Chiều hôm đó, chúng tôi đến với
tư cách đại biểu chính thức của tổ văn là tổ đứng ra tổ chức buổi tiễn đưa này.
Theo qui định của anh Hai Lý thì mỗi đại biểu đều mang khẩu phần thường lệ của
mình đến bữa tiệc. Giữa nền đất trơ khấc là hai cái nồi, nồi cháo loãng như
Biển Hồ, trên mặt lềnh bềnh mấy vệt mỡ vàng nhạt lấp lánh mặt trời chiều không
có tí hành nào bập bềnh biểu hiện tư tưởng bấp bênh của cán bộ trong lúc này.
“Kẻ hèn nhát hỏi: ‘Có an toàn không?’ Kẻ cơ hội hỏi: ‘Có khôn khéo không?’ Kẻ rởm đời hỏi: ‘Có được tiếng tăm gì không?’ Nhưng, người có lương tâm hỏi: ‘Có là lẽ phải không?’ Và có khi ta phải chọn một vị trí không an toàn, không khôn khéo, không để được tiếng tăm gì cả, nhưng ta phải chọn nó, vì lương tâm ta bảo ta rằng đó là lẽ phải.”
Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013
HỒI KÝ ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN CỦA XUÂN VŨ - KỲ CUỐI
Hết vượt núi, ở rừng bây giờ
tới lội sình. Toàn những cực đoan của sự đi đứng. Leo núi thì có đoạn đường hai
ngày không có nước, ở rừng thì không thấy ánh nắng mặt trời, da bủn xì như da
người chết còn lội sình thì ngâm nước suối suốt ngày đêm, thân mình như con mắm
sống. Đường đi thật là dài và vô cùng ngao ngán với sức khỏe xuống dần từng
ngày.
Những người đã đi đồng bằng như
Mỹ Tho, Long An, Bến Tre, Rạch Giá, Cà Mau vẽ lại cho tôi con đường đó bằng mồm
một cách chi tiết. Nghe xong, muốn nghĩ chơi luôn, nằm tại R tiếp tục lãnh
thưởng của muỗi đòn xóc. Nhưng… sứ mệnh thiêng liêng của tôi là về tận Bến Tre
viết cho được quyển tiểu thuyết về Đồng Khởi kia mà ! Đâu có “sọc dưa” nửa
chừng như vậy được ! Hơn nữa, tôi còn có một thúc giục khác có lẽ còn to hơn.
Đó là trở lại quê nhà thăm lại ông bà cha mẹ và hàng xóm mà khi ra đi từ 45 tôi
mới mười lăm tuổi bây giờ đã ba mươi ba.
Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013
HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ 1
(Bản thảo quyển này bị mất hồi
1975 tại Sàigòn
Xuân Vũ viết lại xong tháng 12-1989 tại Hoa Kỳ)
Đường đi nắng sớm mưa chiều
Bao nhiêu lá rụng bấy nhiêu mạng người
Vào đây thì chết ở đây,
Bao giờ mộ mọc xanh cây thì về.
Ca dao Trường Sơn
- 1 -
Tôi dìu Thu đi xuống suối. Chân
Thu còn đau nhưng Thu cố gượng. Có những con suối rất đẹp, rất dễ đến múc nước
hoặc tắm giặt, nhưng ở đây chúng tôi đụng nhằm con suối không phải là “Suối Mơ
Bên Rừng Thu Vắng”.
HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ 2
Bận rộn chuyện gì chẳng ra
chuyện gì, nhưng cuối cùng rồi cũng hết một ngày. Lúc gần tối, thì từ ngoài
giao liên dẫn tới một đoàn rất đông, gồm đủ các hạng quân dân chánh.
Bây giờ chúng tôi mới nôn nao
nghĩ tới việc đi. Chậm mất một ngày rồi. Trừ Núi ra, tất cả đều có thể đi. Phải
đi dù thế nào thì cũng gần với quê hương hơn.
Ngữ nói với tôi bằng một giọng
đầy nước mắt:
- Các anh và Thu cứ đi đi, để
em ở Lại với Núi, nếu nó cố mệnh hệ nào thì cũng có em bên cạnh, như vậy nó đỡ
tủi thân. Còn Trời Phật mà phù hộ nó khỏe lên được thì em sẽ dìu nó đi dần tới
đâu hay tới đó. Luật lệ của đường dây là chỉ đưa người vào không cho người ra,
mình không thể cưỡng lại được.
HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ 3
Thấy Hoàng đau khổ lo âu thực
sự, tôi không đùa nữa. Tôi cảm thấy buồn.
Thằng Lưu chết, vợ con không
hay, gia đình không biết, mà chết ngay giữa thành phố Hà Nội. Riêng nhạc sĩ họ
Phan thì tôi biết nhiều. Tôi và hắn rất tương đắc trong nhiều nhạc phẩm. Hắn
làm nhạc bài nào cũng ném cho tôi làm lời, hoặc nhạc và lời của hắn thì hắn đưa
cho tôi chữa tiếp.
Hắn có cô vợ Nhật Bổn lai đẹp
lắm. Hồi ở trong Nam hai đứa được một cái giải thưởng hạng nhất về Âm Nhạc, hắn
lãnh tiền chia cho tôi rồi về cất nhà ở Bạc Liêu chữa bệnh. Một lần gặp hắn ở
Thái Bình, từ trong tiệm nước Chú Xồi đi ra. Hắn nói:
HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ 4
Về đêm, trạm trong rừng trông
như con rắn ngủ im. Không biết đầu đâu, đuôi đâu. Những lều nối tiếp những lều.
Mỗi một cái lều là một trời riêng tâm sự. Phần lớn nằm ngủ ở đây là dân Nam kỳ.
Trước mặt họ là cha mẹ vợ con quê hương làng mạc gắn bó, sau lưng họ là miền
Bắc lừa dối bạc bẽo mọi rợ xã nghĩa, một thứ đất đai đổi thay hình đổi dạng dần
dần và sẽ biến thể không còn cái gì đặc sắc của Việt Nam. Ngay cả cái Tháp Rùa!
Bây giờ đây cũng phải cụp cổ độ; một ông Sao to tổi bố nặng như xích như cùm.
Hồ Gươm bây giờ là nơi người Hà Nội uống bia để than thở vận nước mạt rệp chứ
không phải để ngắm di tích của ông cha.
HỒI KÝ MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG CỦA XUÂN VŨ - KỲ CUỐI
Nhờ sự săn sóc của Vân và chị
Phụng mà tôi và Hoàng Việt đi khá hơn trước nhiều. Ăn uống không tệ như trước.
Và mỗi lần hơi chớm sốt hoặc đau bịnh gì khác thì Vân moi thuốc ra chặn bệnh
ngay. Chính sách của ông dược sĩ là phòng bệnh hơn chữa bệnh, và ăn ngon ăn đủ
là cha thầy thuốc.
Đi được năm sáu trạm liền không
bệnh, cũng không bỏ cuộc, tôi và Hoàng Việt phấn khởi vô cùng. Đường đi không
có dốc cao. Chỉ vừa đủ mệt thôi. Nhưng dọc hai bên đường thì người rụng càng
đông. Không có chặng nào là vắng người treo võng nằm hai bên đường. Có người
băng tay băng chân, có người phù thũng, có người vàng như nghệ từ mặt mũi đến
tay chân. Tôi có cảm tưởng như da họ bị thoa nghệ hoặc túi mật đã vỡ ra mà thấm
tận ngoài da vậy. Thấy mà kinh hãi, không dám ngó lâu. Họ nhìn đoàn đi qua với
những cập mắt hầu như không có tí xúc động vui buồn nào. Hình như họ đã chán
kêu gào, van vỉ rồi, nên không buồn nữa. Tất cả: mặc kệ.
Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG SƠN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 1
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Đã ngót hai mươi năm qua kể từ
quyển hồi ký Đường Đi Không
Đến ra mắt độc giả ở Sài
gòn. Lớp thanh niên đọc quyển sách ấy nay tóc đã hoa râm, còn lứa tuổi trung
niên thì nay đã ra lão. Thời gian đi nhanh, nhưng con đường mà tác giả đã trải
qua mãi mãi còn đậm nét trên những trang sách và trong lòng người
Nếu chúng tôi nhớ khônglầm thì
quyển hồi ký Đường Đi Không Đến ra mắt độc giả trước tiên năm 1969 trên nhật
báo Tiền Tuyến do nhà văn Phan Lạc Phúc làm Chủ Nhiệm và nhà báo Huy Vân làm
Chủ bút. Nhà văn Phan Lạc Phúc bi bắt đi cải tạo, đến nay vẫn còn trong tù. Còn
nhà báo Huy Vân thì đã hy sinh cũng trong trại cải tạo của bạo quyền.
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG-SƠN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 2
Trưa rừng sau cơn mưa, lá cây
chuyền động trong sự lặng lẽ âm thầm, những búp non nảy thêm ra. Nhựa cây chảy
rạt rào trong thân cây.
Tôi cứ quên đi những luồng thán
khí do cây thở ra và làm hại đến sức khỏe con người mà tôi cứ tưởng đây là cảnh
rừng thơ mộng với các áng hương thơm lâng lâng sực nức lòng người.
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG-SƠN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 3
Sáng hôm sau, mở mắt ra tôi
bàng hoàng, tâm tư quay cuồng hồi lâu tôi mới lấy lại sự bình thường.
Một cái tin không vui đến ngay
với chúng tôi trong buổi sáng đó. Kẹt đường ! Kẹt đường nghĩa là cuộc hành
trình không tiếp tục được nữa. Đó là một đại họa.
Hôm qua khi tới đây thì tôi
tưởng chỉ leo heo có mấy đứa sứt tay gãy gọng của chúng tôi chẳng ngờ sáng nay
tôi thấy dầy đặc trong rừng nhung nhúc những người là người.
Có lẽ những chuyến trước tới
đây rồi cũng nằm ỳ tại đây chớ không đi vô được nữa cho nên người mới đông đúc
đến thế.
Tấn lân la đến chỗ chúng tôi
chơi. Tôi bèn hỏi chuyện kẹt đường thử xem ra sao. Bởi vì chúng tôi đã từng bị
kẹt nhiều lần rồi, kẹt vì mưa suối to, vì biệt kích. Không rõ lần này kẹt vì lý
do gì.
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG-SƠN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 4
Tôi và Năm Cà Dom đi đốn nứa
cất hẳn một cái nhà bếp con con để trời mưa khỏi ướt củi. Nóc nhà lợp cả bằng
những thanh nứa bổ làm đôi, cứ úp vào nhau, cái sấp cái ngửa như lợp ngói ống.
Một hôm Năm Cà Dom mày sáng
kiến làm cơm mẽ. Tôi nói: thế thì hay quá. Mỗi bữa ăn mình nhín lại vài muỗng.
Làm được một ga-men cơm mẽ thì mình sẽ tìm lá nấu chua. Như vậy sẽ có món ăn lạ
miệng, ăn ngon hơn.
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG-SƠN CỦA XUÂN VŨ - KỲ 5
Một hôm tôi và Năm Cà Dom buồn
quá, mới bèn rủ nhau đi vào cái bệnh xá của ông bác sĩ Cường chơi. Thực ra đi
chơi mà vô một cái bệnh xá thì còn lý thú gì, nhưng vô đó có thằng quen là xếp
bệnh xá, may ra nó sẽ giúp đỡ mình chút đỉnh. Ở đây thì chỉ có thế, hễ đi ra là
mong gặp được một sự may mắn gì, nhất là mong gặp được một cái lợi bất ngờ.
Nhưng hôm đó chúng tôi lại gặp
rủi. Không phải gặp rủi nhưng lại gặp một cái biểu trưng của sự rủi ro.
Đang đi, chúng tôi bỗng dừng
lại, vì nghe trên đầu có tiếng gió như có một nhánh cây gãy đang giáng xuống
đầu mình. Cả hai đứa đều nhảy qua một bên để tránh theo bản năng tự vệ chứ
không kịp dòm ngó gì.
“Pạch. ” Một vật đen thui dài
nhằng rơi đánh phịch xuống đất và nằm im. Chúng tôi nhìn. Và Năm Cà Dom kêu
lên:
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG SƠN CỦA XUÂN VŨ KỲ 6
Đơn vị đang xôn xao vì thiếu
gạo, nội bộ rã rời, và thêm vào những hiện trạng đó là những trận bom liên
tiếp, bom của “còng cọc” dội (tức Skyraiaer) và B52 tiếp thêm. Có một cái hiện
tượng kỳ lạ, là hễ đơn vi dời tới đâu, thì ăn bom tới đó, mặc dù là hành quân
ban đêm để tránh mọi sự dò xét của máy bay do thám, nhưng hễ đóng quân xong,
hôm trước thì hôm sau lại bị bom.
Mạnh và Tuất đang cho họp chi
bộ tìm nguyên nhân. Chi bộ họp bên cạnh chỗ ngủ của tôi, nên tôi nằm lắng tai
nghe hết ráo.
HỒI KÝ XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG-SƠN CỦA XUÂN VŨ - KỲ CUỐI
… Một buổi sáng chúng tôi đang
vui cơm nước bỗng có tiếng máy bay tới. Tôi có cảm giác là máy bay sẽ bỏ bom
xuống đầu mình. Thì quả thật vậy. Ba chiếc phản lực kiểu gì không rõ rà xuống
thật thấp, cánh to bè ra như những tấm phản đen ngòm, ném một lúc năm, sáu quả
bom.
Rồi một đợt khác nữa tiếp tục.
Tôi và Năm Cà Dom chỉ ngồi nép vào gốc cây chờ dứt trận bom. Chúng tôi vừa hé
mắt nhìn ra thì lại nghe máy bay tới, ù… ù… tiếng động cơ quen thuộc của một
chiếc L19. Rồi tiếng người cất lên từ trên máy bay nghe oang oang. Có lẽ tiếng
người khi phát ra bị tốc lực của phi cơ làm cho méo mó đi cho nên ở dưới này
nghe không rõ là người đó nói cái gì.
Mặc dù không biết trên đó người
ta nói cái gì nhưng tâm linh tôi nghe buốt lạnh. Tôi ngước cổ nhìn lên.
Chiếc L19 lắc lư như con diều
giấy chao nhẹ trong gió và những tiếng nói như những tràng đá sỏi rơi xuống đầu
tôi.
Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 1
Tuổi “tuyển-hồi”
Những ngày gần đây, tôi bỗng cảm thấy mình đã già thật rồi. Bẩy mươi sáu tuổi,
chả già thì còn trẻ với ai! Không, tôi muốn nói tâm lý người già kia. Đúng thế,
gần đây tôi tự thấy có tâm lý người già. Nghĩa là thích nhớ về quá khứ, thích
săn sóc đến những kỷ niệm. Có mấy biểu hiện thế này: đầu năm nay, đột nhiên tôi
muốn về quê để dự hội làng. Hội làng Thổ Khối quê tôi tổ chức vào đầu xuân. Hội
to lắm, có tế lễ, có rước xách linh đình. Làng tôi ở ngay ngoại thành Hà Nội,
qua cầu Chương Dương rẽ phải chỉ mấy cây số là tới. Tuy thế, có bao giờ tôi
nghĩ đến chuyện về làng xem hội đâu. Thế mà năm nay… Cũng năm nay tôi còn có
nhu cầu về thăm lại nơi mình sinh ra (làng Quần Phương Hạ, nay thuộc xã Hải
Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định). Ông bố tôi thời Pháp thuộc từng làm lục
sự ở Hải Hậu một thời gian. Khi gia đình chuyển đi nơi khác, tôi mới lên chín
tuổi. Tính đến nay, đúng 66 năm. 66 năm, bỗng có nhu cầu trở lại! Ngoài ra tôi
còn có hứng thú thu thập các tấm ảnh chụp ngày xưa và ngồi cặm cụi cả buổi để
phân loại, chọn lọc, sắp xếp theo chủ đề này khác. Nhớ hồi tôi được giao làm
Tuyển tập Nguyễn Tuân, cụ Nguyễn có nói nửa đùa nửa thật với tôi : “Thế là mình
đã đến tuổi “tuyển hồi” (tuổi làm tuyển tập và viết hồi ký). Lúc ấy (1980),
Nguyễn Tuân mới 70 tuổi. Tôi bây giờ đã 76. Cũng sắp in Tuyển tập và đã có
người xui viết hồi ký.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 2
1 2 3 4 5 6 7 8 Kỳ Cuối
Vào tháng 6 năm 1952, trên lệnh cho khu học xá Nam Ninh phải tổ chức một đoàn học sinh sư phạm về nước dạy học, gọi là khoá đặc biệt. ( bao gồm cả giáo sinh dạy cấp một, cấp hai). Tôi được tuyển vào đoàn này. Cùng đoàn, tôi chỉ còn nhớ có Đỗ Bình Trị, Phạm Luận, Dương Đức Tuấn, Nhạ, Tô Thanh Tùng, Nguyễn Văn Lô, một cô dạy cấp một tên là Bồng ( Đỗ Bình Trị yêu cô này, thường ký tên Đỗ Bồng Trị).
Vào tháng 6 năm 1952, trên lệnh cho khu học xá Nam Ninh phải tổ chức một đoàn học sinh sư phạm về nước dạy học, gọi là khoá đặc biệt. ( bao gồm cả giáo sinh dạy cấp một, cấp hai). Tôi được tuyển vào đoàn này. Cùng đoàn, tôi chỉ còn nhớ có Đỗ Bình Trị, Phạm Luận, Dương Đức Tuấn, Nhạ, Tô Thanh Tùng, Nguyễn Văn Lô, một cô dạy cấp một tên là Bồng ( Đỗ Bình Trị yêu cô này, thường ký tên Đỗ Bồng Trị).
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 3
Chương IV: Từ dạy học đến nghiên cứu, phê bình
văn học
Tôi bắt đầu nghiên cứu phê bình văn học từ khi được giữ lại trường đại học làm
cán bộ giảng dạy (1960)
Như đã nói, hồi ấy chúng tôi coi đại học là một cái gì thiêng liêng lắm. Vì thế
được dạy đại học là danh giá lắm. Ấy là được làm cái công việc của những Trần
Đức Thảo, Đặng Thai Mai, Nguyễn Mạnh Tường… kia mà! Tâm lý những người như
chúng tôi lúc bấy giờ rất lo lắng. Người nào cũng ngầm hứa với mình phải quyết
tâm, cố chí vươn lên. Nghĩa là phải học, phải đọc, phải nghĩ, phải tìm hỏi các
bậc đàn anh, hỏi bất cứ ai hiểu biết hơn mình để chiếm lĩnh cho được kiến thức
ở tầm cao. Không xấu hổ. Có gì mà xấu hổ! Vả lại người ta có khinh mình thì
cũng có oan ức gì đâu: đào tạo ba năm ở trong nước, nam nhân lại dạy nam nhân,
đúng là “cơm chấm cơm”, có người gọi là phổ thông cấp bốn! Vậy mà cũng dạy đại
học! Thương cho cái nước mình! Nghèo và dốt. Đến cái thứ mình mà cũng dạy đại
học! Thương nước và thương mình! Vậy thì phải cố, vượt lên được chút nào hay
chút ấy.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 4
I. Tiếp cận thi pháp học và lý thuyết về thi
pháp văn học trung đại.
Tôi đến với lý luận không phải từ lý luận mà từ kinh nghiệm thực tế. Từ kinh
nghiệm thực tế mà khái quát lên. Tất nhiên có đọc lý luận nhưng không nhằm mục
đích lý luận. Cho nên nếu ai bảo tôi trình bày một cách có hệ thống học thuyết
này, học thuyết nọ, lý luận này lý luận khác thì tôi chịu. Tôi chỉ đọc lý luận
để tìm xem có cách nào, có khái niệm hay qui luật nào diễn tả được một cách
khái quát và sâu sắc kinh nghiệm thực tế của tôi trong nghiên cứu, phê bình văn học.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 5
Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.
Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám 1945,
bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp II
ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ Chủ Tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử
đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ Tịch đến thì vẫy
cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 6
Hồi kháng chiến chống Pháp, có lần tôi đã được thấy Xuân Diệu. Lúc ấy tôi đang học ở trường Trung học kháng chiến đóng ở Đào Giả – Phú Thọ. Tôi đi khám bệnh ở một bệnh viện ở Đại Đồng. Hình như anh cũng đi chữa răng thì phải. Có người biết Xuân Diệu, chỉ cho tôi. Anh đi xe đạp, mái tóc lượn sóng, rất thi sĩ.
Từ ngày về Hà Nội học, rồi công tác ở Đại học, tôi có dịp đến Xuân Diệu mấy lần cùng với Nguyễn Duy Bình và Hoàng Ngọc Hiến. Vào cuối những năm 60, sang những năm 70 của thế kỉ trước, tôi luôn viết cho tạp chí Tác phẩm mới do Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài thay phiên nhau phụ trách, vì thế luôn có dịp tiếp xúc với Xuân Diệu.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 7
Những tư liệu riêng của tôi về Hoàng Cầm, tôi đã đưa cả vào bài chân dung
“Hoàng Cầm người và thơ”.
Giờ tôi chỉ chép lại hai câu chuyện Hoàng Cầm kể tôi nghe mà tôi chưa có dịp
viết ra.
1. Chuyện tiết mục quan họ bị đả đảo.
Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ. Hoàng Cầm lúc đó phụ trách đoàn văn nghệ
quân đội thuộc Tổng cục chính trị. Ông được giao tổ chức một cuộc liên hoan văn
nghệ mừng chiến thắng trong rừng Việt Bắc. Trong chương trình biểu diễn hôm ấy,
Hoàng Cầm bố trí xen vào một tiết mục hát giao duyên quan họ.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ 8
Bài nghiên cứu văn học đầu tiên của tôi là bài viết về Nguyễn Hồng. ấy là một
chương trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, viết
chung giữa Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Vinh, xuất bản năm 1963.
Thỉnh thoảng tôi có gặp Nguyễn Hồng, thường ở trụ sở Hội nhà văn (65 – Nguyễn
Du), đôi khi ở báo Văn Nghệ (17 Trần Quốc Toản). Nguyễn Hồng cũng đến tôi mấy
lần, khi ở nhà K2, khi ở nhà B2 khu tập thể cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội. Có
lần ông ở cả ngày, ăn với gia đình tôi hai bữa cơm.
HỒI KÝ CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH - KỲ CUỐI
Trong một bài chân dung viết về Nguyên Ngọc, tôi gọi anh là con người lãng mạn.
(Nguyên Ngọc, con người lãng mạn). Cũng có thể nói, Nguyên Ngọc là người
của cái tuyệt đối. Anh không chấp nhận sự nửa vời, trạng thái lừng chừng. Phải
tuyệt đối anh hùng, phải tuyệt đối trong sáng. Không phải anh chỉ nghĩ thế, mà
còn sống như thế. Rất dũng cảm, thích mạo hiểm. Anh từng đi đánh thổ phỉ ở Tây
Bắc. Từng đi ngựa theo một đoàn buôn thuốc phiện lậu từ Cao Bằng đi Lai Châu.
Đi B dài cùng Nguyễn Thi. Nguyên Ngọc ở lại khu Năm, còn Nguyễn Thi thì vào
tuốt Nam Bộ. Họ chia tay nhau bên một khu rừng xà nu bạt ngàn, hẹn trở về
phải đi đường số một. Ở khu Năm, Nguyên Ngọc sống và chiến đấu như một anh
hùng. Một nhà văn như thế thì tìm đâu ra nhân vật trong đời sống thực tế quanh
mình… Mà nhất thiết anh phải viết về chủ nghĩa anh hùng. Đó là quan niệm thẩm
mĩ của anh.
Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013
TÔ HẢI - HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN - KỲ 3
Kể từ những sáng tác văn, thơ, nhạc... tập tọe, viết để mình đọc, để trao đổi với bạn bè cùng trang lứa, tới ngày ở tuổi 17 được lần đầu in bài thơ “Thôi thế là tan giấc mộng vàng, Nàng đi giữa lúc gió xuân sang”... rồi đến các bài hát Có Một Nàng Thôn Nữ, Nụ Cười Sơn Cước, Chiến Sĩ Khu III... chưa bao giờ tôi dám tự nhận mình là... nhạc sĩ, thi sĩ. Với tôi, đó là những nghề đòi hỏi một tài năng thiên phú, một cái đầu thật lớn và một trái tim thật nồng nhiệt! Văn nghệ với tôi lúc ấy chỉ là một “cuộc chơi” không hơn không kém. Chẳng có ý đồ, mục đích gì. Tất cả chỉ bật ra trong vô thức tiếng nói của tâm hồn, của những nghĩ suy, những cảm nhận mà lời nói bình thường không có khả năng diễn đạt.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)