu cuộc sống tồi tệ của một kẻ bị cắm sừng. Ít nhất, cũng nửa thành phố biết rằng vợ anh ta là người tình mới mẻ nhất và say mê nhất của nhạc sĩ Trần Phương".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét