Giáo Sư, Luật Sư NGUYỄN MẠNH TƯỜNG |
Bất chợt, tôi lại nhớ vào năm 1936, khi tôi trở về Việt Nam
luôn, tôi học tiếng Trung, tham gia phác hoạ văn phạm Việt Nam với nhóm Trần Trọng
Kim và Bùi Kỷ, và hợp tác làm cuốn tự điển với Khai Trí Tiến Đức. Cái gì đã khiến
tôi luôn giữ thái độ sinh hoạt đó? Tôi, một người là chưa bao giờ ngưng tán
dương đề cao những tác dụng lợi ích của nền văn hoá Pháp, một nền văn hoá đã
tôi luyện thành một người như tôi ngày hôm nay? Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi
như thế này: “Tôi trở về với truyền thống và dân tộc, không phải với cái giá của
một cuộc đấu tranh cam khó và với những cố gắng bền bỉ, nhưng bằng cách để mình
trôi theo một con đường dốc không thể thiếu một cách dễ dàng và tự nhiên. Những
kẻ dù có trang bị một kiến thức khoa học rộng lớn, những người chống văn hoá
Pháp mà tôi đã tiếp đón ở trường, và hay những kẻ chống văn hoá Việt, văn hoá
mà tôi thấm nhuần suốt cuộc sống, tất cả bọn họ đều không có những cái nhìn
lành mạnh và đúng đắn về văn hoá là gì.
Một nền văn hoá xứng đáng với tên gọi của nó không bao giờ có chuyện tự phân biệt mình qua sự duy nhất, không bao giờ kiếm cách biến mình thành độc tôn, không bao giờ tự mình đóng khung trong tường kín. Ngược lại, văn hoá là khoảng không gian ngự trị ở tầng cao vi vu muôn ngàn ngọn gió, nơi đến của tất cả những tâm hồn tốt lành không có bất cứ thứ phân biệt đối xử nào, như là một con suối trong dành cho mọi sự khát. Mỗi người có một nền văn hoá riêng, nhưng tất cả cùng hoá chung trong nền Văn Hoá lớn của nhân loại, mục đích duy nhất và sau cùng là nhằm tạo nên một con người toàn diện, tinh hoa, với những đức hạnh không thể thay hình đổi dạng được, có những giá trị riêng của con người, đưa họ lên tầng cao nhất của nhân tính. Khi tất cả những nền văn hoá của từng quốc gia quyện chung thành Văn Hoá của nhân loại, như những giòng sông cùng đổ vào biển cả, thì làm sao lại có chuyện có thể hình dung ra những đối kháng, mâu thuẫn hay xung đột giữa các văn hoá riêng và nền Văn Hoá lớn?
Một nền văn hoá xứng đáng với tên gọi của nó không bao giờ có chuyện tự phân biệt mình qua sự duy nhất, không bao giờ kiếm cách biến mình thành độc tôn, không bao giờ tự mình đóng khung trong tường kín. Ngược lại, văn hoá là khoảng không gian ngự trị ở tầng cao vi vu muôn ngàn ngọn gió, nơi đến của tất cả những tâm hồn tốt lành không có bất cứ thứ phân biệt đối xử nào, như là một con suối trong dành cho mọi sự khát. Mỗi người có một nền văn hoá riêng, nhưng tất cả cùng hoá chung trong nền Văn Hoá lớn của nhân loại, mục đích duy nhất và sau cùng là nhằm tạo nên một con người toàn diện, tinh hoa, với những đức hạnh không thể thay hình đổi dạng được, có những giá trị riêng của con người, đưa họ lên tầng cao nhất của nhân tính. Khi tất cả những nền văn hoá của từng quốc gia quyện chung thành Văn Hoá của nhân loại, như những giòng sông cùng đổ vào biển cả, thì làm sao lại có chuyện có thể hình dung ra những đối kháng, mâu thuẫn hay xung đột giữa các văn hoá riêng và nền Văn Hoá lớn?
Cái gì có thể phân chia rạch ròi giữa animus và animas [3]? Cái
gì không thể hoà được giữa cái văn hoá Pháp đã tạo nên tri thức của tôi và cái
văn hoá Việt đã nặn khuôn linh hồn tôi?
Để lòng mình trầm lắng, yên tĩnh lại, tôi cảm xúc mủi lòng nhìn
từng món đồ trong nhà. Mỗi món là một phần của những ngày qua và một phần của
linh hồn tôi, tất cả chúng là một nữa của con người và sự sống của tôi. Nay
mai, chúng sẽ rời tôi, từng đứa một, đi về một nơi vô định, rồi sẽ đến ngày mà
trí nhớ của tôi chỉ đủ sức nhớ lại những hình ảnh mờ ảo, chợt ẫn hiện như một cảnh
vật lúc hoàng hôn thoáng vụt qua cánh cửa sổ của con tầu hoả đang chạy nhanh.
Chưa bao giờ tôi lại thấm thía bởi câu thơ nhức nhối: “Đi là chết trong lòng một
ít…”
Người khách đầu tiên là một cán bộ cộng sản trong bộ đồ kaki
xanh, với áo cổ cao và mang đôi dép cao su làm bằng lốp xe bỏ, một vẻ bề ngoài
cho biết ngay ông ta thuộc gốc chính trị nào. Ông ta không có cái vẻ của một kẻ
lang thang, mặc dù cặp mắt đang nhớn nhác ngạc nhiên, hết nhìn món này nhìn qua
món khác như đang tự hỏi làm thế nào mà có tay trí thức có thể mua sắm và sống
với những món đồ như thế. Tôi có thể đoán được những ý nghĩ đang xảy ra trong đầu
của ông ta. Hắn chắc đã tự bảo đây là một tay phản động có tầm cỡ mới có thể sống
xa hoa như thế: quả thực, hắn chỉ nghĩ rằng trong bất cứ xã hội cộng sản nào,
như ở Việt Nam, giới trí thức đã bị đưa vào cuộc sống nghèo khổ, bị nguyền rủa
dồn dập dưới sự khinh thường của lãnh đạo, nếu một tay trí thức nào đi ra ngoài
qui luật đó, hắn ta chẳc chắn là một tên phản động làm giàu bất chính. Nhìn cặp
mắt chằm chặp soi mói và cử chỉ của hắn ta, tôi nghĩ, nếu hắn không manh động với
tôi thì hắn cũng không dành cho tôi những kính trọng phải có. Đương nhiên, hắn
đang thi hành lệnh của chủ nhân. Nhưng để làm gỉ? Chính hắn đăt câu hỏi đầu
tiên: “Vì sao ông muốn bán đồ đạc?”
- Chắc là ông cũng thừa biết, tất cả trí thức ở Hà Nội đều làm
chuyện đó. Tôi đã phạm lỗi lầm, dường như thế, và đã bị loại khỏi đoàn Luật Sư
và công việc giảng dạy. Không còn nguồn lợi tức nào, và để nuôi gia đình tôi
đành phải bán những đồ đạc mà tôi có từ nhiều năm nay. Đó là những món chót còn
lại của tôi.
- Ông vừa nói hai chữ “Chắc là”. Như vậy ông vẫn chưa nhận lỗi
và vẫn còn hận Đảng. Có người sẽ thất vọng thấy ông vẫn không quay lại với con
đường của lý lẽ.
- Ông bạn trẻ của tôi ơi, tôi không biết là ông có hiểu là mọi
phán đoán đều dính dấp đến tính chủ quan của người đưa ra lý luận đó. Dưới tác
động của cái chủ quan, ai có thể cho rằng mình là đúng đây? Trong một nền dân
chủ đích thực, xứng đáng với tên gọi của nó, luật là do đa số quyết định. Trong
một số nơi khác, luật là do những kẻ nắm quyền. Một phán quyết bằng bạo lực và
dựa vào bạo lực thì không thể có một giá trị chung cuộc của sự thực. Nó sẽ bị lịch
sử huỷ bỏ, và chuyện đó xảy ra ngay trong lúc những kẻ làm án kia còn sống, thời
gian và hoàn cảnh trong quá trình tiến hoá, sẽ lôi họ ra khỏi những giấc mơ trì
độn và họ sẽ phải tự đấm ngực sám hối. Nhưng tôi nghĩ là ông đến đây hôm nay
không phải để nói những chuyện đó, mà tôi cũng chẳng có hứng thú để nói đến. Vậy
xin ông cho biết lý do của cuộc viếng thăm.
- Tôi được lệnh đến xem ông đã ra làm sao và giá cả những món
ông muốn bán.
- Thật vậy, Đảng có tai mắt khắp nơi, không để cái gì vuột khỏi
tầm mắt. Nhưng tôi nghĩ là những báo cáo của công an cũng đã cung cấp đầy đủ
tin tức về con người khiêm tốn của tôi. Không, vẫn chưa đăng cáo phó tôi chết,
cũng chưa phải lúc, nhưng cũng sắp thôi. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn sự rộng
lượng và lòng cao thượng của Đảng đã chưa đưa tôi lên máy chém hay ra đứng trước
trụ xử bắn. Đó có thể là điều tốt đã dành cho tôi. Cám ơn Đảng đã quan tâm muốn
biết tin về tôi. Những món đồ đem ra bán là những cái gì cuối cùng mà chúng tôi
có, và đó cũng là tấm ván cứu hộ cuối cùng cho gia đình chúng tôi. Tôi hy vọng
là chúng có thể bảo đảm cho chúng tôi sống còn khoảng hơn chục năm nữa.
- Hơn chục năm? Ông định dòi giá bao nhiêu vậy?
- Trước khi trả lời câu hỏi của ông, cho phép tôi được hỏi ông,
lãnh đạo định mua lại đồ đạc của tôi để dùng vào chuyện gì vậy?
- Ồ… Chuyện đó thì tôi chưa thể nói được, chưa thể nói là sẽ đem
những của này đi về nơi nào. Nhưng tôi nghĩ là hiện nay các quan hệ ngoại giao
đang lớn mạnh, chắc cũng dễ kiếm chỗ để những món ấy trong các phòng tiếp tân
hay đại sảnh.
Tôi vừa kiếm ra câu thần chú cho điều bí ẩn. Thực tế là, chuyện
mua đồ chỉ là một cái cớ cho cuộc thăm viếng bất ngờ của một tay cớm để vào nhà
một kẻ đang bị một án chết đang treo. Tôi nghĩ rằng giới quyền cao chức trọng
đã xem tôi như một kẻ không thể cứu được nữa và như dân gian thường nói, là tại
sao phải nuôi ong tay áo! Người ta không muốn giết tôi vì không muốn khuấy lên
những xúc động của giới trí thức và những khối nhân dân khác. Nhưng người ta
cũng mong tôi chết đi để tránh cho Đảng phải chịu những phiền phức do ngòi bút
và tiếng nói của tôi. Vì thế, biết được thâm ý của Đảng, tôi dễ dàng tìm ra câu
trả lời để nói cho kẻ thay mặt họ:
- Tôi muốn yêu cầu ông khi về lại, nhân danh tôi mà cám ơn các
quan chức đã gửi ông đến gặp tôi. Tôi sẽ rất cảm kích nếu ông nói dùm với họ là
tôi sẽ biết ơn họ đến chết về những việc mà họ đã làm cho tôi. Dù đang nắm sinh
mạng tôi trong tay, họ vẫn không kết án chết vì cái “tội ác” của tôi, nhưng họ,
vì công lý và nhân đạo, đã chọn kết án tôi cả đời. Một đời dở sống dở chết, hấp
hối và cuối cùng cũng hết đời. Nếu bây giờ các ông ấy thấy đồ đạc tôi cũng gọi
là xem được thì họ cứ lấy chúng đi, như họ đã lấy ba căn nhà thừa tự mà tôi đã
hiến cho nhân dân. Nếu họ không muốn mang tiếng là mang gương mặt của kẻ cướp
thì họ trả cho tôi bao nhiêu cũng được. Như vậy là tôi cống hiến tất cả những
gì tôi có như là một người cộng sản chân chính.
Tôi đã không lầm. Tôi không còn gặp lại anh chàng vô tích sự đó,
và sau đó cũng không có người nào như bọn đó đến nhà. Chỉ với ý nghĩ là Đảng
cho người đến mua rẻ đồ đạc của một người mà họ kết án sống trong sự đói cũng đủ
làm tôi không thể nén mình để bật ra những tràn cười ha hả… Người ta có thể phiền
trách những lỗi lầm của Đảng, nhưng với cái thâm hiểm như thế. Không là không!
Một thời gian sau đó, bỗng dưng có một người ăn mặc trang trọng,
com lê cà vạt hẳn hoi, đến gõ cửa nhà tôi. Thời buổi này mà ăn diện thế thì hoạ
là mấy anh Việt kiều thôi. Tại sao? Thời ấy chỉ có những người nước ngoài và những
người trong ngành ngoại giao có việc qua Hà Nội mới không phải mặc những đồng
phục cộng sản. Nhưng khi nhà ngoại giao xong công tác ở nước ngoài về, trở lại
vai trò công chức của bộ Ngoại Giao, họ phải cải đạo về lại với cái tôn giáo của
áo đại cán và đôi dép râu, như thế chỉ có Việt kiều là đóng bộ, cà vạt.
Người khách Việt Nam của tôi tự giới thiệu là một doanh gia đang
có ý định mở một khách sạn cao cấp tại Hà Nội dành cho du khách quốc tế. Chỉ cần
nhìn là có thể biết ngay ông khách từ nước nào đến và thuộc giới người nào. Ông
ta có một khổ người cao lớn so với người Việt trong nước với một làn da sáng của
những người sống ở các nước ôn đới mà nắng không làm đen da, khuôn mặt nhẵn nhụi,
vầng trán rộng, cao dưới một mái tóc chải chuốt cẩn thận thoáng một mùi nước
hoa kín đáo thơm phức. Sau cái gọng kính vàng, đôi mắt ông ta nhìn kẻ đối thoại
như muốn tìm sâu những ý nghĩ của họ. Với giọng nói chững chạc rõ từng chữ từng
âm như để tránh những lỡ lầm của đầu lưỡi có thể làm lộ ra những ý định đằng
sau của mình nhưng cũng đủ để cho thấy sự nghiêm chỉnh trong lời nói và sự
trình bày. Nhưng nụ cười ông ta thì rất thân thiện, mời đón dễ gây thiện cảm và
dường như có thể tạo nên một cuộc trao đổi chân thành và thông cảm. Ông ta tự
giới thiệu:
- Tôi đã ra khỏi nước từ ba mươi năm trước và đã lập nghiệp ở Mỹ,
mở một công ty nhập khẩu và vận tải biển với một đội thương thuyền nhỏ. Ở nhà
tôi chưa bao giờ bỏ qua bất cứ chương trình truyền hình phát thanh nào bằng tiếng
Việt hay tiếng Anh về Việt Nam. Tôi có nhiều liên lạc với ngưới Việt ở các nước
như Pháp, Canada, Anh Quốc, Úc, Đức và dĩ nhiên là cả ở Mỹ. Tôi không phải là cộng
sản, nhưng tôi cố tìm hiểu cái ý thức hệ đó, nhưng sẽ không bao giờ ngần ngại
giúp sức nếu những việc làm của họ chừng nào họ còn làm vì yêu nước chứ không
phải vì chủ nghĩa. Chúng tôi, những người Việt sống ở nước ngoài không bao giờ
ngần ngại nói thẳng: cho dù là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay bất cứ
thứ chủ nghĩa nào mà đem lại hạnh phúc cho nhân dân, kiếm cách làm cho dân tộc
bớt nghèo, bớt khổ thi chúng tôi sẵn sàng đóng góp, đặc biệt là những giúp đỡ
nhân đạo như trường hợp nạn đói hay lụt lội chẳng hạn. Chúng tôi dạy con nói Việt,
giáo dục chúng những phong tục tập quán của quê nhà và chúng tôi cảm thấy hạnh
phúc được thấy thế hệ sau rất xứng đáng với sự chờ đợi của chúng tôi, thấy
chúng vinh dự mang tên Việt và có tổ quốc Việt Nam.
- Chúng tôi được thông tin về những gì quí ông bà mang lại cho
dân tộc và đất nước. Đặc biệt là ở những vùng thường bị thiên tai, dân ở đó
không ngần ngại nói rõ là gạo cứu đói không phải đến từ Chính Phủ mà đến từ những
tấm lòng yêu nước thương dân của nhân dân trong nước và hơn nữa từ những người ở
nước ngoài.
- Chúng tôi hạnh phúc vì chuyện ấy. Cái truyền thống đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau của những người cùng chung một mẹ, không phải mới có đây mà có
tận thời bà Âu Cơ. Chúng tôi có một điều thấy tiếc về vấn đề này, nếu chúng tôi
có thể nói được, đó là sự hiểu lầm giữa Nhà Nước và chúng tôi. Trong mấy chục
năm, họ chỉ chúng tôi bằng đủ thứ tên gọi, đổ đống lên chúng tôi đủ thứ nhục mạ
ti tiện, cho chúng tôi là những kẻ phản quốc. Khi chính trị che mờ lý lẽ, chúng
tôi chấp nhận chuyện đó. Nhưng từ đó mà quay lưng với cả khối đáng kể người Việt
ở nước ngoài với rất nhiều người thành đạt, đầy khả năng về khoa học, kỹ thuật,
là những quản trị viên trong mọi ngành kinh tế, đặc biệt là những người có khả
năng tài chánh lớn có thể góp phần xây dựng tổ quốc. Đó là một điều bệnh hoạn,
một điều khùng điên không thể tha thứ được. Nếu những người muốn giúp Việt Nam
đang phàn nàn về chuyện đó thì những kẻ chống lại vỗ tay hoan nghênh là Việt
Nam đang tự mình cắt bỏ những đóng góp giúp đỡ của những đứa con của mình, như
vậy sẽ làm cộng sản tan rã nhanh hơn.
- Thật đúng lúc để nhớ lại một câu nói dân gian là Jupiter làm
mù mắt những kẻ mà nó muốn bị thua. Nhưng hiện nay chính phủ đang chăm chút Việt
Kiều, đề cao lòng yêu nước của họ!
- Nhiều người trong chúng tôi đã phì cười về chuyện đó. Tiền làm
thay đổi bộ mặt của thói đời và tấm lòng con người. Có lẽ ngưởi ta nên cám ơn
mãnh lực của đồng đô la làm nên phép lạ đã làm biến hình, tẩy trắng khuôn mặt
đen quỷ dữ của Sa Tăng biến chúng thành thiên thần của Thiên Đàng. Nhưng tôi thấy
có một sự kiện mà tôi cho rằng có ý nghĩa. Có một số người trong chúng tôi đã dấn
thân vào một cuộc đấu tranh bền bỉ cho nhân quyền ở Việt Nam. Lời nguyền rủa mà
những người cộng sản đã tung ra ào ạt chẳng chúng minh gì khác ngoài cái hận
thù tàn bạo mà họ có đối với nhân quyền: họ đứng về phía phi nghĩa và một thiểu
số độc tài. Họ ngoan cố không chịu thấy sự thực là chuyện bảo vệ nhân quyền
không có gì là phản quốc hay phản nhân dân cả. Kẻ nào trộn lẫn hai thứ đó vào
nhau sẽ bị nhân loại đào thải. Họ là những kẻ đáng thương tội nghiệp hơn là
đáng sợ. Sớm hay muộn, giờ trừng trị cũng sẽ đến.
Nhưng chính cái bệnh ấu trĩ của người cộng sản mới làm tôi kinh
hoàng. Với tất cả những quyến rũ của chủ nghĩa tư bản, người ta lại kéo kinh tế
thị trường, luật cung cầu, lý thuyết về giá cả, kinh tế tự do gộp chung lại và
gọi đó là kinh tế năm thành phần, lợi nhuận, etc… rồi người ta dán lên đó cái
nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa, và thế là trò chơi đã sẵn sàng: người ta đã có thể
giương cao cái cựa và ném ra tiềng gáy cúc cu của chủ nghĩa xã hội… Người ta đã
khởi sự dân chủ từ lâu nay, nhưng vì chê bai chủ nghĩa tư bản nên người ta lại
phải trang điểm thêm cho dân chủ một tính từ “xã hội chủ nghĩa”. Và giờ đây thì
sự loạn ngôn đầy náo nhiệt: khẩu hiệu được tung ra, kêu gào đó là Đổi Mới,
nhưng chẳng có gì thay đổi: tham nhũng, hối lộ càng ngày càng toả rộng vùng bị
nhiễm, không có một ông trùm nào bị đưa ra Toà hay bị những bản án nhục nhã và
tệ hại hơn nữa là người ta đã sắp xếp cho kẻ phạm những tội quy mô đào thoát ra
nước ngoài, hay nhắm mắt làm ngơ cho họ di dân đến nước khác để tránh những cuộc
điều tra hình sự, trước dự thẩm hay trước Toà, để không làm liên luỵ tới những
vị chúa tể và khỏi gây ra những phẩn nộ có thể hiểu được của công luận. Trong
khi chờ đợi, những kẻ hút máu của nhân dân đã cất giấu an toàn những tài sản trộm
cắp được, và sau một thời gian bị lưu giữ hoàn toàn hình thức dưới một thứ tù
giam mà chúng có thể sống một cuộc sống xa hoa, họ có thể được giảm án, tha tội
và được trả lại tự do để trở về sống yên bình, được tôn kính để tận hưởng thành
quả của tội ác trước đây. Việc kiếm ra giải thích cho hiện tượng này là rất dễ
dàng: cộng sản không cho rằng những tội hình sự mà các đồng chí của họ phạm là
phải bị đem ra bêu thây và bị trừng phạt nghiêm khắc. Thật vậy, nếu thanh danh
Đảng bị giảm và bị ô nhục thì niềm tin của nhân dân vào Đảng cũng mất đi, điều
đó chẳng phải là vì do kẻ thù mà là do chính kẻ nằm trong ruột Đảng. Từ khi tôi
vào Việt Nam, nhiều người bạn của tôi cho biết những tin tức đó, dù là những
tin có thể làm lương tâm nổi loạn, đều là điều có thật. Những kẻ bị các lãnh đạo
hận thù và bị kết án với những cái chết đầy bí ẩn là những kẻ thù chính trị đã
đi sai “đường lối” của Đảng và nhất là những kẻ muốn bứng họ ra khỏi những chức
vụ lãnh đạo cao nhất. Thật vậy, đó là những cuộc đấu đá dơ bẩn để dành quyền lực
được che đậy dưới cái áo khoác đỏ của chính trị. Nhưng cái gì kinh hoàng và
không thể tưởng tượng được là ở trong cũng như ngoài Đảng, có những trí thức nổi
tiếng đạo đức mà ai cũng kính phục lại tham gia vào cuộc chơi, chấp nhận lời biện
minh của Đảng, đưa cao quả đấm lên trời, bước đi trong hàng ngủ của Đảng, vừa
gào to những khẩu hiệu giả dối. Ở đây phải công nhận là nền giáo dục cộng sản
là thành công, họ thuyết phục được những người, dường như đầu óc vẫn còn minh mẫn
nhưng lại không tin vào những gì mắt thấy, tai nghe mà ngược lại còn tôn xưng
những tôn chỉ của Đảng, để tăng thêm niềm tin vào những gì Đảng quyết định và
ra lệnh như là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật và là nhà tiên tri Phúc Âm
Marxist-Leninist. Loại cuồng tín biến sự đa dạng thành rô bốt, biến con người
thành những cỗ máy chỉ biết cử động khi có lệnh đến từ bên ngoài thật sự làm những
cái đầu biết suy nghĩ lo ngại.
- Tôi thấy chỉ có một phương thuốc duy nhất là cái văn hoá trí
thức làm phát triển lý tính, gìn giữ tinh thần phê phán, rèn luyện năng lực
phán đoán, rao giảng sự thật và khách quan, cỗ võ cho sự trong sáng và chính
xác trong việc quan sát và thấu hiểu các hiện tượng, tính logic trong lý luận
và nhất là biết hoài nghi đố với những anh Don Quichotte vừa cưỡi ngựa vừa tung
ra những lời khoe khoang khoác lác chẳng những không thuyết phục được ai mà còn
tỏ ra ngây thơ, dốt và ngu xuẩn! Chính nhờ nền văn hoá của Pháp được hưởng ích
lợi mỗi ngày đã giúp tôi giữ được, chăm sóc và phát triển con người của tôi giữa
cuộc sống bị xói mòn bởi chủ nghĩa hình thức và thân phận nô lệ.
- Cái ý thức phê phán và chủ nghĩa hoài nghi thì ít phát triển ở
những nước nói tiếng Anh, như nơi tôi đang sinh sống, nhưng đầu óc thực tế và
chủ nghĩa thực dụng lại giúp chúng tôi tự giữ mình không tuột trên con giốc của
sai lầm bởi những định kiến và chủ nghĩa theo thời mà đập mình vào khối đá của
quyền lợi mà tan vỡ. Cũng vậy, những gì tôi thấy ở Việt Nam làm tôi thật sự
kinh hoàng. Trong những lần đi thăm nhiều nơi trong nước, đặc biệt là ở những
vùng phía Bắc, tôi vẫn không thể hiểu được sự chịu đựng của giai cấp nông dân
phải sống cảnh nghèo hèn đau khổ mà chưa bao giờ thấy họ vùng lên phản kháng,
cũng không thấy họ kiếm cách tìm hiểu nguyên do hay thuốc trị. Khi tôi rời nước
ra đi ba mươi năm trước, người ta lúc ấy rất hiếu động, năng động và luôn dám
chế diễu những kẻ đang cầm quyền chứng tỏ là cái đầu của dân chúng vẫn tốt và vẫn
biết cái gì là hợp tình hợp lý. Cái năng động càng làm cho dân chúng thêm tức
giận khi phải đối mặt với cái nghèo, cái bất công. Ngọn lửa năm xưa đẩy quần
chúng nổi dậy làm Cách Mạng Tháng Tám đã tàn lụi nơi nào rồi? Tại sao giờ đây họ
trở nên như chết rồi không còn sinh khí, bất động trong sự thờ ơ? Tại sao họ lại
chịu đựng ngồi khóc một cách thụ động hay có thể đang khóc vì tuyệt vọng như thế?
Họ không còn tin mình còn sức gì trong trí óc và hai cánh tay nữa sao? Họ, những
người đã viết nên những trang sử rực rỡ.
Tôi không thể thấy cái gì ngao ngán hơn là cảnh tượng sáu mươi
triệu người đang trôi dật dờ không chút nghị lực như những xác người trên biển
cả. Họ đã bị lừa bịp, phỉnh gạt, phản bội và điều không thể hiểu được là người
ta chỉ biết kêu than đói khổ trong khi tài nguyên thiên nhiên thì đầy dẫy và
đang chờ khai thác. Những quan hệ làm ăn khiến tôi phải đi qua các nuớc như
Thái Lan, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai Á. Ba mươi năm trước đâu có nước
nào trong nhóm đó dám nói rằng dân tộc họ là hơn dân tộc Việt Nam? Có phải
chăng họ cũng bắt đầu từ nghèo khó, có cùng những điều kiện kinh tế, xã hội,
tinh thần, cũng phải trải qua những mâu thuẫn, những xung đột tương tự? Thế mà
ngày nay thì họ được hưởng mức sống cao hơn, hưởng thụ những tiện nghi tối thiểu
về nhà ở, nhiều tự do hơn trong cuộc sống và nhiều nụ cười lạc quan hơn trên
khuôn mặt. Tại sao cái sung túc tối thiểu làm cho cuộc sống trở nên hiện hửu và
có ý nghĩa, dân mình, một dân tộc chưa bao giờ nhường bước cho bất cứ nước láng
giềng nào trên bất cứ khía cạnh nào, vẫn chưa có? Điều quan trọng cho mỗi người
trong chúng ta ở Việt Nam là cần phải đặt câu hỏi và kiếm ra giải pháp, dẫu sao
cũng nằm trong tầm tay mà thôi.
- Tôi thật phục ông đã có những nhận xét xác đáng và những lý luận
có chất lượng của ông. Tôi thấy rõ là ông đã lấy cảm hứng từ một tình yêu chân
thành và nóng bỏng cho dân tộc mà ông là một thành viên. Nhưng tôi thì không
chia sẻ với ông cái lạc quan mà ông ước tính rằng giải pháp là nằm trong tầm
tay. Theo quan điểm riêng của tôi, vấn đề chính yếu là việc giáo dục các tầng lớp
quần chúng. Giáo dục phải dạy về những giá trị mà lòng trung thực và sự biết
tôn trọng. Con người sẽ trở nên loại người gì mà Trường học muốn tạo như thế
đó. Thứ giáo dục theo kiểu Spartan [4] chỉ để dành cho việc đào tạo ra những
người lính, đẩy tuổi trẻ vào những cối xay người đen tối, và những bài tập quân
sự. Nhưng giáo dục chỉ có thể vận hành có hiệu xuất và cống hiến những kết quả
tích cực nếu có toàn xã hội cùng góp sức với nó. Những giá trị bồi đắp cho tuổi
trẻ chỉ có ý nghĩa và hiệu quả nếu toàn nước, bất kỳ nơi đâu, nhân dân đều tán
dương và vinh danh chúng. Trong thời phong kiến, người dân được dạy và buộc phải
tuân thủ những điều răn của Tàu và tuân phục cả những người thầy đã tuyên dạy
chúng. Một kẻ nông dân thất học, nếu có nhặt được một mẩu giấy có chữ viết những
điều răn trên đó thì hắn ta cũng ném vào lửa. Trong bậc thang xã hội, người thầy
được đặt trên cao hơn cả người cha. Nếu chuyện là vậy là vì cha là đấng sinh
thành và thầy có công dạy dỗ nên người. Nên người, đó là cái mục đích duy nhất
và tối hậu của giáo dục. Vì vậy, muốn được xứng đáng mang danh “nên người” là
con người phải được tô điểm bằng những đạo đức, chỉ riêng chúng, đã nâng cao và
tán dương nhân tính của con người. Trường học dạy nguyên tắc, đạo đức ứng dụng
nó trong gia đình và ngoài xã hôi. Chế độ quân chủ ngày xưa bổ nhiệm những nhà
nho, nhất là những người thi đỗ những kỳ thi Hương, ba năm tổ chức một lần, vào
những chức vụ cao nhất của triều đình. Tên những người đỗ Tiến Sĩ được khắc
trên bia đá, các làng không ngừng hãnh diện đã có con em đỗ đạt ra làm quan,
trong số đó có những người đã làm điều tốt lành cho đồng bào nên lúc chết đã được
dân làng tôn lên thành Thành Hoàng của làng và xây đình thờ phượng. Văn chương,
bằng chữ viết hay truyền khẩu, đều đưa ra những tấm gương phải theo của những
ông quan thanh liêm và trung chính với Vua và nhân dân, và đả kích không chút
thương xót những ông quan leo được lên những nấc thang cao của vinh quang duy
nhất nhờ những thủ đoạn nô lệ và hạ cấp. Trong một xã hội như thế, sự vô đạo đức
là khó xen vào để kiếm chỗ. Quần chúng nhân dân không cần phải lên tiếng đòi hỏi
trừng phạt những kẻ lạm dụng chức quyền hay ăn hối lộ. Cơn thuỷ triều đen của sự
vô đạo đức không thể ngập trùm cả xã hội, cả nước được.
Cái khác biệt cơ bản và sâu sắc giữa xã hội ngày xưa và xã hội
ngày nay là mục tiêu của giáo dục đã thay đổi. Ngày xưa người ta tôn vinh con
người và đạo đức. Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản và cái chính trị quốc tế chủ
nghĩa của nó thì được ca tụng bằng trời. Khi cái giá trị chính trị nó đánh bật
cái giá trị trí thức và đạo đức, đó là cả một cuộc cách mạng, những thành viên
của Đảng không nghi ngờ điều đó. Họ không ngừng kêu gào hai tiếng “Đổi Mới”
nhưng khẩu hiệu không thể thay cho hành động; sự xuống cấp của con người và đạo
đức đã tiếp bước đi theo hay đi cùng với sự sụp đổ của kinh tế, làm nặng thêm
cái nghèo và cái khổ đau của nhân dân.
- Tôi đã thấy ngay điều đó khi tôi vừa ra khỏi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nhiều nhà trí thức phải đi đạp xích lô, trong khi những nhà chính trị lại chễm chệ ô tô. Trong khi những trí thức phải đi rửa xe máy, sửa xe đạp cạnh lề đường hay bán rau ở các cửa chợ thì các quan lãnh đạo đang thoải mái trong các biệt thự sang trọng với cái thân thể ngày càng đẫy đà qua những lần yến tiệc chiêu đãi sự hiện diện của họ. Trong khi người trí thức phải quần quật nghèo khổ thì các quan quyền cùng với vợ con vẫn chưa thoả mãn cuộc sống nhung lụa vẫn tiếp tục vơ vét vàng và đô la đem gửi ngân hàng Thuỵ Sĩ. Trong khi đó các kho bạc của Nhà Nước không còn tiền mặt, nhân viên bị sa thải, những người còn ở lại thì được phép ra ngoài buôn bán, kể cả ngay trên mặt bằng của cơ quan và được phép nhận những số tiền thù lao lớn nếu xoay sở mang hợp đồng về cho cơ quan chủ quản của họ. Cánh cửa được mở rộng cho thứ chợ đen nhà nước, gian lận thuế, ăn cắp những số tiền đáng kể của nhà nước thông qua những vụ nâng giá bất hợp pháp để được hưởng những khoản tiền hoa hồng. Không có một đất nước nào mà ở đó nhà nước trực tiếp khuyến khích sự phạm tội như thế!
- Tôi đã thấy ngay điều đó khi tôi vừa ra khỏi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nhiều nhà trí thức phải đi đạp xích lô, trong khi những nhà chính trị lại chễm chệ ô tô. Trong khi những trí thức phải đi rửa xe máy, sửa xe đạp cạnh lề đường hay bán rau ở các cửa chợ thì các quan lãnh đạo đang thoải mái trong các biệt thự sang trọng với cái thân thể ngày càng đẫy đà qua những lần yến tiệc chiêu đãi sự hiện diện của họ. Trong khi người trí thức phải quần quật nghèo khổ thì các quan quyền cùng với vợ con vẫn chưa thoả mãn cuộc sống nhung lụa vẫn tiếp tục vơ vét vàng và đô la đem gửi ngân hàng Thuỵ Sĩ. Trong khi đó các kho bạc của Nhà Nước không còn tiền mặt, nhân viên bị sa thải, những người còn ở lại thì được phép ra ngoài buôn bán, kể cả ngay trên mặt bằng của cơ quan và được phép nhận những số tiền thù lao lớn nếu xoay sở mang hợp đồng về cho cơ quan chủ quản của họ. Cánh cửa được mở rộng cho thứ chợ đen nhà nước, gian lận thuế, ăn cắp những số tiền đáng kể của nhà nước thông qua những vụ nâng giá bất hợp pháp để được hưởng những khoản tiền hoa hồng. Không có một đất nước nào mà ở đó nhà nước trực tiếp khuyến khích sự phạm tội như thế!
- Cái vấn đề cốt yếu, cơ bản và cấp bách nhất là phải thay đổi
con người, cái cỗ máy chính cho mọi hoạt động của xã hội, phải đề nghị cho Giáo
Dục tự giao phó cho mình cái mục tiêu cao nhất: con người có văn hoá và đạo đức.
Dĩ nhiên chuyện làm nên con người có văn hoá và đạo đức cũng phải thích ứng với
đà tiến bộ hiện đại của khoa học kỹ thuật: nó không thể dừng lại sơ cứng với những
giá trị Khổng giáo. Thật là nực cười là trong thời đại nguyên tử, điện tử và
chinh phục không gian mà con người lại không quan tâm đến thành quả của khoa học.
Nhưng khoa học chỉ dạy con người một cách sâu rộng về thế giới của vật chất. Nếu
nó trang bị cho con người một thiết bị trí thức hàng đầu, một phương pháp suy
nghĩ hợp lý, trên cơ sở kép của sự quy nạp và loại suy, nó chẳng giúp được gì
trong việc khảo sát thế giới của đạo đức, việc tìm hiểu những chuyển động của
linh hồn, trong chuyện giải trình những lý do của con tim hay tìm cách giải
thích về sự hình thành, phát triển và huỷ diệt. Tới đây là lúc Văn Chương vào
cuộc và chứng minh khả năng của nó. Văn hoá của một con người hiện đại được xây
dựng và triễn khai trên cả hai khung trời khoa học và văn học. Từ đó, đạo đức của
con người hiện đại sẽ thích nghi với những đòi hỏi của xã hội mới. Con người
không còn đâm chém giết nhau, người ta không còn đòi người chiến sĩ phải là người
can đảm, hy sinh và độ lượng dũng cảm, trên chiến trường người ta không còn
thách đố với Thần Chết để bảo vệ cho đấng Thần Linh của mình hay cho người tình
yêu dấu! Không, con người hiện đại tự chứng minh mình qua cái nhìn trong sáng
và công bằng, bởi khả năng tiên liệu về những gì sắp xảy ngày mai, bởi khả nắng
phán đoán chính xác về đối thủ và thời cơ, bởi sự bền gan chấp nhận những thất
bại trong ngắn hạn để đạt đến những thắng lợi lớn trong tương lai. Họ có được
những đức tính này qua những kinh nghiệm của cuộc sống, qua những đấu tranh và
cũng nhờ ở văn học. Nhưng những đạo đức có tính quyết định nhiều nhất là tính
trung thực, lòng lương thiện, công bằng, trọng danh dự và có lòng tự trọng,
nhân đạo và rộng lượng.
- Tôi đồng ý với ông hoàn toàn. Nhưng con người có văn hoá và đạo
đức là một lý tưởng lâu dài và khó khăn mới có được. Cái khó khăn chính là sự
chống đối mãnh liệt của Nhà Nước không muốn thay thế con người lý tưởng của họ.
Mặc dù, chỉ cần một tí thông minh và cởi mở là đủ để hiểu rằng con người lý tưởng
cộng sản quốc tế vô sản là đã chấm dứt và sẽ được đưa vào bảo tàng viện những
người bằng sáp của Grevin về Lịch Sử các Hiệp Sĩ Thời Trung Cổ. Nếu họ còn bám
víu vào nó, không phải vì cái tự ái của các đấng sinh thành mà là do cái lợi
ích đầy ích kỷ đang bị nguy hiểm của Đảng đang muốn được sống còn. Để đạt cái mục
đích này, họ tung ra những khẩu hiệu “Đổi Mới”. Nhưng trong nước, bất kỳ nơi
nào tôi đến, chỉ nghe nhân dân bàn tán về chuyện tham nhũng của giới cán bộ
công nhân viên, mà hầu hết những kẻ này là người của Đảng. Đơn thuần là những
quan chức nào đó được nắm những chức vụ cao và chịu những nhiệm vụ lớn thì dễ
dàng thu vén đầy túi. Nhân dân đòi hỏi phải trừng phạt chúng, Đảng từng tuyên bố
chống tham nhũng, nhưng cho đến nay, chỉ có vài tép riu du côn là bị trừng trị,
nhưng đó chỉ là những kẻ phạm tội có tính riêng rẽ và cá biệt chẳng có gì liên
hệ để làm hại cho các ông trùm. Thật là một điều sai lầm khi tránh không trừng
phạt hay tránh né quá lâu trong việc trừng phạt các người phạm tội có tầm cỡ.
Trừng phạt hay không trừng phại Đảng đều mất uy tín. Trong việc cơ cấu lại nền
kinh tế, Đảng càng tự làm mình mất uy tín hơn nữa nếu cứ dừng ở những giải pháp
nữa chừng, trì hoãn thực hiện, và những gì làm người ta kinh hoàng khi thấy Nhà
Nước luôn gắn thêm cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” vào những gì thật ra là luôn
luôn thuộc về chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu đó là những gì thuộc chủ nghĩa xã hội,
tại sao phải chờ nền kinh tế bị sụp đổ mới đưa chúng ra áp dụng? Nếu nó không
phải là phát minh của chủ nghĩa xã hội, việc tiếm đoạt tài sản của người khác
là một việc làm bất lương, nhất là sau khi đã kéo chủ nghĩa tư bản vào bùn đen
trong nhiều thập niên? Thật vậy, việc đánh lận con đen có thể giải thích được:
bị dồn vào thế thất bại không thể tránh khỏi, cộng thêm cái lo sợ bị mất mặt, họ
đã chọn trở thành trò cười cho thiên hạ. Đó là một sự sai lầm. Ở đây, hay bất cứ
ở đâu, sự chân thành thẳng thắn là bắt buộc. Chẳng thắng được gì nếu cứ lừa bịp
người chơi với những hột xúc sắc đã được gian lận. Chẳng những chứng tỏ mình là
vô tích sự mà còn làm cho danh dự của mình bị nhơ bẩn. Có gì phải xấu hổ khi nhận
mình sai lầm nếu bài học rút tỉa sẽ mang lại những điều kiện thuận lợi cho một
thành công trong lần thử sức mới?
- Thế thì ý ông thế nào?
- Tôi trở về đây để nhìn lại đất nước, nhưng tôi có nhiều bạn bè
đang chờ ý kiến của tôi trước khi có thể vào đầu tư ở Việt Nam. Những gì tôi có
dịp nhìn thấy không khuyến khích tôi tiến hành được chuyện gì. Tôi phải nói với
ông là thị trường Việt Nam là hấp dẫn: tài nguyên đầy dẫy và chưa được khai
thác, nhân công dồi dào, nhưng viễn thông và đường xá thì rất tệ, nhân viên hải
quan thì quá tỉ mỉ soi mói, cảnh sát công an thì gây phiền hà. Luật Pháp, mặc
dù gần đây đã có nhiều thay đổi, vẫn chưa đầy đủ và nhất là chính phủ dù đã cố
nguỵ trang một cách vô ích, dưới lớp dầy của phấn son, cái màu đỏ vẫn còn đậm
nét trên da mặt. Họ vẫn cố chấp trong việc độc quyền chính trị, phe lờ dân chủ,
không chấp nhận nhân quyền, xem thường và đối xử tệ bạc với trí thức. Có ông
nhà báo người Pháp, người đã viết bài ca tụng dân tộc Việt Nam thời chiến thắng
Điện Biên Phủ, vừa rồi có quay lại Việt Nam đã viết: giờ đây sự ngu dốt và bất
tài đã được dối trá và ích kỷ xông vào nhập cuộc. Kết luận: phải chờ thôi.
- Chờ đợi! Ông chờ và chúng tôi cũng vậy. Tất cả, chúng ta đều
chờ những ngày tốt đẹp hơn cho Việt Nam.
- Sự chờ đợi có thể là lâu, nhưng ít nhất chúng ta cảm thấy điều
đó sẽ xảy ra. Ở đây, trong tôi cứ xen kẽ hai tâm trạng: chờ đợi và thất vọng.
Tôi hy vọng khi nghĩ tới tiềm năng phong phú về thiên nhiên và con người của Việt
Nam. Nhưng tôi lại thất vọng khi vẫn là chứng nhân cho cái nghèo kinh hoàng mà
nhân dân phải gánh chịu vẫn còn tồn tại, nhất là ở những vùng nông thôn. Dĩ
nhiên, bây giờ có nhiều nhà ngói hơn xưa, nhưng than ôi không phải ai cũng được
thoải mái, ngay nhiều nơi ở miền Trung dân vẫn còn kham khổ vì thiếu thốn và bị
đói. Không thể chấp nhận được! Tôi thấy lòng mình dấy lên niềm hy vọng khi nhà
nước và nhân dân cùng gào lên “Đổi Mới” và nhất là khi khi Đảng tham khảo ý kiến
của nhân dân để xem nên cải cách thế nào. Nhưng tôi thật thất vọng vì chỉ thấy
những quan điểm chính thức thì được hoan nghênh trong khi những quan điểm không
chính thống khác thì bị đẩy lên giàn bêu thây trong khi chờ đợi những trừng phạt
nghiêm khắc sẽ đến. Tôi đã hy vọng vào những cuộc tham khảo ý kiến trong nội bộ
Đảng nhưng tôi đâm ra thất vọng khi thấy trên Ti Vi những đảng viên với một sự
nhất trí, hơn cả sự tự nhiên, tung hô niềm tin vào Đảng cũng như Đảng dâng trọn
niềm tin vào chủ nghĩa Marx-Lenin. Tôi tự hỏi, giữa hai niềm tin đó, còn niềm
tin nào dành cho dân tộc và việc cải thiện cuộc sống của họ? Và nhất là tôi cảm
thấy như mình bị hụt hẫng sai lệch khi nghe lãnh đạo Đảng bênh vực cho kinh tế
thị trường là nền kinh tế chỉ có ý nghĩa trong chủ nghĩa tự do. Tôi đã hy vọng
khi nghe Đảng công bố rằng dân chủ đã ngự trị, nhân quyền được tôn trọng, và
tôi đã thất vọng khi biết được là có hàng ngàn trí thức đã hô hào cho dân chủ
và đã nói ra một cách tự do những ý kiến của mình giờ đây đang ngồi suy nghĩ
sau cánh cửa nhà tù để hiểu xem họ hay lãnh đạo ai là kẻ đúng lý. Tôi đã hy vọng
khi thấy các nước Đông Âu đã quét sạch cộng sản và bọn lãnh đạo nó, thì tôi lại
càng thất vọng khi thấy dường như Việt Nam vẫn còn là thành trì chót của chủ
nghĩa cộng sản và vẫn còn đang nhắm mắt bịt tai đối với những gì đang xảy ra
trên thế giới. Tôi đã hy vọng khi nhìn thấy nhiều sinh viên Việt Nam thắng nhiều
giải trong các cuộc tranh tài thế giới. Nhưng tôi lại càng thất vọng khi thấy
nhiều trí thức bị đẩy ra rìa xã hội, bị vào thế phải cực khổ làm những công việc
chân tay thấp kém để khỏi phải bị chết đói trong khi những cán bộ có chức có
quyền lại ung dung thoải mái trên các chiếc ô tô đắt tiền và gửi con cái đi “du
học” nước ngoài và một ngày nào đó sẽ quay về Việt Nam để thay chỗ, thay quyền
cho họ trong những chức vụ cao. Tôi chỉ kể ra một số sự kiện đã làm tôi kinh ngạc
và dám thách bất cứ ai có thể chứng minh điều ngược lại. Có thể làm gì để chữa
tình trạng thê thảm này không?
- Những việc mà ông vừa nêu ra không phải là do ông tưởng tượng
đâu. Chúng tôi ở trong nước đã đau khổ nhiều vì những điều đó nhưng không bao
giờ dám ám chỉ đến vì chỉ cần la lên chuyện thần thoại Midas có lỗ tai lừa là
đã bị gán ghép thành tội phạm. Chỉ có những kẻ cơ hội chủ nghĩa đang thèm khát
danh vọng và lợi lộc là sẵn sàng sang sảng ở bất cứ góc đường nào để vinh danh
mụ Messalina ngoại tình kia là người đàn bà trung trinh nhất thế gian. Giới
lãnh đạo luôn luôn hô hào như người ta thường nói là chớ bao giờ vạch áo cho người
xem lưng. Mặc dù thế tôi vẫn không đi đến chỗ cực đoan là đòi phải loại bỏ tất
cả những người cộng sản. Một cái đầu biết suy nghĩ rất kinh sợ cho những điều
“mới mẻ” có thể gây ra những xáo trộn nặng nề cho xã hội, gây tác hại trên quyền
lợi của người và của. Tôi cũng sẽ làm như người đàn bà hàng ngày chăm lo cầu
nguyện cho ông vua ác Syracuse đang trị vì được nhiều sức khoẻ sống lâu vì bà
ta sợ rằng người kế vì có khi lại còn tàn độc hơn hắn ta. Vì thế, tôi đặt tin
tưởng vào Đảng và là Đảng đã được tái sinh. Mặt khác, tôi cho là bất cứ bàn tay
nào có thể mang lại hạnh phúc và ấm no cho dân tộc, bất cứ ai mà mối bận tâm lớn
nhất là không chỉ riêng cho họ mà cho cả nhân dân, cái đó mới là quan trọng. Cá
nhân tôi, tôi rất kinh sợ chính trị, và nhất là khi tất cả những con người
chính trị đều dấu mặt sau những chiếc mặt nạ đầy ích kỷ và dối trá, thối rữa
trong tội ác và kiêu căng tự đại. Làm sao có thể khác hơn khi họ chỉ là con người,
để mà nói rằng, trong tự bản thân mỗi người luôn có sự xung đột giữa cái xấu và
tốt, mà cái tốt lại hiếm khi thắng? Tôi cứ cho tất cả chúng một cái túi là
xong.
- Ông có thể dành một ngoại lệ cho những người cộng sản mà lâu
nay vẫn được hàng triệu người trên thế giới tán dương?
- Cộng sản đã giết nửa cuộc đời của tôi, đã buộc cả gia đình
chúng tôi phải chịu kéo dài những đầy đoạ vì cái đói bằng cách cắt đứt mọi cách
kiếm sống của tôi trong nghề dạy học và làm luật sư. Nhưng những kẻ đáng thương
kia đang bị một thứ bệnh ấu trĩ, chỉ biết nói như con vẹt: họ đoạ đầy trí thức
để theo gương bọn Stalinist và Maoist. Tôi tha thứ cho họ về những chuyện đó:
chẳng qua họ cũng chẳng biết họ đang làm gì. Nhưng tôi không bỏ qua chuyện họ
đã cấm đoán tôi có cái hạnh phúc trong nhiều chục năm có dịp đào tạo nhiều thế
hệ thanh niên như tôi đã làm vào thời trước khi họ lên nắm chính quyền, nghĩa
là cả một lớp trẻ rất khá về ngôn ngữ và văn chương Pháp, một lớp người được
trang bị một nền đạo lý lớn của Pháp và một nền văn hoá có chất lượng cho phép
họ cùng nhau tham gia lèo lái con thuyền chung vượt qua những vùng đá ngầm của
cuộc sống. Tôi đã không có dịp truyền đến cho họ ngọn lửa nhiệt tình soi sáng
tinh thần và những bước đi của tôi trong cộng đồng con người.
- Cái khôn ngoan và cái vốn văn hoá đó đã gợi ông có thái độ nào
đối diện với chính trị và đặc biệt là đối với những người cộng sản?
- Tôi mở tuyển tập Montaigne. Đó là cuốn sách gối đầu giường, là
nguồn tiếp sức cho tôi. Có rất nhiều bài học rất tốt mà những người cộng sản, nếu
họ có chút văn hoá, có thể học hỏi từ những tác phẩm đó. Đọc qua tập Những tấm
gương sáng của cổ nhân trong tuyển tập Montaigne họ sẽ nhận thấy là không nên
giữ trong đầu những gì chỉ vì do cấp trên bảo ban và những gì không có gì chứng
minh, là bất cứ ai theo chân người khác thì không theo cái gì cả. Nói rõ hơn là
không bao giờ quỳ luỵ bất cứ ai, kể cả Mác hay Lê Nin, kể cả Stalin hay Mao. Họ
không nên tự giam, xây tường nhốt mình vào một thế giới kín bưng mà phải mở rộng
giao thiệp với người, cọ sát và mài dũa trí óc của mình với trí óc của người
khác, xâm nhập vào thế giới rộng lớn này, phải nhìn ở đâu để nhận ra những con
đường vòng tốt nhất và những điều cóp nhặt có thể học hỏi từ người khác; mỗi
người phải biết nhào trộn biến chúng thành thứ của riêng xem đó như là lý luận
của mình. Cái thu hoạch theo cách học đó làm kiến thức mình ngày càng lớn và rộng
thêm. Ở đây, nói tóm lại, đó là những gì người cộng sản cần phải học để tự xây
dựng bản thân trước khi lãnh đạo người khác.
Và ngày nay, đối diện với những người cộng sản, người ta phải sống
với thái độ nào để giữ được con người thực và chân chính của mình? Hãy nghe lời
của các bậc thầy. Tôi, tôi tự thu mình vào cuộc sống nội tâm, bày biện nó và
vui với nó. Cái khẩu hiệu “tự làm chủ lấy bản thân” là một điều chỉ có thể thực
hiện ở chỗ khuất mắt sau nhà. Phải tách cái góc nhà đó ra khỏi cộng đồng vợ chồng,
kể cả con cái, kể cả người dưng. Từ đài quan sát đó, nơi mà mình tự quan sát lấy
mình, chúng ta có thể làm khán giả nhìn cuộc đời người khác để từ đó tự đánh
giá và điều chỉnh bản thân của mình. Cái chắc chắn nhất là hãy đặt niềm tin vào
chính mình và dựa trên những gì tất yếu cho mình. Nếu như chúng ta sống trong
những thời kỳ khó khăn, và chứng kiến cảnh đáng lưu ý về cái chết chính tri của
chính chúng ta, thì hãy biết rằng trong hoàn cảnh đầy xáo trộn mà chúng ta sống
ba mươi năm qua, mọi người đều có thể chỉ nội một giờ là số phận có thể sụp đổ
hoàn toàn. Từ đó, thái độ có tư cách nhất, ngay cả lúc chúng ta buộc phải nhận
một chức vụ trong chính quyền, là phải chẳng những không được phủ nhận những phẩm
chất đáng khen của phe đối thủ mà cả những phẩm chất đáng chê của những kẻ mà
mình theo. Nói một cách ngắn gọn là chúng ta phải đề cao cảnh giác, phải có một
cái nhìn rõ ràng, và tránh thái độ phe nhóm hay có thành kiến gây ảnh hưởng
trên thế đứng của mình trong xã hội và đặc biệt là trong cộng đồng chính trị.
Cái khôn ngoan sắc xảo nhất là nghe theo tác giả: “tôi không biết dấn thân một
cách thật sâu và thật toàn diện như thế: khi tôi muốn cống hiến cho một đảng
thì không phải vì một nghĩa vụ mang tính bạo lực mà tôi để cho lý trí tôi trở
nên đồi bại”. Chính vì không muốn lý trí của mình trở nên đồi bại mà không ít một
số trí thức đã từ chối lời mời gia nhập Đảng.
- Hay! Tôi hoàn toàn hiểu ông. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay,
suy nghĩ của ông là thế nào? Làm sao có thể thoát khỏi con đường bế tắc mà ta bị
giữ trong đó, và bị giữ trái với ý muốn của mình?
- Phái cực hữu thì muốn truy sát phe cộng sản cho đến tận sào
huyệt bí mật nhất. Cánh cực tả thì muốn chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bất
chấp mọi trở ngại, ngay cả việc phải thực hiện một vài thay đổi hay nhượng bộ.
Tôi nghĩ rằng giải pháp cần phải có nhiều sắc thái hơn. Cái khuôn vàng thước ngọc
nào buộc ta phai luôn nhớ và đang chi phối cái trận chiến điên cuồng giữa các đối
thủ đang hiện hiện? Nếu con người là điểm phát xuất và cũng là điểm đến cuối
cùng của giáo dục và văn hoá thì nhân dân cũng phải là điểm xuất phát và điểm đến
cuối cùng của mọi lực lượng chính trị. Chúng ta hãy thực tế. Chúng ta coi thường
bất cứ thứ ý thức hệ nào chỉ toàn đưa ra những loạn ngôn để làm duyên cớ. Nhân
dân đòi hỏi gì? Ít và thật ra là nhiều. Ít là vì họ chỉ mong chờ một cuộc sống
vật chất vừa phải: một chỗ ở tươm tất, những bữa ăn thich hợp, quần áo sạch sẽ.
Trong đời sống tri thức và nghệ thuật, họ chỉ yêu cầu được học hành đào tạo và
có văn hoá, được giải trí lành mạnh. Trong đời sống chính trị họ mong muốn được
tham gia ý kiến về những vần đề quan trọng liên hệ đến hiện tại và tương lai của
họ, và được tự do phát biểu những ý kiến và suy nghĩ chân thành của họ. Trong đời
sống xã hội, họ chỉ mong được giáo dục và có cuộc sống đạo đức, có những phong
tục tập quán trong sáng đẹp đẽ, những cư xử chuẩn mực của từng cá nhân và nhất
là của những kẻ đang nắm quyền. Họ coi tất cả những xung đột về ý thức hệ hay về
những thứ tương tự chỉ là vấn đề văn phạm trong ngôn ngữ mà thôi, như Montaigne
đã viết. Họ cũng chẳng cần biết những chính sách đưa ra là tư bản hay cộng sản.
Cái chính yếu là làm sao mang lại ấm no cho dân tộc: tất cả những thứ khác đều
là những chuyện ba hoa chích choè và vô nghĩa.
Hiện nay, đảng cộng sản đang nắm quyền trên đất nước. Họ đã qua
những lúc vinh quang và những lúc khổ nhục. Không thể chối cải là nhân dân
không có một thứ quyền gì trên những bí mật và sinh hoạt của Đảng: đó là một thế
giới riêng rẽ, nằm bên trên thế gian này. Cái độc quyền chính trị mà họ đã bảo
vệ bằng mọi giá đã rèn dũa thành một sự kết hợp chặt chẽ và đã củng cố khối người
của ho nhưng nó cũng đã đưa đến việc phạm những tội ác kinh hoàng không thể nào
chuộc lỗi được, những tội ác mà chính họ cũng đã công nhận là sự tàn phá là vô
cùng nghiêm trọng. Bây giờ, họ muốn tự khảm xa cừ lên mình, họ đã tổ chức hoàn
hảo một guồng máy bạo lực. Muốn bứng họ đi là có đổ máu. Họ tuyên bố là họ rất
mong muốn đổi mới bằng những thay đổi cơ bản và cốt yếu. Hãy cho họ một thời
gian ân huệ, một án treo. Nếu, nhờ vào những cố gắng nhiệt thành, những hy sinh
với giá cao, tự mình đổi mới, thực tâm và chân thành áp dụng cái nguyên tắc mà
họ từ lâu nay tuyên cáo: đó là “vì dân và do dân”, thì tại sao chúng ta không
dành cho họ một cơ hội chót? Nếu chúng ta loại cấm họ như là một đảng chính trị,
thì chúng ta sẽ lại chơi trò chính trị, đang chứng tỏ lại với họ cái cuồng tín
mà chúng ta đã từng lên án họ. Cái đặc ân này sẽ làm họ suy nghĩ lại, họ sẽ cố
gắng trở nên xứng đáng hơn với lòng tin của nhân dân bằng cách thoả mãn quyền lợi
của nhân dân và biết tôn trọng ước nguyện của nhân dân.
Chúng tôi đã không ngã giá trên các món đồ. Thật quá sự mong đợi
của tôi, người khách đã trả cho tôi gấp đôi cái giá mà tôi đề nghị.
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
_______________
[3] Animus: nam tính
của người phụ nữ, anima: nữ tính của người đàn ông (N.D.)
[4] Giáo dục kiểu
Spartan: nói giáo dục lòng can đảm, sự anh dũng, bền bỉ, khắc khổ, có ý thức kỷ
luật cao, chiến đấu giỏi.(N.D.)
CHƯƠNG 12: BI KỊCH BỊ
MẤT PHÉP THÔNG CÔNG, BỊ CÔ LẬP VÀ CÔ ĐƠN
Từ xưa con người đã sống quay quần trong một cộng đồng. Một khi
các nhu cầu đòi hỏi đã vượt quá sức lực và khả năng của cá nhân và gia đình thì
chúng chỉ được thoả mãn thông qua sự giúp đỡ hổ tương và hợp tác trong cộng đồng,
nhất là trong lãnh vực quốc phòng, canh nông cây lương thực, chỗ ở, quần áo,
giáo dục… Cái sinh hoạt muôn mặt chung góp cho việc duy trì cuộc sống vật chất
của mỗi cá nhân, chú trọng đến sự phát triển về thể chất con người, từ đó bảo vệ
sự toàn vẹn của con người và sự tiếp diễn của cuộc sống.
Nhưng ra ngoài những giới hạn của thể chất và cuộc sống vật chất
là cái không gian vô giới hạn và vô cùng của cảm xúc và con tim. Xã hội không
muốn và không thể can thiệp vào hai lãnh vực này. Cái bên trong đó chính là
phòng xét nghiệm, là nơi cấu thành những quyết định của nội tâm, dẫn tới những
hành động thể hiện nhân cách và biểu hiện ước vọng của con người. Có một sự hỗ
tương qua lại giữa hai thế giới, thế giới bên ngoài tạo ra những điều kiện buộc
con người phải phản ứng, thế giới bên trong phản ứng lại làm cho ngoại cảnh lại
trở lại tác động trên con người. Cái cơ chế với hai chuyển động qua lại này
giúp bảo đảm một sự quân bình cho cá nhân, những trao đổi giữa hai thế giới,
bên ngoài và nội tâm, giúp định vị và duy trì con người giữa một hệ thống phức
tạp gồm những tác động, phản tác động giúp cho con người cảm nhận sự sống.
Bởi vì, cộng sản đã ngăn cản những tiếp xúc và trao đổi giữa hai
thế giới, ngoại cảnh và nội tâm, cắt đứt cái quan hệ giữa chúng và bộ máy ngưng
không chạy hết công sức mà chỉ chạy cầm chừng, làm chậm đi một cách đáng kể
chuyển động của các bánh quay và mắc xích. Trong những trường hợp quá nặng, cá
nhân bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài, họ sẽ mất đi những cảm xúc rồi dần mất
luôn cả những khả năng của lý trí và tâm lý sẽ rơi vào sự tê liệt càng ngày
càng lớn. Cá nhân có thể trở thành khùng điên và tổ tiên sẽ không mất công chờ
đợi lâu để đón họ ở bên kia thế giới. Đó là thứ hình phạt nặng nề nhất dành cho
con người. Bên kia chuyện đó chỉ là án tử hình.
Trong trường hợp cá nhân tôi, không hề có một bản án được tuyên,
không nhà lao, không phòng nhốt tù. Nhưng trong nhà nước cộng sản, có bao nhiêu
thứ hình phạt không tên được tiến hành, không chính thức, nhưng về lâu đó chỉ
là những án tử hình không hơn không kém. Đó là hình phạt cắt phép thông công mà
những kẻ cuồng tín chính trị đã cóp nhặt từ kho tàng tội phạm thời Trung Cổ, cắt
phép thông công là vũ khí quyết liệt của bọn cuồng tín tôn giáo. Người ta đã cấm
tất cả những người trong họ đạo không được chứa chấp, nuôi ăn hay cho mặc những
kẻ bị mất phép thông công là những kẻ đã mất nhà cửa, kế sinh nhai, quần áo,
không còn cách nào có được một cuộc sống bình thường như trước. Chuyện cắt phép
thông công của tôi chỉ dừng ở chỗ cấm cửa không tôi vào dạy ở Đại Học và bước
vào các Toà để hành nghề Luật Sư. Cả mười Uỷ Ban Chấp Hành Trung Ương của mười
tổ chức quần chúng không chính thức đã tiến hành loại tôi ra nhưng họ chỉ dừng ở
chỗ là không mời tôi đến dự những buổi họp của họ. Thái độ của cộng sản là có ý
nghĩa: họ là những tín đồ của những biện pháp nửa chừng, rình đâm sau lưng, bỏ
thuốc độc vào tách trà hay gian trá tạo ra những vụ tai nạn chết người. Tội ác
đã phạm nhưng không để dấu vết. Dưới mắt của Luật Pháp, họ có thể kêu gào là
chuyện xảy ra là không có chứng cớ, và hơn như thế, trong xã hội, họ đã tránh
được những tai tiếng, tránh làm dấy lên những dư luận chính trị, mà vẫn giữ được
danh tiếng cho người bị trừng phạt trong đời sống xã hội và chính trị. Chủ
nghĩa Machiavelli vẫn được tiến hành dưới một lớp nguỵ trang đầy nghệ thuật.
Liên quan đến chuyện của tôi, tôi không bị ném vào tù hay bị
còng tay. Tôi không bị bắt đưa ra bất cứ toà án hình sự hay chính trị nào. Tôi
không bị bắt đày đi xa nhà hay xa gia đình. Nhưng cả xã hội và mọi người đều biết:
để tránh phải chịu những phiền phức, những ai muốn tiếp xúc với tôi, dù bất cứ
chuyện gì, đều không dám. Nhà tôi như đang chứa một người đang bị bệnh dịch, không
nên đến gần. Ra đường, mọi người thấy tôi từ xa đã quay ra ngõ khác để tránh đụng
mặt, nếu người nào đó, vì vô tình vô ý hay vì can đảm đến gõ cửa gặp tôi, ngay
sau khi vừa rời khỏi nhà là đã có công an mời về cơ quan để tra tấn họ với những
câu hỏi về họ là ai, về gia đình và tầng lớp xã hội và đặc biệt là có quan hệ
gì đến tên tội phạm là tôi đây. Chắc chắn rằng tên tuổi của người đó sẽ được
ghi vào sổ đen và từ đó sẽ thường xuyên bị theo dõi. Không cần phải có cặp mắt
tinh anh để nhận biết rằng ở tất cả những ngã tư đường dẫn đến nhà tôi lúc nào
cũng có một hay hai tên cớm dù đã thay đổi căn cước hình dạng nhưng không đổi
nhiệm vụ cảnh giới và canh gác, để chận bắt những người chỉ vì vô tâm hay gặp
lúc số phần bị xấu mà đến bấm chuông nhà tôi. Thật là một màn hài kịch, vừa tức
cười vừa bi đát, mỗi khi tôi ra khỏi nhà để đi lang thang đây đó, tôi luôn luôn
bị bám đuôi theo dõi chặt chẽ. Nhiều người bạn thấy tôi từ xa đã ngay tức khắc
quay lưng và biến mất như chiếc bóng trong đêm. Nếu gặp đôi lúc, để giữ gìn sức
khoẻ, tôi ra ngoài tản bộ quanh những con đường kế cận, tôi không bao giờ bỏ
qua cơ hội, mỗi khi đi ngang qua những người công an đang theo dõi tôi, cẩn thận
giở nón chào họ một cú ra trò làm cho họ không được vui lắm. Cả họ và tôi đều
biết rõ họ đang diễn trò gì. Như thế họ phải hiểu là tôi quá biết rõ những lệnh
lạc mà họ nhận từ chủ nhân và cái tinh quái của tôi là không bao giờ để cho cái
cảnh giác của họ có thể thình lình bắt tôi được. Dĩ nhiên, tất cả thư từ của
tôi đều bị mở và một số không bao giờ đến tay tôi. Tất cả thông tin đều được
ghi vào hồ sơ, về tên tuổi những người gửi thư cho tôi và dĩ nhiên họ sẽ tiến
hành điều tra về những người này. Tất cả những con chó to đùng được gửi đến để
cắn tôi đều không thể táp với những cái răng nanh vì chúng không thể tìm ra khoảng
trống nào có thịt của tôi cả. Sau nhiều năm dài theo dõi, chủ nhân của chúng
khám phá rằng chẳng được tích sự gì nên đã buộc phải chấm dứt sự theo dõi đó.
Vào thời gian đầu của cuộc sống đầy bất hạnh của tôi, và trong
suốt những chuỗi ngày đen tối đó, tôi thật bất ngờ khi thấy những nhân vật
chính trị có tầm cỡ đến nhà tôi, như đồng chí Hà Huy Giáp. Tôi không biết ông
ta tự ý đến hay có ai đó đã giao cho ông việc làm đến thăm tôi như thế. Ông ta
tỏ vẻ lo lắng cho sức khoẻ của tôi và đặt những câu hỏi vô thưởng vô phạt về
sinh hoạt của tôi. Trước đây tôi được nghe những lời đồn tốt về ông nhưng chưa
có dịp gặp ông ta. Cuộc trao đổi không đi sâu đến mức riêng tư nhưng tôi có cảm
tưởng là có những động lực thân thiện đã đưa ông đến nhà. Một người trong Trung
Ương, một nhân vật khá quan trọng của Đảng, đã cất công đến thăm một kẻ bị loại,
bị mất phép thông công. Bất kể cái gì, bất kể từ động lực tình cảm nào, cuộc viếng
thăm của ông ta như thể một tia nắng chiếu vào đêm tối cô độc của tôi.
Mặc dù với cuộc viếng thăm rạng rỡ và đầy ánh sáng của Hà Huy
Giáp như là một tia chớp làm sáng lên đêm tối của đời tôi, tôi vẫn cảm thấy đau
khổ cô đơn sống cô lập vì người ta đã kết án tôi. Tôi không bị cô lập với gia
đình nhưng vợ con cố giấu nhịn những dòng nước mắt để không làm tôi khổ thêm,
và tôi biết những giọt nước mắt của họ lại sẽ tuôn trào những khi tôi vắng nhà.
Về phần tôi, tôi rán tránh nhìn trong mắt họ để không nhìn thấy những nếp nhăn
trên gò má vì những đêm mất ngủ và phải chịu quá nhiều đau khổ. Một khi quyền lực
đã ném sức nặng vào tay gìới cầm quyền, họ hống hách tuyên bố, dưới cái nhìn của
họ, là đã có kẻ đã phạm một tội ác không dung thứ được, thì cái sợ hãi đã lan
ra đến nỗi không ai dám mở cửa hay mở lòng đón tiếp kẻ “phạm tội” đó. Kẻ “phạm
tội” chỉ còn cách tự buộc mình sống trong cô lập mà cũng chỉ có nó là phải chịu
đau khổ bởi những dày vò đau đớn của sự cô đơn. Không có nhà nào dám che chở
cho nó ngủ, không một bộ quần áo nào có thể che chở cho nó chống chọi đêm đông
lạnh giá, không món ăn nào làm ấm bụng, giúp cho nó chút sức để đứng dậy trên
đôi chân mà bước đi, không còn một đôi tai thân thích nào để nghe lời than vãn
của họ, không một tiếng nói đầy lòng thương nào để ban bố cho tiếng kêu than.
Người đời nhìn tôi, tôi nhìn họ, không còn ai nhận ra ai. Vâng,
một kẻ bị trục xuất, bị cắt phép thông công thì phải sống cô đơn ở mọi nơi,
ngay cả khi đang sống trong đất nước của mình.
Nhưng cuộc sống bị cô lập giữa những người xa lạ, dù họ là những
người cùng nòi giống với bạn, đau đớn bao nhiêu cũng không sánh bằng cái khổ
khi phải thấy cái thống khổ của chính gia đình mình, của những người thân
thương nhất, của người bạn đời và của máu mủ của mình! Cái cô đơn này cũng là
cái quí giá hiếm hoi làm lộ ra cái tình yêu sâu đậm tạo nên sợi giây liên lạc
thiêng liêng giữa tôi và vợ con. Họ đau khổ khi nhìn thấy tôi khổ. Họ nghĩ suy
cho đó là bổn phận và tình yêu nên cố giúp tôi bớt đau khổ bằng cách giấu đi khổ
đau của chính họ. Tự nó, đó là cái động lực rất đáng khen, quý phái, đáng được
thán phục và vinh danh, nhưng rủi thay, người chồng và cha, mà họ mong muốn làm
cho bớt khổ, dù chỉ trong muôn một, lại làm cho hắn khổ đau gấp hai khi thấy
không thể chia cho nhau những tiếng thở dài và niềm đau cay đắng. Trong cuộc
chơi đầy bi thảm và đau đớn, mỗi người trong ba chúng tôi là lo cho người kia,
cho hai người kia, tin rằng mình mới là kẻ có khả năng chịu những đợt tấn công
của nghịch cảnh và giữ được sự thanh thản và cân bằng bên trong để có được sự
an bình của tâm hồn. Nhưng cái mà đang giết chúng tôi là ai cũng biết mình đang
lừa dối với chính mình, và muốn lừa dối người kia hay cả hai người kia. Không
ai bị lừa cả, nhưng cả ba người đều tự cho rằng mình là người được nhiều an ủi,
để rồi tuôn trào nước mắt nhiều hơn khi nỗi cô đơn đến trong đêm khuya.
Vì thế tôi rất đau khổ khi biết rằng vợ con đã phải chịu khổ vì
mình, sức khoẻ họ đang kém đi vì những đêm không ngủ kéo dài, và cứ lập đi lập
lại mỗi ngày. Ý nghĩ đó tra tấn tôi ngày đêm, xé nát tim tôi, làm tôi luôn thao
thức trên giường, buộc tôi phải ngồi dậy, bước quanh trong phòng cho tới khi đi
nằm lại. Trong nhà, cả ba con người đều không nhắm mắt ngủ được, và nhờ cái
đói, họ đành cứ phải lê những buớc yếu ớt quanh phòng và nếu có một cơn ngủ đến
làm họ nằm xuống, chẳng qua là nhờ sự kiệt sức đã làm tan biến chút năng lượng
hay sức lực còn lại. Thật là một phép lạ khi chúng tôi đã vượt qua biết bao lần
như thế, trong khi chỉ cần một lần là có thể đã dễ dàng lấy đi mạng sống của
chúng tôi.
Nếu cứ mỗi cuộc khủng hoảng làm chúng tôi đau nhức chết người,
thì những lúc tĩnh lặng sau đó, khi dài khi ngắn, lại làm cơn đau dồn dập hơn nữa.
Cái đau đớn đã xé tôi ra từng mảnh, đè nghiến, xé toạc tôi, xuyên thủng tim tôi
những lỗ sâu bén, cắn xé hồn tôi ra từng mảnh với hàm răng sắc nhọn. Đó là một
thứ sức mạnh hiện hữu, có nét riêng và, nếu tôi có thể nói là xác thực, mà tôi
không thể đo lường được cái cường độ, cái năng động, sức mạnh, sự tiến hoá và
chu kỳ, thời gian ngưng đọng và tái diễn. Ngược lại, những cảm giác thống khổ mới
đang tra tấn tôi lại thuộc về một chủng loại hoàn toàn mới mà tôi chưa bao giờ
được biết. Ngược với cái đau đớn mà tôi gọi là hiện hữu xác thực đang đập nát
tinh thần và đang xé nát tim tôi, thì những cái đau mà tôi cảm nhận là những
tác động tiêu cực làm tan rã ý chí, làm mềm đi hệ thần kinh, làm chậm dòng sinh
khí, làm nhu nhược hoàn toàn thể chất và tâm lý của tôi, biến tôi thành một thứ
giẻ rách chỉ xứng đáng để ném vào sọt rác. Cái khổ đau này, nó như cơn thuỷ triều
đang dâng, tràn ngập và nhấn chìm tôi trong một tình trạng suy nhược và tê liệt,
chỉ để lại trong tôi một mảnh ý thức rời rạc đủ để tôi nhận ra cái sức nặng của
một khoảng trống rỗng không. Trước đây cuộc sống của tôi thật sống động, cho những
bài giảng ở Đại Học, tranh cãi trước Toà Án, viết những bài tham luận, khảo cứu
văn chương. Tôi thường có một cảm giác sung mãn, nóng bỏng muốn hành động và biểu
lộ ra ngoài. Ngày nay tôi trở nên gật gù trong trạng thái lừ đừ yếu đuối, tưởng
như đang trôi dạt trên một biển cả không bờ không bến và bị tan biến trong cái
vùng nước mênh mông không động đậy. Ngày xưa, thời gian đối với tôi là một kho
tàng quí giá nhất, nó trôi qua quá nhanh ngược lại ý mình, đã làm tôi tuyệt vọng;
ngày nay nó chỉ là một chiếc khung hình hoàn toàn không có gì trong đó, hiện ra
một khoảng trống không màu sắc, chỉ để làm hư tầm nhìn và tiêu diệt cả ý chí.
Tôi căng óc lấp đầy cái hư ảo này với những cảm xúc nghe, nhìn. Tôi phải tìm
nhìn chăm chăm vào từng chiếc lá trên cây bên đường, chú mục vào từng kẻ đang
bước trên phố, từng cái xe chạy, tôi như một người mù vừa mới tìm được lại ánh
sáng, vừa xem xét chăm bẳm từng thực tiễn của cuộc sống, vừa ngạc nhiên trước
những điều mới lạ. Nhưng mọi cố gắng đều trở nên vô ích, và sự kiêu hãnh của họ
đã ném tôi vào một niềm thất vọng không thể chịu đựng được. Cả thời gian đó, dù
tôi đã cố gắng quên mình trong những chuyện tầm phào, nó vẫn tiếp tục làm cho
tôi hoang mang lẫn lộn, nó vẫn quấy phá tôi bằng cái rỗng tuếch của nó.
Tôi nảy ra ý nghĩ một mình lang thang khắp phố, tập trung với tất
cả chú tâm nhìn ngắm những sinh vật, tất cả các căn nhà, tất cả những hoạt cảnh
đang chuyển động, những thứ kết hợp thành bao nhiêu là chuỗi phim tài liệu về đời
sống ở thủ đô. Không có một du khách nào đã đẩy trí tò mò của mình đi xa như
tôi như thế. Nhưng tất cả những bận bịu, mà tôi hiểu rõ hơn ai hết đó là chuyện
vô ích, cũng không cho phép tôi lấp đầy hết khung thời gian của tôi. Tất cả những
việc làm vô hồn đó không thể nào thoả mãn một tâm hồn đang khát bỏng những ước
vọng chưa thoả, với những nhiệt tình nhất định. Tôi tự so sánh mình với người lữ
hành đang băng qua sa mạc, nặng chĩu trên vai một gói vàng và không cầu xin gì
hơn là được trao tất cả số vàng kia để đổi lấy một cốc nước.
Tôi lang thang trôi dạt đến khu Ba Đình, nơi mà xưa kia tôi hay
đến chơi tennis trong những lúc rỗi rảnh. Vẫn chưa đến giờ tan sở, trên sân vẫn
vắng bóng người chơi. Đang ngồi cạnh sân, bỗng nhiên tôi hết sức ngạc nhiên thấy
như một cục gì đang lăn tròn dưới chân tôi mà lúc đầu tôi cứ tưởng là một cục
len. Đó là một con mèo bé tí chắc mới đẻ vài ngày trườc đây, chắc là mẹ nó,
theo thói quen, đã quyết tâm bỏ đi để nó tự một mình khám phá thế giới. Tôi bế
nó lên trong lòng bàn tay, dịu dàng vuốt ve nó và tôi cảm thấy nó thật tội nghiệp.
Nó và tôi là hai kẻ lạc loài đang trôi dạt bơ vơ trong cuộc đời, cả hai cùng
chung cái đói, nạn nhân cùng bị cô lập và sầu não chung một số phận. Sau khi đi
một vòng trong khu nhà hỏi xem ai là chủ nó, câu trả lời luôn là không biết, tôi
cám ơn sự may mắn hay Đấng Cứu Thế nào đó đã trao cho tôi một người bạn đồng
hành bất hạnh và khốn khó để tôi có thể thì thầm chuyện vãn hầu lấp đầy cái khoảng
thời gian trống vắng, để cho tôi có một kết nối tình cảm mà tôi không dám đòi hỏi
nơi vợ con vì sợ rằng sẽ đào sâu thêm nỗi khổ đau của họ. Giữa tôi và vợ con, sự
im lặng là cái hùng biện hơn là những lời nói và nó không làm tuôn thêm những
dòng nước mắt. Câu chuyện giống như tôi và con mèo con kia: chỉ cần nhìn nhau
trong ánh mắt là quá đủ cho những trao đổi tình cảm.
Trở về nhà, tôi chia cho nó chén cơm trắng của tôi. Tôi rất vui
khi thấy nó bằng lòng một chút cơm như thế và nó lên cân khá nhanh. Mỗi khi tôi
ngồi thiền hay ngồi mơ mộng bên cạnh cửa sổ, nó leo lên ngồi trên đùi tôi, về
đêm nó đến nằm kề bên cạnh. Nhờ đó, tôi bắt đầu bước những bước đầu tiên, bước
ra khỏi con đường hầm vô tận của cô đơn, tự cho mình một lý lẽ để sống bằng
cách lấp đầy những khoảng trống trong sự hiện hữu của tôi. Tôi không thể đi dạo
một mình ngoài đường vì lúc nào cũng có bọn chó săn bám gót phía sau. Tôi không
thể ghi danh vào câu lạc bộ tennis Ba Đình vì giá vợt, banh và giày vải để chơi
là quá cao với một giá thật điên khùng và tôi không thể nào vươn tới. Nhưng điều
làm tôi đau lòng nhất là thấy biến mất những bạn cùng chơi ngày xưa nay kiếm
cách tránh và chạy mặt tôi. Sự bỏ chạy của họ như là những cú dao đâm vào tim
tôi, tôi không thể nào đóng vai một kẻ vô gia cư hay cùi hủi. Tôi hiểu thái độ
những người bạn chơi tennis kia, tất cả đều là những chức sắc cao cấp trong
chính quyền, dĩ nhiên là những người của Đảng, là những người luôn luôn lo lắng
hơn ai hết về tương lai quan chức và chính trị của mình. Vì thế họ sẽ bị kinh
hoàng khi phải bắt tay một kẻ đang bị bệnh dịch và phải chơi một trận tennis với
kẻ này. Họ cũng chỉ là con người, với những tâm hồn yếu kém, tôi không thể nào
mong họ bớt mất tư cách hơn, bớt hèn hạ, bớt mất phẩm giá hơn.
Con mèo lớn nhanh và nó được tôi dành cho nhiều săn sóc. Nó giúp
tôi hoà giải lại với cuộc đời, nó làm nẩy nở trong tôi cái thú vui được có lại
những sinh hoạt trí thức, những sinh hoạt ngày xưa đã đem lại cho tôi những niềm
vui thanh khiết. Tôi phải làm cách nào để khởi động lại cái máy trí thức của
tôi đây? Tôi lượt xét lại tất cả từ năm 1932, năm mà tôi trình luận án Tiến Sĩ Quốc
Gia về Văn Chương và Tiến Sĩ Luật. Trong lúc chọn đề tài khảo cứu, tôi dành phần
như nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa nước Pháp và Việt Nam. Luận án
chính của tôi về văn chương viết về Musset, luận án về Luật viết về cá nhân
trong xã hội xưa dưới các triều đình An Nam (Bộ Luật nhà Lê). Riêng về cái luận
án bổ túc về Văn Chương, nó nhằm giới thiệu đến công chúng Pháp một tác giả người
Pháp đã viết về đề tài “Việt Nam vào cuối thế kỷ 19” tên Jean Boissière. Niềm
ưu tư về sự cân bằng và giao hoà giữa hai thế giới đã gây cảm hứng cho tôi
trong bốn cuốn sách viết vào khoảng năm 1940. Cuốn thứ nhất, Nụ cười và nước mắt
của tuổi trẻ, trình bày cái tâm lý và những sinh hoạt trí thức và xã hội của một
cô gái trẻ người Việt, được đào tạo ở Pháp, có trách nhiệm phải xây dựng phương
Đông của ngày mai. Chính cái “xây dựng phương Đông của ngày mai” lại là cái cảm
hứng để tôi viết hai cuốn sách, một cuốn dành riêng viết về những giá trị của
Pháp: Những viên ngọc của nước Pháp và cái khác với những giá trị vùng Địa
Trung Hải (Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp), một cuốn là Bước đầu của Địa Trung Hải. Tác
phẩm thứ tư là một vở kịch mang lên sân khấu cái xung đột, trên khía cạnh tình
cảm, giữa một kẻ du hành hiện thân cho phương Tây với những nhu cầu hay di động
và thay đổi, và một cô gái tiêu biểu cho tình cảm qua sự trung thành và bền vững:
“Cuộc hành trình và tình cảm”.
Từ năm 1940 đến 1945, nhiều xáo trộn cực kỳ nghiêm trọng đã xảy
ra trên thế giới và ở Việt Nam: từ nay, nước Pháp không còn tập trung vào những
hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nơi mà Cách Mạng cộng sản đã thắng thế từ năm
1945 và đang điều hành nhân dân. Từ 1945 đến1956, tôi và gia đình bỏ vào bưng
cùng tham gia Kháng Chiến chống thực dân. Khi trở về Hà Nội, tôi trở lại đi dạy
Văn Chương ở Đại Học và mở lại văn phòng Luật Sư ở Hà Nội. Tôi được bổ nhiệm,
nhờ Đảng ban ân huệ và cũng chẳng phải do tôi xin, ngồi trên ghế của Uỷ Ban
Trung Ương của mười tổ chức quần chúng. Từ năm 1958, vì đứng ra bảo vệ cho dân
chủ, tôi đã bị tước bỏ mọi nhiệm vụ; tôi đã nhắc lại những diễn biến này trong
phần đầu của cuốn sách này.
Đó là những sinh hoạt trí thức của tôi từ 1932 cho đến ngày hôm
nay. Giờ đây tôi sẽ phải bám víu vào thế giới nào đây? Đó là một điều cực kỳ
quan trọng. Cái vấn đề chính yếu mà tôi đã dựa vào để làm căn cơ cho cả cuộc đời
trí thức của tôi là điểm gặp nhau giữa Đông và Tây, ngược với luận đề của
Rudyard Kipling là chối bỏ cái khả năng đó. Tôi tự cho mình cái công việc là lo
giúp sự hiệp thông qua lại của hai thế giới, trên cơ sở đó hai bên có thể thực
hiện cuộc gặp gỡ. Mỗi thế giới đều có một thang giá trị riêng, đôi khi kình chống
lẫn nhau. Sự gặp gỡ, trên cơ sở của sự thông cảm lẫn nhau, sẽ kéo theo việc bên
này giúp đỡ bên kia để bổ sung lẫn nhau và cùng đào luyện để mang những lợi ích
chung cho nhân loại. Chính theo hướng đó mà tôi đã đặt hết suy tư để hoàn tất
tác phẩm của cuộc đời tôi.
Nhưng phương Đông, đặc biệt là Việt Nam lại va phải một số khó
khăn trong việc đi tìm những giải pháp cho những vấn đề cấp bách và quan trọng.
Thí dụ như vấn đề đào tạo con người mới. Ở Việt Nam nhiều lần cải cách về giáo
dục vẫn chưa mang được gì thoả đáng. Có lẽ nên cần thiết hoàn toàn xoá bỏ và
làm lại tất cả những quan niệm chính trị, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ nhìn
với con mắt rất xấu những ai nêu lên cách đó như một giải pháp cho việc cải tổ
giáo dục. Có lẽ phải làm cho các vị lãnh đạo nghiền ngẫm về những tư duy về sư
phạm của Pháp, chỉ trong hai thế kỳ, từ Érasme đến Rousseau, đã thành công đào
tạo con người, nói đúng hơn, con người trí thức hiện đại, thiếu họ cuộc cách mạng
Khoa Học Kỹ thuật không thể nào thành công. Công việc nghiên cứu của tôi là nhắm
vào điểm này.
Một vấn nạn có tầm cỡ khác là giới trí thức Viet Nam phải giải
quyết thế nào về cái quan hệ giữa chính trị và văn học. Rất nhiều văn nghệ sĩ
không thể chấp nhận cho chính trị quản lý chi phối những sáng tác văn học. Đảng
đã tuyên cáo rằng chính trị phải đứng ra quản lý văn chương và mục đích của văn
chương là phải phục vụ chính trị trong những đường lối chung và những đường lối
riêng của Đảng. Tất cả những nhà văn vâng theo nguyên tắc này đều nhận được
công danh và bổng lộc, cho mình và cho cả những người trong gia đình. Nhưng đa
số những người khác thì nhăn nhó mà theo hướng này. Như vậy vấn đề cũng quan trọng
như việc đào tạo con người. Như vậy, rất cần thiết cho tôi được đưa ra những
suy nghĩ về vấn đề kia. Không phải để nhắm làm thay đổi những kẻ ương ngạnh đã
dính luận cương của Đảng, tôi cảm thấy có điều ích lợi để trình bày cho độc giả
về vấn đề đã được giải quyết thế nào dưới thời Cổ Đại Hy Lạp và thời Cổ Đại La
Tinh.
Hy Lạp thời cổ đại đã đưa ra mẫu mực của Eschyle (Aiskhylos), một
trong những bậc thầy về bi kìch Hy Lap, mà những tác phẩm đều được chính quyền
và nhân dân ngưỡng mộ và trọng nể. Thật không có gì quan trọng khi chính trị
thích nghi với văn chương hay ngược lại. Cái hiển nhiên là tác phầm của Eschyle
là đượm mùi thơm của chính trị, là niềm vinh quang của nhân dân đã đánh thắng
giặc ngoại xâm. Người đọc Việt Nam ta sẽ tìm thấy trong đó tiếng vọng của niềm
vinh quang của chính chúng ta.
Một hình ảnh tương tự được thấy trong tác phẩm Virgile
(Vergilius). Đường lối chính trị của Auguste là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp;
như thế vai trò nhà thơ là ca tụng vẻ đẹp của nông thôn, viết nên những vầng
thơ của nông nghiệp. Auguste còn đưa ra một đường lối chính trị hoà hợp và đoàn
kết để củng cố nền tảng của vương quốc sau khi gầy dựng nên nó. Việt Nam ta có
lẽ có cùng hoàn cảnh như thế, trong những vinh danh tán dương về nền nông nghiệp
cũng như trong đường lối chính trị của mặt trận dân tộc cho Tổ Quốc.
Cuối cùng là tuyệt phẩm của Eschyle: vở kịch bộ ba Oresteia cũng đáng cho Việt
Nam quan tâm, vì tác giả đã nêu lên chuyện trả thù cá nhân được chuyển biến
thành chuyện trừng phạt bằng pháp lý của Nhà Nước, và, một mặt khác, từ những
nhóm trùm buôn nô lệ tiến đến một nền dân chủ có nô lệ. Nền dân chủ bắt đầu
thăng hoa và nhận sự giúp đỡ của thần Hoà Bình, những Erinyes, thần Báo Thù, tất
cả được biến hình thành những Euménides là những thiên thần của dịu ngọt và
lòng nhân.
Để giúp mình vượt qua những dằn vật của sự trống trải đã thấm nhập
vào con người tôi làm tôi trở nên tê liệt trong bạc nhược và rầu rĩ. Cái suy
nghĩ cả ngày lẫn đêm dẫn tới việc tôi định ra một chương trình làm việc mà theo
tôi ước tính là có thể kéo dài đến hai mươi năm.
Như vậy, trong cái khung suy niệm về chỗ gặp gỡ giữa Đông và
Tây, để theo đuổi chủ tâm của tôi là làm sao cung cấp vật liệu của phương Tây
cho một công trường phương Đông, tôi nhấn mạnh đến những cống hiến của nền văn
minh Cổ Đại của Hy Lạp và La Tinh. Những cống hiến này có thể là rất bao la,
nên tôi chỉ chọn những gì có liên hệ trực tiếp đến thời sự Việt Nam, và chính
xác hơn là những đóng góp đặt ra cho trí thức và giới nhà văn. Và cũng như,
trong những năm dài trong mật khu, người ta đã đề nghị chúng tôi học tập về chủ
nghĩa Marx, với tôi đấy là cơ hội ngàn năm một thuở để đưa vào áp dụng những gì
trong chủ nghĩa Marx để giúp tôi hiểu nhiều hơn sự tiến triển của xã hội và sự
xuất hiện của những biến cố lịch sử.
Sau rốt, vì các nhà lãnh đạo Việt Nam là những người đầu tiên
quan tâm đến những nghiên cứu của tôi nên chúng được tôi viết bằng tiếng Việt
chứ không bằng tiếng Pháp.
Bốn tác phẩm đã hoàn tất sau những cố gắng của tôi:
1) Những chủ thuyết về Giáo Dục của Âu Châu từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XVIII (Erasme đến Rousseau);
2) Eschyle và bi kich của Hy Lạp;
3) Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một chương nghiên
cứu dùng như lời giới thiệu;
4) Virgile và sử thi Hy Lap.
Mỗi tác phẩm gồm chừng 500 trang máy đánh chữ. Tôi đã gửi một bản
sao cho các Uỷ Ban của Trung Ương Đảng (Uỷ Ban Giáo Dục và Uỷ Ban Văn Hoá Nghệ
Thuật); tôi đã nhận được những lời khen ngợi và được giấy phép ấn hành. Rủi
thay, những cơ quan ấn hành, nơi mà tôi giao các bản thảo, đều từ chối vi họ
không có ngân sách để in chúng. Tôi đành chịu thua. Thât là cộng sản.
Tôi đã lên kế hoạch là sẽ làm việc một thời gian dài, chẳng cần
bận tâm muốn biết là tôi có thể hoàn tất nó trước khi tôi chêt hay không. Hai
mươi năm nữa thì tôi đã sáu mươi lăm. Biết tôi còn sống đủ lâu để đạt tới mục
đích của tôi không? Chẳng quan trọng, cái thiết yếu của tôi là làm sao phá vỡ
cái khoảng không vô tận đang níu chặt lấy tôi, thoát ra khỏi cái chán nản làm
suy nhược con người mà tôi đang bị dính nhựa, tiêu pha thời gian ngâm mình
trong những dòng nước cứu giúp của một sinh hoạt có ích và say mê. Nỗi khổ đau
dai dẳng của tôi xem như chấm dứt, và chắc chắn là tôi đã lấy lại nét mặt vui
tươi vì vợ và con gái tôi không còn khóc khi nhìn chăm vào mặt tôi. Góp vào cái
âu yếm của vợ con là cái nũng nịu của con mèo nay đã lớn trông thấy, khoanh
mình nằm trên đầu gối tôi khi tôi đang ngồi làm việc và cọ sát cái đầu nó vào
chân tôi khi tôi đứng dậy. Con vật thật đáng thương! Nó thiếu tất cả các thứ mà
những con mèo đang vênh vang trong phòng khách của các ông lớn ngập đầy: mẩu thịt,
chút sữa hay chút canh gà. Tôi thì thầm vào tai nó rằng nó đã được sinh ra dưới
một ngôi sao xấu vì nó đã rơi vào nhà của một kẻ bị mất phép thông công, ông ta
cũng thế, keo kiệt từng miếng cơm, lấy cớ là để giữ gìn “đường nét” như một cô
gái đẹp có lẽ đang cố gắng cho lần chinh phục sắp đến. Tôi đã ép con mèo phải tự
chăm lo đường nét của nó, đề gìn giữ cái dáng vẻ thanh tao của giống mèo, khi
nó phơi bộ xương sườn ốm nhách trên tấm chiếu, đặt dưới sàn nhà, nơi mà nó dùng
như bàn ăn. Như một nhà thơ đã kêu gào: “Ôi lao động, cái luật thanh thản của
thế giới!”, chính sự làm việc đã cứu tôi: tôi như được sống trong môi trường của
mình, tôi như con cá được vẫy vùng trong nước. Tôi làm sống lại niềm vui sống
và niềm vui này sẽ không bao giờ ra khỏi tôi, dù chỉ trong chốc lát, cho tôi được
hít thở không khí của trời đất và thời gian.
Việc bán tài sản của tôi hết món này đến món khác đã giúp chúng
tôi một ít tiền bạc, cái ít ỏi mà nhờ đó chúng tôi có những bữa ăn đạm bạc hằng
ngày. Số chén cơm cho cả ba chúng tôi, bữa trưa và buổi tối, đã được nâng lên
con số 12 và phần rau cũng được nâng lên. Thật là một bữa tiệc cho chúng tôi
ngày Chủ Nhật, khi tự cho phép mình mỗi người một trái chuối! Tình trạng bị cô
lập chúng tôi vẫn thế: không ai trong dòng họ dám gõ cửa nhà tôi và không một
người bạn nào thoáng qua cửa sổ. Tất cả họ đều đi vòng để tránh phải đi qua con
đường chúng tôi ở. Tôi không ra khỏi nhà nữa, cũng không ra khỏi cái bàn làm việc
của tôi để loại cho những người quen một cuộc gặp gỡ mà họ sợ còn hơn là sợ ngọn
lửa của địa ngục.
Dù thế, tôi không biết họ làm cách nào, những người bạn xa gần vẫn
không quên tôi. Nhiều lần, khi tôi mở cửa nhà buổi sáng, tôi chợt thấy nhét dưới
cánh cửa là một phong thư nhồi đầy giấy bạc. Chúng tôi khóc vì xúc động và
chúng tôi tuyệt vọng vì không biết làm cách nào để tỏ lòng biết ơn những ngưới
đầy lòng tốt mà chúng tôi không hề biết tên! Nhiều lúc, khi màn đêm buông xuống,
vào lúc trời còn nhá nhem, có những lần tôi làm vài bước đi dạo ngoài đường. Bọn
cú vọ lẽo đẽo một khoảng cách phía sau, nhưng rất khó cho chúng nhận ra mặt của
những người, đạp xe ngang qua rất nhanh, vội vàng nhét vào tay tôi một phong
thư hay một gói nhỏ. Chả thấy, chả biết! Tất cả những thao tác ấy xảy ra chớp
nhoáng: mấy tay công an chỉ kịp thấy ánh đèn xe đạp nhấp nháy!
Tất cả những cử chỉ hào phóng mà tôi là kẻ được hưởng làm tôi
suy nghĩ. Tôi nhận thấy cái bất lực của nhà cầm quyền trong việc ngăn những tin
tức được truyền đi. Họ đã quyết định tước bỏ vĩnh viễn quyền công dân của tôi,
ngăn cấm mọi liên lạc của tôi với thế giới bên ngoài. Trong nước, cái sợ hãi bị
trừng phạt, trực tiếp hay xa gần, đã đánh gục những kẻ ngây thơ hay bạo gan dám
liên lạc với một loại «bị bệnh dịch» như tôi, xoá sạch những tấm lòng đầy thiện
ý. Dường như với tôi, bị cô lập cả trong và ngoài nước, cái chết tự nhiên sẽ tiếp
nối không sớm thì muộn cái chết dân sự kia. Nhưng cái hy vọng đó xem ra là vô
ích. Những tin tức dù bí mật nhất rồi cũng sẽ thoát ra ngoài xã hội, chúng lan
truyền với tốc đô chóng mặt, nhờ những phương tiện truyền thông hiện đại và bởi
cái tác động của tính tò mò mà mọi người đang cháy bỏng muốn biết những gi đang
xảy ra ngầm trong hậu trường chính trị.
Tôi sẽ vén lên cái bất lực thứ hai của nhà nước: Có thể chăng họ
không muốn cái chết của tôi, một cái chết mà họ không muốn bị bẩn tay và cẩn thận
tránh không bị nhân dân quy trách nhiệm, nhưng họ sẽ không được nhìn cảnh tượng
biến mất của tôi bằng cặp mắt thiếu thiện cảm. Họ đã dùng mọi thủ đoạn để loại
bỏ một trong những giống trí thức tồi tệ này: bằng cách chối bỏ bất cứ phương
tiện kiếm sống nào của người này. Tôi và gia đình không chết vì đói: chúng tôi
quá khổ đau vì đói, mất hàng kí thịt trong cơ thể, trên mặt chúng tôi là những
vết tích của cái bụng lõm sâu và cái bao tử trống không, nhưng chúng tôi chịu đựng
được! Tiền thu được của những lần bán liên tiếp các tài sản giúp chúng tôi kéo
dài những ngày dật dờ trong nhiều năm nhưng chúng tôi không cho phép những kẻ
căm ghét chúng tôi được vui khi hay tin chúng tôi chết. Và, vào những khi chúng
tôi cạn kiệt tiền bạc thì lòng hào hiệp của những người bạn trong nước hay đang
ở nước ngoài ném cho chúng tôi những chiếc phao cứu hộ giúp cho chúng tôi nổi
trên mặt nước thay vì phải chìm sâu đến tận đáy sâu của hư không. Nhiều người bạn
trong nước cũng như ở Pháp, sau bốn mươi năm bặt tin, cứ tưởng rằng tôi đã bị gạt
tên khỏi danh sách của những người còn sống. Nhưng tôi đã trả lời cho họ: “Tôi
là một loài cỏ dại. Người ta có thể bước lên nó, đạp bẹp nó nhưng một khi có một
giọt sương mai, giọt nước mưa hay một dòng nước mắt rớt xuống, nó lại bừng dậy
mỉm cười trước ánh sáng mặt trời”. Nguồn sống của chúng tôi, bắt đầu khô cạn
sau khoảng chục năm, lại được đong đầy bởi những dòng thác sôi sục của lòng hào
hiệp của những người bạn, những người quen trong nước và trên thế giới. Họ là
những kẻ không tên, không biết mặt nhưng không phải là không thận trọng, đã
sáng tạo ra những phương cách tài tình chế nhạo tất cả những kẻ cầm quyền trên
thế giới, bất kể cái hung tàn đần độn và cái cảnh giác gay gắt của chúng. Họ đã
chung tay làm nên một mặt trận không chính thức nhưng năng động, mặt trận của
lòng trắc ẩn và sự tử tế, để đưa bàn tay cứu giúp những nạn nhân của bọn độc
tài khát máu. Cái nhiệt tình của họ sinh động là nhờ lòng vị tha và lòng vô tư
đã gạt qua tất cả những toan tính của ích kỷ. Cái mục tiêu mà họ muốn đạt đến
có hai khuôn mặt: một mặt là tinh thần nhân đạo và tình anh em giữa những người
trí thức, mặt kia là cái kinh hoàng của những kẻ bạo ngược và sự tàn bạo. Cuộc
chiến đấu của trí thức tiến công chống lại cái độc tài mù quáng và vô nhân đạo,
bởi lẽ kẻ độc tài đã ra tay đoạ đầy người trí thức kia! Một trí thức, trong cái
liêm chính của con người và với cái minh mẫn trong tinh thần, là một người lính
chống lại sự chuyên chế chuyên lập đi lập lại những lời hứa hão huyền và sự bất
lực đã phải cầu cứu đến đến sức mạnh của công an để giữ vững ngai vàng cua họ.
Sau hai mươi năm, tôi đã hoàn tất công trình mà tôi tự đặt cho
mình. Nhờ sự đồng hành của Montaigne, Rousseau, Eschyle và Virgile, tôi đã
thoát ra khỏi sự cô lập và nỗi cô đơn của tôi, tôi như nở hoa trước ánh nắng của
sáng tạo và dưới ánh mặt trời của tự do trong lòng tôi. Từ 1958 cho đến nay, gần
bốn mươi năm hiện hữu, tôi đã sống qua những thử thách tồi tệ nhất mà người ta
có thể gán cho một trí thức, một con người. Nhưng đó lại là những năm tuyệt vời
mà tôi biết được. Tôi như được thăng hoa, sung sướng là đã thắng những nghịch cảnh
mà người ta đã đưa ra để chận con đường sống của tôi, đã điều khiển những sinh
hoạt của mình hướng theo sở thích và sự chọn lựa của mình và cống hiến những khả
năng khiêm nhường của tôi cho dân tộc. Ý chí của tôi đã thắng những tâm địa độc
ác và đồi bại của những kẻ đã thề phải hạ gục được tôi. Nhưng tôi vẫn tha thứ
cho họ bằng cách lập lại câu nói bất hủ: «Chúng cũng không biết chúng đang làm
gì!». Người ta sẽ quên đi Cinna, nhưng sẽ nhớ mãi August [1] và lòng khoan dung
quảng đại của ông ta.
Năm 1989, vào tuổi tám mươi của tôi, những người bạn Việt Nam và
Pháp mời tôi làm một chuyến viếng thăm Pháp. Sau Đại Hội VI Trung Ương Đảng Cộng
Sản Việt Nam, lần đầu tiên trong lich sử của họ, đã tuyên bố chấp nhận chủ
nghĩa tự do còn hôi sữa, tôi lợi dụng cơ hội xin chiếu khán đi Pháp. Tôi cũng
không mong mỏi đơn xin của tôi sẽ được chấp thuận, nhất là đối với một người mà
hồ sơ chính trị lại dầy cộm như của tôi. Thật là bất ngờ đến sửng sốt, sau đâu
chừng hai tháng chờ đợi, tôi nhận được cả hộ chiếu lẫn chiếu khán để đi Pháp. Rủi
thay, chính phủ Pháp đã kéo nhiều tháng dài mới cấp chiếu khán nhập cảnh cho
tôi. Thiệt tình! Thế giới đã bị lộn ngược.
Tôi xuống máy bay ở phi trường Orly vào một buổi chiều Tháng Mười.
Những người bạn Việt và Pháp đã dành cho tôi một cuộc đón tiếp thật cảm động.
Sau sáu mươi năm, tôi tìm lại tổ quốc của tri thức của tôi, cùng lúc với một sự
hiếu khách đầy tinh tế và ân cần của những trái tim vàng. Cái cơ thể đã suy nhược
bởi bốn mươi năm thiếu thốn về vật chất và khốn khổ về tinh thần đã xỉu ngã quỵ
ra sàn. Đây là lần thứ nhất trong đời, ở tuổi tám mươi, tôi nhập viện vào một
nhà thương của Pháp và nhận được những chăm sóc hết lòng. Mười ngày sau, tôi
liên lạc lại với bạn bè và tiếp tục những sinh hoạt. Tôi được đài truyền hình
TF1 phỏng vấn. Tôi đã làm hai cuộc hội thảo, một ở Clermont l’Herault, gần
thành phố Monpelier, nơi mà ngày xưa tôi đến thu thập tài liệu về ông J.
Bossière cho đề tài của luận án bổ túc Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chuong của tôi;
và một Đại Học Sorbonne ở Paris VII. Tôi đã đến thăm thủ lãnh Luật Sư Đoàn
Paris.
Một biến cố quan trọng, vượt khỏi sự mong đợi của mọi người, đã
bất ngờ cuốn hút chú ý của tôi, là cuộc nổi dậy của nhân dân các nước Đông Âu.
Mỗi ngày, tôi theo dõi hàng giờ trên truyền hình và báo chí và cố gắng tìm hiểu
cái gì muốn nói lên khi quần chúng đang gào lên những khẩu hiệu căm thù cộng sản
và đã ném xuống chân ngai vàng những tên lãnh đạo và chúa tể cùng một giuộc, những
kẻ, vì sự ngu đần của đầu óc, vô nghĩa trong nhân cách, thiếu vắng những khả
năng để lèo lái đất nước, đã theo bước chân của Stalin, và đã mòn gối quần quỳ
lạy tung hô Lenin va Stalin! Suy nghĩ thật kỹ, những ai đã quan sát và nghiên cứu
về chủ nghĩa cộng sản, qua những áp dụng thực tiễn của nó hơn là những gì trong
những bài học lý thuyết của nó, sẽ nhận thấy là sẽ rất khó cho các nhà lãnh đạo
còn giữ được vị trí của họ trong hệ thống hành chánh ở một nước, trong chính phủ
gọi là của nhân dân, bởi lẽ chính họ đã trâng tráo phạm pháp ở những nơi này mà
không bị hề hấn gì, những định luật của kinh tế học và đã chà đạp hung bạo lên
những nhu cầu hằng ngày, những niềm tin gốc rễ của con người. Cứ theo chiều hướng
đó, họ còn có thể đứng vững bao lâu nữa trên một sự mất cân bằng cơ bản? Nhưng
không ai có thể ngờ rằng sự sụp đổ của nó đến nhanh như thế. Nhiều ký giả đến hỏi
thăm ý kiến của tôi về những biến cố có thể xảy ra ở Việt Nam. Họ hỏi tôi: «Ông
nghĩ bao giờ thì chế độ Việt Nam sẽ sụp?» Tôi trả lời họ: «Tôi không làm nhà
chiêm tinh và cũng không tham khảo mấy lá bài tây. Kiên nhẫn, kiên nhẫn đang ở
trên trời, mỗi hạt li ti của yên lặng là cơ hội cho một trái cây chín tới!».
Đã sống đến tuổi tám mươi trong lòng tổ quốc, tôi bắt đầu nhận
biết nhân dân Việt Nam. Nhờ sống bốn mươi năm dưới địa ngục cộng sản, cuối cùng
tôi cũng hiểu đưọc những người đã thực hiện chủ thuyết đó. Tôi cho là một cuộc
cách mạng bằng bạo lực là không đúng lúc, không hiệu quả và không nên có vì nó
sẽ phát sinh ra những biến động phi thường, những hỗn độn không thể dập tắt, mà
cả dân tộc sẽ khóc ra máu.
Cái tiêu chuẩn hợp lý và lô gic là tài năng phải đi song hành với
đạo đức, vì lẽ nếu người trí thức tràn đầy tài năng mà đạo đức của họ vẫn chưa
gợi được sự tin cậy. Họ hư hỏng vi chủ nghĩa cơ hội, lòng ích kỷ và tính kiêu
ngạo của ho. Những kỹ nghệ gia và thương gia đã gặt hái được tài sản và tích luỹ
được kinh nghiệm trong lãnh vực kinh doanh và kinh tế, nhưng nhiều khi họ rất cận
thị trong chính trị, thường hay thiếu sự điềm tĩnh và khôn ngoan. Lòng yêu nước
và tính trung thực là hai đức tính được quý trọng nhất, nhưng tài sức phải được
sinh ra từ một văn hoá trí thức và khoa học. Có đảng phái chính trị nào mà
không mong có trong hàng ngũ của mình những người kết hợp được văn hoá trí thức
và khoa học cùng với lòng yêu nước và tính trung thực? Ngay cả khi vấn đề đa
nguyên đa đảng, chuyện đã làm tốn bao giấy mực và nước bọt, chuyện mà đảng cộng
sản phản đối kịch liệt với một sự bền bỉ không thể hiểu nổi, được tuyên cáo và
công nhận, người ta cũng chưa biết được đảng nào có thể đạt được trong tức thời
số lượng phiếu bầu phổ thông đủ để có thể thành lập một chính phủ cho cả nước.
Một lý do khác mà chúng ta phải ghi nhận. Dù có ghét hay thương
cộng sản, mình cũng phải công nhận rằng những người lãnh đạo nó đã phải chịu đoạ
đầy vì lòng yêu nước của họ. Những thế hệ kế tiếp và những người nối nghiệp thì
không thể tự hào là có cùng cái hào quang đó. Dù vậy, trong số những kẻ kế thừa
vẫn có những người mà lòng trung chính, dù thiếu khả năng, vẫn xứng đáng để
chúng ta ngả mũ chào, còn bao nhiêu kẻ khác chẳng có chút khả năng nào lại thêm
thiếu đạo đức nhưng hết mực bám vào Đảng vì Đảng đã tổ chức và bảo vệ quyền lợi
cá nhân của họ. Những tay cộng sản đó hết sức quyết tâm chiến đấu đến chết cho
Đảng. Cuối cùng, trong quần chúng người ta thấy hàng trăm ngàn người như thế,
trong quân đội, trong nhà máy, trong tầng lớp nông dân, là những người đã hưởng
một sự giáo dục tư tưởng trong nhiều năm, nhưng lại không có văn hoá, thiếu đầu
óc phán xét và tinh thần phê bình và lại sa vào sự cuồng tín, có niềm tin sắt
đá vào những sự thực được dạy bởi Đảng và sẵn sàng đổ máu, và nếu cần cả tính mạng
để bảo vệ cái Đảng của Hồ Chí Minh, chống lại mọi kẻ đối nghịch và kẻ thù nào
muốn lật đổ họ hay tiêu diệt họ. Quân đội một bên, một bên kia là hàng triệu kẻ
cuồng nhiệt và kẻ cuồng tín, hai thành trì cò thể tiêu diệt mọi đám người muốn
đến giải phóng Việt Nam. Họ phải ngưng tự ảo tưởng về mình, phải ngưng trò Don
Quichotte.
Cái bí mật của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc
phán đoán những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi hỏi
phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật pháp quốc tế. Những
điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh tế của nước liên hệ mà sự thịnh vượng,
dù đã bị giới hạn, là rất cần thiết cho sự thành công của nó, cho niềm vui hưởng
những quyền tự do và những quyền của con người. Đối với những gì mà cộng sản đã
tuyên truyền cho chủ nghĩa Marx - Lenin, người ta cũng phài làm như thế để quảng
bá dân chủ. Muốn áp dụng dân chủ, chúng ta cần phải học những nguyên tắc và tổ
chức những định chế cho phép sự vận hành nó. Bản chất của dân chủ, trong ý
nghĩa sâu sắc và cái tác dụng toàn diện của nó, dân chủ gồm hai nội hàm không
thể phân ly, cái này dính với cái kia: đó là nội hàm ‘Chính phủ do dân’ và nội
hàm ‘Chính phủ vì dân’. Thật là xấu hổ nếu cứ mưu mẹo lập lờ trên chữ nghĩa và
cho rằng ‘Chính phủ cho dân’ là đủ. Đó là điều bịp bợm. Nếu nhân dân không hành
động và kiểm soát thì không một ai có thể thay thế vào chỗ của họ. Dưới danh
nghĩa là làm CHO dân, họ đã phạm bao nhiêu điều bỉ ổi và đã lấy những quyết định
gây thiệt hại ít nhiều cho quyền lợi của nhân dân.
Nhân dân có quyền đặt cho Nhà Nước vài câu hỏi: trước đợt thuỷ
thiều đang dâng của dân chủ và chủ nghĩa tự do, tại sao các ông cứ cứng đầu chối
bỏ cái hiện thực và các ông cứ bám chặt một cách tuyệt vọng vào cái tôn chỉ đã
lạc hậu không còn cứu vãn được gì nữa ? Giữa chủ thuyết của các ông và quyền lợi
của Tổ Quốc vá Nhân Dân, các ông nghiêng về phía nào ? Những đoá hoa đang cắm ở
bình, hoa mà các ông đã du nhập từ nước ngoài vào, nay đã héo tàn. Cho đến bao
giờ các ông không còn khư khư yêu mến cái xác ướp không bao giờ còn có thể hồi
sinh được nữa ? Và, nhất là hãy giải thích cho nhân dân tại sao các ông lại căm
ghét sự đa nguyên đa đảng như thế! Thật xấu hổ khi thấy những kẻ cuồng tín gồm
một phần lớn là những người đã nhận sự giáo dục và lệnh của các ông, và số còn
lại là những con cừu thiếu văn hoá, không chút gì hiểu biết về thực tiễn của thế
giới, ù lì không thể thấm hiểu được những đổi mới, những thay đổi. Tới nay thì
các ông cũng buộc phải thú nhận cái thất bại tả tơi trong xã hội và chính trị,
nơi mà cái độc quyền chính trị đã cho phép một sự phình to của quyền lực, mở cửa
cho một sự bùng nổ của ích kỷ; đạo đức của những người có quyền có thế càng
ngày càng suy sụp và mức phạm tội hình sự của họ càng ngày càng tăng với một tốc
độ chóng mặt. Các ông phải công nhận thêm rằng, trong lãnh vực kinh tế, các ông
đã chịu một thảm bại không thua gì cái thảm bại của trận Waterloo. Bởi cái ngu
dốt và thói con vẹt của các ông đã dẫn dắt các ông theo gương của những ông
anh, các ông đã khinh thường khoa học và thực tiễn, nói một cách gọn là những định
luật khoa học. Kết quả không cần phải chờ lâu: sự sụp đổ, đẩy cả nền kinh tế
duy y chí vào đổ nát, hàng triệu người lao động tay chân và trí óc bị buộc phải
thất nghiệp và khổ sở kinh hoàng và nền kinh tế của cả nước với ước vọng là sẽ
cất cánh, nhưng lên khỏi mặt đất là chỉ những khu vực không đáng kể như công
nghiệp nhỏ, thủ công mỹ nghệ và nông nghiệp, và cho thấy không thể bay cách nào
hơn là cứ la đà trên mặt đất ! Nếu, những gì liên quan đến những gì về xã hội,
chính trị và kinh tế, là một sự sụp đổ hoàn toàn, thì thứ gì còn lại được an
toàn vô sự trong một đất nước mà những nền tảng đã sụp, và, mà sự phân rã không
thể che dấu được? Âm điệu rỗng tuếch của những lời tuyên bố và những lời hứa
làm tức tối những người đang bị dính vào nỗi khổ đau không dứt, những người
đang tự hỏi tại sao Đảng không áp dụng cho chính họ điều mà họ đã dạy «Một tội
tự thú là một tội đã được giảm 50% án phạt». Làm thế nào những người cộng sản để
giài quyết tình trạng xung đột quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Dân Tộc và Tổ
Quốc ? Quyết định của quý ông sẽ là cơ sở để Dân Tộc và Lịch Sử dùng để phán
xét các ông và Đảng của các ông.
Công luận nhận thấy các ông đã làm một bước tiến trên con đường
«đổi mới». Như thế là các ông bắt đầu thú nhận cái thất bại của các ông. Nhưng
các ông, cũng như nhân dân Việt Nam, có bằng lòng về giải pháp nửa chừng chỉ có
một số tác động điều trị trên một vài lãnh vực được chỉ định, trong khi cơn bệnh
đã tấn công toàn cơ thể của quốc gia và cơ cấu của nó? Các kiêu hãnh về những
hy sinh đáng kể trong đời mình mà với chúng các ông tỏ lòng biết ơn Đảng. Chủ
nghĩa anh hùng của các ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên
bàn thờ của Tổ Quốc và Nhân Dân? Đất Nước và Nhân Dân Việt Nam đang chờ câu trả
lời của các ông.
Hà Nội ngày 13 tháng 5 năm 1991
Nguyễn Mạnh Tường [*]
____________________________
[1] Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la
Clémence d'Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe lời
người yêu là Émilie mà rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của Émilie bị vua
giết tội. Mặc dấu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị trị tội mà được vua
August ân xá và ban chức tước.
[*] Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà
Nội. Ông theo học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Sau đó du
học tại Đại học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới 22 tuổi ông
trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu hạng Luật khoa
(Luận án: L'individu dans la vieille cité annamite, Code des Lê. D.E., Droit,
Montpellier, Imp. de la Presse Montpellier 1932) và Tiến sĩ Quốc gia văn chương
(với luận án L'Annam dans la littérature française, D.E., Lettres, Montpellier
1932). Báo chí thời ấy đã coi người thanh niên Việt Nam trong một năm đỗ 2 bằng
tiến sĩ là hiện tượng chưa từng có trong nền giáo dục đại học Pháp. Bạn tri âm
của ông là Nguyễn Văn Huyên, người cũng làm luận án Tiến sĩ Văn khoa tại Pháp.
Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn học Pháp ở
trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat), hay còn gọi là trường Bưởi (từ
1945 đổi tên thành trường Trung học Chu Văn An). Bất mãn với chính sách kỳ thị
của Pháp khiến ông bỏ dạy và mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự số 1 và số 2
phố Mai Xuân Thưởng. Về sau gia đình đã hiến tất cả cho Nhà nước, làm trụ sở cơ
quan tiếp dân của Thanh tra Chính phủ.
Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp ông làm luật sư
và dạy học tại Thanh Hoá và khu ba nói chung, giữ chức vụ Phó Giám đốc Trường
Sư phạm cao cấp liên khu Bốn. Đến khi hòa bình lập lại năm 1954, ông trở về Hà
Nội, là giáo sư trường Đại học Văn khoa (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội).
Sau 1954 ông giữ các chức vụ Trưởng khoa Đại học Luật Hà Nội,
Phó chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Đoàn Luật sư, Phó Trưởng khoa Đại
học Sư phạm Hà Nội; thành viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
thành viên của Hội Hữu nghị Việt-Pháp, Hội Hữu nghị Việt-Xô và Uỷ ban Bảo vệ
Hoà bình Thế giới, sáng lập viên Câu lạc bộ Đoàn Kết, Phó hiệu trưởng trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên nghiên cứu giáo dục. Ông tham gia phái đoàn
chính phủ dự hội nghị trù bị Đà Lạt, dự các hội nghị hoà bình thế giới ở Bắc
Kinh và Vienna.
Đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa Bình ở Vienne (1952): Người đứng giữa
ôm cặp là Ls. Nguyễn Mạnh Tường
Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân
Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng
tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường.
Ông nêu hai nguyên nhân khiếm khuyết về dân chủ thời bấy giờ:
a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh
thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng
với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ,
và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do
dân chủ.
b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước,
do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức
dân chủ cho quần chúng.
Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học
Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi... nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt
là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng
Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
Ngày 30 tháng 10 năm 1956 luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách
thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc họp của Mặt
trận Tổ quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc những sai lầm của Đảng và Nhà nước
trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng tránh mắc lại. Sau phát biểu
này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp.
Ông mất ngày 13 tháng 6 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường có vợ là bà Tống Lệ Dung, có ba con, một
trai và hai gái. Người con trai cả (Nguyễn Tường Hưng nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Kế
hoạch các Bộ: Mỏ và Than, Năng lượng và Công nghiệp) và người em ngay sát ông đều
đã nghỉ hưu. Con rể ông là nhạc sĩ, nhà lý luận phê bình âm nhạc Hồ Quang Bình,
Phó Chủ tịch Thường trực Hội Âm nhạc Hà Nội.
Tác phẩm
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường để lại 14 tác phẩm bằng tiếng Pháp và
4 tác phẩm tiếng Việt.
• Văn Phạm Việt Nam (cùng Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim) (1941)
• Việt Nam Tự Điển (Hội Khai Trí Tiến Đức)
• Construction de l'Orient (1937)
• Sourires et Larmes d'une Jeunesse (1937)
• Pierres de France (1940)
• Apprentissage de la Méditerranée (1940)
• Le Voyage et le Sentiment (1940)
• Một Cuộc Hành Trình (1955)
• Un Excommunité-HàNội: 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Quê
Mẹ Paris xb 1992)
• Lý luận giáo dục châu Âu: Từ Érasme tới Rousseau thế kỷ XVI,
XVII, XVIII (Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội – 1994, 530 trang)
• Aikhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hi Lạp (Nhà xuất bản Giáo
dục 1996)
• Virgile - nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La mã cổ đại (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
1996, 342 trang)...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét