Thứ Tư, 7 tháng 5, 2014

DƯƠNG THU HƯƠNG - BÊN KIA BỜ ẢO VỌNG - PHẦN 3

CHƯƠNG 7
Bà Phượng là người đầu tiên ngửi thấy mùi tai hoạ trong gia đình Nguyên. Ngay sau buổi đưa Linh tới quán cà phê gặp Trần Phương, bà đã dự cảm được tất cả những biến cố sẽ đến với người cháu gái sau cái nhìn đầy ma lực của người tình xưa. Bà tới bảo chàng cháu rể phải đề phòng những hiểm nguy có thể xảy tới trong mọi gia đình. Nguyên hiểu ý bà cô, nhưng chính anh cũng không ngờ Linh đã bị ông nhạc sĩ kia chinh phục nhanh chóng đến thế. Một tình yêu tự nó kết thúc bao giờ cũng chậm chạp, khó khăn. Nhưng khi có một tình yêu khác thay thế, nó sẽ bị treo cổ mau lẹ không thương tiếc. Bằng kinh nghiệm bản thân, bà Phượng hiểu tình cảnh cô cháu gái và ân hận vì dù sao bà cũng phải gánh chịu một phần trách nhiệm khi Linh lâm vào tình cảnh ấy.
Một buổi sang, bà tới tìm Trần Phương :
- Tôi mời anh đi uống cà phê nóng, được chứ ?
Ông đáp lại bằng một nụ cười im lặng và hiền dịu. Họ cùng nhau bước tới một tiệm cà phê nhỏ gần ngã tư. Trong tiệm, co Ngọc Minh đang ngồi đấu hót với một gã gầy gò, ông chân như ống xì đồng bó trong ông quần Jin nhung… Khuôn mặt vuông của cô trệt phấn màu cam và đôi mày kẻ chì đen kéo tới hết thái dương. Khi Trần Phương bước vào, cả hai vội quay lại, chào con người danh tiếng. Cái vẻ thân quen, bả lả mà họ cố bộc lộ trước mặt đám khách khiến bà Phượng nhếch môi cười. Bà bảo Trần Phương :
- Ông nên lùi vào góc nào đấy thì hơn. Kẻo cô phóng viên xinh đẹp kia biến ông thành kép hát trước mặt mọi người.
Nhạc sĩ tìm một bàn khuất sau cây đinh lăng của chủ quán. Ông ngượng ngùng thanh minh:
- Phượng thông cảm cho, tôi đâu muốn thế?
Bà gọi hai tách cà phê nóng, rồi châm thuốc cho ông:
- Đã có một thời, ngày nào tôi cũng châm thuốc cho ông.
Ông lặng im, và bà nói tiếp:
- Ngày ấy, ông thường đội mũ nồi da nâu, và mùa hè ông thường mặc sơ mi trắng. Tôi đã đan cho ông một chiếc áo len màu ghi sáng, cổ thuyền, ông còn nhớ không?...
- Xin lỗi Phượng - Trần Phương đáp ngập ngừng – Tôi đã cho một anh bạn. Anh ấy bị mất cắp cả valy quần áo.
Bà Phượng cười:
- Không phải một anh bạn, mà là cậu em họ của bà Hoa. Tên hắn là Tư, trước đây làm trong Sở ươm cây thanh phố nhưng đã xin về hưu non để làm pháo và ươm cây non bán. Nhà hắn trên Bưởi, có người đã đưa tôi tới đấy mua cây cảnh và tôi đã nhận ra…
Mắt bà nheo lại tinh quái và giễu cợt. Trần Phương không đáp, miệt mài nhả khói thuốc. Gương mặt ông lúc đó dửng dưng. Lát sau bà Phương quay sang nhìn vào mắt ông, và đổi giọng:
- Anh hãy buông tha con bé ra.
Người đàn ông ngước mắt lên:
- Phượng muốn nói gì?
- Tôi bảo anh tha con bé cháu tôi ra.
Bà dằn giọng, đập vào tay Trần Phương, một cử chỉ lỗ mãng khác hẳn với vẻ mặt và dáng dấp đài các của bà:
- Giữa tôi và anh không cần màn kịch đó. Cháu tôi chỉ là một cô bé học trò. Nó mồ côi cả cha lẫn mẹ từ thuở nhỏ. Anh hãy tha cho nó… Hay anh muốn tôi chắp tay lạy?
- Phượng đừng nặng lời - Trần Phương vẫn nhẹ nhàng, bình thản… - Linh đã là một thiếu phụ chứ không còn ở tuổi quàng khăn đỏ. Tôi có bao giờ cưỡng ép, thúc hối tình cảm của ai đâu?
- Tất nhiên anh không thể cưỡng ép, nhưng anh quyến rũ và hứa hẹn đàn bà tài tình nhất thế gian này.
Bà nói giọng căm uất.
Trần Phương nhún vai, thở dài:
- Đó có phải lỗi của tôi đâu?
Bà Phượng nhìn vào mắt ông:
- Những lời hứa hẹn của ông nhiều như vỏ sò mà nhẹ như gió ấy.
Lại một lần nữa, nhạc sĩ nhún vai nhưng ông không trả lời. Và vẻ mặt hiền lành vô tội của ông khiến người đàn bà càng sôi sục:
- Đừng bắt tôi nói nhiều. Ông anh cả tôi là người hiền lành tội nghiệp nhất trong nhà, và con bé Linh cũng không khôn hơn bố mẹ nó. Cuộc sống của nó đang êm ấm, bình ổn. Anh hãy buông tha nó ra…
Trần Phương nhẹ nhẹ khép mắt lại, và thong thả nói:
- Phượng đừng giận tôi, bao giờ tôi cũng biết ơn những người đàn bà đã dành cho tôi một phần tình yêu của họ, dù tình yêu đó chỉ nhẹ như một chiếc lông chim… Tôi vẫn nhớ. Ông hạ giọng, thì thầm - Những ngày ngọt ngào êm ái mà Phượng đã đem tới. Tôi biết ơn Phượng, dù bao nhiêu năm nữa, tôi cũng sẽ còn rung động vì những ngày sung sướng của chúng ta…
Bà Phượng hằm hằm nhìn ông. “Đồ đểu”. bà bật lên những tiếng rủa thầm trong óc não nhưng bà không thể cất thành lời, và một xúc động mơ hồ nhè nhẹ lên trong tâm hồn lâu nay hoang vắng. Trần Phương đặt tay lên vai người tình cũ, khẽ bảo:
- Chúng mình về đi, tôi sẽ đàn những bản nhạc ngày xưa Phượng thích…
- Không, không…
Bà gạt đi những lời chống đỡ đã ỉu như bánh đa nhúng nước, Trần Phương không đáp, đứng lên thanh toán tiền với chủ quán rồi đi ra trước. Buộc lòng bà Phượng phải đi theo ông.
“Mình nghe theo lời hắn ta làm gì? Hắn không ngoan quỷ quyệt lắm”. Bà nghĩ, nhưng chân vẫn bước đi như cái máy. Khi học đi qua gốc một cây cổ thụ, bà vấp phải rễ, Trần Phương thốt tiếng kêu sợ hãi rồi ông bảo bà:
- Phượng cẩn thận kẻo ngã.
Người đan bà không trả lời nhưng nỗi xao xhuyến từ lâu bị chôn vùi chợt thức dậy xốn xang trong tim bà mỗi lúc mỗi cồn lên như sóng. Trần Phương dừng lại trước cửa phòng biểu diễn:
- Chỗ này nhiều người ngã rồi đấy, nào, đưa tay đây…
Ông nắm tay bà, dắt qua ngưỡng cửa hỏng được ghép tạm bởi vài tấm gỗ. Cử chỉ gần gụi ẫy khơi dậy cả một thời nồng nàn ân ái cũ. Trong phòng họp, hai cô thư kí đang ngồi ghi chép sổ sách vội ôm chồng sổ đi ra, nhường chỗ cho nhạc sĩ. Chắc họ xuống phòng quản trị. Trần Phương lấy ghế, ân cần bảo bà tới ngồi bên cây dương cầm. Và ông bắt đầu đàn bản Xêrênata của Enricô Tosselli. Đấy là bản nhạc bà Phượng thích nhất suốt thời yêu đương của họ…
Ba giờ chiều bà Phượng trở về nhà. Phố xá, cảnh trí của đời thường dẫn bà trở lại với đời sống thực tại. Ở cổng, dưới vòm hoa tigôn, một con bé mười lăm đứng nghêu ngao hát. Vào sân, bà gặp chồng đang dắt chiếc xe máy đi ra:
- Chào Phượng, Phượng có lá thư tôi đặt dưới lẵng hoa.
Nói xong, ông gật đầu chào rất nhã nhặn và dắt xe đi ra. Đã mười bảy năm nay, họ sống với nhau như thế. Tấn kịch trong gia đình là tấn kịch đáng kinh sợ nhất trong kiếp sống của loài người. Chồng bà không tha thứ cho bà. Ông là người được nhào nặn trong một gia đình cao quý và coi trọng tiết hạnh tới mức như một thứ tôn giáo. Nhưng ông cũng không thể ly hôn với bà vì ông thương con và lo sợ cho đời sống tinh thần của chúng, vì ông yêu bà cũng như hận thù bà…
Bà Phượng tìm phong bì, bóc lấy lá thư. Thư của một cô bạn gái từ Sài Gòn gửi ra, thăm hỏi đôi điều, kể lể đôi điều, chán ngắt. Bà Phượng ném bức thư vào chiếc sọt đựng giấy vụn ở góc phòng rồi nằm vật ra giường:
- Cả một ngày trời vô tích sự…
Bà nghĩ, gương mặt và tiếng đàn thánh thót của Trần Phương giờ đây không còn cuốn hút mà chỉ gợi cho bà nỗi căm giận:
- Mình đã bị mê hoặc, mình đã thua…
Bà lẩm bẩm.
Trời mưa từ sáng cho tới lúc chạng vạng. Chưa năm nào, ngâu rả rích sụt sùi như năm nay. Lá rụng lẫn rác dồn trên các miệng cống, đám công nhân vệ sinh đội nón, choàng áo mưa lặng lẽ hót rác vào những chiếc xe kéo tay để đổ lên xe tải. Họ cặm cụi dưới mưa, giờ này qua giờ khác. Thỉnh thoảng một con bé đang tuổi dậy thì, má đỏ như son đạp xe ngạo nghễ trên đường, mặc cho áo quần tóc tai ướt dính. Cái cơ thể tươi non, tròn trịa và quyến rũ hiện lên dưới lớp áo dính sát vào người. Ở quán nước chè, Nguyên đang ngồi, có bốn người khách: Anh là một, người thứ hai và một một cặp tình nhân đã luống tuổi. Người đàn ông cỡ ngoại bốn mươi, và người đàn bà cũng trạc cỡ đó – mã đã hơi chảy dưới lớp phấn - ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn nhỏ bày đĩa bánh đậu còn đầy nguyên với hai cóc nước chè đã nguội ngắt. Họ mê mải nhìn nhau, quên cả Nguyên và bà già chủ quán đang ngoáy trầu trong chiếc cối đồng.
- Mưa ngâu, thật buồn như trấu cắn.
Bà già bỗng nói bâng quơ. Nhưng Nguyên biết rằng bà muốn trò chuyện với mình. Anh đáp:
- Vâng, năm nay ngâu dài thật.
- Hồi tôi còn trẻ, cứ trời này là cả lũ con gái ngồi rang cốm với rán bánh khoai. Bác đã được ăn bánh khoai Thị Cầu bao giờ chưa?
- Dạ, cháu cũng đã được ăn hai lần. Toàn vào dịp Tết Nguyên Đán.
- Bánh khoai ấy tìm cả ngày ở đất Hà Nội này cũng không thấy… Ngon thật là ngon…
Bà già bỏ miếng trầu vào miệng, cặp mắt mờ đục nhìn ra ngoài trời. Chắc hẳn bà đang trở về tuổi thơ ấy và thời thiếu nữ trên thị trấn quê hương. Nguyên thôi không nói chuyện với bà lão nữa vì anh bị câu chuyện của cặp tình nhân lôi cuốn:
- Anh ta đã nói với em như thế…
Người đàn bà vừa nói với bạn tình sau một hồi lâu thầm thì kể chuyện. Chị ta vụng trộm lau nước mắt. Những sợi gân xanh nổi trên cần cổ gày. Người đàn ông hói trán nhìn chằm chằm vào những sợi gân ấy, xót xa. Khi người đàn bà quay ra, mắt chị đỏ hoe và nỗi ngượng ngùng hiện trên vẻ mặt:
- Dạo này em còn uống Rimiphông không?
Ông ta hỏi nhỏ:
- Còn.
Người đàn bà gật đầu:
- Nhưng thuốc dạo này khó mua lắm.
Họ lại im lặng một lúc lâu. Ánh mắt hai người ngoắc vào nhau, như rễ loại cây chùm mọc trên vùng đất mặn. Trong ánh mát ấy, vẫn còn những đam mê sôi sục của tuổi trẻ, nhưng nhiều hơn là nỗi xót thương khắc khoải của những kẻ đã trầm luân. Người đàn bà hoàn toàn không đẹp. Một tấm thân tầm thước trung bình, một gương mặt trung bình, không nét nào lưu lại trí nhớ những người mới gặp. Tuy nhiên, chị ta có cái vẻ chân thành và tội nghiệp khiến cho người khác dễ tha thứ và mủi lòng. Từ cách trang phục xoàng xĩnh đến lối phấn son vụng về. Từ cái nhìn rụt rè đến những cử chỉ khiêm nhường ngượng ngịu. Người đàn ông còn xấu xí hơn. Một gương mặt cũ kĩ, một chiếc đồng hồ quai da cũ kĩ nơi tay, một chiếc sơ mi đã sờn cổ, một chiếc quần lỗi mốt nhiều nếp ly rộng thùng thình…
- Em đã uống hết gói bổ sâm hôm nọ chưa?
- Chưa ạ.
- Thé sau tuần này anh đi Hải Phòng. Anh sẽ nhờ chị Hậu mua Rimiphông cho em.
- Thôi anh ạ, phiền lắm…
Chị ta ngừng lại, rồi cúi thấp đầu xuống:
- Giá như ngày ấy…
Người đàn ông ngắt lời:
- Thôi em đừng nói nữa… Lỗi tại anh. Thế nào rồi chúng ta cũng sẽ…
Hai người nhìn nhau. Và trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy họ bộc lộ tất cả những gì mà lời lẽ không bộc bạch được: nỗi luyến tiếc, lời sám hối và những trách móc, tình yêu được khơi dậy trong tro tàn của quá vãng và những hứa hẹn cho hạnh phúc được vớt vát từ những mảnh hồ oan uổng… Trước đây, Nguyên vẫn nghĩ rằng những bi kịch tình ái chỉ dành tiêng cho lớp người có suy nghĩ phức tạp và có quá nhiều nhu cầu tinh thần cần thoả mãn. Giờ đây, anh biết mình lầm. Tai họa ấy phổ biến trong toàn nhân loại, có lẽ có chỉ trỗi lên ở lớp ngời này và giảm đi ở lớp người khác mà thôi. Hình như loài người luôn luôm tìm kiếm cái nửa thân thứ hai của họ trên cõi mênh mông trái đất. Họ sẽ vấp ngã lần này rồi lần khác sẽ thức tỉnh, rồi sẽ ngộ nhận, sẽ quay lại nhìn những lầm lạc của mình rồi để lại sai sót lần khác… Họ sẽ tiếp tục tìm kiếm cho tới lúc sinh lực khô cạn như dòng suối trên sa mạc và những khát vọng cũng thui chột hoàn toàn theo quy luật thời gian. Có bàn tay thần bí vô hình nào đã đánh tráo cỗ bài nhân duyên trước khi lật. Vì thế con xe hồng phải ghép đôi với con tượng đen, chú tốt điều lại sóng cùng bà sĩ… Và suốt đời, con tượng sẽ quay lưng lại con xe, quân sĩ sẽ quay lưng lại chú tốt.
Cặp tình nhân đứng lên, mặc áo mưa. Người đàn ông trả tiền rồi quay lại bảo bạn tình:
- Này em.
- Gì cơ ạ?
- Từ rày, em đừng đánh phấn nữa nhé.
- Vâng, em có biết đánh phấn đấu, nhưng em tưởng rằng anh thích thế?
- Không, anh không thích.
- Vậy từ nay em sẽ thôi…
Hai người ra đi. Mưa rắc từng lớp hạt cheo chéo lên vai họ. Một chiếc ca pốt lính cũ bên tấm vải che mưa màu xám. Họ không thuộc loại người được chú ý trong xã hội. Một con tốt đi tìm một con tốt khác, đơn giản thế thôi, nhưng đó là hành trình thật sự của tình yêu. Nguyên đứng lên để nhìn hút theo bóng họ. Hai người mỗi lúc một xa rồi mất hoàn toàn sau ngã rẽ. Người đàn ông cô đơn bỗng hình dung tới những hình ảnh của một bộ phim khoa học viễn tưởng vừa xem. Trên bộ mặt nứt nẻ, lồi lõm của một hành tinh mới, những con người mù loà vì không thể nhìn thấy gì trong bầu khí quyển đặc màu lam. Họ quờ quạng tìm lối đi… Phải chăng, những kẻ đi tìm tình yêu cũng giống như vậy?... Phải chăng Linh cũng ở trong số ấy?... Linh sẽ vấp ngã đau khổ, và một ngày nào đó anh cũng sẽ hẹn cô ở một quán nước để lại nhìn cô như người đàn ông hói trán nhìn bạn tình hôm nay?... “Dù thế nào, ta cũng vẫn yêu Linh”. Anh thầm nói với mình những sau vài phút bình tĩnh, anh chợt thấy mình ngớ ngẩn. Chẳng có gì đồng điệu trong tình cảnh gia đình anh và hai con người vừa rồi. Những liên tưởng của anh thật phiến diện và vô căn cứ.
Nhưng dù sao, anh vẫn nhớ cô điên dại. Mùi thơm trong tóc cô như phảng phất trước mũi anh. Cặp đùi rắn chắc và vòng hông tròn dưới lớp lụa màu hoàng yến. Chiếc áo cộc tay có viền ren quanh cổ… Nguyên nhớ rành rọt từng thứ một. và anh cảm thấy không thể nào kiềm chế được ý muốn nhìn thấy cô. Anh mặc áo mưa, đội mũ, trả tiền bà chủ quán rồi đạp xe tới trường. Dọc đường, anh nghĩ rằng anh sẵn sàng quỳ xuống chân cô để xin cô trở lại với anh, anh sẽ chứng minh cho cô hiểu rằng những tình thế con người không thể vượt qua được và bởi điều ấy cô hãy tha thứ cho anh và hãy thương anh… Không, không có gì trọng đại hơn đối với con người bằng cái hạnh phúc thật sự mà họ ao ước. Anh đã nắm được con cá lớn, và anh đã để sổng mất. Bây giờ, anh phải lặn dưới con hồ kia mà tìm kiếm…
Trước cửa thư viện, chỉ có một ổ khoá lớn. Linh đi vắng. Người đàn ông đứng tần ngần nhìn những hạt rưa ròng ròng chảy trên mặt kính hồi lâu, rồi chậm chạp dắt xe đi.
Chỉ còn vài chục thước nữa, họ sẽ tới đền thờ Chử Đồng Tử. Nhưng bà Hoa nhất quyết bắt cậu lái xe dừng lại:
- Cảnh đẹp quá... Chưa bao giờ em thấy hoa dâm bụt đẹp như ở đây. Lại cả dậu bìm bìm kia kìa...
Bà reo lên nức nở khen ngợi cảnh làng quê. Chiếc xe đậu giữa đường làng, mỗi bên chỉ chừa ra vừa một sải ty là chạm tới các dậu cúc tần hoặc dâm bụt. Cậu lái xe đã quen với tính đồng bóng kì cục của bà, rời khỏi xe, rúc đầu vào một bụi cúc tần hút thuốc. Trần Phương ngồi trong xe, đưa mắt nhìn theo vợ. Bà đang ngất nghểu dọc theo các bờ dậu, theo sau là một lũ trẻ làng. Chúng tò mò nhìn bà khách Hà nội ngót nghét năm mươi, bận quần bò, áo thun trắng, chù tó giả quăn buông tới tận vai. Hai đường chỉ màu nâu kéo từ tinh mũi cho đến chót thái dương. Một thứ sơn óng ánh như đóm đóm quẹt trên mi mắt:
- Ôi leo ơi, mắt xanh xanh là, nom cứ như mắt mèo ấy.
- Mày dốt, như thế mới đẹp chứ lị.
- Đẹp thì đẹp, nhưng nom sợ bỏ bố...
Chúng thản nhiên bình phẩm.
- Hoa ơi...
Chồng bà gọi. Bà quay lại chống cánh tay lên hông đưa mắt tiếc rẻ liếc nhìn cảnh vật lần cuối và nói:
- Ở đây thơ mộng thật.
Trần Phương không đáp, ông nhăn nhó gọi cậu lái xe. Chàng trai nhìn bộ mặt sa sầm của nhạc sĩ, lẳng lặng ngồi vào ghế lái. Cậu đã lái xe cho bà Hoa bảy năm nay, hồi ông còn giữ chức vụ quan trọng và hai người thường dùng chiếc Moscovic trắng của ông chứ không dùng chiếc Lađa của bà. Anh thuộc tính nết họ, từ cách họ ghìm giữ nối tức giận trước mặt người khác tới cách họ bày tỏ sự yêu chiều nhau vì lẽ nào đó...
- Phong cảnh ở đây giống như thơ Nguyễn Bính ấy.
- Ờ.
- Anh còn nhớ những bài anh đọc cho em nghe hồi chúng mình mới cưới không.
- Ờ.
- Cái bài gì ấy nhỉ?... À, Hoa chanh nở giữa vườn canh, Thầy u mình với chúng mình chân quê... Rồi sao nữa anh nhỉ?
- Ờ...
Bà quay sang nhìn chồng. Ông dang nghĩ ngợi điều gì đó, đôi mắt như trôi dạt trong một vùng đất khác. Bà kêu:
- Anh nghĩ gì mà cứ ờ tràn đi như thế?
- Ờ ờ...
Xe đỗ lại, và tất cả bước xuống con đường lát gạch để đi tới mái tam quan. Anh chàng lái xe đoán cơn thịnh nộ sắp xảy ra vội vã đi vọt lên phía trước rồi biến mất sau những gian nhà dài rộng đón khách thập phương. Lúc đó, bà Hoa năm tay áo Trần Phương kéo lại:
- Anh đứng đây em hỏi đã, anh đang nghĩ gì mà không thèm nghe chuyện của em?
Trần Phương sực tỉnh. Ông cúi xuống nhìn bà vợ đang túm chặt tay áo mình, mắt long lên dưới đôi mày kẻ chì giả tạo. Ông chợt cảm thấy như ông có thể bóp nát bà, hoặc ném bà xuống dòng nước phía trước ngôi đền, hoặc là chui xuống địa ngục để lần tránh cuộc hôn phối lầm lạc giữa họ. Ông không còn giữ được vẻ bình tĩnh ngày thường, ông cao giọng hỏi lại vợ:
- Em làm sao mà kiểm soát được mọi ý nghĩ trong anh?
Bà chu chéo lên ngay tức khắc:
- Em là vợ anh. Đã là vợ chồng nghĩa là thuộc về nhau tất cả. Em có quyền kiểm soát mọi ý nghĩ của anh.
Bà chu chéo lên theo thói quen. Đã từ lâu cứ mỗi bận bà chu chéo lên là ông đều đấu dịu, giãi bày an tủi, khích lệ bà. Và kết thúc tất cả những cuộc gay cấn ấy, bao giờ ông cũng để cho bà hiểu rằng trọn đời ông thương yeu bà, rằng đối với ông không có gì quý hơn tấm tình son sắt thuỷ chung của vợ ông… Nhưng lúc ấy, ông đã cúi xuống nhìn bà với đôi mắt xa lạ, ánh len những tia màu tro xám :
- Cứ giả sử như anh đang nghĩ tới một người đàn bà khác, em làm gì được anh ?
Bà chưa chuẩn bị tinh thần để nghe một câu nói lạ tai như thế, bà đứng đần mặt ra. Ông khẽ khàng nói tiếp :
- Cứ coi như là anh đang nghĩ tới một người đàn bà trẻ trung và xinh đẹp.
Bà hiểu, mặt bà đỏ lên, và bà dẫm chân bành bạch xuống nền gạch, hệt như mụ nạ dòng trong làng thuở xưa :
- Anh không được phép, anh không được phép…
Ông lạnh lùng gỡ tay vợ ra, và nói giọng chậm rãi :
- Cô nên nhớ rằng không có thứ phép tắc nào tồn tại trong tình yêu của một người đàn bà đối với một người đàn ông. Chỉ có một luật lệ thôi: đó là sự chinh phục lẫn nhau. Chừng nào còn sức mạnh chinh phục, chừng đó còn tình yêu…
Bà đứng ngây như phỗng, không tìm được lời đối đáp. Xưa nay, ông vẫn nín nhịn chiều chuộng bà. Chưa bao giờ ông cư xử tàn bạo như hôm nay… Trần Phương hả hê nhìn vào đôi mắt rối loạn và gương mặt đờ dại của vợ. Hai đường chì nâu thay thế cặp lông mày giờ bóng nhẫy mồ hôi, trông đến tởm. Mấy giọt mồ hôi bò dưới mái tóc giả chảy xuống trán. Nỗi căm uất từ hố sâu nhẫn nhịn trồi lên. Ông khao khát được dày vò bà :
- Cô lấy gì để chinh phục tôi? Nhan sắc của cô chăng, hay đức hạnh? Sống với cô bụt cũng điên chứ đừng nói người đàn ông bình thường.
Bà Hoa lùi lại một bước. Bà vừa nhận thấy sự kinh tởm trong ánh mắt chồng. Bà hiểu rằng trong khoảnh khắc này bà chỉ là một đồng xu hoen rỉ thời Tự Đức không thể tiêu xài được. Dù đã vận thứ áo quần sang trọng nhất, dùng những đồ mỹ phẩm và nữ trang đắt tiền nhất bà cũng chỉ là một xác chết trong lòng khinh ghét của ông. Lâu nay, bà vẫn tưởng rằng bên những ưu thế chính trị, tấm tình thuỷ chung và những gì bà đắp điếm lên thân xác cũng khiến ông phải yêu mê hơn…
Trần Phương nhìn cặp mắt bạc phếch của vợ. Rồi cơn khát thèm hung dữ kia mỗi lúc một dậy lên bạo liệt trong ông. Ông khát thèm được làm nhục bà, được di bà dưới chân như người ta di một con sâu vừa tìm thấy trong mớ rau hoặc chùm quả sắp đem ăn. Những màn kịch trường kỳ trong quãng thời gian chung sống đã tích tụ lại trong ông khả năng khuất phục giả tạo. Sự khuất phục đó giống như con thú rình rập trong bụi rậm – cái hình hài của kẻ thống trị phải thu mình đợi chờ, mai phục. Giờ đây, con thú đó vươn vai, duỗi vuốt, gầm lên :
- Thế nào, sao cô im lặng thế? Ngày thường cô nói như bắn súng liên thanh cơ mà? Nói đi, cô có gì để chinh phục tình yêu của tôi?
Ông cười, môi nhếch lên để lộ hàm răng trắng bóng. Bà Hoa tắc họng, không nói được. Bà nhìn như bị đóng đinh vào hàm răng vô cùng trẻ trung ấy và cảm thấy mình lún xuống tận dưới bùn. Phải đó là ưu thế của ông. Bà đã si mê ông hai mươi năm nay nhưng bây giờ bà biết mình chỉ là tên nô lệ cho chồng. Bà đoán ông có những mối tình trăng gió sau lưng, những lời lẽ ngọt ngào của ông và lòng tự ái của bà ngăn cản bà công nhận sự phũ phàng ấy. Và bà trang điểm, cố tỏ ra thông minh, cố tỏ ra hiểu biết để níu giữ ông. Cứ mỗi lần bà quẫy lộn, quăng chân quăng tay trên giường là ông lại tới giảng giải thề thốt rằng chỉ riêng bà là người phụ nữ ông tin yêu và kính trọng… Giờ đây, tất cả biến thành ảo ảnh. Bà thẫn thờ nhìn ông, có lục tìm trong óc não những lý do xui khiến ông thay đổi cách cư xử với mình :
- Biết thế sớm nay…
Bà hối tiếc. Sáng nay, ông giục bà lên gặp người bạn than thiết với ông bố liệt sỹ để hoàn thất khâu cuối cùng công việc cho ông. Ông đã gặp cậu Lưu tuần trước và mọi sự đã tiếp diễn tốt đẹp. Chỉ cần cuộc gặp gỡ này nữa, kết quả cuối cùng sẽ tới… Nhưng bà, vì muốn tỏ ra mình là người biết thưởng ngoạn những công trình văn hoá cũ và phong cảnh nên đã buộc ông tới đây.
- Biết thế…
Bà đã sai lầm, những giọt nước mắt nóng hổi tràn qua mi chảy trên má phấn lem nhem. Bà ngước nhìn chồng với đôi mắt đỏ hoe và đờ dại. Vốn là một cô hàng xén phố rừng, bà không biết cách tự vệ trong những lúc nguy nan. Bà cứ khóc nức lên từng hồi như đứa trẻ. Trần Phương nhìn vợ, lòng căm ghét đã nguôi ngoai, ông bỗng thương bà như người ta thương con mèo ăn vụng bị một gậy oằn lưng. Ông hạ giọng :
- Đừng khóc nữa, người ta cười cho bây giờ.
Lời an ủi của ông khiến bà mủi lòng, và bà càng nức nở thảm thiết hơn. Trần Phương vừa buồn cười, vừa bực, ông đặt tay lên vai vợ, hạ giọng:
- Em ngốc thế, sao lúc nào cũng nghĩ chuyện vẩn vơ. Mình có còn ở tuổi hai mươi đâu mà tơ tưởng trăng hoa. Anh thì đang nẫu cả ruột…
Ông đã bấm trúng huyệt, bà nín ngay tức khắc. Nhạc sĩ biết vợ tính đồng bóng nhẹ dạ. Ông nghiêm giọng nói thêm :
- Lẽ ra, em phải biết thương anh. Đừng vẽ chuyện mà hành hạ thêm nữa.
Bà im lặng nhìn chồng với ánh mắt biết lỗi. Bà hoàn toàn tin mình là kẻ tội phạm, rằng bà đã vô cớ gây cho ông cơn bực tức, rằng bà đã không làm tròn nhiệm vụ của người vợ là phải san sẻ những gánh nặng cho chồng... Bà len lén nắm tay ông :
- Em xin lỗi anh... Em xin lỗi...
Trần Phương không đáp, đôi măt ông bất động dưới hàng mi rợp, tựa như hai mảnh vỡ. Bà Hoa lùi lại sau lưng chồng, vào nhà dân ở gần đó xin nước giếng rửa mặt. Rồi ngồi dưới rặng dâm bụt, bà tô vẽ lại bộ mặt của mình. Mười lăm phút sau họ vào đền thăm, bà Hoa lại nói như bắn súng liên thanh đủ mọi thứ chuyện: nào chuyện chính trị, chuyện thơ ca, dăm ba câu ngạn ngữ, những biến cố ở một quốc vương nào đó vùng Châu Phi. Tất cả những gì được thu lượm vào cái trí nhớ cạn cợt, và lộn xộn của bà. Trần Phương im lặng, thỉnh thoảng ông giơ đồng hồ lên xem và nhắc vợ:
- Còn nửa giờ nữa thôi đấy nhé?
Họ đã trở về thành phố trước lúc trời chiều. Hai người ghé vào một tiệm ăn rồi về nhà tắm giặt. Lúc thành phố lên đèn, chiếc Lađa xanh đưa bà Hoa tới nhà ông chú. Ông vốn yêu thương bà. Ai mà chẳng yêu thương đứa con côi cút của người bạn thời tù đầy đen tối. Ông đã từng tuyên bố trước vợ và bốn đứa con : "Bố có thể yêu các con vì bố đẻ ra các con. Nhưng thương, bố phải thương chị Hoa hơn tất cả".
Đám con ông thầm ghen tị bởi những ưu đãi ông dã giành cho chị Hoa, nhưng không ai dám to nhỏ nửa lời.
- Em mang khăn đi kẻo lúc về trời lạnh.
Trần Phương bảo vợ khi bà bước lên xe. Giá lúc đó vợ ông quay lại, hẳn bà sẽ thấy mắt ông rực lên một ngọn lửa khó tả. Nhưng bà đang gài chiếc khuy áo, bà chỉ đáp vắn tắt:
- Em đã bỏ vào trong sắc rồi.
Cánh cửa đã sập lại và chiếc Lađa vụt ra cổng. Trần Phương leo lên chiếc cầu thang, về phòng. Những khuôn cửa mở toang khién ông nhìn rõ cùng một lúc cả những ngôi sao liti lẫn ánh đèn thành phố. Vòm cây tối đen lay động và mùi dạ hương thoang thoảng bay lên. Khung cảnh êm đềm nhưng đầu ông nóng sực. Những ý tưởng chen lấn, chồng chéo, xô đẩy nhau trong óc não ông, giống như một lũ ô tô chạy cuồng loại trong ánh đèn pha loang loáng rượt bắt. Nhạc sĩ đặt tay lên trán, trán ông hầm hập như đang cơn sốt. Ông uống một cốc nước lạnh nhưng không ăn thua, tâm trí ông bồi hồi bồn chồn, các ý nghĩ xáo trộn không sao đến đầu đến đãu… Tất cả quay tròn với lực ly tâm.
"Tại sao mình lại đốn mạt thế nhỉ ?... Có gì đáng để quay cuồng lên như vậy ?"
Ông thầm mắng mình dữ dội và sải những bước dài trong phòng. Các ý tưởng, những lo sợ, hy vọng và nỗi phấp phỏng cùng lúc đè trĩu trái tim ông :
"Danh vọng, ấy là thứ giá trị hư vô nhất trong đời sống. Nó không phải vàng dưới mỏ, muối trong nước biển, hạt lúa giữa bình nguyên… Nó không là cây gỗ từ cánh rừng sâu thẳm đưa về thành phố, không là tấm da thú hiếm hoi người thợ săn tặng cho vợ mình lúc rạng đông… Câu này mình đã đọc ở đâu nhỉ? Trong một cuốn sách của Châu Mỹ la tinh… Cần phải xem danh vọng như con cáo bị trúng đạn ngay trước hang ổ của nó anh hãy lột tấm da mà mang về…"
Những lời lẽ ấy gõ vào tai trái nhạc sĩ. Nhưng những lời lẽ khác lại gõ vào tai phải của ông:
"Thành công, không thành công, thành công, không thành công… Ngày xưa, người ta bói tình yêu bằng cách bứt những cánh hoa. Giờ, mình bói chuyện công danh bằng cách đếm những bước chân. Hai mươi, hai mươi hai, hai mươi bốn… thành công. Hai mươi lăm, hai mươi bảy, không thành công…"
Trong lồng ngực ông, con tim đập dữ tợn như một con chim trúng thương đập cánh. Ông rót cốc nước lạnh thứ hai, uống cạn rồi tới cây đàn dương cầm :
- La, si, đô.
Tay ông lần theo bài tập chạy gam La trưởng. Tiếng đàn giống như những hòn sỏi từ trong ống bị dốc ra, lăn theo mặt phẳng kê nghiêng:
“Nốt đô thăng này hơi mòn, có lẽ phải bảo cậu Hồng tới lên dây lại…”
Ông nghĩ, cố tập trung toàn bộ thần kinh vào những âm thanh. Sự cố gắng làm toàn thân tê bại hẳn đi. Một cảm giác bí bức xâm chiếm ông giống cảm giác của người không được thở đủ lượng oxy cần thiết. Đầu ông nặng tới mức cổ và hai vai mỏi nhừ. Trần Phương bỏ ra giường nằm và ông thiếp đi ngay. Khoảng chín giờ, nhạc sĩ tỉnh dậy. Ông rửa mặt rồi ngồi vào đàn ngay. Lần này, những âm thanh lôi cuốn ống khỏi cơn ám ảnh về sự thành bại. Khi Trần Phương lật mở cuốn sách chép nhạc của mình, ông lật đúng bản nhạc ông đã viết tặng Phương Linh:
“Cô bé này đã cứu mình…”
Ông nghĩ và gương mặt xinh đẹp mặn nồng của cô hiện lên ngay giây phút đó, như một rừng đào chợt hiện lên sau thung lũng đầy sương. Ông gõ từng nốt và những âm thanh lần mở cho ông khoảng thời gian hạn hẹp vàng ngọc mà họ đã cùng sung sướng bên nhau. Theo chiều dài của các âm giai tiếp nối, mỗi lúc những hồi ức yêu đương một lôi cuốn nhạc sĩ và tâm hồn ông trở nên thanh thoát dần.
Lúc ấy, bà Hoa về:
- Em biết mà, chú thương mình lắm. Chú bảo rừng không có điều gì cần lo nghĩ…
Trần Phương ngồi lặng đi. Cánh hoa cuối cùng của định mệnh đã rơi xuống. Ông thắng rồi. Chiếc moscovic trắng lướt qua mảnh sân, cùng với nỗi chua xót ám ảnh ông lâu nay và niềm say sưa trong cơn hy vọng. Ông quay lại:
- Cảm ơn em!
Bà Hoa cười, sung sướng:
- Chú bảo em ở lại ăn chè nhưng em sợ ở nhà anh sốt ruột.
Bà nhìn vào quyển sổ chép nhạc của ông:
- Anh đang chơi bản đàn gì thế?
-Anh vừa viết xong một bản…
Ông đáp lời, hoàn toàn vô thức, và sau đó một ý tưởng còn chưa kịp hình thành trong óc não, nhưng lời đã vụt khỏi môi.
- Một bản nhạc dành cho em.
Bà vợ ông kêu to:
- Tuyệt quá...
Bà lao tới bên chồng:
- Nào, anh đàn cho em nghe...
Trần Phương gõ các phím đàn. Vừa gõ ông vừa quay mặt đi mỉm cười. Gương mặt ông trong tấm kính cửa: hàm răng trắng bóng phô giữa hai làn môi.
°
Linh nhớ mãi buổi sáng sương mù thời thơ ấu. Thời thơ ấu ngắn ngủi như cánh chim bay qua lúc rạng đông. Các tia chớp bất chợt loé sáng, các hồ nước im lặng giữa vùng thiếu gió và tiếng ngân khe khẽ của các âm thanh đơn điệu mơ hồ. Sương mù, cả một vùng sương mù lảng vảng như khói trên mặt đất. Tại sao mẹ lại sớm bỏ cô mà ra đi như vậy? Có lẽ, Linh không sao hiểu nổi và trong đáy sâu tâm khảm mình, cô đã trách móc khôn nguôi. Từ lúc bà chết, cõi đời với cô rộng rênh, hoang vắng:
- Con gái ơi, ra với bố nào...
Bố cô thường gọi cô như thế, giọng nghẹn ngào, nồng hơi rượu. Chính ông cũng có lỗi với cô. Ông yêu bà đến nỗi trái tim ông không còn đủ chỗ dành cho đứa con gái và ông đã bỏ cô để đi về cõi đất âm u tìm vợ. Chính ông đã dạy cho cô hiểu thế nào là tình yêu. Trí nhớ tản mạn, mong manh của Linh hội tụ, trở nên sáng rõ dưới mặt trời hiện tại, dưới quyền năng mãnh liệt của mối tình cô đang thờ phụng. Sự nghiệm sinh có sức mạnh vĩ đại hơn chúng ta tưởng, chính vì nó đã rọi phóng ánh sáng và hơi ấm vào cuộc đời quá vãng khiến cho những vật mơ hồ bị vây bọc giữa đám sương mù vô thức trở nên góc cạnh và rõ nét, và tất thảy những cảm giác vấn vương, tăm tối mà trí não non nớt của tuổi thơ không sao nắm bắt được bỗng biến thành những ý tưởng sắc bén, những gọi mời quyến rũ. Linh nhớ những chiều ấm nóng, ánh hoàng hôn diệu vợi trải trên đất đai vườn tược, bố cô thường lặng lẽ ngồi vài giờ liền bên vợ. Bao giờ bà cũng có một việc để làm: hoặc đan len, hoặc mạng tất hoặc nhồi bột làm bánh chay... Còn ông, ông cứ ngồi như cái bóng. Trước đây, Linh thấy bố kì dị. Giờ, cô hiểu rằng niềm đam mê đã đem lại cho ông dáng vẻ lạ lùng ấy. Giờ đây, cô cũng có thể ngồi vài giờ lièn cạnh Trần Phương, nghĩ tới ông triền miên ngày này qua tháng khác, có thể sung sướng nhìn đôi mắt đen u sầu của ông chìm dưới hàng mi rợp, ve vuốt những nếp nhăn trên gò má và sau đuôi mắt ông... Tình yêu nào cũng thế, nó gán cho đối tượng những vòng hào quang bí ẩn, những mối cảm thương bị che giấu trong bóng tối và vì thế nó khơi dậy trong óc não lẫn tâm linh kẻ si mê những thắc mắc khôn cùng, những quyến rũ khôn cùng, những trắc ẩn không cùng...
Đã bắt đầu mùa thu thực sự. Sau đợt mưa ngâu dầm dề, các rặng cây ven đường tự dưng bạc hẳn lá đi như được phủ thiếc. Rồi những chiếc lá đầu tiên rớt xuống hè màu xanh già sau gả sang xám với những đốm vàng nâu lấm tấm. Đám con gái ở tuổi chưng diện là những kẻ đầu tiên đón nhận thời tiết. Các loại sơ mi thêu ren lộng lẫy cũng như những tấm áo sợi in hình băng nhạc ABBA, BONNEY... đã biến mất. Thay vào đó là các loại sơ mi vải bông hoặc áo pun mềm. Các ông bà già và hưu đi trên hè phố, ngước cặp mắt bạc phếch nhìn vòm cây. Họ tìm thấy trong cái xao động xanh om của nó tiếng thì thầm vô thanh của thời gian, cái lặng lẽ khắc nghiệt của tuổi đời. Chốc chốc, những con gió chạy rần rật trên mái phố, chưa mang nỗi buồn hoang hoải của heo may nhưng đã nhạt phai sắc màu rực rỡ của mùa hè. Thời khắc những đam mê của tuổi già chưa tới. Thời khắc các con tàu ngủ trên mép nước và những day neo lững lờ trong bến cảng... Gã trầm ngâm với những ý nghĩ về thời gian. Chợt gã thấy Linh, người con gái đã biến mất sau lần gặp gỡ. Cô đang dắt một đứa bé đi phía bên kia đường. Họ đi sát vào các cửa hiệu và đứa bé đang bi bô gì đó:
- Có lẽ dó là đứa con của anh trai cô nàng?...
Gã nghĩ, băng qua đường, êm nhẹ bước sau lưng cô. Gương mặt cô nhìn nghiêng và nhìn vát từ phía sau cũng đẹp lạ lùng. Vẻ đẹp khác biệt vẻ đẹp gã đã ghi nhận trong quán cà phê bữa trước. Linh chợt dừng chân trước một quán giải khát:
- Mẹ ơi, mua bánh ga tô cho con...
Đứa bé đòi... Gã hoạ sĩ dường như sững lại: Trời ơi, con cô nàng đó sao? Nàng đã là một thiếu phụ?...
Linh lục túi áo, bảo con:
- Bữa khác con nhé, mẹ không đem theo tiền mua bánh.
Đứa bé kêu to:
- Ứ ừ, con muốn mua bánh cơ. Trong túi mẹ có tiền.
- Đây là tiền mua rau. Người đàn bà giải thích – Mai mẹ sẽ mua bánh cho con.
- Ứ ừ…
Đứa bé kêu to hơn và chực mếu máo. Linh vội vã bế nó lên:
- Thôi được, mẹ mua cho con ngay đây…
Gã nhìn vào gáy Linh khi cô đứng quay mặt vào cửa hiệu. Tóc cô cuốn cao lên, để lộ mảng da trắng ngà với lớp tóc tơ mềm mại. Chủ quán, một ông già có gương mặt khắc khổ ra bán hàng. Đứa con gái kiễng chân nhìn chiếc bánh trong gói giấy ông già đưa cho mẹ nó:
- Mẹ ơi, sao hôm nay mẹ mua ít thế?
Xưa nay, Linh thường mua một lần nửa tá bánh ngọt cho con. Đứa bé không hiểu những gì đã xảy ra trong gia đình nó. Trí não non nớt chỉ băn khoăn bởi những xáo trộn trong nếp sống ngày thường. Trước đây, nó luôn luôn có cả bố lẫn mẹ. Giờ, nó chỉ được sống với một người. Trước đây, hộp bánh kẹo lúc nào cũng đầy ắp, và mẹ có thể mua cho nó vài cân kẹo hoặc nửa tá bánh gatô với nụ cười tươi rói. Giờ đây, hộp bánh chỉ lèo tèo dăm chiếc kẹo vừng hoặc gói chè lam. Một lần mua bánh ngọt cho nó, mẹ không còn tươi cười như trước. Các bữa cơm ít thịt cá hơn, mẹ không ăn để nhường cho nó và con bé cảm thấy thiếu vắng cái gì đó trong đời sống mà nó không hiểu nổi…
- Nào mẹ, đưa cho con.
Hương Ly láu táu đòi. Nó cầm bánh, ăn ngấu nghiến. Linh nhìn con, nỗi đau dâng tới họng. Lâu nay, cô đã tín tới những món tiêu nhỏ mọn. Vì tự ái, cô đã không nhận những món tiền chồng gửi qua bà Phượng hoặc Kim Anh - Những đồng tiền dơ dáy... – Cô nghĩ và con người lý tưởng trong cô lần lượt trải qua nỗi cay đắng của sự nghèo túng. Ngoài giờ làm việc, Linh nhận viết phích cho một thư viện và đan len thêm. Nhưng những lao động ấy cũng chỉ đem lại cho cô những món tiền eo hẹp. Gương mặt Linh tóp lại, xanh xao. Đôi mắt trở nên mênh mông hơn, sáng chói hơn và vì thế nhuốm vẻ quyến rũ lạ lùng. Cô chịu mọi sự thiếu thốn, cố gắng để cho con không cảm thấy khổ quá khi sống với mình.
- Mẹ ơi, bánh của ông nhỏ quá, mẹ mua nữa cơ.
Con bé đã ăn quá nửa chiếc bánh ngọt, nhìn tủ bánh vòi vĩnh.
- Mai, mai mẹ sẽ mua... Về nhà đi con...
Người đàn bà nói vội vã rồi bế đứa con đi ngay, sợ rằng chần chừ thêm một phút nữa, nó sẽ dụ cô vào một tình thế xót xa. Khi vượt qua đường, Linh chợt thấy gã đàn ông râu ria cô đã gặp vài lần trong quán cà phê. Y đang nhìn cô, và rõ ràng trong ánh mắt y có một thứ tình cảm nào đấy mà cô không cắt nghĩa được.
Bé Hương Ly đã quá nặng đối với đôi tay mảnh khảnh của mẹ nó. Chưa hết dãy phố, Linh đã phải đặt con xuống thở. Ngừng lại vài phút, vẫn thấy gã đàn ông râu ria ở phía sau, cô lại bế con đi. Lúc tới cổng trường, cảnh vật bắt đầu xoay quanh cô những những chiếc mâm bạc lốm đốm vệt đen, vừa lấp loáng, vừa u tối. Rất nhiều bầy đom đóm, không toả sáng mà phát ra những tia lửa đen như than đá bay lượn trong không trung. Cây phượng vĩ đứng ở đầu hồi văn phòng chạy tít về phía xa, gù gù như thằng hề mặc áo nhiễu lục.
Mảnh sân trường phồng lên, giãn nở như tấm cao su dưới chân cô:
- Mẹ ơi i i i...
Cô nghe con gọi. Rồi một tiếng khóc xa vời vẳng tới. Làn nước đen thẫm từ từ dâng, tràn ngập mọi miền. Phố xá, sông hồ, đất đai chìm dưới những gợn sóng câm nín và lạnh lẽo. Một âm giai huyền điệu khẽ cấtl ên, lượng lờ trên đại dương đen kì ảo đó, phiêu diêu trong cõi khôn cùng của vũ trụ - nơi những giấc mơ của con người hoà nhập với niềm thống khổ mà họ phải chịu đựng trong cõi đời.
- Anh ơi i i... Em chết mất...
Cô cất tiếng kêu người tình. Trần Phương mỉm cười với cô bên kia ngọn triều đen thẫm:
- Em không bao giờ chết, tình yêu của anh sẽ giữ gìn em mãi mãi.
Trời ơi, đã bao lần ông nói với cô điều đó?...
Vào lúc Linh ngã xuống, bé Hương Ly khóc thét lên. Đám học trò của cô được nghỉ giờ Hoá ùa ra sân chơi. Chúng xô tới, khiêng cô vào văn phòng. Kim Anh đang làm việc với tổ bộ môn toán tại đấy. Chị bế Linh đặt lên bàn, cùng vài giáo viên khác làm hô hấp nhân tạo. Những học sinh gái bắt đầu rân rấn nước mắt. Đám con trai đứng xa hơn, nín lặng nghe ngóng. Một giáo viên chạy đi gọi y tá. Khoảng mười phút sau, anh hổn hển quay về báo tin:
- Chị Khuyên về đây rồi... May thật...
Y tá trường vừa đi mua thuốc về. Chị bỏ túi thuốc xuống ghế rồi bảo mọi người:
- Cho tôi thở một tý nào, dãn cả ra.
Đám học sinh lùi ra ngoài cửa văn phòng, hau háu nhìn chờ đợi. Chị y tá lấy trong túi cứu thương chai cồn, đổ một ít vào hộp ống tiêm, xoè diêm đốt. Các động tác nhanh nhẹn và chính xác. Kim Anh đặt một ngón tay trước mũi Linh hỏi:
- Có sao không chị Khuyên?
Chị y ta lắc đầu:
- Không sao cả, tiêm hồi sức và đường glucô là cô ấy tỉnh.
Chị Khuyên rút ống tiêm và kiêm tiêm từ đám lửa xanh ra một cách cẩn trọng, rồi bẻ ống thuỷ tinh, rút thuốc. Mọi người dán mắt vào đôi tay chị y tá. Lấy thuốc xong chị bảo một giáo viên đứng bên mình :
- Bóp cánh tay cô ấy lại cho tôi tìm ven… Như thế này này…
Vừa nói, Khuyên vừa xoa cồn. Chị đưa mắt dò tìm trong khoảnh khắc và loáng một cái, mũi kim đã thọc xuống lớp da xanh nhợt. Khuyên rút cần ống tiêm, một gợn máu theo mũi kim chạy ngược lên, toả dần những tia mỏng như khói.
Chị hiệu trưởng chăm chú nhìn dung dịch đường glucô tinh lọc hoà với máu đen trở thành thứ nước màu nâu nhạt. Lúc đó, ai khẽ kéo cánh tay chị :
- Thưa cô…
Một bé gái học sinh vào loại nhỏ tuổi nhất trong lớp học của Linh kiễng chân, ghé vào tai chị thì thầm :
- Thưa cô, có người hỏi cô Linh ạ.
- Ai thế, em biết không ?
- Thưa cô không ạ. Trông ông ta lạ lắm.
Chị y tá tiêm xong, buông một tiếng trống không :
- Yên tâm.
Rồi khoác túi cứu thương lên vai, chị đi ra nhanh như chớp. Gương mặt Linh đã dần trở lại màu trắng ngà của da thịt. Cô thở đều đặn. Kim Anh bảo đám học sinh ra sân chơi rồi chị đi cùng với bé gái ra cổng :
- Sao em không mời ông khách vào văn phòng ?
- Thưa cô, em có mời nhưng ông ấy bảo phải đi ngay.
- Trông ông ta thế nào ?
- Thư cô, râu ria nhiều lắm ạ.
- Ông ta hỏi gì cô Linh ?
- Thưa cô, thoạt đầu em đi tìm giẻ lau cho lớp, ông ta tới hỏi : Cháu có thấy cô nào mặc áo xanh chấm trắng dắt đứa bé buộc nơ đỏ vào đây không? Em đáp : Đấy là cô giáo Linh. Ông ấy ảo : Cháu mời cô Linh ra gặp người quen. Em nói rằng cô giáo vừa bị cảm gió đưa vào văn phòng. Ông ấy đứng một lúc rồi bảo em vào mời cô ra… Đấy, ông ta kia kìa…
Kim Anh nhìn theo hướng tay đứa bé và chị thấy một người đàn ông râu tóc xồm xoàm, đeo chiếc túi thổ cẩm có tua "trông đến gớm" - Chị nghĩ thoáng qua nỗi lo lắng. Nhưng gã đàn ông ấy đã đi tới trước mặt chị, không đủ thời gian để chị ngờ vực thêm :
- Chào chị ạ.
Gã cúi dầu chào, chẳng ra khiêm nhường cũng không ra lấc cấc. Điệu bộ gã từa tựa như điệu bộ của một thằng bé mười sáu tuổi.
- Chào anh.
Kim Anh đáp lễ và hỏi :
- Chắc anh có điều gì nhắn với Linh ?
Chị thấy đôi mắt của gã khách hiền và trong trẻo. Ngoại trừ bộ râu kiểu Enghel và hàng ria tựa dân Côdắc, trông gã cũng không đến nỗi phải rùng mình. Gã tự giới thiệu thay vì trả lời câu hỏi của cô :
- Tôi là hoạ sĩ.
- Vâng
- Tôi nợ chị Linh một món tiền.
- Thế ạ…
Đọc thấy vẻ ngạc nhiên trên mặt Kim Anh, gã giải thích :
- Thế này chị ạ… Chẳng là tôi đã nhờ chị Linh làm mẫu để vẽ…Nhưng tôi chưa trả đủ tiền thù lao.
- Quái lạ, cô ấy có thời giờ ngồi làm mẫu vẽ cho anh à ?...
Kim Anh buột nói một câu ngờ vực :
- Có chứ, có chứ chị… Gã hấp tấp :
- Tôi chỉ cần vài giờ ngày chủ nhật thôi… Kim Anh im lặng, chị biết gã nói dối vì chủ nhật nào Trần Phương cũng chở Linh và họ đi tới nơi nào đó ở ngoại ô thành phố. Gã đàn ông cúi xuống lúc túi, tìm chiếc phong bì :
- Nhờ chị chuyển giúp cho chị Linh.
Vài giây ấp úng, gã thêm :
- Cho tôi... gửi lời thăm chị ấy.
Kim Anh cầm chiếc phong bì, do dự, rồi chị hỏi :
- Theo nguyên tắc tài chính, tôi là người chuyển giao, vậy xin anh cho biết tên và số tiền là bao nhiêu ?
Gã đàn ông luống cuống :
- À à…
Gã định rút lại chiếc phong bì để mở xem nhưng sau đó lại thôi. Cuối cùng, gã lắp bắp :
- Chắc là… chắc là…
Mặt ngẩn ra, gã nhìn Kim Anh cười, nhún vai :
- Xin lỗi, thực ra tôi cũng không biết là bao nhiêu… Tôi vốn có tính đãng trí. Tiền này do anh em trong xưởng vẽ đưa.
Nói xong, gã cúi chào :
- Chị giúp cho, tôi xin cảm ơn chị.
Gã đi, mái tóc dài gần chấm vai lắc lắc. Kim Anh nhìn theo, và sau một giây đắn đo, chị gọi :
- Này, anh.
Gã, quay lại, đôi mắt hiền nhìn chị thay vì cho một câu hỏi : Kim Anh không trấn áp được nỗi tò mò, chị bật lên :
- Anh… anh có phải là người… quen của nhạc sĩ Trần Phương không.
Gương mặt gã tối sầm, gã đáp :
- Tôi không quen con người đó…
Và gã lầm lũi bước.
Kim Anh cùng cô bé học trò trở lại văn phòng trường. Chị ngồi vào bàn làm việc mở phong bì : Một xấp tiền buộc sợi cao su. Một tờ giấy gập làm tư nguệch ngoạc những dòng chữ :
"Tao đã tới triển lãm kí nhận tiền cho mày từ hôm kia nhưng tìm mãi không thấy ông tướng nhà trời đâu nên đành ném qua khe cửa sổ. Mấy hôm nay, mày say sưa ở đâu vậy. Tụi triển lãm keo cú lắm, nó chỉ trả tụi mình mỗi thằng ba nghìn năm trăm rưỡi thôi. Tao nói không tiện, nhưng mày hãy tới dạy bảo chúng đôi điều, cái lũ treo đầu dê bán thịt chó ấy. Này, mồng bảy này thằng Thảo què ở trong kia ra, mày tới uống rượu mừng nó nhé. Địa điểm tại nhà thằng Bách. Sẽ có thịt chó, ngoại hạng. Nhớ gọi cả thằng Đào Hùng sứt răng tới."
Theo thói quen của đàn bà, Kim Anh đếm món tiền. Ba ngàn năm trăm. Chị nghĩ ngợi hồi lâu. Chắc chắn Linh sẽ không đụng đến một xu nếu chị tường thuật lại mọi sự. Cô là người tự trọng tới mức gần như gàn dở. Đã nhiều lần bà Phượng đem tiền Nguyên gửi cho bé Hương Ly tới trường nhưng Linh đều từ chối. Cô muốn nuôi con bằng đồng tiền trong sạch của mình… nhưng lúc này, tình cảnh của Linh thật khó khăn. Kim Anh cất món tiền vào ngăn kéo, khoá lại.Chị quyết định sẽ đưa dần cho Linh từng ít một, dưới danh nghĩa các chi phí hợp lí và các khoản thù lao.

CHƯƠNG 8
Cuộc liên hoan kéo dài tới sáu giờ bốn mươi nhăm phút.
- Áo khoác của cậu đâu ?
Nguyên nhắc.
- Á á…
Trọng há miệng kêu, quay lại lấy áo vét rồi khoác lên đôi vai lực lưỡng. Nguyên hỏi :
- Có cần tôi đưa về không ?
- Không, đừng có coi thường tôi thế.
Trọng kêu lên, xiết chặt cánh tay Nguyên. Họ vừa định ra cửa, một tốp người kéo đến :
- Ngồi lại đã, làm gì mà vội vã thế Nguyên ?
Anh chàng Tú, bạn cùng lớp với anh, giờ công tác ở Hội nhà báo túm vạt áo Nguyên, giằng lại. Nguyên vốn nể bạn, nhất là bạn thân thiết với anh thời sinh viên như Tú.
- Thôi, cho tớ về. Mai có việc cần từ sớm.
Tú trợn mắt :
- Tao mời mà mày từ chối hả?
Nguyên cười :
- Không, không phải… nhưng…
Anh không thể giải thích với Tú rằng anh hoàn toàn không muốn ngồi với cô Ngọc minh, người đàn bà mặc áo giả da viền lông thỏ đang khoác tay Tú kia. Nói công bằng, cô ta cũng là một trong số những phóng viên sắc sảo và những bài báo của cô ta, không nhiều thì ít cũng khiến dư luận quan tam. Tuy nhiên, người đàn bà hiện diện ở cô không làm cho anh thích thú. Chừng đoán được những ý nghĩ của Nguyên, Ngọc Minh há miệng cười sằng sặc, bảo Tú :
- Thôi để cho anh ấy về. Giờ này, anh ấy còn phải tượng niệm tới hình bóng giai nhân.
Cái cười ngạo mạn đầy giễu cợt và báng bổ của Ngọc Minh khiến Nguyên nóng bừng mặt. Vừa hổ thẹn, vừa căm ghét, anh nhìn chằm chặp vào cặp môi son bóng nhẫy của cô mà nói :
- Thưa cô, tôi chưa hân hạnh quen biết cô. Xin cô giữ đúng phép giao tế.
Vẻ mặt lạnh lùng, khắc khổ của Nguyên lúc ấy tái xám. Trọng đừng đờ ra, còn Tú vội dàn hoà :
- Thôi, thôi… mày đừng bực… Cô Minh này buồn cười thật, ai cũng đùa. Phải tuỳ người thôi chứ ?... Nguyên này, cũng ở Hà Nội mà gần năm nay chúng mình mới gặp nhau. Giá không có cuộc liên hoan này chắc ông cũng chẳng thèm đoái hoài tới tôi đâu ?... Ngồi xuống đây. Dù mày có lên cấp đại tướng mày cũng chỉ là thằng bạn nối khố ngày xưa…
Trong mọi lời lẽ cũng như dáng vẻ của Tú, có cái gì đó đằm thắm, mặn nồng như tình phụ tử hay huynh đệ. Chắc Tú đã biết mọi chuyện không hay của Nguyên và cố gắng tìm cách sẻ chia với bạn. Một tay anh vẫn nắm chặt vạt áo Nguyên, tay kia anh vẫy một cô phục vụ để gọi một chai rượu Lúa mới, một đĩa mực nướng và một đĩa bánh batêsô nóng.
Tú ấn Nguyên ngồi xuống ghế bên anh, rồi bảo Trọng : - Ông thích làm chầu nữa thì ngồi với chúng tôi. Nếu sức chiến đấu đã hết, cứ việc khăn gói quả mướp về với vợ.
Trọng đã tỉnh táo hoàn toàn, cười hiền :
- Thôi chào các ông, tôi tút về với vợ.
Và anh ra cửa. Nguyên ngồi đờ đẫn. Cảm giác uất ức còn ám ảnh. Ngọc Minh ngồi sát vào Tú, mặt nhơn nhơn không mảy may xúc động. Tú dọn dẹp đám cốc chén bẩn lại một góc bàn chờ người phục vụ đem đi.
Anh hỏi bạn :
- Mày bị cảm tuần trước nữa phải không ?
Nguyên sửng sốt đáp :
- Phải, nhưng sao cậu biết ?
Tú rút bao thuốc, chìa cho Nguyên :
- Mày là thằng tồi, chỉ biết chúi mũi vào công việc thôi. Tao không giống mày, đời tao lúc nào cũng còn một góc dành cho bè bạn.
Nguyên im lặng.
Tú tiếp :
- Mày biết công việc của tao chưa ?
- Biết.
- Tháng sau, tao đi đấy.
- Ừ.
Nguyên gật đầu. Thực ra, anh chính là người đề nghị và bảo vệ hăng hái nhất cho Tú được đi bổ túc nghiệp vụ phóng viên ở Tiệp trong cuộc họp ban chấp hành Hội nhà báo gần đây. Nhưng anh không muốn Tú biết điều đó.
Tú bảo :
- Tôi chỉ nhờ anh một việc thôi : Khi tôi rời chân khỏi đất này, cứ hai tuần một lần, anh tới thăm thằng cu và bà xã hộ tôi.
- Anh ấy rút kinh nghiệm – cô Ngọc Minh xen vào – Cần phải giữ các bà vợ trước khi mất.
Nói xong, cô lại cất tiếng cười sảng khoái như vừa nghe xong một câu chuyện tiếu lâm vô hại. Nguyên định đứng lên, nhưng anh nghĩ đấy là cách tháo lui của một kẻ bại trận nên anh lại ngồi im, điềm tĩnh rít thuốc đáp :
- Hạnh phúc lớn nhất của người đàn ông là có được một người vợ mà họ muốn giữ gìn.
Anh tưởng những lời lẽ ấy sẽ làm người đàn bà được mệnh danh là Tác ta này hổ thẹn. Nhưng cô ta lại giơ tay chỉ vào mặt anh mà nói :
- Ôi thôi thôi, bỏ mẹ tôi rồi… Sao mà cổ lỗ thế ?... Cổ lỗ thế thì không thể chịu được. Đến tận hôm nay mà anh còn quan niệm như một lão già răng đen, búi tó.
Mắt cô ta sáng rực lên trong quầng màu xanh, vẻ hồn nhiên không chút mặc cảm :
- Anh phải giết cết thằng đàn ông phong kiến trong anh đi. Châu Âu đã trải qua cuộc các mạng giải phóng tình dục gần thế kỉ rồi mà anh còn đắm chìm trong đạo Khổng… Làm sao anh hiểu nổi thế hệ trẻ ? Anh thích ngâm thơ Đoàn Thị Điểm trong khi người ta nhảy theo nhạc Discô… Nguy, nguy thật…
Nguyên im lặng nhìn Ngọc Minh. Tú luôn tay dưới bàn bấm Nguyên ra hiệu cho anh đừng đối thoại nữa. Rồi anh hỏi :
- Minh nhảy giỏi chứ ?
- Giỏi.
Người đàn bà gật đầu. Rồi cô liến thoắng nói tiếp :
- Kia kìa, anh Tú nhìn xem, con bé kia mặc áo in băng ABBA giá năm trăm rưởi đấy. Chỉ tội bộ mặt xấu điên.
Lại lần nữa, giọng nói tự tin của người đàn bà khiến Nguyên sửng sốt. Chắc chắn cô ta phải tin rằng cô có một nhan sắc vô cùng lộng lẫy khi cô hạ lời phê phán thiên hạ. Thực ra, cô bé mặc áo pun in hình băng ABBA kia còn xinh đẹp hơn Ngọc Minh rất nhiều : Một gương mặt vuông vuông, trệt đầy phấn, cái mũi ngắn và hếch, hai đường chì kẻ dài quá khổ, và hàm răng ngắn như bị cà đá phô ra mỗi lúc cô cười… Lúc này, Nguyên không còn khinh ghét người đàn bà ngồi đối diện với mình. Anh chỉ còn tò mò và mong muốn quan sát kĩ nhân vật đã nghe đồn thổi rất nhiều giai thoại. "Âu cũng là một dịp tốt để hiểu thêm đời sống".
Cô phục vụ đã trở lại với chiếc khay lớn đặt chai rượu Lúa mới, đĩa mực xé sẵn với đĩa bánh batêsô nóng ngùn ngụt bốc hơi. Tú bảo :
- Cho tôi ba bánh kem nữa nhé.
Nguyên kêu :
- Dạ dày nào mà chứa được ngần ấy thứ hả Tú ?
Tú gạt đi :
- Kệ, vừa ăn vừa nói chuyện sẽ tiêu ngay thôi. Mấy khi tụi mình được ngồi với nhau ?...
Anh tiếp bánh cho cô nữ phóg viên và Nguyên :
- Bánh phải ăn thật nóng mới ngon.
Dù không đói, Nguyễn cũng thấy bánh ngon. Ngọc Minh ăn còn ngon lành hơn anh. Người đàn bà ăn mê mải, son môi dính hết vào lớp bột vỏ bánh. Nguyên chưa từng tiếp xúc với kiểu đàn bà như cô ta bao giờ, kiểu người luôn sống trọn vẹn với phút giây hiện tại. Họ chỉ nghĩ tới mùi vị thức ăn trong lúc ăn, nghĩ tới tình yêu khi đang yêu, không cần đắn đo vì bất luận điều gì ở phía sau hoặc liên quan tới tới những hành động ấy.
"Đó là mẫu đàn bà sống hết mình, đúng mốt thời đại".
Anh đã nghe bạn bè nói về cô ta như thế. Nguyên biết Ngọc Minh có một đứa con trai lên năm. Chồng cô là một giáo viên mảnh khảnh dạy trong thành phố. Họ đã ly hôn từ khi đứa bé lên hai. "Anh là đàn ông, phải lãnh việc nuôi con. Nó mang họ Nguyễn của anh chứ có mang họ Đào nhà tôi đâu?"
Con cô sống với bố từ dạo đó. Thỉnh thoảng, cô tuyên bố với bạn là :
- Hôm nay ngừng nhảy nhót, tôi nổi cơn nhớ thằng cu, phải về thăm nó đã.
Cô bỏ nửa ngày mua sắm áo quần, giầy dép, bánh kẹo cho con, rồi buổi chiều cô phóng xe tới nhà chồng cũ :
- Con trai của mẹ đâu ? Cục vàng của mẹ đâu, ra với mẹ nào...
Thằng bé gần như ngạt thở trong cơn mưa hôn hít. Vết son in đầy mặt nó. Nhiều bận, son dính lên tóc và ông bố lại phải khổ công lau tóc, gội đầu cho con. Thằng bé sướng mê vì những áo quần, giày dép sang trọng. Mặc dù, nhiều thứ nó không sử dụng được bởi mẹ nó đã nhớ nhầm kích thước. Sau đấy, ông bố trẻ lại mang gửi hàng cho bà chị dâu bán lại. Những bánh dẻo, bánh nướng, bánh gatô ngày thường nó thèm rỏ rãi bây giờ được chén thoả thê hàng tuần chưa hết. Sự chu cấp của mẹ nó không theo quy tắc nào. Khi rủng rỉnh tiền và bị kích thích bởi một hình ảnh cảm thương nào đó của tình mẫu tử, người đàn bà phóng xe về thăm con ngày ngày. Nhưng lúc hết xu trong túi, hoặc nhiều hơn là sa vào những mối tình nồng nhiệt, vài ba tháng cô mới nhớ ra mình đã có một đứa con trai. Bố đứa bé nuôi con rất vất vả vì anh kiếm đồng tiên khó khăn eo hẹp hơn cô. Bởi thế mỗi lần cô về, cả hai bố con đều hốt hoảng xen lẫn mừng vui. Tiếng honda của cô ào ào phóng tới, rồi ào ào phóng đi như cơn mưa dông, không thể chờ đợi, không thể đoán định trước và càng không thể hy vọng...
- Khá thật, bánh khá thật… Ngọc Minh khen sau khi ăn hết bốn chiếc bánh – Tôi ăn bốn, các ông ăn ba, thế là công bằng, vì tôi uống ít rượu hơn.
Cô liếm mép như đứa bé rồi mở ví lấy thỏi son tô lại môi. Những cử chỉ của cô mỗi lúc mỗi kích thích trí tưởng tượng của Nguyên. Anh khôi phục trong trí nhớ những lời đàm tiếu và những giai thoại, đem chúng ra đối chứng với người đàn bà bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt mình.
- Thôi ăn đi, đừng có nhìn em như nhìn con vượn trong vườn bách thú thế.
Không thèm ngẩng lên, Ngọc Minh bảo Nguyên bằng một giọng rành rẽ. Người đàn ông giật mình, nghĩ: “Con mẹ này là phù thuỷ chăng? Cô ả thọc tay vào trong óc mình”…
Ngọc Minh cất thỏi son vào ví nheo mắt nhìn Nguyên:
- Ăn hết bánh Batêsô đi rồi em rót rượu cho.
“Cứ tự nhiên như vợ nói với chồng”. Nguyên nghĩ thầm. Anh im lặng không đáp. Tú rót thêm rượu vào từng chén:
- Tao rót cho mày... Nguyên ơi, mày còn nhớ buổi liên hoan cuối cùng không?
- Nhớ.
- Hôm ấy thằng Hưng say khướt. Nó khóc như đàn bà. Tụi mình chẳng hiểu vì sao. Mãi sau này tao mới biết rằng nó yêu Thu Thuỷ, nhưng Thu Thuỷ lại yêu thầy Kha. Khi ông Kha đá đít Thuỷ để lấy một bà răng vổ con ông đại sứ ở Inđônêxia, thằng Hưng lại tới. Chúng nó tổ chức đám cưới ngay sau đám cưới của ông Kha hai tuần. Tụi nó có gửi thiếp mời cưới cho mày không?
- Có, nhưng đúng hôm ấy tao phải lên đường đi Nghệ Tĩnh.
- Thôi, thôi… xin các ông…
Ngọc Minh bỗng nhiên xua tay, nói xen vào:
- Các ông lại sắp rỏ nước mắt, nước mũi thương cảm cho quá khứ phải không? Chỉ những lão già thở hắt ra mới nói chuyện ngày xửa, ngày xưa. Trí thức như các ông mà cũng thế thì chán quá…
Cô ta can thiệp vào câu chuyện của họ thật thô lỗ. Nhưng Nguyên ngạc nhiên vì thấy anh không bực mình. Cả Tú cũng vậy, anh nhăn ra cười, lại còn giơ tay véo tai Ngọc Minh, Nguyên biết Tú cũng yêu vợ với một tình yêu say mê và ngưỡng vọng như anh yêu Linh. Chắc chắn Tú không chia sẻ tình yêu đó cho người đàn bà lạ lùng này. Tuy nhiên, Nguyên cũng thừa nhận rằng giá những hành vi và lời lẽ của Ngọc Minh đặt ở một người đàn bà khác, ắt họ sẽ tẩy chay kịch liệt. Khiêm nhường nhất anh cũng sẽ đứng dậy và bỏ đi. Nói cho công băng, Ngọc Minh thông minh và thêm vào đó, cô ta bộc lộ vẻ chân thành hồn nhiên của một đứa bé. Nó có thể chặt đuôi con mèo, bóp chết con chim sẻ, ăn cắp quả ổi chín trong vườn hàng xóm với niềm tin chắc chắn rằng cần phải hành động như thế, rằng hành động như thế cũng đương nhiên như con bò gặm cỏ, như con vịt bơi lội trên ao hồ…
- Nào, nào… Nói chuyện gì khác đi.
Người đàn bà giục. Nguyên nhìn cô, bất giác mỉm cười. Phải chăng vì mấy chén rượu mà anh hoá dễ tính?... Gương mặt người đàn bà lúc này đã quen quen. Cặp lông mày đen dài lê thê và đôi môi tô son bóng nhẫy màu gạch non không còn làm anh gớm ghiếc.
“Có lẽ xưa nay mình quá khắc khổ và nghiệt ngã”.
Anh tự nhủ. Có lẽ, đời sống bây giờ giản đơn và bụi bặm như người đàn bà này. Một con thuyền không cần chèo lái, trôi nổi theo dòng nước. Một cánh buồm nhởn nhơ hết quãng thừi gian tạo hoá cho phép nó tồn tại trên cõi thế gian. Một người đàn bà hoặc một người đàn ông không bị chi phối bởi một quyền năng nào và ràng buộc bởi một mối liên hệ nào… Hãy sống hết mình cái khoảnh khắc anh đang sống. Câu nói đó ở cuốn nào nhỉ?... Một đoạn văn hiện sinh trong vô số những đoạn văn mình đã đọc qua…
- Kìa, anh Nguyên, cạn chén đi chứ? - Ngọc Minh kêu to.
- Cạn chén đi rồi chia tay. Anh Tú hết bốn chén, em ba chén mà anh mới được hai, kém quá.
Cô rót rượu tràn cốc cho Nguyên. Anh lắc đầu. Người đàn bà đưa lưỡi liếm môi nhanh như mèo rồi nói:
- Uống đi. Uống cho say đi… Anh lại suy nghĩ gì thế hả? Lúc nào cũng đóng vai, chán chết.
- Vai nào?
Nguyên hỏi. Anh không hiểu người đàn bà có đôi mắt bôi xanh kia định nói gì, Ngọc Minh cười phá lên:
- Đừng vờ, vai đạo đức giả chứ còn vai gì? Lúc nào anh cũng như quan chánh án ấy. Chán lắm.
Nguyên vỡ lẽ, anh nổi cáu thực sự:
- Co hàm hồ, tôi chưa bao giờ đóng vai cả.
Ngọc Minh bĩu môi:
- Nguỵ biện. Trừ em, toàn bộ người đời đều đóng vai cả. Họ đóng vai cao sang, đứng đắn, nghiêm chỉnh, thành thật. Toàn đồ rởm.
Nguyên đáp:
- Cô chủ quan quá. Cô nghĩ rằng cô tốt lành lắm sao?
Người đàn bà cười hơ hớ chẳng tức giận cũng không chạnh lòng:
- Chẳng tốt với lành gì hết nhưng em dám sống với cách sống của em. Em không cần đóng vai người mẹ tốt, không cần đóng vai người vợ thuỷ chung đứng đắn. Thích ai, em đi với người đó.
Vẻ trâng tráo hồn nhiên của cô ta khiến Nguyên bất lực. Cơn cáu giận của anh xẹp xuống như trái bóng bị xì hơi. Anh chăm chú nhìn cô, đúng như người ta nhìn con chuột túi hoặc con lạc đà Châu Phi trong sở thú, Ngọc Minh nghẹo cổ cười ngặt nghẽo:
- Lạ lắm hay sao?
Nguyên lắc đầu:
- Thật không tưởng tượng được rằng cái nước Việt Nam này mà có một người đàn bà như cô.
Ngọc Minh gật đầu:
- Chính thế, cái hội đàn bà Việt Nam đã khai trừ em lâu rồi. Mà em cũng chẳng thiết ở với họ. Giá có hiệp hội phụ nữ sao Hoả hay sao Kim thì em sẽ xin vào.
Cô cười giòn tan, xé miếng mực nhai. Lần nữa, Nguyên chú ý tới hàm răng đều và ngắn của cô. Tú im lặng uống, anh đã quen tính nết Ngọc Minh. Óc não anh lúc này tràn ngập những lo toan sắp xếp việc gia đình trước khi lên đường đi công tác. Nguyên vẫn ngồi lặng thinh trước chén rượu đầy tràn. Ngọc Minh bảo:
- Đừng sầu muộn quá, anh Nguyên. Đời được mấy tí mà sầu muộn mãi?... Bà Linh nhà anh cướp mất ông bồ cưng của em rồi. Giờ, anh có dám đến với em không?...
Có lẽ, trên gương mặt bất động của Nguyên chợt hiện lên vẻ sợ hãi, kinh hoàng thái quá nên Tú giật mình. Anh bứt khỏi những lo lắng cá nhân và chợt hiểu lời nói của Ngọc Minh:
- Cái cô này – Anh giận dữ quát – Đùa gì cũng phải có giới hạn thôi chứ?
Người đàn bà nhìn gương mặt cứng như đá của Nguyên, cười:
- Ồ, anh yếu thần kinh quá… Em xin lỗi nhé…
Nguyên không đáp. Anh đứng lên, bảo Tú rằng sớm mai anh phải làm việc với đoàn nhà báo của Đảng cộng sản Nhật và bởi thế, phải về nhà bây giờ để xem lại chương trình.
- Chết thật, không ngờ anh lại giận dữ thế. Em đã xin lỗi rồi cơ mà…
Ngọc Minh đứng lên, chìa tay. Nguyên lạnh lùng bắt tay cô ta rồi quay lưng đi. Tú bảo:
- Chờ tao, tao cũng phải về kẻo Loan mong.
Anh chạy vào quầy hàng, ba chân bốn cẳng để thanh toán thật mau rồi quay ra. Ngọc Minh đeo xắc lên vai:
- Nào thì về… Mấy ông này bất lịch sự quá…
Họ là ba người cuối cùng ra khỏi căn phòng. Tú nhìn đồng hồ lẩm bẩm:
- Bỏ xừ, chín giờ mười lăm rồi, có chết tôi không?...
Ở cửa khách sạn, bà già coi xe đạp làu bàu: “Thuê trông xe tới chín giờ mà chín giờ hai mươi phút mới ra”.
Ngọc Minh vội rút trong túi quần tờ giấy bạc năm đồng:
- Đây, đây, biếu bà… đừng kêu ca nữa…
Ba người cùng đạp xe một lối. Nguyên khó chịu nhưng anh không nói gì thêm. Anh thấy lạnh và nhức hai thái dương. Đạp xe chừng vài chục thước nữa, hai ống chân anh bắt đầu run và đầu choáng váng:
“Chết thật, mình cảm rồi. Nguy hiểm quá, phải cố bò về nhà rồi nhờ giáo sư Lê gọi điện thoại tới tổng biên tập báo”
Anh cắn răng, dồn hết nghị lực để chống đỡ cơn choáng váng. Nhưng mỗi lúc, đầu óc anh mỗi quay cuồng. Đèn phố xá bay như bầy đom đóm trên mặt ao mùa xuân. Vài chiếc ô tô nhẵn bóng lướt qua mặt anh, như những con vật kỳ dị thời tiền sử.
- Nguyên.
Tú hét lên khi thấy Nguyên lao thẳng vào mũi chiếc xe Bắc kinh cũ kỹ chạy ngược chiều. Anh kịp thời đẩy mạnh Nguyên vào bờ hè. Nguyên ngã vật xuống:
- Chết thôi.
Tú nhẩy xuống xe, rên rỉ đỡ bạn dậy. Nguyên đã mê man không còn hay biết gì. Ngọc Minh vội gọi xích lô:
- Đưa anh ấy vào nhà em, mau lên…
Nhà cô cách đó vài trăm thước. Tú thoáng lưỡng lự, nhưng anh đành đồng ý vì không còn phương sách nào hơn. Nhà Nguyên còn cách đây ba bốn cây số. Và nhà anh, gấp rưỡi lần quãng đường đó. Ông già đạp xích lô lực lưỡng như võ sĩ. Nhảy xuống xe, ông bế xốc Nguyên lên.
- Bác làm ơn đạp nhanh cho chúng cháu… Khổ quá…
Ngọc Minh nài nỉ, dúi vào tay ông một món tiền công lớn gấp năm món tiền bình thường phải trả. Lúc này, cô chỉ là một người đàn bà tốt bụng, đầy lo âu:
- Anh về đi, mọi việc để em lo cho.
Cô bảo Tú khi Tú vừa dắt chiếc xe của Nguyên vừa đạp tới tận cửa nhà Ngọc Minh. Anh bế bạn vào giường, giao cho người đàn bà chiếc xe đạp và cùng cô xoa dầu, đánh gió cho tới lúc Nguyên nóng người lên, thở đều đặn anh mới quay ra. Ngọc Minh đứng ở ngưỡng cửa bảo anh:
- Cứ yên tâm về. Cái khoản chữa say rượu trúng gió thì em là chúa. Bồ em toàn các cây rượu cả, anh lạ gì?...
Tú lắc đầu, không biết nên cười hay nên khóc. Anh đạp xe đi.
°
Một sáng, Kim Anh đang ngồi trong văn phòng làm việc thì ông già thường trực báo với chị rằng có người muốn gặp. Kim Anh bảo ông đưa khách vào. Lát sau, một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần xuất hiện. Bà ta béo núng nính, mạc áo mỏng để khoe tấm áo ren bên trong. Một gương mặt viên mãn của lớp dân đô thị giàu có.
- Báo cáo cô hiệu trưởng, tôi là mẹ cháu Vân Anh, học sinh lớp cô Linh.
Bà tự giới thiệu trước khi ngồi xuống ghế. Trong khi Kim Anh pha nước, bà khe khẽ gõ tay lên bàn, những ngón tay múp míp do đeo nhẫn. Ba chiếc nhẫn mặt đá đồ sộ như những chiến hạm phô trương sự giàu sang:
- Tôi là cửa hàng trưởng cửa hàng rau quả X. Cửa hàng mẫu mực được nhận cờ luân lưu của thành phố đấy. Cô giáo có biết cửa hàng của chúng tôi không ạ?...
Bà tự giới thiệu lần thứ hai. Kim Anh rót nước, đáp ngập ngừng:
- Dạ, dạ…
Chị không muốn làm phật lòng bà khách. Xem chừng bà ta kiêu hãnh về chỗ đứng của mình lắm. Kim Anh mời bà cửa hàng trưởng rau quả uống nước và hỏi:
- Chị có việc gì cần gặp chúng tôi?
- Ấy, có việc khá quan trọng cô hiệu trưởng ạ…
Bà dài giọng nói, và sau khi cạn chén trà, chê khéo rằng thứ trà này kém quá, rằng lúc nào đó rỗi rãi bà sẽ gửi biếu cô hiệu trưởng thứ trà ướp sen hảo hạng nhà bà vẫn dùng… bà kể với Kim Anh ngọn ngành chuyện bà phải tới đây: Bà có đứa em họ ở cùng khu nhà với cô giáo Linh. Cô em này vừa thông báo với bà toàn bộ những chuyện không hay ho xảy ra trong nhà cô chủ nhiệm. Từ chuyện bà Tòng tới nhà Nguyên góp ý và bị Nguyên cự tuyệt. Sau đó, bà Tòng đến các hộ trò chuyện về tấm gương xấu để yêu cầu họ tránh, chuyện buổi tối nào đó bà dẫn tổ hoà giải của khu phố tới nhà Nguyên và đám người ấy chưng hửng vì Linh đã bỏ đi. Nguyên đang lên cơn sốt và anh đã nặng lời rằng anh không cần tới những lời giải thích ngớ ngẩn của họ, rằng anh cũng đang cần yên tĩnh và họ không có chút xíu quyền năng nào với tự do của anh…
- Tình hình gia đình cô giáo Linh phức tạp quá.
Bà trưởng cửa hàng rau tuyên bố:
- Một cô giáo như thế không nên để dạy dỗ trẻ em. Tôi cho rằng các cháu sẽ hư hỏng khi chịu sự giáo dục của một phụ nữ thiếu đứng đắn… Tôi là cán bộ lãnh đạo một cơ sở kinh doanh của Nhà nước. Nhà tôi cũng là một cán bộ cao cấp trong quân đội. Chúng tôi không thể giao phó con cái mình cho những giáo viên tư cách như thế…
Bà ngừng lời, sau khi buông một tiếng thở dài. Những mặt đá tím, đá đỏ trên bàn tay mập ú phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Kim Anh nhìn người đàn bà nặng trên sáu mươi kilô ngồi trước mặt mình, cả bộ điệu quan trọng của bà ta, cả những thớ thịt nổi u dưới lần áo mút sơlin mỏng như cánh chuồn, bỗng dưng chị mệt mỏi muốn bỏ tất cả mọi công việc để vùi đầu vào góc buồng tối tăm nào đó mà ngủ. Sau cùng, chị cố gắng đáp:
- Chị yên tâm. Chúng tôi sẽ nghiên cứu tình hình thực tiễn và biện pháp giải quyết.
Bà trưởng cửa hàng lắc đầu:
- Nhất thiết phải giải quyết cô hiệu trưởng ạ. Một nhà trường xã hội chủ nghĩa không thể chấp nhận những giáo viên yếu kém. Bên ngành chúng tôi cũng vậy…
Và bà nói them một tràng nữa về cửa hàng điển hình gương mẫu của bà, về cách đạo tạo những mậu dịch viên trong sạch và cải tạo những người không đủ tư cách… Kim Anh muốn ù tai. Chị nhẫn nại chịu đựng, mắt lơ đãng nhìn đôi tay béo múp đeo đầy nhẫn khoa lên với vẻ điệu đàng của một nụ nạ dòng. Khoảng mười lăm phút sau, bà trưởng cửa hàng rau quả mới chịu rút lui. Kim Anh vào buồng chứa giáo cụ trực quan nằm nghỉ. Ở đó, chị đặt một chiếc giường gấp khung nhôm để nghỉ trưa. Chừng non một giờ sau chị trở dậy, mời Dụng, hiệu phó kiêm bí thư đảng uỷ trường tới. Anh là người hiền lành, khêm nhường, bằng tuổi Kim Anh nhưng trông anh già và tiều tuỵ. Vợ Dụng mắc chứng xơ gan đã chết bốn năm nay. Anh chịu cảnh gà trống nuôi con cho tới bây giờ. Bà mẹ già làm vườn và thổi nấu cho mấy bố con anh, nhưng thu nhập trong nhà vẫn eo hẹp và đám nữ giáo viên trường luôn luôn phải vá hộ Dụng quần áo hoặc đơm lại cho anh những chiếc khuy đứt. Chưa có một người đàn bà nào sẵn lòng gánh vác cảnh sống neo đơn, túng bấn của anh. Và anh, anh chấp nhận cảnh sống ấy với vẻ chịu đựng nhẫn nại.
Kim Anh thuật lại toàn bộ câu chuyện bà trưởng cửa hàng rau vừa nói và yêu cầu của bà ta. Dụng chống tay lên cằm, mặt buồn rượi. Sau hồi lâu im lặng, Kim Anh hỏi:
- Thế nào?...
Dụng thở dài, không đáp.
- Sớm hay muộn rồi cũng có những phụ huynh học sinh phản ứng. Tôi đã đoán trước điều ấy…
Kim Anh ngừng vài giây rồi tiếp:
- Tôi muốn lẩn tránh việc này mà không được. Nhưng giờ đây, chúng ta tính toán ra sao? Nếu không chuyển Linh sang một công việc khác, tiếng tăm sẽ lan ra ầm ĩ. Loại người như bà cửa hàng trưởng này nhan nhản trong xã hội, họ không chịu thua ai. Nếu buộc phải để Linh thôi làm chủ nhiệm và dạy văn, trường sẽ thiệt thòi lớn. Tới ba phần tư những giải văn chúng ta có được là ở đám học sinh của Linh… Phía nào cũng khó khăn cả.
Dụng ngước nhìn Kim Anh:
- Lâu nay tôi băn khoăn chưa tiện hỏi. Chị có hiểu nguyên nhân tan vỡ trong gia đình cô Linh không?
- Tôi có biết qua loa, nhưng không thể hiểu cặn kẽ những gì dẫn tới sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân của ai đó ngoài mình. Anh có tin điều ấy không?
- Có thể là…
Dụng đáp với vẻ đắn đo, nghi ngại. Kim Anh nói tiếp:
- Chúng ta không thể đem kinh nghiệm sống của bản thân mình để áp đặt cho người khác, dù đó là con cái hoặc anh em ruột thịt của mình. Xã hội càng văn minh bao nhiêu, nhân cách con người càng được phát triển hoàn thiện bao nhiêu thì sự khác biệt trong đời sống tâm sinh lý con người càng lớn bấy nhiêu. Bây giờ, không thể dùng quyền lực tổ chức để giải quyết những vấn đề mang tính chất cá nhân. Nếu có, các biện pháp hành chính chỉ giúp cho mầm thù hận đòi phản kháng… Anh cứ tin rằng chúng ta nâng đỡ con người khó khăn hơn đẩy họ xuống hố ngàn lần…
Dụng thở dài:
- Rắc rối quá, nhất định phòng giáo dục sẽ hỏi tới chuyện này, các trường xung quanh họ cũng không để chúng ta yên thân. Cái ông nhạc sĩ Trần Phương ấy nổi tiếng quá, và càng như thế, cô Linh càng bất lợi…
Kim Anh nói:
- Nhưng anh em trong trường không hề đả động tới việc này.
Dụng gật đầu:
- Không ai nỡ ghét bỏ Linh. Trong hoàn cảnh của cô ấy, người khác ắt hẳn đã bị bêu riếu, rỉa móc tới nhức xương lên. Nhưng, Kim Anh ạ, đây không phải chuyện đối nội mà là chuyện đối ngoại. Anh sống cũng có người yêu và kẻ ghét. Một tập thể cũng tựa như một cá nhân thôi. Chúng ta phải che chắn dư luận, vì dẫu sao tôi và chị phải chịu trách nhiệm toàn bộ về tập thể này...
Họ bàn định mãi tới chiều. Hai người quyết định tạm thời giao lớp của Linh chủ nhiệm cho một giáo viên mới và điều Linh xuống làm công tác thủ thư. Kim Anh định tới phiên họp hội đồng giáo viên tuần sau sẽ công bố quyết định đó, nhưng lúc hai người trao đổi với nhau, một cô giáo cùng tổ văn với Linh đã nghe được câu chuyện. Sáng hôm sau, ba bốn giáo viên trẻ tới gặp Dụng và Kim Anh:
- Chúng tôi không muốn thi hành kỷ luật Linh. Từ xưa tới nay chưa ai yêu cầu cô ấy rời bỏ vị trí công tác, điều ấy chứng tỏ không một ai trong chúng ta đánh giá tồi tệ về đồng nghiệp của mình. Tại sao anh chị lại quyết định đột ngột như thế?
- Nhưng đây là yêu cầu của phụ huynh học sinh. Nhà trường cần giữ uy tín chứ?
Dụng và Kim Anh đã trả lời họ như vậy, mặc dù cả hai người cùng thấy trong câu trả lời ấy có cái gì đó không ổn. Nhưng đám giáo viên trẻ càng bất bình hơn. Lý lẽ của họ tuôn ra khiến hai người đâm bối rối:
- Một, hai, ba, bốn thậm chí mười bốn phụ huynh học sinh cũng chưa phải là nguyện vọng của toàn thể. Mà ngay toàn thể phụ huynh học sinh cũng chưa chắc đã là chân lý. Tới ngày nay con người đã quá hiểu rằng chân lý không phải là đám đông... Chúng tôi biết rằng nếu nhìn theo con mắt thông thường, Linh đáng lên án. Nhưng chúng ta không phải là thiên hạ nói chung, chúng ta là những đồng nghiệp gần gũi Linh. Tính cách người phụ nữ ấy đã được xác nhận trong nhiều năm sống và lao động. Nếu chúng ta đã bỏ cho cô ấy một phiếu thuận thì giờ đây, chúng ta hãy cất nhắc trước khi ném xuống một phiếu nghịch. Đám đông có một sức mạnh khủng khiếp. Nhưng ngay trong nó cũng bao hàm cả sự sáng suốt lẫn những thành kiến u tối, cả khả năng biến đổi một cách nhạy bén lẫn những thói quen thủ cựu, những tập tục phản văn minh và nếp tư duy khô cứng, ù lỳ. Tại sao chúng ta không xác quyết được các ý tưởng của chính mình và bảo về nó trước sự xô đẩy của xung quanh?...
Kim Anh và Dụng thở dài, thay vì cho một câu trả lời dứt khoát. Họ thấy đàm người đã lên lớp hết, chỉ còn hai người ngồi lại trong căn phòng rộng rênh của văn phòng. Trạng thái hăng hái tan dần, cả hai người là bắt đầu lo lắng bởi những dị nghị, bởi sự đàm tiếu của các trờng bạn và trong toàn khu nếu như có vài lá thư phản đối hoặc vài lá đơn kiện... Việc thuyên chuyển công tác của Linh vẫn được công bố trong kỳ họp hội đồng nhà trường sau đó. Linh xuống phòng thủ thư của thư viện trường ngay hôm ấy. Cô cố giữ vẻ mặt bình tĩnh để che đậy nỗi tủi nhục. "Người ta có thể hy sinh cả đến tính mạng cho một tình yêu“. Linh tự trấn an. Những đứa trò ngoan của cô xúm tới trước cửa phòng thư viện:
- Cô trở lại lớp, cô ơi... Chúng em lên đề nghị thầy Dụng cô nhé?
- Cô dạy quen rồi, thầy mới cứ lạ lạ là... Thiếu gì người coi thư viện được?... Tại sao cô lại bỏ lớp mà đi?...
Trước mọi câu hỏi, Linh lặng lẽ cười. Những đứa trẻ chỉ nghe phong thanh một chuyện buồn về cô giáo chúng. Đám nam sinh không mấy để ý tới việc đó. Nhóm nữ sinh tinh khôn và sớm từng trải hơn về đời sống tình cảm thì thào với nhau trong các góc vắng vẻ. Niềm cảm mến sâu đậm của chúng với cô chủ nhiệm khiến chúng trở nên kín mồm, kín miệng, thận trọng dự kiến đến cả trường hợp có cơ bị thẩm vấn... Tuy nhiên, ngay cả mối tình cảm của học sinh cũng khiến lòng tự ái của Linh bị tổn thương. Những buổi sáng tiếng cười đùa của chúng vẳng tới kho sách, và tiếng cười ấy làm người đàn bà thấm thía xót xa. Trước đây, cô đắm mình trong lớp sóng âm thanh vui vẻ quen thuộc. Giờ đây, cô chìm trong một không gian vắng lặng và bụi bặm với tiếng mọt nghiến gỗ, tiếng chuột sục sạo xó tối, tiếng gió sột soạt lùa qua tấm vải che mưa treo sát tường và đôi khi, tiếng vỗ cánh bay xè xè của một con gián táo tợn. Rồi đây đó, khi cô đi qua một khoảng sân nào đó lũ trẻ đang nô đùa. Khi tiếng chào thân thiết của một đứa trò cũ cất lên. Khi ánh mắt của chúng vút qua gương mặt cô để che giấu một xót thương già cỗi... Không, cô không muốn tìm sự thương hại ở mọi người. Cảm giác đớn đau như thứ nhưa dính trên má, không sao rửa sạch. Với một người tự trọng, không nỗi dày vò nào lớn hơn là phải nhận món cháo bố thí của lòng thương hại. Thứ tình cảm ấy đẩy ta vào một địa ngục ngột ngạt và tăm tối, nơi ấy vết thương mở hoác miệng ra chảy máu không ngừng, không thể phản kháng vì đó là một con vật lặng câm, không thể tiêu diệt vì nó như đứa bé hiền lanh, không thể chối bỏ vì đó là lòng tốt của nhân loại...
Trong vài lần, Kim Anh xuống thư viện và nhìn thấy trong mắt Linh nỗi đớn đau uất hận không thể bày tỏ. Chị hiểu rằng người bạn nhỏ tuổi của mình đang bị giằng xé dữ dội về mọi phía. Chị muốn khuyên Linh từ bỏ mối tình oan nghiệt kia đi nhưng chị im lặng vì biết điều đó vô ích. Hai người nói với nhau những chuyện vu vơ, gượng gạo. Kết thúc, bao giờ Kim Anh cũng hạ giọng thì thầm:
- Hiểu cho mình, đừng giận mình Linh nhé.
Linh đáp, giọng cao vói lên:
- Không, không... em có nghĩ gì đâu?
Nhưng cả hai người đều biết đó là một lời nói khó khăn, sượng sùng. Kim Anh trở về tổ ấm của chị, bất chợt khoảnh khắc nào đó chị hình dung ra gian buồng xép Linh đang sống, mùi sách và tiếng mọt nghiến gỗ trong đêm.
"Mình là một kẻ hèn nhát chăng? Mình đã không bảo vệ được một con người mà cả tập thể đều tin cậy. Giữa sự sợ hãi những áp lực xung quanh và lòng tin ở chính mình là cả một thử thách về lòng dũng cảm“.
Mùa đông đã tới mau lẹ quá. Trên các thân cây, lớp vở khô mốc dần. Gió thổi qua phố phường mang âm điệu vắng xa. Ở các tủ kính của cửa hàng giải khát, không còn những trái xoài miền Nam, những trái chanh tươi ngâm muối, các bình chứa xirô mơ vàng sậm, những trái dứa vàng và những trái dưa hấu xanh đen. Lúc này, mùa cam chưa đến, khách chỉ còn uống cà phê, bột đậu, bột sắn. Bà Phượng thích lui tới những quán cà phê trong thành phố. Đã gần hai chục năm nay người dàn bà có vẻ đẹp nửa hàng xén, nửa kiều kì ấy đã trở thành khách quen của các quán cà phê nổi tiếng. Họ đoán chắc bà sống độc thân vì bà có thể ngồi một mình. Không hút thuốc, nhưng bà có thể ngồi trầm ngâm hàng giờ, hai tay ủ bát nước nóng, mắt lơ đãng lướt trên gượng mặt khách bộ hành. Với dáng vẻ ấy, người ta có thể ngờ rằng bà là một triết gia, một thi sĩ hay một kịch sĩ chìm đắm trong suy tư.
Bà vốn là con gái hàng Đào, khả dĩ xinh đẹp và giàu có, học hành vượt quá bằng tiểu học vài tháng nên yên phận ngồi sau chiếc tủ bán len hoặc hàng mỹ phẩm, ngày ngày chăm sóc cơm canh cho anh chồng công chức và lũ con ngoan. Nhưng vì rỗi rãi, bà ngốn tiểu thuyết lãng mạn quá mức cần thiết cho một cô chưa chồng, bởi vậy và đinh ninh rằng đời bà phải có một tiếng vang nào đó khiến tên tuổi của bà trở thành bất tử như những quận chúa hoặc những tôn nương ghi trong sử sách. Chồng bà vốn là con nhà gia giáo. Ông học nghề công cánh tại Paris từ nhỏ. Yêu nước ông xin về Việt nam sau ngày giải phóng thủ đô, mặc dù ở Pháp ông có một biệt thự sang trọng với món lợi tức năm mươi vạn quan mỗi năm của ông chồng Pháp bà cô ruột tặng. Ông đã mau chóng hoà nhập vào cuộc sống gian nan từ quê nhà. Trung thành với cái mẫu lý tưởng đã hình dung về người bạn đời tương lai, ông tìm kiếm mãi một gương mặt xinh đẹp và hiền thục, đặc biệt Việt Nam, giống như gương mặt cô gái đội khăn mỏ quạ, thắt lưng xanh và mặc váy chùng thâm trong các bản minh hoạ văn xuôi và ca khúc Cô gái Việt. Sau bốn năm tìm kiếm, ông đã gặp bà. Lúc đó, bà là một thiếu nữ mười tám, da trắng như trứng gà bóc, mắt hạt huyền. Sống mũi bà không cao, không thấp nhưng xinh xắn, gương mặt tròn với lúm đồng tiền bên má... Quả là một vẻ đẹp ông ao ước, và chính cái khoảnh khắc sợi dây kiên nhâẫntrong ông đã sờn mòn, nhu cầu yêu đương thúc hối... Ông si mê ngay tức khắc và xin làm đám cưới ngay tức khắc. Cố nhiên, gia đình bà đã ưng thuận với niềm vui sướng và vinh hạnh. Đám cưới cô Phượng hàng Đào lộng lẫy nhất, cao sang nhất Hà Nội trong năm ấy và nó đã trở thành niềm ước ao cho những đêm xuân trằn trọc của các cô gái trẻ... Những ngày qua tháng lại, mọi háo hức đã được thoả mãn nguội dần đi. Những đam mê mới dấy lên. Giấc mơ mệnh phụ phu nhân thúc đẩy trong lòng bà. Chồng bà không dắt bà leo lên nổi những bậc thềm danh vọng. Ông chỉ là một kỹ sư công chánh giỏi nghề và giàu có, nhưng không có một địa vị cao sang. Ông chỉ thoả mãn giấc mơ phù hoa trong bà chứ không bù đắp được lòng khát khao danh tiếng. Ông chỉ đem tới cho bà mọi tiện nghi vật chất với một tấm lòng dịu dàng trìu mến, nhưng không đem tới cho bà những phương tiện thoả mãn cao vọng tinh thần. Bà muốn rằng khi bà bước chân vào nhà hát lớn hoặc các phòng trà, các rạp xinê, mọi người phải ngước nhìn bà tò mò và kính phục, phải thì thào tên tuổi của bà, phải dán ánh mắt khát thèm lên những niềm vinh quang hiển hiện trên gương mặt vương giả của bà và mọi chi tiết trên tấm thân ngọc ngà của bà phải được chiếu rọi trong luồng mắt của công chúng... Đã có bao người đàn bà xấu xí, ngu muội nhưng may mắn vớ được người chồng có chức tước. Họ được theo chồng tới dự các buổi lễ tân tại các sứ quán, các buổi khai mạc triển lãm hoặc hội nghị lớn long trọng, các tối chiêu đãi phim hoặc liên hoan... Bà, xinh đẹp thế, lịch lãm thế, cũng chỉ là một thường dân ngồi sau quầy bán len hoặc giữ chân kế toán, thủ quỹ... Giấc mơ mệnh phụ phu nhân trong bà cựa quậy rồi lớn dần lên, quẫy đạp ầm ầm như cái thai tám tháng đòi sinh nở. Vào khoảnh khắc chín muồi của dục vọng, bà đã gặp Trần Phương...
Trời đất, mùa đông này sao đến mau lẹ thế? Bà Phượng đứng trước gương sớm hôm đó, giật mình vì những nếp nhăn in sâu dưới đuôi mắt. Các nốt in sậm trên màu da cũng rõ nét quá rồi. Chưa bao giờ bà ngắm bộ mặt không son phấn của mỉnh trước gương lâu thế. Một bức tường đổ sập trong bà. Đã lâu nay, bà không chịu nhìn mình khi chưa tô điểm. Sáng sớm, sau khi rửa mặt xong, bà đã vớ hộp son phấn. Tối trời, trước khi đi ngủ bà mới rửa sạch lớp màu hoá trang và thay vào dó lượt kem nuôi da. Luôn luôn, hình ảnh bà trong gương phải xinh đẹp, lộng lẫy. Bà quyết giữ vẻ đẹp cảu mình trước mắt mọi người như kẻ hám danh quyết giữ ghế của y. Bà cũng muốn dùng vẻ đẹp ấy như một thứ vũ khí để chinh phục và trả thù chồng vì mười bảy năm nay ông đã không một lần ngoái lại, không một lần tha thứ cho bà...
Sớm nay, bà chợt thấy cái ảo vọng đó đã tới giờ sụp đổ... Con mụ xa lạ nào đang nhìn bà với đôi mắt lờ đờ, mất hết vẻ tinh anh kia? Hai đường nhăn dài bên khoé mép, ngay cả làn môi cũng chi chít những nếp nhăn mờ. Chẳng bao lâu nữa chúng sẽ nhăn nhúm lại như miệng những mụ phù thuỷ trong tranh vẽ.
"Kinh khủng thật“
Bà thầm nghĩ. Có thể nửa giờ nữa, sau khi dùng nghệ thuật hoá trang cực kỳ tinh xảo, bà sẽ đánh lừa được những người đàn ông đi cách bà hai mươi mét. Nhưng bà sẽ không đánh lừa được chính mình và đấy mới là điều đáng ghê sợ. Bà không còn giữ được lòng tự tin ở nhan sắc của mình, bà đã bị tước metmxao dungechomomất vũ khí tuỳ thân cuối cùng trong đời sống.
- Chào mợ, con đi đây.
Tiếng đứa con út vọng dưới cửa sổ lên. Nó đã ăn sáng xong và tới giờ vào xưởng hoạ. Đứa con trai thứ hai học nội trú trong trường bách khoa, còn cô gái cả làm ở viện khoa học xã hội đã có chồng, nửa tháng mới về thăm bố mẹ một lần. Chồng bà cũng đã ăn sáng trước. Ông tới nhà ai đó để đánh một ván cờ, tìm một cuộc chuyện trò vui thú hoặc gặp người đàn bà nào đó làm ông ấm áp cõi lòng.... Tất cả đều có thể và bà không có quyền trách móc...
Những ngón tay bà đặt hờ hững trên bàn trang điểm cổ bằng gỗ gụ. Học có những thứ đồ gỗ tuỵet hảo từ thời xưa, một loại châu báu đối vứoi những chuyên gia đồ cổ. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa chi đối với đời sống thật sự của bà.
Những làn gió tung bụi trên đường phố. Vòm tigôn đã rụng gần hết lá, chỉ còn vài đám hoa phơn phớt hồng đọng giữa mớ dây leo khô xác, khẳng khiu. Xe hơi thỉnh thoảng vụt qua phố nhỏ. Một cặp vợ chồng già thủng thẳng bước bên kia hè. Bà Phượng nhỏm lên nhìn. Họ trạc trên sáu mươi tuổi. Cả hai đều đẹp lão, tóc muối tiêu. Ông già mặc bộ complê màu tro nhạt, bà vợ bận quần sa tanh, áo bông Tàu bọc nhưng the. Họ đi bộ chậm rãi, thong dong. Chốc lát, bà vợ lại ghé tai ông chồng nói đôi điều. Và ông già mỉm cười dưới hàng ria bạc. Lần đầu tiên, bà Phượng chợt thấy rằng hạnh phúc có thể có được ở những cặp vợ chồng già, những con người đã trải qua quãng thời gian dài với nhiều thăng trầm của đời sống, với sự ấm lạnh của trái tim, với gió bão của thời cuộc...
"Quả thật, mình có thể sống tới chín mươi, chí mươi lăm tuổi... Bà nội mình chín mươi tám tuổi mới về chín suối, còn ông cụ thân sinh mình dã gần tám mươi mà còn ăn mỗi bữa bốn bát cơm“...
Bà Phượng lẩm nhẩm, rùng mình. Cái quãng thời gian cuối cùng của người đời thật đáng kinh sợ, bởi lẽ, lúc ấy người ta không còn sức lực cũng như lòng can đảm để chống chọi với những gian nan vật chất cũng như những tủi nhục trong tinh thần. Và lúc đó, mùa đông sẽ dài hơn mùa hè, ngày mưa gió nhiều hơn lúc trời nắng nôi, tạnh ráo.
"Giá mà, giá mà...“
Rất có thể bà sẽ có những tháng năm êm ấm vứoi chồng, nếu không rơi vào cạm bẫy đó...
Cặp vợ chồng già đi mỗi lúc một xa. Bà nhìn hút theo bóng họ. Mười mấy năm sau, tóc bà cũng sẽ bạc trắng phơ như bà lão đó, nhưng bên cạnh bà sẽ không có người đàn ông nào mặc complê màu tro nhạt và thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười để chịu chuyện với bà. Không có một hình hài nào tựa đỡ cho bà trong cuộc đời cằn cỗi giá lạnh suôi đông... Hi vọng gì ở ba đứa con?... Có, chúng đã từng là niềm hy vọng của bà nhiều năm nay. Trong tương lai, chúng cũng sẽ thương yêu cả bố lẫn mẹ như mọi đứa con hiếu thảo. Nhưng chúng sẽ có cuộc đời riêng, với yêu đương và thù ghét, với tất cả những lo toan cần vật lộn và những quan hệ cần lưu tâm. Bà sẽ nằm ở kẽ hở nào của cuộc đời chúng?...
Đĩa hát nhà ai đó vọng lên tiếng hát sầu muộn, thâm trầm:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi
Để một mai, tôi về làm cát bụi...
Những ngón tay thon thả của bà máy động giữa các thứ đồ nữ trang, các thỏi son, các loại chì tô vẽ và cá núm bông thoa phấn… Bà chợt dấy lên nỗi hối tiếc. Phía sau nỗi hối tiếc mù mờ như sương sa kia là một vực sâu vọng lên tiếng kêu nghẹn ngào thù hận. Mỗi gương mặt đối lừa trồi lên ngọn triều ảo vọng. Đôi mắt đen dưới cặp mi dày, nụ cười và vẻ chán chường kiêu bạc…
Lần đầu tiên, bà Phượng không còn hào hứng khi nghĩ tới cái tiệm cà phê quen thuộc của bà, ở đó, khách bọ hành trộm chiêm ngưỡng dung nhan lộng lẫy của bà trong khoảng không gian mờ tối của gian phòng và khách uống trà ngước nhìn bà như ngước nhìn một con người lỗi lạc của thời đại… Bà Phượng tì sát mặt vào gương, nhìn lại khuôn mặt mình lần nữa, những lỗ chân lông doãng ra lấm tám như những hạt kê tí xíu vì luôn luôn bị trệt lớp phấn dầy. Bà buống tiếng thở dài, thoa kem lên khắp mặt, sau đó tiếp tục các trình tự của việc hóa trang.
Hai mươi phút sau, bà bước khỏi căn phòng trong bộ xống áo đẹp nhất, sang trọng nhất. Bà quyết định tới nhà nhạc sĩ Trần Phương, không phải để lật bới đống tro tàn, tìm lại một đốm lửa của mối tình đã chết, mà để khơi dậy một hoả diệm sơn ghen tuông và thù hận trong lòng bà vợ ông ta.

CHƯƠNG 9
Cái đêm Nguyên bị cảm lạnh đã in vào đời anh một dấu ấn lạ. Đấy là khoảnh khắc bất chợt, gió đẩy con thuyền tới bến bờ hoang dã. Sau nhiều năm tháng trôi qua, mỗi lần nhớ lại, Nguyên vẫn còn ngẩn ngơ...
Đêm ấy, anh tỉnh dậy vào lúc bốn giờ sáng. Toàn thân đau như bị đòn, nhất là hai bả vai và dọc sống lưng. Đầu óc anh trống rỗng, lạnh buốt. Trước hết, vật gì đen đen treo trên đầu giường đập vào mắt Nguyên. Anh nhớ rằng anh không có thói quen vắt bất cứ thứ gì lên đình màn và dây màn, dù là chiếc áo lót hoặc chiếc khăn tay... Quái lạ. Nguyên cố gắng giương mắt lên, nhưng thị lực chưa trở lại bình thường khiến anh đau tức trong mắt. Nguyên nhắm mắt lại vài giây rồi mới mở ra lần thứ hai. Lần này, anh thấy cây đền ngủ có hình xoắn, kì lạ, hoàn toàn khác cây đèn ngủ trong buồng mình:
"Mình ở đâu đây?...“
Anh tự hỏi, vừa chống khuỷu tay nhỏm lên. Kề sát anh bên trái, một vầng trán nhô lên với những món tóc quăn: Một người đàn bà... Trong tích tắc, Nguyên có ảo tưởng đấy là Linh và tim anh đập lồng lên. Nhưng rồi, đường sống mũi gẫy lõm khiến anh thất vọng:
"Ai?"
Nguyên nhỏm dậy, nhìn trân trân vào nửa gương mặt đàn bà nhô lên trên mép chăn. Nhờ cái mũi hếch và gẫy, anh nhớ ra cô Ngọc Minh và tất thảy mọi chuyện. Anh đã rơi vào tình cảnh trớ trêu. Có lẽ ngay cả lúc óc tưởng tượng bay lượn trên trời cao hay giữa khoảng không tối om của địa ngục, anh cũng không thể hình dung ra tình cảnh này: Anh đang ngủ trên chiếc giường của một người đàn bà xa lạ, hơn thế nữa, xưa nay anh vẫn thầm khinh và ghét. Cô ta đang ngủ ngon lành, hơi thở mạnh và đều, phảng phất mùi nước hoa lẫn mùi rượu. Những sợi tóc xoăn xoăn chạm vào da thịt anh gợi lên một cảm giác lạ lùng. Họ đắp chung tấm chăn, chân phải cô gác lên anh nặng trĩu. Nguyên vừa muốn đẩy Ngọc Minh ra vừa ngại đụng chạm vào da thịt một người đàn bà mà anh biết rõ mình không ham muốn. Nguyên định vùng dậy, đi về nhà. Nhưng đầu anh nặng trĩu, những khớp xương như chực rời nhau ra. Mệt quá. Bên ngoài, tiếng gió bấc lùa hun hút qua các hàng cây vọng vào căn phòng. Trời rét lắm. Còn ở đây, một bầu không khí ấm nóng vây bọc anh, che chở cho anh. Nguyên nhắm mắt ngả đầu xuống gối. Anh ngửi thấy mùi phấn rôm từ trong tấm chăn xộc lên mũi. Mùi phấn thơm dịu cùng hơi ấm níu kéo anh. Vả chăng, một ý tưởng vừa ập tới:
"Có gì xấu xa khi một người đàn ông chung giường chiếu với một người đàn bà tự nguyện? Huống hồ, đây lại là một trường hợp rất ngẫu nhiên. Xưa nay, ta đã quá câu nệ bởi những lề thói và ước lệ xã hội. Mọi quy ước đều vô nghĩa".
Một nỗi xốn xang lan truyền qua thân xác anh như dòng điện. Nguyên hiểu rằng anh thiếu vắng đàn bà đã lâu và giờ đây hơi ấm ấy đang khiến anh bồn chồn.
"Tại sao đây không phải là Linh?"
Tim anh nhói lên như bị kim xuyên. Bất giác, toàn thân anh run rẩy.
"Linh, em ở đâu?”
Nguyên hình dung tới căn phòng nhỏ ở thư viện trường. Người đàn bà anh yêu dấu đang ngủ trên chiếc giường cá nhân xoàng xĩnh, tồi tàn. Cô ăn uống kham khổ và chịu đựng mọi đày ải của thế gian tới ngày chủ nhật, thầm lén ái ân cùng gã Trần Phương, ở cái xó xỉnh hẻo lánh nào đó vùng ngoại ô. Đứa con nhỏ của họ, Kim Anh đã đưa về cho ông nội từ ngày mẹ nó ốm. Chiếc giường hạnh phúc xưa kia của họ giờ hoang vắng. Còn anh, anh nằm đây, bên một người đàn bà xa lạ mà anh biết chắc chắn rằng không chóng thì chầy đối cánh tay cuồng nhiệt của cô ta sẽ vòng xiết lấy cổ anh... Người đàn ông bỗng bật lên một tiếng rên đau đớn.
- Ô ô ô...
Ngọc Minh vươn vai ngáp, tỉnh dậy. Mắt chưa kịp mỏ, cô đã đưa tay sờ lên trán Nguyên:
- A, khá rồi đây. Tay này cũng mạnh trai thật.
Ngọc Minh lẩm bẩm, hoàn toàn không biết Nguyên đã thức giấc đang nhắm mắt nằm im. Cô nắm cổ tay Nguyên:
- Mạch đạp gần như đã bình thường.
Nguyên nằm cứng đơ, tim đập thon thót trong lồng ngực. Minh xoay người lại, quay về phía anh. Hơi thở cô phả vào tai anh nóng hổi. Nguyên nhột nhạt, anh không thể tiếp tục giả vờ ngủ, bèn mở mắt:
- Cô Ngọc Minh.
Minh nhỏm dậy, ngạc nhiên:
- Ô, đã tỉnh rồi cơ à?... Anh khá đấy. Tối qua em đồ chừng phải trưa nay anh mới tỉnh được... Khiếp, người lạnh ngắt như thây ma. Anh có biết anh đã keu lên thế nào trước khi ngã vật xuống giường không? May là em chứ người khác họ sợ chết vía...
Cô nói một tràng dài với nỗi vui sướng chân thành. Mùi nước hoa với hơi rượu phảng phất lần nữa khiến người đàn ông bứt rứt. Những sợi tóc cô vương vào má anh. Cô vẫn tiếp tục nói:
- Khiếp, lúc anh nôn vọt ra mới ghê chứ! Bắn hết vào quần áo em. May mà đã cởi áo khoác ngoài, không thì toi. Nhưng hễ say rượu cảm lạnh, nôn xong coi như đã khỏi quá nửa.
Rôi cô cười, hồn nhiên đắc thắng:
- Chữa say rượu cảm chỉ Ngọc Minh là Thánh thiên tử, không ai sánh được.
Nguyên tự hình dung ra cảnh mình nôn mửa ở nhà một người đàn bà lạ, ngượng ngùng:
- Tôi xin lỗi cô Minh, đây là lần đầu tiên tôi say rượu như thế này...
Ngọc Minh lắc đầu:
- Không sao, không sao... em đã lau dọn nhà cửa sạch sẽ rồi. Làm người phải có lúc say mới thú chứ? Lúc nào cũng tỉnh như sáo thì buồn hơn trấu cắn. Sống như thế thà chết quách đi còn hơn. Này anh Nguyên, em biết anh thông minh, bây giờ anh nói thật ra, tụi dân Châu Âu có lý hơn mình không?
Nguyên mỉm cười, anh bắt đầu thích vẻ hồn nhiên sôi nổi của người đàn bà. Cô ta nói tới mọi chuyện với vẻ giản dị khó ai mà bắt chước. Anh đáp:
- Mỗi dân tộc có một hệ thống giá trị riêng. Điều hợp lý ở nơi này rất có thể sẽ trở thành phi lý ở nơi kia.
- Bảo thủ, bảo thủ...
Minh cướp lời. Và Nguyên càng ngạc nhiên hơn vì ngay giữa đêm khuya khoắt, vừa tỉnh ngủ cô ta đã có thể nhảy vào cuộc tranh cãi ngay tức khắc với vẻ hưng phấn mãnh liệt đến như vậy...
- Anh lại giáo điều rồi – Minh nói tiếp – Những lý lẽ chung chung ấy chỉ nên rao giảng cho đám đông thôi chứ? Còn khi anh đang nằm bên một người đàn bà dưới cùng một tấm chăn hãy nói những ý nghĩ thực của anh.
Nguyên cười, anh không đối thoại nữa mà ngắm nghía gương mặt người đàn bà kề bên. Ngọc Minh lay vai anh giục giã:
- Nói đi chứ? Anh nói đi chứ?
Anh nắm tay cô:
- Lúc này im lặng là hơn cả.
Ngọc Minh lắc đầu, bộ hờn dỗi:
- Không.
Cái mũi hếch và gương mặt vuông vuông của cô trở nên dễ nhìn trong làn ánh sáng mờ ảo. Khi không phấn son thái quá cô gợi nên cái duyên mọc mạc rất đàn bà. Nguyên hạ giọng:
- Lúc này chi có hôn cô là hợp lý hơn cả.
- Em biết mà... Ngọc Minh vừa nói vừa cười - Thế nào rồi anh cũng phải sống cuộc sống thật sự. Thế nào rồi anh cũng phải từ bỏ cái sân khấu đáng nguyền rủa kia đi.
Nguyên không nghe người đàn bà nói gì hết. Vì từ khi cô choàng đôi tay ghì xiết lấy anh, anh đã bị cuốn vào cơn lốc dữ tợn của những khát thèm bị dồn nén. Cũng giống như ngàn ngàn tiếng trống từ những góc sâu tăm tối và hoang vắng nhất trong thân xác anh cùng vang lên. Ngàn ngàn âm vang bị lôi cuốn bởi một nhịp điệu điên cuồng, không thể ngăn cản, không thể kiểm soát, từ khoảng im lặng sâu thẳm của đớn đau và mất mát, từ khoảng mù sương mênh mông của các hy vọng và ảo vọng, dồn dập gieo âm thành cuồng nộ vào máu huyết của anh, thịt da anh, óc não anh...
Một buổi sáng, Nguyên cùng tổng biên tập tới dự một cuộc hội nghị về chính sách nông nghiệp mới. Giờ giải lao, họ ngồi trong căng tin uống bia với lạc:
- Họp với hành mãi, mê mụ cả đầu óc. Không hiểu trên thế giới này có nước nào thích họp như nước mình không?...
Tổng biên tập làu bàu. Ông chọn một góc vắng vẻ:
- Vào đây cậu, phải tự làm thư giãn đầu óc không thì mệt mỏi quá. Có ra ngoài nhiều mới thấy, ở tất cả các nước tiến bộ, người ta quý thời gian lắm, chẳng ai đầy đoạ con người vào những cuộc họp hành liên miên vô hiệu quả như ở xứ sở chúng ta. Nguyên rút trong cặp một mảnh giấy lau mặt bàn lênh láng nước ngọt:
- Có họp mỗi ngày ba lần và phát động thi đua mỗi tuần ba lần thì những chiếc bàn này vẫn bẩn thỉu nhớp nháp, các nhân viên phục vụ vẫn ném hàng vào mặt khách với thái độ của kẻ vô giáo dục và rình mò ăn cắp của công... Tất cả những gì là hình thức, không có nội dung hoặc nội dung đã lạc hậu với thời điểm lịch sử đều trượt bên ngoài cuộc sống. Cái quan trọng hơn cả là làm cho các cỗ máy vận hành chứ không phải treo đèn kết hoa và phủ nhung lụa lên vỏ máy. Hồi nhỏ tôi thường lui tới một gia đình làm nghề cho thuê xe đám ma. Tôi đứng ngoài cửa, nhìn những cỗ xe đứng im lìm, được sơn phết đủ các thứ màu rực rỡ và cờ phướn rủ xung quanh. Chúng gợi cho tôi một cảm giác kinh sợ. Giờ đây, tất cả những gì mà hình thức đối nghịch hoặc nguỵ trá nội dung đều gợi cho tôi một cảm giác kinh sợ gần như thế.
Họ cùng ngồi xuống. Trời lạnh, nhưng đối với những người thích uống bia, đó vẫn là thời tiết đáng thú vị. Tổng biên tập gọi một đứa bé bán lạp xường và mực nướng rong ngoài phố vào mua. Cô nhân viên phục vụ bưng tới trước mặt họ bốn vại bia, đặt xuống bàn như người đổ cảm vào máng lợn khiến bia sánh ra ngoài. Hai người đàn ông đưa mắt nhìn nhau, khẽ lắc đầu. Rồi họ im lặng uống, không nói thêm lời nào nữa. Ngoài sân, lác đác những khách dự hội nghị đang tới, kẻ lúi húi khoá xe, người thủng thẳng dạo quanh khuôn viên trước phòng họp. Tổng biên tập nhìn Nguyên:
- Dạo này cậu uống khá hơn trước. Không thấy mặt đỏ lên chút nào.
- Vâng.
Nguyên gật đầu xác nhận.
- Trời lạnh thật.
Tổng biên tập chuyển đề tài đột ngột. Trong lúc Nguyên đang thầm nghĩ về điều đó, chợt ông gọi tên anh:
- Nguyên này.
- Anh bảo gì ạ?
Sau cặp kính cận bốn điốp, mắt người đàn ông đã lớn tuổi chợt hiện lên vẻ bối rối:
- Cậu... cậu biết chứ?
Nguyên không trả lời, im lặng chờ đợi. Và ông nói tiếp:
- Lâu nay, người ta xì xào về quan hệ của cậu với cô Ngọc Minh. Thậm chí, có người còn tới chất vấn tôi. Những người ấy, tôi biết họ kèn cựa với cậu. Tôi đã trả lời họ với thái độ cứng rắn rằng giờ đây các đoàn thể và các tổ chức chính quyền không còn được phép can thiệp thô bạo vào đời sống riêng của mỗi cá nhân. Tôi đã yêu cầu họ dẹp đi thói tò mò và thói quen tự cho mình có quyền thọc múi vào mọi chuyện... Nhưng chỗ thân tình...
Ông ngừng lại, hẳn là để chọn ngôn từ và tính toán lần cuối những điều định nói. Nguyên tiếp tục rít thuốc, lặng lẽ chờ.
- Tại sao cậu lại chọn... một người... mà...
Ông ngừng lời, lúng túng. Mắt ông đuổi theo đám lá khô bị gió lù trên con đường rải sỏi chạy giữa khuôn viên. Con đường ấy dẫn tới một ngôi nhà hai tầng cổ kính, có những bồn hoa đỗ quyên đỏ rực. Hàng cột trơn phía trước tương xứng với mái đỡ và các đường gờ trang trí. Một rèm hoa tigôn rủ phía trên. Các cánh cửa kính ánh lên mờ mờ dưới tia sáng trắng của ngày đông. Toàn bộ ngôi nhà toát lên vẻ đẹp u hoài. Nó khiến ta nhớ tới tất cả những gì tươi đẹp trong quá vãng đồng thời lại khiến ta thấy vẻ đẹp ấy đã xa xôi và quá mong manh. Tựa hồ chiếc màng nhện óng ánh sương buổi sớm. Tựa hồ ráng mây rực rỡ lúc hoàng hôn... Có lẽ, ý tưởng ấy khiến tổng biên tập trầm ngâm. Sau rốt, ông nhìn thẳng vào mắt Nguyên và hỏi:
- Tại sao nhỉ, tôi nghĩ rằng người như cậu sẽ cần thiết một mẫu người đàn bà khác. Bỏ qua chuyện cậu và cô Linh vẫn còn ràng buộc về pháp lý. Điều đó, với những đầu óc thực tiễn, nó không ăn nhằm gì... Nhưng cậu không thể kiên nhẫn thêm chút nữa hay sao? Tôi vẫn nhớ câu châm ngôn của Pháp: "Ai uống nhanh sẽ trả chậm"... Cậu hiểu điều ấy không?...
Nguyên ném mẩu thuốc vào sọt đựng rác vụn trong góc nhà. Anh lại rút điếu thuốc khác, tiếp tục đốt. Bây giờ tới lượt tổng biên tập đợi chờ. Ông không hút thuốc mà uống bia, hết ngụm này đến ngụm khác, đĩa đồ nhắm vơi dần. Sau hồi lâu, Nguyên ngẩng lên. Và anh trả lời ông:
- Tôi cảm ơn sự quan tâm của anh. Nhưng chính tôi, tôi cũng chẳng hiểu vì sao cơ sự lại như thế. Có lẽ, bởi cơn say tai hại hôm ở khách sạn về. Và có lẽ, bởi... bởi...
Tổng biên tập ngắt lời:
- Thôi được, tôi hỏi cậu điều này: Liệu rồi mọi sự có ổn hay không?
Nguyên nhếch môi cười:
- Tôi làm sao mà biết được?
Tiếng chuông điện vang lên trong loa phóng thanh gọi họ vào phòng họp. Lúc ngồi xuống ghế, Nguyên bất giác thở dài và nói thêm:
- Nhưng anh có hiểu được không?... Tôi, tôi cũng chẳng sung sướng gì...
Nguyên trả lời trung thực. Anh đã đánh mất những phút giây vui thú trong cuộc sống chung với cô Ngọc Minh quá mau. Sáng hôm đầu tiên thức dậy, Nguyên định gọi dây nói cho báo nhưng anh chóng mặt ngã gục xuống giường. Lúc ấy Ngọc Minh hét lên:
- Chết thật làm sao thế này?...
Trong cơn choáng váng nhưng Nguyên vẫn nhận ra trong tiếng kêu kinh hoàng ấy có nỗi lo âu ngàn đời của kẻ làm vợ dành cho kẻ làm chồng. Anh cảm động. Ngọc Minh ghé sát lại nghe tim Nguyên. Bộ ngực ấm nồng nàn của cô tì sát lên anh và Nguyên lại thấy sự gần gũi ấy tự nhiên, dường như đã diễn ra cả đời người. Anh thư thái dù còn rất mệt. Cô đã gọi điện thoại cho tổng biên tập báo rồi xăng xái cho anh uống thuốc, chườm nước nóng. Không kịp phấn son, cô chải sơ dăm nhát lược cho tóc đỡ rối để đi mua cháo tim gan tía tô hành cho anh ăn giải cảm. Cô đỡ lưng cho anh ân cần như người mẹ chăm sóc con. Cô buộc anh phải uống đủ các loại thuốc bổ cần thiết. Cô gọi y tá tới tiêm trợ sức cho anh... Anh trở nên yếu mềm, nhỏ bé trong cơn đau ốm. Và lúc ấy, anh nhận ra vẻ đẹp trong con người cô, sự bao dung, rộng rãi, tính khoáng hoạt trong các mối giao tiếp cùng sự chân thành... Xét cho cùng, cô tốt bụng, tận tâm với bè bạn và có những nét hồn nhiên tươi mát mà những người đàn bà khác thiếu kém. Khi Nguyên bình phục, Ngọc Minh không tiếc tiền chợ. Cô mua đủ thứ bổ béo với cái dạ dày của người đàn ông đang ở tuổi ba mươi:
- Em xào thịt bò với hành tây cho anh ăn nhé. Còn canh, anh có thích canh sườn nấu dấm không. Canh cua cũng ngon nhưng em ngại lắm. Nếu anh thích canh cua ta rủ nhau ra hàng bún riêu là thượng sách...
- Anh ăn thịt quay chán rồi hả? Em mua thịt chó nhé. Rượu, thịt chó là món em khoái nấht. Đứa nào không biết ăn thịt chó thật là ngu. Ngay bọn sư sãi trọc đầu trong chùa mà cũng còn kêu riềng mẻ vụng nữa là...
Anh đã cố quen với một nếp sống hoàn toàn khác biệt với anh. Vốn là người mực thước, anh chưa bao giờ chịu đựng cảnh chè chén say sưa từ chập tối tới thâu đêm, cảnh những người đàn ông say rượu nôn thốc nôn tháo lên sàn, những câu chuyện bốc trời, những trận cười lở đất của họ, cái cách thức họ mạt sát nhau rồi lại hỉ hạ bắt tay trước một ly rượu... Anh đã cố quen với cả cách ăn uống của cô. Bữa cô ép anh ăn toàn thịt chó với rượu. Bữa cô rủ anh ăn bánh rán trừ cơm vì ngại nấu. Bữa hết tiền chợ, cô rủ ảnh tới quán phở quen ăn chịu... Tất cả những điều đó chỉ có thể thú vị khi nó diễn ra lần thứ nhất, nó còn khả dĩ chịu được trong lần thứ hai, thứ ba, thứ tư... Nhưng đã tới lần thứ chín, thứ mười nó sẽ biến đời sống gia đình thành địa ngục. Cô Ngọc Minh cũng lờ mờ cảm thấy cách sống của cô trái ngược với anh nê kìm bớt các sở thích riêng. Nhưng ngày một, ngày hai, các sở thích đó lại trồi lên như cây kim nhọn giấu dưới lần vải mỏng. Những sở thích xưa nay hoàn toàn ngự trị đời sống của cô. Chúng đòi cô trả lại quyền hành: Tại sao phải hy sinh rất nhiều thú vui quen thuộc để gìn giữ một người đàn ông trong khi cô có thể có nhièu người đàn ông khác?... Những buổi tiệc tùng xưa kia mới thật sự đem lại nguồn sinh lực và khả năng hoạt động cho cô. Hàng chục người đàn ông thuộc các nghề nghiệp khác nhau cùng xúm xít quanh mâm rượu. Ở đó, cô là bà chúa duy nhất của họ. Cô rót rượu, thứ lửa nóng khiên cho bất kf anh đàn ông nào cũng đinh ninh tin rằng mình là bậc quân tử hoặc đấng hào kiệt trong cõi đời. Họ ca ngợi trí óc sắc sảo của cô, họ tán tụng những ý tưởng tân kỳ của cô, so sánh chúng với những ý tưởng cao siêu nhất của thời đại. Những câu chuyện của họ khiến cô thu nhận được nhiều nguồn thông tin mà chẳng cần mất thời gian đọc sách hoặc tìm tư liệu. Sống cuộc sống ấy, cô đâu cần dằn mình xuống, khép bớt các thú vui để lao vào công việc cần mẫn như Nguyên? Không lẽ, khi anh ngồi đọc trước bàn, cô lại rủ bạn tới uống rượu hoặc tới quán cà phê nghe nhạc?... Không không... có không có cái thú nghe nhạc trong phòng riêng. Cô muốn nghe nhạc ở các công viên hoặc các tiệm quán đông người. Ngay cả những phút cần yên tĩnh nhất cô cũng thích ném nó vào những khu vực náo động nhất của đời sống. Trong huyết mạch của cô, có một dòng máu cuồng nhiệt chảy, đòi hỏi sự náo loạn căng thẳng của âm thanh, màu sắc với ánh sáng... Nhưng trong tim anh, lại là dòng máu khác...
Một chiều thứ bảy, Nguyên trở lại căn phòng của anh. Lúc leo lên cầu thang, anh gặp giáo sư Lê đi xuống:
- Anh bạn, lâu quá không gặp anh.
Ông nói, tay đung đưa chiếc xô.
- Vâng
Nguyên đáp, tay cầm chiếc xô cho ông già và hỏi:
- Nước không lên được tầng trên hay sao?
- Từ chiều hôm kia tới giờ, không có mọt giọt nước nào – Giáo sư Lê đáp. Hai người cùng xuống sân để lấy nước. Nguyên bảo:
- Giáo sư để tôi xách cho.
- Hôm nay tôi rảnh, cậu ở chơi nhé?
Ông già hỏi, vẻ như nài nỉ. Nguyên gật đầu đáp lại. Anh xách xô nước đem thẳng vào phòng tắm cho ông già rồi mới bước vào gian phòng chính. Tuy cùng ở một ngôi nhà, nhưng đây là lần thứ ba Nguyên tới thăm ông. Không có gì thay đổi so với hai lần anh tới trước. Những dây vạn niên thanh già cỗi leo quanh khuôn cửa sổ và áp vào tầng mái. Một chiếc giường khung đồng cổ lỗ có giá treo màn tròn. Chiếc bàn làm việc đồ sộ, bóng và đen như sừng trâu mài nhẵn. Trên bàn, hai bình mực thuỷ tinh: một bình mực đen, một bình mực đỏ. Bảng thời niên biểu treo phía trước. Một cành hoa tuylíp bằng thuỷ tinh hồng đặt bên những cục đá chặn giấy hình thù kì dị.
- Anh uống chút cà phê nhé?
Giáo sư hỏi và không chờ anh trả lời, đặt chiếc phin cà phê bạc lên miệng cốc. Có lẽ chiếc phin cà phê này là thứ đồ quý và tinh xảo nhất trong nhà ông. Giáo sư đổ càphê, chặn nắp với một động tác thành thục rồi chế nước. Sau khi đã đậy nắp trên, ông dội nước vào một chiếc thau sứ lớn rồi đặt cốc vào đó. Nguyên ngắm ông, thầm nghĩ:
"Ông già đã sống như thế này từ tuổi hai mươi. Ngày nọ tiếp ngày kia, tháng này qua tháng khác. Hàng vạn vạn khoảnh khắc trôi qua, ông ngắm bảng thời niên biểu này, những dây vạn niên thanh già cỗi kia, cái giường cổ lỗ, bàn làm việc với bông hoa thuỷ tinh giá lạnh và những cục đá chặn giấy. Đúng là đời sống của một bậc tu hành".
- Anh uống đi cho nóng. Thứ cà phê này người ta gửi từ Buôn Ma Thuật ra cho tôi.
Ông đặt cốc cà phê ngâm trong thấu nước nóng với bình đựng đường trước mặt Nguyên, rồi ông ngồi xuống ghế đối diện châm một điếu thuốc.
- Sáng tôi đã uống một tách đặc rồi, xin kiếu anh.
Ông nói tiếp sau khi nhả một hơi khói. Mùi cà phê thơm ngát lẫn khói thuốc khiến Nguyên dễ chịu. Anh nói:
- Tôi thèm khát cuộc sống của giáo sư. Nhưng có lẽ, chúng tôi không đủ can đảm để sống cuộc sống ấy. Chúng tôi chỉ là những kẻ tầm thường.
- Ấy chớ…
Ông già giơ tay ngăn, không cho Nguyên nói tiếp.
- Đừng nói những lời lẽ ấy, anh bạn.
- Tôi là người thành thực, theo đúng nghĩa của chúng ta thường hiểu. Xin giáo sư tin rằng tôi không có ý định tâng bốc hay phỉnh nịnh giáo sư.
Nguyên đáp.
- Không – Giáo sư Lê lắc đầu: - Tôi không có ý nghĩ rằng anh ve vuốt tôi, những người tự chọn cho mình một cuộc đời khác biệt với đám đông chính vì chúng rôi bị ràng buộc bởi những niềm say mê khác biệt với đám đông. Đừng thần thánh hoá điều đó. Vả chăng, con người có những nhu cầu rất khác nhau trong cuộc tồn sinh. Trước mắt mọi người, chắc chắn tôi là một kẻ quái dị. Một gã phù thuỷ suốt ngày chúi mũi vào những con số, quanh năm hít bụi sách và lẩm nhẩm những điều không ai thèm quan tâm. Người ta, những người sống một đời sống dung dị thường ao ước một mái nhà, một người vợ đẹp, những đứa con ngoan và những tiện nghi vật chất. Đừng coi thường sở thích của họ. Ngoài phần đóng góp cho xã hội, con người có quyền tìm cho mình một đời sống tốt đẹp hơn.
- Vâng, tôi có phủ nhận điều ấy đâu?... Nhưng tôi muốn nói rằng chính nhờ những người như giáo sư mà nền văn minh nhân loại hay của một quốc gia được thúc đẩy.
- Đấy là nhiệm vụ của chúng ta, anh bạn ạ. Bất cứ kẻ sĩ nào cũng chỉ tồn tại trên cõi đời bằng niềm vui thú cỏn con ấy thôi. Khi không còn nó nữa, cuộc đời chúng ta nghèo nàn hơn cuộc đời một anh chủ tiệm tạp hoá mười lần.
- Thưa giáo sư, chẳng có một ông chủ tiệm tạp hoá hàng Đào nào bằng lòng đánh đổi cuộc sống của ông ta và những vinh quang của giáo sư đâu?
- A, tất nhiên, tất nhiên…
Ông già đáp, thoạt tiên với chút ngỡ ngàng, và sau đó với nụ cười ẩn dưới hàng ria mép:
- Tôi hiểu điều trớ trêu đó. Nhưng phàm đã là kẻ trưởng thành, không được phàn nàn sự lựa chọn của chính mình. Chỉ có những đứa bé mới phàn nàn rằng nó trót cầm nhầm phần bánh nhỏ.
Hàm răng ám khói thuốc của giáo sư trông thật dễ thương. Khi ông cười, chất hóm hỉnh trong con người ông hoàn toàn bộc lộ. Ông hài lòng cuộc sống của chính ông. Còn anh, chênh vênh trên một cây cầu tre không tay vịn. Bất giác, Nguyên buông tiếng thở dài:
- Sao vậy?
Giáo sư Lê đưa mắt nhìn anh, hỏi:
- Lâu nay anh vắng nhà, có điều gì bất an chăng?
Nguyên đắn đo vài giây, rồi không nhìn ông, anh nói:
- Tôi muốn hỏi giáo sư… đây chỉ là một chuyện riêng tư…
Ông già gạt tàn thuốc vào bình, gật đầu:
- Tôi rất sẵn lòng, nếu được anh tin cậy.
Nguyên nói:
- Người ta có thể hoàn toàn phá bỏ những nguyên tắc đời sống của chính mình để gia nhập vào một cuộc đời trái ngược với họ không?
Giáo sư Lê không trả lời ngay. Ông rút từng hơi thuốc dài, thong thả nhả khói. Rồi khi đã hút hết điếu thuốc, ông ném mẩu đót lọc vào bình và đáp:
- Tôi không thể trả lời anh cụ thể điều nào đó trong cuộc sống gia đình. Nhưng tôi có thể nói với anh những nguyên lý chung: con người vĩ đại khi họ đặt ra những nguyên tắc, nhưng họ còn vĩ đại hơn khi phá bỏ chính những nguyên tắc đó. Cũng giống như những kẻ đi đường, trong hành trình tư duy. Cột mốc số chín mươi chín là lý tưởng khi họ đang ở cây số chín mươi tám, nhưng nó cũng chính là điều cần phế bỏ khi muốn đi đến cây số thứ một trăm. Nhân loại được đẩy lên phía trước chính nhờ những khát vọng không ngừng dập xoá hiện tại và xây cất lâu đài tương lai. Ở đây, tôi không nhắc tới chủ nghĩa phủ định sạch trơn mà chúng ta đã biết từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Ấy là một lỗi lầm của thời thơ dại.
Ông ngừng lại, ho khan vài tiếng rồi nói tiếp:
- Bởi thế, việc từ bỏ quan niệm này, hình thành quan niệm kia trong đời sống là chuyện bình thường. Nhưng tôi chỉ lưu ý anh rằng mọi sự đổi thay ấy phải dựa trên những nguyên tắc an toàn xã hội. Con người là sinh vật xã hội và nó không thể tồn tại với tư cách con thú ăn lẻ trên sa mạc. Những đổi thay ý tưởng của con người chỉ được chấp nhận khi nó tạo cho họ nhiều điều kiện thuận lợi hơn để sống cho chính họ và cho cả cộng đồng. Tất cả những phá vỡ không dựa trên nguyên tắc đó là sự thoả mãn các dục vọng cá nhân riêng biệt và thấp kém. Anh có quyền hút thuốc, nhưng chớ ném cháy kho xang nhà người khác, anh có quyền ăn cam nhưng chớ hái cam ở vườn hàng xóm đem về...
Ông châm điếu thuốc nữa, nghiêng đầu nhìn Nguyên:
- Tôi chẳng có điều gì hay ho hơn để nói với anh đâu. Tôi là kẻ độc thân. Trong con người tôi, mất hẳn cái phần sống bình thường của nhân loại. Về phương diện ấy, tôi hoàn toàn không kinh nghiệm, nói cho đúng hơn – hoàn toàn là một gã mù loà...
Họ chuyển sang nói chuyện về tình hình trong nước và ngọn lửa sôi sục ở Trung Cận Đông.
Nửa giờ sau, Nguyên về phòng mở cửa, làn gió nhẹ lùa hơi lạnh vào mặt anh. Một lớp bụi mỏng phủ lên mọi đồ vật và làn hơi băng giá của những kỉ niệm cũ khiến người đàn ông nhức nhối. Anh đi đi lại lại trong phòng. Trên những viên gạch lát, hiện lên bàn chân thon nhỏ dưới ống quần màu hoàng yến. Đầu cô nghiêng nghiêng khi cô kéo tấm rèm che cửa sổ. Những bông cẩm chướng tươi rói trong bình, rồi chúng úa tàn và rụng từng cánh… Tình yêu ấy đuổi theo mãi, chẳng buông tha anh. Lâu nay, Nguyên tưởng rằng đã quên được nó. Anh giao du với nhiều người đàn ông. Học có thể yêu người này trong vài tuần rồi lại yêu người khác trong vài tuần sau với cùng một niềm say mê như thế. Rồi vài tháng sau đó nữa, trí nhớ họ đã rũ sạch hình ảnh của các mối tình ấy như người ta rũ tấm áo mưa hay tàu lá chuối. Những người đàn ông ấy sung sướng làm sao ?... Còn anh, anh đã bị trói chặt vào một say mê duy nhất. Anh hiểu rằng anh sẽ còn phải khổ đau.
Giáo sư Lê nói gì ?... Anh có quyền hút thuốc nhưng chớ ném cháy kho xăng người khác. Anh có quyền ăn cam nhưng chớ sang vườn hàng xóm hái cam… Ông cụ sống đời sống độc thân, ông cũng ngớ ngẩn trong quan hệ gia đình. Bi kịch của mình không rơi vào điều giáo sư đã nói. Hoàn toàn không có vấn đề an toàn xã hội và đạo đức ở đây, cô Ngọc Minh không phải là trái cam trong vườn ai cả…
Nguyên suy nghĩ, và anh thấy bất lực vì anh thiếu khả năng biến đổi. Sau quãng thời gian cô đơn, trong những ngày đầu sống với Ngọc Minh, anh đã tưởng mình hạnh phúc. Anh đã luôn luôn có ý thức gạt bỏ những thói quen, những cảm xúc thẩm mỹ cũ để tìm cảm giác thoải mái trong cuộc sống chung. Nguyên hoà nhập vào những buổi chè chén, những buổi rong chơi, những tối lang thang dọc phố xá… Anh đã quen nghe tiếng cười ồn ã của cô, quen nhìn cô thay áo giữa căn phòng mở cửa toang hoang, trần như nhộng và hồn nhiên như đứa bé. Anh cũng đã quen với cách huýt sao ngay giữa trưa hoặc đêm hôm khuya khuắt khi cô nổi hứng. Anh cũng đã tìm được vẻ đẹp mát mẻ lúc cô cười nhận lỗi trước bất kì người hàng xóm nào tới gõ cửa phản đối cô gây ồn ào. Anh biết cô tốt bụng, hào phóng với tất cả mọi người. Giá cô là triệu phú, hẳn cô sẽ ban phát nửa gia tài cho những kẻ khốn khó. Gặp người hoạn nạn, cô có thể cho họ đồng bạc cuối cùng để buổi trưa vác bát sang nhà hàng xóm xin ít dưa về ăn cơm. Ngoại trừ những điều ấy, cô là một phóng viên khá sắc sảo tuy khiến thức không toàn diện và sâu sắc, cảm hứng đồng điệu trong công việc cũng là một mối dây khá chặt chẽ thắt buộc họ…
Tuy nhiên, vào một buổi sáng, Nguyên đang ngồi sửa bài, Minh đang đi chợ, chợt một cái đầu hói với mớ tóc giả chấm vai ló vào :
- Cưng ơi i i…
Nguyên ngẩng lên, và bắt gặp một người đàn ông trạc ngoại ngũ tuần. Ông ta cũng vừa thấy Nguyên, cười ngượng nghịu:
- Xin lỗi anh, cô Minh có nhà không ạ?
Nguyên đứng dậy:
- Mời anh ngồi chơi. Minh đi chợ. Cô ấy sẽ về ngay bây giờ.
Ông khách ngồi xuống ghế. Nguyên rót nước mời. Người đàn ông vừa ống trà vừa liếc nhìn Nguyên:
- Chè của anh ngon quá... Hôm nay trời lạnh ghê...
Đôi mắt nhỏ tinh ranh của ông ta lục lọi khắp căn phòng. Đây là cái nhìn của một chủ nhân cũ. Mọi đồ vật đã phơi bày trước mắt người đàn ông xa lạ ấy với cái diện mạo mà nó phải có. Bức tranh ấn tượng, ngọn đèn mờ, cái giá áo có những móc gỗ xiên lệch đang treo đầy áo rét của Ngọc Minh và chiếc bludông của Nguyên. Cái nhìn của vị khách bao hàm ý nghĩ:
“Tất cả đã từng là vật quen thuộc của tớ. Nơi đằng ấy móc chiếc bludông kia trước tớ treo cái áo lông”.
Ngăn tủ kính của cô phóng viên lộn xộn những hộp đựng trà, hộp đựng phấn rôm, vỏ hộp bánh qui và kẹo ngoại quốc... Người khách cũng để mắt tới cả những vật đó nữa, với vẻ tọc mạch kín đáo. Rồi ông ta rút thuốc lá ra:
- Xin anh chút lửa, anh có hút thứ này không?
- Cảm ơn.
Nguyên đáp tự nhiên:
- Dạo này tôi bị ho nên phải ngừng hút.
Lúc đó, Ngọc Minh về. Tiếng cười lanh lản của cô vang từ ngoài sân:
- A, chiếc Honđa ghẻ của anh Đức đây rồi. Tưởng đi Tây về phải thay nó đi chứ?
Cô bước vào, chào vồn vã. Người đàn ông chìa tay, mắt sáng lên:
- Chào Ngọc Minh.
Ông ta ghìm giữ một cử chỉ nào đó. Nguyên không xác định nhưng anh đoán biết được. Anh đi tới mắc áo, lấy chiếc bludông:
- Minh ở nhà một lát tiếp khách, anh sang cửa hàng.
- Ờ, ờ, anh đi đi. – Cô gái gật đầu tán đồng rất nhanh với niềm vui không che đậy. – Nhưng chỉ một giờ là cùng đấy nhé.
Khi Nguyên chưa bước ra khuôn cửa, cô đã bảo người đàn ông:
- Ngồi xuống đây với em, kể chuyện chuyến đi xem nào...
- Khe khẽ cưng...
Anh nghe người đàn ông thì thào: “Khe khẽ chứ, rồi anh sẽ kể mọi chuyện cho cưng nghe..”
Hôm ấy, Nguyên đi thẳng tới toà báo. Anh làm việc cho tới chiều mới về. Minh trách:
- Anh phải ăn cơm nguội đi, còn quá nửa nồi đây này.
Nguyên lẳng lặng thay quần áo rồi ngồi vào ăn cơm. Trong con người anh, vốn dư thừa tính nhẫn nại. Vào buổi tối, họ uống chè đường thả lát chanh tươi theo kiểu Nga. Từ ngày được đi Nga tham quan, Ngọc Minh rất chuộng kiểu uống chè ấy. Thấy anh ngồi im, cô láu táu kể chuyện:
- Sớm nay tay Đức kể toàn chuyện thú vị. Kể ra thỉnh thoảng cũng phải ra ngoài một chuyến mới biết trên địa cầu người ta sống ra sao. Nước mình là cái xó kín bưng, bất cứ nguồn tin nào tới được cũng đã thành lạc hậu. Anh có biết rằng...
Cô lần lượt nhắc lại những chuyện vặt thu lượm dọc chuếyn đi của người đàn ông kia. Biết mình im lặng quá lâu sẽ khiến Minh chạnh lòng nên anh hỏi:
- Ông ta làm gì vậy?
- Tay Đức ấy à ?... Chuyên viên sinh học loại sừng sỏ nhất ở nước mình. Một trong những người cự phách nhất về lý thuyết Sinh – Hoá.
Cô ta tặc lưỡi, gật gù :
- Thông minh thật, lão ấy cực thông minh.
Sau đó, cô cất tiếng cười : - ôi trời, tay bồ là sếp viện khoa học của em lạ thật. Anh có biết hôm nay lão tới đây có việc gì không ? Lão tới xin lại cái máy xay sinh tố đã tặng em từ năm kia, năm kìa : "Bây giờ con gái anh sắp sinh cháu nhỏ, anh cần xin lại máy để xay bột và trái cây cho nó…" Nghe có thủm không cơ chứ?... Em bảo lão rằng có tìm cả đời cũng không thấy được. Hai ba năm trời, một chứ một trăm chiếc máy tôi cũng đã bán ăn hết. Tôi còn đủ hai hàm răng, giữ thứ đó làm quỷ gì cho chật nhà.. Em nói xong, lão không còn hào hứng trò chuyện gì hết, tiu nghỉu ra về…
Cô ngừng lời, cúi xuống rót trà. Anh nhìn thấy những nếp nhăn nhỏ trên trán cô và anh buồn rũ rượi. Buồn cho cô, hay cho anh ?... Nguyên không phân biệt được rạch ròi, nhưng anh biết rằng cảm giác buồn tủi và trớ trêu khiến anh thấy đất dưới chân mình đang sụt lở. Đêm ấy, Nguyên trằn trọc. Dưới ánh đèn xanh mờ, anh ngắm nhìn cái khung cảnh mà anh đã sống nửa mùa đông qua. Bức tranh ấn tượng treo xiên lệch câu thả ngay dưới chân giường. Những đống sách vở và những tấm áo, manh quần treo khắp nơi. Tất cả gợi ta nhớ đến một quán trọ tồi. Mọi thứ đều tạm bợ, thiếu ngăn nắp và bụi bặm, khiến người ta không thể yên tâm. Một khách sạn tốt là một khách sạn gợi cho lữ khách cảm giác thân thuộc ngay từ phút đầu. Nhưng ở gian phòng của Ngọc Minh, người ta luôn nghĩ rằng sớm mai sẽ phải xách valy ra đi. Nơi đây là tạm trú chân giữa hai cuộc hành trình. Nơi đây, người ta chỉ có thể ngủ giấc ngủ chập chơn, vội vã và mệt mỏi như giấc ngủ bụi bặm trên các tuyến tàu chợ… Kia, hai chiếc sơ mi trắng vắt trên thành ghế. Hệt như đêm đầu tiên anh sa vào chiếc giường của cô vì cơn say không lường trước… Không, không… người đàn bà như cô sinh ra không để gắn bó với riêng ai. Nếu cô tái giá tới lần thứ mười, sau đó cô sẽ sống một thân trong cái lữ quán này. Đời sống gia đình bao giờ cũng dựa trên một mối liên kết. Mối liên kết ấy tuỳ thuộc vào hai cá nhân. Nhưng đối với Ngọc Minh, sẽ không tồn tại bất cứ mối liên kết nào, cho dù đấy là mối liên kết lỏng lẻo nhất, tháo gỡ dễ dàng và tự do nhất… Phải chăng, cô là đứa con của một kiếp sống hoang dã. Chính vào giây phút ấy, Nguyên biết anh sẽ phải ra đi. Anh bỗng thương người đàn bà đã từng chung chăn chung gối. Anh chống cùi tay, nhỏm lên nhìn Minh. Cô ngủ say, gương mặt đắm trong làn ánh sáng nhờ nhợt. Không xinh đẹp nhưng cũng tạm ưa nhìn. Anh nhớ tới nụ cười hồn nhiên của cô, những cử chỉ ta chỉ có thể tìm ở những đứa bé lên mười. Anh kiểm lại tất cả các tính tốt cô đã có… Nhưng sau mọi đắn đo, suy tính ấy, anh vẫn thấy gương mặt cô xa lạ như hình ảnh nào đó đang trôi dạt tít tắp bờ nước bên kia. Dường như chuỗi ngày họ vừa chung sống đã tan thành bọt sóng.
Sáng hôm sau, khi Minh thức dậy, anh đã đi làm. Cô làu bàu:
- Tay này “lên” thật.
Trưa, Minh nấu cơm đoàng hoàng. Nguyên định gọi điện thoại báo cho Minh biết anh không về nữa nhưng lòng trắc ẩn khiến cho anh lại phải buông máy xuống. Anh còn nghe tiếng cô càu nhàu ở đầu dây đằng kia, rồi cô liến láu đôi co với anh chàng nào đó tới kiện tụng bài viết. Vào giờ tan tầm, đôi chân đưa anh về nhà cô theo thói quen:
- Hôm nay anh chập mạch hay sao mà gọi điện thoại ỡm ờ hàng tiếng đồng hồ thế hả?
Cô trách cứ khi vừa thấy mặt Nguyên rồi giục anh rửa mặt ăn cơm. Cơm xong, Nguyên thu dọn mâm bát, Ngọc Minh đã tót lên giường nghỉ trưa.
- Uống nước rồi đi nghỉ, mau lên anh.
Cô gọi, giọng ân cần bình thản như mọi người vợ trẻ gọi chồng. Nguyên nhìn cô, chợt thấy mình ngần ngại.
“Tại sao, tại sao?”
Anh đi loanh quanh trong phòng, không thể lý giải được trạng thái hoang mang đang xâm chiếm toàn thân mình.
Chiều, Nguyên bảo Minh rằng anh phải ngủ lại toàn báo để lo bài đặc biệt cho tập san. Kỳ thực, anh rủ ông già thường trực đi uống bia tới gần mười giờ đêm, rồi ghé vào căn phòng nhỏ của ông, chiu vào tấm chăn nồng nặc mùi dầu xoa và mồ hôi lưu cữu của người già. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà mình, với tam trạng của người dân miền đồng bằng sau một chuyến đi biển, sau những trận nôn mửa kinh hoàng, lại được đặt chân lên mặt đất liền. Nguyên đã bỏ ra cả một buổi chiều để lau rửa nhà cửa, cốc chén, giũ đạp chăn màn, giường chiếu, quét mạng nhện trong các góc nhà, giặt các tấm khăn trải giường và rèm che. Khi tất cả đã sạch sẽ, anh tắm gội rồi tự nấu cho mình một bữa cơm sang trọng để thết mình: Giò chả, nộm, nem chua mua ở cửa hàng quen phố Hàng Bông. Dưa chua, Nguyên vác bát sang phố bên cạnh, Tối hôm đó, Nguyên lặng lẽ ngồi ăn cơm. Cái bóng đơn lẻ của anh in xuống nền đá hoa. Anh nhìn nó và tự bảo mình: “Dẫu sao, đây mới chính là mái nhà mình. Con chim có tổ, con chồn có hang, con người phải có mái nhà của chính họ. Loài chim không ở được hang chồn cáo, và mình cũng không thể sống dưới mái nhà cô Ngọc Minh”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét