Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

BÍ ẨN VỀ QUYỀN LỰC VÀ TÌNH ÁI CỦA HỒ CHÍ MINH

Trần Viết Đại Hưng
LTS: Dưới đây là bài viết khởi đầu của cuốn sách biên khảo "Bí Ẩn Về Quyền Lực và Tình Ái Của Hồ Chí Minh," một cuốn sách mà tác giả Trần Viết Đại Hưng đã công phu sưu tập các tài liệu mới khai quật về cuộc đời ông Hồ. Bài giới thiệu sách như sau.
 Trong mấy chục năm nay, guồng máy tuyên truyền của Hà Nội đã làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới nghĩ về ông Hồ chí Minh như một ông thánh sống, suốt đời hy sinh cho nước cho non nên không lập gia đình và quyền uy, quyền lực của ông coi như tuyệt đối trong chức vu. Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước.
Nhưng cuộc đời người ta vẫn thường nói, " Thấy vậy mà không phải vậy." Đúng vậy, dần dà qua năm tháng, qua những khám phá của những nhà báo, nhà nghiên cứu, người ta mới thấy về đời sống tình cảm cá nhân, ông Hồ không những có một vợ mà có đến mấy vợ, con rơi con rớt tùm lum! Nông đức Mạnh và Nguyễn tất Trung là hai đứa con rơi mà ông Hồ chưa dám nhận là cha vì guồng máy độc ác không cho ông làm chuyện đạo đức ấy. Nhưng phụ tử tình thâm, chắc ông cũng đau đớn buồn khổ vì tình trạng không được công khai nhìn nhận con.

 Đạo đức cách mạng của chế đô. Cộng sản thật là quái đản, nó trộn một chút đạo đức phong kiến lẫn một chút đạo đức Mác Lê và trở nên một thứ hổ lốn vô luân lý khó coi, có tác dụng tiêu hủy những tình cảm thiêng liêng của gia đình. Ông Hồ bị buộc phải đóng vai một ông thánh đạo đức, không được gần gũi đàn bà dù ông là người có cuộc sống nhục dục bình thường của một người đàn ông. Về quyền lực chính trị thì những tài liệu mới tìm được của những học giả Mỹ như Tiến sĩ Sophie Quinn - Judge và nhà sử học Pháp Pierre Brocheux cho thấy ngay từ lúc thành lập Đảng, ông Hồ đã bị phê phán nặng nề và do đó ông đã không nắm vai trò chủ động trong việc điều hành và lèo lái Đảng theo ý muốn. Ông bị Quốc Tế Cộng Sản chế tài quyền lực lãnh đạo. Khi đến cuối đời thì sự nghiệp chính trị của ông còn thê thảm hơn nữa. Ông hoàn toàn bị nhóm Lê Duẩn - Lê đức Thọ tước hết quyền lực, biến ông thành một biểu tượng cho Duẩn - Thọ sử dụng vào mục đích tham vọng chính trị riêng của phe nhóm họ.
 Dĩ nhiên là có nguyên nhân sâu kín mà các học giả ngoại quốc dù bỏ ra cả chục năm để nghiên cứu về Hồ cũng chưa tìm ra câu trả lời rốt ráo cho vấn đề ông Hồ bị thất sũng này. Cuốn sách này dựa trên chúc thư thật của ông Hồ đã phần nào giải thích nguyên nhân ông bị tước mất quyền lực là vì ông đã liên lạc với chính quyền Ngô đình Diệm ở miền Nam, cụ thể nhất là ông đã gửi cành đào tặng cho ông Diệm qua ủy hội quốc tế vào dịp xuân 1963. Quốc Tế Cộng Sản đã cho phép Lê Duẩn và Lê đức Thọ tước quyền Hồ chí Minh vì tội thỏa hiệp với chính quyền miền Nam. Đó là cách giải thích hợp tình, hợp lý nguyên nhân ông Hồ bị mất quyền lực vào lúc cuối đời.

Về đời sống cá nhân gia đình cha mẹ anh em, có nhiều người phê phán ông là loại người ăn ở bạc bẽo với ông anh tên Đạt và bà chị tên Thanh. Khi ông Đạt mất, ông Hồ viện cớ đang lãnh đạo kháng chiến vì thế không về dự đám tang. Tuy nhiên sau này có người tìm ra bức thư ông viết trong thời gian lưu lạc ở Pháp cho nhà cầm quyền Pháp yêu cầu xin được gửi chút tiền về cho cha ông là Nguyễn sinh Huy đang ở Việt Nam. Xem thế thì ông không phải là người không nghĩ đến phúc lợi của cha ông. Lá thư này được các nhà nghiên cứu tìm thấy trong văn khố Pháp.

Về đời sống tình cảm cá nhân, sau khi phải rời xa người vợ Trung Quốc Tăng tuyết Minh năm 1927 vì tình hình biến chuyển, theo học gia? Hoàng Tranh, ông Hồ cũng rán tìm cách viết thư về vấn an vợ và nhạc mẫu. Lá thư bằng chữ Hán ông viết cho vợ sau này được một nhà nghiên cứu người Pháp tìm thấy. Xem thế ông cũng không phải là người tệ bạc với người phối ngẫu. Không thể đánh giá ông là thứ người lưu manh, lợi dụng con gái đàn bà xong rồi thì "quất ngựa truy phong".  Nhà văn Vũ thư Hiên còn cho biết ông có dịp nói chuyện với một người bạn vốn là con một ông lớn trong chính phủ, đã chứng kiến cảnh Hồ chí Minh và Tăng tuyết Minh gặp nhau ở Hà Nội trong thập niên 1960.
Riêng chuyện người vợ gốc thiểu số Nông thị Xuân của ông bị thủ tiêu như sự ghi nhận của Nguyễn minh Cần và Vũ thư Hiên thì ông Hồ có phải là người ra lệnh giết cô Xuân hay không vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát. Có thể lệnh giết đến từ phe Duẩn - Thọ, vốn không muốn cho ông Hồ cưới vợ và ra lệnh thủ tiêu cô Xuân để ông Hồ tiếp tục đóng vai trò hy sinh cả cuộc đời cho nước non vì thế họ không cho ông lấy vợ dù ông thú nhận trong chúc thư ông cũng thuộc loại phàm phu tục tử, chứ không phải là thần thánh gì như chế độ đã tâng bốc ông.
Đối với phía Hà Nội thì trước đây khăng khăng là ông Hồ không bao giờ lấy vợ nhưng dần dần trước những công bố bút tích và bằng chứng của những nhà nghiên cứu về chuyện ông Hồ có vợ, Hà Nội đã tương đối mềm mỏng trong thái độ chấp nhận chuyện ông Hồ có vợ. Người ta chưa quên chủ biên báo Tuổi trẻ là Kim Hạnh bị mất chức vì dám loan tin ông Hồ có vợ. Mới đây, năm 2002, trong cuốn sách "Từ Nguyễn ái Quốc đến Hồ chí Minh" của Lữ Phương, đã cho đăng nguyên văn bài của Học giả Trung Quốc Hoàng Tranh tiết lộ chuyện người vợ Trung Quốc Tăng tuyết Minh của ông Hồ ở phần phụ lục cuốn sách đã cho thấy Hà Nội đã dần dần chấp nhận chuyện ông Hồ có vợ. Nói chung cuốn sách của Lữ phương vẫn là "be bờ và chữa cháy" cho những khuyết điểm của ông Hồ ở thuở thiếu thời. Chẳng hạn như có bức thư ông Hồ viết cho chính phủ Pháp xin vào học ở trường Thuộc Địa thì Lữ Phương gượng gạo giải thích là do những người chung quanh ông Hồ hồi ấy như Nguyễn thế Truyền gợi ý cho ông Hồ viết lá thư trên. Lữ Phương gắng gượng giải thích như thế là muốn chạy tội cho ông Hồ. Lá thư trên làm cho Hà Nội kẹt vì họ vẫn tuyên truyền là ông Hồ ra đi ngoại quốc tìm đường cứu nước. Nên khi chuyện phũ phàng là khi tới đất Pháp ông đã làm đơn xin vào học trường Thuộc Địa làm Hà Nội khó ăn khó nói và cuối cùng để cho Lữ Phương bào chữa cho Bác rằng lá thư "tội lỗi" ấy là người ta xúi Bác viết!
Nói chung Hà Nội chưa có nổi can đảm nhìn nhũng sai trái mà ông Hồ phạm phải vì họ đã biến ông thành ông thánh từ lâu. Khi phê phán một nhân vật lịch sử, cần phải có sự công tâm, nói lên những cái xấu và tốt của người ấy, tránh lối phê phán một chiều. Con người đôi khi không là thiên thần, cũng không là ác quỷ mà là sự trộn lẫn giữa hai vai trò ấy.
Đoạn cuối bản chúc thư thật, người ta sửng sốt khi thấy ước nguyện của ông Hồ, vốn là ông tổ Cộng sản vô thần ở Việt Nam, là mong ông trời phù hộ cho đất nước Việt Nam và những nước Cộng sản khác sớm thoát ách Cộng sản. Thuở thanh niên lúc đọc luận cương Lê Nin, ông đã kể lại cảm giác hân hoan sung sướng tột cùng và nói to lên trong tiếng khóc, "Ngồi trong phòng một mình mà tôi như đứng trước đồng bào. Tôi muốn hét to lên "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ. Đây là con đường phá vỡ xiềng xích nô lệ cho chúng ta ."
Sau khi theo chủ nghĩa Cộng sản cả một đời người, cái oái oăm là lúc về già ông trở thành nạn nhân thê thảm của chủ nghĩa ấy, bị cô lập và giết dần mòn, và ông cũng đã nhìn thấy sự tệ hại của chủ nghĩa ấy khi ứng dụng vào thực tế ở Việt Nam. Không ai chối cãi được là phe các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã giúp ông đánh Pháp thành công nhưng rồi khi thành công thì nước Việt Nam lại rơi vào trong vòng khống chế của một chủ nghĩa độc ác mới , còn hung hiểm còn hơn thực dân Pháp, đó là chủ nghĩa Mác Lê Nin. Cuộc đời Hồ chí Minh quả là một bi kịch thảm khốc, bi kịch này xảy ra không chỉ riêng cho cá nhân bản thân ông mà còn cho cả dân tộc Việt Nam.
Chuyện ông Hồ về già hối lỗi cũng không có gì là lạ vì con người là một loài có suy nghĩ, biết nhận xét đúng sai. Sự bồng bột, nhiệt tình thời thanh niên tuổi trẻ đã được thay thếâ bằng sự hối lỗi bởi những suy nghĩ chín chắn, già giặn lúc vào tuổi xế chiều. Cha đẻ của nước Mỹ là Tướng Washington lúc còn trẻ đã ủng hộ chuyện bắt người da đen làm nô lệ nhưng đọc trong bản di chúc viết trước khi từ giã cõi đời, ông Washington đã ước nguyện muốn giải phóng người da đen khỏi cảnh nô lệ. Người ta thường có cảm giác hối lỗi, ân hận về những chuyện làm không đúng trong quá khứ. Hãy nhìn con người độc ác Lê đức Thọ trong những ngày cuối đời, đã cho mời bà Phạm thị Tề (là vợ của ông Vũ đình Huỳnh, và là mẹ của nhà văn Vũ thư Hiên) đến để xin lỗi vì Thọ đã là người giam cầm, đày ải ông Huỳnh trong vụ án xét lại. Một Thủ tướng Phạm văn Đồng cả cuộc đời theo Cộng sản vô thần, thế mà đến những ngày cuối đời, khi hai mắt bị bệnh gần như mù, cũng đã đến chùa xin quy y Phật. Khi sám hối về những mê muội sai lầm cũng là cách con người tìm lại sự thanh thản cho tâm hồn trước khi bước qua thế giới bên kia. Nói chung, Hồ chí Minh, Lê đức Thọ và Phạm văn Đồng đều có những hối lỗi chân thành khi hấp hối tàn đời.
Cuốn sách này mổ xẻ những huyền thoại để vạch ra chân tướng thật sự của ông Hồ không nhằm mục đích tôn vinh hay bôi bẩn ông mà chỉ có ước mong vẽ lại cho đúng chân dung của ông để thế hệ sau có thể rút tỉa kinh nghiệm hầu có những hành động ích quốc, lợi dân.
Ước nguyện của ông Hồ mong được nhìn thấy Việt Nam và những nước Cộng sản thoát khỏi gông cùm Cộng sản cũng là ước nguyện chung của những người đấu tranh và nhân dân Việt Nam. Nhưng chuyện đưa đất nước thoát khỏi một hầm chông hiểm độc không phải là một chuyện làm đơn giản một sớm một chiều mà là một nỗ lực đấu tranh bền bĩ , một sự hy sinh gian khổ không ngừng nghỉ trọn tháng trọn năm.
Bên cạnh những bài viết về ông Hồ, cuốn sách này cũng có bài nói đến kẻ phản bội Nguyễn cao Kỳ, tệ nạn phe phái bênh và bảo vệ cho nhau trong nền công lý Mỹ, đời sống thực vật và động vật của người tù và người cùng khổ ở Việt Nam, bài nhận xét về con người của hai mặt của Thượng nghị sĩ Dân chủ John Kerry, và bài góp ý với Sử gia Duiker về tiểu sử Hồ chí Minh kèm nhiều tư liệu và hình ảnh khác có liên quan đến Hồ ở phần cuối cuốn sách.
Quê hương vẫn còn trong gông cùm Cộng sản. Đồng bào Việt Nam vẫn đang sống kiếp ngựa trâu. Bổn phận ai còn nghĩ đến quê hương đất nước đồng bào là phải dấn thân tranh đấu, chuyển lửa tiếp máu cho những người đấu tranh ở quê nhà. Cái sai lầm của Hồ chí Minh đã đem lại đau thương, uất hận cho nhân dân Việt Nam trong gần thế kỷ qua. Người Việt Nam phải sửa cái sai lầm chết người đó bằng khối óc, con tim và chính thân mạng của mình thì mới mong ngày tổ quốc bước ra khỏi cơn đau.
                                              PHỤ LỤC
BBC PHỎNG VẤN TIẾN SĨ SOPHIE QUINN – JUDGE
VÀ NHÀ SỬ HỌC PIERRE BROCHEUX VỀ HỒ CHÍ MINH 
* BBC Ngày 26 tháng 7 năm 2003 ( Phỏng vấn Tiến sĩ Sophie Quinn-judge)
Trong năm 2003, có một quyển sách mới về Chủ tịch Hồ chí Minh. Quyển sách có nhan đề Ho chi Minh, the missing years ( Tạm dịch: Hồ chí Minh – Những năm chưa biết đến).
Tác giả là Tiến sĩ sử học Sophie Quinn-Judge, Ðại học LSE, London
Quyển sách chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế Cộng sản được giải mật năm 1992 của Trung tâm lưu giữ quốc gia Nga – mà trước đây vốn là Viện nghiên cứu Marx- Lenin, đồng thời lấy tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp.
Tập trung vào những năm hoạt động của ông Hồ chí Minh thời kỳ trước 1945, quyển sách cố gắng dựng lại chân dung cũng như vị trí thật sự của ông Hồ trong thời kỳ này.
Sau đây là cuộc phỏng vấn của đài BBC với Tiến sĩ Sophie Quinn- Judge
BBC: Cuốn sách của bà mở đầu bằng hội nghị hòa bình tại Paris năm 1919 khi lần đầu tiên ông Hồ chí Minh – mà lúc này có tên là Nguyễn ái Quốc – được nhiều người biết tới. Vậy trước giai đoạn này chúng ta có biết gì nhiều về hoạt động của ông, đặc biệt là việc người cha của ông có ảnh hưởng thế nào đến ông không?
Sophie Quinn – Judge : Cha của ông Hồ là một nhân vật rất đáng chú ý và tôi hy vọng sẽ có thêm nghiên cứu tiếng Việt để hiểu rõ hơn thân thế của người này. Nhưng rõ ràng là việc người cha bị thất sũng, không còn là quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp, đã có tác động đến cuộc sống ông Hồ. Bởi khi ông Nguyễn sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Ðịnh, con ông là Nguyễn tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc Học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và như mọi người đều biết, ông đi Pháp năm 1911. Nếu cha ông vẫn còn tại chức, thì có lẽ người thanh niên Nguyễn tất Thành đã tiếp tục đi học ở Huế và sự nghiệp chống thực dân của ông có thể đã ngã sang một hướng khác. Chúng ta không biết chắc, nhưng những hoàn cảnh bên ngoài đã buộc ông phải ra nước ngoài.
BBC: Bà ngụ ý là ban đầu ông Hồ ra nước ngoài không phải với mục đích tìm đường cứu nước ?
Sophie Quinn – Judge: Không, ý tôi không phải như thế. Dựa trên tài liệu của pháp nói về các anh chị em trong gia đình ông Hồ và những lần họ giúp đỡ cho Phan bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt động yêu nước chống thực dân từ sớm. Tôi tin là ông Hồ chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trường Quốc Học, nên ông ra nước ngoài để tìm biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống người Pháp.
BBC: Khi ông Hồ tới Hội nghị hòa bình Paris 1919, người ta nhìn ông Hồ như thế nào?
Sophie Quinn – Judge: Ðây là một điều mà chúng ta rất khó biết chắc bởi vì có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của ông Hồ. Chúng ta không biết trước năm 1919, ông Hồ hoạt động ở mức độ nào, chuyện chính trị có phải là vấn đề bận tâm duy nhất của ông hay không. Nên khi ông xuất hiện tại hội nghị Paris tháng Sáu năm 1919, phân phát bản kiến nghị cho các đại biểu tham dự, mọi người thấy khó chấp nhận ông ấy như một nhân vật ngang hàng với những người nổi tiếng như Phan chu Trinh hay Phan văn Trường.
BBC: Sau hội nghị ở Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi sau đó đi Quảng Ðông. Trong khoảng thời gian này, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản như thế nào, bởi vì một số tác giả cho rằng lúc này ông Hồ đã được Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều?
Sophie Quinn – Judge : Ðầu tiên ông Hồ lúc đó không phải là thành viên của Ðảng Cộng sản châu Á nào. Ông ấy đang là thành viên của Ðảng Cộng sản Pháp. Vì thế, ông chưa có vị trí vững chắc trong nội bộ Quốc tế Cộng sản. Ví dụ, ông không có chân trong ban chấp hành. Có nhiều nhân vật khác quan trọng hơn như Mahandra Roy từ Ấn Ðộ hay Sen Katayama của Nhật. Nhưng Nguyễn ái Quốc có một thông điệp rất rõ về việc phong trào Cộng sản có thể tham gia thế nào trong phong trào quốc gia tại các thuộc địa. Tôi nghĩ bởi vì thông điệp này nên ông ấy được khuyến khích lên phát biểu tại Ðại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản năm 1924. Nhưng lúc ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải là người phát ngôn hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong Quốc tế Cộng sản. Việc ông Hồ là thành viên Ðảng Cộng sản Pháp cũng có thể đã khiến vị trí ông trở nên phức tạp. Trotsky – đối thủ chính trị của Stalin thời bấy giờ – có một ảnh hưởng đáng kể đối với những người Cộng sản Pháp. Trong một bãi mìn chính trị như vậy, ông Hồ dường như bắt đầu học cách hợp tác với bất cứ ai đang nắm quyền lực và học cách theo đuổi những quan tâm của riêng mình.
BBC: Một số tác giả như Jean Lacouture nói rằng ông Hồ được gửi tới Quảng Ðông để làm trợ lý hay thư ký cho Borodin?
Sophie Quinn – Judge : Tôi nghĩ điều này không chính xác, bởi vì ông Hồ lúc đó từ Nga đi Quảng Ðông mà không mang theo một hướng dẫn rõ ràng về những gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho một vai trò chính thức. Có lẽ như người ta đã tìm cho ông công việc làm người dịch thuật tại hãng tin của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông. Chứ còn lúc mới tới Quảng Ðông, ông Hồ rất vất vả trong việc có đủ tiền giúp cho việc giúp đưa các thanh niên Việt Nam sang Quảng Ðông tham gia các khóa đào luyện. Như vậy, không có một kế hoạch, chỉ thị rõ ràng dành cho ông Hồ và ông phải tự bương chải, đối phó với các vấn đề khi chúng diễn ra.
BBC: Chúng ta có biết tâm trạng của ông Hồ lúc này không?
Sophie Quinn – Judge : Tôi nghĩ ông ấy cảm thấy bức bối vì thiếu sự giúp đỡ cụ thể của Quốc tế Cộng sản, hay người Nga hoặc người Cộng sản Pháp lúc đó. Trong năm 1924, ông Hồ liên tục gửi thư yêu cầu các lãnh đạo Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều hơn đến nhu cầu của phong trào tại Việt Nam. Cuối cùng thì vào đầu năm 1927, thông qua một đại biểu Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Quảng Ðông, ông Hồ nhận được một khoản ngân sách. Nhưng không may là trước khi kế hoạch được thực hiện thì xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng giới Thạch và ông Hồ phải rời khỏi Quảng Ðông trước khi các khóa đào tạo mà ông muốn tiến hành có thể khởi đầu một cách toàn diện.
BBC: Trong khoảng thời gian ông Hồ ở tại Quảng Ðông, có xuất hiện cái tên của bà Tăng tuyết Minh với những lời đồn đoán khác nhau. Theo nguồn tài liệu mà bà có, thì Tăng tuyết Minh là ai ?
Sophi Quinn – Judge: Gần đây đã có một chuyên gia Trung Quốc đề cập đến người này. Còn theo tài liệu mà tôi tìm thấy tại Pháp, Tăng tuyết Minh khi đó là một phụ nữ trẻ ở Quảng Ðông. Và có lẽ bà ấy và ông Hồ đã kết hôn vào tháng Mười năm 1926. Họ ở với nhau cho đến khi ông Hồ phải rời Quảng Ðông vào tháng Năm năm 1927. Như vậy thời gian sống với nhau kéo dài khoảng sáu tháng.
BBC: Từ mà bà dùng – " có lẽ " – ở đây nghĩa là thế nào?
Sophie Quinn – Judge : Tôi không chắc vào thời kỳ đó, một cuộc hôn nhân được định nghĩa như thế nào. Ta bắt gặp những ví dụ khác nhau trong các văn bản về phong trào Cộng sản. Ðôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra đơn thuần vì lý do chính trị. Hai người sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ. Thí dụ, nếu họ điều hành tòa soạn một tờ báo, họ sẽ an toàn hơn khi giả làm hai vợ chồng. Và tôi không biết trong các phong trào cách mạng, đâu là các yếu tố tạo nên một cuộc hôn nhân có ràng buộc. Những điều này có vẻ không chặt chẽ, chẳng hạn nếu ta nhìn sự nghiệp của Mao trạch Ðông, mà đã nhiều lần thay đổi người nâng khăn sửa túi cho mình.
Câu hỏi về Nguyễn thị Minh Khai
BBC: Sau khi rời khỏi Quảng Ðông, ông Hồ chí Minh đã bôn ba nhiều nơi trước khi quay trở lại Châu Á. Và rồi chúng ta có sự thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, mà sau đó có tên Ðảng Cộng sản Ðông dương. Theo quyển sách của bà, thì Ðảng Cộng sản thành lập vào tháng Hai năm 1930 và đến tháng Mười năm đó ông Hồ chí Minh đã đánh mất ảnh hưởng của mình trong đảng ?
Sophie Quinn – Judge : Cân nhắc là ông Hồ đã trải qua một thời gian ở Thái Lan, rồi sang Hồng Kông vào mùa Ðông năm 1929. Hồng Kông là nơi mà tháng Hai năm 1930, một Ðảng Cộng sản thống nhất của người Việt Nam ra đời. Cùng lúc này thì có nhiều sự không rõ ràng xung quanh việc ai là người ban đầu được chính thức giao trách nhiệm thành lập nên đảng. Bởi vì trước đó Quốc tế Cộng sản gửi về hai người là Trần Phú và Ngô đức Trì. Hai người này đã học tại Moscow trong khoảng ba năm và trở về mang theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về cách thức thành lập đảng. Vậy là sau khi Nguyễn ái Quốc thành lập đảng cộng sản vào tháng Hai, hai người này quay về Việt Nam hoạt động. Cuối cùng đến tháng Mười, diễn ra Hội Nghị Trung Ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông. Ðến lúc này hai người, mà đặc biệt là Trần Phú - theo tôi – đã cố gắng ấn định các chỉ thị mà họ mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao gồm đảng phải là tổ chức của riêng giai cấp lao động, một chủ trương mà sẽ dẫn đến việc thanh trừng các thành phần yêu nước gốc trung lưu trong nội bộ đảng.
BBC: Cũng khoảng thời gian này, có một lá thư đề ngày 12 – 01 – 1931 của Văn Phòng Viễn Ðông Quốc tế Cộng sản nhắc ông Nguyễn ái Quốc rằng ông cần thông báo cho họ về cuộc hôn nhân của mình hai tháng trước khi cuộc hôn nhân diễn ra. Ðây là lúc chúng tôi muốn hỏi bà, theo bà, thì có cuộc hôn nhân giữa bà Nguyễn thị Minh Khai và ông Hồ chí Minh hay không?
Sophia Quinn – Judge: Tôi không chắc đó có phải là một cuộc hôn nhân thật sự hay không. Chúng ta biết là khoảng giữa năm 1930, bà Nguyễn thị Minh Khai được giao đến làm việc tại văn phòng của ông Hồ ở Hồng Kông, rồi sau đó được giao công việc liên lạc với Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Vào tháng Hai năm 1931, ông Hồ có nhắc đến việc vợ của ông đang bận chuẩn bị cho ngày Tết và chuẩn bị đón khách từ Việt Nam. Ông Hồ cũng viết thư cho Quốc Tế Cộng sản, có vẻ như trong đó ông đề cập tới một đám cưới sắp diễn ra. Bởi vì sau đó Quốc Tế Cộng Sản viết thư trả lời, nói ông cần đình hoãn đám cưới cho đến khi có chỉ thị mới. Người ta nghi ngờ không biết liệu ông Hồ có phải đang nói về việc đám cưới thật sự hay không bởi trong các thư từ, họ thường sử dụng nhiều loại mật mã. Nhưng trong trường hợp này, có vẻ như lá thư nói những chuyện thật sự đang diễn ra bởi vì trong cùng một lá thư ông Hồ cũng thảo luận nhiều vấn đề khác một cách công khai. Và từ những gì người ta biết vào năm 1934, Nguyễn ái Quốc có một người vợ được cử tới đại hội của Quốc tế Cộng sản ở Moscow. Và trước khi Minh Khai tới Moscow, bà ấy có viết thư nói mình kết hôn với " Lin" – bí danh của ông Hồ thời bấy giờ. Vì vậy, người ta có thể ngờ rằng giữa hai người có một mối quan hệ vào năm 1931.
BBC: Bà nói mình không chắc có thể dùng chữ " hôn nhân " ở đây. Vậy nếu người ta hỏi liệu đã có một mối quan hệ tình cảm giữa ông Hồ chí Minh và bà Nguyễn thị Minh Khai thì bà sẽ trả lời như thế nào ?
Sophie Quinn – Judge: Tôi nghĩ câu trả lời là có, đặc biệt nếu chúng ta dựa vào một số chứng liệu khác. Ví dụ vào năm 1945, trong cuộc nói chuyện với một phóng viên Mỹ, ông Hồ chí Minh có nhắc đến chuyện ông từng có một người vợ nhưng bà đã qua đời. Hoặc có những đề cập nói rằng vào cuối thập niên 1930, khi Nguyễn thị Minh Khai quay về Việt Nam, bà đã chia cắt với người chồng là một nhà cách mạng lớn tuổi đang ở nước ngoài. Ðiều này nghe giống như là một sự miêu tả ông Hồ chí Minh.
BBC: Nhưng nếu dựa trên những nguồn tài liệu của Pháp, ta có khuynh hướng tin là bà Nguyễn thị Minh Khai có nhiều mối quan hệ với các đồng chí khác nhau trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1940 – Vậy thì đâu là thực, đâu là hư ?
Sophie Quinn – Judge : Ðây chính là điểm làm câu chuyện phúc tạp. Thông tin tình báo của Pháp lúc bấy giờ thường đề cập chuyện bà Minh Khai có mối quan hệ với nhiều người khác nhau. Ví dụ, vào năm 1932, mật thám Pháp tin rằng bà là người tình của Trần ngọc Danh, em trai ông Trần Phú. Chúng ta không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân cách mạng hay không, khi mà hai người cùng chí hướng đã giả trang làm người yêu để dễ đánh lạc hướng chính quyền đương thời. Hay còn điều gì hơn thế ! Thật khó để biết rõ cách thức hoạt động của những người hoạt động cách mạng bởi vì họ có thể xem mình thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường.
* Mâu thuẫn trong đảng
BBC: Trong quyển sách, bà viết là đến khi hội nghị Trung ương đảng Cộng sản Ðông dương họp tại Sài Gòn ngày 12 – 3 – 1931, mối quan hệ giữa Ban Chấp Hành Trung Ương với ông Hồ chí Minh đã xuống dốc rất nhiều. Vì sao lại như vậy ?
Sophie Quinn – Judge: Thật sự thì Ban Chấp Hành gồm rất ít người, người lãnh đạo chính là ông Trần Phú. Tôi nghĩ có một sự khó chịu với nhau từ cả hai phía – ông Nguyễn ái Quốc ở Hồng Kông và các ông Trần Phú, Ngô đức Trì và các lãnh đạo khác ở Sài Gòn. Than phiền chính của họ là những khó khăn trong việc liên lạc với Quốc Tế Cộng sản, mà đại diện là văn phòng phương Ðông tại Thượng Hải. Có nhiều lý do vì sao việc liên lạc lại khó khăn. Một trong số đó là chi nhánh Ðảng Cộng sản Trung Quốc tại Hồng Kông đã bị người Anh phát hiện vào khoảng đầu năm 1931. Nên không còn một cơ sở hạ tầng cho việc liên lạc như trước đây. Và dĩ nhiên lúc đó Ðảng Cộng sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao vì những đợt bắt bớ của người Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, dễ hiểu là vì sao các bên đổ lỗi cho nhau. Ông Hồ không nhận được thông tin từ trong nước, nên ông yêu cầu ban chấp hành ở miền Trung và Hà Nội. Ðiều này làm các lãnh đạo ở Sài Gòn khó chịu. Vì thế ông Hồ cảm thấy mình không được sử dụng đúng và sau đó đề nghị đảng cho thôi chức vụ của ông tại Hồng Kông.
BBC: Nhưng bên cạnh đó, một lý do khác dường như là xung dđột trong hệ tư tưởng giữa các bên phải không?
Sophie Quinn – Judge : Vâng, theo tôi, ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu hướng quốc gia. Ông ấy coi đảng phải sử dụng những tình cảm yêu nước để thu hút nhiều đối tượng. Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ đảng đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tế Cộng sản, tức là đấu tranh giai cấp và đảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi, sinh viên hay tầng lớp trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
BBC: Cái vấn đề là người quốc gia hay Cộng sản đã được bàn đến nhiều xung quanh ông Hồ chí Minh. Có người nói là ngay cả khi xem ông Hồ là người theo chủ nghĩa dân tộc, thì thật ra đó không phải là lý thuyết của chính ông? Bà nghĩ sao?
Sophie Quinn – Judge: Thật khó để biết đâu là xu hướng riêng trong chính sách của ông Hồ lúc đó, đâu là ông đi theo chính sách của Quốc tế Cộng sản thời kỳ thập niên 1920. Nhưng có thể nói xu hướng của ông Hồ lúc đó phù hợp với chính sách của Quốc tế Cộng sản lúc 1920, theo đó, những người Cộng sản nên tập trung vào các cuộc cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa bởi vì giai cấp vô sản hay đảng cộng sản ở những nơi ấy còn rất nhỏ, tự mình hành động thì không có lợi. Ông Hồ theo xu hướng này. Còn ông có những ý tưởng nào vượt ra khỏi điều này không thì tôi không rõ.
BBC: Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như vị trí của ông trong Quốc tế Cộng sản lúc này bị lung lay ?
Sophie Quinn – Judge: Stalin lúc này đã củng cố ảnh hưởng của mình. Nói chung những ai đã từng làm việc ở nước ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư tưởng tư sản. Những ai trở về Nga phải tự thú. Có cảm giác bị coi là kẻ thù ở mọi nơi. Ðặc biệt những người như ông Hồ chí Minh đã từng làm việc với mặt trận thống nhất ở miền Nam Trung Hoa. Thêm vào điều đó, lại còn những vụ bắt giữ người Cộng sản tại Hồng Kông. Thượng Hải năm 1930. Cơ sở của Quốc tế Cộng sản tại Thượng Hải sụp đổ. Và những người lãnh đạo Ðảng Cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên dĩ nhiên diễn ra các vụ điều tra xem ai có tội, và ông Hồ chắc chắn trải qua những ngày vất vả khi đó.
BBC: Sau những vụ thanh trừng tại Nga vào thời kỳ 1937 – 1938, thì nhiều người tự hỏi vì sao ông Hồ chí Minh có thể tồn tại sau những ngày như thế ?
Sophie Quinn – Judge: Ðó là câu hỏi mà các chuyên gia nước ngoài đã tập trung nghiên cứu từ lâu. Quan điểm trước đây của họ cho rằng lý do chính là vì ông Hồ, vào cuối thập niên 1930, đã trở thành lãnh tụ của đảng Cộng sản nên vì thế được Stalin bảo vệ hay ít nhất cũng là một trong những người được tin dùng. Theo tôi, đó là một sự tổng quát hóa không có cơ sở. Stalin có thể diệt trừ những người thân cận nhất của mình, không có ai là an toàn. Những nhân vật thân cận như Kalinin, Molotov cũng là nạn nhân của Stalin. Nên phải nói ngay từ đầu cái ý nghĩ bạn có thể an toàn khi ở cạnh Stalin là điều không có thật. Và ngoài ra, ông Hồ chí Minh đã bị rơi vào cái cảnh gần như bị giáng chức vào năm 1935 vì cáo buộc ông chịu trách nhiệm cho những vụ bắt giữ năm 1931. Nên không thể nói ông ấy lúc đó là nhân vật hàng đầu trong Quốc tế Cộng sản. Kết luận lại, tôi nghĩ lý do chính là vì ông đã sống kín đáo, lặng lẽ. Mà thật sự Việt Nam cũng không phải nằm trong danh sách kẻ thù chính của Stalin. Ông ta quan tâm nhiều hơn đến việc thanh trừng đảng cộng sản ở các nước láng giềng.
* Nhìn lại
BBC: Theo tường thuật của bà trong sách, đường cách mạng của ông Hồ chí Minh vẫn còn rất gian nan trong thập niên 30. Vậy ông Hồ đã làm thế nào để có được quyền lực trong đảng Cộng sản để rồi sau này dẫn tới cách mạng năm 1945 ?
Sophie Quinn – Judge: Một trong những điểm tôi cố gắng làm rõ trong quyển sách là quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu. Năm 1938, khi ông Hồ quay lại Trung Quốc, Lê hồng Phong, Hà huy Tập là thuộc trong số những lãnh đạo đảng tại Sài Gòn. Sau đó thì lần lượt từng lãnh đạo tại Sài Gòn bị Pháp bắt sau khi Mặt Trận Bình Dân tại Pháp sụp đổ và người Pháp một lần nữa đưa ra chính sách trừ diệt đảng Cộng sản. Sau đó, tôi nghĩ có một cuộc khủng hoảng lãnh đạo trong đảng. Lúc này ông Hồ đang ở Trung Quốc xây dựng một nhóm thanh niên Việt Nam theo đuổi chính sách thống nhất – một chính sách mà vào lúc này Quốc tế Cộng sản quay lại sử dụng. Tôi nghĩ đến đầu thập niên 40, ông Hồ chí Minh là người Việt Nam cần lúc đó, có mặt và sẵn sàng hành động.
BBC: Như bà viết trong sách, nhiều tác giả – cả Cộng sản và không Cộng sản – đã phần nào phóng đại vai trò của ông Hồ chí Minh. Vì sao?
Sophia Quinn – Judge: Tôi nghĩ đó là điều mà trong giới sử học gọi là phát triển bằng cách viết ngược. Bởi vì ông Hồ trở thành chủ tịch nước năm 1945, người ta đặt ra những tiền đề nghiễm nhiên về sự nghiệp của ông. Và thật dễ dàng để cho rằng ông đã luôn là một trong những nhân vật hàng đầu trong Quốc tế Cộng sản. Dĩ nhiên Ðảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng chấp nhận suy nghĩ này vì nó cho họ một uy tín trong phong trào Cộng sản Quốc tế.
BBC: Nhưng vì sao ngay cả những người không Cộng sản cũng có khuynh hướng chấp nhận điều này ?
Sophie Quinn – Judge : Theo tôi, đó là vì một chân dung như thế cũng hợp với những nghị trình của họ. Họ muốn tin rằng ông Hồ đã luôn là một người Cộng sản ẩn đàng sau cái vỏ dân tộc chủ nghĩa. Tôi nghĩ đây là vấn đề người ta muốn tin vào một cái gì.
BBC: Khi đọc về những bước đầu tiên trong sự nghiệp của ông Hồ chí Minh, nó có giúp gì cho người ta hiểu về phần đời sau này của ông hay không ?
Sophie Quinn – Judge: Vâng, tôi nghĩ phần nào đó, những gì diễn ra trong thập niên 30 cũng tái lặp trong cuối thập niên 40 đầu 50. Mâu thuẫn trong phong trào Cộng sản tại Việt Nam và quốc tế không bao giờ vụt tắt. Một bên muốn đi tới thật nhanh, xây dựng điều mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội bằng cách loại trừ tầng lớp trung lưu. Một bên lại cho rằng chủ nghĩa Cộng sản phải được xây dựng từ từ, trải qua giai đoạn của chủ nghĩa tư bản. Tôi nghĩ người ta cần hiểu hai quan điểm này cứ thay nhau được chấp nhận, rồi gạt bỏ. Cứ như vậy. Ðó là một trong những lý do – tôi nghĩ – vì sao ông Hồ chí Minh không phải bao giờ cũng duy trì được vị trí là một nhà lãnh đạo có thực quyền.
Trích đoạn trong phần Tổng kết của tác phẩm " Hồ chí Minh – Những năm chưa biết đến " của Sophie Quinn – Judge.
Trong Lời Tựa của quyển sách, tôi đã đề cập đến cách thức mà những thái độ thời chiến tranh lạnh ảnh hưởng đến cách hiểu của chúng ta về ông Hồ chí Minh và những nỗ lực của ông nhằm phát triển một đảng Cộng sản tại Việt Nam. Việc sử dụng các nguồn tài liệu mang tính tuyên truyền khiến nhiều tác giả nhìn ông Hồ chí Minh hoặc như một vị thánh dân tộc vô cùng quan trọng hoặc như một ông thần ác. Ông không chỉ là lãnh tụ tối cao của Bắc Việt – ông được coi như một nhân vật Cộng sản nhiều ảnh hưởng ngay từ khi mới gia nhập Ðảng Cộng sản Pháp. Tuy vậy, như nghiên cứu này cố gắng chỉ ra, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản và phong trào Cộng sản châu Á trước 1945 không rõ ràng như nhiều người sau này vẫn nghĩ. Trong năm 1920 hay 1930, ông không xuất hiện như một nhà Cộng sản nhiều ảnh hưởng trên trường quốc tế, và ông gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút sự chú ý của Ðảng Cộng sản Ðông dương trong năm 1939 – 1940. Uy thế của ông năm 1945 như biểu tượng của phong trào độc lập Việt Nam không phải là một tiến trình nghiễm nhiên có từ đầu..
.. Không thể phủ nhận việc lý thuyết của Quốc tế Cộng sản thời kỳ đầu về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đã là công cụ tri thức quan trọng cho ông Hồ chí Minh. Nó cho ông một khung lý thuyết vững chắc để kết hợp tình cảm chống thực dân và khao khát công bằng xã hội. Tuy nhiên, ý tưởng của Lệ Nin về chủ nghĩa đế quốc và các vấn đề thuộc địa không chỉ là công cụ phân tích – việc ông Hồ phát hiện và truyền bá các tư tưởng này còn là nguồn quan trọng đem lại cho ông sự chính danh trong phong trào Cộng sản Việt Nam. Khi những tư tưởng này bị thay thế bởi khung phân tích mới thời kỳ 1928 – 1929, sự lãnh đạo của ông Hồ bị xem xét lại. Như đã nói trong Lời Tựa, các đối thủ cạnh tranh thường xuyên muốn chứng tỏ họ nắm vững hệ tư tưởng và đường lối của Quốc tế Cộng sản hơn ông Hồ. Ðôi khi, đường lối này chỉ là những tập hợp ý tưởng manh mún không ai hiểu, lấy từ Marx, Plekhanov, Lê Nin, Trotsky, Stalin và những nhà tư tưởng thời trước Cộng sản, nhưng nó cũng đủ để là phương tiện giành lấy sự chính thống. Như Amo Mayo nói, " Hệ tư tưởng là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng.. Nó gắn với nhu cầu của một nhóm xã hội (mới ) muốn thể hiện hình ảnh của mình." Sự quan trọng của việc nắm vững lý thuyết để xác lập tư cách lãnh đạo cũng có thể liên quan tới truyền thống Khổng học, vốn trọng khả năng sáng tác một văn bản chính thống hơn mọi kỹ năng thực tế khác.
*Cuộc sống vợ chồng của ông Hồ chí Minh và bà Minh Khai ở Nga.
Ðề cập tới các tài liệu liên quan đến ông Hồ được Quốc tế Cộng sản lưu giữ ở Nga, bà Sophie Quinn – Judge cho biết, " Ðống hồ sơ này cũng chẳng có được bao nhiêu, sắp xếp lộn xộn, đôi khi in lại hoặc đánh máy, cũng có khi nguyên bản như một lá thư, một vài tài liệu có chữ ký của ông Hồ chí Minh hoặc ký tắt với danh xưng là Quak, Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay là Lin. Sau này khi tra khảo tới các hồ sơ lưu trữ về thuộc địa của Pháp tại Aix-en-provence, tôi thấy có được lợi ích là góp phần để sắp đặt cho các tài liệu về Quốc tế Cộng sản theo thứ tự hợp lý hơn là dựa vào các tài liệu tại hai nơi thường khi cùng ghi nhận đến các diễn biến như nhau."
Về quan hệ của ông Hồ và bà Minh Khai, bà Sophie Quinn – Judge cho biết thêm :
" Một tiết lộ khác được khám phá qua các tài liệu này là có hai sự kiện liên quan đến thời kỳ hoạt động của bà Nguyễn thị Minh Khai chứng tỏ bà là vợ của ông Hồ chí Minh. Một sự kiện thể hiện qua lá thư được viết vào năm 1934 của ông Hà huy Tập gửi tới Ban Bí Thư Miền Ðông, nêu tên đại biểu được cử đi tham dự Ðại Hội Quốc tế Cộng sản lần thứ Bảy, trong đó có một người nói là " vợ của Quốc ", còn sự kiện kia là ở một chỗ khác thấy nói tới danh xưng người đàn bà đó là bà Vải ( bà Minh Khai vào thời gian những năm đầu hoạt động có làm nghề hàng vải ). Vì trong phái đoàn chỉ có một phụ nữ cho nên dĩ nhiên đó phải là có ý nói tới bà Nguyễn thị Minh Khai.
" Sau này tại Mạc tư Khoa, khi phải làm tờ khai lý lịch cá nhân, khi điền vào câu hỏi về tình trạng gia đình, bà đã ghi là có chồng và kể tên chồng là Lin. Ðó cũng là danh xưng của ông Hồ tại Mạc tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến năm 1938.
" Ngược trở lại vào năm 1931, người ta thấy trong một lá thư ông Hồ chí Minh có nói đến bà vợ đang chuẩn bị để đón khách vào dịp tết. Ðây có thể là một cách nói để ám chỉ bao che cho các hoạt động chính trị, nhưng nếu xét đến những điều vào năm 1934 hàm ý là bà Nguyễn thị Minh Khai, tôi e rằng quả có thêm phần xác đáng hơn.
" Vì một vài lý do nào đó các giới chức tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả động gì đến những điều tiết lộ theo đó ông Hồ có liên hệ tình cảm thực sự với những người thuộc phái nữ. Mặc dầu giờ đây phía Trung Quốc đã trình bày trước công luận cả một bức ảnh và một bài viết nói về việc ông Hồ kết hôn với một phụ nữ vào tháng Mười năm 1926 ( Tăng tuyết Minh), nhưng Hà Nội vẫn chưa chính thức xác nhận.
" Mặt khác, vào năm 1930, Nguyễn thị Minh Khai đến Hồng Kông và làm việc trong văn phòng của ông Hồ. Và khi đó quan hệ giữa hai người đã bắt đầu. Trong năm 1931, có một lá thư của ông Hồ báo cáo rằng ông sẽ lấy Nguyễn thị Minh Khai làm vợ. Người ta có thể coi đó là một cách nói để giữ bí mật, nhưng toàn bộ nội dung lá thư cho thấy ông Hồ nói thẳng về sự kiện đó. Rồi đến năm 1934, trước ngày Quốc tế Cộng sản lần Bảy tổ chức thì trong các tài liệu về các đại biểu tham gia đại hội đều nói về Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Quốc tức Hồ chí Minh. Và trong toàn bộ thời gian sau đó hai người sống ở Mạc tư Khoa như vợ chồng."
* BBC ngày 28 tháng 10 năm 2003
* BBC phỏng vấn nhà sử học Pháp Pierre Brocheux
Nhà sử học Pháp Pierre Brocheux có cuộc nói chuyện tại Toronto, Canada chiều 29/10/2003 về cuốn sách của ông mang tựa đề " Vietnam expose, and new biography of Ho chi Minh" . Ban Việt ngữ BBC hỏi ông muốn trình bày hình ảnh gì mới về ông Hồ?
Pierre Brocheux : Tôi nghĩ rằng ông Hồ chí Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng giáo, một truyền thống ý thức hệ Ðông Á, với các dòng tư tưởng châu Aâu, từ Marxism đến Lenism. Tôi bỏ cách nhìn từ trước đến nay là tranh luận xem ông Hồ thực sự là một người Cộng sản hay một người theo đường lối dân tộc chủ nghĩa.
Theo tôi, trước sau ông là một người tốt, một người Khổng giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam hiện nay chỉ đúng một phần mà thôi. Theo tôi, ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân đạo và tính công bằng xã hội theo kiểu của Khổng giáo.
BBC: Vậy ông nghĩ là những gì ông tìm ra trong tính cách của ông Hồ chí Minh có thể có một tác động nào đó lên xã hội Việt Nam hiện nay không?
Pierre Brocheux : Ðúng, trong xã hội Việt Nam bây giờ, đồng tiền là quan trọng nhất thì Hồ chí Minh là một sự lựa chọn khác cho người ta .
BBC: Ông có nghĩ rằng theo dòng tư tưởng của ông Hồ chí Minh thì giả sử vào thời điểm bây giờ của Việt Nam, ông Hồ sẽ có quan điểm như thế nào?
Pierre Brocheux: Tôi nghĩ ông ấy sẽ giữ cách nhìn của một người theo Khổng giáo và một phần theo Lê Nin. Nhưng cũng phải nói rằng ông Hồ sẽ ủng hộ các vấn đề như nhân quyền.
BBC: Ông nghĩ nhân quyền theo quan điểm châu Âu hiện nay à ?
Pierre Brocheux : Không hoàn toàn như thế. Có thể ông ấy sẽ thay đổi đôi chút. Nhưng vẫn là nhân quyền. Ta không nên quên rằng ông Hồ chí Minh sang Pháp vì muốn biến tự do, bình đẳng, bác ái thành sự thật. Chỉ sau nước Pháp, ông ta mới sang theo nước Nga Cộng sản.
BBC: Nhưng đối với nhiều người thì ông Hồ chí Minh vẫn là người đem chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam dù hiện nay các sử gia có nói gì khác đi nữa.
Pierre Brocheux : Ông ấy đã đưa chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam nhưng con người và tính cách của ông ấy phức tạp hơn vậy. Theo nghiên cứu của tôi thì cả một giai đoạn trước khi qua đời, ông Hồ bị cách ly khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì. Ông ấy bị biến thành một biểu tượng. Vì thế cuốn sách của tôi còn có một tựa đề nữa là, " Hồ chí Minh, một nhà cách mạng biến thành một biểu tượng. " Ý tôi muốn nói ông bị người ta biến thành một biểu tượng không có quyền, một biểu tượng yếu về quyền lực.
BBC: Cứ cho là ông Hồ chí Minh có tính cách như ông nói đi, thì theo ông, ông Hồ nếu sống đến thập niên 70 thì liệu có cách giải quyết khác cho miền Nam sau 1975 hay không?
Pierre Brocheux: Tôi tin là khác, chắc chắn không có cách giải quyết như các ông Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Hồ chí Minh khác Lê Duẩn, Lê đức Thọ rất nhiều. Sẽ không có chuyện bắt người miền Nam đi cải tạo hàng loạt hay những điều tương tự. Sau 56 năm nghiên cứu Hồ chí Minh, tôi có thể nói rằng ông Hồ chí Minh là một người ưa các giải pháp ôn hòa hơn là cực đoan.
BBC: Vậy vai trò của ông Hồ chí Minh trong Cải Cách Ruộng Ðất, rồi vụ Nhân Văn Giai Phẩm ra sao, theo những gì ông tìm ra?
Pierre Brocheux: Hồ chí Minh bị coi là phải chịu trách nhiệm về những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Ðất nhưng tôi tìm thấy nhiều tài liệu như các báo cáo chính trị của chính ông, lên án các vụ đánh người, giết người trong Cải Cách. Ông gọi làm như thế là hành xử như " bọn đế quốc ", rằng đó là những hành vi tội phạm. Ông nói tra tấn người là tội ác. Về Nhân Văn Giai Phẩm thì phải thấy rằng ông Hồ có viết và phát biểu đúng một lần, về phong trào Trăm Hoa Ðua Nở ở Trung Quốc, ông lên án những nhà văn bị coi là phái hữu như Ðinh Linh, nhưng không hề nói đến tên của bất cứ một nhà văn hay nghệ sĩ Việt Nam nào.
BBC: Còn về những người phụ nữ mà người ta cho là hoặc là vợ hoặc là người yêu của ông Hồ?
Pierre Brocheux: Tôi tin vào chứng cớ của một sử gia Trung Quốc, ông Hoàng Tranh đưa ra là bà Tăng tuyết Minh là vợ ông Hồ. Theo tôi, điều mà Bộ Chính trị Ðảng Cộng sản Việt Nam làm, tức là che dấu chuyện này, là một sự kiện rất quan trọng. Ðiều này chứng tỏ họ có một chính sách biến ông Hồ thành một biểu tượng cho họ. Nhưng tôi không tìm thấy chứng cớ ông Hồ chí Minh từng có một bạn gái người Pháp như một số người nói.
BBC: Xin cám ơn ông.
http://geocities.com/tranvietdaihung/bianve.html


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét