Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

TỔNG THỐNG THỨ 16: ABRAHAM LINCOLN


Abraham Lincoln năm 1863 (54 tuổi)
Nhiệm kỳ 4 tháng 3, 186115 tháng 4,1865
Tiền nhiệm James Buchanan
Kế nhiệm Andrew Johnson
Nhiệm kỳ 4 tháng 3, 18473 tháng 3, 1849
Tiền nhiệm John Henry
Kế nhiệm Thomas Harris
Đảng Cộng hòa (1854–1865)
Mất 15 tháng 4, 1865 (56 tuổi)
Washington, D.C., Hoa Kỳ.
Học vấn tự học
Nghề nghiệp Luật sư, Chính trị gia
Chữ ký
Phu nhân Mary Todd
Con cái Robert

Abraham Lincoln /ˈbrəhæm ˈlɪŋkən/ (12 tháng 2, 1809 – 15 tháng 4, 1865), còn được biết đến với tên Abe Lincoln, tên hiệu Honest Abe,Rail Splitter, Người giải phóng vĩ đại, là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865. Ông được xem là một nhân vật lịch sử tiêu biểu hàng đầu của Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ[1], với tài nghệ chính trị tầm cỡ George Washington.[2]

Lincoln thành công trong nỗ lực lãnh đạo đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng hiến pháp, quân sự, và đạo đức – cuộc Nội chiến Mỹ – duy trì chính quyền Liên bang, đồng thời chấm dứt chế độ nô lệ, và hiện đại hóa nền kinh tế, tài chính của đất nước. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo ở vùng biên thùy phía Tây, kiến thức Lincoln thu đạt được hầu hết là nhờ tự học. Ông trở thành luật sư nông thôn, nghị viên Viện Lập pháp tiểu bang Illinois, nghị sĩ một nhiệm kỳ ở Viện Dân biểu Hoa Kỳ, rồi trải qua hai lần thất bại trong nỗ lực giành một ghế tại Thượng viện.

Bày tỏ lập trường chống đối chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ qua những bài diễn văn và các cuộc tranh luận trong chiến dịch tranh cử,[3] Lincoln nhận được sự đề cử của Đảng Cộng hòa ra tranh cử Tổng thống năm 1860. Sau khi các tiểu bang chủ trương nô lệ ở miền Nam tuyên bố rút khỏiLiên bang Hoa Kỳ, chiến tranh bùng nổ ngày 12 tháng 4, 1861, Lincoln tập trung nỗ lực vào hai phương diện quân sự và chính trị nhằm tái thống nhất đất nước. Ông mạnh dạn hành xử quyền lực trong thời chiến chưa từng có, trong đó có việc bắt giữ và cầm tù không qua xét xử hàng chục ngàn người bị nghi là những kẻ ly khai. Ông ngăn cản Anh Quốc công nhận Liên minh bằng những hành xử khôn ngoan trong sự kiện Trent liên quan đến quan hệ ngoại giao giữa Anh và Hoa Kỳ xảy ra cuối năm 1861. Năm 1861, Lincoln công bố Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ và vận động thông qua Tu chính án thứ Mười ba nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ.

Lincoln luôn theo sát diễn biến cuộc chiến, nhất là trong việc tuyển chọn các tướng lĩnh, trong đó có tướng Ulysses S. Grant. Các sử gia đã kết luận rằng Lincoln rất khéo léo giải quyết các chia rẽ trong Đảng Cộng Hòa, ông mời lãnh đạo các nhóm khác nhau trong đảng tham gia nội các và buộc họ phải hợp tác với nhau. Dưới quyền lãnh đạo của ông, Liên bang mở một cuộc phong tỏa hải quân cắt đứt mọi giao thương đến miền Nam, nắm quyền kiểm soát biên giới ngay từ lúc cuộc chiến mới bùng nổ, sử dụng chiến thuyền kiểm soát lưu thông trên hệ thống sông ngòi miền Nam, và nhiều lần cố chiếm thủ đô Liên minh tại Richmond. Mỗi khi có một tướng lĩnh thất trận, ông liền bổ nhiệm một tướng lĩnh khác thay thế cho đến lúc Tướng Grant đạt đến chiến thắng sau cùng năm 1865. Là một chính trị gia sắc sảo từng can thiệp sâu vào các vấn đề quyền lực tại mỗi tiểu bang, ông tạo lập mối quan hệ tốt với nhóm đảng viên Dân chủ ủng hộ cuộc nội chiến, và tái đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1864.

Là lãnh tụ nhóm ôn hòa trong đảng Cộng hòa, Lincoln bị “công kích từ mọi phía”: Đảng viên Cộng hòa cấp tiến đòi hỏi những biện pháp cứng rắn hơn đối với miền Nam, nhóm Dân chủ ủng hộ chiến tranh thì muốn thỏa hiệp, đảng viên Dân chủ chống chiến tranh khinh miệt ông, trong khi những người ly khai cực đoan tìm cách ám sát ông.[4] Trên mặt trận chính trị, Lincoln tự tin đánh trả bằng cách khiến các đối thủ của ông đối đầu với nhau, cùng lúc ông sử dụng tài hùng biện để thuyết phục dân chúng.[5] Diễn văn Gettysburg năm 1863 là bài diễn từ được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Mỹ Quốc.[6] Đó là bản tuyên ngôn tiêu biểu của tinh thần Mỹ hiến mình cho các nguyên lý cao cả của tinh thần dân tộc, quyền bình đẳng, tự do, và dân chủ. Sau khi chiến tranh kết thúc, Lincoln chủ trương một quan điểm ôn hòa nhằm tái thiết và nhanh chóng tái thống nhất đất nước thông qua chính sách hòa giải và bao dung trong một bối cảnh phân hóa đầy cay đắng với hệ quả kéo dài. Tuy nhiên, chỉ sáu ngày sau khi Tướng Robert E. Lee của Liên minh miền Nam tuyên bố đầu hàng, Lincoln bị ám sát bởi một diễn viên và là người ủng hộ Liên minh, John Wilkes Booth, tại Hí viện Ford khi ông đang xem vở kịch ‘’Our American Cousin’’. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Hoa Kỳ bị ám sát. Dẫu có nhiều ý kiến mâu thuẫn về ông,[7] Lincoln liên tục được xếp vào danh sách ba vị tổng thống vĩ đại nhất của nước Mỹ,[8] và được xem là một chính khách mẫu mực đại diện cho mọi phẩm chất tốt đẹp của nền Dân chủ Cộng hòa tại Hoa Kỳ,[9] với tinh thần bình đẳng và quên mình vì nước.[10]
Gia cảnh và tuổi thơ
Thiếu thời
Tượng Lincoln tại Công viên Senn, Chicago

Abraham Lincoln chào đời ngày 12 tháng 2, 1809 (cùng ngày sinh với Charles Darwin), là con thứ hai của Thomas Lincoln và Nancy Lincoln (nhũ danh Hanks), trong một căn nhà gỗ một phòng ở Nông trại Sinking Spring thuộc Hạt Hardin, Kentucky rộng 348 acre (1.4 km²) ở phía đông nam Quận Hardin, Kentucky, khi ấy còn bị coi là biên giới (nay là một phần của Quận LaRue, ở Nolin Creek, cách Hodgenville 3 dặm (5 km).[11] Cậu được đặt theo tên của ông nội, người đã dời gia đình từ Virginia đến Hạt Jefferson, Kentucky,[12][13] tại đó ông bị thiệt mạng trong một trận phục kích của người da đỏ năm 1786 trước sự chứng kiến của các con, trong đó có thân phụ của Lincoln, Thomas.[13] Sau đó, Thomas một mình tìm đường đến khu biên thùy.[14] Mẹ của Lincoln, Nancy, là con gái của Lucy Hanks, sinh tại một địa điểm nay là Hạt Mineral, West Virginia, khi ấy thuộc bang Virginia. Lucy đem Nancy đến Kentucky. Nancy Hanks kết hôn với Thomas, lúc ấy Thomas đã là một công dân khả kính trong cộng đồng. Gia đình gia nhập một nhà thờ Baptist chủ trương tuân thủ nghiêm nhặt các chuẩn mực đạo đức, chống đối việc uống rượu, khiêu vũ, và chế độ nô lệ.[15]

Cha mẹ Lincoln là những nông dân thất học và mù chữ. Khi Lincoln đã trở nên nổi tiếng, những nhà báo và những người viết truyện đã thổi phồng sự nghèo khổ và tối tăm của ông khi ra đời. Tuy nhiên, Thomas Lincoln là một công dân khá có ảnh hưởng ở vùng nông thôn Kentucky. Ông đã mua lại Trang trại Sinking Spring vào tháng 12 năm 1808 với giá $200 tiền mặt và một khoản nợ. Trang trại này hiện được bảo tồn như một phần của Địa điểm di tích lịch sử quốc gia nơi sinh Abraham Lincoln. Thomas được chọn vào bồi thẩm đoàn, và được mời thẩm định giá trị các điền trang. Vào thời điểm con trai của ông Abraham chào đời, Thomas sở hữu hai nông trang rộng 600 mẫu Anh (240 ha), vài khu đất trong thị trấn, bầy gia súc và ngựa. Ông ở trong số những người giàu có nhất trong hạt.[12][16] Tuy nhiên, đến năm Thomas bị mất hết đất đai trong một vụ án vì sai sót trong việc thiết lập chủ quyền điền thổ.

Ba năm sau khi mua trang trại, một người chủ đất trước đó đưa hồ sơ ra trước Toà án Hardin Circuit buộc gia đình Lincoln phải chuyển đi. Thomas theo đuổi vụ kiện cho tới khi ông bị xử thua năm 1815. Những chi phí kiện tụng khiến gia cảnh càng khó khăn thêm. Năm 1811, họ thuê được 30 acres (0.1 km²) trong trang trại Knob Creek rộng 230 acre (0.9 km²) cách đó vài dặm, nơi họ sẽ chuyển tới sống sau này. Nằm trong lưu vực Sông Rolling Fork, đó là một trong những nơi có đất canh tác tốt nhất vùng. Khi ấy, cha Lincoln là một thành viên được kính trọng trong cộng đồng và là một nông dân cũng như thợ mộc tài giỏi. Hồi ức sớm nhất của Lincoln bắt đầu có ở trang trại này. Năm 1815, một nguyên đơn khác tìm cách buộc gia đình Lincoln phải rời trang trại Knob Creek. Nản chí trước sự kiện tụng cũng như không được các toà án ở Kentucky bảo vệ, Thomas quyết định đi tới Indiana, nơi đã được chính phủ liên bang khảo sát, nên quyền sở hữu đất đai cũng được bảo đảm hơn. Có lẽ những giai đoạn tuổi thơ ấy đã thúc đẩy Abraham theo học trắc địa và trở thành một luật sư.

Gia đình băng qua sông Ohio để dời đến một lãnh thổ không có nô lệ và bắt đầu cuộc sống mới ở Hạt Perry, Indiana. Tại đây, năm 1818 khi Lincoln lên chín, mẹ cậu qua đời.[17] Sarah, chị của Lincoln, chăm sóc cậu cho đến khi ông bố tái hôn năm 1898; về sau Sarah chết ở lứa tuổi 20 trong lúc sinh nở.[18]

Hãy quyết tâm sống chân thật trong mọi sự; nếu bạn thấy mình không thể trở thành một luật sư trung thực, thì hãy cố sống trung thực mà không cần phải làm luật sư.

Abraham Lincoln[19]

Vợ mới của Thomas Lincoln, Sarah Bush Johnston, nguyên là một góa phụ, mẹ của ba con. Lincoln rất gần gũi với mẹ kế, gọi bà là “Mẹ”.[20] Khi còn bé, Lincoln không thích nếp sống lao động cực nhọc ở vùng biên thùy, thường bị người nhà và láng giềng xem là lười biếng.[21][22] Nhưng khi đến tuổi thiếu niên, cậu tình nguyện đảm trách tất cả việc nhà, trở thành một người sử dụng rìu thành thục khi xây dựng hàng rào. Cậu cũng được biết tiếng nhờ sức mạnh cơ bắp và tính gan lì sau một trận đấu vật quyết liệt với thủ lĩnh một nhóm côn đồ gọi là "the Clary's Grove boys".[23] Cậu cũng tuân giữ tập tục giao hết cho cha toàn bộ lợi tức cậu kiếm được cho đến tuổi 21.[17] Giáo dục tiểu học cậu bé Lincoln tiếp nhận chỉ tương đương một năm học do các giáo viên lưu động giảng dạy, hầu hết là do cậu tự học và tích cực đọc sách.[24] Trên thực tế Linoln là người tự học, đọc mọi cuốn sách có thể mượn được. Cậu thông thạo Kinh Thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh, lịch sử Mỹ, và học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Lincoln không thích câu cá và săn bắn vì không muốn giết hại bất cứ một con vật nào kể cả để làm thực phẩm dù cậu rất cao và khoẻ, cậu dành nhiều thời gian đọc sách tới nỗi những người hàng xóm cho rằng cậu cố tình làm vậy để tránh phải làm việc chân tay nặng nhọc.

Năm 1830, để tránh căn bệnh nhiễm độc sữa mới vừa bùng nổ dọc theo sông Ohio, gia đình Lincoln di chuyển về hướng tây và định cư trên khu đất công ở Hạt Macon, Illinois, một tiểu bang không có nô lệ.[25] Năm 1831, Thomas đem gia đình đến Hạt Coles, Illinois. Lúc ấy, là một thanh niên đầy khát vọng ở tuổi 22, Lincoln quyết định rời bỏ gia đình để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Cậu đi xuồng xuôi dòng Sangamon đến làng New Salem thuộc Hạt Sangamon.[26] Mùa xuân năm 1831, sau khi thuê mướn Lincoln, Denton Offutt, một thương nhân ở New Salem, cùng một nhóm bạn, vận chuyển hàng hóa bằng xà lan từ New Salem theo sông Sangamon và Mississippi đến New Orleans. Tại đây, lần đầu tiên chứng kiến tận mắt tệ nạn nô lệ, Lincoln đi bộ trở về nhà.[27]

Trong một tự truyện, Lincoln miêu tả mình trong giai đoạn này - ở lứa tuổi 20, rời bỏ vùng rừng núi hẻo lánh để tìm đường tiến vào thế giới – như là “một gã trai kỳ dị, không bạn bè, không học thức, không một xu dính túi”.[28]
Hôn nhân và con cái
Tổng thống Lincoln cùng cậu con út, Tad, năm 1864

Năm 1840, Lincoln đính hôn với Mary Todd, con gái của một gia đình giàu có sở hữu nô lệ ở Lexington, Kentucky.[29] Họ gặp nhau lần đầu ở Springfield, Illinois vào tháng 12 năm 1839,[30] rồi đính hôn vào tháng 12 năm sau.[31] Hôn lễ được sắp đặt vào ngày 1 tháng 1, 1841, nhưng bị Lincoln đề nghị hủy bỏ.[30][32] Sau này họ lại gặp nhau và kết hôn ngày 4 tháng 11, 1842, hôn lễ tổ chức tại ngôi biệt thự của người chị của Mary ở Springfield.[33] Ngay cả khi đang chuẩn bị cho hôn lễ, Lincoln vẫn cảm thấy lưỡng lự. Khi được hỏi cuộc hôn nhân này sẽ dẫn ông đến đâu, Lincoln trả lời, “Địa ngục, tôi nghĩ thế.”[34] Năm 1844, hai người mua một ngôi nhà ở Springfield gần văn phòng luật của Lincoln.[35] Mary Todd Lincoln là người vợ đảm đang, chu tất việc nội trợ như đã từng làm khi còn sống với cha mẹ ở Kentucky. Cô cũng giỏi vén khéo với đồng lương ít ỏi chồng cô kiếm được khi hành nghề luật.[36] Robert Todd Lincoln chào đời năm 1843, kế đó là Edward (Eddie) trong năm 1846. Lincoln “đặc biệt yêu thích lũ trẻ”,[37] và thường tỏ ra dễ dãi với chúng.[38] Robert là người con duy nhất còn sống cho đến tuổi trưởng thành. Edward mất ngày 1 tháng 1, 1850 ở Springfield do lao phổi. “Wille” Lincoln sinh ngày 21 tháng 12, 1850 và mất ngày 20 tháng 2, 1862. Đứa con thứ tư của Lincoln, “Tad” Lincoln, sinh ngày 4 tháng 4, 1853, và chết vì mắc bệnh tim ở tuổi 18 (16 tháng 7, 1871).[39]

Cái chết của những cậu con trai đã tác động mạnh trên cha mẹ chúng. Cuối đời, Mary mắc chứng u uất do mất chồng và các con, có lúc Robert Todd Lincoln phải gởi mẹ vào viện tâm thần trong năm 1875.[40] Abraham Lincoln thường khi vẫn “u sầu, phiền muộn”, ngày nay được coi là triệu chứng của bệnh trầm cảm.[41]

Robert có ba con và ba cháu. Không một ai trong số cháu của ông có con, vì thế dòng dõi Lincoln chấm dứt khi Robert Beckwith (cháu trai của Lincoln) chết ngày 24 tháng 12, 1985.[1]
[sửa]Khởi nghiệp

Năm 1832, ở tuổi 23, Lincoln cùng một đối tác mua chịu một cửa hàng tạp hóa ở New Salem, Illinois. Mặc dù kinh tế trong vùng đang phát triển, doanh nghiệp của họ phải vất vả để tồn tại, cuối cùng Lincoln phải sang nhượng cổ phần của ông. Tháng 3 năm ấy, Lincoln bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng cách tranh cử vào Nghị viện Illinois. Ông giành được thiện cảm của dân địa phương, thu hút nhiều đám đông ở New Salem bằng biệt tài kể chuyện đầy hóm hỉnh, mặc dù ông thiếu học thức, thân hữu có thế lực, và tiền bạc, là những yếu tố có thể khiến ông thất cử. Khi tranh cử, ông chủ trương cải thiện lưu thông đường thủy trên sông Sangamon.[42]
Bức phác họa chân dung ứng cử viên Abraham Lincoln
Trước cuộc bầu cử, Lincoln phục vụ trong lực lượng dân quân Illinois với cấp bậc đại úy suốt trong Chiến tranh Black Hawk (một cuộc chiến ngắn ngủi chống lại người da đỏ).[43] Sau chiến tranh, ông trở lại vận động cho cuộc bầu cử ngày 6 tháng 8 vào Nghị viện Illinois. Với chiều cao 6 foot 4 inch (193 cm),[44]Lincoln cao và “đủ mạnh để đe dọa bất kỳ đối thủ nào.” Ngay từ lần diễn thuyết đầu tiên, khi nhìn thấy một người ủng hộ ông trong đám đông bị tấn công, Lincoln liền đến “túm cổ và đáy quần gã kia” rồi ném hắn ra xa.[45] Lincoln về hạng tám trong số mười ba ứng cử viên (chỉ bốn người đứng đầu được đắc cử).[46]

Lincoln quay sang làm trưởng bưu điện New Salem, rồi đo đạc địa chính; suốt thời gian ấy ông vẫn say mê đọc sách. Cuối cùng ông quyết định trở thành luật sư, bắt đầu tự học bằng cách nghiền ngẫm quyển Commentaries on the Laws of England của Blackstone, và những sách luật khác. Về phương pháp học, Lincoln tự nhận xét về mình: “Tôi chẳng học ai hết.”[47] Lincoln thành công khi ra tranh cử lần thứ hai năm 1834. Ông vào viện lập pháp tiểu bang. Sau khi được nhận vào Đoàn Luật sư Hoa Kỳ năm 1836,[48] ông dời đến Springfield, Illinois bắt đầu hành nghề luật dưới sự dẫn dắt của John T. Stuart, một người anh em họ của Mary Todd.[49] Dần dà, Lincoln trở thành một luật sư tài năng và thành đạt. Từ năm 1841 đến 1844, ông cộng tác với Stephen T. Logan, rồi với William Herndon, ông đánh giá Herndon là “một thanh niên chuyên cần”.

Năm 1841, Lincoln hành nghề luật cùng William Herndon, một người bạn trong Đảng Whig. Năm 1856, hai người tham gia Đảng Cộng hoà. Sau khi Lincoln chết, Herndon bắt đầu sưu tập các câu chuyện về Lincoln từ những người từng biết ông ở Illinois, và xuất bản chúng trong cuốn Lincoln của Herndon.


Trong kỳ họp 1835-1836, ông bỏ phiếu ủng hộ chủ trương mở rộng quyền bầu cử cho nam giới da trắng, dù có sở hữu đất đai hay không.[50] Ông nổi tiếng với lập trường "free soil" chống chế độ nô lệ lẫn chủ trương bãi bỏ nô lệ. Lần đầu tiên trình bày về chủ đề này trong năm 1837, ông nói, “Định chế nô lệ được thiết lập trên sự bất công và chính sách sai lầm, nhưng tuyên bố bãi nô chỉ làm gia tăng thay vì giảm thiểu tội ác này.”[51] Ông theo sát Henry Clay trong nỗ lực ủng hộ việc trợ giúp những nô lệ được tự do đến định cư tại Liberia ở châu Phi.[52] Ông phục vụ bốn nhiệm kỳ liên tiếp ở Viện Dân biểu tiểu bang Illinois, đại diện cho Hạt Sangamon.[53]
[sửa]Vị Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ có bằng sáng chế

Trên thực tế nhiều người xem vị tổng thống thứ 3 của nước Mỹ, Thomas Jeffersonnhà phát minh vĩ đại nhất từng sống ở Nhà Trắng. Nhưng vị Tổng thống này chưa bao giờ lấy bằng sáng chếcho những ý tưởng của mình. Trong lịch sử nước Mỹ, chỉ duy nhất một Tổng thống từng được cấp bằng sáng chế cho dù bình thường ông ít quan tâm đến công nghệ, đó là Tổng thống Abraham Lincoln.

Vào cuối những năm 1890, Lincoln là đại biểu Quốc hội của bang Illinois. Ông thường đi lại giữa Washington và Illinois trên con tàu chạy bằng hơi nước Great Lakes. Một lần tàu bị mắt kẹt ở bãi cát ngay giữa sông. Tât cả hành khách và hàng hoá phải chuyển đi để con tàu nổi dần lên. Đó là một quá trình dài và buồn tẻ.

Điều này mang đến cho Lincoln một ý tưởng, khi trở về văn phòng luật sư của mình ở Illinois, ông bắt đầu sáng chế ra một thiết bị có thể làm con tàu nổi lên mà không cần phải làm cho nó nhẹ đi bằng việc bóc dở hàng hoá xuống. Ông tranh thủ gọt đẽo mô hình giữa các phiên toà. Kết quả, ông nhận được bằng sáng chế số 6469: "Cách làm nổi những con tàu lớn".

Phát minh của Lincoln được chứng minh là không thực tế và không được đưa vào sản xuất. Nhưng nó đã cho thấy vị luật sư có tài xoay xở này sở hữu một trí tuệ đầy sáng tạo và dám thực hiện những ý tưởng mới. Đó là ý chí mà nước Mỹ rất cần trong những năm tháng bất ổn sau này.
[sửa]Nghị trường Liên bang
Lincoln, năm 1846
Từ đầu thập niên 1930, Lincoln là thành viên kiên trung của đảng Whig, tự nhận mình là “một đảng viên Whig bảo thủ, một môn đệ của Henry Clay”.[54] Đảng Whig ủng hộ hiện đại hóa nền kinh tế trong các lĩnh vực ngân hàng, dùng thuế bảo hộ để cung ứng ngân sách cho phát triển nội địa như đường sắt, và tán thành chủ trương đô thị hóa.[55]

Năm 1846, Lincoln đắc cử vào Viện Dân biểu Hoa Kỳ, phục vụ một nhiệm kỳ hai năm. Ông là đảng viên Whig duy nhất trong đoàn đại biểu đến từ Illinois, ông sốt sắng bày tỏ lòng trung thành với đảng của mình trong các cuộc biểu quyết và phát biểu ủng hộ chủ trương của đảng.[56] Cộng tác với Joshua R. Giddings, một dân biểu chủ trương bãi nô, Lincoln soạn thảo một dự luật nhằm bãi bỏ chế độ nô lệ tại Hạt Columbia, nhưng ông phải từ bỏ ý định vì không có đủ hậu thuẫn từ trong đảng Whig.[57] Về chính sách ngoại giao và quân sự, Lincoln lớn tiếng chống cuộc chiến Mễ-Mỹ, chỉ trích Tổng thống James K. Polk là chỉ lo tìm kiếm “thanh danh về quân sự - một ảo vọng nhuốm máu”.[58]

Bằng cách soạn thảo và đệ trình Nghị quyết Spot, Linconln quyết liệt bác bỏ quan điểm của Polk. Cuộc chiến khởi phát do người Mexico sát hại binh sĩ Mỹ ở vùng lãnh thổ đang tranh chấp giữa Mexico và Hoa Kỳ; Polk nhấn mạnh rằng binh sĩ Mexico đã “xâm lăng lãnh thổ chúng ta” và làm đổ máu đồng bào chúng ta ngay trên “đất của chúng ta”.[59][60] Lincoln yêu cầu Polk trình bày trước Quốc hội địa điểm chính xác nơi máu đã đổ và chứng minh địa điểm đó thuộc về nước Mỹ.[60] Quốc hội không chịu thảo luận về nghị quyết, báo chí trong nước phớt lờ nó, và Lincoln bị mất hậu thuẫn chính trị ngay tại khu vực bầu cử của ông. Một tờ báo ở Illinois gán cho ông biệt danh “spotty Lincoln”.[61][62][63] Về sau, Lincoln tỏ ra hối tiếc về một số phát biểu của ông, nhất là khi ông tấn công quyền tuyên chiến của tổng thống.[64]

Nhận thấy rằng Clay không thể thắng cử, Lincoln, năm 1846 đã cam kết chỉ phục vụ một nhiệm kỳ tại Viện Dân biểu, ủng hộ Tướng Zachary Taylor đại diện đảng Whig trong cuộc đua năm 1848 tranh chức tổng thống.[65] Khi Taylor đắc cử, Lincoln hi vọng được bổ nhiệm lãnh đạo Tổng Cục Địa chính (General Land Office), nhưng chức vụ béo bở này lại về tay một đối thủ của ông, Justin Butterfield, người được chính phủ đánh giá là một luật sư lão luyện, nhưng theo Lincoln, Butterfield chỉ là một “tảng hóa thạch cổ lỗ”.[66] Chính phủ cho ông giải khuyến khích là chức thống đốc Lãnh thổ Oregon. Vùng đất xa xôi này là căn cứ địa của đảng Dân chủ, chấp nhận nó đồng nghĩa với việc chấm dứt sự nghiệp chính trị và luật pháp của ông ở Illinois, Lincoln từ chối và quay trở lại nghề luật.[67]
[sửa]Luật sư vùng Thảo nguyên


Đừng ham đáo tụng đình. Cố mà hòa giải với hàng xóm. Hãy cho họ thấy thường khi người thắng cuộc thật ra chỉ là kẻ thua đau – mất thời gian mà còn hao tốn tiền của.


Abraham Lincoln.[68]


Lincoln trở lại hành nghề luật ở Springfield, xử lý “mọi loại công việc dành cho luật sư vùng thảo nguyên”.[69] Hai lần mỗi năm trong suốt mười sáu năm, mỗi lần kéo dài hai tuần, ông phải có mặt tại quận lỵ nơi tòa án quận có phiên xét xử.[70] Lincoln giải quyết nhiều vụ tranh chấp trong lĩnh vực giao thông ở miền Tây đang mở rộng, nhất là việc điều vận xà lan sông qua gầm cầu đường hỏa xa mới được xây dựng. Lúc đầu, Lincoln chỉ nhận những vụ ông thích, về sau ông làm việc cho bất cứ ai chịu thuê mướn ông.[71]

Ông dần được biết tiếng, và bắt đầu xuất hiện trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, tranh luận trong một vụ án liên quan đến một chiếc thuyền bị chìm do va chạm cầu.[71] Năm 1849, ông được cấp bằng sáng chế về phương tiện đường thủy ứng dụng cho việc lưu thông thuyền trên dòng nước cạn. Dù ý tưởng này chưa từng được thương mại hóa, Lincoln là vị tổng thống duy nhất từng được cấp bằng sáng chế.[72][73]

Lincoln xuất hiện trước Tòa án Tối cao bang Illinois trong 175 vụ án, 51 vụ ông là luật sư biện hộ duy nhất cho thân chủ, trong đó có 31 phán quyết của tòa có lợi cho ông.[74]

Vụ án hình sự nổi bật nhất của Lincoln xảy ra năm 1858 khi ông biện hộ cho William “Duff” Armstrong, bị xét xử vì tội danh sát hại James Preston Metzker.[75] Vụ án nổi tiếng do Lincoln sử dụng một sự kiện hiển nhiên để thách thức sự khả tín của một nhân chứng. Sau khi một nhân chứng khai trước tòa rằng đã chứng kiến vụ án diễn ra dưới ánh trăng, Lincoln rút quyển Niên lịch cho nhà nông, chỉ ra rằng vào thời điểm ấy mặt trăng còn thấp nên giảm thiểu đáng kể tầm nhìn. Dựa trên chứng cứ ấy, Armstrong được tha bổng.[75] Hiếm khi Lincoln phản đối trước tòa; nhưng trong một vụ án năm 1859, khi biện hộ cho Peachy Harrison, một người anh em họ, bị cáo buộc đâm chết người, Lincoln giận dữ phản đối quyết định của thẩm phán bác bỏ một chứng cứ có lợi cho thân chủ của ông. Thay vì buộc tội Lincoln xúc phạm quan tòa, thẩm phán là một đảng viên Dân chủ đã đảo ngược phán quyết của ông, cho phép sử dụng chứng cứ và tha bổng Harrison.[75][76]
Đảng Cộng hòa 1854 – 1860
"Một nhà tự chia rẽ"
Bài chi tiết: Một nhà tự chia rẽ

Trong thập niên 1850, chế độ nô lệ được xem là hợp pháp tại các tiểu bang miền Nam trong khi ở tiểu bang miền Bắc như Illniois nó bị đặt ngoài vòng pháp luật.[77] Lincoln chống chế độ nô lệ và việc mở rộng chế độ nô lệ đến những vùng lãnh thổ mới ở miền Tây.[78] Vì muốn chống đối Đạo luật Kansas-Nebraska (1854) ông đã trở lại chính trường; đạo luật này được thông qua để hủy bỏ Thỏa hiệp Missouri hạn chế chế độ nô lệ. Thượng Nghị sĩ lão thành Stephen A. Douglas của Illinois đã liên kết quyền phổ thông tự quyết vào Đạo luật. Điều khoản của Douglas mà Lincoln bác bỏ là cho những người định cư quyền tự quyết cho địa phương của họ công nhận chế độ nô lệ trong những vùng lãnh thổ mới của Hoa Kỳ.[79]

Foner (2010) phân biệt quan điểm của nhóm chủ trương bãi nô cùng nhóm Cộng hòa cấp tiến ở vùng Đông Bắc là những người xem chế độ nô lệ là tội lỗi, với các đảng viên Cộng hòa bảo thủ chống chế độ nô lệ vì họ nghĩ rằng nó làm tổn thương người da trắng và kìm hãm sự tiến bộ của đất nước. Foner tin rằng Lincoln theo đường lối trung dung, ông phản đối chế độ nô lệ vì nó vi phạm các nguyên lý của chế độ cộng hòa xác lập bởi những nhà lập quốc, nhất là với quyền bình đằng dành cho mọi người và quyền tự quyết lập nền trên các nguyên tắc dân chủ đã được công bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập.[80]

Ngày 16 tháng 10, 1854, trong “Diễn văn Peoria”, Lincoln tuyên bố lập trường chống nô lệ dọn đường cho nỗ lực tranh cử tổng thống.[81] Phát biểu với giọng Kentucky, ông nói Đạo luật Kansas “có vẻ vô cảm, song tôi buộc phải nghĩ rằng ẩn chứa trong nó là một sự nhiệt tình thực sự dành cho nỗ lực phổ biến chế độ nô lệ. Tôi không thể làm gì khác hơn là căm ghét nó. Tôi ghét nó bởi vì sự bất công đáng ghê tởm của chế độ nô lệ. Tôi ghét nó bởi vì nó tước đoạt ảnh hưởng công chính của hình mẫu nền cộng hòa của chúng ta đang tác động trên thế giới...”[82]

Tôi không phải là nô lệ, nên tôi không thể là chủ nô. Đó là quan điểm của tôi về dân chủ. Bất cứ cái gì khác với điều này, đều không phải là dân chủ.

Abraham Lincoln[83]

Cuối năm 1854, Lincoln ra tranh cử trong tư cách đảng viên đảng Whig đại diện Illinois tại Thượng viện Hoa Kỳ. Lúc ấy, viện lập pháp tiểu bang được dành quyền bầu chọn thượng nghị sĩ liên bang.[84] Sau khi dẫn đầu trong sáu vòng bầu cử đầu tiên tại nghị viện Illinois, hậu thuẫn dành cho Lincoln suy yếu dần, ông phải kêu gọi những người ủng hộ ông bầu phiếu cho Lyman Trumbull, người đã đánh bại đối thủ Joel Aldrich Matteson.[85] Đạo luật Kansas gây ra sự phân hóa vô phương cứu chữa trong nội bộ đảng Whig. Lôi kéo thành phần còn lại của đảng Whig cùng những người vỡ mộng từ các đảng Free Soil, Tự do, Dân chủ, ông hoạt động tích cực trong nỗ lực hình thành một chính đảng mới, Đảng Cộng hòa.[86] Tại đại hội đảng năm 1856, Lincoln là nhân vật thứ hai trong cuộc đua giành sự đề cử của đảng cho chức vụ phó tổng thống.[87]

Trong khoảng 1857-58, do bất đồng với Tổng thống James Buchanan, Douglas dẫn đầu một cuộc tranh đấu giành quyền kiểm soát Đảng Dân chủ. Một số đảng viên Cộng hòa cũng ủng hộ Douglas trong nỗ lực tái tranh cử vào Thượng viện năm 1858 bởi vì ông chống bản Hiến chương Lecompton xem Kansas là tiểu bang chấp nhận chế độ nô lệ.[88] Tháng 3 năm 1857, khi ban hành phán quyết trong vụ án Dred Scott chống Sandford, Chánh án Roger B. Taney lập luận rằng bởi vì người da đen không phải là công dân, họ không được hưởng bất kỳ quyền gì qui định trong Hiến pháp. Lincoln lên tiếng cáo giác đó là âm mưu của phe Dân chủ, “Các tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập không ‘nói mọi người bình đẳng trong màu da, thể hình, trí tuệ, sự phát triển đạo đức, khả năng xã hội’, song họ ‘thực sự xem mọi người sinh ra đều bình đẳng trong những quyền không thể chuyển nhượng, trong đó có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc.’”[89]

Sau khi được đại hội bang Đảng Cộng hòa đề cử tranh ghế tại Thượng viện năm 1858, Lincoln đọc bài diễn văn Một nhà tự chia rẽ, gợi ý từ Phúc âm Mác trong Kinh Thánh:
“ ..."Một nhà tự chia rẽ thì nhà ấy không thể đứng vững được". Tôi tin rằng chính quyền này không thể trường tồn trong tình trạng một nửa nước nô lệ, một nửa nước tự do. Tôi không mong chờ chính quyền liên bang bị giải thể - tôi không mong đợi ngôi nhà bị sụp đổ - nhưng tôi thực sự trông mong đất nước này sẽ không còn bị chia rẽ.

Đất nước chúng ta sẽ trở thành một thực thể như thế này hoặc là hoàn toàn khác. Hoặc là những người chống chế độ nô lệ sẽ kìm hãm được tệ nạn này, và khiến công chúng tin rằng cuối cùng nó sẽ không còn tồn tại; hoặc là những người ủng hộ chế độ nô lệ sẽ phát triển và biến nó thành hợp pháp tại mọi tiểu bang, mới cũng như cũ – miền Bắc cũng như miền Nam….[90]. ”


Bài diễn văn đã tạo dựng được một hình ảnh sinh động liên tưởng đến hiểm họa phân hóa đất nước gây ra bởi những bất đồng về chế độ nô lệ, và là lời hiệu triệu tập hợp đảng viên Cộng hòa khắp miền Bắc.[91]
[sửa]Tranh luận giữa Lincoln và Douglas
Lincoln năm 1860, ảnh A. Hesler.

Năm 1858 chứng kiến bảy cuộc tranh luận giữa Lincoln và Douglas khi diễn ra cuộc vận động tranh cử vào Thượng viện, đây là những cuộc tranh luận chính trị nổi tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.[92] Lincoln cảnh báo rằng chế độ nô lệ đang đe dọa những giá trị của chủ thuyết cộng hòa, và cáo buộc Douglas là bẻ cong các giá trị của những nhà lập quốc về nguyên lý mọi người sinh ra đều bình đẳng, trong khi Douglas nhấn mạnh đến quyền tự quyết của cư dân địa phương xem họ có chấp nhận chế độ nô lệ hay không.[93]

Các ứng cử viên Cộng hòa giành nhiều phiếu phổ thông hơn, nhưng những người Dân chủ chiếm được nhiều ghế hơn trong viện lập pháp tiểu bang. Viện Lập pháp đã tái bầu Douglas vào Thượng viện Hoa Kỳ. Dù bị thất bại cay đắng, khả năng hùng biện của Lincoln mang đến cho ông danh tiếng trên chính trường quốc gia.[94]
[sửa]Diễn văn Cooper Union

Ngày 27 tháng 2, 1860, giới lãnh đạo đảng ở New York mời Lincoln đọc diễn văn tại Liên minh Cooper, trước một cử tọa gồm những nhân vật có thế lực trong đảng Cộng hòa. Lincoln lập luận rằng những nhà lập quốc không mấy quan tâm đến quyền tự quyết phổ thông, nhưng thường xuyên tìm cách kìm chế chế độ nô lệ. Ông nhấn mạnh rằng nền tảng đạo đức của người Cộng hòa đòi hỏi họ phải chống lại chế độ nô lệ, và mọi sự “cám dỗ chấp nhận lập trường trung dung giữa lẽ phải và điều sai trái.” [95]

Việc phô bày khả năng lãnh đạo đầy trí tuệ đã đưa Lincoln vào nhóm những chính trị gia hàng đầu của đảng và dọn đường cho ông trong nỗ lực giành sự đề cử của đảng tranh chức tổng thống. Nhà báo Noah Brooks tường thuật, “Chưa từng có ai tạo được ấn tượng mạnh mẽ như thế như lẩn đầu tiên ông hiệu triệu một cử tọa ở New York.” [96][97]Donald miêu tả bài diễn văn là “một động thái chính trị siêu đẳng cho một ứng cử viên chưa tuyên bố tranh cử, xuất hiện ở chính tiểu bang của đối thủ (William H. Seward), ngay tại một sự kiện do những người trung thành với đối thủ thứ hai (Salmon P. Chase) bảo trợ, mà không cần phải nhắc đến tên của họ trong suốt bài diễn văn.[98]
Chiến dịch Tranh cử Tổng thống năm 1860

Đại hội tiểu bang Đảng Cộng hòa tổ chức tại Decatur trong hai ngày 9 và 10 tháng 5, 1860. Lincoln nhận được ủng hộ để ra tranh cử tổng thổng.[99] Ngày 18 tháng 5, tại Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1860, tổ chức ở Chicago, ở vòng bầu phiếu thứ ba, Lincoln giành được sự đề cử, một người từng là đảng viên Dân chủ đến từ Maine, Hannibal Hamlin, được chọn đứng cùng liên danh với ông để tạo thế cân bằng. Thành quả này có được là nhờ danh tiếng của ông như là một chính trị gia có lập trường ôn hòa về vấn đề nô lệ cũng như sự ủng hộ mạnh mẽ của ông dành cho các chương trình của Đảng Whig cải thiện các vấn đề trong nước và bảo hộ hàng nội địa.[100]

Trong suốt thập niên 1850, Lincoln không tin sẽ xảy ra cuộc nội chiến, những người ủng hộ ông cũng bác bỏ việc ông đắc cử sẽ dẫn đến khả năng chia cắt đất nước.[101] Trong lúc ấy, Douglas được chọn làm ứng cử viên cho Đảng Dân chủ. Những đoàn đại biểu từ 11 tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ bỏ phòng họp vì bất đồng với quan điểm của Douglas về quyền tự quyết phổ thông, sau cùng họ chọn John C. Breckinridge làm ứng cử viên.[102]

Lincoln là ứng cử viên duy nhất không đọc diễn văn tranh cử, nhưng ông theo dõi sát sao cuộc vận động và tin cậy vào bầu nhiệt huyết của đảng viên Cộng hòa. Họ di chuyển nhiều và tạo lập những nhóm đa số khắp miền Bắc, in ấn và phổ biến một khối lượng lớn áp-phích, tờ rơi, và viết nhiều bài xã luận trên các nhật báo. Có hàng ngàn thuyết trình viên Cộng hòa quảng bá cương lĩnh đảng và những trải nghiệm sống của Lincoln, nhấn mạnh đến tuổi thơ nghèo khó của ông. Mục tiêu của họ là trình bày sức mạnh vượt trội của quyền lao động tự do, nhờ đó mà một cậu bé quê mùa lớn lên từ nông trại nhờ nỗ lực bản thân mà trở thành một chính trị hàng đầu của xứ sở.[103] Phương pháp quảng bá hiệu quả của Đảng Cộng hòa đã làm suy yếu các đối thủ; một cây bút của tờ Chicago Tribune viết một tiểu luận miêu tả chi tiết cuộc đời Lincoln, bán được khoảng từ 100 đến 200 ngàn ấn bản.[104]
[sửa]Tổng thống
[sửa]Bầu cử năm 1860
Năm 1860, phiếu bầu của cử tri đoàn phía bắc và phía tây (đỏ) đã giúp Lincoln thắng cử.
Năm 1861, lễ nhậm chức trước Tòa nhà Quốc hội (đang xây dựng)

Ngày 6 tháng 11, 1860, Lincoln đắc cử để trở thành tổng thống thứ mười sáu của Hoa Kỳ. Ông vượt quaStephen A. Douglas của Đảng Dân chủ, John C. Breckinridge của Đảng Dân chủ miền Nam, và John Bell của Đảng Liên minh Hiến pháp mới được thành lập năm 1860. Lincoln là đảng viên Cộng hòa đầu tiên đảm nhận chức vụ tổng thống. Chiến thắng của ông hoàn toàn dựa trên sự ủng hộ ở miền Bắc và miền Tây. Không có phiếu bầu cho Lincoln tại mười trong số mười lăm tiểu bang miền Nam sở hữu nô lệ; ông chỉ về đầu ở 2 trong số 996 hạt trên tất cả các tiểu bang miền Nam.[105] Lincoln nhận được 1 866 452 phiếu bầu, trong khi Douglas có 1 376 957 phiếu, Breckinridge 849 781 phiếu, và Bell được 588 789 phiếu.
Ly khai

Khi kết quả bầu cử đã rõ ràng, những người chủ trương ly khai nói rõ ý định của họ là sẽ tách khỏi Liên bang trước khi Lincoln nhậm chức vào tháng 3 tới.[106] Ngày 20 tháng 12, 1860, bang South Carolina dẫn đầu bằng cách chấp nhận luật ly khai; ngày 1 tháng 2, 1861, Florida, Mississippi, Alabama, Georgia,Louisiana, và Texas tiếp bước.[107][108] Sáu trong số các tiểu bang này thông qua một bản hiến pháp, và tuyên bố họ là một quốc gia có chủ quyền, Liên minh miền Nam.[107] Các tiểu bang Delaware, Maryland,Virginia, North Carolina, Tennessee, Kentucky, Missouri, và Arkansas có lắng nghe nhưng không chịu ly khai.[109] Tổng thống đương nhiệm Buchanan và Tổng thống tân cử Lincoln từ chối công nhận Liên minh, tuyên bố hành động ly khai là bất hợp pháp.[110] Ngày 9 tháng 2, 1861, Liên minh miền Nam chọn Jefferson Davis làm Tổng thống lâm thời.[111]

Khởi đầu là những nỗ lực hòa giải. Thỏa hiệp Crittenden mở rộng thêm những điều khoản của Thỏa hiệp Missouri năm 1820, phân chia thành các vùng tự do và vùng có nô lệ, điều này trái ngược với cương lĩnh của Đảng Cộng hòa.[112] Bác bỏ ý tưởng ấy, Lincoln phát biểu, “Tôi thà chết còn hơn chấp nhận... bất cứ sự nhượng bộ hoặc sự thỏa hiệp nào để có thể sở hữu chính quyền này, là chính quyền chúng ta có được bởi quyền hiến định.”[113] Tuy nhiên, Lincoln ủng hộ Tu chính Corwin được Quốc hội thông qua nhằm bảo vệ quyền sở hữu nô lệ tại những tiểu bang đã có sẵn chế độ nô lệ.[114] Chỉ vài tuần lễ trước khi xảy ra chiến tranh, Lincoln đi xa đến mức viết một bức thư gởi tất cả thống đốc kêu gọi họ ủng hộ việc thông qua Tu chính Corwin, ông xem đó như là nỗ lực tránh nguy cơ ly khai.[115]

Trên đường đến lễ nhậm chức bằng tàu hỏa, Lincoln diễn thuyết trước những đám đông và các viện lập pháp khi ông băng ngang qua lãnh thổ phương Bắc.[116] Ở Baltimore, nhờ Allen Pinkerton, trưởng toán cận vệ, dùng thân mình che Tổng thống tân cử mà ông thoát chết. Ngày 23 tháng 2, 1861, Lincoln phải ngụy trang khi đến Washington, D.C., trong sự bảo vệ của một toán binh sĩ.[117] Nhắm vào dân chúng miền Nam, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ nhất, Lincoln tuyên bố rằng ông không có ý định hủy bỏ chế độ nô lệ ở các tiểu bang miền Nam:
“ Người dân ở các tiểu bang miền Nam nghĩ rằng khi Chính phủ Đảng Cộng hòa lên cầm quyền, tài sản, sự bình yên, và sự an toàn cá nhân của họ sẽ bị đe dọa. Không hề có bất kỳ lý do nào khiến họ nghĩ như thế. Thật vậy, vô số điều chứng minh ngược lại vẫn còn đó và quý vị có thể kiểm tra chúng. Các chứng cứ này có thể được tìm thấy trong hầu hết các diễn từ của người đang nói chuyện với quý vị hôm nay. Xin trích dẫn một trong những bài diễn văn ấy, “Tôi không có mục đích nào, trực tiếp hay gián tiếp, để can thiệp vào chế độ nô lệ ở những tiểu bang vốn đã có sẵn. Tôi tin rằng tôi không có quyền hợp pháp để hành động như thế, mà tôi cũng không có ý định ấy.” ”


Kết thúc bài diễn văn, Tổng thống kêu gọi dân chúng miền Nam: “Chúng ta không phải là kẻ thù, nhưng là bằng hữu. Không thể nào chúng ta trở thành kẻ thù của nhau ... Sợi dây đàn mầu nhiệm của ký ức, trải dài từ những bãi chiến trường và mộ phần của những người yêu nước đến trái tim của mỗi người đang sống, đến chỗ ấm cúng nhất của mỗi mái ấm gia đình, khắp mọi nơi trên vùng đất bao la này, sẽ làm vang tiếng hát của ban hợp xướng Liên bang, khi dây đàn ấy được chạm đến một lần nữa, chắc chắn sẽ như thế, bởi phần tốt lành hơn trong bản chất của chúng ta.”[119]
Chiến tranh
Bài chi tiết: Nội chiến Mỹ
Thiếu tá Anderson, Chỉ huy trưởng Đồn Sumter

Chỉ huy trưởng Đồn Sumter ở tiểu bang South Carolina, Thiếu tá Robert Anderson, yêu cầu tiếp liệu từ Washington, và khi Lincoln chỉ thị đáp ứng yêu cầu ấy, phe ly khai xem đó là hành động gây chiến. Ngày 12 tháng 4, 1861, lực lượng Liên minh tấn công doanh trại Sumter, buộc họ phải đầu hàng. Chiến tranh bùng nổ. Sử gia Allen Nevins cho rằng tổng thống vừa nhậm chức đã tính toán nhầm khi tin rằng ông có thể duy trì Liên bang.[120] William Tecumseh Sherman, viếng thăm Linconln trong tuần lễ diễn ra lễ nhậm chức, đã “thất vọng trong đau buồn” vì thấy Lincoln không thể nhận ra sự thật là “đất nước đang ngủ mê ngay trên ngọn núi lửa”, và miền Nam đang chuẩn bị cho chiến tranh.[121] Donald đúc kết, “Chính nỗ lực của Lincoln nhiều lần cố tránh va chạm trong thời gian giữa lễ nhậm chức và trận Đồn Sumter chỉ ra rằng ông trung thành với lời hứa sẽ không phải là người khởi phát cuộc huynh đệ tương tàn. Mặt khác, ông cũng thề hứa không chịu để các đồn binh bị thất thủ. Giải pháp duy nhất cho phe Liên minh là họ phải khai hỏa trước; và họ đã hành động."[122]

Ngày 15 tháng 4, Lincoln kêu gọi các tiểu bang gởi 75 000 binh sĩ tái chiếm các đồn binh, bảo vệ Washington, và “duy trì Liên bang”, theo ông, vẫn đang còn nguyên vẹn bất kể hành động của những bang ly khai. Lời kêu gọi này buộc các tiểu bang phải quyết định dứt khoát. Virginia tuyên bố ly khai, liền được ban thưởng để trở thành thủ đô của Liên minh. Trong vòng hai tháng, North Carolina, Tennessee, và Arkansas cũng biểu quyết ly khai. Cảm tình ly khai phát triển ởMissouriMaryland, nhưng chưa đủ mạnh để chiếm ưu thế, trong khi Kentucky cố tỏ ra trung lập.[123]

Binh sĩ di chuyển về hướng nam đến Washington để bảo vệ thủ đô, đáp lời kêu gọi của Lincoln. Ngày 19 tháng 4, những đám đông chủ trương ly khai ở Baltimore chiếm đường sắt dẫn về thủ đô. George William Brown, Thị trưởng Baltimore, và một số chính trị gia khả nghi khác ở Maryland bị cầm tù mà không cần trát lệnh, Lincoln đình chỉ quyền công dân được xét xử trước tòa.[124] John Merryman, thủ lĩnh nhóm ly khai ở Maryland, thỉnh cầu Chánh án Tối cao Pháp viện Roger B. Taney ra phán quyết cho rằng vụ bắt giữ vụ bắt giữ Merryman mà không xét xử là vi phạm pháp luật. Taney ra phán quyết, theo đó Merryman phải được trả tự do, nhưng Lincoln phớt lờ phán quyết. Từ đó, và trong suốt cuộc chiến, Lincoln bị chỉ trích dữ dội, thường khi bị lăng mạ, bởi những đảng viên Dân chủ chống chiến tranh.[125]
Hành xử quyền lực trong thời chiến
Lincoln thăm mặt trận Antietam,
3 tháng 10, 1862

Sau khi Đồn Sumter bị thất thủ, Lincoln nhận ra tầm quan trọng của việc trực tiếp nắm quyền chỉ huy nhằm kiểm soát cuộc chiến và thiết lập chiến lược toàn diện để trấn áp phe nổi loạn. Đối đầu với cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự chưa từng có, Lincoln, với tư cách là Tổng Tư lệnh Quân lực, sử dụng quyền lực chưa từng có. Ông mở rộng những quyền đặc biệt trong chiến tranh, áp đặt lệnh phong tỏa trên tất cả thương cảng của Liên minh, ra lệnh cầm tù không qua xét xử hàng ngàn người bị nghi là ủng hộ Liên minh. Quốc hội và công luận miền bắc ủng hộ ông. Hơn nữa, Lincoln phải đấu tranh để củng cố sự ủng hộ mạnh mẽ từ những tiểu bang có nô lệ ở vùng biên, và phải kiềm chế cuộc chiến không trở thành một cuộc tranh chấp quốc tế.[126]

Nỗ lực dành cho cuộc chiến chiếm hết thời gian và tâm trí của Lincoln cũng như khiến ông trở nên tâm điểm của sự dèm pha và miệt thị. Nhóm phản chiến trong Đảng Dân chủ chỉ trích Lincoln không chịu thỏa hiệp trong vấn đề nô lệ, trong khi nhóm cấp tiến trong Đảng Cộng hòa phê phán ông hành động quá chậm trong nỗ lực bãi nô.[127] Ngày 6 tháng 8, 1861, Lincoln ký ban hành Luật Tịch biên, cho phép tịch biên tài sản và giải phóng nô lệ của những người ủng hộ Liên minh trong cuộc chiến. Trong thực tế, dù ít khi được áp dụng, luật này đánh dấu sự ủng hộ chính trị dành cho nỗ lực bãi bỏ chế độ nô lệ.[128]

Lincoln mượn từ Thư viện Quốc hội quyển Elements of Military Art and Science của Henry Halleck để đọc và nghiên cứu về quân sự.[129] Lincoln nhẫn nại xem xét từng báo cáo gởi bằng điện tín từ Bộ Chiến tranh ở Washington D. C. , tham vấn các thống đốc tiểu bang, một số tướng lãnh được tuyển chọn dựa trên thành tích của họ. Tháng 1 năm 1862, sau nhiều lời than phiền về sự thiếu hiệu quả cũng như những hành vi vụ lợi ở Bộ Chiến tranh, Licoln bổ nhiệm Edwin Stanton thay thế Cameron trong cương vị bộ trưởng. Stanton là một trong số nhiều đảng viên Dân chủ bỏ sang đảng Cộng hòa dưới quyền lãnh đạo của Lincoln.[130] Mỗi tuần hai lần, Lincoln họp với nội các. Ông học hỏi từ Tướng Henry Halleck về sự cần thiết kiểm soát các điểm chiến lược, như sông Mississippi;[131] ông cũng biết rõ tầm quan trọng của thị trấn Vicksburg, và hiểu rằng cần phải triệt tiêu sức mạnh quân sự của đối phương chứ không chỉ đơn giản là chiếm được lãnh thổ.[132]
[sửa]Tướng McClellan

Năm 1861, Lincoln bổ nhiệm Thiếu tướng George B. McClellan làm tổng tham mưu trưởng quân lực Liên bang thay thế tướng Winfield Scott về hưu.[133] Tốt nghiệp Trường Võ bị West Point, từng lãnh đạo công ty đường sắt, và đảng viên Dân chủ từ Pensylvania, McClellan phải mất đến vài tháng để lập kế hoạch cho chiến dịch Penisula nhằm chiếm Richmond để tiến về thủ đô của Liên minh. Sự chậm trễ này đã gây bối rối cho Lincoln và Quốc hội.[134]
Lincoln và McClellan sau trận Antietam

Tháng 3 năm 1862, Lincoln bãi chức McClellan và bổ nhiệm Henry Wager Halleck thay thế. Trên biển, chiến hạm CSS Virginia gây thiệt hại ba chiến hạm của Liên bang ở Norfolk, Virginia trước khi bị chiến hạm USS Monitor đánh bại.[135] Trong lúc tuyệt vọng, Lincoln phải mời McClellan trở lại lãnh đạo lực lượng vũ trang khu vực Washington. Hai ngày sau, lực lượng của Tướng Lee băng qua sông Potomac tiến vào Maryland tham gia trận Antietam trong tháng 9 năm 1862.[136] Đây là một trong những trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mỹ dù chiến thắng thuộc về Liên bang, và cũng là cơ hội để Lincoln công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ nhằm tránh những đồn đoán cho rằng Lincoln phải công bố bản tuyên ngôn vì đang ở trong tình thế tuyệt vọng.[137] McClellan chống lại lệnh của tổng thống yêu cầu truy đuổi Tướng Lee, trong khi đồng đội của ông, Tướng Don Carlos Buell không chịu động binh đánh quân nổi dậy ở phía đông Tennessee. Lincoln bổ nhiệm William Rosecrant thay thế Buell; sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, ông chọn Ambrose Burnside thay thế McClellan. Hai nhà lãnh đạo quân sự mới đều có quan điểm chính trị ôn hòa và đều ủng hộ vị tổng tư lệnh quân lực.[138]

Tháng 12, do vội vàng mở cuộc tấn công băng qua sông Rappahannock, Burnside bị Lee đánh bại trong trận Fredericksburg khiến hàng ngàn binh sĩ bất mãn và đào ngũ trong năm 1863.[139]

Trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1862, đảng Cộng hòa mất nhiều ghế ở Viện Dân biểu do cử tri bất bình với chính phủ vì không thể kết thúc sớm cuộc chiến, và vì nạn lạm phát, tăng thuế, những đồn đại về tham ô, và nỗi e sợ thị trường lao động sẽ sụp đổ nếu giải phóng nô lệ. Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ được công bố vào tháng 9 đã giúp đảng Cộng hòa giành phiếu bầu ở các khu vực nông thông vùng New Englandvà phía bắc vùng Trung Tây, nhưng mất phiếu ở các đô thị và phía nam vùng Tây Bắc. Đảng Dân chủ được tiếp thêm sức mạnh và hoạt động tốt ở Pennsylvania, Ohio, Indiana, và New York. Tuy nhiên, đảng Cộng hòa vẫn duy trì thế đa số ở Quốc hội và các tiểu bang quan trọng ngoại trừ New York. Theo tờ Cincinnati, cử tri “thất vọng vì thấy cuộc chiến tiếp tục kéo dài, cũng như sự cạn kiệt tài nguyên quốc gia mà không có sự tiến bộ nào.” [140]
[sửa]Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ
Lincoln trình bày trước nội các bản thảo đầu tiên của bản
Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ. 

Lincoln hiểu rằng quyền lực của chính quyền liên bang để giải phóng nô lệ đang bị hạn chế bởi Hiến pháp, mà hiến pháp, từ trước năm 1865, đã dành quyền này cho các tiểu bang. Lúc bắt đầu cuộc chiến, Lincoln cố thuyết phục các tiểu bang chấp nhận giải phóng nô lệ có bồi thường (nhưng chỉ được Washington, D. C. áp dụng) Ông bác bỏ các đề nghị giới hạn việc giải phóng nô lệ theo khu vực địa lý.[141]

Ngày 19 tháng 6, 1862, với sự ủng hộ của Lincoln, Quốc hội thông qua luật cấm chế độ nô lệ trên toàn lãnh thổ liên bang. Tháng 7, dự luật thứ hai được thông qua, thiết lập trình tự tài phán để tiến hành giải phóng nô lệ của những chủ nô bị kết án ủng hộ phe phiến loạn. Dù không tin Quốc hội có quyền giải phóng nô lệ trong lãnh thổ các tiểu bang, Lincoln phê chuẩn dự luật để bày tỏ sự ủng hộ dành cho ngành lập pháp.

Ông cảm nhận rằng tổng thống trong cương vị tổng tư lệnh quân lực có thể sử dụng quyền hiến định hành động trong tình trạng chiến tranh để thực thi luật pháp, và ông lập kế hoạch hành động. Ngay trong tháng 6, Lincoln thảo luận với nội các nội dung bản Tuyên ngôn, trong đó ông viết, “như là một biện pháp quân sự cần thiết và thích đáng, từ ngày 1 tháng 1, 1863, mọi cá nhân bị xem là nô lệ trong các tiểu bang thuộc Liên minh, từ nay và vĩnh viễn, được tự do.”[142]

Trong chỗ riêng tư, Lincoln khẳng quyết rằng không thể chiến thắng mà không giải phóng nô lệ. Tuy nhiên, phe Liên minh và thành phần chống chiến tranh tuyên truyền rằng giải phóng nô lệ là rào cản đối với nỗ lực thống nhất đất nước. Lincoln giải thích rằng mục tiêu chính của ông trong cương vị tổng thống là bảo vệ sự thống nhất của Liên bang:[143]
“ Mục tiêu to lớn của tôi trong cuộc chiến này là cứu Liên bang, chứ không phải là cứu hay hủy diệt chế độ nô lệ. Nếu có thể cứu Liên bang mà không cần phải giải phóng nô lệ thì tôi sẽ làm như thế, còn nếu có thể cứu Liên bang mà phải giải phóng tất cả nô lệ tôi sẽ làm như thế; và nếu có thể cứu Liên bang mà chỉ cần giải phóng một số nô lệ và để mặc những nô lệ còn lại, tôi cũng sẽ làm. Những gì tôi làm liên quan đến chế độ nô lệ và chủng tộc da màu là do tôi tin rằng nó giúp chúng ta cứu Liên bang...[144]


Công bố ngày 22 tháng 9, 1862, bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1, 1863, tuyên bố giải phóng nô lệ trong 10 tiểu bang ngoài vòng kiểm soát của Liên bang, với sự miễn trừ dành cho những khu vực trong hai tiểu bang thuộc Liên bang.[145] Quân đội Liên bang càng tiến sâu về phía Nam càng có nhiều nô lệ được tự do cho đến hơn ba triệu nô lệ trong lãnh thổ Liên minh được giải phóng. Lincoln nhận xét về bản Tuyên ngôn, “Chưa bao giờ trong đời tôi tin quyết về những gì tôi đang làm là đúng như khi tôi ký văn kiện này.” [146]

Sau khi ban hành Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, tuyển mộ cựu nô lệ vào quân đội là chủ trương chính thức của chính phủ. Lúc đầu còn miễn cưỡng, nhưng từ mùa xuân năm 1863, Lincoln khởi xướng chương trình “tuyển mộ đại trà binh sĩ da đen”. Trong thư gởi Andrew Johnson, thống đốc quân sự Tennessee, Lincoln viết, “Chỉ cần quang cảnh 50 000 chiến binh da đen được huấn luyện và trang bị đầy đủ cũng có thể chấm dứt cuộc nổi loạn ngay lập tức.” [147] Cuối năm 1863, theo hướng dẫn của Lincoln, Tướng Lorenzo Thomas tuyển mộ 20 trung đoàn da đen từ Thung lũng Mississippi.[148] Frederick Douglass có lần nhận xét, “Khi gặp Lincoln, chưa bao giờ tôi nhớ đến xuất thân thấp kém, hoặc màu da không được ưa thích của mình.” [149]
[sửa]Diễn văn Gettysburg
Bài chi tiết: Diễn văn Gettysburg

Tháng 7 năm 1863, quân Liên bang thắng lớn trong trận Gettysburg. Trên chính trường, nhóm Copperheads bị thất bại trong kỳ tuyển cử mùa thu ở Ohio, nhờ đó Lincoln duy trì sự ủng hộ bên trong đảng cùng vị thế chính trị vững chãi đủ để tái thẩm định cuộc chiến. Tình thế thuận lợi cho Lincoln vào thời điểm ông đọc bài diễn văn tại nghĩa trang Gettysburg.[150] Trái với lời tiên đoán của Lincoln, “Thế giới không quan tâm, cũng chẳng nhớ những gì chúng ta nói ở đây,” bài diễn văn đã trở nên một trong những diễn từ được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Mỹ Quốc.[6]

Diễn văn Gettysburg được đọc trong lễ cung hiến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia tại Gettysburg, Pennsylvania, vào chiều thứ Năm, ngày 19 tháng 11, 1863. Chỉ với 273 từ, trong bài diễn văn kéo dài ba phút này, Lincoln nhấn mạnh đất nước được sản sinh, không phải năm 1789, mà từ năm 1776, “được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.” Ông định nghĩa rằng chiến tranh là sự hi sinh đấu tranh cho nguyên tắc tự do và bình đẳng cho mọi người. Giải phóng nô lệ là một phần của nỗ lực ấy. Ông tuyên bố rằng cái chết của các chiến sĩ dũng cảm là không vô ích, rằng chế độ nô lệ sẽ thất bại và cáo chung, tương lai của nền dân chủ sẽ được bảo đảm, và “chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất.” Lincoln đúc kết rằng cuộc nội chiến có một mục tiêu cao quý – sản sinh một nền tự do mới cho dân tộc.[151][152]
[sửa]Tướng Grant
Tổng thống Lincoln (giữa) ngồi với các tướng lĩnh (từ trái) Sherman,
 Grant và Đô đốc Porter, tháng 3, 1865

Sự kiện Meade không thể khống chế đạo quân của Lee khi ông này triệt thoái khỏi Gettysburg cùng với sự thụ động kéo dài của Binh đoàn Potomac khiến Lincoln tin rằng cần có sự thay đổi ở vị trí tư lệnh mặt trận. Chiến thắng của Tướng Ulysses S. Grant trong trận Shiloh và trong chiến dịch Vicksburg tạo ấn tượng tốt đối với Lincoln.[153] Vào năm 1864, Grant phát động Chiến dịch Overland đẫm máu thường được gọi là chiến tranh tiêu hao, khiến phía Liên bang thiệt hại nặng nề trong các mặt trận như WildernessCold Harbor. Dù được hưởng lợi thế của phía phòng thủ, quân đội Liên minh cũng bị tổn thất không kém.[154]

Do không có nguồn lực dồi dào, đạo quân của Lee cứ hao mòn dần qua mỗi trận chiến, bị buộc phải đào hào phòng thủ bên ngoàiPetersburg, Virginia trong vòng vây của quân đội Grant.

Linconln cho phép Grant phá hủy cơ sở hạ tầng của Liên minh như nông trang, đường sắt, và cầu cống nhằm làm suy sụp tinh thần cũng như làm suy yếu khả năng kinh tế của đối phương. Di chuyển đến Petersburg, Grant chặn ba tuyến đường sắt từ Richmond, Virginia về phía nam tạo điều kiện cho Tướng Sherman và Tướng Philip Sheridan hủy phá các nông trang và các thị trấn ở Thung lũng Shenandoah thuộc Virginia. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1865, Grant thọc sâu vào sườn của lực lượng của Lee trong trận Five Forksbao vây Petersburg, chính phủ Liên minh phải di tản khỏi Richmond. Lincoln đến thăm thủ đô của Liên minh khi vừa bị thất thủ, người da đen được tự do chào đón ông như một vị anh hùng trong khi người da trắng tỏ vẻ lạnh lùng với tổng thống của phe chiến thắng. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1865, tại làng Appomattox Court House, Lee đầu hàng trước Grant, kết thúc cuộc nội chiến.[155]
[sửa]Năm 1864, tái tranh cử

Là chính trị gia lão luyện, Lincoln không chỉ có khả năng đoàn kết tất cả phe phái chính trong đảng Cộng hòa mà còn thu phục những người Dân chủ như Edwin M. Stanton và Andrew Johnson. Ông dành nhiều giờ trong tuần để đàm đạo với các chính trị gia đến từ khắp đất nước, và sử dụng ảnh hưởng rộng lớn của ông để tạo sự đồng thuận giữa các phe nhóm trong đảng, xây dựng hậu thuẫn cho các chính sách của ông, và đối phó với nỗ lực của nhóm cấp tiến đang cố loại ông khỏi liên danh năm 1864.[156][157]
Chiến thắng áp đảo của Lincoln (đỏ) trong kỳ bầu cử 1864. Các tiểu bang (nâu) và lãnh thổ (nâu nhạt) miền nam không tham dự
Lincoln đọc diễn văn nhậm chức lần thứ hai năm 1865

Đại hội đảng năm 1864 chọn Andrew Johnson đứng cùng liên danh với Lincoln. Nhằm mở rộng liên minh chính trị hầu lôi cuốn các đảng viên Dân chủ và Cộng hòa, Lincoln tranh cử dưới danh nghĩa của Đảng Liên hiệp Quốc gia tân lập.[158]

Khi các chiến dịch mùa xuân của Grant đi vào bế tắc trong khi tổn thất tiếp tục gia tăng, sự thiếu vắng các chiến thắng quân sự phủ bóng trên triển vọng đắc cử của Tổng thống, nhiều đảng viên Cộng hòa trên khắp nước e sợ Lincoln sẽ thất cử.[159]

Khi cánh chủ hòa trong đảng Dân chủ gọi cuộc chiến là một “thất bại” thì ứng cử viên của đảng, Tướng George B. McClellan, ủng hộ chiến tranh và lên tiếng bác bỏ luận cứ của phe chủ hòa. Lincoln cấp thêm lính cho Grant, đồng thời vận động đảng của ông tăng cường hỗ trợ cho Grant. Trong tháng 9, Thắng lợi của Liên bang khi Sherman chiếm Atlanta và David Farragut chiếm Mobile dập tắt mọi hoài nghi;[160]

Đảng Dân chủ bị phân hóa trầm trọng, một số nhà lãnh đạo và phần lớn quân nhân quay sang ủng hộ Lincoln. Một mặt, Đảng Liên hiệp Quốc gia đoàn kết chặt chẽ hỗ trợ cho Lincoln khi ông tập chú vào chủ đề giải phóng nô lệ; mặt khác, các chi bộ Cộng hòa cấp tiểu bang nỗ lực hạ giảm uy tín phe chủ hòa.[161] Lincoln thắng lớn trong cuộc tuyển cử, giành được phiếu bầu của tất cả ngoại trừ ba tiểu bang.[162]

Ngày 4 tháng 3, 1865, trong bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai, Lincoln bày tỏ rằng sự tổn thất lớn lao từ hai phía là do ý chỉ của Thiên Chúa. Sử gia Mark Noll xếp diễn từ này vào trong “một số ít các văn bản hàm chứa tính thiêng liêng, nhờ đó người dân Mỹ ý thức được vị trí của mình trên thế giới.”
“ Mơ ước khi hi vọng – khẩn thiết lúc nguyện cầu – chúng ta mong cuộc chiến đau thương này sớm chấm dứt. Song, theo ý chỉ của Thiên Chúa, nó vẫn tiếp diễn, cho đến khi tất cả của cải từng được dồn chứa bởi sự lao dịch khốn cùng của người nô lệ trong suốt 250 năm sẽ bị tiêu tan, cho đến khi mỗi một giọt máu ứa ra từ những lằn đòn sẽ bị đáp trả bằng những nhát chém, như đã được cảnh báo từ 3 000 năm trước, và cần được nhắc lại hôm nay, “sự đoán xét của Chúa là chân lý và hoàn toàn công chính”.[163]

Không ác tâm với bất cứ ai nhưng nhân ái với mọi người, và kiên định trong lẽ phải. Khi Chúa cho chúng ta nhận ra lẽ phải, hãy tranh đấu để hoàn thành sứ mạng được giao: hàn gắn vết thương của dân tộc, chăm sóc các chiến sĩ, những người vợ góa, những trẻ mồ côi – hết sức mình tạo lập một nền hòa bình vững bền và công chính, cho chúng ta, và cho mọi dân tộc.[164]

[sửa]Tái thiết


Tôi luôn luôn thấy rằng một tấm lòng thương xót kết quả nhiều hơn một nền công lý nghiêm nhặt.


Abraham Lincoln[165]


Thời kỳ tái thiết đã khởi đầu ngay từ lúc còn chiến tranh, khi Lincoln và các phụ tá của ông tính trước phương cách giúp các tiểu bang miền nam tái hội nhập, giải phóng nô lệ, và quyết định số phận của giới lãnh đạo Liên minh. Không lâu sau khi Tướng Lee đầu hàng, khi được hỏi nên đối xử với phe thất trận như thế nào, Lincoln trả lời, “Hãy để họ thoải mái".[166] Trong nỗ lực tiến hành chính sách hòa giải, Lincoln nhận được sự ủng hộ của nhóm ôn hòa, nhưng bị chống đối bởi nhóm cấp tiến trong đảng Cộng hòa nhự Dân biểu Thaddeus Stevens, các Thượng Nghị sĩ Charles Summer và Benjamin Wade, là những đồng minh chính trị của ông trong các vấn đề khác. Quyết tâm tìm ra giải pháp hiệp nhất dân tộc mà không thù địch với miền Nam, Lincoln thúc giục tổ chức bầu cử sớm theo các điều khoản phóng khoáng. Tuyên cáo Ân xá của tổng thống ngày 8 tháng 12, 1863 công bố không buộc tội những ai không có chức vụ trong Liên minh, chưa từng ngược đãi tù binh Liên bang, và chịu ký tuyên thệ trung thành với Liên bang.[167]

Sự chọn lựa nhân sự của Lincoln là nhằm giữ hai nhóm ôn hòa và cấp tiến cùng làm việc với nhau. Ông bổ nhiệm Salmon P. Chase thuộc nhóm cấp tiến vào Tối cao Pháp viện thay thế Chánh án Taney.

Sau khi Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có hiệu lực, dù không được áp dụng trên tất cả tiểu bang, Lincoln gia tăng áp lực yêu cầu Quốc hội ra một bản tu chính đặt chế độ nô lệ ngoài vòng pháp luật trên toàn lãnh thổ. Lincoln tuyên bố rằng một bản tu chính như thế sẽ “giải quyết dứt điểm toàn bộ vấn đề”.[168] Tháng 6 năm 1864, một dự luật tu chính được trình Quốc hội nhưng không được thông qua vì không đủ đa số hai phần ba. Việc thông qua dự luật trở thành một trong những chủ đề vận động trong cuộc bầu cử năm 1864. Ngày 13 tháng 1, 1865, sau một cuộc tranh luận dài ở Viện Dân biểu, dự luật được thông qua và được gửi đến các viện lập pháp tiểu bang để phê chuẩn[169] để trở thành Tu chính án thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12, 1865.[170]

Khi cuộc chiến sắp kết thúc, kế hoạch tái thiết của tổng thống tiếp tục được điều chỉnh. Tin rằng chính phủ liên bang có một phần trách nhiệm đối với hàng triệu nô lệ được giải phóng, Lincoln ký ban hàng đạo luật Freedman’s Bureau thiết lập một cơ quan liên bang đáp ứng các nhu cầu của những cựu nô lệ, cung ứng đất thuê trong hạn ba năm với quyền được mua đứt cho những người vừa được tự do.
]Tái định nghĩa khái niệm cộng hòa và chủ nghĩa cộng hòa
Tấm ảnh cuối cùng của Lincoln, tháng 3, 1865.


Những sử gia đương đại như Harry Jaffa, Herman Belz, John Diggins, Vernon Burton, và Eric Foner đều nhấn mạnh đến nỗ lực tái định nghĩa các giá trị cộng hòa của Lincoln. Từ đầu thập niên 1850 khi các luận cứ chính trị đều hướng về tính thiêng liêng của Hiến pháp, Lincoln đã tập chú vào bản Tuyên ngôn Độc lập, xem văn kiện này là nền tảng của các giá trị chính trị của nước Mỹ mà ông gọi là “thành lũy” của chủ nghĩa cộng hòa.[171]

Sự kiện bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến quyền tự do và sự bình đẳng dành cho mọi người, trái ngược với Hiến pháp dung chịu chế độ nô lệ, đã làm thay đổi chiều hướng tranh luận. Luận điểm của Lincoln đã gây dựng được ảnh hưởng vì ông làm sáng tỏ nền tảng đạo đức của chủ nghĩa cộng hòa, thay vì chỉ biết tuân thủ hiến pháp.[172]
[sửa]Các đạo luật
Nội các Lincoln[173]
Chức vụ Tên Nhiệm kỳ

Tổng thống Abraham Lincoln 1861–1865

Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward 1861–1865
Bộ trưởng Chiến tranh Simon Cameron 1861–1862
Edwin M. Stanton 1862–1865
Bộ trưởng Ngân khố Salmon P. Chase 1861–1864
Bộ trưởng Tư pháp Edward Bates 1861–1864
James Speed 1864–1865
Bộ trưởng Bưu điện Montgomery Blair 1861–1864
Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles 1861–1865
Bộ trưởng Nội vụ Caleb B. Smith 1861–1862
John P. Usher 1863–1865


Lincoln trung thành với chủ thuyết của đảng Whig về chức vụ tổng thống, theo đó Quốc hội có trách nhiệm làm luật và nhánh hành pháp thực thi luật pháp. Chỉ có bốn dự luật đã được Quốc hội thông qua đã bị Lincoln phủ quyết.[174] Năm 1862, ông ký ban hành đạo luật Homestead bán cho người dân với giá rất thấp hàng triệu héc-ta đất chính phủ đang sở hữu. Đạo luật Morrill Land-Grant Colleges ký năm 1862 cung ứng học bổng chính phủ cho các trường đại học nông nghiệp tại mỗi tiểu bang. Đạo luật Pacific Raiway năm 1862 và 1864 dành sự hỗ trợ của liên bang cho công trình xây dựng đường sắt xuyên lục địa hoàn thành năm 1869.[175]

Lincoln cũng mở rộng ảnh hưởng kinh tế của chính phủ liên bang sang các lãnh vực khác. Đạo luật National Banking cho phép thành lập hệ thống ngân hàng quốc gia cung ứng mạng lưới tài chính dồi dào trên toàn quốc, cũng như thiết lập nền tiền tệ quốc gia. Năm 1862, Quốc hội đề xuất và tổng thống phê chuẩn việc thành lập Bộ Nông nghiệp.[176] Năm 1862, Lincoln cử Tướng John Pope bình định cuộc nổi dậy của bộ tộc Sioux. Tổng thống cũng cho lập kế hoạch cải cách chính sách liên bang đối với người da đỏ.[177]

Lincoln là nhân tố chính trong việc công nhận Lễ Tạ ơn là quốc lễ của Hoa Kỳ.[178] Trước nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln, Lễ Tạ ơn là ngày lễ phổ biến ở vùng New England từ thế kỷ 17. Năm 1863, Lincoln tuyên bố thứ Năm cuối cùng của tháng Mười là ngày cử hành Lễ Tạ ơn.[178]
Tối cao Pháp viện

Lincoln bổ nhiệm năm thẩm phán cho tòa án tối cao. Noah Haynes Swayne, được đề cử ngày 21 tháng 1, 1862 và bổ nhiệm ngày 24 tháng 1, 1862; ông là luật sư, chống chế độ nô lệ và ủng hộ Liên bang. Samuel Freeman Miller, được đề cử và bổ nhiệm ngày 16 tháng 7, 1862; ông ủng hộ Lincoln trong cuộc bầu cử năm 1860, và là người chủ trương bãi nô. David Davis, được đề cử ngày 1 tháng 12, 1862 và bổ nhiệm ngày 8 tháng 12, 1862; ông là người điều hành chiến dịch tranh cử năm 1860 của Lincoln, từng là thẩm phán tòa phúc thẩm liên bang ở Illinois. Stephen Johnson Field, được đề cử ngày 6 tháng 3, 1863 và bổ nhiệm ngày 10 tháng 3, 1863; từng là thẩm phán tòa tối cao bang California. Cuối cùng là Bộ trưởng Ngân khố của Lincoln, Salmon P. Chase, được đề cử và bổ nhiệm trong ngày 6 tháng 12, 1862 vào chức vụ Chánh án Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Lincoln tin Chase là một thẩm phán có khả năng, sẽ hỗ trợ công cuộc tái thiết trong lĩnh vực tư pháp, và sự bổ nhiệm này sẽ liên kết các nhóm trong đảng Cộng hòa.[179]
Các Tiểu bang gia nhập Liên bang

Ngày 20 tháng 6, 1863, bang West Virginia xin gia nhập Liên bang, bao gồm những hạt cực tây bắc từng tách khỏi tiểu bang sau khi bang này rút lui khỏi Liên bang. Nevada, tiểu bang thứ ba thuộc vùng viễn tây được gia nhập ngày 31 tháng 10, 1864.[180]

Ám sát
Trong lô dành riêng cho tổng thống ở Nhà hát Ford, (từ trái)
 Henry Rathbone, Clara Harris, Mary Todd Lincoln,
Abraham Lincoln, và John Wilkes Booth.
Một diễn viên nổi tiếng, John Wilkes Booth, là gián điệp của Liên minh đến từ Maryland; dù chưa bao giờ gia nhập quân đội Liên minh, Booth có mối quan hệ với mật vụ Liên minh.[181] Năm 1864, Booth lên kế hoạch bắt cóc Lincoln để đòi thả tù binh Liên minh. Nhưng sau khi dự buổi diễn thuyết của Lincoln vào ngày 11 tháng 4, 1865, Booth giận dữ thay đổi kế hoạch và quyết định ám sát tổng thống.[182] Dò biết Tổng thống, Đệ nhất Phu nhân, và Tướng Ulysses S. Grant sẽ đến Nhà hát Ford, Booth cùng đồng bọn lập kế hoạch ám sát Phó Tổng thống Andrew Johnson, Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward, và Tướng Grant. Ngày 14 tháng 4, Lincoln đến xem vở kịch “Our American Cousin” mà không có cận vệ chính Ward Hill Lamon đi cùng. Đến phút chót, thay vì đi xem kịch, Grant cùng vợ đến Philadelphia.[183]

Trong lúc nghỉ giải lao, John Parker, cận vệ của Lincoln, rời nhà hát cùng người đánh xe đến quán rượu Star kế cận. Lợi dụng cơ hội Tổng thống ngồi trong lô danh dự mà không có cận vệ bên cạnh, khoảng 10 giờ tối, Booth lẻn vô và bắn vào sau đầu của Tổng thống từ cự ly gần. Thiếu tá Henry Rathbone chụp bắt Booth nhưng hung thủ đâm trúng Rathbone và trốn thoát.[184][185]

Sau mười ngày đào tẩu, người ta tìm thấy Booth tại một nông trang ở Virginia, khoảng 30 dặm (48 km) phía nam Washington D. C. Ngày 26 tháng 4, sau một cuộc đụng độ ngắn, Booth bị binh sĩ Liên bang giết chết.[186]

Sau cơn hôn mê kéo dài chín giờ, Lincoln từ trần lúc 7g 22 sáng ngày 15 tháng 4. Mục sư Phineas Densmore Gurley thuộc Giáo hội Trưởng Lão được mời cầu nguyện sau khi Bộ trưởng Chiến tranh Stanton chào tiễn biệt và nói, “Nay ông thuộc về lịch sử.”[187]

Thi thể của Lincoln được phủ quốc kỳ và được các sĩ quan Liên bang hộ tống dưới cơn mưa về Tòa Bạch Ốc trong tiếng chuông nhà thờ của thành phố. Phó Tổng thống Johnson tuyên thệ nhậm chức lúc 10:00 sáng ngay trong ngày Tổng thống bị ám sát. Suốt ba tuần lễ, đoàn tàu hỏa dành cho tang lễ Tổng thống mang thi thể ông đến các thành phố trên khắp miền Bắc đến các lễ tưởng niệm có hàng trăm ngàn người tham dự, trong khi nhiều người khác tụ tập dọc theo lộ trình giăng biểu ngữ, đốt lửa, và hát thánh ca.[188][189]
[sửa]Niềm tin tôn giáoXem thêm thông tin: Abraham Lincoln và tôn giáo
Lincoln, tranh George Healy, năm 1869

Giới học giả viết nhiều về các chủ đề liên quan đến đức tin và triết lý sống của Lincoln. Ông thường sử dụng hình ảnh và ngôn ngữ tôn giáo để trình bàyđức tin cá nhân hoặc để thuyết phục cử tọa, phần lớn trong số họ là tín hữu Kháng Cách theo trào lưu Tin Lành.[190] Dù chưa bao giờ chính thức gia nhập giáo hội nào, Lincoln rất gần gũi với Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn và tán dương Kinh Thánh.[191]

Trong thập niên 1840, Lincoln ngả theo ‘’Học thuyết Tất yếu’’ tin rằng tâm trí con người ở dưới sự kiểm soát của một quyền lực cao hơn.[192] Đến thập niên 1850, Lincoln thừa nhận “ơn thần hựu” theo cách chung, nhưng hiếm khi sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tôn giáo của người Tin Lành. Ông dành sự tôn trọng cho chủ nghĩa cộng hòa của những nhà lập quốc gần như là niềm tin tôn giáo.[193] Song, khi đau khổ vì cái chết của con trai ông, Edward, Lincoln thường xuyên nhìn nhận rằng ông cần phải trông cậy Thiên Chúa.[194] Khi một con trai khác của Lincoln, Willie, lìa đời trong tháng 2, 1862, ông càng hướng về tôn giáo để tìm câu giải đáp và sự an ủi.[195]
[sửa]Vị trí trong lịch sử

Theo bảng Xếp hạng Tổng thống trong Lịch sử Hoa Kỳ được thực hiện từ thập niên 1940, Lincoln luôn có tên trong ba người đứng đầu, thường khi là nhân vật số 1.[196] Bản thân ông luôn coi các vị Quốc phụ của Hoa Kỳ - George Washington, Thomas Jefferson, Alexander HamiltonJames Madison - là những tấm gương ngời sáng để noi theo. Ông cho rằng các bậc tiền bối ấy là những con người sắt đá.[1]

Ông được khen ngợi như một chính trị gia vĩ đại, ngang tầm với Tổng thống Washington và Thủ tướng Winston Churchill của nước Anh trong thế kỷ 20.[2]Trong phần lớn các cuộc khảo sát bắt đầu thực hiện từ năm 1948, Lincoln được xếp vào hàng đầu: Schlesinger 1948, Schlesinger 1962, 1982 Murray Blessing Survey, Chicago Tribune 1982 poll, Schlesinger 1996, CSPAN 1996, Ridings-McIver 1996, Time 2008, and CSPAN 2009. Đại thể, những tổng thống chiếm ba vị trí đầu là 1) Lincoln; 2) George Washington; và 3) Franklin D. Roosevelt, mặc dù đôi khi cũng có sự đảo ngược vị trí với nhau giữa Lincoln và Washington, Washington và Roosevelt.[197]
Tượng Abraham Lincoln, bên trong Khu Tưởng niệm Lincoln

Lincoln sở hữu tính cách điềm tĩnh cần thiết cho một chính khách, nhất là trong tình thế phức tạp. Suốt trong năm 1862, không có ngày nào trôi qua mà không có một bài diễn thuyết kêu gọi tổng thống chấp nhận những quyết sách táo bạo nhằm chống lại nạn nô lệ và Tướng McClellan, nhưng Lincoln vẫn bất động. Ông cần phải cân nhắc cho từng bước đi để thuyết phục chính mình và giới cử tri ôn hòa ở phía Bắc rằng ông đã thử hết mọi phương cách.

Ngay cả sau khi cách chức Tướng McClellan và giải phóng nô lệ, ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi đến thời điểm thích hợp. Sự mòn mỏi chờ đợi một chiến thắng để có thể công bố bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ có lẽ là giai đoạn nhạy cảm nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của Lincoln. Thời kỳ chuyển tiếp là cần thiết bởi vì Lincoln biết rằng trong những lúc đất nước đang bị phân hóa nghiêm trọng thì lập trường trung dung là con đường dẫn đến thành công cho nhà lãnh đạo.

Một ngày mùa hè năm 1862, một nhóm các nhân vật tiếng tăm chủ trương bãi nô từ vùng New England đến gặp Lincoln nhằm yêu cầu ông phải chống nạn nô lệ triệt để hơn. Sau một lúc im lặng, Lincoln hỏi xem họ còn nhớ sự kiện Blondin đi dây ngang qua thác Niagara không. Dĩ nhiên là họ nhớ. Một người trong số họ thuật lại lời của Tổng thống, “Giả sử toàn bộ giá trị vật chất trên đất nước vĩ đại này của chúng ta, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương – sự giàu có, thịnh vượng, những thành quả của nó trong hiện tại và cả niềm hi vọng cho tương lai – được tập trung lại và giao cho Blondin đem chúng băng qua thác trong chuyến đi kinh khủng này;" và giả sử “bạn đang đứng trên bờ thác khi Blondin đi trên dây, khi anh đang cẩn thận dò dẫm từng bước chân và đang cố giữ thăng bằng với thanh ngang trên tay bằng kỹ năng tinh tế của mình để băng qua thác nước khổng lồ đang gầm rú bên dưới. Bạn sẽ gào thét, ‘Blondin, qua phải một bước!’ ‘Blondin, qua trái một bước!’ hay là bạn lặng lẽ đứng yên, nín thở và cầu nguyện xin Đấng Toàn Năng hướng dẫn và giúp anh ấy vượt qua cơn thử thách?”[198]

Chính là bởi vì vụ ám sát mà Lincoln được xem là vị anh hùng xả thân vì dân tộc. Trong mắt của những người chủ trương bãi nô, ông là nhà tranh đấu cho quyền tự do của con người. Đảng viên Cộng hòa liên kết tên tuổi ông với đảng của họ. Ở miền Nam, nhiều người, tuy không phải tất cả, xem ông là một tài năng kiệt xuất.[199] Kể từ sau khi Lincoln qua đời, đã có không ít tác giả viết sách về ông.[9] Cũng có nhiều mâu thuẫn giữa quan điểm của những cuốn sách viết về Lincoln.[7]
Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Abraham Lincoln tạiSpringfield, Illinois

Theo Schwartz, cuối thế kỷ 19 thanh danh của Lincoln tiến triển chậm cho mãi đến Giai đoạn Phát triển (1900 – thập niên 1920) ông mới được xem như là một trong những vị anh hùng được tôn kính nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ngay cả trong vòng người dân miền Nam. Đỉnh điểm của sự trọng vọng này là vào năm 1922 khi Đài Tưởng niệm Lincoln được cung hiến tại Washington.[200] Trong thời kỳ New Deal, những người cấp tiến ca tụng Lincoln không chỉ như là người tự lập thân hoặc vị tổng thống vĩ đại trong chiến tranh, mà còn là nhà lãnh đạo quan tâm đến thường dân là những người có nhiều cống hiến cho chính nghĩa của cuộc chiến. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hình ảnh của Lincoln được tôn cao như là biểu tượng của tự do, là người mang hi vọng đến cho những người bị áp bức.[201] Theo dòng lịch sử, ông đã trở thành một nhân vật tiêu biểu hàng đầu trong lịch sử nước Mỹ dân chủ, tự do.[1]

Trong thập niên 1970, Lincoln được những người có chủ trương bảo thủ trong chính trị dành cho sự ngưỡng mộ đặc biệt[202] do lập trường dân tộc, chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp, tập chú vào nỗ lực chống nô lệ, và nhiệt tâm của ông đối với các nguyên lý của những nhà lập quốc.[203][204][205] James G. Randall nhấn mạnh đến tính bao dung và thái độ ôn hòa của Lincoln trong “sự chú tâm của ông đối với sự tăng trưởng trong trật tự, sự nghi ngờ đối với những hành vi khích động nguy hiểm, và sự miễn cưỡng của ông đối với các kế hoạch cải cách bất khả thi.” Randall đúc kết, “ông là người bảo thủ khi ông triệt để bác bỏ cái gọi là “thuyết cấp tiến” chủ trương bóc lột miền Nam, căm ghét chủ nô, thèm khát báo thù, âm mưu phe phái, và những đòi hỏi hẹp hòi muốn các định chế của miền Nam phải được thay đổi cấp tốc bởi tay người bên ngoài.” [206]

Đến cuối thập niên 1960, những người cấp tiến như sử gia Lerone Bennett, xem xét lại sự việc, đặc biệt là quan điểm của Lincoln liên quan đến các vấn đề chủng tộc.[207][208] Năm 1968, Bennett gây chấn động dư luận khi gọi Lincoln là người chủ trương người da trắng là chủng tộc thượng đẳng.[209] Ông nhận xét rằng Lincoln thích gièm pha chủng tộc, chế giễu người da đen, chống đối sự công bằng xã hội, và đề nghị gởi nô lệ được tự do sang một đất nước khác. Những người ủng hộ Lincoln như các tác gia Dirk và Cashin, phản bác rằng Lincoln còn tốt hơn hầu hết các chính trị gia thời ấy;[210] rằng ông là người đạo đức có viễn kiến đã làm hết sức mình để thăng tiến chủ nghĩa bãi nô.[211] Tác giả Thomas Krannawitter trong cuốn Vindicating Lincoln: Defending the Politics of Our Greatest President, cũng lên án các lập trường phê phán Lincoln và coi ông là một chính khách Hoa Kỳ mẫu mực, nêu lên mọi sức mạnh của nền dân chủ. Ông là hiện thân cho mọi phẩm chất cao đẹp của nền Cộng hòa.[9] Cũng giống như George Washington, ông quên mình mà chỉ lo cho dân cho nước, và biểu lộ rõ nét vĩ đại của người chính khách Hoa Kỳ thông qua tinh thần bình đẳng.[10]
Tưởng niệm
Khu Tưởng niệm Lincoln tại Washington, D.C.

Nhiều thị trấn, thành phố, và quận hạt mang tên Lincoln,[212] trong đó có thủ phủ bang Nebraska. Tượng đài đầu tiên được dựng lên để tưởng niệm Lincoln đặt trước Tòa Thị chính Hạt Columbia năm 1868, ba năm sau khi ông bị ám sát.[213] Tên và hình ảnh của Lincoln xuất hiện tại nhiều địa điểm khác nhau như Đài Tưởng niệm Lincoln ở Washington D. C. và tượng điêu khắc Lincoln trên Núi Rushmore.[214]

Người ta cũng thiết lập những công viên lịch sử tại các địa điểm liên quan đến những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Lincoln như: nơi ông chào đời (Abraham Licoln Birthplace National Historical Park) ở Hodgenville, Kentucky,[215] chỗ ông trải qua thời niên thiếu (Lincoln Boyhood National Memorial) tại Lincoln City, Indiana,[216] nơi ông trưởng thành (Lincoln’s New Salem) ở Illinois,[217] và nơi ông khởi nghiệp (Lincoln Home National Historic Site) tại Springfield, Illinois.[218][219]
Hình ảnh Lincoln trên Núi Rushmore.

Nhà hát Ford và tòa nhà Petersen (nơi Lincoln từ trần) được giữ lại làm viện bảo tàng, cũng như Thư viện và Bảo tàng Tổng thống Abraham Lincoln ở Springfield.[220][221] Phần mộ Lincoln trong Nghĩa trang Oak Ridge ở Springfield, Illinois, là nơi chôn cất Lincoln, vợ ông Mary cùng ba trong số bốn con trai của ông, Edward, William, và Thomas.[222]

Ngay trong năm Lincoln từ trần, hình ảnh của ông được gởi đi khắp thế giới qua những con tem bưu điện.[223] Hình ảnh của ông cũng xuất hiện trên tờ năm đô-la, và đồng xu Lincoln, đây là đồng tiền đầu tiên của Hoa Kỳ có đúc hình một nhân vật.[224]

Ngày 28 tháng 7, 1920 một pho tượng Lincoln được đặt tại một địa điểm gần Điện Westiminster, Luân Đôn.[225] Mặc dù ngày sinh của Lincoln, 12 tháng 2, chưa bao giờ được công nhận là quốc lễ, nó từng được cử hành tại 30 tiểu bang.[212] Từ năm 1971 khi Ngày Tổng thống trở thành quốc lễ, trong đó có ngày sinh của Lincoln kết hợp với ngày sinh Washington, được cử hành thay thế lễ kỷ niệm ngày sinh của ông.[226]

Abraham Lincoln
From Wikipedia, the free encyclopedia


This article is about the American president. For other uses, see Abraham Lincoln (disambiguation).
Abraham Lincoln
Abraham Lincoln at age 54, 1863

In office
March 4, 1861 – April 15, 1865
Vice President Hannibal Hamlin (1861-1865)
Preceded by James Buchanan
Succeeded by Andrew Johnson
from Illinois's 7th district
In office
March 4, 1847 – March 4, 1849
Preceded by John Henry
Succeeded by Thomas Harris
Personal details
Born February 12, 1809
Died April 15, 1865 (aged 56)
Citizenship United States
Political party Republican (1854–1865)
National Union (1864–1865)
Other political
affiliations Whig (Before 1854)
Spouse(s) Mary Todd
Children Robert
Profession Lawyer
Signature
Military service
Service/branch Illinois Militia
Years of service 1832
Rank Captain
Battles/wars Black Hawk War

Abraham Lincoln i/ˈbrəhæm ˈlɪŋkən/ (February 12, 1809 – April 15, 1865) was the 16th President of the United States, serving from March 1861 until his assassination in April 1865. Lincoln successfully led his country through its greatest constitutional, military and moral crisis – the American Civil War – preserving the Union while ending slavery, and promoting economic and financial modernization. Reared in a poor family on the western frontier, Lincoln was mostly self-educated, and became a country lawyer, a Whig Party leader, Illinois state legislator during the 1830s, and a one-term member of the United States House of Representatives during the 1840s.

After a series of debates in 1858 that gave national visibility to his opposition to the expansion of slavery, Lincoln lost a Senate race to his arch-rival,Stephen A. Douglas. Lincoln, a moderate from a swing state, secured the Republican Party nomination. With almost no support in the South, Lincoln swept the North and was elected president in 1860. His election was the signal for seven southern slave states to declare their secession from the Union and form the Confederacy. The departure of the Southerners gave Lincoln's party firm control of Congress, but no formula for compromise or reconciliation was found. Lincoln explained in his second inaugural address: "Both parties deprecated war, but one of them would make war rather than let the Nation survive, and the other would accept war rather than let it perish, and the war came."

When the North enthusiastically rallied behind the national flag after the Confederate attack on Fort Sumter on April 12, 1861, Lincoln concentrated on the military and political dimensions of the war effort. His goal was now to reunite the nation. As the South was in a state of insurrection, Lincoln exercised his authority to suspend habeas corpus, arresting and temporarily detaining thousands of suspected secessionists without trial. Lincoln prevented British recognition of the Confederacy by skillfully handling the Trent affair in late 1861. His efforts toward the abolition of slavery include issuing his Emancipation Proclamation in 1863, encouraging the border states to outlaw slavery, and helping push through Congress the Thirteenth Amendment to the United States Constitution, which finally freed all the black slaves nationwide in December 1865. Lincoln closely supervised the war effort, especially the selection of top generals, including commanding general Ulysses S. Grant. Lincoln brought leaders of the major factions of his party into his cabinet and pressured them to cooperate. Under Lincoln's leadership, the Union set up a naval blockade that shut down the South's normal trade, took control of the border slave states at the start of the war, gained control of communications with gunboats on the southern river systems, and tried repeatedly to capture the Confederate capital at Richmond, Virginia. Each time a general failed, Lincoln substituted another until finally Grant succeeded in 1865.

An exceptionally astute politician deeply involved with power issues in each state, Lincoln reached out to War Democrats and managed his own re-election in the 1864 presidential election. As the leader of the moderate faction of the Republican party, Lincoln found his policies and personality were "blasted from all sides": Radical Republicans demanded harsher treatment of the South, War Democrats desired more compromise, Copperheadsdespised him, and irreconcilable secessionists plotted his death.[3] Politically, Lincoln fought back with patronage, by pitting his opponents against each other, and by appealing to the American people with his powers of oratory.[4] His Gettysburg Address of 1863 became the most quoted speech in American history.[5] It was an iconic statement of America's dedication to the principles of nationalism, republicanism, equal rights, liberty, and democracy. At the close of the war, Lincoln held a moderate view of Reconstruction, seeking to reunite the nation speedily through a policy of generous reconciliation in the face of lingering and bitter divisiveness. Six days after the surrender of Confederate commanding general Robert E. Lee, however, Lincoln was assassinated by actor and Confederate sympathizer John Wilkes Booth. Lincoln's death was the first assassination of a U.S. president and sent the nation into mourning. Lincoln has been consistently ranked by scholars and the public as one of the three greatest U.S. presidents, the others being George Washington and Franklin D. Roosevelt.[6][7]


Family and childhood
Early life

Abraham Lincoln was born February 12, 1809, the second child of Thomas Lincoln and Nancy Lincoln (née Hanks), in a one-room log cabin on the Sinking Spring Farm in Hardin County, Kentucky[8] (now LaRue County). Lincoln's paternal grandfather and namesake, Abraham, had moved his family from Virginia to Jefferson County, Kentucky,[9][10] where he was ambushed and killed in an Indian raid in 1786, with his children, including Lincoln's father Thomas, looking on.[10] Thomas was left to make his own way on the frontier.[11] Lincoln's mother, Nancy, was the daughter of Lucy Hanks, and was born in what is now Mineral County, West Virginia, then part of Virginia. Lucy moved with Nancy to Kentucky. Nancy Hanks married Thomas, who became a respected citizen. He bought and sold several farms, including Knob Creek Farm. The family attended a Separate Baptists church, which had restrictive moral standards and opposed alcohol, dancing, and slavery.[12] Thomas enjoyed considerable status in Kentucky—where he sat on juries, appraised estates, served on country slave patrols, and guarded prisoners. By the time his son Abraham was born, Thomas owned two 600-acre (240 ha) farms, several town lots, livestock, and horses. He was among the richest men in the county.[9][13] However, in 1816, Thomas lost all of his land in court cases because of faulty property titles.[14]
The young Lincoln in sculpture at Senn Park, Chicago

The family moved north across the Ohio River to free (i.e., non-slave) territory and made a new start in what was then Perry County but is now Spencer County, Indiana. Lincoln later noted that this move was "partly on account of slavery" but mainly due to land title difficulties.[14] In Indiana, when Lincoln was nine, his mother Nancy died of milk sickness in 1818.[15] After the death of Lincoln's mother, his older sister, Sarah, took charge of caring for him until their father remarried in 1819; Sarah later died in her 20s while giving birth to a stillborn son.[16]

Thomas Lincoln's new wife was the widow Sarah Bush Johnston, the mother of three children. Lincoln became very close to his stepmother, and referred to her as "Mother".[17] As a pre-teen, he did not like the hard labor associated with frontier life. Some in his family, and in the neighborhood, for a time considered him to be lazy.[18][19] As he grew into his teens, he willingly took responsibility for all chores expected of him as one of the boys in the household and became an adept axeman in his work building rail fences. He attained a reputation for brawn and audacity after a very competitive wrestling match to which he was challenged by the renowned leader of a group of ruffians, "the Clary's Grove boys".[20] Lincoln also agreed with the customary obligation of a son to give his father all earnings from work done outside the home until age 21.[15] In later years, Lincoln occasionally loaned his father money.[21] Lincoln became increasingly distant from his father, in part because of his father's lack of education. While young Lincoln's formal education consisted approximately of a year's worth of classes from several itinerant teachers, he was mostly self-educated and was an avid reader and often sought access to any new books in the village. He read and reread the King James Bible, Aesop's Fables, Bunyan's Pilgrim's Progress, Defoe's Robinson Crusoe, and Franklin's Autobiography.'[22][23]

In 1830, fearing a milk sickness outbreak along the Ohio River, the Lincoln family moved west, where they settled on public land in Macon County, Illinois, another free, non-slave state.[24] In 1831, Thomas relocated the family to a new homestead in Coles County, Illinois. It was then that, as an ambitious 22-year-old, Lincoln decided to seek a better life and struck out on his own. Canoeing down the Sangamon River, Lincoln ended up in the village of New Salem in Sangamon County.[25] In the spring of 1831, hired by New Salem businessman Denton Offutt and accompanied by friends, he took goods by flatboat from New Salem to New Orleans via the Sangamon, Illinois, and Mississippi rivers. After arriving in New Orleans—and witnessing slavery firsthand—he walked back home.[26]
Marriage and children
1864 photo of President Lincoln with youngest son, Tad
Mary Todd Lincoln, wife of Abraham Lincoln, age 28

Lincoln's first romantic interest was Ann Rutledge, whom he met when he first moved to New Salem; by 1835, they were in a relationship but not formally engaged. She died on August 25, most likely of typhoid fever.[27] In the early 1830s, he met Mary Owens from Kentucky when she was visiting her sister. Late in 1836, Lincoln agreed to a match with Mary if she returned to New Salem. Mary did return in November 1836, and Lincoln courted her for a time; however, they both had second thoughts about their relationship. On August 16, 1837, Lincoln wrote Mary a letter suggesting he would not blame her if she ended the relationship. She never replied and the courtship was over.[28]

In 1840, Lincoln became engaged to Mary Todd, who was from a wealthy slave-holding family in Lexington, Kentucky.[29] They met inSpringfield, Illinois, in December 1839[30] and were engaged the following December.[31] A wedding set for January 1, 1841, was canceled when the two broke off their engagement at Lincoln's initiative.[30][32] They later met again at a party and married on November 4, 1842, in the Springfield mansion of Mary's married sister.[33] While preparing for the nuptials and feeling anxiety again, Lincoln, when asked where he was going, replied, "To hell, I suppose."[34]

In 1844, the couple bought a house in Springfield near Lincoln's law office. Mary Todd Lincoln kept house, often with the help of a relative or hired servant girl.[35] Robert Todd Lincoln was born in 1843 and Edward Baker Lincoln (Eddie) in 1846. Lincoln "was remarkably fond of children",[36] and the Lincolns were not considered to be strict with their children.[37] Edward died on February 1, 1850, in Springfield, likely of tuberculosis. "Willie" Lincoln was born on December 21, 1850, and died on February 20, 1862. The Lincolns' fourth son, Thomas "Tad" Lincoln, was born on April 4, 1853, and died of heart failure at the age of 18 on July 16, 1871.[38] Robert was the only child to live to adulthood and have children. His last descendant, grandson Robert Todd Lincoln Beckwith, died in 1985.[39]

The deaths of their sons had profound effects on both parents. Later in life, Mary struggled with the stresses of losing her husband and sons, and Robert Lincoln committed her temporarily to a mental health asylum in 1875.[40] Abraham Lincoln suffered from "melancholy", a condition which now is referred to as clinical depression.[41]

Lincoln's father-in-law was based in Lexington, Kentucky; he and others of the Todd family were either slave owners or slave traders. Lincoln was close to the Todds, and he and his family occasionally visited the Todd estate in Lexington.[42] He was an affectionate, though often absent, husband and father of four children.
Early career and militia service

In 1832, at age 23, Lincoln and a partner bought a small general store on credit in New Salem, Illinois. Although the economy was booming in the region, the business struggled and Lincoln eventually sold his share. That March he began his political career with his first campaign for the Illinois General Assembly. He had attained local popularity and could draw crowds as a natural raconteur in New Salem, though he lacked an education, powerful friends, and money, which may be why he lost. He advocated navigational improvements on the Sangamon River.[43]
A sketch of candidate Abraham Lincoln

Before the election Lincoln served as a captain in the Illinois Militia during the Black Hawk War.[44] Following his return, Lincoln continued his campaign for the August 6 election for the Illinois General Assembly. At 6 feet 4 inches (193 cm),[45] he was tall and "strong enough to intimidate any rival". At his first speech, when he saw a supporter in the crowd being attacked, Lincoln grabbed the assailant by his "neck and the seat of his trousers" and threw him.[46] Lincoln finished eighth out of 13 candidates (the top four were elected), though he received 277 of the 300 votes cast in the New Salem precinct.[47]

Lincoln served as New Salem's postmaster and later as county surveyor, all the while reading voraciously. He then decided to become a lawyer and began teaching himself law by reading Blackstone's Commentaries on the Laws of England and other law books. Of his learning method, Lincoln stated: "I studied with nobody".[48] His second campaign in 1834 was successful. He won election to the state legislature; though he ran as a Whig, many Democrats favored him over a more powerful Whig opponent.[49] Admitted to the bar in 1836,[50] he moved to Springfield, Illinois, and began to practice law under John T. Stuart, Mary Todd's cousin.[51] Lincoln became an able and successful lawyer with a reputation as a formidable adversary during cross-examinations and closing arguments. He partnered with Stephen T. Logan from 1841 until 1844, when he began his practice with William Herndon, whom Lincoln thought "a studious young man".[52] He served four successive terms in the Illinois House of Representatives as a Whig representative from Sangamon County.[53]

In the 1835–36 legislative session, he voted to expand suffrage to white males, whether landowners or not.[54] He was known for his "free soil" stance of opposing both slavery and abolitionism. He first articulated this in 1837, saying, "Institution of slavery is founded on both injustice and bad policy, but the promulgation of abolition doctrines tends rather to increase than abate its evils."[55] He closely followed Henry Clay in supporting the American Colonization Society program of making the abolition of slavery practical by helping the freed slaves to settle in Liberia in Africa.[56]

Congressman Lincoln

From the early 1830s, Lincoln was a steadfast Whig and professed to friends in 1861 to be, "an old line Whig, a disciple of Henry Clay".[57] The party, including Lincoln, favored economic modernization in banking, protective tariffs to fund internal improvements including railroads, and espoused urbanization as well.[58]

In 1846, Lincoln was elected to the U.S. House of Representatives, where he served one two-year term. He was the only Whig in the Illinois delegation, but he showed his party loyalty by participating in almost all votes and making speeches that echoed the party line.[59] Lincoln, in collaboration with abolitionist Congressman Joshua R. Giddings, wrote a bill to abolish slavery in the District of Columbia with compensation for the owners, enforcement to capture fugitive slaves, and a popular vote on the matter. He abandoned the bill when it failed to garner sufficient Whig supporters.[60] On foreign and military policy, Lincoln spoke out against the Mexican–American War, which he attributed to President Polk's desire for "military glory—that attractive rainbow, that rises in showers of blood".[61] Lincoln also supported the Wilmot Proviso, which, if it had been adopted, would have banned slavery in any U.S. territory won from Mexico.[62]

Lincoln emphasized his opposition to Polk by drafting and introducing his Spot Resolutions. The war had begun with a Mexican slaughter of American soldiers in territory disputed by Mexico and the US; Polk insisted that Mexican soldiers had "invaded our territory and shed the blood of our fellow-citizens on our own soil".[63][64] Lincoln demanded that Polk show Congress the exact spot on which blood had been shed and prove that the spot was on American soil.[64] Congress never enacted the resolution or even debated it, the national papers ignored it, and it resulted in a loss of political support for Lincoln in his district. One Illinois newspaper derisively nicknamed him "spotty Lincoln".[65][66][67] Lincoln later regretted some of his statements, especially his attack on the presidential war-making powers.[68]

Realizing Clay was unlikely to win the presidency, Lincoln, who had pledged in 1846 to serve only one term in the House, supported General Zachary Taylor for the Whig nomination in the 1848 presidential election.[69] Taylor won and Lincoln hoped to be appointed Commissioner of the General Land Office, but that lucrative patronage job went to an Illinois rival, Justin Butterfield, considered by the administration to be a highly skilled lawyer, but in Lincoln's view, an "old fossil".[70] The administration offered him the consolation prize of secretary or governor of the Oregon Territory. This distant territory was a Democratic stronghold, and acceptance of the post would have effectively ended his legal and political career in Illinois, so he declined and resumed his law practice.[71]
Prairie lawyer
Lincoln in his late 30s – photo taken by one of Lincoln's law students around 1846

Lincoln returned to practicing law in Springfield, handling "every kind of business that could come before a prairie lawyer".[72] Twice a year for 16 years, 10 weeks at a time, he appeared in county seats in the midstate region when the county courts were in session.[73] Lincoln handled many transportation cases in the midst of the nation's western expansion, particularly the conflicts arising from the operation of river barges under the many new railroad bridges. As a riverboat man, Lincoln initially favored those interests, but ultimately represented whoever hired him.[74] His reputation grew, and he appeared before the Supreme Court of the United States, arguing a case involving a canal boat that sank after hitting a bridge.[75] In 1849, he received a patent for a flotation device for the movement of boats in shallow water. The idea was never commercialized, but Lincoln is the only president to hold a patent.[76][77]

In 1851, he represented Alton & Sangamon Railroad in a dispute with one of its shareholders, James A. Barret, who had refused to pay the balance on his pledge to buy shares in the railroad on the grounds that the company had changed its original train route.[78][79] Lincoln successfully argued that the railroad company was not bound by its original charter in existence at the time of Barret's pledge; the charter was amended in the public interest to provide a newer, superior, and less expensive route, and the corporation retained the right to demand Barret's payment. The decision by the Illinois Supreme Court has been cited by numerous other courts in the nation.[78] Lincoln appeared before the Illinois Supreme Court in 175 cases, in 51 as sole counsel, of which 31 were decided in his favor.[80] From 1853 to 1860, another of Lincoln's largest clients was the Illinois Central Railroad.[81]

Lincoln's most notable criminal trial occurred in 1858 when he defended William "Duff" Armstrong, who was on trial for the murder of James Preston Metzker.[82]The case is famous for Lincoln's use of a fact established by judicial notice in order to challenge the credibility of an eyewitness. After an opposing witness testified seeing the crime in the moonlight, Lincoln produced a Farmers' Almanac showing the moon was at a low angle, drastically reducing visibility. Based on this evidence, Armstrong was acquitted.[82] Lincoln rarely raised objections in the courtroom; but in an 1859 case, where he defended a cousin Peachy Harrison, who was accused of stabbing another to death, Lincoln angrily protested the judge's decision to exclude evidence favorable to his client. Instead of holding Lincoln in contempt of court as was expected, the judge, a Democrat, reversed his ruling, allowing the evidence and acquitting Harrison.[82][83]
Republican politics 1854–60
Slavery and a "House Divided"

By the 1850s, slavery was still legal in the southern United States, but had been generally outlawed in the northern states, such as Illinois.[84] Lincoln disapproved of slavery, and the spread of slavery to new U.S. territory in the west.[85] He returned to politics to oppose the pro-slavery Kansas–Nebraska Act (1854); this law repealed the slavery-restricting Missouri Compromise (1820). Senior Senator Stephen A. Douglas of Illinois had incorporated popular sovereignty into the Act. Douglas' provision, which Lincoln opposed, specified settlers had the right to determine locally whether to allow slavery in new U.S. territory, rather than have such a decision restricted by the national Congress.[86] Foner (2010) contrasts the abolitionists and anti-slavery Radical Republicans of the Northeast who saw slavery as a sin, with the conservative Republicans who thought it was bad because it hurt white people and blocked progress. Foner argues that Lincoln was a moderate in the middle, opposing slavery primarily because it violated the republicanism principles of the Founding Fathers, especially the equality of all men and democratic self-government as expressed in the Declaration of Independence.[87]
Portrait of Dred Scott. Lincoln denounced the Supreme Court decision in Dred Scott v. Sandfordas part of a conspiracy to extend slavery.

On October 16, 1854, in his "Peoria Speech", Lincoln declared his opposition to slavery, which he repeated en route to the presidency.[88] Speaking in his Kentucky accent, with a very powerful voice,[89] he said the Kansas Act had a "declared indifference, but as I must think, a covert real zeal for the spread of slavery. I cannot but hate it. I hate it because of the monstrous injustice of slavery itself. I hate it because it deprives our republican example of its just influence in the world..."[90]

In late 1854, Lincoln ran as a Whig for the U.S. Senate seat from Illinois. At that time, senators were elected by the state legislature.[91] After leading in the first six rounds of voting in the Illinois assembly, his support began to dwindle, and Lincoln instructed his backers to vote for Lyman Trumbull, who defeated opponentJoel Aldrich Matteson.[92] The Whigs had been irreparably split by the Kansas–Nebraska Act. Lincoln wrote, "I think I am a Whig, but others say there are no Whigs, and that I am an abolitionist, even though I do no more than oppose the extension of slavery."[93] Drawing on remnants of the old Whig party, and on disenchanted Free Soil, Liberty, and Democratic party members, he was instrumental in forging the shape of the new Republican Party.[94] At the 1856 Republican National Convention, Lincoln placed second in the contest to become the party's candidate for vice president.[95]

In 1857–58, Douglas broke with President James Buchanan, leading to a fight for control of the Democratic Party. Some eastern Republicans even favored the reelection of Douglas for the Senate in 1858, since he had led the opposition to the Lecompton Constitution, which would have admitted Kansas as a slave state.[96] In March 1857, the Supreme Court issued its decision in Dred Scott v. Sandford; Chief Justice Roger B. Taney opined that blacks were not citizens, and derived no rights from the Constitution. Lincoln denounced the decision, alleging it was the product of a conspiracy of Democrats to support the Slave Power[97] Lincoln argued, "The authors of the Declaration of Independence never intended 'to say all were equal in color, size, intellect, moral developments, or social capacity', but they 'did consider all men created equal—equal in certain inalienable rights, among which are life, liberty, and the pursuit of happiness'."[98]

After the state Republican party convention nominated him for the U.S. Senate in 1858, Lincoln delivered his House Divided Speech, drawing on Mark 3:25: "A house divided against itself cannot stand. I believe this government cannot endure permanently half slave and half free. I do not expect the Union to be dissolved—I do not expect the house to fall—but I do expect it will cease to be divided. It will become all one thing, or all the other."[99] The speech created an evocative image of the danger of disunion caused by the slavery debate, and rallied Republicans across the North.[100] The stage was then set for the campaign for statewide election of the Illinois legislature which would, in turn, select Lincoln or Douglas as its U.S. senator.[101]
Lincoln–Douglas debates and Cooper Union speech
Alexander Hesslerphotographed Lincoln in 1860.

The senate campaign featured the seven Lincoln–Douglas debates of 1858, the most famous political debates in American history.[102] The principals stood in stark contrast both physically and politically. Lincoln warned that "The Slave Power" was threatening the values of republicanism, and accused Douglas of distorting the values of the Founding Fathers that all men are created equal, while Douglas emphasized his Freeport Doctrine, that local settlers were free to choose whether to allow slavery or not, and accused Lincoln of having joined the abolitionists.[103] The debates had an atmosphere of a prize fight and drew crowds in the thousands. Lincoln stated Douglas's popular sovereignty theory was a threat to the nation's morality and that Douglas represented a conspiracy to extend slavery to free states. Douglas said that Lincoln was defying the authority of the U.S. Supreme Court and the Dred Scott decision.[104]

Though the Republican legislative candidates won more popular votes, the Democrats won more seats, and the legislature re-elected Douglas to the Senate. Despite the bitterness of the defeat for Lincoln, his articulation of the issues gave him a national political reputation.[105] In May 1859, Lincoln purchased theIllinois Staats-Anzeiger, a German-language newspaper which was consistently supportive; most of the state's 130,000 German Americans voted Democratic but there was Republican support that a German-language paper could mobilize.[106]

On February 27, 1860, New York party leaders invited Lincoln to give a speech at Cooper Union to a group of powerful Republicans. Lincoln argued that the Founding Fathers had little use for popular sovereignty and had repeatedly sought to restrict slavery. Lincoln insisted the moral foundation of the Republicans required opposition to slavery, and rejected any "groping for some middle ground between the right and the wrong".[107] Despite his inelegant appearance—many in the audience thought him awkward and even ugly[108]—Lincoln demonstrated an intellectual leadership that brought him into the front ranks of the party and into contention for the Republican presidential nomination. Journalist Noah Brooks reported, "No man ever before made such an impression on his first appeal to a New York audience."[109][110] Historian Donald described the speech as a "superb political move for an unannounced candidate, to appear in one rival's (William H. Seward) own state at an event sponsored by the second rival's (Salmon P. Chase) loyalists, while not mentioning either by name during its delivery."[111] In response to an inquiry about his presidential intentions, Lincoln said, "The taste is in my mouth a little."[112]
1860 Presidential nomination and campaign
"The Rail Candidate"—Lincoln's 1860 candidacy is depicted as held up by the slavery issue—a slave on the left and party organization on the right.

On May 9–10, 1860, the Illinois Republican State Convention was held in Decatur.[113] Lincoln's followers organized a campaign team led by David Davis, Norman Judd, Leonard Swett, and Jesse DuBois, and Lincoln received his first endorsement to run for the presidency.[114] Exploiting the embellished legend of his frontier days with his father, Lincoln's supporters adopted the label of "The Rail Candidate".[115] On May 18, at the Republican National Convention in Chicago, Lincoln's friends promised and manipulated and won the nomination on the third ballot, beating candidates such as William H. Seward and Salmon P. Chase. A former Democrat Hannibal Hamlin of Maine was nominated for Vice President to balance the ticket. Lincoln's success depended on his reputation as a moderate on the slavery issue, and his strong support for Whiggish programs of internal improvements and the protective tariff.[116] On the third ballot Pennsylvania put him over the top. Pennsylvania iron interests were reassured by his support for protective tariffs.[117] Lincoln's managers had been adroitly focused on this delegation as well as the others, while following Lincoln's strong dictate to "Make no contracts that bind me".[118]

Most Republicans agreed with Lincoln that the North was the aggrieved party, as the Slave Power tightened its grasp on the national government with the Dred Scott decision and the presidency of James Buchanan. Throughout the 1850s, Lincoln doubted the prospects of civil war, and his supporters rejected claims that his election would incite secession.[119] Meanwhile, Douglas was selected as the candidate of the Northern Democrats. Delegates from 11 slave states walked out of the Democratic convention, disagreeing with Douglas's position on popular sovereignty, and ultimately selected John C. Breckinridge as their candidate.[120]

As Douglas and the other candidates went through with their campaigns, Lincoln was the only one of them who gave no speeches. Instead, he monitored the campaign closely and relied on the enthusiasm of the Republican Party. The party did the leg work that produced majorities across the North, and produced an abundance of campaign posters, leaflets, and newspaper editorials. There were thousands of Republican speakers who focused first on the party platform, and second on Lincoln's life story, emphasizing his childhood poverty. The goal was to demonstrate the superior power of "free labor", whereby a common farm boy could work his way to the top by his own efforts.[121] The Republican Party's production of campaign literature dwarfed the combined opposition; a Chicago Tribune writer produced a pamphlet that detailed Lincoln's life, and sold 100,000 to 200,000 copies.[122]
Presidency
1860 election and secession
In 1860, northern and western electoral votes (shown in red) put Lincoln into the White House.
1861 inaugural at Capitol. The rotunda still under construction

On November 6, 1860, Lincoln was elected the 16th president of the United States, beating Democrat Stephen A. Douglas, John C. Breckinridge of the Southern Democrats, and John Bell of the new Constitutional Union Party. He was the first president from the Republican Party. Winning entirely on the strength of his support in the North and West, no ballots were cast for him in 10 of the 15 Southern slave states, and he won only two of 996 counties in all the Southern states.[123] Lincoln received 1,866,452 votes, Douglas 1,376,957 votes, Breckinridge 849,781 votes, and Bell 588,789 votes. Turnout was 82.2 percent, with Lincoln winning the free Northern states, as well as California and Oregon. Douglas won Missouri, and split New Jersey with Lincoln.[124] Bell won Virginia, Tennessee, and Kentucky, and Breckinridge won the rest of the South.[125] Although Lincoln won only a plurality of the popular vote, his victory in the electoral college was decisive: Lincoln had 180 and his opponents added together had only 123. There were fusion tickets in which all of Lincoln's opponents combined to support the same slate of Electors in New York, New Jersey, and Rhode Island, but even if the anti-Lincoln vote had been combined in every state, Lincoln still would have won a majority in the Electoral College.[126]

As Lincoln's election became evident, secessionists made clear their intent to leave the Union before he took office the next March.[127] On December 20, 1860, South Carolina took the lead by adopting an ordinance of secession; by February 1, 1861, Florida, Mississippi, Alabama, Georgia, Louisiana, and Texas followed.[128][129] Six of these states then adopted a constitution and declared themselves to be a sovereign nation, the Confederate States of America.[128] The upper South and border states (Delaware, Maryland, Virginia, North Carolina, Tennessee, Kentucky, Missouri, and Arkansas) listened to, but initially rejected, the secessionist appeal.[130] President Buchanan and President-elect Lincoln refused to recognize the Confederacy, declaring secession illegal.[131] The Confederacy selected Jefferson Davis as its provisional President on February 9, 1861.[132]

There were attempts at compromise. The Crittenden Compromise would have extended the Missouri Compromise line of 1820, dividing the territories into slave and free, contrary to the Republican Party's free-soil platform.[133] Lincoln rejected the idea, saying, "I will suffer death before I consent ... to any concession or compromise which looks like buying the privilege to take possession of this government to which we have a constitutional right."[134] Lincoln, however, did support the Corwin Amendment to the Constitution, which had passed in Congress and protected slavery in those states where it already existed.[135] A few weeks before the war, he went so far as to pen a letter to every governor asking for their support in ratifying the Corwin Amendment as a means to avoid secession.[136]

En route to his inauguration by train, Lincoln addressed crowds and legislatures across the North.[137] The president-elect then evaded possible assassins in Baltimore, who were uncovered by Lincoln's head of security, Allan Pinkerton. On February 23, 1861, he arrived in disguise in Washington, D.C., which was placed under substantial military guard.[138] Lincoln directed his inaugural address to the South, proclaiming once again that he had no intention, or inclination, to abolish slavery in the Southern states:
Apprehension seems to exist among the people of the Southern States that by the accession of a Republican Administration their property and their peace and personal security are to be endangered. There has never been any reasonable cause for such apprehension. Indeed, the most ample evidence to the contrary has all the while existed and been open to their inspection. It is found in nearly all the published speeches of him who now addresses you. I do but quote from one of those speeches when I declare that "I have no purpose, directly or indirectly, to interfere with the institution of slavery in the States where it exists. I believe I have no lawful right to do so, and I have no inclination to do so."

The President ended his address with an appeal to the people of the South: "We are not enemies, but friends. We must not be enemies ... The mystic chords of memory, stretching from every battlefield, and patriot grave, to every living heart and hearthstone, all over this broad land, will yet swell the chorus of the Union, when again touched, as surely they will be, by the better angels of our nature."[140] The failure of the Peace Conference of 1861 signaled that legislative compromise was implausible. By March 1861, no leaders of the insurrection had proposed rejoining the Union on any terms. Meanwhile, Lincoln and nearly every Republican leader agreed that the dismantling of the Union could not be tolerated.[141]
The war begins
Major Anderson, Ft. Sumter commander

The commander of Fort Sumter, South Carolina, Major Robert Anderson, sent a request for provisions to Washington, and the execution of Lincoln's order to meet that request was seen by the secessionists as an act of war. On April 12, 1861, Confederate forces fired on Union troops at Fort Sumter, forcing them to surrender, and began the war. Historian Allan Nevins argued that the newly inaugurated Lincoln made three miscalculations: underestimating the gravity of the crisis, exaggerating the strength of Unionist sentiment in the South, and not realizing the Southern Unionists were insisting there be no invasion.[142] William Tecumseh Sherman talked to Lincoln during inauguration week and was "sadly disappointed" at his failure to realize that "the country was sleeping on a volcano" and that the South was preparing for war.[143] Donald concludes that, "His repeated efforts to avoid collision in the months between inauguration and the firing on Ft. Sumter showed he adhered to his vow not to be the first to shed fraternal blood. But he also vowed not to surrender the forts. The only resolution of these contradictory positions was for the confederates to fire the first shot; they did just that."[144]

On April 15, Lincoln called on all the states to send detachments totaling 75,000 troops to recapture forts, protect Washington, and "preserve the Union", which, in his view, still existed intact despite the actions of the seceding states. This call forced the states to choose sides. Virginia declared its secession and was rewarded with the Confederate capital, despite the exposed position of Richmond so close to Union lines. North Carolina, Tennessee, and Arkansas also voted for secession over the next two months. Secession sentiment was strong in Missouri and Maryland, but did not prevail; Kentucky tried to be neutral.[145]

Troops headed south towards Washington to protect the capital in response to Lincoln's call. On April 19, secessionist mobs in Baltimore that controlled the rail links attacked Union troops traveling to the capital. George William Brown, the Mayor of Baltimore, and other suspect Maryland politicians were arrested and imprisoned, without a warrant, as Lincoln suspended the writ of habeas corpus.[146] John Merryman, a leader in the secessionist group in Maryland, petitioned Chief Justice Roger B. Taney to issue a writ of habeas corpus, saying holding Merryman without a hearing was unlawful. Taney issued the writ, thereby ordering Merryman's release, but Lincoln ignored it. Then and throughout the war, Lincoln came under heavy, often vituperative attack from antiwar Democrats, called Copperheads.[147]
Assuming command for the Union in the war

After the fall of Fort Sumter, Lincoln realized the importance of taking immediate executive control of the war and making an overall strategy to put down the rebellion. Lincoln encountered an unprecedented political and military crisis, and he responded as commander-in-chief, using unprecedented powers. He expanded his war powers, and imposed a blockade on all the Confederate shipping ports, disbursed funds before appropriation by Congress, and after suspending habeas corpus, arrested and imprisoned thousands of suspected Confederate sympathizers. Lincoln was supported by Congress and the northern public for these actions. In addition, Lincoln had to contend with reinforcing strong Union sympathies in the border slave states and keeping the war from becoming an international conflict.[148]
"Running the 'Machine' ": An 1864 political cartoon takes a swing at Lincoln's administration—featuring William Fessenden, Edwin Stanton, William Seward, Gideon Welles, Lincoln and others.

The war effort was the source of continued disparagement of Lincoln, and dominated his time and attention. From the start, it was clear that bipartisan support would be essential to success in the war effort, and any manner of compromise alienated factions on both sides of the aisle, such as the appointment of Republicans and Democrats to command positions in the Union Army. Copperheads criticized Lincoln for refusing to compromise on the slavery issue. Conversely, the Radical Republicans criticized him for moving too slowly in abolishing slavery.[149] On August 6, 1861, Lincoln signed the Confiscation Act that authorized judiciary proceedings to confiscate and free slaves who were used to support the Confederate war effort. In practice the law had little effect, but it did signal political support for abolishing slavery in the Confederacy[150]

In late August 1861, General John C. Frémont, the 1856 Republican presidential nominee, issued, without consulting Washington, a proclamation of martial law in Missouri. He declared that any citizen found bearing arms could be court-martialed and shot, and that slaves of persons aiding the rebellion would be freed. Frémont was already under a cloud with charges of negligence in his command of theDepartment of the West compounded with allegations of fraud and corruption. Lincoln overruled Frémont's proclamation. Lincoln believed that Fremont's emancipation was political; neither militarily necessary nor legal.[151] Union enlistments from Maryland, Kentucky, and Missouri increased by over 40,000 troops.[152]

The Trent Affair of late 1861 threatened war with Great Britain. The U.S. Navy illegally intercepted a British merchant ship the Trent on the high seas and seized two Confederate envoys; Britain protested vehemently while the U.S. cheered. Lincoln resolved the issue by releasing the two men and war was successfully averted with Britain.[153] Lincoln's foreign policy approach had been initially hands off, due to his inexperience; he left most diplomacy appointments and other foreign policy matters to his Secretary of State, William Seward. Seward's initial reaction to the Trent affair, however, was too bellicose, so Lincoln also turned to Senator Charles Sumner, the chairman of the Senate Foreign Relations Committee and an expert in British diplomacy.[154]

To learn technical military terms, Lincoln borrowed and studied Henry Halleck's book, Elements of Military Art and Science from the Library of Congress.[155] Lincoln painstakingly monitored the telegraphic reports coming in to the War Department in Washington, D.C. He kept close tabs on all phases of the military effort, consulted with governors, and selected generals based on their past success (as well as their state and party). In January 1862, after many complaints of inefficiency and profiteering in the War Department, Lincoln replaced Simon Cameron with Edwin Stanton as War Secretary. Stanton was one of many conservative Democrats (he supported Breckenridge in the 1860 election) who became anti-slavery Republicans under Lincoln's leadership.[156] In terms of war strategy, Lincoln articulated two priorities: to ensure that Washington was well-defended, and to conduct an aggressive war effort that would satisfy the demand in the North for prompt, decisive victory; major Northern newspaper editors expected victory within 90 days.[157] Twice a week, Lincoln would meet with his cabinet in the afternoon, and occasionally Mary Lincoln would force him to take a carriage ride because she was concerned he was working too hard.[158] Lincoln learned from his chief of staff General Henry Halleck, a student of the European strategist Jomini, of the critical need to control strategic points, such as the Mississippi River;[159] he also knew well the importance of Vicksburg and understood the necessity of defeating the enemy's army, rather than simply capturing territory.[160]
General McClellan

After the Union defeat at the First Battle of Bull Run and the retirement of the aged Winfield Scott in late 1861, Lincoln appointed Major General George B. McClellan general-in-chief of all the Union armies.[161] McClellan, a young West Point graduate, railroad executive, and Pennsylvania Democrat, took several months to plan and attempt his Peninsula Campaign, longer than Lincoln wanted. The campaign's objective was to capture Richmond by moving the Army of the Potomac by boat to the peninsula and then overland to the Confederate capital. McClellan's repeated delays frustrated Lincoln and Congress, as did his position that no troops were needed to defend Washington. Lincoln insisted on holding some of McClellan's troops in defense of the capital; McClellan, who consistently overestimated the strength of Confederate troops, blamed this decision for the ultimate failure of the Peninsula Campaign.[162]
Lincoln and McClellan after the Battle of Antietam

Lincoln removed McClellan as general-in-chief and appointed Henry Wager Halleck in March 1862, after McClellan's "Harrison's Landing Letter", in which he offered unsolicited political advice to Lincoln urging caution in the war effort.[163] McClellan's letter incensed Radical Republicans, who successfully pressured Lincoln to appoint John Pope, a Republican, as head of the new Army of Virginia. Pope complied with Lincoln's strategic desire to move toward Richmond from the north, thus protecting the capital from attack. However, lacking requested reinforcements from McClellan, now commanding the Army of the Potomac, Pope was soundly defeated at the Second Battle of Bull Run in the summer of 1862, forcing the Army of the Potomac to defend Washington for a second time.[164] The war also expanded with naval operations in 1862 when the CSS Virginia, formerly the USS Merrimack, damaged or destroyed three Union vessels in Norfolk, Virginia, before being engaged and damaged by the USS Monitor. Lincoln closely reviewed the dispatches and interrogated naval officers during their clash in the Battle of Hampton Roads.[165]

Despite his dissatisfaction with McClellan's failure to reinforce Pope, Lincoln was desperate, and restored him to command of all forces around Washington, to the dismay of all in his cabinet but Seward.[166] Two days after McClellan's return to command, General Robert E. Lee's forces crossed the Potomac River into Maryland, leading to the Battle of Antietam in September 1862.[167] The ensuing Union victory was among the bloodiest in American history, but it enabled Lincoln to announce that he would issue an Emancipation Proclamation in January. Having composed the Proclamation some time earlier, Lincoln had waited for a military victory to publish it to avoid it being perceived as the product of desperation.[168] McClellan then resisted the President's demand that he pursue Lee's retreating and exposed army, while his counterpart General Don Carlos Buell likewise refused orders to move the Army of the Ohio against rebel forces in eastern Tennessee. As a result, Lincoln replaced Buell with William Rosecrans; and, after the 1862 midterm elections, he replaced McClellan with Republican Ambrose Burnside. Both of these replacements were political moderates and prospectively more supportive of the Commander-in-Chief.[169]

Burnside, against the advice of the president, prematurely launched an offensive across the Rappahannock River and was stunningly defeated by Lee at Fredericksburg in December. Not only had Burnside been defeated on the battlefield, but his soldiers were disgruntled and undisciplined. Desertions during 1863 were in the thousands and they increased after Fredericksburg.[170] Lincoln brought in Joseph Hooker, despite his record of loose talk about the need for a military dictatorship.[171]

The mid-term elections in 1862 brought the Republicans severe losses due to sharp disfavor with the administration over its failure to deliver a speedy end to the war, as well as rising inflation, new high taxes, rumors of corruption, the suspension of habeas corpus, the military draft law, and fears that freed slaves would undermine the labor market. The Emancipation Proclamation announced in September gained votes for the Republicans in the rural areas of New England and the upper Midwest, but it lost votes in the cities and the lower Midwest. While Republicans were discouraged, Democrats were energized and did especially well in Pennsylvania, Ohio, Indiana, and New York. The Republicans did maintain their majorities in Congress and in the major states, except New York. The Cincinnati Gazette contended that the voters were "depressed by the interminable nature of this war, as so far conducted, and by the rapid exhaustion of the national resources without progress".[172]

In the spring of 1863, Lincoln was optimistic about upcoming campaigns to the point of thinking the end of the war could be near if a string of victories could be put together; these plans included Hooker's attack on Lee north of Richmond, Rosecrans' on Chattanooga, Grant's on Vicksburg, and a naval assault on Charleston.[173]

Hooker was routed by Lee at the Battle of Chancellorsville in May,[174] but continued to command his troops for some weeks. He ignored Lincoln's order to divide his troops, and possibly force Lee to do the same in Harper's Ferry, and tendered his resignation, which Lincoln accepted. He was replaced by George Meade, who followed Lee into Pennsylvania for the Gettysburg Campaign, which was a victory for the Union, though Lee's army avoided capture. At the same time, after initial setbacks, Grant laid siege to Vicksburg and the Union navy attained some success in Charleston harbor.[175] After the Battle of Gettysburg, Lincoln clearly understood that his military decisions would be more effectively carried out by conveying his orders through his War Secretary or his general-in-chief on to his generals, who resented his civilian interference with their own plans. Even so, he often continued to give detailed directions to his generals as Commander in Chief.[176]
Emancipation Proclamation
Lincoln presents the first draft of the Emancipation Proclamation to his cabinet. Painted by Francis Bicknell Carpenter in 1864

Lincoln understood that the Federal government's power to end slavery was limited by the Constitution, which before 1865, committed the issue to individual states. He argued before and during his election that the eventual extinction of slavery would result from preventing its expansion into new U.S. territory. At the beginning of the war, he also sought to persuade the states to accept compensated emancipation in return for their prohibition of slavery. Lincoln believed that curtailing slavery in these ways would economically expunge it, as envisioned by the Founding Fathers, under the constitution.[177] President Lincoln rejected two geographically limited emancipation attempts by Major General John C. Frémont in August 1861 and by Major General David Hunter in May 1862, on the grounds that it was not within their power, and it would upset the border states loyal to the Union.[178]

On June 19, 1862, endorsed by Lincoln, Congress passed an act banning slavery on all federal territory. In July 1862, the SecondConfiscation Act was passed, which set up court procedures that could free the slaves of anyone convicted of aiding the rebellion. Although Lincoln believed it was not within Congress's power to free the slaves within the states, he approved the bill in deference to the legislature. He felt such action could only be taken by the commander-in-chief using war powers granted to the president by the Constitution, and Lincoln was planning to take that action. In that month, Lincoln discussed a draft of the Emancipation Proclamation with his cabinet. In it, he stated that "as a fit and necessary military measure, on January 1, 1863, all persons held as slaves in the Confederate states will thenceforward, and forever, be free."[179]

Privately, Lincoln concluded at this point that the slave base of the Confederacy had to be eliminated. However Copperhead rhetoric argued that emancipation was a stumbling block to peace and reunification. Republican editor Horace Greeley of the highly influential New York Tribune fell for the ploy,[180] and Lincoln refuted it directly in a shrewd letter of August 22, 1862. The President said the primary goal of his actions as president (he used the first person pronoun and explicitly refers to his "official duty") was preserving the Union:[181]
My paramount object in this struggle is to save the Union, and is not either to save or to destroy slavery. If I could save the Union without freeing any slave I would do it, and if I could save it by freeing all the slaves I would do it; and if I could save it by freeing some and leaving others alone I would also do that. What I do about slavery, and the colored race, I do because I believe it helps to save the Union; and what I forbear, I forbear because I do not believe it would help to save the Union. . . . [¶] I have here stated my purpose according to my view of official duty; and I intend no modification of my oft-expressed personal wish that all men everywhere could be free.[182]

The Emancipation Proclamation, issued on September 22, 1862, and put into effect on January 1, 1863, declared free the slaves in 10 states not then under Union control, with exemptions specified for areas already under Union control in two states.[183] Lincoln spent the next 100 days preparing the army and the nation for emancipation, while Democrats rallied their voters in the 1862 offyear elections by warning of the threat freed slaves posed to northern whites.[184]

Once the abolition of slavery in the rebel states became a military objective, as Union armies advanced south, more slaves were liberated until all three million of them in Confederate territory were freed. Lincoln's comment on the signing of the Proclamation was: "I never, in my life, felt more certain that I was doing right, than I do in signing this paper."[185] For some time, Lincoln continued earlier plans to set up colonies for the newly freed slaves. He commented favorably on colonization in the Emancipation Proclamation, but all attempts at such a massive undertaking failed.[186] A few days after Emancipation was announced, 13 Republican governors met at the War Governors' Conference; they supported the president's Proclamation, but suggested the removal of General George B. McClellan as commander of the Union Army.[187]

Using former slaves in the military was official government policy after the issuance of the Emancipation Proclamation. By the spring of 1863, he was ready to recruit black troops in more than token numbers. In a letter to Andrew Johnson, the military governor of Tennessee, encouraging him to lead the way in raising black troops, Lincoln wrote, "The bare sight of 50,000 armed and drilled black soldiers on the banks of the Mississippi would end the rebellion at once".[188] By the end of 1863, at Lincoln's direction, General Lorenzo Thomas had recruited 20 regiments of blacks from the Mississippi Valley.[189] Frederick Douglass once observed of Lincoln: "In his company, I was never reminded of my humble origin, or of my unpopular color".[190]
Gettysburg Address
Main article: Gettysburg Address

With the great Union victory at the Battle of Gettysburg in July 1863, and the defeat of the Copperheads in the Ohio election in the fall, Lincoln maintained a strong base of party support and was in a strong position to redefine the war effort, despite the New York City draft riots. The stage was set for his address at the Gettysburg battlefield cemetery.[191] Defying Lincoln's prediction that "the world will little note, nor long remember what we say here," the Address became the most quoted speech in American history.[5]

The Gettysburg Address was delivered at the dedication of the Soldiers' National Cemetery in Gettysburg, Pennsylvania, on the afternoon of Thursday, November 19, 1863. In 272 words, and three minutes, Lincoln asserted the nation was born not in 1789, but in 1776, "conceived in Liberty, and dedicated to the proposition that all men are created equal." He defined the war as an effort dedicated to these principles of liberty and equality for all. The emancipation of slaves was now part of the national war effort. He declared that the deaths of so many brave soldiers would not be in vain, that slavery would end as a result of the losses, and the future of democracy would be assured, that "government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth." Lincoln concluded that the Civil War had a profound objective: a new birth of freedom in the nation.[192][193]
General Grant
President Lincoln (center right) with, from left, Generals Sherman, Grant and Admiral Porter – 1868 painting of events aboard the River Queen in March 1865

Meade's failure to capture Lee's army as it retreated from Gettysburg, and the continued passivity of the Army of the Potomac, persuaded Lincoln that a change in command was needed. General Ulysses S. Grant's victories at the Battle of Shiloh and in the Vicksburg campaign impressed Lincoln and made Grant a strong candidate to head the Union Army. Responding to criticism of Grant after Shiloh, Lincoln had said, "I can't spare this man. He fights."[194] With Grant in command, Lincoln felt the Union Army could relentlessly pursue a series of coordinated offensives in multiple theaters, and have a top commander who agreed on the use of black troops.[195]

Nevertheless, Lincoln was concerned that Grant might be considering a candidacy for President in 1864, as McClellan was. Lincoln arranged for an intermediary to make inquiry into Grant's political intentions, and being assured that he had none, submitted to the Senate Grant's promotion to commander of the Union Army. He obtained Congress's consent to reinstate for Grant the rank of Lieutenant General, which no officer had held since George Washington.[196]

Grant waged his bloody Overland Campaign in 1864. This is often characterized as a war of attrition, given high Union losses at battles such as the Battle of the Wilderness and Cold Harbor. Even though they had the advantage of fighting on the defensive, the Confederate forces had "almost as high a percentage of casualties as the Union forces".[197] The high casualty figures of the Union alarmed the North; Grant had lost a third of his army, and Lincoln asked what Grant's plans were, to which the general replied, "I propose to fight it out on this line if it takes all summer."[198]

The Confederacy lacked reinforcements, so Lee's army shrank with every battle, forcing it back to trenches outside Petersburg, Virginia, where Grant began a siege. Lincoln then made an extended visit to Grant's headquarters at City Point, Virginia. This allowed the president to confer in person with Grant and William Tecumseh Sherman about the hostilities, as Sherman coincidentally managed a hasty visit to Grant from his position in North Carolina.[199] Lincoln and the Republican party mobilized support for the draft throughout the North, and replaced his losses.[200]

Lincoln authorized Grant to target the Confederate infrastructure—such as plantations, railroads, and bridges—hoping to destroy the South's morale and weaken its economic ability to continue fighting. Grant's move to Petersburg resulted in the obstruction of three railroads between Richmond and the South. This strategy allowed Generals Sherman and Philip Sheridan to destroy plantations and towns in Virginia's Shenandoah Valley. The damage caused by Sherman's March to the Sea through Georgia in 1864 was limited to a 60-mile (97 km) swath, but neither Lincoln nor his commanders saw destruction as the main goal, but rather defeat of the Confederate armies. As Neely (2004) concludes, there was no effort to engage in "total war" against civilians, as in World War II.[201]

Confederate general Jubal Anderson Early began a series of assaults in the North that threatened the Capital. During Early's raid on Washington, D.C. in 1864, Lincoln was watching the combat from an exposed position; Captain Oliver Wendell Holmes shouted at him, "Get down, you damn fool, before you get shot!"[202] After repeated calls on Grant to defend Washington, Sheridan was appointed and the threat from Early was dispatched.[203]

As Grant continued to wear down Lee's forces, efforts to discuss peace began. Confederate Vice President Stephens led a group to meet with Lincoln, Seward, and others at Hampton Roads. Lincoln refused to allow any negotiation with the Confederacy as a coequal; his sole objective was an agreement to end the fighting and the meetings produced no results.[204] On April 1, 1865, Grant successfully outflanked Lee's forces in the Battle of Five Forks and nearly encircled Petersburg, and the Confederate government evacuated Richmond. Days later, when that city fell, Lincoln visited the vanquished Confederate capital; as he walked through the city, white Southerners were stone-faced, but freedmen greeted him as a hero. On April 9, Lee surrendered to Grant atAppomattox and the war was effectively over.[205]
1864 re-election

Lincoln was a master politician, bringing together—and holding together—all the main factions of the Republican Party, and bringing in War Democrats such as Edwin M. Stanton and Andrew Johnson as well. Lincoln spent many hours a week talking to politicians from across the land and using his patronage powers—greatly expanded over peacetime—to hold the factions of his party together, build support for his own policies, and fend off efforts by Radicals to drop him from the 1864 ticket.[206][207] At its 1864 convention, the Republican Party selected Andrew Johnson, a War Democrat from the Southern state of Tennessee, as his running mate. To broaden his coalition to include War Democrats as well as Republicans, Lincoln ran under the label of the new Union Party.[208]

When Grant's spring campaigns turned into bloody stalemates and Union casualties mounted, the lack of military success wore heavily on the President's re-election prospects, and many Republicans across the country feared that Lincoln would be defeated. Sharing this fear, Lincoln wrote and signed a pledge that, if he should lose the election, he would still defeat the Confederacy before turning over the White House:[209]
This morning, as for some days past, it seems exceedingly probable that this Administration will not be re-elected. Then it will be my duty to so co-operate with the President elect, as to save the Union between the election and the inauguration; as he will have secured his election on such ground that he cannot possibly save it afterward.[210]

Lincoln did not show the pledge to his cabinet, but asked them to sign the sealed envelope.
An electoral landslide (in red) for Lincoln in the 1864 election, southern states (brown) and territories (light brown) not in play
Lincoln's second inaugural address in 1865 at the almost completed Capitol building

While the Democratic platform followed the Peace wing of the party and called the war a "failure", their candidate, General George B. McClellan, supported the war and repudiated the platform. Lincoln provided Grant with more troops and mobilized his party to renew its support of Grant in the war effort. Sherman's capture of Atlanta in September and David Farragut's capture of Mobile ended defeatist jitters;[211] the Democratic Party was deeply split, with some leaders and most soldiers openly for Lincoln. By contrast, the National Union Party was united and energized as Lincoln made emancipation the central issue, and state Republican parties stressed the perfidy of the Copperheads.[212] Lincoln was re-elected in a landslide, carrying all but three states, and receiving 78 percent of the Union soldiers' vote.[213]

On March 4, 1865, Lincoln delivered his second inaugural address. In it, he deemed the high casualties on both sides to be God's will. Historian Mark Noll concludes it ranks "among the small handful of semi-sacred texts by which Americans conceive their place in the world".[214] Lincoln said:
Fondly do we hope—fervently do we pray—that this mighty scourge of war may speedily pass away. Yet, if God wills that it continue, until all the wealth piled by the bond-man's 250 years of unrequited toil shall be sunk, and until every drop of blood drawn with the lash, shall be paid by another drawn with the sword, as was said 3,000 years ago, so still it must be said, "the judgments of the Lord, are true and righteous altogether". With malice toward none; with charity for all; with firmness in the right, as God gives us to see the right, let us strive on to finish the work we are in; to bind up the nation's wounds; to care for him who shall have borne the battle, and for his widow, and his orphan—to do all which may achieve and cherish a just and lasting peace, among ourselves, and with all nations.[215]
Reconstruction

Reconstruction began during the war, as Lincoln and his associates anticipated questions of how to reintegrate the conquered southern states, and how to determine the fates of Confederate leaders and freed slaves. Shortly after Lee's surrender, a general had asked Lincoln how the defeated Confederates should be treated, and Lincoln replied, "Let 'em up easy."[216] In keeping with that sentiment, Lincoln led the moderates regarding Reconstruction policy, and was opposed by the Radical Republicans, under Rep. Thaddeus Stevens, Sen. Charles Sumner and Sen. Benjamin Wade, political allies of the president on other issues. Determined to find a course that would reunite the nation and not alienate the South, Lincoln urged that speedy elections under generous terms be held throughout the war. His Amnesty Proclamation of December 8, 1863, offered pardons to those who had not held a Confederate civil office, had not mistreated Union prisoners, and would sign an oath of allegiance.[217]
A political cartoon of Andrew Johnson and Abraham Lincoln, 1865, entitled "The Rail Splitter At Work Repairing the Union." The caption reads (Johnson): Take it quietly Uncle Abe and I will draw it closer than ever. (Lincoln): A few more stitches Andy and the good old Union will be mended.

As Southern states were subdued, critical decisions had to be made as to their leadership while their administrations were re-formed. Of special importance were Tennessee and Arkansas, where Lincoln appointed Generals Andrew Johnson and Frederick Steele as military governors, respectively. In Louisiana, Lincoln ordered General Nathaniel P. Banks to promote a plan that would restore statehood when 10 percent of the voters agreed to it. Lincoln's Democratic opponents seized on these appointments to accuse him of using the military to ensure his and the Republicans' political aspirations. On the other hand, the Radicals denounced his policy as too lenient, and passed their own plan, the Wade-Davis Bill, in 1864. When Lincoln vetoed the bill, the Radicals retaliated by refusing to seat representatives elected from Louisiana, Arkansas, and Tennessee.[218]

Lincoln's appointments were designed to keep both the moderate and Radical factions in harness. To fill Chief Justice Taney's seat on the Supreme Court, he named the choice of the Radicals, Salmon P. Chase, who Lincoln believed would uphold the emancipation and paper money policies.[219]

After implementing the Emancipation Proclamation, which did not apply to every state, Lincoln increased pressure on Congress to outlaw slavery throughout the entire nation with a constitutional amendment. Lincoln declared that such an amendment would "clinch the whole matter".[220] By December 1863 a proposed constitutional amendment that would outlaw slavery absolutely was brought to Congress for passage. This first attempt at an amendment failed to pass, falling short of the required two-thirds majority on June 15, 1864, in the House of Representatives. Passage of the proposed amendment became part of the Republican/Unionist platform in the election of 1864. After a long debate in the House, a second attempt passed Congress on January 13, 1865, and was sent to the state legislatures for ratification.[221] Upon ratification, it became theThirteenth Amendment to the United States Constitution on December 6, 1865.[222]

As the war drew to a close, Lincoln's presidential Reconstruction for the South was in flux; having believed the federal government had limited responsibility to the millions of freedmen. He signed into law Senator Charles Sumner's Freedman's Bureau bill that set up a temporary federal agency designed to meet the immediate material needs of former slaves. The law assigned land for a lease of three years with the ability to purchase title for the freedmen. Lincoln stated that his Louisiana plan did not apply to all states under Reconstruction. Shortly before his assassination, Lincoln announced he had a new plan for southern Reconstruction. Discussions with his cabinet revealed Lincoln planned short-term military control over southern states, until readmission under the control of southern Unionists.[223]
Redefining the republic and republicanism
The last high-quality photograph of Lincoln was taken March 1865.

The successful reunification of the states had consequences for the name of the country. The term "the United States" has historically been used, sometimes in the plural ("these United States"), and other times in the singular, without any particular grammatical consistency. The Civil War was a significant force in the eventual dominance of the singular usage by the end of the 19th century.[224]

In recent years, historians such as Harry Jaffa, Herman Belz, John Diggins, Vernon Burton and Eric Foner have stressed Lincoln's redefinition of republican values. As early as the 1850s, a time when most political rhetoric focused on the sanctity of the Constitution, Lincoln redirected emphasis to the Declaration of Independence as the foundation of American political values—what he called the "sheet anchor" of republicanism.[225] The Declaration's emphasis on freedom and equality for all, in contrast to the Constitution's tolerance of slavery, shifted the debate. As Diggins concludes regarding the highly influential Cooper Union speech of early 1860, "Lincoln presented Americans a theory of history that offers a profound contribution to the theory and destiny of republicanism itself."[226]His position gained strength because he highlighted the moral basis of republicanism, rather than its legalisms.[227] Nevertheless, in 1861, Lincoln justified the war in terms of legalisms (the Constitution was a contract, and for one party to get out of a contract all the other parties had to agree), and then in terms of the national duty to guarantee a republican form of government in every state.[228] Burton (2008) argues that Lincoln's republicanism was taken up by the Freedmen as they were emancipated.[229]

In March 1861, in his First Inaugural Address, Lincoln explored the nature of democracy. He denounced secession as anarchy, and explained that majority rule had to be balanced by constitutional restraints in the American system. He said "A majority held in restraint by constitutional checks and limitations, and always changing easily with deliberate changes of popular opinions and sentiments, is the only true sovereign of a free people."[230]

Other enactments

Lincoln adhered to the Whig theory of the presidency, which gave Congress primary responsibility for writing the laws while the Executive enforced them. Lincoln only vetoed four bills passed by Congress; the only important one was the Wade-Davis Bill with its harsh program of Reconstruction.[231] He signed the Homestead Act in 1862, making millions of acres of government-held land in the West available for purchase at very low cost. The Morrill Land-Grant Colleges Act, also signed in 1862, provided government grants for agricultural colleges in each state. The Pacific Railway Acts of 1862 and 1864 granted federal support for the construction of the United States' First Transcontinental Railroad, which was completed in 1869.[232] The passage of the Homestead Act and the Pacific Railway Acts was made possible by the absence of Southern congressmen and senators who had opposed the measures in the 1850s.[233]
The Lincoln Cabinet[234]
Office Name Term

President Abraham Lincoln 1861–1865

War Simon Cameron 1861–1862
Edwin M. Stanton 1862–1865
Justice Edward Bates 1861–1864
James Speed 1864–1865
Post Montgomery Blair 1861–1864
Navy Gideon Welles 1861–1865
John P. Usher 1863–1865


Other important legislation involved two measures to raise revenues for the Federal government: tariffs (a policy with long precedent), and a new Federal income tax. In 1861, Lincoln signed the second and third Morrill Tariff, the first having become law under James Buchanan. In 1861, Lincoln signed the Revenue Act of 1861, creating the first U.S. income tax.[235] This created a flat tax of 3 percent on incomes above $800, which was later changed by the Revenue Act of 1862 to a progressive rate structure.[236]

Lincoln also presided over the expansion of the federal government's economic influence in several other areas. The creation of the system of national banks by the National Banking Act provided a strong financial network in the country. It also established a national currency. In 1862, Congress created, with Lincoln's approval, the Department of Agriculture.[237] In 1862, Lincoln sent a senior general, John Pope, to put down the "Sioux Uprising" in Minnesota. Presented with 303 execution warrants for convicted Santee Dakota who were accused of killing innocent farmers, Lincoln conducted his own personal review of each of these warrants, eventually approving 39 for execution (one was later reprieved).[238] President Lincoln had planned to reform federal Indian policy.[239]

In the wake of Grant's casualties in his campaign against Lee, Lincoln had considered yet another executive call for a military draft, but it was never issued. In response to rumors of one, however, the editors of the New York World and the Journal of Commerce published a false draft proclamation which created an opportunity for the editors and others employed at the publications to corner the gold market. Lincoln's reaction was to send the strongest of messages to the media about such behavior; he ordered the military to seize the two papers. The seizure lasted for two days.[240]

Lincoln is largely responsible for the institution of the Thanksgiving holiday in the United States.[241] Before Lincoln's presidency, Thanksgiving, while a regional holiday in New England since the 17th century, had been proclaimed by the federal government only sporadically and on irregular dates. The last such proclamation had been during James Madison's presidency 50 years before. In 1863, Lincoln declared the final Thursday in November of that year to be a day of Thanksgiving.[241] In June 1864, Lincoln approved the Yosemite Grant enacted by Congress, which provided unprecedented federal protection for the area now known as Yosemite National Park.[242]
Supreme Court appointments

Lincoln's declared philosophy on court nominations was that "we cannot ask a man what he will do, and if we should, and he should answer us, we should despise him for it. Therefore we must take a man whose opinions are known."[241] Lincoln made five appointments to the United States Supreme Court. Noah Haynes Swayne, nominated January 21, 1862 and appointed January 24, 1862, was chosen as an anti-slavery lawyer who was committed to the Union.Samuel Freeman Miller, nominated and appointed on July 16, 1862, supported Lincoln in the 1860 election and was an avowed abolitionist. David Davis, Lincoln's campaign manager in 1860, nominated December 1, 1862 and appointed December 8, 1862, had also served as a judge in Lincoln's Illinois court circuit. Stephen Johnson Field, a previous California Supreme Court justice, was nominated March 6, 1863 and appointed March 10, 1863, and provided geographic balance, as well as political balance to the court as a Democrat. Finally, Lincoln's Treasury Secretary,Salmon P. Chase, was nominated as Chief Justice, and appointed the same day, on December 6, 1864. Lincoln believed Chase was an able jurist, would support Reconstruction legislation, and that his appointment united the Republican Party.[243]
States admitted to the Union

West Virginia, admitted to the Union June 20, 1863, contained the former north-westernmost counties of Virginia that seceded from Virginia after that commonwealth declared its secession from the Union. As a condition for its admission, West Virginia's constitution was required to provide for the gradual abolition of slavery. Nevada, which became the third State in the far-west of the continent, was admitted as a free state on October 31, 1864.[244]

Assassination

John Wilkes Booth was a well-known actor and a Confederate spy from Maryland; though he never joined the Confederate army, he had contacts with the Confederate secret service.[245] In 1864, Booth formulated a plan (very similar to one of Thomas N. Conrad previously authorized by the Confederacy)[246] to kidnap Lincoln in exchange for the release of Confederate prisoners.
Shown in the presidential booth of Ford's Theatre, from left to right, are Henry Rathbone, Clara Harris, Mary Todd Lincoln, Abraham Lincoln, and his assassin John Wilkes Booth.

After attending an April 11, 1865, speech in which Lincoln promoted voting rights for blacks, an incensed Booth changed his plans and became determined to assassinate the president.[247] Learning that the President, First Lady, and head Union general Ulysses S. Grant would be attendingFord's Theatre, Booth formulated a plan with co-conspirators to assassinate Vice President Andrew Johnson, Secretary of State William H. Seward and General Grant. Without his main bodyguard, Ward Hill Lamon, Lincoln left to attend the play Our American Cousin on April 14. Grant along with his wife chose at the last minute to travel to Philadelphia instead of attending the play.[248]

Lincoln's bodyguard, John Parker, left Ford's Theater during intermission to join Lincoln's coachman for drinks in the Star Saloon next door. The now unguarded President sat in his state box in the balcony. Seizing the opportunity, Booth crept up from behind and at about 10:13 pm, aimed at the back of Lincoln's head and fired at point-blank range, mortally wounding the President. Major Henry Rathbone momentarily grappled with Booth, but Booth stabbed him and escaped.[249][250]

After being on the run for 10 days, Booth was tracked down and found on a farm in Virginia, some 30 miles (48 km) south of Washington, D.C. After a brief fight with Union troops, Booth was killed by Sergeant Boston Corbett on April 26.[251]

An Army surgeon, Doctor Charles Leale, was sitting nearby at the theater and immediately assisted the President. He found the President unresponsive, barely breathing and with no detectable pulse. Having determined that the President had been shot in the head, and not stabbed in the shoulder as originally thought, he made an attempt to clear the blood clot, after which the President began to breathe more naturally.[252] The dying man was taken across the street to Petersen House. After being in a coma for nine hours, Lincoln died at 7:22 am on April 15. Presbyterian minister Phineas Densmore Gurley, then present, was asked to offer a prayer, after which Secretary of War Stanton saluted and said, "Now he belongs to the ages."[253]

Lincoln's flag-enfolded body was then escorted in the rain to the White House by bareheaded Union officers, while the city's church bells rang. Vice President Johnson was sworn in as President at 10:00 am the day after the assassination. Lincoln lay in state in the East Room, and then in the Capitol Rotunda from April 19 through April 21. For three weeks, his funeral train brought the body to cities across the North for large-scale memorials attended by hundreds of thousands, as well as many people who gathered in informal trackside tributes with bands, bonfires and hymn singing.[254][255]
Religious and philosophical beliefs
Further information: Abraham Lincoln and religion
Lincoln: painting by George Peter Alexander Healy in 1869

Scholars have extensively written on topics concerning Lincoln's beliefs and philosophy—for example, whether Lincoln's frequent use of religious imagery and language reflected his own personal beliefs or was a device to appeal to his audiences, who were mostly evangelical Protestants.[256] He never joined a church, although he frequently attended with his wife,[257] but he was familiar with the Bible, quoted it and praised it.[258]

In the 1840s Lincoln subscribed to the Doctrine of Necessity, a belief that asserted the human mind was controlled by some higher power.[259] In the 1850s, Lincoln acknowledged "providence" in a general way, and rarely used the language or imagery of the evangelicals; he regarded the republicanism of the Founding Fathers with an almost religious reverence.[260] When he suffered the death of his son Edward, Lincoln more frequently acknowledged his own need to depend on God.[261] The death of his son Willie in February 1862 may have caused Lincoln to look toward religion for answers and solace.[262] After Willie's death, Lincoln considered why, from a divine standpoint, the severity of the war was necessary. He wrote at this time that God "could have either saved or destroyed the Union without a human contest. Yet the contest began. And having begun He could give the final victory to either side any day. Yet the contest proceeds."[263]On the day Lincoln was assassinated, he reportedly told his wife Mary at Ford's Theatre he desired to visit the Holy Land.[264]
Historical reputation

In surveys of scholars ranking Presidents since the 1940s, Lincoln is consistently ranked in the top three, often #1.[6][7] A 2004 study found that scholars in the fields of history and politics ranked Lincoln number one, while legal scholars placed him second after Washington.[265] Of all the presidential ranking polls conducted since 1948, Lincoln has been rated at the very top in the majority of polls: Schlesinger 1948, Schlesinger 1962, 1982 Murray Blessing Survey,Chicago Tribune 1982 poll, Schlesinger 1996, CSPAN 1996, Ridings-McIver 1996, Time 2008, and CSPAN 2009. Generally, the top three presidents are rated as 1) Lincoln; 2) George Washington; and 3) Franklin D. Roosevelt, although Lincoln and Washington, and Washington and Roosevelt, occasionally are reversed.[266]

President Lincoln's assassination made him a national martyr and endowed him with a recognition of mythic proportion. Lincoln was viewed by abolitionists as a champion for human liberty. Republicans linked Lincoln's name to their party. Many, though not all, in the South considered Lincoln as a man of outstanding ability.[267]
The Abraham Lincoln Presidential Library and Museum focuses on Lincoln scholarship and popular interpretation

Schwartz argues that Lincoln's reputation grew slowly in the late 19th century until the Progressive Era (1900–1920s) when he emerged as one of the most venerated heroes in American history, with even white Southerners in agreement. The high point came in 1922 with the dedication of the Lincoln Memorial on the Mall in Washington.[268] In the New Deal era liberals honored Lincoln not so much as the self-made man or the great war president, but as the advocate of the common man who doubtless would have supported the welfare state. In the Cold War years, Lincoln's image shifted to emphasize the symbol of freedom who brought hope to those oppressed by communist regimes.[269]

By the 1970s Lincoln had become a hero to political conservatives[270] for his intense nationalism, support for business, his insistence on stopping the spread of human bondage, his acting in terms of Lockean and Burkean principles on behalf of both liberty and tradition, and his devotion to the principles of the Founding Fathers.[271][272][273] As a Whig activist, Lincoln was a spokesman for business interests, favoring high tariffs, banks, internal improvements, and railroads in opposition to the agrarian Democrats.[274] William C. Harris found that Lincoln's "reverence for the Founding Fathers, the Constitution, the laws under it, and the preservation of the Republic and its institutions undergirded and strengthened his conservatism.".[275] James G. Randall emphasizes his tolerance and especially his moderation "in his preference for orderly progress, his distrust of dangerous agitation, and his reluctance toward ill digested schemes of reform." Randall concludes that, "he was conservative in his complete avoidance of that type of so-called 'radicalism' which involved abuse of the South, hatred for the slaveholder, thirst for vengeance, partisan plotting, and ungenerous demands that Southern institutions be transformed overnight by outsiders."[276]

By the late 1960s, liberals, such as historian Lerone Bennett, were having second thoughts, especially regarding Lincoln's views on racial issues.[277][278] Bennett won wide attention when he called Lincoln a white supremacist in 1968.[279] He noted that Lincoln used ethnic slurs, told jokes that ridiculed blacks, insisted he opposed social equality, and proposed sending freed slaves to another country. Defenders, such as authors Dirck and Cashin, retorted that he was not as bad as most politicians;[280] and that he was a "moral visionary" who deftly advanced the abolitionist cause, as fast as politically possible.[281] The emphasis shifted away from Lincoln-the-emancipator to an argument that blacks had freed themselves from slavery, or at least were responsible for pressuring the government on emancipation.[282][283] Historian Barry Schwartz wrote in 2009 that Lincoln's image suffered "erosion, fading prestige, benign ridicule," in the late 20th century.[284]On the other hand, Donald opined in his 1996 biography that Lincoln was distinctly endowed with the personality trait of negative capability, defined by the poet John Keats and attributed to extraordinary leaders who were "content in the midst of uncertainties and doubts, and not compelled toward fact or reason."[285]
Memorials
Lincoln Memorial in Washington, D.C.

Lincoln has been memorialized in many town, city, and county names,[286] including the capital of Nebraska. The first public monument to Abraham Lincoln was a statue erected in front of the District of Columbia City Hall in 1868, three years after his assassination.[287] Lincoln's name and image appear in numerous other places, such as the Lincoln Memorial in Washington, D.C. and Lincoln's sculpture on Mount Rushmore.[288] Abraham Lincoln Birthplace National Historical Park in Hodgenville, Kentucky,[289] Lincoln Boyhood National Memorial in Lincoln City, Indiana,[290] Lincoln's New Salem, Illinois,[291] and Lincoln Home National Historic Site in Springfield, Illinois[292] commemorate the president.[293] Ford's Theatre and Petersen House(where he died) are maintained as museums, as is the Abraham Lincoln Presidential Library and Museum, located in Springfield.[294][295] The Lincoln Tomb in Oak Ridge Cemetery in Springfield, Illinois, contains his remains and those of his wife Mary and three of his four sons, Edward, William, and Thomas.[296]

Within a year of this death, his image began to be disseminated throughout the world on stamps,[297] and he is the only U.S. President to appear on aU.S. airmail stamp.[298] Currency honoring the president includes the United States' five-dollar bill and the Lincoln cent, which represents the first regularly circulating U.S. coin to feature an actual person's image.[299] Lincoln's image on the five-dollar bill was used by Salvador Dali to help commemorate the U.S. Bicentennial with his creation of "Gala looking at the Mediterranean Sea which at a distance of 20 meters is transformed into the portrait of Abraham Lincoln (Homage to Rothko)" and Lincoln in Dalivision, the earlier of which was displayed at The Guggenheim in New York during the 1976 Bicentennial.[300]

The first statue of Lincoln outside the United States was erected in Edinburgh, Scotland in 1893. The work of George Edwin Bissell, it stands on a memorial to Scots immigrants who enlisted with the Union during the Civil War, the only memorial to the war erected outside the United States. A large statue of Lincoln standing was unveiled near Westminster Abbey in London, on July 28, 1920, in an elaborate ceremony. The principal addresses were delivered in the abbey church.[301]

Abraham Lincoln's birthday, February 12, was never a national holiday, but it was at one time observed by as many as 30 states.[286] In 1971, Presidents Day became a national holiday, combining Lincoln's and Washington's birthdays and replacing most states' celebration of his birthday.[302] The Abraham Lincoln Association was formed in 1908 to commemorate the centennial of Lincoln's birth.[303] In 2000, Congress established the Abraham Lincoln Bicentennial Commission to commemorate his 200th birthday in February 2009.[304]

Lincoln sites remain popular tourist attractions, but crowds have thinned. In the late 1960s, 650,000 people a year visited the home in Springfield, slipping to 393,000 in 2000–2003. Likewise visits to New Salem fell by half, probably because of the enormous draw of the new museum in Springfield. Visits to the Lincoln Memorial in Washington peaked at 4.3 million in 1987 and have since declined. However crowds at Ford's Theatre in Washington have grown sharply.[305]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét