Phạm Khải
Giáo sư
Nguyễn Mạnh Tường là một trí thức Việt Nam có học vị cao nhất thời Pháp thuộc.
Chưa đầy 23 tuổi, tại một trường đại học vào loại danh giá của nước Pháp, ông
đã giành trọn hai tấm bằng: Tiến sĩ Luật và Tiến sĩ Văn chương, trở thành một
hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa cử của hai nước Việt - Pháp. Được
biết, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã kỷ niệm 100 năm ngày sinh của GS Nguyễn
Mạnh Tường vào cuối tháng 12/2009 vừa qua,...
Tháng 10-1927, sau khi
tốt nghiệp tú tài triết học loại ưu ở trường Albert Sarraut, chàng trai quê Từ
Liêm, Hà Nội Nguyễn Mạnh Tường được cấp học bổng sang học tại ban Văn- Trường
đại học Montpellier, một trong những trường có truyền thống lâu đời của nước
Pháp.
Tại đây, bằng sức học phi thường của mình, chỉ trong vòng ba năm
ông đã liên tiếp đỗ các bằng: Cao đẳng Văn chương, Cao đẳng Cổ văn Hy- La, cử
nhân Văn khoa, cử nhân Luật khoa, Cao đẳng Ngôn ngữ và văn tự cổ điển. Thành
tích của Nguyễn Mạnh Tường đã khiến thầy trò người Pháp phải vô cùng kinh ngạc.
Đặc biệt, lễ bảo vệ luận án tiến sĩ Luật (đề tài Cá nhân trong xã hội cổ nước
Nam. Tổng luận về Luật nhà Lê) diễn ra ngày 28-5-1932 của ông đã thu hút nhiều
người và được đánh giá là một sự kiện làm rạng danh Trường đại học Montpellier.
Bài luận văn của ông vừa là một kiệt tác về luật học, vừa về văn học nữa 23
tuổi đã đỗ Luật khoa tiến sĩ, lại sắp thi Văn khoa tiến sĩ, thật là 'cổ lai hãn
hữu'- Ông chánh chủ khảo, một giáo sư danh tiếng người Pháp, đã phải trầm trồ.
Quả tình, từ trước cho tới bấy giờ (và cả đến tận năm 2001 này nữa) nước Pháp
vẫn chưa có ai ở tuổi 23 giành được một lúc hai bằng tiến sĩ như thế.
Tuy nhiên, song song
với lời khen ngợi vô tư ấy, trên báo chí Pháp cũng đã xuất hiện lời 'cảnh báo'
của nhà bình luận Clément Vautel:'Người Pháp nên cẩn thận, để người Việt
Nam được học, và học giỏi như vậy, liệu về nước họ có chịu ngồi yên không?'
Quả nhiên là không. Nếu
như trước đây, vì lòng tự hào dân tộc, chàng trai Nguyễn Mạnh Tường đã không
ngừng vươn lên trong học tập, thì bây giờ, với quan điểm học cao không phải để
lấy mảnh bằng về bóc lột nhân dân, ông đã dứt khoát từ chối những thứ quyền
chức mà chính quyền thực dân chèo kéo. Nguyện vọng của ông là muốn được đứng
trên bục giảng, góp phần nâng cao trình độ nhận thức cho học sinh, sinh viên
Việt Nam.
Tháng 9-1932, Nguyễn
Mạnh Tường về nước. Chán nản vì thấy chính quyền thực dân không sắp xếp công
việc cho mình như nguyện ước, ông lại bỏ sang Pháp. Từ đó, bằng tiền học bổng
để đi nghiên cứu, suốt ba năm liền Nguyễn Mạnh Tường ngao du khắp các xứ Âu,
Phi. Dấu ấn lưu lại những tháng năm này là mấy cuốn sách ông viết bằng tiếng
Pháp, trong đó có cuốn Sourire
et larmesdune jeunesse,...(Nụ cười và giọt lệ của một tuổi thanh niên)
nói lên nỗi tủi cực của thanh niên các nước thuộc địa trong bước học hành và
một cuốn sách ca ngợi tình yêu được các nhà phê bình tên tuổi Pháp chú ý.
Nhà sư phạm lỗi lạc
Năm 1936, Nguyễn Mạnh
Tường về nước. Chính quyền thực dân vẫn có ý canh dè ông. Bấy giờ, Pháp đang
trù tính xây dựng một trường đại học Văn ở Việt Nam, nhưng vì thấy tất cả các
giáo sư Pháp ở đây không ai có được bằng tiến sĩ như Nguyễn Mạnh Tường, nên lại
thôi. Thay vì việc đó, Nguyễn Mạnh Tường được bổ nhiệm về dạy Trường trung học
bảo hộ (dân gian quen gọi là Trường Bưởi), ở lớp đào tạo các tú tài bản xứ.
Tôi đã được nghe rất
nhiều lời ca tụng của các cựu học sinh Trường Bưởi (trong đó có nhiều người
hiện là giáo sư đầu ngành) về tài năng sư phạm của thầy Nguyễn Mạnh Tường. Giáo
sư Trần Văn Hà, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Chăn nuôi và Thú y nhớ lại:
Thật là diễm phúc được học thầy. Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường hấp dẫn, cuốn hút
chúng tôi trong tất cả các buổi truyền thụ kiến thức văn học Pháp, tư duy triết
học Pháp, La Mã, Hy Lạp, đặc biệt là tính lôgic của tư duy triết học Montaigne,
Rousseau. Điều lạ là, suốt bao năm theo học thầy, tôi chưa bao giờ thấy thầy
đến lớp mà mang theo giáo trình. Cứ vừa đi giữa hai hàng ghế, hai ngón tay cái
móc vào túi áo gilê, thầy vừa đọc, giảng, rất ấn tượng. Theo nhận xét của Giáo
sư Hà thì về giảng dạy văn học Pháp ở Trường Bưởi, thế kỷ XX không ai giảng hay
hơn thầy Tường. Và sang thế kỷ XXI cũng chưa dễ có ai vượt qua được.
Về việc giảng bài không
cần giấy tờ, trong một bài kể về thời kỳ ở Trường Bưởi, Giáo sư Nguyễn Mạnh
Tường giải thích: Tôi đã học được ở bên Pháp rằng muốn cho các thính giả giữ
trật tự, diễn giả cần đưa mắt nhìn thẳng vào các thính giả. Nếu diễn giả lúc
nào cũng cúi đầu nhìn tờ giấy mình mang đi để nhớ lại những điều mình cần nói
thì các thính giả cũng khó giữ được trật tự. Do đó, khi vào lớp không bao giờ
tôi mang theo giấy tờ. Tất nhiên, nói là vậy, để thực hiện được như Giáo sư
Tường phải là người có trí nhớ tuyệt vời và suy ngẫm rất thấu đáo về những điều
mình nói.
Là một người thông
minh, tài hoa, lại giàu lòng yêu nước, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đặc biệt tỏ ra
chăm chút những học trò hội đủ các yếu tố ấy. Thậm chí, khi họ gặp hoạn nạn,
cần đến bàn tay giúp đỡ, không bao giờ ông từ nan. Câu chuyện sau đây là một ví
dụ: Trong số các học trò được thầy Tường chú ý, có một người sớm bộc lộ khả
năng thiên phú về thơ văn và âm nhạc. Vậy mà một lần, người học trò này bị mật
thám Pháp xộc vào bắt ngay tại lớp, trước mặt thầy Tường và tất cả chúng bạn.
Trước hành động bạo ngược đó, thầy Tường rất phẫn nộ. Ông đã đích thân đi gặp
Thống sứ Chatel, yêu cầu thả người học trò của mình. Mặc dù viên Thống sứ giải
thích với thầy Tường lý do anh học trò bị bắt vì có tham gia vào một tố chức âm
mưu chống lại nước Mẹ Đại Pháp, song vì 'nể lời' ông, nên y đồng ý thả anh ra.
Chuyện này rất ít người biết và bản thân Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường cũng chưa hề
kể với ai (và người học trò được tha năm ấy cũng không biết đến sự can thiệp
của ông). Tuy nhiên, đối chiếu với các tình tiết mà những bạn đồng lớp với
người học trò ấy cung cấp (trong cuốn Thầy trò Trường Bưởi- Chu Văn An), ta có
thể xác định đó chính là nhà văn Nguyễn Đình Thi bây giờ.
Sự nghiệp dạy học của
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường tạm thời đứt đoạn vào năm 1944, do ông mâu thuẫn với
nhà trường thực dân vì không chịu tham gia tuyên truyền cho chính sách thu mua
lúa giúp Nhật của họ. Để giữ được cốt cách ngay thẳng của mình, Giáo sư Nguyễn
Mạnh Tường nộp đơn xin ra khỏi giáo giới và về nhà mở văn phòng luật sư.
Khi tiến sĩ luật khoa
vào cuộc
Cách mạng Tháng Tám
thành công. ánh nắng vừa mới bừng lên thì đồng thời mây đen cũng ùn ùn kéo tới.
Đã có lúc vận mệnh dân tộc ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc.
Một ngày đầu xuân 1946,
Hồ Chủ tịch cho mời luật sư Nguyễn Mạnh Tường tới, đề nghị ông tham gia vào
phái đoàn Chính phủ chuẩn bị đàm phán với Pháp ở Đà Lạt. Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường thưa với Người là ông sợ không kham nổi việc lớn đó. Bác nói: Chúng tôi
đã thăm dò ý kiến của nhiều anh em. Anh em đều tán thành: Việc này thì phải nhờ
luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Trở về nhà, ông Tường đem chuyện đó trao đổi với
tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên, người bạn thân với ông từ thời bên Pháp. Ông Huyên cổ
vũ: Đây là lúc cần thực hiện chí hướng của chúng ta từ bao lâu nay. Nghe lời
bạn, ông Tường cho đóng cửa văn phòng luật sư, suốt hai tháng trời dốc sức sưu
tầm, nghiên cứu các luật về chủ quyền quốc gia của các nước để chuẩn bị cho
cuộc đàm phán.
Ai từng đọc hồi ký Một vài ký vãng về hội nghị Đà Lạt của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, hẳn sẽ
nhận thấy vai trò của từng cá nhân trong đoàn ta tại hội nghị này. Tuy nhiên,
khách quan mà nói, được ghi lại đậm nhất là các hoạt động của đồng chí Võ
Nguyên Giáp (Phó đoàn, Chủ tịch ủy ban quân sự) và luật sư Nguyễn Mạnh Tường
(một trong số 24 thành viên của đoàn, Chủ tịch ủy ban Văn hóa). Bấy giờ Pháp
đang cậy thế mạnh quân sự muốn ép ta trên bàn hội nghị. Lý lẽ chúng đưa ra là
lý lẽ cá lớn nuốt cá bé. Nhưng, với thái độ găng
mà không gãy (lời Hồ
Chủ tịch dặn đoàn trước khi đi), cộng với trí nhớ phi thường và khả năng lập
luận sắc sảo, vị luật sư của nước Việt Nam mới đã khiến không ít đối thủ người
Pháp phải rơi vào tình thế lúng túng, kinh ngạc bởi những viện dẫn chính xác
của ông về những điều khoản đã được ghi trong luật quốc tế.
Kháng chiến toàn quốc
bùng nổ. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cùng toàn thể gia đình rời Hà Nội. Kể ra,
với học vấn như ông, chỉ cần chấp nhận ở lại Hà Nội hoặc chuyển sang Pháp hành
nghề là ông có thể có một cuộc sống đặc biệt sung túc. Song, người trí thức yêu
nước đã dứt khoát gắn bó cuộc đời mình với cuộc sống chiến đấu của nhân dân. Bỏ
lại 4 cơ ngơi, dinh thự trong thành phố tạm bị chiếm (3 trong 4 tòa nhà đó sau
này về tiếp quản ông đã hiến cho Chính phủ, trong đó có một biệt thự ở Hồ Tây,
hiện là trụ sở của Ban Thanh tra Chính phủ). Nguyễn Mạnh Tường lăn mình vào
khói lửa kháng chiến. Ông được đồng chí Bùi Lâm đón lên Việt Bắc tham gia công
tác luật sư cho Chính phủ, mỗi tháng phải đi một tỉnh, tùy theo Tòa án Quân sự,
Tòa án Nhân dân điều động. Tuy suốt thời gian công tác như vậy (đến năm 1951),
ông không hề có lương, vì bấy giờ ở ta chưa có biên chế cho luật sư, song qua
những mẩu hồi ức của Nguyễn Mạnh Tường, ta có thể thấy với ông, đó là những
ngày tháng lý thú nhất. Với tài lập luận của mình, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã
gỡ tội cho nhiều người, đem lại sự công bằng và làm người dân thêm tin yêu chế
độ. Trong đó có một câu chuyện đến nay vẫn được truyền tụng, như thể giai
thoại.
Năm ấy, ở làng Xuân
Thọ, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình có xảy ra vụ giết người. Thủ phạm là một
nông dân. Anh này trong một lần đi làm đồng về, bất thần chứng kiến cảnh một gã
đàn ông đang ôm ấp vợ mình. Quá uất hận, sẵn có cái cuốc trên tay, anh thẳng
cánh giáng cho kẻ tình địch một nhát, khiến y chết ngay tại chỗ. Tòa mở phiên
xét xử. Anh nông dân bị khép án tử hình. Nhưng thật bất ngờ, khi nói lời cuối
cùng, anh này đã xin phép cho anh ta được hôn vợ ông chánh tòa trước khi chết.
Mới chỉ nghe vậy, ông chánh tòa đã đập bàn quát mắng ầm ĩ, nói anh nông dân kia
hỗn láo, chết là đáng. Trên cương vị luật sư bào chữa, Nguyễn Mạnh Tường bấy
giờ mới cất lời: Thưa ông chánh tòa, ông là người có học thức, suy nghĩ chín
chắn mà trước một câu nói không đâu của người sắp chết, còn nổi giận ghê gớm
như thế, nói chi anh nông dân nghèo ít học kia, trông thấy người đàn ông khác
trong buồng vợ mình thì sự giận dữ đến mức thiếu suy nghĩ là điều có thể hiểu
được. Vậy là người nông dân kia được giảm án.
Ngoài các hoạt động đơn
lẻ ở một số tỉnh, thành trong nước, từ sau 1950, khi ta mở rộng quan hệ ngoại
giao với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã được
lựa chọn vào đoàn Chính phủ đi dự Hội nghị Bảo vệ hòa bình thế giới ở Bắc Kinh
năm 1952 và ở Vienne năm 1953. Năm 1956, ông là Trưởng đoàn Luật gia Việt Nam
đi dự Hội nghị Luật gia dân chủ thế giới họp ở Bruxelles (Bỉ).
Còn đó những công trình
Hòa bình lập lại trên
miền Bắc, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường được Chính phủ tín nhiệm giao phó một số
công việc quản lý (có thời kỳ ông giữ tới 10 chức vụ): Phó giám đốc Trường đại
học Sư phạm Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Luật
sư, ủy viên BCH Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ủy viên ủy ban Bảo vệ hòa
bình thế giới, ủy ban Đoàn kết á Phi của Việt Nam, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đoàn
kếtttt Tuy nhiên, như ước nguyện ở tuổi 20, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường chỉ mong
sao được sống, hoạt động trong môi trường văn chương. Sau khi lần lượt rời bỏ
các chức vụ kể trên, ông chuyển về làm việc tại Nhà xuất bản Giáo dục, sau đó
làm chuyên viên nghiên cứu Văn học nước ngoài ở Viện Khoa học giáo dục. Đến năm
1970 thì ông chính thức nghỉ hưu.
Sinh thời, Giáo sư
Nguyễn Mạnh Tường đã cho xuất bản 18 đầu sách, có 4 cuốn bằng tiếng Việt. Trong
đó, cuốn 'Lý luận giáo dục Châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII' được các nhà
lãnh đạo ngành Giáo dục đánh giá là một công trình nghiên cứu đồ sộ lần đầu
tiên giới thiệu ở nước ta một cách có hệ thống các lý luận giáo dục điển hình
của thời kỳ Phục hưng và thời kỳ ánh sáng.
Giáo sư Nguyễn Mạnh
Tường qua đời ngày 13-6-1997, hưởng thọ 88 tuổi. Đám tang của ông là một cuộc
hội ngộ đầy xúc động của các thế hệ học trò ông, trong đó có rất nhiều người
nay đã thành danh, được cả nước biết đến. Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, mặc dù
khi đó đã ngoài 90 tuổi, nhưng không quản ngại tuổi cao sức yếu vẫn nhờ người
đưa đến viếng Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường. Thay mặt BCH Trung ương Đảng, các đồng
chí Đỗ Mười (khi đó là Tổng Bí thư) và Nguyễn Đức Bình (khi đó là ủy viên Bộ
Chính trị) đã đến viếng Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường và xúc động viết vào sổ tang,
khẳng định ông là một trí thức yêu nước đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và góp phần xây dựng nền giáo dục Việt
Nam.
Hiệu trưởng Trường ĐH Paris VII danh
tiếng từng nói về Nguyễn Mạnh Tường: “Đã 60 năm qua, trên đất nước Pháp này,
chưa có một SV Pháp hay SV quốc tế nào phá được kỷ lục của Giáo sư kính mến:
hai bằng Tiến sĩ nhà nước ở tuổi 22”.
Đó là lời chào ấn tượng của vị hiệu trưởng
dành cho người cựu học sinh quốc tịch Việt Nam, năm 1989, khi Nguyễn Mạnh
Tường có dịp trở lại mảnh đất nơi ông đã thành tài.
Luận văn là một kiệt tác
Ngày 29/5/1932, nhật báo Le petit
Meridional xuất bản ở thành phố Montpellier đăng bài diễn văn của Chủ
tịch Hội đồng giám khảo trường Đại học của thành phố, nhận xét về luận án của
một nghiên cứu sinh Việt Nam. Vị Chủ tịch phải thốt lên những lời mang tính
ngoại lệ: “Luận văn của Ngài quả là một tác phẩm pháp lý, hơn nữa còn là một
tác phẩm pháp lý và văn học. Nền tảng của tác phẩm thật là vững vàng và không
hề có một lời chỉ trích nào. Cả hình thức cũng thật xán lạn... Công trình
nghiên cứu của Ngài thực sự là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh.
Đại học Montpellier rất hân hạnh
được chứng kiến Ngài đã thành công huy hoàng trong cả hai khoa khác nhau. Cử
nhân Luật khoa vào năm 22 tuổi, Ngài đã sẵn sàng để trở thành Tiến sĩ Văn
chương. Điều đó thực sự lập nên một kỷ lục, và trên đất Pháp này, người ta chưa
từng thấy bao giờ một vị tiến sĩ văn chương 22 tuổi...
Còn đối với tác phẩm pháp lý của Ngài, chúng
tôi chỉ có thể nói lên một lời duy nhất thật tốt đẹp và cũng thật đầy đủ rằng
luận văn này thật mạnh mẽ, nó là một kiệt tác với đầy đủ ý nghĩa của từ này, nó
làm chúng tôi phải suy nghĩ. Tác phẩm này thật xứng đáng với Ngài và nó làm vẻ
vang cho tất cả Khoa Luật của trường đại học. Hội đồng giám khảo xin dành cho
Ngài số điểm cao nhất và với lời phê: “Xuất sắc với lời khen ngợi của cả Hội
đồng”.
Tên gọi của luận văn ấy là “Cá thể trong thành
phố An Nam cổ xưa - tiểu luận tổng hợp về Bộ Luật của nhà Lê (thế kỷ
XV)”. Và tác giả được Hội đồng trân trọng gọi bằng “Ngài” ấy là chàng trai Việt Nam 22
tuổi Nguyễn Mạnh Tường.
Dư luận cảm phục - Thực dân e ngại
Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16/9/1909 tại phố
Hàng Đào, vốn gốc ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội trong một gia đình rất
coi trọng việc học. Ở tuổi 16, Nguyễn Mạnh Tường đã hoàn thành tấm bằng tú tài
triết học loại ưu tại một trong những Trường trung học danh giá nhất Đông
Dương, mang tên viên Toàn quyền Albert Sarraut. Cũng nhờ học lực xuất sắc mà
mới 16 tuổi, cậu học trò Việt Nam ấy đã lên đường sang du học ở Pháp.
Chỉ ba tháng sau khi nhập học vào Trường Đại
học Montpellier, ở tuổi 17, Nguyễn Mạnh Tường đã có trong tay Chứng chỉ Văn
chương Pháp (Certificat de la Littérature Francaise) trước sự kinh ngạc của các
thày trò người Pháp đối với tài học của một chàng trai bản xứ. Năm 19 tuổi, cậu
lại đoạt bằng cử nhân văn chương hàng ưu đẳng khiến cho các thày dạy kính nể và
tạo điều kiện cho Nguyễn Mạnh Tường lấy luôn mảnh bằng danh giá Tiến sĩ Văn
chương Nhà nước Pháp.
Và đến năm 1932, bước qua tuổi 23, Nguyễn Mạnh
Tường đã làm nên một kỳ tích như các thầy đã đánh giá: cùng một lúc đạt cả hai
bằng Tiến sĩ Nhà nước Pháp trên cả hai bộ môn văn chương và luật học. Sự kiện
liên quan đến một trí thức trẻ người thuộc địa gây sự cảm phục của dư luận bao
nhiêu thì chính quyền thực dân cũng e ngại bấy nhiêu như lời doạ dẫm của một
phần tử thực dân tên là Clémenti Vautel trên tờ “Nhật báo” (Journal): “Người
Pháp nên cẩn thận. Để người Việt Nam được học và học giỏi như vậy,
liệu về nước họ có chịu ngồi yên không?”.
Một ấn tượng không bao giờ phai
Quả y như rằng, Nguyễn Mạnh Tường về nước với
những thành tích vang dội, dân chúng ngưỡng mộ, giới trí thức đón tiếp ông nồng
nhiệt, nhưng học lực của ông vấp phải sự thờ ơ của chính quyền.
Lúc này, trong nước bắt đầu khủng hoảng kinh
tế, phong trào cách mạng bị đàn áp đang lắng xuống. Không có ai trọng dụng,
Nguyễn Mạnh Tường lại qua châu Âu thực hiện một chuyến đi khảo sát và tiếp tục
học hỏi ở nhiều quốc gia như Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Bỉ, Đức,
Áo-Hung... Đó cũng là thời kỳ ông sáng tác được nhiều cuốn sách viết bằng Pháp
ngữ chất chứa trong đó khát khao hiểu biết và cống hiến của một người trẻ tuổi
đang khắc khoải vì đất nước mình còn là thuộc địa của một quốc gia được coi là
văn minh mà ông rất ngưỡng mộ.
Sau này, Nguyễn Mạnh Tường từng kể rằng, khi
mới 23 tuổi, còn trẻ măng vừa về nước với hào quang danh dự mang từ chính quốc
về, ông gặp một người luống tuổi ngang bậc cha chú của mình quỳ xuống vái ông
và khẩn cầu ông đừng lấy cái tài của mình làm việc cho Tây. Sự việc đó đã để
lại một ấn tượng không bao giờ phai trong ông.
Vì thế, năm 1936, khi ở chính quốc và Việt Nam
dấy lên Phong trào Mặt trận Bình dân, Nguyễn Mạnh Tường đã về nước và tham gia
giảng dạy tại một trường trung học danh giá nhất dành cho người Việt Nam và sau
này cung cấp nhiều nhà cách mạng: Trường Bưởi (mà ngày nay mang tên Chu Văn
An).
Ông dạy các bộ môn kinh điển của nền văn hoá
phương Tây liên quan đến văn chương và luật pháp. Đồng thời ông cũng mở văn
phòng luật sư được nhiều người biết đến ở đường Gambetta (nay là Trần Hưng
Đạo), Hà Nội. Nguyễn Mạnh Tường có một số bài giảng tại Đại học Đông Dương như
một ngoại lệ dành cho một tri thức thuộc địa.
Góp phần quảng bá Việt Nam kiên cường, trí tuệ
Cách mạng tháng Tám bùng nổ mở ra cho Nguyễn
Mạnh Tường cơ hội cống hiến cho Tổ quốc. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham
gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Đà Lạt nhằm ngăn chặn âm mưu tái chiếm
thuộc địa của thực dân Pháp, cùng nhiều trí thức yêu nước khác như Hoàng Xuân
Hãn, Vũ Văn Hiền... và cả những nhà hoạt động chính trị theo nhiều khuynh hướng
như Nguyễn Tường Tam (trưởng đoàn) và Võ Nguyên Giáp (phó đoàn). Trong bối cảnh
ấy, cái mẫu số chung là tinh thần ái quốc đã gắn kết họ lại trong một mục tiêu
chung là bảo vệ nền độc lập.
Chiến tranh bùng nổ, Nguyễn Mạnh Tường cũng
như số đông trí thức ViệtNam khác chấp nhận cuộc sống và chiến đấu gian
khổ ngoài chiến khu.
Với tầm kiến thức rộng lớn, ông tham gia vào
các Đoàn Đại biểu của nhà nước kháng chiến dự Hội nghị Bảo vệ Hoà bình ở Bắc
Kinh (1952), Đại hội Hoà bình Thế giới ở Vienna (1953), rồi làm trưởng đoàn
Việt Nam tham dự Hội nghị Luật gia Dân chủ Thế giới ở Bruxelles. Lập luận và
hiểu biết của Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần làm cho thế giới biết đến một Việt Namkháng
chiến, kiên cường và trí tuệ...
Những tháng năm sóng gió
Kháng chiến thành công, vị giáo sư được nhà
nước cách mạng phong bước lên bục giảng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Những
tưởng, cơ hội để Nguyễn Mạnh Tường có thể đóng góp nhiều nhất cho nền giáo dục và
học thuật của nước nhà, nhưng cuộc đời trớ trêu lại đẩy ông đến một
bi kịch lớn.
Vị giáo sư đầy trí tuệ nhưng lại không đủ khả
năng vượt qua những thử thách trên con đường phát triển của đất nước giữa lúc
vừa lo xây dựng đất nước theo một mô hình chưa rõ ràng, đầy những khúc quanh và
cạm bẫy của những sai lầm tả khuynh, lại vừa phải đi tiếp cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước vô cùng gian khổ. Đó là thời kỳ mà những lời
nói thẳng luôn bị va đập vào bức tường của những giáo điều.
Nguyễn Mạnh Tường không những không phát huy
được những điều ông học hỏi và tích lũy được cho đến độ mà ông đã nhiệt tâm
phụng sự mà còn rơi vào những khủng hoảng về tư tưởng và gánh chịu nhiều thử
thách mà chỉ có những người trí thức thực tâm yêu nước như ông mới vượt qua
nổi.
Chính trong thời gian đầy sóng gió này, ông đã
dồn tâm lực vào những công trình như một sự hồi cố về một thời nhớ nhung
(nostalgie) rực rỡ hào quang: “Lý luận giáo dục châu Âu từ Erasme đến Rousseau
thế kỷ XVI” (NXB KHXH, 1994), “Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp” (NXB Giáo dục,
1996), “Virgille, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại” (NXB KHXH, 1996).
Một tên tuổi đáng kính trọng nhưng không dễ
noi theo
Năm 1989, Nguyễn Mạnh Tường có dịp trở lại
mảnh đất nơi ông đã thành tài. Hiệu trưởng Trường Đại học Paris VII danh tiếng
đã chào cựu học sinh của nhà trường bằng một lời văn đầy ấn tượng: “Đã 60 năm
qua, trên đất nước Pháp này, chưa có một sinh viên Pháp hay một sinh viên quốc
tế nào phá được kỷ lục của Giáo sư kính mến: hai bằng Tiến sĩ nhà nước ở tuổi
22” và mời Nguyễn Mạnh Tường nói trọn một ngày cho sinh viên nhà trường về cách
học của mình...
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã qua đời, tấm gương trí tuệ cũng là
kỷ lục ông đã giành được khi trai trẻ, và ngay cả cái bi kịch mà ông đã trải
qua ở một thời kỳ đầy thử thách cũng mãi mãi là một bài học sâu sắc về số phận
người trí thức trước những thăng trầm của đất nước, mà chỉ có lòng yêu nước
cùng lòng tự trọng của người có học mới vượt qua nổi để nguyên vẹn cho đời sau
một tên tuổi đáng kính trọng nhưng không dễ noi theo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét