Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

THẢM CẢNH QUÊ NHÀ

Khoảng 2 triệu bộ hài cốt những người chết đói tại nhà
 tưởng niệm HỢP THIÊN- HÀ NỘI
Hơn 2 triệu người đã chết vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005 này, chúng ta hãy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi đau ấy... 


Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cái đói. 

Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tròn một vòng quay 60 năm của vũ trụ. 


Tiết xuân thanh khiết, đằm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời. 

Từ thành phố Thái Bình xe chạy chừng nửa tiếng đồng hồ thì đến xã Tây Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như phố; người xe vui như hội. Cảnh thái bình no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười. Nhưng 60 năm trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc... 


Bàn chân quỷ đói 



Ông lão khoan thai quắc thước không giấu vẻ mãn nguyện của cảnh đề huề phúc lộc. Ông là Lại Thanh Hằng, người thôn Trung Tiến, tuổi 77, sức vẫn khang cường, vợ chồng yên ấm, nhà cửa đàng hoàng. Gần chục người con đều đã nên gia thất, tài danh hưng vượng. Nhưng câu chuyện của 60 năm xa xưa ấy đã làm ông bật khóc. Tiếng nấc khô khốc và giọt nước mắt người già thấm qua những nếp nhăn sâu hằn, bật lên nỗi đau khổ tột cùng. 

Ông kể: Ngày ấy, gia đình ông cũng như bao nông dân khác nối đời sống bên ruộng lúa, vườn khoai. Cái bóng của đồn Tây và cổng đình bao năm đè nặng kiếp người. Đường làng khi in thêm dấu giày lũ Nhật lùn thì cuộc sống ngày càng ngột ngạt bởi sưu cao thuế nặng. Cái khô ngái của giong, khoai, củ chuối... ngày một đậm đặc trong nồi cơm. 


Thế nhưng nạn đói tàn khốc nhất lịch sử chính thức ập đến từ vụ mùa năm 1944. Năm ấy điềm trời hung gở khác thường. Không chỉ cánh đồng mấy trăm mẫu của Tây Lương mà khắp nơi đâu đâu lúa cũng chết vàng. Lúa dâu, lúa di, lúa tám đều bị hoàng trùng (nay gọi là rầy) phá hết. Nhà ông cấy 2 mẫu nhưng sau khi trừ tô thuế đem về được hơn 1 tạ thóc. Đó là lương thực của bốn người lớn trong suốt sáu tháng dài ròng rã. 

Bố mẹ ông bàn tính gì đó rồi mỗi bữa cơm cắt bớt phần gạo. Dần dần bớt cả bữa ăn. Năm đó ông 17 tuổi, sức đương trai nhưng mỗi ngày cũng chỉ có nửa bát cơm, hai củ khoai. Sau rồi mỗi sáng ông đi chăn trâu, mẹ ông cho một nắm thóc rang vừa đầy một lòng bàn tay. Ông gói qua mấy lần lá rồi vài tiếng lại lấy ra vã vào mồm nhai cả trấu, chia đều cho cả ngày dài. 

Đêm đêm gia đình ông hì hụp ngoài sông Sứ cất vó tép. Ba, bốn người ngoi ngóp cả đêm may ra hôm sau đem ra chợ đổi được một chén thóc. Có hôm không ai mua thì đem về đổ vào nồi nấu cháo. Đầu tháng giêng, mẹ ông bắt đầu đem nồi đồng, mâm, ấm, lư hương, tủ thờ... đi bán. 

Rồi bố ông dắt trâu xuống huyện cầm cố đem về được 2 yến thóc. Mẹ ông giấu lúa vào bì, lấy gỗ đá, cối xay chất lên làm sao để không ai có thể lấy ra được. Chỉ mình bà biết một cái lỗ thông bằng mắt trâu có thể thọc tay móc ra ít một. Thỉnh thoảng bố ông nói: “Bọn cướp đang rình nhà mình...” rồi ông kê chõng ngủ bên ngoài với một cái thuổng sắc. 
Nhà ông bắt đầu phải giết chó, giết lợn, giết gà… Không chỉ để ăn, mà bởi cũng không còn gì để nuôi nó. Có nhà phải giết chó mẹ và 4 chó con vừa mở mắt. Hết gia súc, gia cầm, người ta đào củ chuối, hái rau rệu, rau má, bẻ cây ngô, mò ốc, đào cua, bắt cà niễng, cào cào, châu chấu… để ăn. Cầm cự đói, nhà ông cùng dân làng ra đồng bắt chuột. 
Chuột năm ấy chậm chạp, lại dạn người có lẽ cũng vì đói và liều nên rất dễ bắt. Thời gian đầu còn chuột thì chúng được nấu giả cầy, nướng lá chanh, hấp chấm muối, bó giò... Nhà ông còn kho đến mấy nồi đất toàn chuột nấu đông ăn dần. Sau hiếm chuột. Bắt được một con cả nhà mừng như phá cỗ, nướng qua loa rồi xé vội vàng ăn... 
Tất cả các loại cây đu đủ, dứa dại, chuối, giong... ngoài đường, trong vườn đều bị đốn ăn không còn một mống. Có gia đình đói quá nghiền trấu, trộn mùn cưa vào cháo ăn. Cháo ít hồ dần, cuối cùng toàn mùn cưa với trấu. Làng bên còn có người ăn cả đất. Lại có người ngày nào cũng chạy theo mấy con ngựa của Nhật, Tây để hốt phân của nó về đãi lấy hạt ngô chưa bị tiêu hóa để ăn... 
Cái đói giày vò, đày đọa con người đến cùng cực. Nó cào ruột suốt ngày đêm. Nó mở banh con mắt không cho ngủ. Nó kéo bàn chân lê khắp ruộng, khắp làng. Nhà mình đói, làng mình đói thì nhà người ta, làng người ta cũng đói nên có gì đâu mà kiếm. Nhưng cái đói nó không cho ngồi, nó bắt phải đi. Kể cả đi đến nơi mà hôm qua vừa bỏ về… 


Làng quê tan hoang xơ xác. Cỏ dại lút đầu gối mọc khắp đường đi, sân nhà, ngõ xóm. Tiếng trẻ con khóc như mèo hoang ai oán suốt đêm. Người người đổ hết ra đường, lê la ngoài bụi chuối, cánh đồng. Cái lạnh thấu xương, bóng đêm đen đặc xuyên qua cái tết lúc nào chẳng hay… Cả thế gian là một màu vàng vọt, xiêu vẹo của đói và đói... Bắt đầu đã có người chết đói trong làng… 


Người khiêng xác 

Chỉ ra vườn chuối phía sau nhà, ông Hằng nghẹn ngào nói: “Cái chết đau thương nhất đối với tôi là bác Ngảnh, đó là bác ruột tôi và cũng là một trong những người đầu tiên của thôn chết đói. 

Thật ra thì bắt đầu khoảng rằm tháng giêng đã có người chết đói ngoài chợ, ngoài đồng. Những gương mặt phù thũng, những ánh mắt thất thần, những thân hình tiều tụy dúm dó bên đống rạ, bụi chuối... đã mang nặng bóng dáng của thần chết rồi. 

Nhưng nửa đêm nghe tiếng khóc khô khản vẳng ra từ nhà người thân thì tôi thật sự hãi hùng. Bác Ngảnh chết lạnh cứng đờ, người co quắp trong ổ rơm. Lật thân hình da bọc xương, dúm dó trong mấy miếng vải rách nát, tôi thấy mấy sợi rơm còn vương trong miệng bác. Đó cũng là người đầu tiên trong họ nhà tôi chết đói”. 
Khiêng người bác ra đồng chôn, về đến nhà lại có người nhờ bố con ông Hằng đi chôn người chết. Và bắt đầu từ đấy người chết đói trong làng đếm không xuể. Bố con ông Hằng là một trong số ít người còn đủ sức để chuyên đi chôn người chết. 
Hồi tháng hai, tháng ba, người chết còn được chôn bó chiếu. Sau đến tháng tư, năm cả làng chết đến mấy trăm người thì không ai còn sức, chẳng nhà nào còn đủ chiếu chăn thì bó xác người bằng vó, bằng lưới, vùng biển thì bằng mảnh buồm. Có khi bó một người lớn với hai ba đứa nhỏ trong một tấm vó. 
Ông Hằng thấp hơn nên thường đi trước. Ông nhớ có hôm mình phải đi chôn 4-5 người, mệt quá không nhấc cao tay lên được. Cái đầu người chết thả trễ xuống đất cứ đập bình bịch vào gót chân ông theo mỗi bước đi. Ông Hằng trở thành người chuyên chôn xác đói lúc nào không hay. 


Bà Hoàng Thị Chén, 87 tuổi, người thôn Hiên, nói: thôn này lúc cao điểm một ngày chết mấy chục người. Cả người thôn mình lẫn người nơi khác đến đây rồi chết. 

Cứ sau mỗi đêm lạnh là lại la liệt xác người trong nhà ngoài ngõ, giữa đồng. Tuần đinh lấy dây buộc vào cổ tay, cổ chân, cổ họng người chết rồi kéo lê ra hố quăng xuống. Sau này chồng bà cùng những người khác đào hố lên thấy có những đám cả 4-5 người bị chôn ở tư thế ngồi, họng còn thắt sợi dây thép. 

Ông Lê Văn Bình ở huyện Đông Hưng còn kể: bấy giờ ở những khu phố hay cổng làng nhà giàu, quan lại người ta còn phải thuê người đem xác dân chết đói đi chôn, tránh thối rữa trong làng xã, khu phố. Giá ban đầu là một đồng một xác người, sau hạ xuống 5 rồi 3 hào. Có tay làm ăn dối trá, đào hố nông choèn, vùi lấp qua loa. Vài ngày chuột, quạ, sâu bọ lại bới lên thối không chịu được... 


QUANG THIỆN 




DƯỚI ĐÁY CỦA ĐỊA NGỤC


Chết vì đói là cái chết đáng sợ nhất của bất cứ sinh vật nào. Cái chết đến từ từ, không ngừng giày xéo, đày đọa con người trong đau đớn, tủi nhục và sợ hãi. Thế nhưng nạn đói năm 1945 còn gây nên những tấn thảm kịch mà không ai có thể tưởng tượng được. 


Nhà hoang - làng trắng 


Trong căn nhà bêtông lát gạch được tô điểm bằng những chậu hoa, cây cảnh điệu đàng, gia đình ông Tô Văn Nuôi (xóm Trại, Tây Lương - Thái Bình) rộn rã tiếng cười quanh đứa bé 5 tháng tuổi bụ bẫm đáng yêu như hòn ngọc quý. Ông Nuôi là người đàn ông duy nhất trong dòng họ Tô của xóm Trại sống sót qua nạn đói 1945. 

Bà Duy - cô ruột của ông, năm nay 87 tuổi - kể lại: “Chính trên nền đất này bố tôi đã chết hồi tháng hai năm đó. Mấy tuần sau mẹ tôi chết cứng lạnh khi ba chị em tôi vẫn ôm bà ngủ trong ổ rơm. Cả họ chết dần và đến tháng tư còn lại một mình nó (ông Nuôi)...”. 

Ông Nuôi khi ấy mới 5 tuổi nhưng bà Duy cũng không biết làm thế nào giúp cháu. Thậm chí bà cũng không còn nhớ là có một đứa cháu bị đánh rơi, bởi chính chồng con bà cũng chết vì đói, bản thân bà cũng đã phù thũng mặt mày, nằm gục rồi lại dậy, không biết còn sống đến hôm nào. 

Ông Nuôi cũng không còn nhớ chút gì về gương mặt, tình cảnh hay cái chết của bất cứ ai trong nhà mình. Ông chỉ biết rằng một mình ông hết sáng lại tối, không quần áo bò lê quanh nền bếp đầy rơm, muỗi và thạch sùng. Nhà không một bóng người. Xóm cũng không ánh đèn, không tiếng người, tiếng chó. Ông Nuôi không thể nhớ mình đã sống qua ngày ấy như thế nào, đó là địa ngục hay trần gian. 
Ông nói: “Có lẽ tôi bốc tất cả những gì mình gặp để cho vào mồm. Khóc rồi bò. Bò rồi ngủ...”. Mãi 15 năm sau, khi ông lấy vợ thì căn nhà ấy mới có thêm một con người. 


Bà Hoàng Thị Chén (thôn Hiên, Tây Lương) kể rằng mỗi đêm làng lại thưa thớt thêm vài ánh đèn. Ấy là khi lại có nhà chết hết hoặc chết gần hết và bỏ đi. Thậm chí nhiều làng, nhiều xóm không còn một ai. Vườn chuối nhà bà hôm nay, 60 năm trước là nhà ông Hoàng Bê, họ hàng của bà. 

Một hôm bà thấy mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, chạy sang thì cả sáu người nhà ông Bê nằm chết dụi mỗi người một xó. Thây người thối rữa, chuột, bọ, kiến, muỗi... nhâu nhâu. Dân làng đến kéo sập mái nhà vách đất rồi châm lửa đốt... Ông Lại Thanh Hằng (thôn Trung Tiến, Tây Lương) cũng kể khi nghe báo nhà bà Lụt chết cả ba mẹ con trong bếp, chuột ăn, bọ rúc hết rồi..., dân làng lấy xẻng xúc đất lấp nhà bà Lụt. 

Theo điều tra của Viện Sử học, chuyện tương tự đã diễn ra ở cả ba gia đình thuộc xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa. Đó là nhà ông Cao Nhuần Sặng, Trình Văn Tự, Nguyễn Văn Tự đều chết cả nhà, không ai chôn được nên làng kéo sập nhà vùi tại chỗ. 

Dòng họ Tô của ông Nuôi có 35 người thì chết 31 người. Dòng họ Hoàng của nhà ông Hoàng Bê có 31 người - chết 26 người, còn hai người nữa sống chết nơi nào chẳng rõ. Tình trạng chết cả nhà, cả dòng họ, cả xóm, thậm chí cả làng không còn một người diễn ra ở không ít địa phương miền Bắc lúc bấy giờ. 
Riêng ở xóm Bối Xuyên, xã Tây Lương có 51 hộ thì 40 hộ có người chết đói. Trong đó 18 hộ chết không còn ai. Hai dòng họ Tô và Lại gần như bị xóa sổ. Tỉ lệ chết đói là 62%. Đặc biệt xóm Trại ở thôn Thượng có 21 hộ, 82 nhân khẩu đều chết không còn một ai. Xóm bị xóa sổ. 


Bi thương hơn chết đói 


Ông Nguyễn Văn Thiết (xã Tây Ninh, Tiền Hải - Thái Bình) nói: “Tôi không nhớ là nhà ai trong xã, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm trước. Vợ không còn sữa cho con bú, không có gì để ăn nên để con ở nhà lang thang đi kiếm ăn. 

Không kiếm được gì, người mẹ biết mình sẽ chết, không thể về vì đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị thì thấy đứa bé chỉ còn trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ”. 

Đoàn cán bộ điều tra nạn đói của Viện Sử học cũng ghi lại rất nhiều chuyện trẻ sơ sinh không người trông, tiếng khóc khi đói lả giống tiếng mèo nên đã bị chó hoang ăn thịt như thế... 


Họa diệt thân năm ấy đến bằng đủ cách. Ông Hằng nhớ ở làng có gia đình nhà ông Tác rất giàu có nhưng cũng chết đói cả nhà. Khi nạn đói ập đến, dân tình đem đủ đồ đạc, của cải, đồ gia bảo ra chợ bán tống bán tháo để lấy tiền mua gạo. Có cái nồi đồng bình thường đổi vài tạ thóc, lúc ấy chỉ đổi được vài ống lúa. 


Nhà ông Tác đem hết thóc lúa đổi của cải. Khi hết lương thực dự trữ, ông bán đồ đạc thì không ai có tiền mua nữa. Thế là cả nhà chết rục bên mấy kho của cải. Riêng xã Tây Lương cũng có tới ba, bốn nhà giàu chết như vậy, như nhà ông Nguyễn Văn Tứ, Bùi Văn Dị. 

Ở Thanh Hóa còn có người đào được vàng năm 1934 và trở thành hào phú, nhưng vì mua sắm nhiều thứ của người đói bán rẻ năm 1945 nên đến lúc hết tiền, bị đói không bán đồ được cũng chết. Ông này khi chết còn mặc áo dài, đội khăn xếp co quắp ở gốc phi lao... 


Đói ăn vụng, túng làm liều. 


Ông Hằng kể: tháng ba Ất Dậu biết tin có thuyền thóc của Hàn Thùy (một hội đồng dân biểu) chở về qua sông Trà Lý, năm, sáu ông là Xiêm, Trật, Đót, Hỷ, Uẩn, Phiên... bày mưu cướp thóc. Đêm ấy họ đã ăn trộm được mỗi người một bị lúa chừng 10kg. Lệnh quan truy nã, tội phạm không ai kịp ăn đã phải đem lúa đi chôn. 

Ông Đót bị bắt trói vào cột ven đường. Tên lính Nhật vung kiếm chẻ đôi vai, máu nhuộm đỏ chiếc áo bông rách nát. Những người còn lại cũng dần bị bắt rồi chết hết. Số lúa họ cướp được đem đi chôn ở đâu không ai biết. Tài liệu của Viện Sử học còn ghi câu chuyện ông Nguyễn Văn Hợp (xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa) đi lĩnh cháo phát chẩn. Chen nhau, bị hương kiểm bắt đánh đập, tẩm dầu vào tay đốt. Ông lết về đến nhà thì chết. Cả nhà cũng chết theo không còn một ai… 

Cũng ở xã này, vợ chồng ông Viên Đình Thiện đói quá không chịu được cứ bốc vỏ trấu nhét mồm nhai mãi không chán. Nhai đến một lúc chồng lăn ra chết rồi vợ cũng chết theo, thối rữa ở trong nhà. Người làng đặt xác họ vào cái bồ rồi kéo đi chôn. 

Ngoài thị xã Thái Bình có người bán cám cho Nhật để chúng cho ngựa ăn. Loại cám này những người bán hàng đã pha mùn cưa để bán cho người đói nhưng lính Nhật mua và cho rằng bị lừa nên đã mổ bụng ngựa, giết chết người bán cám và nhét vào bụng con vật mà khâu lại… Những câu chuyện rùng rợn và bi thương của nạn đói khiến nhiều người ám ảnh suốt cuộc đời. Họ không muốn nhắc lại vì dường như sợ những oan hồn ấy còn quanh quất đâu đây. 




        HÀNH TRÌNH CỦA NHỮNG “HỒN MA”


Lũ lượt những đoàn người như hình nhân bỏ quê hương tìm lên phố xá, mong kiếm thứ bỏ vào mồm. Và cuộc hành trình ấy kéo dài từ xó nhà đến Hà Nội đã biến con người thành hồn ma xác quỉ. Hoặc là gục chết bên đường hoặc ngoai ngoác sống trong khổ nhục... 

Đoạn trường đày ải 

Nghe chúng tôi nhắc tới hình ảnh những người đói kéo nhau lên Hà Nội, bà Chén (xã Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) cố ngước đôi mắt mù lòa, lẩy bẩy đôi chân còm nhưng đã phù đỏ để đi ra ngõ. Bà nhớ từ cái ngõ này, 60 năm trước bà đã ôm con hòa cùng đoàn người lê theo sự dẫn dắt của cái đói. 
Đi đâu, về đâu thì không ai biết nhưng cứ từng đoàn từng đoàn rách rưới, giơ xương, trũng mắt như quỉ đói âm thầm, dắt díu nhau đi. Họ không phân biệt được nam nữ, già trẻ. Chỉ có thể thấy những thân hình dài ngắn không đều mà đoán trẻ con hay người lớn mà thôi. Họ đi chậm. Không ồn ào, không cười nói. Thỉnh thoảng có người đổ gục xuống đường không giãy giụa. Nhiều thây người bất động, mắt mở trừng trừng không biết sống hay chết. 
Tại các cổng chợ, ngã ba, đầu cầu, gốc cây họ nằm ngồi la liệt chìa tay ăn xin hay bới tìm lục lọi. Ngay đầu chợ, một người đàn bà có vẻ giàu có đi ngang qua, không hiểu bà ta kinh tởm hay ốm đau thế nào mà ôm bụng gập người nôn thốc nôn tháo. Hai ba đứa trẻ vội lao vào tranh nhau bốc bãi nôn, hối hả nhét vào mồm… 
Bà Chén cũng gặp nhiều người ôm con nhỏ như mình. Những đứa trẻ còn sức thì khóc, không còn thì lả gục trên vai mẹ. Một người đàn bà xin được chút gì đó để ăn, bà ta kéo đầu con để chia cho nó. Gọi hồi lâu người mẹ ấy mới biết con mình đã chết tự khi nào. Trong góc chợ lại có một người đàn bà nhe răng, trợn mắt nằm co quắp chết bên hai đứa trẻ. 
Thằng bé chắc chừng một tuổi không biết gì cứ hì hục nhay vú mẹ cho đến tận lúc tối trời. Bà Chén đi hai ngày một đêm như thế thì đến thị xã Thái Bình… Một số chết, một số ở lại, còn bà Chén và những đoàn người đói rách vô hồn đó cứ như thế tiếp tục đi lên Hà Nội… 
Trong Viện Sử học VN có lưu một bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy viết tháng 4-1945 tả về thảm cảnh của những cuộc hành trình này: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. 
Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người trong bọn đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”. 

Nhân tính tiêu tan... vì đói 

Lục tìm trong tâm khảm sâu thẳm, đau đớn nhưng chắc hẳn còn sáng rõ của mình, bà Chén nói: “Ánh mắt người đói lúc đó không có màu, không có thần. Nhiều lúc họ xử với nhau như thú đói, không nhân tính...”. Bà Chén lúc ấy bế một đứa con nhỏ trên tay. Dành dụm suốt từ đầu vụ đói, bà còn được mấy hào trong túi để dành cho chuyến đi này. 

Chợ Bo (thị xã Thái Bình) lúc đó là một bãi đất được căng lên những mảnh nilông, đay hay lá khô trên những chiếc cọc tre xiêu vẹo. Cả một biển người nằm ngồi lê la bới rác, xin ăn chập chờn như những bóng ma. Vài người ngồi xổm ánh mắt láo liên đầy cảnh giác bên những cái thúng úp mẹt và thường là có thêm một, hai người đàn ông to khỏe dựng đòn gánh đứng bên. 
Đó là những người bán hàng. Khoai, ngô, hay bánh cám, bánh đúc… trộn đầy trấu hoặc mùn cưa… Ai mua hàng phải chìa tiền. Đứng tới nửa ngày bà Chén mới cảm thấy có thể an toàn để lại gần người bán bánh hỏi mua. Thế nhưng đang định xé bánh cho con thì cả đám người đang nằm như thây ma vùng dậy vồ lấy mẹ con bà, tranh nhau chiếc bánh. 
Những ngày sau, trên dặm hành trình địa ngục ấy, tất cả số tiền bà có đủ để mua ba chiếc bánh thì bà đều bị cướp hết. Cuối cùng bà cũng chỉ còn cách chờ nhặt rác rưởi, cọng rau, xin ăn và tham gia cướp của kẻ khác như họ đã cướp của bà để ăn. Bà không nhớ mình đi mấy ngày, mấy tuần hay mấy tháng thì tới Hà Nội. 
Con trai bà Chén năm nay cũng đã ngoài 60 tuổi. Anh nói: “Những câu chuyện cướp bóc, thú tính trong nạn đói, 60 năm qua mẹ tôi không bao giờ muốn nhắc lại. Chỉ có một lần bà kể cho tôi nghe một câu chuyện kinh hoàng: khi bế con đi Hà Nội, qua sông Long Hầu bà thấy có hai bố con nhà nọ đói lả, phù thũng, chắc là sắp đến lúc chết. Người con chừng 7-10 tuổi. 
Không hiểu lúc ấy họ kiếm được thứ gì, chắc là có thể ăn được nên hai người tranh nhau rất dữ. Đứa con co cả người nắm chặt tay bố. Hồi lâu đẩy con ra không được, người cha liền co chân đạp con xuống cầu. Đứa trẻ cố níu lấy thành cầu, hai mắt không rời miếng ăn trên tay bố. Người cha lúc ấy kiên quyết hơn và ông ta đã đạp được đứa con rơi xuống nước rồi ngấu nghiến nhét thứ đó vào mồm...”. 

Theo điều tra của Viện Sử học tại xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa: ông Viên Đình Hữu đói quá quẳng con trai 4 tuổi xuống sông Đơ. Ông Hoàng Bảo ở xóm Cháy (Đông Hưng, Thái Bình) thấy bố của ông Bắc (cùng xóm) thổi nồi cơm. Ông Bắc bóp cổ bố đến chết để ăn một mình... 

Suốt chặng đường khổ ải từ quê nhà lên Hà Nội, bà Chén còn gặp rất nhiều cảnh mẹ bỏ rơi con, chồng chạy trốn vợ, rồi cướp bóc, giết chóc lẫn nhau vì miếng ăn một cách đau thương và rùng rợn như vậy. Nhưng Hà Nội lúc này cũng là địa ngục... 

Hà Nội - điểm hẹn sinh tồn 

Ông Nguyễn Ngọc Liên, 82 tuổi, hiện trú tại phòng 105, nhà C6, khu tập thể Kim Liên, Hà Nội kể: “Ngày đó nhà tôi ở 233 phố Huế. Bắt đầu từ mùa đông năm 1944, tôi đã thấy những đoàn hình nhân vô cùng thảm hại ùn ùn dắt nhau qua các phố. 
Áo quần họ là miếng giẻ buộc túm dính vào những bộ xương lắc lư. Những cái đầu trơ sọ, đính hai con mắt vàng trũng thất thần. Ban đầu người hàng phố cho họ ăn những thứ có thể, nhưng càng ngày họ đến càng đông, hết lớp này đến lớp khác. Họ nằm, bò, lê và chết gục khắp đường, ngõ, vỉa hè... 
Ai còn sống thì cứ lang thang xin ăn, không ít trường hợp cướp giật, móc mồm người khác giành ăn. Của bố thí không thể đủ cho đoàn người đói khát. Họ chết ngày một nhiều. Một buổi sáng tôi vừa mở cửa thì hai xác chết lạnh cứng đổ ập vào tôi. Đến tận bây giờ tôi vẫn không quên được cảm giác hãi hùng và xót thương lúc đó”. 
Ông Đặng Văn Cự - 87 tuổi, hiện ở phường Giáp Bát, Hai Bà Trưng (Hà Nội) - nói: “Ban đầu cũng chia sẻ với bà con nhưng chúng tôi cũng đói, lương thực cạn kiệt và trước cảnh tàn ác của Pháp - Nhật thì cũng không dám chắc mai này mình có thoát cảnh ma đói hay không. 

Trong thành phố, nhiều thanh niên, nhà hảo tâm thành lập đoàn khất thực có trung tâm ở phố Hàng Da, quyên góp cơm cháo chia cho bà con. Nhưng vì số lượng quá lớn, tổ chức chỉ là tình cảm của một số người có điều kiện nên đoàn khất thực tồn tại không được bao lâu. 
Chúng tôi cũng bị cướp giật bánh trái, ngô khoai, nhưng không ai nỡ đánh đập người đói mà chỉ tránh né. Người làng tôi bán bánh thì làm bằng đất bày ở quầy, mẹt, thúng. Ai mua thì mới đến chỗ khác lấy bánh thật ra. Ai cướp thì chỉ cướp được bánh đất mà thôi”. 

Cảnh người đói sinh trộm cướp và bị giết chóc thì nhiều lắm. Ông Liên nhớ: một buổi chiều trên đường Trần Quang Khải bây giờ. Một đoàn bốn chiếc xe bò chở những bì lúa chất cao 3-4m. Mỗi xe có một người kéo và bốn người đẩy. Phía trước và sau có 9-10 tên lính Nhật súng gươm tuốt trần áp tải. 
Một người trong đám phu xe, bí mật dùng một chiếc dùi thép chừng 20 phân đâm một lỗ nhỏ vào bao lúa và gí một chiếc túi vải con vào hứng dòng lúa chảy. Tên lính Nhật phát hiện. Không nói gì, hắn dùng mũi kiếm đâm xuyên lưng người móc gạo. Nạn nhân rú lên một tiếng rồi đổ gục xuống đường, lênh láng máu. Đoàn xe vẫn tiếp tục đi... 

Những dòng người khất thực đã kéo nhau đi trong đói lả vật vờ... Rồi họ cũng tìm đến điểm cuối cùng của cuộc hành trình - nơi chấm dứt mọi nỗi dày vò đau đớn của một kiếp người.
Của triệu kiếp người...
 

QUANG THIỆN 


BÀI VĂN TẾ 2 TRIỆU NGƯỜI CHẾT ĐÓI CỦA GIÁO SƯ VŨ KHIÊU
Một cơn gió bụi vừa tan (1)

Hai triệu sinh linh đã mất (2)

Khí oan tối cả mây trời

Thây lạnh phơi đầy cỏ đất
Hỡi ôi:
Chung khí non sông
Cùng mang tai mắt
Vẫn giống thông minh
Vốn dòng cường quật
Cớ sao không Nam Bắc vẫy vùng
Ðể cam chịu cơ hàn (3) bứt rứt
Ðáng lẽ nay bốn bể tranh hùng,
chí những tưởng giật cờ cứu nước,
sống xông pha nơi bão đạn rừng gươm.
Mà ngán nhẽ một thời cơ nhỡ,
lòng mải theo manh áo lưng cơm,
chết thê thảm nơi hang cùng ngõ khuất.
Thương thay:
Hồn đã rất cao
Lòng vì quá chất
Những tưởng giỏ cơm bầu nước,
đám lợi danh mây nổi bèo trôi.
Nào ngờ tháng lại ngày qua
trường tranh đấu mưa dày gió rựt.
Việc bốn mùa nào xây cống đắp đê,
nào làm đường xẻ đập,
huyết hãn kia bồi đắp lấy non sông.
Thân bảy thước khi dầm sương dãi nắng,
khi gội gió tắm mưa,
xương thịt ấy phải đâu là đá sắt.
Ðã mỏi xác cân đay nộp lạc,
thóc được ít lại liên đoàn(4) lấy hết,
ách tham tàn càng gánh càng đau.
Từng mòn chân khi chạy thuế lo sưu,
tiền đã còn hương lý xoay quanh,
dây cơ khổ mỗi ngày mỗi thắt.
Cho đến khi:
Hạt tấm không còn,
Ðồng chinh cũng mất
Những tưởng túng qua
Ngờ đâu đói thật
Trong vợ con lòng đã xót lòng
Ngoài hương xóm mặt càng rõ mặt.
Trước còn định dây khoai rễ má,
lần hồi sao bữa đến qua loa.
Sau đành đem tháo bếp dỡ nhà
xoay sở mãi ngày càng héo hắt.
Ðầu bù tóc rối,
dắt díu nhau nơi quán đổ lều nghiêng.
Áo cói quần rơm,
chua xót mấy khi mưa dầm nắng gắt.
Ngẫm thủa trước, cảnh nghèo cũng lắm,
chữ cương thường còn giữ dạ đinh ninh.
Mà ngày nay nỗi khổ không cùng,
dây thân ái cũng nghiến răng dứt đứt.
Mẫu tử tình thâm,
ôi một mái tơ xanh nào đã tội,
bỏ u ơ cuối chợ đầu đường.
Phu thê nghĩa nặng,
hẹn trăm năm đầu bạc cũng sai lời,
sớm đau đớn người còn kẻ mất.
Biết đi đâu ? Bốn phương mờ mịt,
trời lờ như điếc, đất như câm.
Hỏi cùng ai ? Những bóng bơ vơ,
ruột rát tựa bào, gan tựa cắt.
Lang thang chi phách ở hồn đi!
Thảm thiết nhẽ ngày tàn bóng tắt!
Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu
Có người đến bên cây ngã vật
Có khi ngõ vắng gieo mình
Có lúc vườn sau thở hắt
Có những quán: hàng bao xác lạnh,
bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng.
Có nhiều nơi: một nắm xương khô,
từng nắng giãi mưa dầu không kẻ nhặt.
Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn.
Từng đống trên xe chồng chồng, chất chất.
Ôi nói ra những toát mồ hôi
Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt!

***
Hỡi những bóng điêu linh

Hỡi những hồn oan uất

Mà đường khuya quãng vắng lang thang

Trên ngọn cỏ đầu cây lẩn khuất!
Ta đã trông những hình rã rượi,
mẹ khóc con trong sương lạnh trăng mờ.
Ta đã nghe những tiếng thảm thê,
già bảo trẻ dưới mưa lay gió lắt.
Nghĩ thương kẻ còn đau khổ mãi,
nỗi oan buồn máu biếc không tan (5)
Mà biết ai chưa trả thù xong,
lửa oán giận gan vàng chẳng tắt.
Oán đã đành những kẻ xâm bang:
giết người, cướp của, thỏa dạ tham tàn
Giận biết mấy cho quân đồng loại:
tham nhũng, đầu cơ, riêng mình khoái dật.
Ngán nhẽ lầu son gác tía,
chén phong lưu những máu chan hòa.
Gớm cho mũ bạc đai vàng,
đài vinh hiển bằng xương cao ngất!
Nay gặp buổi:
Súng dân quân dậy sóng ầm ầm
Cờ khởi nghĩa ngất trời phới phất
Ðèn quang minh đương độ soi cao
Gươm chính khí đến ngày tuốt phắt.
Bao phường cướp nước không tha
Những lũ buôn nòi sẽ bắt
Hận thù kia rồi trả phân minh,
Oan thác nọ sẽ đền chu tất.
Cho ai chín suối ngậm cười.
Ðể khách năm châu tỏ mặt.
Chỉ đáng tiếc sống xưa chửa kịp đem thân nọ
đền bù đất nước,
phải ngậm hờn cùng hoa cỏ ủ ê.
Thì ngày nay chết phải làm sao để hồn kia
chói lọi trời mây,
mà bảo vệ lấy giang sơn vững chặt.
Giúp đồng bào cho trăm triệu sống an vui
Dựng độc lập để nghìn thu cờ vững ngất.

Tháng 5 năm 1945

GS VŨ KHIÊU

                                     ĐÓI


Bàng Bá Lân 



Năm Ất-Đậu thá(ng ba còn nhớ mãi 
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương ! 
Những thây ma thất thểu ngoài đường, 
Rồi ngã ngục không đứng lên vì ... đói! 

Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội, 
Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm 
Khắp đường xa những xác đói rên nằm 
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp. 
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt 
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma 
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khua 
Như muốn bắt những gì vô ảnh 
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh 
Một làn da đen sạm bọc xương đầu 
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu 
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc 
Già, trẻ, gái, trai không còn phân biệt, 
Họ giống nhau như là những thây ma, 
Như những bộ xương còn dính chút da, 
Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí ! 
Mùi nhạt nheõ, nặng nề, kỳ dị, 
Mội muì tanh lộn mửa thoảng ma kinh 
Mùi tanh hôi ám ảnh bên mình, 
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa! 
Những thây đó cứ xỉu dần, tắt thở 
Nằm cong queo, mắt vẫn mở trừng trừng 
Tròng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng 
Miệng meó xệch như còn khóc dang dở 
Có thây chết ba hôm còn nằm đó, 
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo ... 
Rồi ven đương đôi nhát cuốc hững hờ 
Đắp điếm vội những nấm mồ nông nỗi ! 
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm 
Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt 
Có nấm mộ quá nông, trơ hài cốt, 
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian 
Sau vài trận mưa nước xối chan chan 
Ôi thịt rửa xương tàn phơi rải rác! 

Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội, 
Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm 
Tại Hà-Nội cùng như bao tỉnh khác 
Những thây ma ngày lết dến càng đông, 
Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng, 
Rồi ngã ngục khắp đầu đường cuối ngõ 
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ 
Rụt rè xem có xác chết nào chăng ! 
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan 
Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác 
Xác chồng chất lù lù như đống rác, 
Đó đây thò khô đét một bàn chân 
Hay cánh tay gầy tím ngắt teo răn 
Giơ chới với như níu làn không khí, 
như cầu cứu, như vẫy người chú ý 
Có hơi thở tàn thoi thóp, chưa thôi 
Có tiếng cựa mình tiếng nấc .. Những tròng ngươi 
Nhìn đẫm lệ người chôn ngươì chưa chết ! 
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt 
Được lấp đầy bằng xác chết thường xuyên 
Ruồi như mây bay rợp cả một miền ... 
Chết ! Chết ! Chết ! Hai triệu ngươì đã chết ! 

Họ là những người quê non nước Việt 
Sống cần lao bên ruộng lúa, đồng khoaị 
Luá xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi 
Nước Việt sống vì mồ hôi họ đổ 
Năm ấy thuở Nhật Tây còn đô hộ, 
Chúng thi nhau cướp luá cuả dân ta 
Hết luá rôì, hết sạch cả khoai ngô, 
Hết củ chuối, hết nhẵn khô, cả sắn ! 
Ngày giáp hạt, không còn chi gặm nhấm 
Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau 
Nhai cả bèo và nuốt cả khô dầu! 
Đói đói đói người nhao lên vì đói 

Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội, 
Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm 
Tạm biệt quê hương, lê gót âm thầm 
Trên rải rác mọi nẻo đường 
Từng gia đình dắt diú nhau lê bước 
Đi lang thang mong sống tạm qua ngày 
Đợi lúa hương, bông trĩu đâu cây 
Những đau đớn hỡi ơi là ảo mộng 
Họ ra đi hy vọng có ngày về ! 
Nhưng chẳng bao giờ về nữa hỡi ngươì quệ 
Dần lả gục khắp đâù đường xó chợ ! 

Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã 
Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng tươi 
Thóc của dân đen, thóc của những ngươì 
Đang chết đói vì thực dân cướp thóc. 
Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc 
Phần chúng đem để mục nát trong kho ! 
Ôi, đau thương chưa từng thấy bao giờ ... 
Trong lich sử chưa bao giờ từng có 
Hai triệu ngươì vì thực dân lìa bỏ 
Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương, 
Trong lúc đầy đồng bát ngát ở quê hương, 
Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái 
Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội, 
Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no vuị 
Nhưng ngươì đi không về nữa than ôi ! 
Lúa chín gục chẳng còn ai gặt hái ! ... 

Ta nhớ maĩ cái thời kỳ đen tối ! 
Quên làm sao tội lôĩ kẻ xâm lăng ! 
Quên làm sao mối thù hân. khôn cùng ! 
Quên sao được hai triệu ngươì chết đói ! 
Năm ẤtĐậu tháng ba còn nhớ mãi 
Giống Lạc hồng cực trải lắm đau thương! 
Những thây ma thất thểu đầy đường, 
Rồi ngã gục không đứng lên vì ... đói 

Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội, 
Đói ở Thanh-Bình đói tới Gia-Lâm 


thơ Đói của Bàng bá Lân viết tháng năm, 1957, sau hiệp định Geneva



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét