Sáu mươi năm đã trôi qua kể từ nạn đói khủng khiếp của năm Ất Dậu
(1945) ấy mà bây giờ nhắc lại nhiều người trong cuộc vẫn còn bàng hoàng khiếp đảm.
Những người miền Bắc đã kinh qua nạn đói ấy bây giờ có người vẫn còn sống và họ
là những chứng nhân cho biến cố bi thảm này. Trong số đó, có những người đang
tiếp tục làm kiếp tha hương trên đất lạ; nhưng mùa Xuân đói kém của năm Ất Dậu
năm xưa ấy vẫn là nỗi ám ảnh bi thảm khó xóa nhòa trong tâm khảm dù đã 60 năm
chuyển dịch của trời đất và dù họ cùng gia đình con cháu ngày nay đang có cuộc
sống vật chất quá no đủ ở xứ người.
Vậy nguyên do nào đưa tới nạn đói bi thảm của năm Ất Dậu (1945)
cách 60 năm về trước?
Trở lại bối cảnh chính trị của đất nước ta vào những năm cuối của
cuộc đệ nhị thế chiến để truy tìm nguyên nhân của thảm trạng này.
1. Quân Nhật kiểm soát Đông Dương
Trong khi quân Đức quốc xã tiến chiếm kinh đô Paris của Pháp
(14/06/1940) thì quân Nhật ở Á Châu cũng đã tiến chiếm vùng Quảng Đông của
Trung Hoa. Với thắng lợi này của phe Trục (gồm Đức, Ý, Nhật), Nhật đã gởi tối hậu
thư ngày 18/06/1940 cho Toàn Quyền Catroux đòi kiểm soát hai đường xe lửa Hải
Phòng-Vân Nam và Hà Nội-Lạng Sơn để ngăn không cho Pháp vận tải, tiếp tế
xăng dầu, vũ khí cho quân đội của Tưởng Giới Thạch. Toàn quyền Catroux phải nhượng
bộ và sau đó đã bị Đô Đốc Decoux, tư lệnh hải quân Pháp ở Viễn Đông lúc bấy giờ
lên thay thế.
Với hiệp ước ký ngày 30/08/1940 tại Tokyo giữa Pháp và Nhật thì
uy quyền của Pháp ở Đông Dương bắt đầu sút giảm, và ảnh hưởng của Nhật ngày
càng lấn lướt. Và với hiệp ước 08/12/1941 (sau khi oanh tạc Trân Châu Cảng), Nhật
đã ép chính phủ Pétain của Pháp đi đến nhiều nhượng bộ về quân sự và quân đội
Nhật được quyền đóng quân từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu với quân số buổi đầu từ
6.000 người nay tăng thành 35.000 người [1].
Và đặc biệt, Nhật lại có một vị Đại Sứ, ông Yoshizawa, bên cạnh
Toàn quyền Đông Dương, điều từ trước đến nay chưa bao giờ có. Như vậy tình thế
Đông Dương cho đến khi Nhật đầu hàng (15/08/1945), ngoài ông chủ cũ là người
Pháp, nay thêm một ông chủ mới cao hơn là người Nhật. Dân Việt bây giờ lại sống
trong cảnh “một cổ hai tròng”.
2. Bối cảnh kinh tế trước khi nạn đói xảy ra
Ngày 06/05/1941, Pháp lại phải ký với Nhật về một thỏa ước
thương mại trong đó có hai khoản chính yếu sau:
- Người Nhật và các công ty Nhật được làm một số nghề, được khai
thác hầm mỏ, đất đai, được kinh doanh về thủy điện...
- Các hàng hóa nhập cảng vào Đông Dương được hưởng quy chế tối
huệ quốc, một số mặt hàng được hưởng hối suất nhẹ. Theo thỏa ước này, Việt Nam
bị ép buộc phải sản xuất một số mặt hàng theo yêu cầu của Nhật để đổi lấy hàng
kỹ nghệ của họ. Việt Nam buộc phải cung cấp cho quân đội Nhật Bản đồn trú trên
lãnh thổ của mình một số lượng gạo khổng lồ được ấn đinh: 700.000 tấn năm 1941,
1 triệu 50 ngàn tấn năm 1942, 950.000 tấn năm 1943 và 900.000 tấn năm 1944 [2].
Một mặt họ đời hỏi cung ứng một lượng gạo lớn lao hàng năm như thế, mặt khác họ
lại buộc phải phá bỏ đất trồng lúa, trồng bắp để trồng đay, trồng gai phục v ụ
cho nhu cầu chiến tranh của họ. Đây là một trong số những yếu tố dẫn đến nạn
đói năm Ất Dậu (1945) khởi đi từ mùa Đông 1944 đến tháng 5/1945.
Năm 1944, vì bị áp lực của Nhật, chính quyền Pháp tại Đông Dương
đã ép giá nông dân Việt, chỉ trả 25 đồng cho một tạ lúa trong khi giá thị trường
trước đây là 200 đồng và giá vốn là 80 đồng. Tạp chí Thanh Nghị số ra ngày
26/02/1944 có kể lại tình cảnh bi thảm của dân quê Bác Kỳ lúc bấy giờ:”Ở Trung
Châu Bắc Kỳ, dân nghèo năm thì mười họa mới được ăn một miếng thịt, cả đến giai
cấp trung lưu, trung bình 20 gr một ngày, (trong khi) theo viện Pasteur thì phải
cần có 55 gr thịt một ngày (mới đủ). Dân ở nông thôn đại đa số là bần nông thì
chỉ dùng những dụng cụ bằng gỗ, rất ít có dụng cụ cơ khí, ngoài ra không có vốn
liếng gì cả. Ở Bắc Kỳ từ tháng 4 đến tháng 10, nông dân chỉ còn được 10% hoa lợi.
Nông dân đói ăn, mặc rét, kệ thây, thuế đã”.[3]
Khi Nhật chưa đến Đông Dương, Việt Nam chỉ đóng có 44.308.000 đồng
thuế năm 1939 đến năm 1944, tiền thuế tăng hơn gấp đôi (98.072.000 đồng). Dưới
áp lực của người Nhật, chính quyền Pháp tại Đông Dương ép dân Việt phải bán 3/4
số thóc thu hoạch được, nhiều trường hợp không đủ số thóc quy định, người dân
phải mua ngoài bù vào với giá 200 đồng một tạ.
Dân sống trong cảnh một cổ hai tròng (Pháp – Nhật), nên đời sống
ngày càng khốn đốn, sản xuất gặp những năm mất mùa, không đủ ăn, lại đóng thuế
quá cao nên người dân không còn gì để ăn cả. Trong “Việt Nam: A long
History” xuất bản tại Hà Nội, 1987, Ông Nguyễn Khắc Viện cũng đã đề cập đến
sự tàn tệ của người Nhật khi thúc ép chính quyền Pháp ở Đông Dương cung ứng chi
phí chiến tranh cho họ, ngoài sự tận thu thóc lúa và bóc lột đến tận xương tủy
của người dân khốn khổ.
Để cung ứng chi phí chiến tranh cho quân đội Nhật, chính quyền
Pháp tại Đông Dương đã phải ấn hành số tiền tệ cần thiết lên đến 723 triệu đồng
(cho tới năm 1943), gấp 7 lần ngân sách Đông Dương của năm 1939 và đến 1944 lên
đến 1 tỉ 52 triệu đồng. Vì vậy vật giá tăngcao chưa từng thấy trước đó. Dân
nghèo nông thôn gánh đủ hậu quả này. Gánh nặng lớn lao nhất vẫn là cung cấp gạo.
Ngay ở vùng Bắc Bộ, nơi đang thiếu ăn trầm trọng, thế mà đã phải cung cấp cho
Nhật 130.205 tấn (1943) và 186.130 tấn (1944). Bất kể vụ mùa tốt hay xấu, dân
quê cũng phải đóng số lượng gạo đã được phân bổ theo đất trồng trọt với giá 19
đồng cho một tạ lúa; trong trường hợp mất mùa, người dân đã phải mua gạo, theo
giá thị trường đến gấp ba (54 đồng cho một tạ gạo) [4].
Người nông dân đã không thể nào kiếm đủ ăn cho bản thân chứ chưa nói là cho gia
đình. Chính sách tận thu nông sản nghiệt ngã này đã đẩy người dân vào nạn đói
không thể nào tránh khỏi.
Để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, Nhật đã bắt nông dân phá bỏ
ruộng lúa để trồng đay trên một số diện tích rất lớn. Năm 1944, khi người Mỹ
ném bom ngan cản việc chuyên chở than đá về Sài Gòn, người Pháp và Nhật đã cho
lệnh sử dụng gạo và bắp (ngô) như là nguyên liệu để chạy máy. Họ tận thu thóc,
ngô cho mục tiêu này. Đây lại là lý do nữa dẫn tới nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu
(gạo ở miền Nam không chở ra Bắc được vì không có nhiên liệu để vận chuyển xe cộ,
tàu bè...)
Trong khi các dấu hiệu đói kém đã dần dần hiện rõ, thì năm 1941,
Nhật đòi 700.000 tấn gạo, Pháp chỉ cung cấp được 585.000 tấn. Năm 1942, Nhật
đòi 1 triệu 74 ngàn tấn, nhưng Đông Dương chỉ cung cấp được 973.908 tấn. Năm
1943, Nhật đòi 1 triệu 125 ngàn 904 tấn, Pháp chỉ nộp được 1 triệu 23 ngàn 471
tấn. Năm 1944, dù mất mùa nặng, ngũ cốc khan hiếm, Nhật vẫn đòi 900.000 tấn,
Pháp chỉ cung cấp được gần 500 ngàn tấn mà thôi. [5]
Ngoài gạo ra, Nhật đòi cung cấp thêm bắp (ngô) để nuôi ngựa. Năm
1942, Pháp phải cung cấp 124.923 tấn ngô. Năm 1943, cấp thêm 98.700 tấn. Năm
1944 vì số ruộng trồng ngô bị phá nhiều nên chỉ cung cấp được cho Nhật 18.263 tấn,
và đầu 1945 là 12.134 tấn.[6]
3. Nạn đói năm Ất Dậu (1945) xảy ra
Nghiêm Xuân Yêm đã viết: ”Những năm bình thường, dân nghèo
đói quanh năm, một ngày chỉ một bữa cơm độn khoai, (con một bữa cháo). Hết việc
ruộng đi làm mướn thất thường, quanh năm công nợ, nai lưng gỡ nợ, gỡ nợ rồi lại
mắc” [7].
Giáo sư Cao Thế Dung dẫn lại tài liệu của Decoux, “A la
Barre de l’Indochine” kể rằng: “Nạn đói Ất Dậu bắt đầu vào mùa Đông
1944 kéo dài cho đến tháng 5/1945. Ở Trung Châu Bắc Việt, gà vịt lợn biến mất,
dần dần biến mất cả chó, có những xóm không còn một con vật nào. Các tiểu nông
đi đến chỗ tuyệt vọng. Ruộng nương trâu bò phải bán đứt hay bán đợ. Lúa phải
bán non, đồ đặc phải cấm cố. Làng Thượng Cẩm, phủ Thái Ninh, Thái Bình có 900
suất đinh vào năm 1944, ngày 27/05/1945 chết hết còn 400. Nam phụ lão ấu
trong làng Thượng Cẩm Thái Bình là 4000 người chết đi còn lại 2000 người “ [8].
Một tác giả người Pháp đã kể lại trong “Témoignages et
documents français relatifs a la Colonisation française au Vietnam” cái cảnh
tượng thê thảm của nạn đói năm Ất Dậu đó như sau:”Họ đi thành rặng dài bất tận...toàn
thân lõa lồ, gầy guộc, trơ xương ra, run rẩy...Thỉnh thoảng, họ dừng lại để vuốt
mắt cho một người trong bọn họ ngả xuống và không bao giờ thức dậy được nữa...
Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết co quắp
cạnh đường chỉ có một vài nhánh rơm vừa làm quần áo, vừa làm vải liệm, người ta
thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”
Sau Tết Ất Dậu (1945), khoảng tháng 3, nạn đói ngày càng gia
tăng và con số người chết có lúc lên cả hai vạn người một ngày. Trong lúc đó lừa
ngựa của Nhật vẫn được nuôi ăn đầy đủ bằng bắp và gạo thu được từ trước và được
chất đầy trong các kho lương thực dọc theo quốc lộ 1, nhưng người Nhật vẫn
không cho mở các kho gạo ra để cứu trợ. Cho đến tháng 5/1945, có làng như làng
Thượng Cẩm, phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình, dân số ước chừng 4000 người thì chết
hết 2000 như đã nói ở trên. Và sau đây là những con số đáng ghi nhớ. Dân số
Thái Bình 700.200 người, chết đói khoảng trên 260.000. Nam Định là một vựa
thóc, dân số khoảng 680.000, chết đói 229.650 người. Ninh Bình dân số 200.000,
chết đói 37.936 người. Hà Nam, dân số khoảng 400.000, chết đói 50.383 người.[9] Theo
tổng kết của viên Toàn Quyền Decoux thì trận đói năm Ất Dậu (1945) đã khiến khoảng
1 triệu người chết, nhưng thực tế chắc con số này cao hơn nhiều.
Qua phần trình bày các tài liệu như trên đây thì lý do để giải
thích hợp lý cho trận đói năm Ất Dậu, ngoài lý do thiên tai, hạn hán, mất mùa,
là chính sách tàn ác của quân đội Nhật cho lệnh thu mua lúa gạo, ngô (bắp) tích
trữ; phần khác cho lệnh phá bỏ những cánh đồng trồng lúa, ngũ cốc để trồng đay
phục vụ cho nhu cầu chiến tranh khi phe trục Đức-Ý-Nhật đang làm mưa làm gió
trên toàn thế giới trong trận đệ nhị thế chiến. Dĩ nhiên, người ta không quên kể
đến lý do trong Nam không tiếp tế gì cho miền Bắc được vì các mõ than để chạy
xe tàu đã bị bom Hoa Kỳ đánh phá dữ dội và một số lượng gạo, ngô đã bị chính
quyền Pháp chế biến thành nhiên liệu phục vụ cho vận chuyển trong Nam. Và cũng
phải kể thêm nạn đầu cơ tích trữ lúa gạo của các thương buôn người Hoa, thành
phần nắm chủ lực về kinh tế từ nông thôn ra đến thành thị và từ cả miền Nam ra
đến miền Bắc, khiến người nông dân ngày càng kiệt quệ không sản xuất được mà
cũng không có tiền để mua thực phẩm.
Cốt lõi của thảm cảnh năm Ất Dậu vẫn là chính sách tàn ác vô
nhân đạo của người Nhật khi họ tràn vào xâm lăng Trung Hoa và Đông Nam Á. Họ biết
dân Bắc Việt đang đói kém ghê gớm, họ biết mỗi ngày có đến cả hàng ngàn người
chết đói nhưng họ vẫn không mở kho lương thực nào để cứu đói cả và theo sự thú
nhận của một viên chức Nhật quản lý lúa gạo sau khi Nhật đảo chánh (09/03/1945)
thì “gạo vẫn được chất cao như núi trong các kho vựa của Nhật” [10].
Thật quả đây là một tội ác chiến tranh của người Nhật trong đệ nhị thế chiến mà
chính họ khó gột bỏi hình ảnh xấu xa này trước công luận thế giới và trước
lương tâm nhân loại.
San Jose, Mùa Xuân Ất Dậu 2005
Gs. Lê Đình Cai
(viết để ghi nhớ những nỗi đau của dân tộc Việt).
Một cơn
gió bụi vừa tan (1)
Hai triệu sinh linh đã mất (2)
Khí oan tối cả mây trời
Thây lạnh phơi đầy cỏ đất
Hỡi ôi:
Chung khí non sông
Cùng mang tai mắt
Vẫn giống thông minh
Vốn dòng cường quật
Cớ sao không Nam Bắc vẫy vùng
Ðể cam chịu cơ hàn (3) bứt rứt
Ðáng lẽ nay bốn bể tranh hùng,
chí những tưởng giật cờ cứu nước,
sống xông pha nơi bão đạn rừng gươm.
Mà ngán nhẽ một thời cơ nhỡ,
lòng mải theo manh áo lưng cơm,
chết thê thảm nơi hang cùng ngõ khuất.
Thương thay:
Hồn đã rất cao
Lòng vì quá chất
Những tưởng giỏ cơm bầu nước,
đám lợi danh mây nổi bèo trôi.
Nào ngờ tháng lại ngày qua
trường tranh đấu mưa dày gió rựt.
Việc bốn mùa nào xây cống đắp đê,
nào làm đường xẻ đập,
huyết hãn kia bồi đắp lấy non sông.
Thân bảy thước khi dầm sương dãi nắng,
khi gội gió tắm mưa,
xương thịt ấy phải đâu là đá sắt.
Ðã mỏi xác cân đay nộp lạc,
thóc được ít lại liên đoàn(4) lấy hết,
ách tham tàn càng gánh càng đau.
Từng mòn chân khi chạy thuế lo sưu,
tiền đã còn hương lý xoay quanh,
dây cơ khổ mỗi ngày mỗi thắt.
Cho đến khi:
Hạt tấm không còn,
Ðồng chinh cũng mất
Những tưởng túng qua
Ngờ đâu đói thật
Trong vợ con lòng đã xót lòng
Ngoài hương xóm mặt càng rõ mặt.
Trước còn định dây khoai rễ má,
lần hồi sao bữa đến qua loa.
Sau đành đem tháo bếp dỡ nhà
xoay sở mãi ngày càng héo hắt.
Ðầu bù tóc rối,
dắt díu nhau nơi quán đổ lều nghiêng.
Áo cói quần rơm,
chua xót mấy khi mưa dầm nắng gắt.
Ngẫm thủa trước, cảnh nghèo cũng lắm,
chữ cương thường còn giữ dạ đinh ninh.
Mà ngày nay nỗi khổ không cùng,
dây thân ái cũng nghiến răng dứt đứt.
Mẫu tử tình thâm,
ôi một mái tơ xanh nào đã tội,
bỏ u ơ cuối chợ đầu đường.
Phu thê nghĩa nặng,
hẹn trăm năm đầu bạc cũng sai lời,
sớm đau đớn người còn kẻ mất.
Biết đi đâu ? Bốn phương mờ mịt,
trời lờ như điếc, đất như câm.
Hỏi cùng ai ? Những bóng bơ vơ,
ruột rát tựa bào, gan tựa cắt.
Lang thang chi phách ở hồn đi!
Thảm thiết nhẽ ngày tàn bóng tắt!
Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu
Có người đến bên cây ngã vật
Có khi ngõ vắng gieo mình
Có lúc vườn sau thở hắt
Có những quán: hàng bao xác lạnh,
bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng.
Có nhiều nơi: một nắm xương khô,
từng nắng giãi mưa dầu không kẻ nhặt.
Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn.
Từng đống trên xe chồng chồng, chất chất.
Ôi nói ra những toát mồ hôi
Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt!
Hai triệu sinh linh đã mất (2)
Khí oan tối cả mây trời
Thây lạnh phơi đầy cỏ đất
Hỡi ôi:
Chung khí non sông
Cùng mang tai mắt
Vẫn giống thông minh
Vốn dòng cường quật
Cớ sao không Nam Bắc vẫy vùng
Ðể cam chịu cơ hàn (3) bứt rứt
Ðáng lẽ nay bốn bể tranh hùng,
chí những tưởng giật cờ cứu nước,
sống xông pha nơi bão đạn rừng gươm.
Mà ngán nhẽ một thời cơ nhỡ,
lòng mải theo manh áo lưng cơm,
chết thê thảm nơi hang cùng ngõ khuất.
Thương thay:
Hồn đã rất cao
Lòng vì quá chất
Những tưởng giỏ cơm bầu nước,
đám lợi danh mây nổi bèo trôi.
Nào ngờ tháng lại ngày qua
trường tranh đấu mưa dày gió rựt.
Việc bốn mùa nào xây cống đắp đê,
nào làm đường xẻ đập,
huyết hãn kia bồi đắp lấy non sông.
Thân bảy thước khi dầm sương dãi nắng,
khi gội gió tắm mưa,
xương thịt ấy phải đâu là đá sắt.
Ðã mỏi xác cân đay nộp lạc,
thóc được ít lại liên đoàn(4) lấy hết,
ách tham tàn càng gánh càng đau.
Từng mòn chân khi chạy thuế lo sưu,
tiền đã còn hương lý xoay quanh,
dây cơ khổ mỗi ngày mỗi thắt.
Cho đến khi:
Hạt tấm không còn,
Ðồng chinh cũng mất
Những tưởng túng qua
Ngờ đâu đói thật
Trong vợ con lòng đã xót lòng
Ngoài hương xóm mặt càng rõ mặt.
Trước còn định dây khoai rễ má,
lần hồi sao bữa đến qua loa.
Sau đành đem tháo bếp dỡ nhà
xoay sở mãi ngày càng héo hắt.
Ðầu bù tóc rối,
dắt díu nhau nơi quán đổ lều nghiêng.
Áo cói quần rơm,
chua xót mấy khi mưa dầm nắng gắt.
Ngẫm thủa trước, cảnh nghèo cũng lắm,
chữ cương thường còn giữ dạ đinh ninh.
Mà ngày nay nỗi khổ không cùng,
dây thân ái cũng nghiến răng dứt đứt.
Mẫu tử tình thâm,
ôi một mái tơ xanh nào đã tội,
bỏ u ơ cuối chợ đầu đường.
Phu thê nghĩa nặng,
hẹn trăm năm đầu bạc cũng sai lời,
sớm đau đớn người còn kẻ mất.
Biết đi đâu ? Bốn phương mờ mịt,
trời lờ như điếc, đất như câm.
Hỏi cùng ai ? Những bóng bơ vơ,
ruột rát tựa bào, gan tựa cắt.
Lang thang chi phách ở hồn đi!
Thảm thiết nhẽ ngày tàn bóng tắt!
Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu
Có người đến bên cây ngã vật
Có khi ngõ vắng gieo mình
Có lúc vườn sau thở hắt
Có những quán: hàng bao xác lạnh,
bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng.
Có nhiều nơi: một nắm xương khô,
từng nắng giãi mưa dầu không kẻ nhặt.
Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn.
Từng đống trên xe chồng chồng, chất chất.
Ôi nói ra những toát mồ hôi
Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt!
***
Hỡi những bóng điêu linh
Hỡi những hồn oan uất
Mà đường khuya quãng vắng lang thang
Trên ngọn cỏ đầu cây lẩn khuất!
Ta đã trông những hình rã rượi,
mẹ khóc con trong sương lạnh trăng mờ.
Ta đã nghe những tiếng thảm thê,
già bảo trẻ dưới mưa lay gió lắt.
Nghĩ thương kẻ còn đau khổ mãi,
nỗi oan buồn máu biếc không tan (5)
Mà biết ai chưa trả thù xong,
lửa oán giận gan vàng chẳng tắt.
Oán đã đành những kẻ xâm bang:
giết người, cướp của, thỏa dạ tham tàn
Giận biết mấy cho quân đồng loại:
tham nhũng, đầu cơ, riêng mình khoái dật.
Ngán nhẽ lầu son gác tía,
chén phong lưu những máu chan hòa.
Gớm cho mũ bạc đai vàng,
đài vinh hiển bằng xương cao ngất!
Nay gặp buổi:
Súng dân quân dậy sóng ầm ầm
Cờ khởi nghĩa ngất trời phới phất
Ðèn quang minh đương độ soi cao
Gươm chính khí đến ngày tuốt phắt.
Bao phường cướp nước không tha
Những lũ buôn nòi sẽ bắt
Hận thù kia rồi trả phân minh,
Oan thác nọ sẽ đền chu tất.
Cho ai chín suối ngậm cười.
Ðể khách năm châu tỏ mặt.
Chỉ đáng tiếc sống xưa chửa kịp đem thân nọ
đền bù đất nước,
phải ngậm hờn cùng hoa cỏ ủ ê.
Thì ngày nay chết phải làm sao để hồn kia
chói lọi trời mây,
mà bảo vệ lấy giang sơn vững chặt.
Giúp đồng bào cho trăm triệu sống an vui
Dựng độc lập để nghìn thu cờ vững ngất.
Hỡi những hồn oan uất
Mà đường khuya quãng vắng lang thang
Trên ngọn cỏ đầu cây lẩn khuất!
Ta đã trông những hình rã rượi,
mẹ khóc con trong sương lạnh trăng mờ.
Ta đã nghe những tiếng thảm thê,
già bảo trẻ dưới mưa lay gió lắt.
Nghĩ thương kẻ còn đau khổ mãi,
nỗi oan buồn máu biếc không tan (5)
Mà biết ai chưa trả thù xong,
lửa oán giận gan vàng chẳng tắt.
Oán đã đành những kẻ xâm bang:
giết người, cướp của, thỏa dạ tham tàn
Giận biết mấy cho quân đồng loại:
tham nhũng, đầu cơ, riêng mình khoái dật.
Ngán nhẽ lầu son gác tía,
chén phong lưu những máu chan hòa.
Gớm cho mũ bạc đai vàng,
đài vinh hiển bằng xương cao ngất!
Nay gặp buổi:
Súng dân quân dậy sóng ầm ầm
Cờ khởi nghĩa ngất trời phới phất
Ðèn quang minh đương độ soi cao
Gươm chính khí đến ngày tuốt phắt.
Bao phường cướp nước không tha
Những lũ buôn nòi sẽ bắt
Hận thù kia rồi trả phân minh,
Oan thác nọ sẽ đền chu tất.
Cho ai chín suối ngậm cười.
Ðể khách năm châu tỏ mặt.
Chỉ đáng tiếc sống xưa chửa kịp đem thân nọ
đền bù đất nước,
phải ngậm hờn cùng hoa cỏ ủ ê.
Thì ngày nay chết phải làm sao để hồn kia
chói lọi trời mây,
mà bảo vệ lấy giang sơn vững chặt.
Giúp đồng bào cho trăm triệu sống an vui
Dựng độc lập để nghìn thu cờ vững ngất.
Tháng 5 năm 1945
___________________
(1) Gió bụi, chữ Hán là
"phong trần" chỉ những biến cố lớn lao làm đảo lộn hoàn toàn cuộc
sống của con người. Ở đây, tác giả muốn chỉ cuộc đánh chiếm Ðông Dương của
phát-xít Nhật và nạn đói khủng khiếp do chúng gây nên hồi giữa thập kỷ 40 của
thế kỷ 20.
(2) Nạn đói do phát-xít
Nhật gây ra năm 1945 đã làm cho hơn 2 triệu dân ta bị chết đói.
(3) Cơ là đói kém, hàn
là lạnh buốt. Cảnh cơ hàn là cảnh đói rét. Ở đây tác giả nói tới cảnh chết đói
năm 1945.
(4) Liên đoàn: Tổ chức
do bọn Nhật lập ra hồi những năm 1944 - 1945 chuyên thu mua thóc của dân ta.
(5) Máu biếc (Bích
huyết): Trương Hoàng đời Chu bị chết oan ở nước Thục, ba năm đào mả lên, thấy
máu không tiêu mà lại hóa ra sắc biếc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét