Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2013

NHÂN VĂN GIAI PHẨM - THỤY KHUÊ - KỲ 1


                    1   2   3   4    5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17
TỰA
 Dự định tìm lại dấu vết phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đến với tôi từ cuối thu 1984, khi trở lại lần đầu, sau ba mươi năm xa Hà Nội. 1984, lúc ấy tôi chưa cầm bút, và 1954, khi rời Hà Nội, tôi mới lên mười. Như phần lớn học sinh miền Nam, tôi đã thuộc lòng không chỉ những câu thơ nổi tiếng của Trần Dần:
Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ
mà còn cả những câu thơ ít nổi tiếng hơn, nhưng không kém phần đau xót:
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió.
Bắc Nam ơi! Ðứt ruột chia đôi.
Tôi cúi xuống quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ, khổ nhiều rồi!
Những tiếng thơ của một thời, thời còn yêu thương, thời vết thương chia cách hai miền chưa đỏ máu, chỉ có nhớ thương và thương nhớ bay bổng như Giấc mơ hồi hương của Vũ Thành:
"Lìa xa thành đô yêu dấu, một sớm heo may về, lệ sầu tràn mi...
... nghẹn nghào thương nhớ em, Hà Nội ơi!"
Đó cũng là thời lạc quan, thời hy vọng đất nước sẽ thống nhất trong hoà bình, Phạm Ðình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Tình Ca, Tình Hoài Hương, ... thiết tha gửi cho một quê hương toàn vẹn trong giao tình Nam Trung Bắc. Và trên đôi bờ vĩ tuyến chưa manh nha mầm mống hận thù chết chóc.
Nhưng rồi yêu thương nhạt dần, nhường chỗ cho tuyên truyền, cho hò hét chiến tranh, cho "lý tưởng thống nhất", "giải phóng dân tộc", cho một mất một còn, cho ngày mai chiến thắng bằng mọi giá bất kể ngàn tấn thịt vạn tấn xương và cũng chẳng nề hà sự lệ thuộc gần như tuyệt đối vào các cường quốc.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện. Miền Bắc đàn áp Nhân Văn, quy kết Nhân Văn như một mầm mống phản động, theo địch. Miền Nam khai thác phong trào, để chứng minh điều kiện cần và đủ cho một cuộc "Bắc tiến". Đó là một trong những lý do, khiến cho học trò miền Nam thuộc lòng thơ Trần Dần. Nhưng phải công bằng mà xét, nếu không có hậu ý tuyên truyền này, thì ảnh hưởng Nhân Văn Giai Phẩm đã không bao trùm lên toàn thể hai miền Nam Bắc, như một cao trào đấu tranh cho dân chủ, lớn nhất thế kỷ XX, trong văn học Việt Nam.

Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ "phải biết" Nhân Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai "nghe nói" đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa trong ký ức quần chúng, và như vậy, "nọc độc" Nhân Văn đã hoàn toàn bị tẩy sạch.
Ðó là lý do chính khiến vài năm sau, khi thực sự bước vào nghề cầm bút, tôi đã coi Nhân Văn Giai Phẩm là một trong những nghi vấn văn học hàng đầu, cần phải tìm hiểu. Bài viết đầu tiên của tôi về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đăng trên nguyệt san Văn Học, California, số 27, tháng 4 năm 1988; tiếp theo là những buổi phát thanh trên đài RFI, trong nhiều chương trình từ 1991 đến 2004, trong số đó có những buổi phỏng vấn các tác nhân chính của phong trào: Lê Đạt, Hoàng Cầm và Nguyễn Hữu Đang.
Cuốn sách này tổng kết công việc tìm kiếm và thu thập các dữ kiện xung quanh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trong hơn 20 năm, từ 1988 đến ngày nay.
Trong quá trình làm việc, có những ngã rẽ bất ngờ: khảo sát về Phan Khôi, tôi thấy sau khi đi Pháp về, Phan Châu Trinh giao cho Phan Khôi nhiệm vụ viết lại lịch sử đời mình, từ đó, phải tìm hiểu về những ngày Phan Châu Trinh ở Pháp, dẫn đến mối tương quan giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, người tự nhận là lãnh tụ đầu tiên của phong trào Việt kiều Yêu Nước.
Tôi tìm đọc nguyên văn tiếng Pháp các bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc, mới thấy tác giả những bài viết này phải là người biết tiếng Pháp rất sâu và có văn tài; không thể là người mà Trần Dân Tiên mô tả trong cuốn hồi ký "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch". Vậy có một sự giả mạo lịch sử quan trọng cần phải tìm hiểu đến nguồn cội.
Đó là lý do tại sao có phần biên khảo về Vấn đề Nguyễn Ái Quốc trong cuốn sách này.
Thụy Khuê
Paris 2/2005-8/2011

Chương 1

Tìm hiểu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm

Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958. Hai tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do nhà xuất bản Sự Thật[1] in ở Hà Nội, cùng năm.
Ngoài hai cuốn sách này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau.
Trước hết là cuốn Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam - Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam của Georges Boudarel[2]. Thời gian ở Việt Nam, Boudarel đã gặp nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có các thành viên NVGP và ông đã mang về Pháp các sách báo xuất bản ở Hà Nội vào thời điểm NVGP. Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh "đổi mới", Boudarel viết loạt bài Dissidences intellectuelles au Viêt Nam L'affaire Nhan Van Giai Pham - Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm[3] sau tập hợp và đào sâu thành cuốn"Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam[4]".
 Ngoại trừ việc Boudarel đã sai như Hoàng Văn Chí, khi cho rằng NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc[5], cuốn sách của ông là tập tư liệu có giá trị, nhờ đó, bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp.
Từ những năm 90, một loạt tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác, của những thành viên đã tham gia phong trào, trong đó có hai tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Mạnh Tường: hồi ký Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ[6]; và tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm[7].
 Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được chính quyền ưu đãi. Phong trào NVGP ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường, ta có thể hình dung được các giáo sư đại học như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.
Cuốn nhật ký Trần Dần ghi[8] chép những việc hàng ngày đặc biệt trong thời kỳ: Cải Cách Ruộng Đất và cuộc thanh trừng sau NVGP. Nếu Un Excommuniécủa Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư[9] gửi cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần ghi là những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơ đã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu. Tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm mô tả các giai đoạn chính trong thời kỳ xây dựng chế độ toàn trị ở Việt Nam.
Bộ băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng thời gian 1998-2008, bộc lộ nhiều sự kiện chưa từng thấy ở những tài liệu khác. Hoàng Cầm nói rất dài, rất nhiều chi tiết, ở những thời điểm khác nhau, đôi khi về cùng một sự kiện nhưng có những chi tiết thay đổi; nên chúng tôi không thể trích đoạn, chỉ tóm tắt những ý chính, viết gọn lại, giữ nguyên giọng Hoàng Cầm. Đây là một tư liệu quan trọng về bi kịch NVGP, về những gì xẩy ra trong hậu trường, về sự bắt bớ, giam giữ, tù đầy, tra khảo, hăm dọa, mà Hoàng Cầm đã trải qua năm 1982-1983 vì tập thơ Về Kinh Bắc, về trách nhiệm của giai cấp lãnh đạo dưới thời Hồ Chí Minh và sau Hồ Chí Minh.

● Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, tác giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, cho biết: "Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ", "Tôi làm việc một mình", "Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội", "Tôi làm việc trong hai năm 56-58". "Bộ Thông Tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông Tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào". "Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 Boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay [1986] chưa được thả". "Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa[10]".
Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến NVGP? Ai là những người "ở lại" mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, chúng ta sẽ thấy câu trả lời:
 Sở Cuồng Lê Dư kết hôn với em ruột Phan Khôi, có ba người con gái: cô đầu, Hằng Phương, gả cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì, Hằng Huân, là vợ Hoàng Văn Chí và cô út, Hằng Phân là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Nữ sĩ Hằng Phương, sau này viết bài đả kích mạnh mẽ NVGP, rất có thể vì thế, mà bà Hằng Huân đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về NVGP.
Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm đầy đủ nhất về phong trào NVGP, nhưng ba người Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại, có thể ông không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ NVGP, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với các chi tiết hiếm, mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Sau này, ở trong nước không thiếu sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường tô hồng, hoặc cắt xén, vo tròn, ít thấy sự thật.
Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
- Không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu 1955, cho nên có một số chi tiết ông viết sai.
 - Về mặt biên tập, Hoàng Văn Chí, đã cắt hoặc không chọn những bài, những đoạn có những câu chữ quá khích mà các tác giả trong NVGP lên án "tội ác Mỹ Diệm", hoặc ca tụng Đảng Cộng sản. Đặc biệt bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý Trần Dần ở thời điểm ấy. Bản in lại trong Trần Dần thơ[11] mới đây, là bản Hoàng Văn Chí.
Ngày nay, chúng ta đã có khoảng cách để phân tích tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản gốc mà họ để lại trên báo Nhân Văn, sách Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trách nhiệm gì.
 Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống đánh họ, in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã có công sưu tầm, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn.

● Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
Cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, buộc tội NVGP. Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích "những lời thú tội" của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là"trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này rất hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà Lê Đạt mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời, nó cũng gián tiếp trả lời một số lập luận, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc NVGP thành một cuộc"đánh đấm nội bộ", tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân và các vị cao quyền trong Đảng như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ tư cách của người tố. Có thể nói, qua những "văn bản tố", các tác giả đã để lại tư cách của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng, nhờ cách sắp xếp thứ tự "những tên đầu sỏ" mà chúng ta biết được thứ tự "tội" nặng, "tội" nhẹ, của mỗi người.

● Những buổi phỏng vấn trên RFI
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện -thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về NVGP. Chúng tôi đề nghị ông nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố sau khi ông qua đời, bởi ông không định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào NVGP (nếu coi 1954 là thời điểm manh nha) nên đã cố gắng liên lạc với Lê Đạt qua điện thoại Paris - Hà Nội, để làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI và độc giả sớm hơn dự tính.
Lần đầu tiên, toàn bộ lời kể của một thành viên cột trụ trong NVGP được công bố.
Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập, nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Thính giả nghe các chương trình này, đều nhận thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại Paris - Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc nói chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào NVGP cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự.
Sau cùng là nhân chứng Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình trên đài RFI về phong trào NVGP, có những điều ông muốn nói, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại Paris - Hà Nội, không bị trở ngại gì. Như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn.
Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất, viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào NVGP[12].
Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999) cho đến nay, vẫn là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP.
 Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội.
 Những năm gần đây trang điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ sách báo NVGP. Lại Nguyên Ân sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet. Những tư liệu này góp phần sáng tỏ thêm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào NVGP.
Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm. Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra, trong thời kỳ kháng chiến và hoà bình lập lại ở miền Bắc. Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, về Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Thụy An... và bao nhiêu con người và sự kiện khác nữa, mà chúng tôi không ngờ khi mới bắt tay vào việc.
Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký người này, hồi ký người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký, đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu. Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khi tìm và lựa thông tin, phân biệt thật giả trong tư liệu. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn.
Làm sao biết được hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi gia nhập Việt Minh? Lê Đạt đã ở trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng?
Theo Văn Cao, thì Phạm Duy là người đầu tiên dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca, là người "cướp" micro trước cửa Nhà Hát Lớn ngày 17/8/1945 để hát Tiến Quân Calần đầu trước công chúng. Nhưng khi viết hoặc in lại hồi ký của Văn Cao về Tiến Quân Ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi.
Một mặt khác, ngay chính Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản.
Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An? Về "mối tình đầu" của Thụy An với Võ Nguyên Giáp? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam? Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, có vẻ không quan trọng, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thực, phải có quyền được biết.
Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản bên này yêu nước, bên kia bán nước. Mà bất cứ một cá nhân nào, dù văn nghệ sĩ trí thức hay không, cũng có thể theo hai ba đường chính trị khác nhau, trong hành trình sống của mình. Chỉ khi đảng Cộng sản quyết định độc quyền lãnh đạo, độc tôn xã hội chủ nghiã, các khuynh hướng chính trị khác mới trở thành phản động.
Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau, trong mối tương giao không xé ra được.
 Những người kháng chiến ngoài Đảng hoặc chống Đảng, bị chế độ kết án chung thân, phải chối bỏ lẫn nhau và phủ nhận toàn bộ hành trình của mình, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
 Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của dân tộc dưới chế độ cộng sản.




 
[1] Nay là nxb Chính Trị Quốc Gia.
[2] Georges Boudarel (1926-2003), nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, sang Việt Nam năm 1947 với mục đích tranh đấu chống chính quyền thực dân. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ "cải tạo" tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp.
[3] In trên hai tập san: Sudestasie (số 50 tháng1/1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản 1/1989).
[4] Do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
[5] Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính qua các buổi trả lời phỏng vấn RFI.
[6] Với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel - Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức, Quê Mẹ, Paris, 1992.
[7] Chưa in, với tiểu tựa: Roman sur le Viet Nam 1950-1990 - Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990.
[8] Văn Nghệ, California, 2001.
[9] Viết năm 1991, ở tuổi 82.
[10] Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ.
[11] Nxb Đà Nẵng, 2008.
[12] Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của NVGP, phát thanh trên RFI, từ 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 - 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008-26/7/2008, 4 kỳ), đều được lưu trữ trên mạng http://thuykhue.free.fr
 Chương 2
 Lịch trình Nhân Văn - Giai Phẩm
 Lịch sử NVGP gắn bó với các chính sách văn hoá, chính trị của Đảng Cộng sản.
Chúng ta thử nhìn lại lịch trình này:
- 27/10/1943, Trường Chinh hoàn thành Đề cương văn hoá Việt Nam, văn kiện chính thức đầu tiên của đảng Cộng sản Đông Dương về văn hóa văn nghệ. Xác định sự lãnh đạo về tư tưởng, học thuật và nghệ thuật của Đảng Cộng sản.
- 17/8/1945, biểu tình của công chức, Phạm Duy hát Tiến Quân Ca lần đầu tiên tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội.
- 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền, Tiến Quân Ca được hát lần thứ nhì tại Nhà Hát Lớn do Văn Cao điều khiển.
- 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn Độc Lập tại Ba Đình. Lễ Độc Lập do Nguyễn Hữu Đang tổ chức. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập.
- 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán", lui vào bí mật, đổi tên là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh để tập hợp tất cả mọi thành phần dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- 24/11/1946, Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, ở Hà Nội do Nguyễn Hữu Đang tổ chức, tập hợp các thành phần trí thức đủ mọi khuynh hướng trong toàn quốc.
- 19/8/1948, Đại hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc do Trường Chinh tổ chức, đọc bài Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, xác định con đường văn nghệ kháng chiến: Tuyên truyền, thi đua, đánh địch, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.
- 1949-1951: Nhiều trí thức văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành.
- Tháng 1/1950, tại Đại Hội III, đảng Cộng Sản tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc, đẩy mạnh chính sách Đấu Tranh Giai Cấp trên toàn lãnh thổ.
- Tháng 7-8/1950, Đại Hội Văn Nghệ I, họp tại Yên Giã, Việt Bắc, chính thức tuyên bố thực thi đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa, loại bỏ: Tuồng, Chèo, Cải Lương, Kịch thơ... Hoàng Cầm thắt cổ kịch thơ của mình.
- Từ 14- 23/11/1953, Đại Hội I của đảng Lao Động họp tại Việt Bắc chính thức tuyên bố thi hành chính sách Cải Cách Ruộng Đất, qua bản báo cáo của Trường Chinh.
- 1951-1960: Chỉnh Huấn, Giảm Tô, Cải Cách Ruộng Đất, Thanh Trừng Trí Thức (NVGP), Cải Tạo Tư Sản.
- 10/10/1954, Việt Minh tiếp thu Hà Nội.
Cùng ngày 10/10/54 Trần Dần[1] được cử đi Trung Quốc viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ. Trần Dần bị Hoàng Xuân Tuỳ, cán bộ chính trị, kiểm soát gắt gao. Ngày 10/12/54, Trần Dần bỏ về Hà Nội.
- 24/12/54, Trần Dần bắt đầu tổ chức các cuộc thảo luận đòi thay đổi chính sách văn nghệ quân đội.
- Tháng 2/1955, Trần Dần, sau khi tham khảo ý kiến các bạn, viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ.
 Trần Dần, Tử Phác "chủ mưu", Hoàng Cầm "a dua", nhóm ủng hộ có cả Đỗ Nhuận, Thanh Tịnh...
- Tháng 3 và 4/55, Trần Dần, Tử Phác tổ chức phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt.
- Tháng 4/1955: Nhóm Trần Dần, Tử Phác... ký "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", gồm 32 điểm, đòi quyền tự do sáng tác và bác bỏ chế độ chính trị viên trong văn nghệ quân đội. Trong một cuộc họp mặt nội bộ khoảng hơn 20 người, Trần Dần đọc cho tướng Nguyễn Chí Thanh nghe. Tướng Thanh đập bàn quát mắng, rồi bỏ ra về.
- 13/6/55-14/9/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt lần thứ nhất, phạt cấm trại 3 tháng, sau đó được đưa đi cải tạo ở Yên Viên, tham gia Cải Cách Ruộng Đất, đợt 5.
- Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với những bài chính: Nhất định thắng của Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Làm thơ và Mới của Lê Đạt, ...
- Tháng 2/56: Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Ngày 9/2 (28 Tết): Tố Hữu ra lệnh gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn. ngày 16/2 (mùng 5 Tết): Lê Đạt lên trình diện, bị giữ lại 15 ngày để kiểm thảo, trong khi đó Tố Hữu triệu tập Đại Hội Cán Bộ Tuyên Huấn toàn miền Bắc để phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân: trong đại hội này, Chế Lan Viên khai ngòi việc đánh Trần Dần. Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Trong tù, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ. Hội Văn Nghệ tổ chức Đại hội, gồm 150 văn nghệ sĩ, ở 51 Trần Hưng Đạo để đánh Trần Dần.
Chiến dịch đánh Trần Dần trên báo bắt đầu với bài của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần" trên Văn Nghệ số 110, ngày 7/3/56.
- 24/2/1956: Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô.
- 26/5/1956: Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng".
- 28/6/1956: Ba Lan nổi dậy.
- Tháng 7/1956: Hoàn thành Cải Cách Ruộng Đất.
- 25/8/56 đến 24/9/56 Hội nghị X Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động phát động Sửa Sai. Trường Chinh từ chức Tổng Bí Thư. Hồ Chí Minh kiêm Tổng Bí Thư lẫn Chủ Tịch. Võ Nguyên Giáp đọc Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất.
- 8/8 đến 26/8/56: Hội Văn Nghệ -được lệnh- tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Nguyễn Hữu Đang tổ chức và đọc tham luận tổng kết chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung Ương Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa". Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.
- 29/8/56: Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra đời, với những bài chủ chốt: Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính,Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, ...
- 20/9/1956: Nhân Văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ, bài Chống bè phái trong văn nghệ của Lê Đạt (ký tên Trần Công), ...
- 30/9/1956: Nhân Văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân Dân của Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...
- 30/9/56: Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy,Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, ...
- 8/10/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản.
- 15/10/56: Nhân Văn số 3, số Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế 13/10/1939, và các bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo,Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do và dân chủ, ...
- 20/10/56: Nguyễn Bính xuất bản báo Trăm Hoa, bộ mới, lập trường bênh vực Nhân Văn.
- Trong ba ngày 20, 21 và 23/10/56, Trường Chinh tổ chức tọa đàm với văn nghệ sĩ ở trụ sở Trương Ương Đảng.
- 30/10/56: Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo" tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà Nội.
- 30/10/1956: Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, với bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh, ...
- 31/10/1956: Bài Võ Nguyên Giáp đọc tại Hội nghị X Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, được in trên trên báo Nhân Dân.
- 5/11/56: Nhân Văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan Sát, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao, ...
- 5/11/1956: báo Sáng Tạo của nhóm điện ảnh sân khấu xuất hiện. Với Hoàng Tích Linh, Trần Công, Cao Nhị, Thanh Châu, Nắng Mai Hồng, Trúc Lâm, Phan Vũ, Phan Tại, Nguyễn Đình Phúc, Sỹ Ngọc, Phạm Kỳ Nam, Trung Sơn, Vũ Phạm Từ, Anh Tâm, Lửa Mới, Nguyễn Sáng.
- 10/11/56: Đất Mới, báo sinh viên, với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng, Lịch sử một câu chuyện tình của Bùi Quang Đoài, ...
- 20/11/56: Nhân Văn số 5, với bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát), ...
- Tháng 11/56: Dân Quỳnh Lưu, Nghệ An nổi dậy.
- Tháng 12/56: Giai Phẩm Mùa Đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo, ...
- 9/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về báo chí. Xác định lại những cấm điều.
- 15/12/56: Nhân Văn số 6 đang in, bị đình chỉ.
- Cuối tháng 12/56: Tự Do Diễn Đàn, tập I, tạp chí chuyên về lý luận, phê bình, sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12, bị cấm. Tự Do Diễn Đàn có các bài: Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang,Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Động Long Mạch thơ Lê Đạt, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm, Sinh hoạt văn hoá của Trương Tửu và Trần Đức Thảo[2].
 - Tết 1957, Minh Đức còn in tập Sách Tết, giai phẩm cuối cùng, bài vở của hầu hết các tác gia trong NVGP.
- Từ 20 đến 28/2/57: Đại Hội Văn Nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát bọn NVGP".
- Cuối 1957: Mao Trạch Đông đánh phái hữu. "Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu. Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc[3]".
- Tháng 2 - 3/1958: Khi họ trở về, đảng tổ chức hai lớp đấu tranh "chống bọn phản động NVGP" ở Thái Hà ấp.
- 4/6/58: Đại Hội Văn Nghệ III, họp tại Hà Nội, hoàn tất "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" với bài tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án "bọn NVGP" và các Hội Văn Nghệ thi hành biện pháp kỷ luật.
Nhìn lại lịch trình trên đây, thấy nổi bật vai trò của ba Đại Hội Văn Nghệ:
- Đại Hội I, Yên Giã, Việt Bắc 1950, chính thức tuyên bố theo đường lối xã hội chủ nghiã, loại trừ tất cả các hình thức văn nghệ cổ điển.
- Đại Hội II, Hà Nội 1957, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh đập nát phong trào NVGP.
- Đại Hội III, Hà Nội 1958, Tố Hữu tuyên bố đã dẹp xong NVGP.
Ngoài ra, sự xác định trước đây của Hoàng Văn Chí trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc và của Boudarel trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam về nguyên nhân phát xuất NVGP từ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc, là không đúng hẳn, vì phong trào ở Việt Nam, chớm nở từ việc đòi hỏi tự do sáng tác, tháng 4/55, trong quân đội, và chính thức bắt đầu với Giai Phẩm Mùa Xuân, tháng 1/56; trong khi đến tháng 5/56 Mao Trạch Đông mới phát động phong trào Trăm hoa đua nở.
Tuy nhiên, lập luận này cũng không hoàn toàn sai, bởi vì Trần Dần sang Trung quốc tháng 10/1954, để viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ, cho nên ông mới biết việc Hồ Phong phản kháng rồi bị đàn áp và chính bản thân ông cũng bị cán bộ chính trị hoạnh họe đủ điều, nên khi về Hà Nội, ông mới tổ chức phong trào trào đòi tự do sáng tác trong quân đội cùng với Tử Phác. Đó là thời điểm manh nha, cuối 1954 đầu 1955.
Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời tháng 1/56, rồi bị dập tắt ngay, nhưng đến tháng 2/1956, Khrouchtchev tố cáo tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng Sản Liên Xô, và tháng 5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào Trăm hoa đua nở. Vì đảng Lao Động theo sát chính sách Mao và Liên Xô, nên mới nới rộng tự do văn nghệ, tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, để Nguyễn Hữu Đang có cơ hội trở lại, giữ vai trò lãnh đạo NVGP.
Tác phẩm của Boudarel đặt trọng tâm vào Trần Dần và bi kịch Trần Dần. Theo ông, nhân chuyến đi Trung Quốc, Trần Dần chịu ảnh hưởng tư tương phản kháng của Hồ Phong. Thậm chí Boudarel còn cho rằng hai chữ Nhân Văn lấy từ một câu của Hồ Phong: "Hiện thực xã hội theo quan niệm của tôi phải quay về với con người... về sự giải phóng con người... về tinh thần nhân văn[4]". Về nhận xét này, Boudarel đã lầm trên các điểm:
Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang chủ trương, khi ấy Trần Dần đã mệt mỏi, lui vào mặt sau vì chuyện tù tội, vợ con. Tên Nhân Văn, là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt. Lê Đạt nói: "Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào". Và Hoàng Cầm, trả lời phỏng vấn RFI 2007, bảo chính ông đã nghĩ ra tên Nhân Văn; nhưng trong lời "thú nhận", năm 1958, Hoàng Cầm viết: "Có Nguyễn Bính, Đang, Tước[5] bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là "tên báo gì gì cũng được" miễn là có báo ra được"[6].
Vậy tên báo chắc là do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Dù Trần Dần có "thú nhận" rằng sự chống đối của mình "có màu sắc tư tưởng Hồ Phong", thì cũng chỉ là một cách gián tiếp, bởi những thành viên chính của NVGP hầu hết đều chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp, không mấy người biết Hán văn để đọc Hồ Phong.
 Ta có thể xác định nguyên nhân phát xuất NVGP: mọi sự bắt nguồn từ quân đội, hai người đầu xướng là Trần Dần và Tử Phác, với việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".

● Vụ phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Tháng 3/1955, Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt tổ chức phê bình tập Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tháng 4/1955 Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Hai sự kiện này đi đôi và gắn bó với nhau.
Trước kháng chiến, Trần Dần đã cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch -em ruột Vũ Hoàng Chương- ra tạp chí Dạ Đài ngày 16/11/1946, công bố bản Tuyên ngôn tượng trưng. Trong kháng chiến, 1950, Trần Dần gặp Lê Đạt, cùng chí hướng đổi mới thi ca, cùng muốn "chôn đàn anh", nói theo ngôn ngữ Nguyên Sa, Mai Thảo. Ngoài Bắc, trong số những người "đáng chôn", Tố Hữu là tiêu biểu. Nhân dịp Việt Bắc vừa phát hành tháng 12/54, đã có bài ca tụng của Xuân Trường trên báo Nhân Dân, 24/1/55 và một bài ủng hộ của Xuân Diệu trải dài trên hai số Văn Nghệ 64 và 65, tháng 2/55[7]. Ngày 4/3/55, Trần Dần và Tử Phác đứng ra tổ chức một buổi phê bình thơ Tố Hữu trong khôn khổ văn nghệ quân đội, với sự hiện diện của tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.
Lê Đạt kể lại: "Lúc đến, tôi đã thấy ông Nguyễn Chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ "nhỏ" hơn thơ Tố Hữu thời trước, thì đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn thì tôi thấy không khí im lặng cả, không ai nói gì nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: "Thôi, thế cậu lên đi." Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói gì nữa. Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy thì anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên trình bày với anh Tố Hữu về tờ báo Văn Nghệ"[8].
Buổi thảo luận chỉ là nói miệng, nhưng Lê Đạt muốn đưa lên Văn Nghệ[9]mới lên gặp Tố Hữu để bàn, không ngờ Tố Hữu lại "gợi ý" Lê Đạt nên viết bài phê bình tập thơ Việt Bắc, chắc ông chờ đợi một bài tâng bốc của đàn em. Đã có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, Lê Đạt bèn tập hợp thêm một số bài khác làm số báo đặc biệt về Việt Bắc. Tố Hữu không ngờ vụ việc xẩy ra trái hẳn ý mình, bởi vì, theo Lê Đạt: "Ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ"[10].
Vụ phê bình Việt Bắc mở rộng và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng[11]. Nhưng Tố Hữu cũng không vừa, ông ra lệnh cho Hội Văn Nghệ tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Phía ca tụng Việt Bắcchủ chốt có các bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông. Phía chê có: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung dung: vừa khen, vừa chê.
Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa nắm vững hiện thực: "Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo công thức"[12].
 Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu "thiếu chất sống thực tế", "nhạt nhẽo", "hời hợt", chỉ "lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn", "những câu văn đèm đẹp" "rủ rỉ một lát rồi thôi", "chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào", khi ca tụng lãnh đạo thì "đao to búa lớn", " bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa. Loãng quá" ...
Lê Đạt, trong bài lý luận, cho rằng Tố Hữu "cố gắng đi tới công nông"nhưng trong thơ còn rơi rớt tính chất "ngậm ngùi, buồn buồn... nó là cơ sở điệu tâm hồn của Tố Hữu"... và tổng kết ý kiến của mình và các bạn: "Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản, nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ"[13].
Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật ký "Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị quá, công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì lại là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì"[14]. Và trong buổi toạ đàm ngày 4/3/55, theo Vũ Tú Nam mách lại, Trần Dần bảo thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour - tí ti căm thù, tí ti tình yêu "[15]. Tất nhiên Tố Hữu không thể "bỏ qua" vụ này. Tháng sau, Trần Dần, Tử Phác tung ra Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá.

● Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", nội dung gồm 32 hay 36 điều[16] yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi quyền tự do sáng tác.
Hoàng Cầm viết: "Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị". Nhưng: "Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang"[17].
Trong bài viết này, Hoàng Cầm không thể nói rõ những người ủng hộ là ai, người "thẩm quyền bác bỏ" là ai. Nhưng ông thuật lại bối cảnh buổi họp đó trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè như sau: Nhân buổi họp mặt khoảng trên 20 văn nghệ sĩ, trong nội thành ở Cửa Đông với tướng Nguyễn Chí Thanh. Đây là một trong những buổi họp mặt thường xuyên, được tổ chức theo lời ông Thanh, để chúng tôi giảng cho ông về văn nghệ. Trần Dần lợi dụng dịp này để đọc bản điều trần cho ông nghe, nhưng mới đọc được độ non nửa bài, thì ông Thanh đập bàn quát: "Tôi không ngờ các đồng chí đã ăn phải viên đạn bọc đường của giai cấp tư sản... tôi thấy sặc cái mùi tư sản, nào là tự do sáng tác, tự do đi lại... thôi tôi không nghe nữa", rồi ông đứng dậy đi về.
Trong bài đánh Trần Dần trên VNQĐ, Vũ Tú Nam kể lại: Hôm đó, Trần Dần nêu lên ba đòi hỏi chính:
 1- Trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị.
3- Bỏ mọi "chế độ quân sự hiện hành" trong văn nghệ quân đội...
Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ". Vẫn theo Vũ Tú Nam, Trần Dần viết:
"Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết".
"Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách"[18].
Bản dự thảo do chính tay Trần Dần viết trong tháng 2/55, dài 12 trang đánh máy bị Tuyên Huấn bác bỏ.

● Vai trò của các tướng Nguyễn Chí Thanh, Lê Liêm, Lê Quang Đạo, Võ Hồng Cương, Trần Độ
Trong quân đội, thời ấy, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng Tư Lệnh, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, quyền lực ngang ngửa nhau. Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị; Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn và Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.
Theo Hoàng Cầm, tướng Nguyễn Chí Thanh đã có lần bênh vực ông trong buổi văn nghệ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, do ông tổ chức theo yêu cầu của tướng Giáp. Trong buổi trình diễn, Hoàng Cầm đưa ra màn hát màn quan họ, có câu: "Yêu nhau cởi áo cho nhau", bị một người đứng lên hô hào cử tọa đả đảo đồi trụy, nhưng tướng Thanh lên sân khấu bênh vực, dẹp tiếng đả đảo, để nghệ sĩ tiếp tục trình diễn. Khi tướng Thanh về làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, cai quản khoảng một trăm văn nghệ sĩ, ông đề nghị Hoàng Cầm phân phối người đến dậy ông về nghệ thuật, như Mai Văn Hiến về hội họa, Nguyễn Đức Toàn về âm nhạc, Văn Chung về múa, Thanh Tịnh về viết...[19]
Tướng Nguyễn Chí Thanh cũng để cho Trần Dần và các bạn hội họp bàn về tự do sáng tác, nhưng sự phẫn nộ của ông khi nghe Trần Dần đọc bản dự thảo, chứng tỏ ông là người bảo thủ. Hoàng Cầm cho rằng, ở thời điểm 1954-1955, ông bị ảnh hưởng nặng nề chính sách của Mao Trạch Đông. Nhưng khi Trần Dần bị bắt lần thứ nhì, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, dù tự ý hay do chỉ thị của Phạm Văn Đồng, ông cũng đã can thiệp cứu Trần Dần. Nhưng rồi cũng chính tướng Nguyễn Chí Thanh đã trao cho người bà con Vũ Tú Nam toàn bộ tư liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ Vũ có đủ tư liệu viết bài đánh Trần Dần[20]. Phải chăng ông muốn Vũ Tú Nam, ghi lại cho hậu thế những điều Trần Dần đòi hỏi dân chủ trong bản dự thảo?
Về Nhân Văn, Nguyễn Chí Thanh không viết bài đả kích, nếu ai hỏi về Nhân Văn, ông chỉ nói: "Ôi giời! mấy cậu văn nghệ sĩ nó cứ hay tự do chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa ấy mà!"[21] Trường hợp Nguyễn Chí Thanh vẫn còn là một nghi vấn: Ông bênh vực dân chủ hay ông là người cộng sản giáo điều?
Ngoài Nguyễn Chí Thanh, bản dự thảo còn được ai ủng hộ, khiến nó "sắp được thông qua" như lời Hoàng Cầm?
Theo phân tích của Boudarel, thì bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba tướng tá cao cấp trong Tổng Cục Chính Trị: Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm:
"Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ rõ tên họ ra, rất có thể bởi vì muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước những đồng nghiệp quyết liệt. Duy có hai người, hai tướng chính uỷ Trần Độ và Lê Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó. Một văn bản chứng minh rằng vào mùa thu năm 1956, tướng Lê Quang Đạo cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào? Lúc đó ông là cục trưởng cục Tuyên Huấn[22]".
Boudarel phác họa chân dung Lê Quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị ủng hộ những nhà văn trẻ. Ông phân tích những khúc mắc trong hành động của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong suốt thời kỳ NVGP, Boudarel không tìm thấy văn bản nào của các tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị lên án phong trào.
Cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận tập hợp những bài viết của hơn 80 văn nghệ sĩ và trí thức "dân sự". Trong các bài mà chúng tôi thu thập được trên báo quân đội, có bài Một vài ý kiến góp với bạn đọc[23] của tướng Lê Liêm, lời lẽ nhẹ nhàng, chẳng có ý khiển trách mà còn như bênh vực NVGP.
Theo lời Hoàng Cầm và Trần Duy, Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, là người hiền hoà, rất gần gũi với anh em. Sau vụ Thái Hà ấp, ông là người được chỉ định viết bài tổng kết đánh NVGP, với bài Cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ hiện nay ký tên Hồng Cương[24], giọng tuy sắt đá, nhưng thâm tâm hình như có ý hỗ trợ: ông chỉ trình bày những đòi hỏi tự do dân chủ của nhóm NVGP cho hậu thế biết, mà không buộc tội họ một cách độc ác như các ngòi bút "dân sự".
Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, một trong những tướng tài ở Điện Biên Phủ, hết sức ủng hộ văn nghệ sĩ. Trong cuộc thanh trừng NVGP, ông giữ một sự im lặng đầy ý nghĩa. Năm 1958, trở thành thứ trưởng Văn Hoá, tuy thăng chức, nhưng không có quyền, bắt đầu sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga. Năm 1965, ông làm thứ trưởng Giáo Dục, năm 1968, trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, Lê Liêm trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng cùng với Ưng Văn Khiêm, tướng Nguyễn Văn Vịnh và Bùi Công Trừng, vì tội thân Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại.
Tướng Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn, theo lời Hoàng Cầm, "giáo điều", "máy móc", và xa cách hơn, có lúc ông đã kiểm duyệt một vở kịch của Hoàng Cầm, nhưng theo Boudarel, chắc ông cũng đã tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này, và sau vụ NVGP, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.
Trần Độ kiên trì trong quan điểm dân chủ hoá đất nước. Sau Nhân Văn, ông trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh hơn, ba mươi năm sau. Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà Xuân Trường trong đại hội V, Trần Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm trưởng ban Văn Hoá Tư Tưởng Trung Ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn Văn Linh, Trần Độ trở lại vai trò chủ đạo cho công cuộc đổi mới văn học.
Vậy có thể xác định: Trong vụ thanh trừng NVGP, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.
Nói như Boudarel: "Tất cả những vấn đề cơ bản đều quy về những năm 1955-1956".
Như vậy, NVGP mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, cho việc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88.


● Trần Dần, Tử Phác bị bắt
Vì hai sự kiện: phê bình thơ Tố Hữu và đề nghị cải cách chính sách văn nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13/6/55 đến 14/9/55.
Nhưng về mặt "chính thức", Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: về chuyện tình cảm, yêu một người con gái có đạo -Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này- cha mẹ đã đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên trình diện. Tử Phác cũng không chịu lên trình diện.
Về việc này, Boudarel có những phân tích thỏa đáng: "Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong Cục Chính Ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi, chạy sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn, đến độ ngây thơ lạ lùng[25]".
Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra bị cấm trại, không phải tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài Nhất định thắng trao bản thảo cho Lê Đạt giữ[26]. Hết cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, từ 2/11/1955 đến giữa tháng 2/1956. Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt ra Giai Phẩm Mùa Xuân.
Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân xuất hiện, đăng bài thơ Nhất định thắngcủa Trần Dần. Sách vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn để kiểm thảo. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu.
 Lê Đạt kể lại trên RFI:
"In ra được một tuần thì thấy ảnh hưởng của nó ghê gớm quá, tôi với anh Trần Dần cũng không ngờ. (...) Nhưng mà đồng thời dông bão cũng đã bắt đầu thấy xuất hiện ở trên vòm trời rồi. Hôm tôi đến Hội, tôi gặp cụ Phan Khôi. Cụ Phan Khôi bảo: "Này, gay go đấy nhé!" Tôi bảo: "Cái gì mà gay go hở cụ?" Hôm nọ Tố Hữu đến đây phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân nặng lắm và nói rằng: "Lũ này là lũ phản động", thì tôi (Khan Khôi) có nói rằng: "Phản động hay không phản động chưa biết, cứ biết rằng người ta nói mình không bằng lòng thì mình viết, rồi để cho người ta trả lời", thì Tố Hữu nói ngay rằng: "Thừa giấy cho chúng nó viết à?" Phan Khôi bảo tôi: "Cẩn thận!" Rồi chúng tôi chia tay nhau. Lúc đó đi đâu cũng thấy người ta nói đến Giai Phẩm Mùa Xuân. Bấy giờ là gần Tết rồi và hôm ấy, vào khoảng độ 28 Tết (9/2/1956) trên đường đi tôi gặp một người liên lạc của tôi, đang đi tìm tôi, bảo rằng: "Anh Tố Hữu có điện đi tìm anh và nói rằng mời anh lên Tuyên Huấn để kiểm thảo".(... ) Tôi bảo với cậu liên lạc: "Bây giờ em về, em cứ nói với cơ quan là không tìm thấy anh, rồi sau Tết anh sẽ lên". Tôi nghỉ ăn Tết xong, mùng 5 Tết (16/2/1956) tôi lên gặp Tố Hữu. Lên, thì lúc ấy Tố Hữu ở trên gác, một anh chánh văn phòng xuống gặp tôi, nói rằng: "Anh đợi một lúc, anh Tố Hữu sẽ xuống!" (...) Trong lúc ngồi ghế đợi, tôi thấy quyển Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn, bài Nhất định thắng của Trần Dần với rất nhiều câu hỏi của anh Lành (Tố Hữu) đánh bằng bút bi đỏ, ở chung quanh. Nói ghê lắm. Còn bài Mới của tôi, thì bên cạnh câu: Bay cho cao, bay cho xa, anh Tố Hữu có đề câu hỏi: Bay đi đâu? Có phải bay vào miền Nam không? (...) Lúc đó, anh Tố Hữu đi trên gác xuống (...) Câu đầu tiên anh nói với tôi rất lạnh lùng: "Các anh muốn gì?". Tôi hơi bực mình, tôi trả lời: "Chúng tôi chẳng muốn gì cả, chúng tôi chỉ muốn làm văn nghệ. Anh Tố Hữu này, chúng ta vẫn còn là đồng chí với nhau, cho nên anh không thể xử sự với tôi như người ngoài được. Có gì anh cứ nói một cách bình tĩnh." Lúc ấy anh Tố Hữu nghĩ thế nào, mới rút một điếu thuốc lá mời tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Câu đầu tiên mà anh Tố Hữu nói là: "Tôi rất lo cho tương lai chính trị của anh. Anh thì còn là người ở trong nội bộ, còn Trần Dần hỏng rồi. Chúng tôi đã có tài liệu rằng Trần Dần là có bàn tay của địch dúng vào. Vì anh còn là người của nội bộ cho nên chúng tôi mời anh đến đây kiểm điểm. Anh phải ở lại đây 15 ngày để kiểm điểm và để anh thấy rõ bộ mặt phản động của Trần Dần."
Thế là tôi ở lại đấy ăn cái Tết kiểm thảo 15 hôm[27] (...) Trong 15 ngày thì có một cuộc Hội Nghị rất lớn, hầu hết các nhân vật sừng sỏ nhất của Tuyên Huấn, nào là anh Kỉnh này, Kỉnh là Trung ương Ủy viên và là phó ban Tuyên Huấn, Nguyễn Chương này. Nguyễn Chương, anh em quen gọi là Xứ Chương, là một cán bộ kỳ cựu sừng sỏ về lý luận (sau này cuộc tranh luận giữa Xứ Chương và Nguyễn Hữu Đang trên báo được rất nhiều độc giả lưu ý). Cả thiếu tướng Lê Chưởng... nhiều, nhiều lắm. Cuộc họp rất to, mà ở bên này chỉ có tôi thôi (cười).Một người thì không thể nào cãi lại được tất cả mọi người. Nhưng tôi cãi được một điểm duy nhất mà tôi có thể cãi lại, và tôi cho là đúng, đó là:" Tôi không thể nào căn cứ vào một văn bản mà kết luận một người (tức Trần Dần) là phản động được". (...)
Tóm lại, cuộc đấu tranh rất căng thẳng. Sau đó, tôi được thả về vì đến đấy coi như đã xong và anh Dần cũng đã bị bắt rồi. Tức là cùng lúc tôi bị gọi lên kiểm điểm ở Tuyên Huấn thì anh Dần bị bắt ở chỗ cải cách ruộng đất. Trần Dần bị bắt cùng với Tử Phác, (...) Ba hôm sau, anh Dần cứa cổ tự tử"[28].
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết:
"Ít ngày sau khi tịch thu Giai Phẩm Mùa Xuân, Tố Hữu triệu tập đại hội toàn thể các cán bộ Tuyên Huấn miền Bắc để phê bình Giai Phẩm Mùa Xuân, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Trong hội nghị này, vai trò của Chế Lan Viên nổi bật. Trần Đĩnh[29] làm việc trong báo Nhân Dân, đi dự hội nghị kể lại với tôi: Tố Hữu khai mạc, Chế Lan Viên "nổ phát súng đầu tiên" lên án -không phải lên án tập sách mà lên án một bài thơ của Trần Dần thôi- rằng nó đã bôi ra một bức tranh u ám của miền Bắc. Trong khi chúng ta đang phấn khởi, tưng bừng đón chế độ mới, mà lại nói "mưa sa trên mầu cờ đỏ" là thế nào? Rõ là mầu cờ cách mạng. Đem quệt một cái màu hết sức u tối lên trên cờ Đảng, là bôi nhọ thành tích của Đảng, của nhân dân. Rõ ràng là một câu thơ hết sức phản động... Tiếp theo Chế Lan Viên, mọi người ào ào lên phát biểu đả kích Trần Dần..., không ai bênh vực.
Vẫn theo lời Hoàng Cầm kể lại lời Trần Đĩnh, đến 5 giờ chiều, tan họp, chỉ còn lại độ 5,7 người, Tố Hữu mới hỏi Văn Phác: Thế bây giờ chúng nó đâu? Văn Phác trả lời: "Báo cáo anh, hai anh ấy[30] đang đi cải cách ruộng đất ở bên kia huyện Gia Lâm". Trần Đĩnh cũng chỉ nghe đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, giam nó lại![31].
Với thông tin của Lê Đạt và Hoàng Cầm, chúng tôi xin tạm dựng lại bối cảnh:
Trong hạ tuần tháng 2/1956 có hai đại hội quan trọng: Đại Hội Tuyên Huấn, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, trong nội bộ tuyên huấn, và Đại Hội Văn Nghệ, do Hội Văn Nghệ tổ chức, 150 người dự, từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng, ở 51 Trần Hưng Đạo. Số phận Trần Dần đã được trung ương quyết định từ trước hai đại hội. Tố Hữu, Chế Lan Viên, gọi đó là "tội phản động", còn Lê Đạt "tội" nhẹ hơn, vì là người của Tuyên Huấn. Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn từ 9/2/56, nhưng đến 16/2/56 mới lên trình diện Tố Hữu và bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Trong thời gian này, Tố Hữu triệu tập Đại Hội Tuyên Huấn. Đại hội này xẩy ra sau ngày 16/2, Chế Lan Viên khai ngòi tuyên cáo tội trạng Trần Dần. Nếu Hoàng Cầm kể đúng lời Trần Đĩnh, thì Trần Dần, Tử Phác bị bắt sau Đại Hội Tuyên Huấn, tức là vào hạ tuần tháng hai.
Đại Hội Văn Nghệ họp ở 51 Trần Hưng Đạo lập lại kịch bản đánh Trần Dần đã tập dượt trong Đại Hội Tuyên Huấn. Phan Khôi tham dự Đại Hội Văn Nghệ và trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, ông cảnh cáo các lãnh đạo văn nghệ như sau:
"Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam dưới hầm, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56[32].
Hoàng Cầm viết trong bài Con người Trần Dần trên Nhân Văn số 1 như sau:
"Giai Phẩm Mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam".
"Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội"[33].
Nguyễn Chí Thanh đọc bài Con người Trần Dần, cử Lê Quang Đạo triệu Hoàng Cầm lên để giải thích. Theo lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, sau khi nghe Lê Quang Đạo, ông đã viết bài đính chính rằng có nhìn thấy công lao của quân đội đối với Trần Dần, nhưng ông vẫn thêm vào đoạn cuối: "Việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý: Đồng chí Tố Hữu là người phụ trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về việc này"[34]. Bài đính chính của Hoàng Cầm không đăng trên Nhân Văn.
Và đây là lời buộc tội của Tố Hữu:
"Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.(...)
Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi" [dòi], "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ"[35].
Như vậy, có thể nói, Tố Hữu đánh theo chỉ thị, nhưng tư thù là một trong những động lực chính.

● Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần
Về việc Trần Dần cứa cổ, chỉ có Hoàng Cầm kể lại, trong bài cải chính -không in- mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên. Trong buổi nói chuyện với RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời của Hoàng Cầm về việc Trần Dần, rõ hơn:
"Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai Phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ chức Bộ Văn Hoá), Chế Lan Viên ... Tố Hữu cầm cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi người: "Các anh thấy tập sách này thế nào?" Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: "Cuốn sách đại phản động!"
Tố Hữu hỏi Văn Phác:"Hiện nay chúng nó đang ở đâu?" Văn Phác: "Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên".
Tố Hữu ra lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, bắt lấy nó!"
Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.
Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy, có một cái xe ô tô nhà binh đến Yên Viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.
Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.
Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.
Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng Cục Chính Trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và ra lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.
Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: "Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết" (Hết hạn tù, người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi! Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!
Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa[36]".

● Hoàng Cầm kể lại việc bắt Trần Dần
Trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ông kể rõ nhiều chi tiết hơn:
Việc này Trần Dần kể lại với tôi và Lê Đạt như sau: Khi ấy tao đang đi cải cách ruộng đất, tao và Tử Phác mỗi người ở một nhà. Một đêm ra ngoài Tết, vào khoảng 12 giờ khuya, tao đang ghi chép, thì thấy đèn pin lấp loá ngoài sân, rồi có tiếng quát: Trần Dần đâu? Có người sập cửa liếp, tao ra mở thì có người hỏi: Anh là Trần Dần phải không? Rồi đọc lệnh bắt, ký tên Ngô Minh Loan, cục trưởng Cục Quân Pháp. Họ bảo tao sắp hết đồ đạc vào ba lô, rồi ra sân. Ra sân thì họ bịt mắt rồi đẩy lên thùng xe, tao nghe tiếng vũ khí tuốt trần chạm nhau. Xe đi độ một lúc, thì qua cái cầu, tao đoán là cầu Yên Viên, sông Đuống. Đi lúc lâu nữa thì đến một con đường phẳng phiu, tao đoán là quốc lộ số 1, rồi qua một cái cầu rất dài, chắc là cầu Long Biên. Đi khoảng một tiếng nữa thì xe dừng, họ nhấc tao xuống, dẫn đi độ dăm phút thì bắt đầu đi xuống, chân chạm các bậc đá, khá cao, tao đếm đúng 37 bậc, vai vẫn đeo ba lô. Xuống đến nơi thì nghe họ mở xích sắt, rồi họ đẩy tao vào. Đến lúc họ tháo băng ra thì mình vẫn thấy tối mù, hai người lính đi lên, lại khoá xích lách cách. Tao nhìn tít lên cao thấy một khoảng sáng mờ độ bằng bàn tay, thỉnh thoảng có ánh đèn pin chiếu xuống, nhờ đó mà tao thấy cái hầm nhốt mình rộng độ hai mét vuông, có cái phản làm bằng hai tấm ván kê trên hai mễ gỗ, một bình nước và cái bô vệ sinh. Tao thấy mệt, nằm xuống ngũ đã. Tỉnh dậy trời đã sáng, qua cái lỗ bé tý trên đỉnh, vẫn thấy đèn pin thỉnh thoảng chiếu xuống. Tao nghĩ mãi không biết mình bị bắt vì tội gì, thằng nào bắt, mà nó giam kiểu này thì tội nặng lắm. Bấy giờ ở Phòng Văn Nghệ quân đội cũng nhiều đứa ghét mình, như loại Vũ Tú Nam, Vũ Cao... Thôi, cứ nghỉ một ngày cho thoải mái đã, tao nằm một lúc thì thấy trên lỗ ném xuống một gói, mở ra thấy hai nắm cơm, kèm gói muối. Tao thấy đói, ăn ngon lắm, lại nằm, lại nghĩ, cứ bình tĩnh, cố giữ tâm hồn thanh thản... Qua hai đêm sau, tao điểm tên những người có thể ra lệnh bắt, trong quân đội thì chỉ có thể là ông Nguyễn Chí Thanh, không thì ông Lê Quang Đạo, hay ông Lê Chưởng. Có thằng Văn Phác, là chính ủy trung đoàn lên làm trưởng Phòng Văn Nghệ nó cũng ghét tao lắm. Ngô Minh Loan chỉ là cục trưởng Quân Pháp thì ký lệnh thôi, chủ trương bắt đến từ người khác.
Chắc tại mình bướng làm bản kiến nghị 36 điều, tại thế chăng? Bây giờ phải làm sao thoát được chỗ này, phải lên được mặt đất, chứ nằm dưới hầm, mỗi ngày nó ném cho hai lần, hai nắm cơm, không ai hỏi han gì, không ai biết ở đâu, chắc vài tháng thì chết. Đây là âm phủ rồi. Phải làm sao lên được trần gian. Nghĩ ngợi tính toán, nằm thêm một đêm nữa, sáng hôm thứ ba tao nghĩ ra: nó bắt giam thế này là tội to, mà tội to thì còn phải hỏi cung, nó không thể để cho mình chết. Nó bảo cô Khuê vợ mình là gián điệp cài lại, thì chắc nó cho mình đã đi theo địch, hay ở trong tổ chức nào của địch gài lại chăng? Vậy nó phải để cho mình sống để moi móc tài liệu. Tao mới nghĩ cách lên mặt đất bằng giả chết, bắt buộc nó phải cho lên mặt đất, giữ mình sống để còn điều tra. May trong ba lô của tao còn hộp dao cạo, có hai mince lame, một còn mới, vậy tao phải đổ máu tại đây. Tao lấy trong ba lô cái chemise trắng mặc vào, nằm thẳng trên ván, kéo hết sức da cổ ra, cắt đứt, cho máu tứa ra cái áo chemise trắng, rồi tao đập chân đập tay vào ván, thế thì trên nó quét ngay đèn pin xuống, thấy máu trên nền chemise trắng, nó nghĩ ngay tên tù này định tự tử. Quả nhiên chỉ một phút sau là cửa xích sắt mở và 2, 3 thằng xuống khiêng tao lên. Tao giả vờ chết đến nơi, xỉu đi, thế là chúng nó đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu, Viện 103, là một trong những quân y viện lớn nhất của quân đội, cách thị xã Hà Đông 3, 4 cây số.
Tên đại đội trưởng ra lệnh cho bác sĩ cấp cứu ngay: "Đây là một tên tội phạm tội to lắm, trên giao cho chúng tôi bảo vệ nó, mà để nó tự tử thì chúng tôi bị kỷ luật". Tao được ưu đãi lắm, trưa hôm ấy họ cho ăn cháo gà. Nghĩ lại mình quá may, nếu không có mince lame thì làm sao lên được mặt đất. Đến chiều thì người bác sĩ trực mới lân la hỏi chuyện: "Anh là Trần Dần chứ gì, tôi đã gặp anh ở Sơn La, anh không nhớ à?" Lại hỏi: "Sao anh xử sự thế này, ai bắt anh?" Tao chỉ trả lời vắn tắt: "Chuyện nó dài lắm, lúc khác anh em mình nói chuyện". Anh bác sĩ kể, lúc họ đưa anh vào đây, tôi có điện thoại cho anh Phạm Văn Đồng, tôi nói:"Thưa thủ tướng, tại sao anh Trần Dần đi chiến dịch Điên Biên, viết Người người lớp lớp mới đây, mà lại bị bắt, lại tự tử?" Tôi nghe đầu kia ông Đồng hét lên: "Cái gì? Làm sao? Ai bắt?" Rồi tôi nghe trong máy có giọng ông Nguyễn Chí Thanh, ông Thanh hơi gắt: "Sao thế nhỉ? Sao chuyện ấy tôi lại không biết? Thôi được rồi, anh cứ để tôi giải quyết ngay lập tức". Thế là ông Thanh điện thoại lại Quân Y Viện, căn dặn chúng tôi là tên tội phạm to thì phải chữa cho thật khỏe lên, sáng mai 9 giờ tôi sẽ xuống bệnh viện. Hôm sau ông Thanh xuống, mang theo một nải chuối và hai cân cam, ông nói với tao: "Anh Dần buồn cười nhỉ, tại sao lại phải tự tử? Anh là đảng viên, có gì thì phải viết thư cho tôi, phải ở trong tổ chức, nếu tôi không giải quyết được thì đề đạt lên Bộ Chính Trị, mà trên nữa còn Hồ Chủ Tịch". Tao trả lời: "Nếu tôi không tự tử thì làm sao gặp được anh hôm nay?" - "Thế anh giả vờ chứ gì?" - "Vâng, tôi giả vờ, nhưng nếu không làm thế thì tôi chết ở đâu anh cũng không biết". Ông Thanh dịu giọng: "Thôi nằm tĩnh dưỡng đi rồi còn về làm việc"[37].
Thoại của Hoàng Cầm, theo ông, là do Trần Dần kể lại, chắc gần sự thực hơn cả nhưng không thấy ông nói đến việc Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Vậy có thể hiểu: Khi tướng Nguyễn Chí Thanh xuống bệnh viện thăm, có thể chính ông Thanh đã căn dặn Trần Dần phải viết lá thư trần tình để ông dễ bề can thiệp. Lá thư này đã được Boudarel nhắc đến và Vũ Tú Nam sử dụng.
Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Lê Đạt bị kiểm thảo. Trần Dần bị kết tội phản động. Trần Dần, Tử Phác bị bắt. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một phong trào đấu tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau. Vậy nội dung Giai Phẩm Mùa Xuân chứa đựng những gì?




 
[1] Vừa viết xong tác phẩm Người người lớp lớp về Điện Biên Phủ.
[2] Dẫn theo Boudarel, bài Le tort de parler trop tôt - Sai lầm vì nói quá sớm, viết về Nguyễn Mạnh Tường, Revue Sud Est Asie, số 52.
[3] Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân Văn - Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành, website nguyentrongtao.com 06/08/2010.
[4] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 59.
[5] Một người thân thuộc trong nhà xuất bản Minh Đức.
[6] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[7] In lại trong cuốn "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc", do Lại Nguyên Ân soạn, nxb Văn Hoá Thông Tin, 2005.
[8] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[9] Do Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt biên tập.
[10] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[11] Xem "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc" của Lại Nguyên Ân.
[12] Lại Nguyên Ân, sđd, trang 69.
[13] Lại Nguyên Ân, sđd.
[14] Trần Dần ghi trang 143.
[15] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội, tháng 4/58.
[16] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[17] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[18] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ QĐ, số 4, tháng 4/58.
[19] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[20] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 100 và 126.
[21] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[22] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trích dịch trang 101.
[23] Quân Đội Nhân Dân số 301, ngày 27/11/1956.
[24] Văn Nghệ Quân Đội số 6, tháng 6/1958.
[25] Boudarel, sđd, trang 125-126.
[26] Theo Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[27]  Tức là từ 16/2/1956 đến 2/3/1956.
[28] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[29] Trần Đĩnh là một trí thức bạn thân của Hoàng Cầm, Lê Đạt. 
[30] Trần Dần và Tử Phác
[31] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[32] Theo Boudarel, sđd, trang 46. Chúng tôi dùng thoại của Boudarel, vì tin rằng Boudarel đã thấy hoặc có tài liệu về bức thư viết ngày 21/2/56. Xin xem thêm thoại của Hoàng Cầm ở phần dưới: Tại bệnh viện, bác sĩ điện thoại cho thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Đồng trao cho tướng Thanh giải quyết. Có thể cả hai thoại đều đúng: Tướng Thanh sau khi gặp Trần Dần ở bệnh viện đã dặn Trần Dần phải viết thư khiếu nại cho ông, để ông có thể can thiệp hữu hiệu hơn.
[33] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[34] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[35] Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà Nội 1959, trang 22-24.

[36] Trích Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in..
[37] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.    

1   2   3   4    5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét