VĂN CAO (1923-1995)
Văn Cao ở trong thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba
ngành mến phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền cộng
sản nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử.
Tìm hiểu cuộc đời của Văn Cao cũng là tìm hiểu giai đoạn lịch sử
45-46, mà các văn nghệ sĩ xuất thân từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, nhiều
thành phần chính trị và phi chính trị khác nhau đã theo Việt Minh để tranh đấu
cho một lý tưởng: chống Pháp. Những Văn Cao, Phạm Duy, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái,
Nguyễn Sáng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước,... đã có một thời hoạt động chung
vai sát cánh, nhưng rồi chính trị sẽ phân lìa mỗi người một con đường, một chiến
tuyến.
Tìm hiểu Văn Cao tức là tìm hiểu tại sao có sự chia cắt tinh thần
và thể xác Việt Nam, tìm hiểu sự tranh giành ảnh hưởng giữa các đảng phái chính
trị trên đường giành độc lập, để thoát khỏi cái nhìn một chiều về lịch sử: lịch
sử ta-địchtrong quá trình đấu tranh giai cấp.
Tìm hiểu Văn Cao là để tìm đến nguồn cội của vấn đề: Văn
hoá Việt Nam là một toàn khối, không thể chia đôi. Tâm hồn Việt Nam là một toàn
khối, không thể phân liệt. Toàn khối ấy đã thể hiện trong cuộc kháng chiến
từ 1945 đến 1950: Hầu hết các văn nghệ sĩ ở mọi khuynh hướng đều cùng nhau chung
lòng cứu quốc.
Văn Cao, Phạm Duy hai khuôn mặt điển hình nhất của nền Tân nhạc
Việt Nam: cùng theo kháng chiến từ phút đầu. Cùng có công đầu trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. 1951, Phạm Duy vào thành, Văn Cao ở lại, mỗi người một giới
tuyến. Nhưng tác phẩm của họ, mãi mãi sẽ là của toàn thể dân tộc Việt Nam.
● Tiểu sử
Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, sinh ngày 15/11/1923 tại
làng Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng
An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal,
trung học trường dòng Saint-Joseph, ở đây được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn
Văn Tề, cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại
viên ở bưu điện Hải Phòng, được một tháng, bỏ.
Cuối 1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh
hưởng Lê Thương, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát khắp nơi. 1940, Văn Cao đi
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của
Huế và thơ Hàn Mặc Tử tại Sài Gòn. Từ điển văn học ghi: "1940, vào
Nam kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài
Gòn, gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc"[1]. Chi
tiết này không thấy ghi ở các tài liệu khác. Tựu trung, thời kỳ 1940-43, Văn
Cao sáng tác sung mãn nhất. Những ca khúc lịch sử đi đôi với ca khúc lãng mạng
trữ tình: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Thu
cô liêu, Cung đàn xưa, Bến xuân, Suối mơ,Thiên Thai, Trương Chi... và
cũng là thời kỳ gắn bó cộng tác văn nghệ và hoạt động cách mạng giữa hai nhân
tài: Văn Cao-Phạm Duy.
Năm 1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre) trường
Mỹ Thuật Đông Dương, và lần đầu tiên, thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng trênTiểu
thuyết thứ bẩy.
1943, triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique - Phòng Triển lãm Độc
đáo. Bức tranh Les Suicidés - Những kẻ tự sát của Văn Cao
gây tiếng vang trong giới hội hoạ, theo Tạ Tỵ, đã có ý thức cách mạng.
1944, Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác ngộ
vào Việt Minh, giao công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật, sáng
tácTiến quân ca.
1945, Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức Phin[2] ở
Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm báo Lao Động (bí
mật) của Việt Minh[3],
Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến quân cavào đá (litho), in trên Lao
Động số 1, tháng 11/1944.
1945, sáng tác bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc[4], và
các ca khúc:Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quân, Chiến sĩ Không quân, Bắc
Sơn. BàiKhông quân Việt Nam[5] sau
này trở thành bài đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến
quân ca được Phạm Duy "cướp micro" hát lần đầu tiên và duy nhất
tại nhà Hát Lớn, Hà Nội[6].
Ngày 19/8/1945, Việt Minh "cướp chính quyền", dàn đồng
ca Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại
quảng trường Nhà hát lớn.
Ngay sau cách mạng tháng tám, Vũ Quý bị chết trong một hoàn cảnh
bí mật[7].
Đầu năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến quân ca là
Quốc ca Việt Nam. 1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại ô mùa đông 46[8].
Theo Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng Tám.
Nhưng có lẽ chỉ mới đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/46, Văn Cao
và gia đình Thúy Băng rời Hà Nội ra chợ Đại, gần Hà Đông, thuộc Liên Khu Ba, mới
chính thức làm lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu, Văn Cao
nhận được chỉ thị lên Phú Thọ, rồi Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình làm tình
báo trong Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở đây.
Thu 1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi lại
được lệnh trở lên Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục
kích chiến địa hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp gồm mười lăm tiểu đoàn chia
làm nhiều đạo tấn công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến,
nhưng không thành. Cụ Nguyễn Văn Tố -Bộ trưởng không bộ- bị chết.
Ngày 7/10, Pháp chiếm Sơn Tây.
12/10, Việt Minh kêu gọi triệt để áp dụng chiến thuật tiêu thổ
kháng chiến.
13/10 Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng.
20/10 Pháp chiếm Yên Bái. 21/10 Pháp chiếm Chapa.
30/10/47 Pháp chiếm Lao Cai. Bản thảo Kiều Loan của
Hoàng Cầm phải ném xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác.
Theo Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động
các nhạc sĩ viết về Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác
sáng tác Lô Giang, Văn Cao, trường ca Sông Lô[9], Đỗ
Nhuận: Du kích sông Thao, Nguyễn Đình Phúc: Bến bình ca, Phạm
Duy: Tiếng hát trên sông Lô[10].
Trường ca Sông Lô được Phạm Duy đánh giá là "tác
phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây
Phương"[11].
Tháng 3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày
mùa. Cuối 1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái,
Lương Xuân Nhị... Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung. Bức
tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình. Giữa 1949, Văn Cao lại được
lệnh trở lên Việt Bắc[12].
Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm.
Tháng 1/1950, đảng Cộng sản tuyên bố chính thức theo đường lối
Trung Quốc, thực hiện đấu tranh giai cấp trên toàn lãnh thổ.
Tháng 8/1950, Đại hội văn nghệ Việt Bắc quyết định loại trừ Tuồng,
Chèo, Cải lương, Kịch thơ... bị coi là tàn tích của phong kiến và tư sản, chỉ giữ
lại thoại kịch. Phạm Duy bị kiểm điểm. Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ. Văn nghệ
sĩ, người vào Liên Khu Tư "vùng tự do" với tướng Nguyễn
Sơn, người bỏ về thành như Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Tỵ,
Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v...
Tại Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ trách
giảng dạy ở trường Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài, Ca ngợi
Hồ Chủ Tịch, Công nhân Việt Nam, Toàn quốc thi đua...
1952, Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn Trần Huy Liệu,
theo Hoàng Văn Chí, "Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là
Chostakovitch"[13]. Các
tài liệu khác, không nói đến cuộc gặp gỡ này, vì Chostakovitch cũng có "vấn
đề", số phận trầm luân, tương tự Văn Cao chăng? Hoàng Văn Chí viết tiếp: "Tuy
nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ý thất vọng: Liên Xô không
phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước
thì cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố
điển hình ở Việt Bắc"[14].
Nguyễn Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau:
"Được chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của ông Trần Huy
Liệu, Văn Cao lần đầu tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt nhìn ra thế giới của
chủ nghiã xã hội - một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi suốt tuổi trẻ (...)
Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm của Vũ Quý -người
giác ngộ chàng, dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm chàng choáng váng
(...) Sang Liên Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với "thành trì của chủ
nghiã xã hội", "Thiên đường của loài người", Văn Cao mới vỡ lẽ
ra nhiều"[15].
Có thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự như
chuyến đi Liên Xô 1936 đối với André Gide: họ đã nhìn thấy mặt thật của "thiên
đường".
1954, hòa bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc đài Phát
thanh Hà Nội.
1956, tham gia NVGP với bài thơ Anh có nghe không, đăng
trên Giai Phẩm Mùa Xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển,
một đoạn in trên Nhân Văn số 4.
1958, bị kỷ luật, không nặng như các thành viên chính, phải đi
thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao đau
dạ dày, được đưa về bệnh viện Lai Châu.
Sau Nhân Văn, người ta định chọn Bài ca cách mạng tiến quân của
Đỗ Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được giữ lại. Các
tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi năm, Văn Cao
sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Ông vẽ bìa sách, minh họa
cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim... Sau ngày thống
nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976), không được
hát, có lẽ vì những câu "Từ đây người biết thương người. Từ đây người
biết yêu người".
1980, Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốc
ca. Trong các buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời.
1981, một cuộc "vận động sáng tác quốc ca" được tổ chức
quy mô, có thi tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được
bài nào thay thế.
1983, lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên
Thai, Trương Chi, Suối Mơ... được tình diễn trở lại.
1988, Văn Cao được chính thức "phục hồi" cùng các
thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên Thai và tập thơ Lá được
phép xuất bản.
18/8/1991, trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài viết: Tiến
quân ca có hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao chỉ viết
phần nhạc, lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của Nguyễn
Thụy Kha ngày 7/10/91[16].
1993, Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt
Nam.
Văn Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.
● Tác phẩm
Ca Khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên thai (1941), Suối
mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến xuân (1942-1945,
sửa lời và đổi thành Đàn Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương
Chi (1942), Vui lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tay, Chiều buồn
trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng Long
hành khúc ca (1943), Tiến quân ca (1944), Chiến sĩ Hải quân (1945), Chiến
sĩ Không quân (1945) Bắc Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng
tôi (1947),Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948), Tiến về Hà
Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch(1949), Mùa xuân đầu tiên (1976)...
(Năm sáng tác ghi ở đây không chính xác vì các tài liệu viết khác nhau).
Đã in: Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao (Trẻ, 1988), Lá (Tác
Phẩm Mới, 1989), 28 bài; Tuyển tập Văn Cao (Văn Học, 1994) gồm các
bài đã in trong Lá, thêm 20 bài nữa.
● Văn Cao có để lại hồi ký không?
Viết về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi ký
không?
Có hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của
Nguyễn Thụy Kha[17] trình
bày như lời "ký thác" của Văn Cao. Và cuốn Nhạc sĩ Văn Cao, tài
năng và nhân cách của Bích Thuận[18] trình
bày như lời "ký thác" của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng.
1- Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ gần gụi Văn
Cao lúc cuối đời. Tác phẩm viết giọng tự thuật, như lời nhạc sĩ kể lại, nói lên
được phần nào tâm sự Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời
Văn Cao, đâu là lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào Thụy Kha thêm
vào.Thí dụ, đoạn viết về Tiến quân ca, nếu đem so sánh với bản hồi ký đích
thực của Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca in trên Sông Hương[19] năm
1987, thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến mất.
Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn Đình
Thi. Thụy Kha viết: "Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội chợt lặng
phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại Văn Cao với
bản nháp bài "Tiến quân ca". Mới ít phút trước, căn gác còn vang lên
giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này. Vẫn còn nguyên
gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ cười thật hài
lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ cười hồn nhiên
khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: "Văn ạ, chúng mình thử
mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao"[20].
Trong đoạn này, Nguyễn Thụy Kha cho biết: Nguyễn Đình Thi
và Vũ Quý chứng kiến sự ra đời của Tiến Quân Ca. Văn Cao hát. Nguyễn
Đình Thi nhẩm xướng âm bài hát, tại số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội.
Nhưng Văn Cao không viết vậy -Xin đọc toàn bài của Văn Cao trong
phụ bản ở dưới- Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến Quân Ca thì Phạm
Duy ở cùng và: "Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những phút tôi
ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi nhắc
lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca"
Văn Cao viết Phạm Duy là người chứng kiến sự ra đời của Tiến
Quân Ca. Và ở một đoạn sau, ông mới nhắc đến Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi:
"Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội
không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có
nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại
nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc
điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt
Minh xem sao?"
Đoạn văn này có nghiã: Văn Cao đang ở Việt Bắc, lùm cây của
Hà Nội không còn nữa, và ông nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý
và nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc
điệu bài hát đó. So với đoạn trên, ông viết về việc Phạm Duy chứng kiến sự ra đời
của Tiến quân ca, thì phải hiểu rằng: khi lên Việt Bắc, Văn Cao mới đưa nhạc
phẩm cho hai đồng chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi xem, ông gọi họ là đồng
chí, trong khi gọi Phạm Duy là anh, có khác. Cũng không thấy Văn Cao nói đến
khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi, đấy là Nguyễn Thụy Kha thêm vào.
Tóm lại, chỉ cần thay đổi vị trí, thêm, bớt một vài câu chữ, là ý nghĩa văn bản
có thể hoàn toàn thay đổi.
Bài hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao
đăng trên Sông Hương năm 1987, không đề ngày viết, được cắt ngắn, thành bài Tại
sao tôi viết Tiến quân ca[21], và
đề ngày 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản Sông Hương. Nhưng cũng không loại trừ
khả năng bản Sông Hương được viết từ trước 1976, đến khi được đăng lần đầu, đề
ngày 7/7/76, thì bị cắt xén và sửa chữa. Đến năm 1987, thời kỳ đổi mới, Văn Cao
gửi cho báo Sông Hương bản đầy đủ.
Bởi vì khi so sánh hai văn bản, thì bản 7/7/76, ngoài việc
cắt bỏ, sửa các lỗi có trong bản Sông Hương, câu văn cũng được "biên tập"
lại: ngắn gọn hơn, thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Người
biên tập lại không có trình độ văn hoá của Văn Cao, ví dụ, câu "những băng
cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim" của
ông được sửa thành "Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng
vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim". Văn Cao không viết
như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến Quân
Ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính phủ Trần
Trọng Kim.
2- Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mạn hoá và tô điểm cho Văn
Cao trở thành nhà cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu ý, ở
chỗ bà trích một đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội, có
câu: "Văn Cao viết trong hồi ký: "Tôi còn nhớ trong một buổi họp
ở chi bộ Liên Khu Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo
là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê
Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói..." Trích đoạn này dài
hơn một trang[22].
Chỉ nhờ câu "Văn Cao viết trong hồi ký" mà chúng ta biết Bích
Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao, ít nhất là một mảng, ngoài Bài Tiến
Quân Ca, đã in trên Sông Hương.
Cuốn sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng "Việt
gian"V.V.C, có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi những
câu như: "Sông Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh - Tiếng
nước rơi bán âm - Chợt xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm xúc, v.v...",
xem ra rất Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm.
Vậy nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu lấy từ
những trang hồi ký đích thực của Văn Cao, thì hiện giờ toàn bộ cuốn hồi ký ở
đâu?
Nguyễn Thụy Kha và Bích Thuận đã "làm việc" như
thế nào với những trang hồi ký mà có thể họ đã được đọc bản chính ấy? Để ghi lại
chân dung một người, không gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết,
vì tôn trọng sự thật của tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo
như Văn Cao, vì tôn trọng văn chương của tác giả.
3- Đây là sự kiện thường xẩy ra ở Việt Nam. Phát xuất từ những
lý do:
- Sự trừng trị của chính quyền đối với những chữ, những câu, những
tác phẩm không đi đúng đường lối của Đảng - kiểm duyệt, tịch thu, cách chức Tổng
biên tập, v.v...
- Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản.
- Sự an phận, đồng tình của giới văn học -kể cả những người ở
ngoài về in trong nước- nói theo một trí thức nổi tiếng "cái nước
mình nó thế!" Biết nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay
đổi đi. Nhưng không. Chấp nhận. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng được in còn hơn không!
- Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân - nếu tác giả đã qua đời.
Đặc biệt, đối với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù dập, không mấy
ai còn muốn đối đầu. Họ muốn xoá "dấu chàm" trên trán để có thể
sống bình thường. Muốn được chính quyền "nhìn nhận". Các giải thưởng,
huân chương, chính là sự "nhìn nhận" ấy. Những người Nhân Văn "được" giải
thưởng lúc cuối đời, bị đứng trước lựa chọn: gia đình hay khí phách. Họ đã chọn
gia đình. Nhận giải thưởng không vì tùng phục mà vì thương gia đình, muốn con
cháu thoát nạn Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ, như lời Lê Đạt.
- Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và người
bị kiểm duyệt, có thể chỉ là những "chi tiết không quan trọng". Nhưng
nhiều "chi tiết không quan trọng", bị đục bỏ, thêm thắt,
xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là văn bản Bài
Tiến Quân Ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy tạo tác phẩm, ngụy tạo
sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử ngụy tạo.
- Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 7-8/1987 do
Tô Nhuận Vỹ tổng biên tập và Nguyễn Khắc Phê phó tổng biên tập đã "dám" in
đầy đủ bài của Văn Cao không cắt xén, mà sau này không ai "dám"
in lại văn bản này?
Tình trạng chung của sách báo miền Bắc trước 1975 và cả nước sau
75, về văn học hay lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người bị
chính quyền coi là "phản động", là "ngụy", nghiã
là một nửa nước ra ngoài.
Người nghiên cứu nếu muốn tác phẩm của mình tồn tại sau thời kỳ
cộng sản, thì không thể chỉ viết về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn Du,
Xuân Hương... có "trung thành" hay "phản động" đối với Nguyễn
Huệ hay Nguyễn Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn Huệ-Nguyễn
Ánh mà gạt Nguyễn Du, Xuân Hương... ra ngoài, sẽ là vô dụng.
● Văn Cao Phạm Duy trước kháng chiến
Người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy. Phạm
Duy có thói quen ghi chép khá cặn kẽ các sự kiện và những sáng tác hay của các
bạn. Riêng với Văn Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo rất ít người
biết, đến những lời hai, tuyệt vời của bản nhạc mà ca sĩ lười không hát, như
trường hợp Trương Chi.
Tạ Tỵ viết: "Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng
hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn
Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất
tử!"[23]
Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm nào?
Theo Phạm Duy là khi ông theo gánh hát Đức Huy-Charlot Miều xuống
Hải Phòng, nhưng có chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944. Phải đọc kỹ những chi tiết Phạm
Duy viết, thì mới biết lúc đó Văn Cao còn "đang thất nghiệp" và
đã sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa... Vậy họ gặp
nhau sớm hơn 43-44; chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơ và Bến
xuân, năm 42, bởi vì Phạm Duy có đóng góp trong hai tác phẩm này, cho nên
Tạ Tỵ viết: "Khi hai nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất hiện lần
thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao" [24].
Sở dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, vì Phạm Duy vác đàn đi khắp đất
nước, riêng Con đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần
trong kháng chiến, và Văn Cao cũng viết: "Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần
anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến
tàu đêm"[25].
Nguyễn Thụy Kha cũng ghi lại lời tâm sự của Văn Cao khi ở
Huế năm 1940:"Đầu năm nay nó xuống Hải Phòng. Và "Buồn tàn
thu" đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là
người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế
Phong"[26].
Đầu năm nay, tức là đầu năm 1940, nó tức là Phạm
Duy. Vậy Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu, khoảng đầu năm 1940, là hợp lý hơn cả. Từ
đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác, trong hoạt động cách mạng.
Về gia cảnh Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại
bến Bính, bên dòng sông Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy
bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước
này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph, Văn
Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có
cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông
lên không lúc nào ngừng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn nữa là phải lấy một tấm phản
kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới "giọng máy bơm nước",
Văn Cao sẽ có câu thơ:
Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy năm một điệu sáo
Như giọng máy nước thâu đêm chảy...
Anh
có nghe không, trong Lá,
tuyển
tập thơ Văn Cao.
Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi
nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao
với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết
cục, cu cậu cũng theo tôi mà "xổ chữ nho". Nhưng Văn Cao bản tính lầm
lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh
ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về
sau, anh còn nghiện rượu rất nặng"[27].
Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận:
Sông chầm chậm chảy trong mưa
Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo
Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều
Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ
-
Đêm mưa
Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc
hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng Quý tôi tìm đến Văn Cao.
Cũng như tất cả thanh niên "mỏ trắng" (blanc bec) thời đó, Văn Cao
đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. (...) Gặp tôi đang lập
cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã tập toẹ đánh
đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy (...) Và tôi đã hát cho
Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi dăm ba bài anh ta mới làm
xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu Ích, con ông chủ bán đồ sắt
phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản đầu tay của Văn Cao đều đã
được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca"[28].
Điểm đáng chú ý là Phạm Duy không hề nhắc đến việc ông giúp
bạn làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân -vì lần in đầu có tên Phạm Duy.
Ngược lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích. Có thể vì Phạm Duy đã có một
sự nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca, với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến,
trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết đến. Phạm Duy cũng giải thích việc bạn
bè phụ giúp Văn Cao:
"Có đôi khi Văn Cao không hoàn tất vài ba sáng tác của
mình, có thể vì anh là người vung vãi tài hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên
anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những
bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu
hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu Ích"[29].
"Bạn bè" ở đây, ngoài Phạm Duy, còn có cả Hoàng Quý,
Kim Tiêu[30].
Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường như cũng trong bối
cảnh ấy: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu Ích làm lời cả
bài Tiến Quân Ca, thì tại sao ông lại không "kiện" Văn Cao, ít
nhất từ sau 1954, mà lại để đến 1991 mới lên tiếng?
Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Lúc đó,
Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có ai hỏi
anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ trả lời
là không!"[31] Văn
Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này: "Mày ơi! Vì sao mày đưa nàng đến
để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (...) Tao chỉ là một Văn Cao hết sức
nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở. Tuyết đến rồi qua nhanh khi Sài
Gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao bao lần không dám nhận mình là
Văn Cao"[32].
Đặt Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến với
hai loại Nhạc hùng và nhạc tình, Phạm Duy xác định sự
đóng góp của Văn Cao: "Bây giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng
tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước,
Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài
hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường. Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng
này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa,
Thăng Long Hành Khúc... Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của
Văn Cao có nhiều souffle (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn
trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy
manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên
Thai, Trương Chi sau này (...) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca:
"Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa... nó phải dẫn tời bài Tiến
quân ca của Cách Mạng Tháng Tám" [33].
Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết: "Vào đầu thập
niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly) với những
bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em
của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá Hồng Nhung,
Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt Ly của
Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của một người Nam
Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và
Giọt Mưa Thu... Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những bài đầu
tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà Giang), Nàng Hà
Tiên... Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và
đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh).
Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy,
chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn
Tàn Thu... nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu
tiên đem nhạc của Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát -
gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán
cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời "xướng ca vô loài" như tôi lắm
lắm"[34].
Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm
Duy xác định:
"Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm Tân Nhạc
thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt
Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! (...) Khi
Thiên Thai và Trương Chi ra đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt
ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của
khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa"[35].
● Văn Cao họa sĩ
Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (1940-1941) với các
thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân... và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh,
Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức,
Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên... Phạm Duy viết:
"Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn,
Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim... (...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu
theo lối cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn
con đường lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa
sĩ Việt Nam nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ Tỵ còn đi xa hơn nữa khi anh đi
vào loại tranh vị lai (futurisme)"[36].
Sự cách tân hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ[37] nhận
định trong bối cảnh chung của hội họa Việt Nam thập niên bốn mươi:
"Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ
có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn
Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi
mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...) Anh
thích vẽ phố vì nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những con
phố cổ của Hà Nội ngày xưa (...) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là
"Phái Phố"! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần
nhau để tạo nên kỷ niệm (...) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy.
Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn
Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)
"Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật
cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ
vì không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại
Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề "Những
kẻ tự sát" (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm
của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng đã có ở Văn
Cao nhưng chưa ai biết (...)
Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành
phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm
Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn
Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật
tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch
với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục
vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho
người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết,
phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự
giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng
tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn
Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình
bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào,
cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó"[38].
Tạ Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng
chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ
hãy tìm hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến Quân Ca và
những ngày lịch sử.
● Tiến quân ca và những ngày lịch sử
1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia Quốc-Cộng,
phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu
ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo
của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, mới biết được những
sự việc như: "Học giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc
khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà
Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố..."[39]
1945, là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến Quân
Ca lần đầu tiên đến với quần chúng.
Để giúp bạn đọc dễ theo dõi tiến trình hành động và sáng tác của
Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử
sau:
▪ 04/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế
giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.
▪ Tháng 3/1945 (Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.
▪ 09/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.
▪ 10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của
các dân tộc Đông Dương.
▪ 11/3/45, Viện Cơ Mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ
1884. Việt Nam khôi phục chủ quyền.
▪ 17/3/45, vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo
nguyên tắc Dân Vi Quý.
▪ 17/4/45, Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần:
Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá
Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi.
Dùng cờ quẻ LY làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm
quốc ca. Trần Trọng Kim giải thích:
"Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ và
quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài "Ðăng Ðàn" là bài ca rất
cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn
và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.
Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem
hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ
vàng có quẻ Ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc
kỳ.
Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử
Diễn Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa,
nên có câu rằng "Ðầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp
với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ Ly là vì trong lối chữ tối cổ
của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám
quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ Ly
chủ phương nam. Chữ Ly còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn
phương.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ Ly là hợp với vị trí nước
nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ
vàng quẻ Ly có đủ các ý nghĩa"[40].
▪ 20/7/45, Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp:
Hà Nội, Hải Phòng Đà Nẵng.
▪ 01/8/45, Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội:
tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố
Đỏ.
▪ 09/8/45, Nagasaki bị ném bom nguyên tử.
▪ 13/8/45, Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tuyên Quang, quyết định:
Tổng khởi nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng
Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa.
▪ 14/8/45, Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế.
▪ 15/8/45, Nhật Hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử
Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương.
▪ 17/8/45, công chức Hà Nội biểu tình biểu dương ý chí bảo vệ đất
nước, cuộc biểu tình biến thành biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy
cướp micro hát Tiến Quân Ca "lần đầu tiên và duy nhất" tại
nhà Hát Lớn Hà Nội.
▪ 19/8/45, biểu tình lớn trước nhà Hát Lớn để nghe tuyên bố của
Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến Quân Ca được đoàn Thanh Niên đồng ca.
▪ 22/8/45, vua Bảo Đại thoái vị.
▪ 23/8/45, thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ tịch.
▪ 02/9/45, chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình. Vũ
Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên Phong số 24, ngày
1/12/46.
▪ 09/9/45, quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới
quân Nhật.
▪ 05/10/45, tướng Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam
Bộ.
▪ 22/12/45, Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách
(Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt) lập
chính phủ liên hiệp.
▪ 13/1/46, Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt Trì.
Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.
▪ 2/3/46, thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch;
Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, bộ trưởng Nội Vụ; Nguyễn Tường
Tam, bộ trưởng Ngoại Giao...
▪ 6/3/46, Hồ Chí Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là
quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.
▪ 16/3/46, cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh.
▪ 17/4/46, khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt, Nguyễn Tường
Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại.
▪ Từ tháng 4/46 trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh nhau
với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường
Tam sang Tàu.
▪ 6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, Phạm Văn Đồng làm trưởng
phái đoàn. Chương trình nghị sự: Việt Nam và liên bang Đông Dương.
▪ 10/9/46, Hội nghị Fontainebleau thất bại.
▪ 14/9/46, đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà
riêng của bộ trưởng Marius Moutet ký thoả ước tạm thời.
▪ 2/11/46, Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách
liên hiệp.
▪ 19/12/46, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ[41]
Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba
tháng cầm quyền, từ 17/4 đến đầu tháng 8/45:
• Bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ
chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ.
• Hoàng Xuân Hãn, bộ trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật soạn thảo một
chương trình giáo dục mới.
• Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành
phố Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội - Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, vì Nhật
chưa muốn trả.
• Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái
tại vườn Bách Thảo.
• Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên
Việt cho các đường phố Hà Nội.
• v.v...
Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội Việt
Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với
cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu Tưởng Giới Thạch, thân Nhật hoặc
thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu Mao Trạch Đông. Nhưng Việt Minh đã
thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách Mạng Tháng Tám.
Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng
sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp
micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với
những câu thơ:
"... Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy
Núi sông còn có buổi hôm nay
Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết
Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này (...)
Ngoài kia dừng chén mà coi
Núi lay xiềng khoá, sông đòi tự do
Lắng nghe dân tộc reo hò
Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền..."
Tạ Tỵ thuật lại việc viết khẩu hiệu cho Việt Minh và Nguyễn Sáng
vẽ giấy bạc cụ Hồ: "Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính
quyền, Lê Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị: "Chúng mình
không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi: "Hành động cái
gì?" Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: "Tôi nói hành động tức là
phải tham gia cách mạng". - "Cách mạng nào?" Lộc trả lời với một
giọng rắn chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt
Minh; tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận".
Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp: "Công tác cũng nằm
trong khả năng của tụi mình thôi, nghiã là chuyên môn". Tôi ậm ừ trả lời:
"Nếu cậu làm được tôi cũng làm được". Lộc cười, cặp mắt một mí của
anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay
vào việc nhé!" (...) Chừng nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ
giấy nhỏ: "Cậu viết giùm mấy khẩu hiệu này". Nói xong Lộc đi ngay.
Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng: "Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng
Cách Mạng thành công". (...) Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm.
Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi
lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có
cuộc mít tinh của công chức và dân chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp
đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là
xong! Trang sử Việt Nam đã lật, nhưng nước Việt Nam còn phải kinh qua nhiều
giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh để làm nên lịch sử (...) Mấy
tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những
tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác
trên thì Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ".
Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đã
giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với
một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc
tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ."[42]
Tạ Tỵ đã phản ảnh rõ tâm trạng và tình thế những người đi theo
kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và
Văn Cao trong Bài Tiến Quân Ca cũng có những cái nhìn tương tự.
● Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến Quân Ca
Tiến Quân Ca được viết từ mùa thu năm 1944, nhưng đến tháng
tám năm 1945, mới có vai trò lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy
những tác nhân chính viết gì về những ngày lịch sử đó?
Phạm Duy viết: "Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật ở
Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ đất
nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế
Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít
tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ
sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên
khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là
cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của
Mặt Trận Việt Minh.
Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng
ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn
người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng
ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố
Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại
không kháng cự. Cờ quẻ Ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.
Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban
Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn
võ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải Phóng" cũng tới chiếm
chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông
Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức"[43].
Trong đoạn hồi ký trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết,
nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong
ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô
khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông
cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không
thể công khai nhìn nhận mình có "vai trò lịch sử trong những
ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê Đạt không thể công khai
nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.
Nhưng Văn Cao ghi lại rõ ràng, trong hồi ký như sau: "Tôi
ở lại một mình trên căn gác vắng[44] vào
những ngày đầu thu năm 1944.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang
đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa
cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể
nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ
tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có
đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi
năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ
Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh
Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường
chú ý giúp đỡ tôi. (...) Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn
bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm
đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần
thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn
gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên
bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi
biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản
ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi
những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi
sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng,
và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một
hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật
hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ
chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt
cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu
hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân
đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố
ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm
một âm thanh đầu tiên. (...) Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc
cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một
thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt.
Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt
nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa
nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình
như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm
trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt
và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải
Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt
Minh ngày càng nhiều.(...)
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe
tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ
mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất
tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của
từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài
Tiến Quân Ca.(...)
Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức
Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến
quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi,
hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi
người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng
Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng
người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn.
Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh.
Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh
hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm
đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất"[45].
Đoạn hồi ký này xác định năm sự kiện quan trọng:
1/ Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải
Phòng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại
đúng như thế.
2/ Phạm Duy ở trong "tổ chức" trước Văn Cao. Điều đó dễ
hiểu vì Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp.
3/ Phạm Duy "nhắc nhở" Văn Cao tìm gặp Vũ Quý.
4/ Phạm Duy "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân
Ca" ở căn gác phố Mongrand.
5/ Phạm Duy "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp
loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức
hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.
Trước kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ
du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đã trở
thành huyền thoại.
Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy
đối với Cách Mạng Tháng Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất.
Văn Cao muốn cái gì của César phải trả về cho César.
● Không khí ám sát thủ tiêu
Tìm hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ
gian. Nhưng muốn hiểu rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng
giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:
"Bầu không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát" mà
Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút dân vì lẽ dám
đứng ra đánh thực dân diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời cũng cho tiêu
luôn các đảng phái không đi một con đường với họ.
Lúc ấy chưa có những chữ rùng rợn như "Đầm Đùn",
"Lý Bá Sơ" nhưng người ta đã mang máng nghe thấy những vụ át các bỉnh
bút báo "Việt Nam" ở Hàng Bún Dưới, báo "Sao trắng" đường
Bô-Nan Hải-Phòng, hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết... Sức
mấy mà không sợ? Sức mấy mà phòng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi? Nhưng
cùng tắc biến, biến tắc!.. liều, đã liều thì liều cho trót, chúng tôi cứ đả
kích Trần Huy Liệu[46] và
những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi thai của Việt Minh. Và rồi cũng chẳng
làm sao hết"[47]
Trong tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy[48], Nhất
Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được
lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào tình yêu, tình yêu đến chết. Nhất
Linh mô tả rất rõ bối cảnh "Họ rình nhau như những con thú dữ mà người
nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp". Nhất Linh đã viết những
trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các
nhân vật tự hỏi: "Tại sao mình lại làm một việc độc ác như thế
này". Tại cái "guồng máy": Họ ở hai guồng máy khác
nhau. Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng
máy chỉ đạo, khác nhau.
Tác phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong
kháng chiến: Văn Cao làm việc cho tình báo Việt Minh, tại Quán Biên Thùy năm
1947. Và Quán Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Giòng
sông Thanh Thủy:
"Vào khoảng đầu mùa hè năm 1947 tôi tới Lào Cai và thấy
ở đây có một phòng trà với cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một nơi giải
trí nhưng bề trong là một tổ chức tình báo. Lúc đó, đối diện với Lào Cai vẫn
còn là vùng Trung Hoa Quốc Gia chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp Văn Cao ở
đây và được mời ở lại hát cho phòng trà này. (...) Quán Biên Thùy đông nhân
viên lắm. Tất cả đều là dân Hà Nội. Tôi không để ý nhiều tới hoạt động tình báo
của quán này, chỉ ngờ rằng vùng Lao Kai còn khá nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc
Dân Đảng. Sau khi bị Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập trung ở
đây để sẽ lánh sang Trung Hoa. Nhân viên tình báo của Quán Biên Thùy này đang
đi lùng Việt Quốc để báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới tiêu diệt.
Tôi biết rằng Việt Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của sòng bạc Cốc Lều,
nay sòng bạc này phải đóng thuế cho Việt Minh (...) Trong thời gian ở Lào Kai,
tôi còn có cái thú tới hút thuốc phiện tại dinh của một lãnh chúa người Nùng là
Hoàng A Tưởng (...) Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ thuốc
phiện được hạ thổ lâu năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai "anh
hùng" kháng chiến là Văn Cao và Phạm Duy."[49]
Không khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn Cao
những ngày đầu cách mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi ông
hoạt động trong đội "Biệt động vũ trang".
● Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin
Tại sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang?
Giả thuyết của Vũ Bằng:
"... Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào Đông Dương,
tôi mới lại nghe nói đến Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần Nghiêm Xuân Huyến báo
tin cho tôi biết con gái anh sắp lấy chồng, mà người chồng đó là Văn Cao và một
lần sau khi Việt Minh "át" cô Nga[50]"giao
du" với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Phòng lại xẩy ra vụ bắn Đỗ
Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao.
Nghiêm Xuân Huyến, sước hiệu[51]là
Voi đen (...) Tôi đi lại thường xuyên nhà Voi đen vì anh có ra một tờ tuần báo
mười hai trang - tờ Rạng Đông. Sau này (...) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên
là Con ong do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. (...) Xa nhau được ít lâu, tôi
nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị Nhật bắt và "xin âm dương" cho đến chết
ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo rằng anh bị Nhật giết vì nhà in của anh in truyền
đơn cho Việt Minh. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt và đánh
đập tàn nhẫn Huyến cho đến chết có liên quan gì đến vụ con gái Huyến lấy Văn
Cao hay không, hay là Văn Cao có liên quan gì đến việc in truyền đơn đó hay
không -nếu quả có in truyền đơn tại nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn Cao
im lìm, không ai biết hành tung ra sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ Đức
Phin trong một tiệm hút ở Hải Phòng. (...) Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối
với một số anh em văn nghệ, có một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện
về điểm đó.
Sau ngày 19/8 tiếng của Văn Cao nổi như cồn".[52]
Doãn Tòng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật lại
các sự kiện: "Năm 1945, ở Hải Phòng có Đỗ Đức Phin là một tên mật
thám cho Nhật - nó đã phá hoại nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải trừ khử
nó. Tháng 7-1945, Văn Cao trừ Đỗ Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn Khang,
Xứ Ủy Bắc Kỳ đồng ý. Nguyễn Đình Thi giao cho Văn Cao khẩu súng 7165. Tổ phân
công cho em Trần Liễn là cô Liên thăm dò đường đi lối lại của Đỗ Đức Phin. Cô
Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin, nên rất tiện cho việc điều tra. Văn Cao, Trần
Liễn có lần đã đến lớp học tiếng Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết mặt hắn.
Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc được
cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt đầu hành động.
Vào khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời nhá nhem
tối, anh em cải trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần đen, áo va-rơi,
đầu đội mũ cát dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không ai nhận ra Văn Cao nữa.
Văn Cao đạp xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một quán nước, đưa mắt quan sát.
Khi Trần Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy lò cò: có ý là Đỗ Đức Phin đang ở trên,
Văn Cao bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rõ Đỗ Đức Phin đang nằm hút thuốc
phiện. Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát vào đầu Đỗ Đức Phin,
tên này gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công bám vào ống máng tụt
xuống chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy đến nhốn nháo. Văn
Cao bình tĩnh nói:" Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt một tên Việt Nam
bán nước thôi".
Nói rồi dưới ánh đêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà
tôi thay quần áo. Sau đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải Phòng"[53].
Hành động "trừ gian" này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao
như một lương tâm trầm uất suốt đời.
● Tại sao Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa?
Sau ngày hòa bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa,
lý do sâu xa được ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường: "Đêm ấy,
trong cuộc tâm tình nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam Giang,
tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông:
- Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ,
nhưng người ta không nghe anh hát nữa?
- Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để
làm một bài hát, mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viện
biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một
thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm
thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy,
thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết
nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một
điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.
Giữa tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe rõ
giọng nói dịu dàng của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng nói đến
từ một biển khác. Trời ơi, tôi đã dại dột chọc tay vào vết thương. Nhưng tôi
nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho mình những bi kịch như vậy"[54].
Nhiệm vụ của Văn Cao đã được Nhất Linh làm sống lại với nhân vật
Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy. Vết thương Văn Cao cũng là vết thương Nhất
Linh. Nhất Linh viết Giòng Sông Thanh Thủy hai năm trước khi tự vận,
như một chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng trên dòng Xích
Bích, Tào Tháo, Chu Du không còn nữa, chỉ còn lại tiếng thơ Tô Đông Pha, chỉ
còn lại tiếng thơ, cho muôn đời...
● Lưu Hữu Phước và Tiếng Gọi Thanh Niên
Viết về Tiến Quân Ca của Văn Cao, không thể không nhắc
đến Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền Nam
trong thời kỳ chia đôi Nam Bắc.
Lưu Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng, Cần Thơ. Học nhạc
từ nhỏ. 1940, ông ra Hà Nội học y khoa. Khoảng 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi tiếng
với những ca khúc lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát Giang trường
hận, Hồn Tử sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng... và một loạt hành khúc cho
sinh viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài hát của thiếu sinh,
Bài hát của thiếu nữ Việt Nam, Việt nữ gọi đàn... Sau Cách Mạng Tháng Tám, Lưu
Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ tịch... Ca khúc của
Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên từ thập niên bốn mươi đến
ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu Phước con người và
sự nghiệp[55] không
thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc Dân Đảng của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu.
Tô Hoài kể lại, trong một dịp "học tập bảo vệ Đảng",
ông nhận được lá đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng: "thành khẩn bộc
lộ thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ 1938 ở Sài Gòn, tôi đã sinh hoạt trong một tổ chức
phản động là Quốc Dân Đảng. Tổ phản động này gồm ba người là: Mai Văn Bộ, Lưu Hữu
Phước, Nguyễn Hải Trừng"[56]. Việc
này xẩy ra khi Mai Văn Bộ làm đại sứ tại Paris và Lưu Hữu Phước đang ở trong B,
Tô Hoài đưa lá thư cho Hà Huy Giáp, lúc đó là bí thư, nhưng Hà Huy Giáp ỉm đi.
Trong Giòng sông Thanh Thủy, đoạn Nhất Linh viết về
nhân vật Ngọc (Quốc Dân Đảng) dẫn Tứ và Nghệ (Việt Minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc
họ, trên đường xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát:
"Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân
ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:
Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,
Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Chàng chuyển sang điệp khúc:
Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
Tuốt gươm, thề với núi sông ...
Hồn nước muôn năm sống cùng ...
Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời
kỳ bí mật từ trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời
đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một
gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến rũ nên cũng cố bước
theo cho đúng nhịp"[57].
Chính Nhất Linh đã sửa lời bài Bạch Đằng Giang của Lưu
Hữu Phước cho mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như
sau:
Hồn nước vẫn sống với trời, non, nước
Ngày nay, ta noi tấm gương anh hùng
Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước!
Làm cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long!
Nhưng điều đó không quan trọng.
Quan trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc Dân Đảng.
Sự kiện này đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng
chiến, Lưu Hữu Phước sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước thực sự là người của
Việt Quốc hay Việt Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao Tiếng Gọi
Thanh Niên lại được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc
ca? Tiếng Gọi Thanh Niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, bản nhạc
này được chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và trở thành quốc ca của
Việt Nam Cộng Hoà, sau 1954.
Sau ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông tin
văn hoá, ký ba Thông tri cấm lưu hành sách báo "phản động". Bản
đầu, số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn bộ,
với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,
Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền,
Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng,
Nhã Ca, Tuý Hồng, Phan Nhật Nam...[58]
Tất nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung Ương.
Nhưng người nghệ sĩ, khi ký những công hàm huỷ diệt tác phẩm văn học của nửa phần
đất nước, hẳn không thể không nghĩ đến hậu quả. Riêng đối với người dân miền
Nam hơn 20 năm gắn bó với Tiếng Gọi Thanh Niên, Lưu Hữu Phước đáp lại
những ân tình của họ bằng một văn bản tiêu diệt tự do tư tưởng.
● Kháng chiến và văn nghệ sĩ
Trong hoàn cảnh cực kỳ phân hoá giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng,
tại sao văn nghệ sĩ lại theo Việt Minh?
Vì phần lớn không làm chính trị.
Tạ Tỵ kể rõ các chặng đường từ bước đầu:
"Thủ đô Hà Nội chết cứng trong máu lửa. Cuộc giao tranh gay
go ngay từ phút đầu giữa Trung Đoàn Thủ Đô, Tự Vệ Thành và quân đội Pháp. Phần
lớn dân chúng đã tản cư. Mọi nhà đều đục tường thông qua nhau, theo lệnh của
chính phủ từ mấy tháng trước. (...) Những con đường có cây to được đốn ngã dùng
làm chướng ngại vật cản đường xe bọc sắt của Pháp. Không khí trước ngày chiến
tranh thật nghẹt thở. Vợ con tôi đã theo ông bà nhạc tản cư về quê cả tháng
nay. Gia đình phía tôi cũng vậy. Tôi ở một mình vừa sáng tác vừa vẽ tranh cổ động"[59].
Và ông tìm cách ra khỏi Hà Nội, đi kháng chiến:
"Tôi chọn lối xuyên cửa ô Cầu Dền, qua làng Hoàng Mai rồi
men theo bờ ruộng ra đường số 1, con đường xuyên Việt. Tôi chợt nghĩ đến Phạm
Duy, không biết Duy ra khỏi Hà Nội bằng ngả nào? Sau này khi gặp lại nhau trong
kháng chiến, Duy mới cho biết đã ra khỏi Hà Nội qua ngả Khâm Thiên, tức phường
Dạ Lạc. Văn Cao có báo cho Duy biết nhưng Duy không tin".
Tìm liên lạc với tổ chức:
"Tôi ăn Tết với gia đình xong rồi đến làng Bài Trượng thăm
vợ con, trước khi lên đường đi Việt Bắc (...) Từ phủ Đoan Hùng, tôi quay về Phú
Thọ, mong gặp anh em quen biết có thể giới thiệu mình với một cơ quan nào đó.
Người thì đông, anh em chẳng thấy ai. Nản quá, tôi cũng định quay về quê nhà, bỗng
gặp Phạm Duy từ trong một quán cà phê đi ra. Nói chuyện hồi lâu, Duy cho biết sẽ
đi Yên Bái. Nếu tôi muốn đi cùng, sáng mai đến chỗ này chờ. Tôi bằng lòng, hỏi
Duy có phương tiện gì không? Duy trả lời không, sẽ đi bộ. Ngay buổi chiều hôm
đó, tôi quay về chỗ tá túc đêm qua, bán chiếc xe đạp cho người chủ nhà để lấy
tiền tiêu. Sáng hôm sau, tôi đeo ba lô đến nơi hẹn. Chờ một lúc, tôi thấy Duy đội
mũ ca-lô, mặc bộ ka ki Mỹ, đeo cây đàn trên vai, còn một tay xách chiếc túi đựng
quần áo. Chúng tôi cứ men theo đường xe lửa đã bóc hết đường rầy đi ngược lên.
Duy không chịu đeo chiếc túi vải lên vai, vừa đi vừa ném về phía trước. Đến
nơi, cúi xuống nhặt lên ném nữa. Tôi hỏi:
- Sao làm vậy?
Duy nói:
- Đeo mệt xác, ném khoẻ hơn!
Trong lúc đi đường. Duy nói về chuyện mấy tháng trước. Sau khi
ra khỏi Hà Nội, Duy tìm đường lên Vĩnh Phúc Yên, gia nhập đoàn Văn Nghệ Giải
Phóng, rồi Việt Trì, bây giờ là Phú Thọ. Duy nói về dự tính tương lai với những
bản dân ca. Duy lúc này đã nổi tiếng, chẳng những về hát, mà còn ở sáng tác
nhưng ca khúc như Cô hái mơ, Gươm tráng sĩ, v.v...
Năm ấy, chúng tôi mới có 24 tuổi. Đi cùng với Duy rất vui vì Duy
hay nói tục. Nhưng sau đó, lại trầm ngâm, có lẽ, trong đầu, Duy đang có dự tính
nào đó, có thể, một ca khúc sắp ra đời. Sau cặp kính trắng, đôi mắt Duy long
lanh như được chiếu dọi bởi luống ánh sáng kỳ dị. Đến Yên Bái, một thành phố đã
tiêu thổ 95%, tôi gặp thêm Văn Cao. Cũng từ nơi đó, tôi và Duy chia tay. Tôi ở
lại Yên Bái chơi với Văn Cao vài ngày. Mỗi chiều chúng tôi rủ nhau đi uống rượu,
loại rượu đế nặng. Văn Cao trông vẫn thế, sắc mặt tai tái, đôi mắt thật sắc với
nụ cười chìm lắng. Có khác chăng chỉ là bộ bà ba nâu, bên ngoài phủ thêm chiếc
trấn thủ"[60].
"Văn Cao nổi tiếng từ tiền chiến, trong kháng chiến và mãi
mãi, mọi người đều nghe nhạc của anh. Nhưng anh, con người đa tài, ngoài nghệ
thuật còn làm nhiều thứ khác.
Tôi lại chia tay với Văn Cao cũng ở Yên Bái. Văn Cao ngược Lào
Cai để đi làm công tác tình báo biên giới được ngụy trang bằng một phòng ca nhạc.
Phạm Duy có lên Lào Cai và hát ở phòng trà này. Bài Bên Cầu Biên Giới của Duy
được sáng tác tại đó."[61]
Tạ Tỵ đi theo ban kịch truyền bá quốc ngữ được nửa năm thì bị sốt
rét nặng, phải về Liên khu Ba (vùng Thái Bình), vẽ tranh hí họa chống Pháp trên
báo Cứu Quốc Thủ Đô, sáng tác văn thơ và dạy hội họa. Tạ Tỵ kể về nhiệt tình
cách mạng của Văn Cao:
"Một chiều khi gần tối, bỗng Văn Cao và Nguyễn Đình Thi đến
thăm. Thật không gì vui hơn, khi nằm một mình trong căn nhà vắng lại được bạn đến
thăm. Văn Cao cho biết từ Liên khu 1 mới xuống công tác ở Khu 3, nhân tiện ghé
chơi. (...) Nói chuyện tầm phào mãi cũng chán, tôi yêu cầu Văn Cao đọc lại bài
thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc". Văn Cao tuy làm nhạc nhưng
không có giọng hát, nhạc Văn Cao nổi tiếng nhờ tài hát của Phạm Duy, Bùi Công Kỳ
v.v... Văn Cao cũng không có tài ngâm thơ, hát chèo như Hoàng Cầm, nhưng tiếng
đọc thơ của Văn Cao nghe rất lạ, nghe ghê rợn như tiếng vọng từ đáy huyệt.
(...) Tôi nhớ, đêm ấy Văn Cao nói với tôi:
- Này cậu, tôi có ý định giới thiệu cậu vào Hội Nghiên Cứu Chủ
Nghiã Các-Mác[62]cậu
nghĩ sao? Tôi thẳng thắn trả lời, không thích chính trị, chỉ yêu nghệ thuật
thôi! Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy nét mặt Văn Cao và Nguyễn Đình Thi ra
sao, nhưng qua câu nói của Văn Cao:
- Không còn con đường nào khác đâu, nghệ thuật cũng phải phục vụ
chính trị. Tôi chỉ biết nói thế. Còn tùy cậu. Vả lại, Hội cũng ở gần đây thôi,
mất công gì đâu mà cậu ngại?
Tôi không trả lời nói lảng sang truyện khác. (...) Sáng hôm sau,
Thi và Văn Cao đều dậy sớm, đi ngay".[63]
Tạ Tỵ và Phạm Duy cho biết trong thời gian đầu kháng chiến, nghệ
sĩ được tương đối tự do sáng tác. Tạ Tỵ vừa vẽ tranh tuyên truyền (hí họa chống
Pháp) vừa sáng tác nghệ thuật theo ý riêng mình và có thể triển lãm. Phạm Duy
viết:
"Trong ba, bốn năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những
văn nghệ sĩ rời thành thị ra thôn quê đều là những người tự động tham gia cuộc
chiến đấu chung và dù có gia nhập vào một tổ chức văn nghệ nào của chính quyền
thì cũng được tự do đi lại, tự do sáng tác hay tự do biểu diễn. Dù Đảng Cộng Sản
đã có đề cương văn hoá từ lâu[64] quy
định mọi sáng tác văn nghệ đều phải có "tính Đảng" nhưng chỉ tới khi
có Đại Hội Văn Hoá lần thứ hai được tổ chức ở Bắc Kạn vào năm 1950[65] thì
mới có những đường lối văn nghệ được Ban Chấp Hành đưa ra để văn nghệ sĩ ngoài
Đảng học hỏi"[66].
Trong không khí còn khá dễ thở, Văn Cao trở lại Liên khu ba năm
1949, và các họa sĩ có thể tổ chức triển lãm chung, Tạ Tỵ kể: "Từ khi
có Văn Cao ở gần, chúng tôi mỗi lần gặp lại bàn về chuyện làm phòng triển lãm.
Văn Cao cũng vẽ được hai tấm tranh sơn dầu. Anh cho rằng vấn đề mở Phòng Tranh
là việc nên làm vì từ ngày kháng chiến, Liên Khu 3 chưa có Phòng Tranh nào.
Chúng tôi[67]giao
việc liên lạc với chính quyền cho Văn Cao lo, còn tranh, có bức nào bày bức đó.
(...) Văn Cao bày hai tác phẩm: Cây đàn đỏ và Đường cấm. Tôi có hai bức: Lìa phố
và Chiến tranh. Cả bốn bức là sơn dầu, còn toàn là tốc họa, bút chì vẽ trên giấy.
Tuy vậy, phòng Triển Lãm cũng nhiều người xem lắm, nhiều buổi phải chen lấn
nhau, làm chúng tôi lên tinh thần, tuy sự trưng bày này hoàn toàn có tính cách
biểu dương, chứ không bán. Có bán cũng chẳng ai mua. Sau khi phòng triển lãm bế
mạc, Văn Cao gửi tôi giữ giùm hai tác phẩm nói trên vì lý do không ở đây lâu, nhưng
sau khi tôi đã "dinh tê", đến năm 1951, quân Pháp đánh vào quê tôi, lấy
đi tất cả!"[68]
Trước đây, người ta chỉ biết bức tranh Cây đàn đỏ của
Văn Cao bị phê bình, nhưng nội dung phê bình ra sao, không ai rõ. Nhờ những điều
Tạ Tỵ viết về buổi phê bình tranh Mưa Núi của ông, chúng ta có thể
đoán được cảnh phê bình tranh Văn Cao: "Tôi vẽ thêm được bức tranh
Mưa Núi, vẫn theo kỹ thuật lập thể. Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời đi
tham dự buổi họp của Chi Bộ Văn Nghệ Liên Khu (...) Đúng ngày, tôi mang tranh đến
một ngôi làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi đã có nhiều anh em, tuy
vậy, tôi quen rất ít, chỉ có Phái[69],
Huyền Kiêu và Lương Xuân Nhị, là bạn.(...)
Sau vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục vụ
kháng chiến, anh trưởng ban Tổ Chức (tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm Mưa Núi của
tôi trên chiếc giá bằng tre, xong mời anh em phát biểu ý kiến về tác phẩm đó. Mỗi
người nói một cách, tôi phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm mình
có "nội dung cách mạng". Chắc đã được sắp đặt trước, anh trưởng ban Tổ
Chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu đến trước bức tranh, hỏi mỗi
người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi khi phải chống đỡ với những lời
phát biểu vô cùng thật thà vì không hiểu gì về hội họa của những người dân quê
mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi muốn
phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt bình tĩnh tới phút chót.
Sau cuộc phê bình khốn khổ, tôi dự đoán được Tổ Chức Chi Bộ Văn
Nghệ muốn đối xử với tôi ra sao rồi! Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng về
phía thiểu số, cũng chẳng đỡ đòn gì được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có một
ngày. Đáng lẽ sau khi họp xong, tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối
hôm đó, tôi về ngay, nại cớ ngày mai phải đi gặp trưởng Cơ Quan Bình Dân Học Vụ
nhận công tác. Cũng kể từ đó, trong tôi đã dứt khoát, nếu có dịp thuận lợi là
"dinh tê", chứ ở lâu không xong!"[70]
Đó là tình hình năm 1949. Và đó là lý do khiến những hoạ sĩ như
Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... bỏ kháng chiến về thành.
Sự "dinh tê" của văn nghệ sĩ được Vũ Bằng cảm nhận
như sau: "Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc
cảm, là vì tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn
vấn đề hèn hay không, đó là tùy ở nhân cách của từng người"[71].
● Nhân Văn Giai Phẩm: Thơ Văn Cao
Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa.
Ông trở lại với hội họa thì Hoàng Cầm đến mời ông viết bài cho Giai Phẩm
Mùa Xuân.
Văn Cao nhận lời và làm thơ, vì chỉ có thơ mới nói được những bi
đát sâu lắng trong nội cảnh của tâm hồn. Với sự "đốc thúc" của
Hoàng Cầm, Văn Cao dành cả mùa xuân để sáng tác trường ca Những người trên
cửa biển.
Lần này trở lại, Văn Cao như người anh cả, đứng lên chỉ mặt bọn
người đã làm cho nghệ sĩ phải điêu đứng trong sáng tác từ 1949. Tác giả quốc ca
hỏi tội:
"Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả"
"Chúng nó" đây là những khuôn mặt đã tạo dựng nên
cái xã hội có nửa mặt:
"Một nửa thế giới
Một nửa tâm hồn
Một nửa thế kỷ
Chưa khai thác xong".
"Chúng nó" đây là những con người:
"... những con người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng"
"Chúng nó" đây là những vi khuẩn đã len lỏi vào sự
sống của con người:
"Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân các cô gái
Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm"
Và một lần nữa tác giả Tiến Quân Ca kêu gọi mọi người
đứng lên bảo vệ tự do như đã từng bảo vệ tổ quốc:
"Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta."[72]
Những lời kêu gọi thiết tha trên đây của Văn Cao làm rung động
những tâm hồn yêu tự do, yêu nghệ thuật và yêu đất nước. Chỉ riêng những kẻ cảm
thấy mình bị gọi là "chúng nó" mới động lòng. Xuân Diệu thốt lên những
lời tàn nhẫn:
"Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch;
không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến
ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn
hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã
thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ
nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (...)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn
lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối
mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái
khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình
mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm
khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm
thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng
nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một
trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan…
… Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó
còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền
thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái
máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành
tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại
là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng
cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu,
thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan
rã, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại
ô mùa đông 46"[73]
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong
truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai
mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng
nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên đất nước ta “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm
ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những con người của chúng ta, từ Cách Mạng Tháng Tám đến nay, xuất
hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động
địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái Đất cũng biết
chúng ta vĩ đại!"[74]
Lời Xuân Diệu chứng minh những điều Văn Cao viết về "chúng
nó" là đúng. Xuân Diệu còn cho biết: Đảng chưa bao giờ hiểu nghệ thuật của
Văn Cao. Tất cả những sáng tác tuyệt vời của Văn Cao đều bị Đảng coi là "thuốc
độc". Tóm lại, Đảng chỉ lợi dụng bài Tiến Quân Ca.
Nhưng Văn Cao không thuộc về Đảng. Văn Cao là nghệ sĩ của
dân tộc. Nếu nhạc Văn Cao đưa người vào mộng, thì thơ Văn Cao xoáy vào thực tại
cuộc đời: phần đời thực với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô
mùa đông 1946, Những người trên cửa Biển và phần nội tâm sâu xé của con
người mất tự do trong các bài thơ ngắn, cô đọng đau thương những giọt nước
mắt không rơi ngoài tim mình như lời thơ Thanh Tâm Tuyền.
Nhạc sĩ kỳ tài, Văn Cao còn là nghệ sĩ tiên phong trong hội
họa và thi ca. Ngày nay khó tìm được họa phẩm của Văn Cao nhưng theo Tạ Tỵ, Văn
Cao đã tự trình bày bìa những bản nhạc của mình bằng những bức tranh avant
garde. Nếu tìm lại được những bản nhạc đó, ta có thể có ý niệm về hội họa tiên
phong của Văn Cao.
Riêng về thơ, Văn Cao âm thầm tiếp tục con đường tân tạo. Mỗi chặng
sống, ông viết những tác phẩm giá trị.
Cúi xuống lầm than của kiếp người, Văn Cao đã để lại những hình ảnh
kinh hoàng của trận đói tháng ba năm Ất Dậu. Nếu không có Chiếc xe xác qua
phường Dạ Lạc, chúng ta không thể hình dung cảnh xe xác lăn trong xóm cô đầu
của một Hà Nội bán linh hồn:
"Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ (...)
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc!"
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc song hành với Tiến quân
ca, là những tiếng bi thương và hùng tráng, báo hiệu một dân tộc vùng đứng lên
kháng chiến. Ngoại ô mùa đông 1946 viết về ngày toàn quốc kháng chiến,
với một bút pháp độc đáo, kinh hoàng, gây hoang loạn:
"Phố chết rồi vài mảnh rêu ngơ ngác
The thé thất thanh giọng kêu tàn ác
Quạ dăm con, chập choạng cánh dơi xa
Lơ láo tường vôi, than bụi dui nhà (...)
Cửa ô cần lao
Cửa ô trụy lạc
Cửa ô trầm mặc
...
Mấy bức tường hồng rơi xuống cùng trâm
Một dẫy phố nghiêng cả thành Hà Nội
Dòng ngõ chợ xưa máu dâng ngập lối
Mấy xác quân thù bên cống tanh hôi
Sọ nứt toang óc chảy lẫn với ròi
...
Xóm âm u
thành khối đen đặc quánh
Ơi ai ngâm mình hố lạnh
Gió mùa rú ghê người
Trăng đông dầm khe rãnh
Lưỡi lê đậu sương rơi..."[75]
Kháng chiến không chỉ là hào hùng, là hoa treo đầu súng. Kháng
chiến còn là chiến tranh, chết chóc, tàn phá, kinh hoàng... Ngoại ô mùa
đông 46 là bài thơ khốc liệt nhất viết về toàn quốc kháng chiến. Trong những
năm đầu, người nghệ sĩ còn được tự do sáng tác, mới có thể có Chiếc xe xác
qua phường Dạ Lạc vàNgoại ô mùa đông 1946, in trên báo Tiên Phong. Đó
là Văn Cao thời kháng chiến.
Thời NVGP, Văn Cao viết trường ca Những người trên cửa biển,
bài ca lịch sử của Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời Văn Cao, từ lúc sinh ra dưới
thời Pháp thuộc, đến cuộc kháng chiến đẫm máu mà Văn Cao đã phụng sự hết mình.
Văn Cao chờ đợi một mùa xuân khi hoà bình lập lại. Nhưng ngày dứt chiến tranh
cũng là ngày chia đôi đất nước, ngày những con bạch tuộc hiện hình:
Vợ xa chồng
Anh xa em
Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu
Tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc
...
Gió bão tới đâu cũng không một lúc
Rụng hết lá vàng
Ngày báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn
Có người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất
Từng đêm đau nhức vết đạn trên mình
...
Trong những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nướng
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người
...
Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt [76]
Văn Cao trở lại vị trí chiến sĩ trừ gian. Lần này cuộc cách mạng
sẽ xẩy ra trên mặt trận tư tưởng, bằng ngòi bút. Và những kẻ sợ Văn Cao vạch mặt,
chỉ tên đã hoảng loạn tinh thần, viết nên những điều cuồng dại.
Sau Nhân Văn, Văn Cao vẫn làm thơ. Lần này thơ ông đi sâu vào nội
tâm con người. Một con người:
Có lúc
một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ
có lúc
ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
có lúc
nước mắt không thể chảy ra ngoài được[77]
Con người bị cầm tù tư tưởng âm thầm nhìn cái chết chậm, như bức
tường vô tri, nhích dần, nhích dần trên thân xác mình:
Cái bức tường lê từng bước một
Đến gần chân chúng tôi hàng ngày
Chúng tôi nhìn chậm chạp
Châm chạp một cái chết
Thời gian đang héo thời gian đang rụng[78]
Bài thơ khóc Nguyễn Huy Tưởng, nhưng là điếu tang những người bị
mất tự do. Bài thơ bị cấm trong ba mươi năm. Kiên trì, Văn Cao vẫn tiếp tục vẽ
bằng thơ. Lần này ông phác họa chân dung một kẻ xưa kia là bạn:
Tôi đã gặp lại anh
Im lìm như một bức ảnh
Người anh dẹt như một con dao
Gây nhiều vết thương cho bạn hữu
Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt
Đâu là cái cuối cùng
Chỉ còn hai con mắt
Trắng dã không thể lừa dối[79]
Bài Ba biến khúc tuổi 65, tổng kết cuộc đời Văn Cao trong một
tình thế chính trị không lối thoát. Biến khúc I viết về thời kháng
chiến trừ gian:
Một người cho tôi con dao găm
Không biết dùng làm gì
đêm nhìn qua cửa sổ
một khoảng trống đen
tôi ném vào khoảng trống ...
bỗng nhiên có tiếng ngã ngoài sân
một người trúng tim đã chết
tôi không hề biết người ấy
tôi là kẻ không muốn giết người
chỉ biết bóng tối
mà tôi đã ném dao.
Những lời tự họa đớn đau của Văn Cao đã gặp những lời tự phán
kinh hoàng của Nhất Linh trong Giòng sông Thanh Thủy: Khi anh đã lọt vào guồng
máy, anh sẽ phải giết người, anh sẽ có «bàn tay bẩn» (JP Sartre).
Biến khúc II viết về bi kịch của người Nhân Văn:
Tôi đi trên phố
bỗng nhiên mọi người nhìn tôi
một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp
tôi chạy
tôi chạy
tại sao tôi chạy?
tôi không hiểu tôi
cả phố đuổi theo tôi
xe cộ đuổi theo tôi
tôi chạy bạt mạng
gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội.
Chạy hết trọn đời, nhưng người Nhân Văn không tìm ra lối thoát. Biến
khúc III, viết về mạng lưới công an trị:
Tôi rơi vào mạng nhện
mạng nhện cuốn lấy tôi
không còn cách gì gỡ được...
muốn phá cái mạng nhện
tôi không đủ tay[80]
Sau Nhân Văn, người ta vẫn không dám đối xử với tác giả Tiến
Quân Ca như những thành viên khác của NVGP. Họ đành đưa Văn Cao vào bóng tối.
Không nhắc tới. Không cho in. Không cho hát. Không cho vẽ. Trong ba mươi năm.
Nhưng Văn Cao vẫn hiện diện. Hiện diện bằng sự vắng mặt. Người dân miền Nam vẫn
nghe những tuyệt tác của Văn Cao qua tiếng hát những ca sĩ thượng thặng Thái
Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly... Và người dân miền Bắc mỗi lần chào cờ là một lần hội
ngộ với Văn Cao.
Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao vàng
gắn liền với Đảng Cộng Sản sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến Quân Ca là
xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân
chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác
phẩm nào thay thế được Tiến Quân Ca trong lòng dân tộc Việt Nam.
Phụ lục
Hồi Ký của Văn Cao:
Bài Tiến quân ca
|
Bài đã bị cắt:
Tại sao tôi viết Tiến quân ca
|
|
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn
gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được bày
vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được các báo giới
thiệu cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống bằng hội họa tại Hà Nội không
thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người đã xuất bản mấy
bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không nói đến tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ
nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã trình diễn nhiều lần
ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và
truyện ngắn. Đối với những cây bút trẻ, việc đăng báolà một vinh dự, người ta
phải mua báo và còn phải mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân.
Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho
làm việc. Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc
làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói. Những người bạn nuôi tôi
cũng gặp nhiều khó khăn.
Căn gác 45 ấy bắt đầu đông người thêm. Mấy người bạn tôi cũng
bỏ Hải Phòng để lên đây kiếm việc. Họ đều là những bạn hướng đạo, trước đây
chưa hề phải lo đến chuyện làm ăn. Những năm trước, chúng tôi thường kéo tới
nhà nhau để sống hàng tháng trời bắt gia đình phải nuôi hay thỉnh thoảng mang
lều đi ra ngoài thành phố, về những nơi có núi đồi để cắm trại và ca hát. Đầu
tiên chỉ có hai người tới ở chỗ tôi, sau đấy lại thêm ba người nữa và có người
chỉ mới biết tôi qua bạn bè cũ. Căn gác 45 ấy biến thành một cái quán trọ của
những người thất nghiệp. Hàng ngày mỗi người đi tìm bạn bè trên phố để kiếm
ăn. Đêm đêm họ phải nằm trên cái sàn nhà lát gỗ. Bởi vì tôi chỉ có một cái
giường nhỏ. Chủ nhà đã cắt điện vì tôi không có tiền trả hàng tháng. Tôi phải
làm việc với một ngọn đèn dầu. Đã hết những câu chuyện tâm tình, những ước mơ
và khát vọng của tuổi thanh niên. Mỗi đêm, chúng tôi chỉ nhìn thấy nhau với
những bộ mặt chán chường thất vọng. Đôi lúc có những bộ mặt thấy vui hơn. Đấy
là dấu hiệu thắng lợi của những người gặp may trong ngày đã kiếm được một bữa
ăn ngon, hay một số tiền nhỏ do bạn bè bố thí. Chúng tôi ở với nhau không ai
nghĩ đến sự giúp đỡ nhau. Mạnh ai tìm lấy việc, tìm lấy cơm ăn hàng ngày.
Không chí hướng. Không mục đích.
Buổi sáng mỗi lần ra đi, tôi thấy họ vẫn nằm ôm nhau trên sàn
gác, dù nắng đã chiếu vào giữa nhà. Thấy tiếng kẹt cửa họ cũng không buồn cựa
quậy. Có lúc trở về vào hai ba giờ chiều tôi vẫn thấy họ nằm như buổi sáng.
Anh em thường gọi đấy là những ngày phải "gồng". Tiếng "gồng"
có nghĩa là chịu đói. Tiếng "gồng" theo nghĩa võ là chịu đòn. Nhóm
thất nghiệp còn đặt thêm nhiều từ để chỉ sự đói: ép gồng, ép rệp. Những cảnh
"gồng" thường diễn ra ở căn gác xép ấy.
Người "giải gồng" -có nghĩa là giải được sự đói- giỏi
nhất là tôi. Mỗi buổi sáng ra đi tôi thường không biết là sẽ đi đến đâu và sẽ
làm gì, và chỉ cầu vào sự may mắn: may gặp bữa ăn ở nhà một người bạn, may gặp
một người bạn mời ăn ở dọc đường. Nhờ những năm học vẽ tại Hà Nội, tôi có một
số bạn nên gặp được nhiều may mắn. Nghe tiếng chân của tôi lao trên mấy bậc
thang gạch, mấy anh bạn trở mình nói với nhau: "Nó hôm nay lại thấy về sớm?"
Tôi nhìn các bạn nằm trên sàn gác nhịn đói không biết nói gì thêm. Cái đói đã
trói chúng tôi lại một nơi này.
Có một lần tôi khệ nệ xách lên gác một con cá mè dài gần một sải
tay. Cả bọn vùng dậy. Mặt anh nào cũng sáng hẳn lên:
- Ở đâu ra cái của này?
- Bà mẹ Nguyễn Đình Phúc cho đấy.
Tôi chỉ kịp ngồi thở, vì đã phải đi bộ xách cá từ Hàng Than về.
Bà mẹ nhạc sĩ ấy nay đã mất rồi, nhưng chúng tôi không thể quên ngày chúng
tôi nhờ mẹ mà có một bữa đỏ lửa trên sân gác, một bữa "tiệc" với
món cá luộc chấm muối chưa bao giờ ngon lành và no nê đến thế. Hình như chỉ
có một buổi tối hôm ấy thôi có người trong chúng tôi mới kể đến những chuyện
về tình yêu.
Thế rồi bỗng nhiên họ rẽ nhau đi hết trong một ngày. Và căn
gác bỗng lạnh vắng. Bọn họ đã tìm được công việc trong một dịp may. Một người
chủ thầu chợ Hà Đông nhận tất cả làm nhân viên dán vé. Riêng tôi không thể
làm nghề ấy được. Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng vào những ngày đầu thu
năm 1944.
|
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn
gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được bày
vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được các báo khen
ngợi nhưng cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa, tại Hà Nội không
thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã xuất bản mấy
bản nhạc đầu tiên của tôi, cũng không thấy nói đến tiền nhuận bút. Tôi chưa
bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã trình diễn
nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút
về thơ và truyện ngắn. Đối với cây bút trẻ, việc đăng báo là một vinh dự. Người
ta phải đi mua báo và còn mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân.
Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho
làm việc. Cuộc sống lang thang đó không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc
làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói.
|
|
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang
đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất
đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con.
Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi
cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả
quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng
dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph.D. là bạn thân của tôi từ
Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh
Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường
chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng là phải bỏ văn nghệ, con đường của
người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu của các
đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm khác vói
việc thoát ly -tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế- có thể là bằng sáng tác, bằng những
hành động mà tôi dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh niên về những
bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người nghèo v.v...
Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi xa xôi lòng
yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có thế thôi,
thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích tôi. Sự khuyến khích ấy
đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi
đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường
đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng
thần thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn
gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên
bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ
khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng
sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
|
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi
đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc
mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo
con. Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi
cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần
áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài
hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
|
|
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những
hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng
tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng,
và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một
hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi
thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu
ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên
chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những
điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát
cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường
phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để
nói, tìm một âm thanh đầu tiên. Nhưng đường phố quen thuộc ấy thường không
vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông
người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được
tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo
hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới
nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây,
bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ
gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt.
Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt
nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa
nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình
như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó
nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước
mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân
Ca.
Những ngày ấy, Ph.D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải
Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt
Minh ngày càng nhiều. Các báo chí gửi về các cơ sở như "Cờ Giải
Phóng" và "Cứu Quốc"cũng tăng thêm số lượng. Tất cả đã chất đầy
mặt bàn tôi. Những tin đấu tranh ở các tỉnh được phản ảnh đầy đủ trên báo
chí. Tin chiến khu được mở rộng. Tin về các đội du kích thành lập. Rồi những
tặng phẩm gửi tôi có thêm cả máy ảnh, ống viễn kính, cả những bì gạo. Mỗi vật
tiếp nhận càng cho thấy sự phát triển lớn mạnh thêm của phong trào quần chúng
đô thị và nông thôn. Những cột báo không đăng hết được danh sách những người ủng
hộ Mặt trận.
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe
tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu,
bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất
tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của
từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của
bài Tiến Quân Ca.
Ngày nay tôi vẫn không sao nhớ nổi, dù nhớ đủ mọi kỷ niệm, rằng
mình đã soạn nhạc bằng phương tiện nào, một cây đàn ghi-ta, một măng-đô-lin
hay một băng-giô. Cũng không nhớ tôi đã mượn đàn của ai và ở đâu. Có thể bài
"Tiến quân ca" đã soạn trên một chiếc ghi-ta Ha-oai chăng? Bởi vì
tôi đã quen sáng tác trên cây đàn này những năm trước đây.
|
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những
hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng
tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng,
và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một
hiệu ăn. Ở đây quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi
thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng
tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu
ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và cho quyết định công tác. Đây là lần đầu
tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu
hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho
quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường
phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để
nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không
vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông
người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được
tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo
hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới
nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây,
bóng mấy người đói khổ trần truồng, loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một
thứ gì, trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc
mắt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi.
Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó
ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người
đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc cũng không phải là cháu tôi. Nó đã chết thật
rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải
Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt, và quay đi. Đêm ấy về căn gác tôi đã viết
được nét nhạc đầu tiên của bài Tiến quân ca.
|
|
Bài hát đã làm trong không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp
số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy
lùm cây và một màu trời xám. Ở đấy thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác
người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Ở đấy hàng đêm mất ngủ vì gió mùa luồn
vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một anh viên chức nghèo khổ thiếu
ăn dưới nhà vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đấy tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời.
Ở đấy có những tiếng đập cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và
đang bị đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một
cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, của
các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ nhiều hôm. Tất cả đang chờ
tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội
vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến
khu, chỉ biết những con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen
tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân
chính đầu tiên ấy, để biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết
một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Minh đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu
ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính kháng
Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang dồn
bước, mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng
Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang rừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và
tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
"Tiến lên! Cùng thét lên!"
"Chí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng"
đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa.
Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và
nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ
lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên
nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt
Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc
quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước
tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát
xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng
tôi cùng phụ trách.
|
Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại
căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà
hai tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những tiếng
xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì
gió mùa luồn vào tung khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh
viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu
thêm nhiều chuyện đời. Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi
đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và
đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ
đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ
tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang
chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia
nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến
khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói
quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa
quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách
viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Nam đi
chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu
ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phất phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính kháng
Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang dồn
bước. Mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng
Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
- Hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang lừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và
tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
"Tiến lên! Cùng thét lên!"
"Trí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng"
đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa.
Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều may và
nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng
chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ
lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi, khi xướng âm lần đầu tiên
nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt
Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc
quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước
tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát
xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng
tôi cùng phụ trách.
|
|
Tháng 11-1944, tôi tự tay viết bài Tiến quân ca lên
đá in, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập, còn giữ lại nét chữ
viết của một anh thợ mới vào nghề.
Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về
Hà Nội. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe tiếng
đàn măng-đô-lin, từ một căn gác vọng xuống. Có người đang tập Tiến quân
ca. Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất
cả những tác phẩm, tôi đã được ra mắt, ở các rạp hát trước đây. Tôi nhận ra
được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi. Bài
hát đã được phổ biến. Có thể những người cùng khổ, mà tôi đã gặp trên bước đường
cùng khổ của tôi, lúc này đang cầm súng và đang hát.
|
||
Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức
Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến
quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi,
hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo
mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của
chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, nhưng tờ bướm in "Tiến
quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự
mít-tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà
Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph.D. qua loa
phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống
cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn
quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và
cũng là một lần duy nhất.
Ngày 18 tháng tám 1945, đội thiếu niên tiền phong đến tìm tôi
nhận nhiệm vụ mới. Tôi không biết giao việc gì cho các em lúc này khi chúng
tôi không phải nhờ các em làm nhiệm vụ trinh sát như trước đây các em đã giúp
chúng tôi hết sức thông minh và dũng cảm. Chúng ta sẽ bắt tay vào nhiệm vụ mới
của cách mạng. Các em sẽ quay về với công việc học tập hàng ngày của các em.
Lúc này... lúc này chúng ta hãy tập hát. Một dàn đồng ca được thành lập ngay
trong Trụ sở Hướng đạo tại phố Hàng Trống, nơi chúng tôi thường sinh hoạt với
các em. Tôi đã hướng dẫn các em học bài Tiến quân ca để ngày hôm sau làm lễ
chào cờ.
Lúc ra về, một em bé khệ nệ ôm một gói khá to và nặng đến gặp
tôi. Đó là một em làm việc quét dọn ở nhà in Lê Văn Tân. Tôi ngạc nhiên nhìn
em mở bọc giấy ra trước mắt các đội viên: một gói truyền đơn mà em đã từng
đêm trốn lại buồng máy, tự xếp chữ và in lấy được vài trăm tờ theo một khẩu
hiệu em đã được xem trên báo Cứu Quốc ngày gần khởi nghĩa. Tôi chợt nhìn đôi
mắt đầy tự hào của em. Đôi mắt em đẹp quá! Tôi ngờ ngợ như đã nhìn thấy đôi mắt
ấy từ bao giờ. Đôi mắt của những đứa trẻ bị lạc!
|
Tới lúc cần hành động, tôi lại bị ốm nặng, và phải đưa những
vũ khí mà tôi giữ cho một đồng chí khác. Ngày 17-8-1945, tôi cố gắng đến
dự một cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Ngọn cờ đỏ sao vàng được thả từ
bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài Tiến quân ca đã nổ như một trái bom.
Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên, vang theo
những đoạn sôi nổi. Những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng,
đã thay những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng
Kim.
|
|
Ngày 19 tháng tám 1945, một cuộc mít-tinh lớn họp tại quảng
trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân
ca" chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi,
có còn nhớ lại cái buổi sáng tháng tám nắng vàng rực rỡ ấy? Nhớ lại giọng hát
của họ lẫn với giọng tôi vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng? Hàng chục
ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù vào mặt bọn đế quốc với sự
hào hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài "Tiến quân ca" đã là của dân tộc Việt Nam độc lập
kể từ ngày hôm đó. Nay nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến lên thành nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bài "Tiến quân ca" hẳn còn vang
vọng mãi tác dụng của nó như thuở nó ra đời trong buổi bình minh kỷ nguyên mới
của lịch sử đất nước.
Văn Cao
(Sông Hương, số 26, tháng 7&8/1987, trang 1-5) |
Ngày 18-9-1945, một cuộc mít-tinh lớn, họp tại quảng trường
Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân
ca",chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi,
có còn nhớ lại cái buổi sáng tháng Tám, nắng vàng rực rỡ ấy, nhớ lại giọng
hát của họ lẫn với giọng tôi, vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng. Hàng chục
ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù bọn đế quốc, với sự hào
hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài "Tiến quân ca" đã là của dân tộc Việt Nam độc lập
kể từ ngày hôm đó.
7-7-1976
Văn Cao, cuộc đời và tác phẩm - NXB Văn Học, 1996, trang 86-92 |
[3] "Giữa lúc ấy (1944), thì một người đồng hương của Văn
Cao, tên là Vũ Quý vì hoạt động cho Việt Minh ở Hải Phòng nên bị Nhật lùng bắt.
Anh ta trốn lên Hà Nội, đến ở nhờ Văn Cao và tuyên truyền cho Văn Cao theo Việt
Minh. Văn Cao được giới thiệu để viết bài và vẽ tranh cho tờ báo Lao Động là cơ
quan của Việt Minh xuất bản ở ngoại ô Hà Nội, đồng thời căn gác của Văn Cao được
Vũ Quý dùng làm lớp học để giảng chính trị cho những thanh niên mới gia nhập
đoàn thể Việt Minh"(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc,
trang 220). Nhiều nơi nhầm với báo Độc Lập mà Văn Cao cộng tác năm 1947 ở Vĩnh
Yên.
[12] Theo Hoàng Văn Chí, vì sợ gia đình Văn Cao về thành, Việt
Minh điều động Văn Cao lên Việt Bắc (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang
221).
[16] Văn Cao vui và buồn sang tuổi cổ lai hy, đăng lại trên Văn
Cao cuộc đời và tác phẩm, Văn Học, trang 423.
[21] In trong Thiên thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, Trẻ,
1988, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 86.
[30] Kim Tiêu là một trong những danh ca hàng đầu trước kháng
chiến đã hát nhạc Văn Cao tuyệt vời như Thái Thanh hát nhạc Pham Duy, nhưng số
phận ông vô cùng bi đát. Phạm Duy nhắc đến vai trò của Kim Tiêu trong việc truyền
bá ca khúc Văn Cao: "Trong đám nam ca sĩ lúc đó, tôi cho rằng Kim Tiêu là
người hát hay nhất. Trong khi tôi vác bài Buồn tàn thu đi lưu diễn ở trong Nam
thì ở Hà Nội, chính nhờ giọng hát Kim Tiêu mà những bài Thiên Thai, Trương Chi
của Văn Cao được nổi tiếng" (Phạm Duy, Hồi ký II, trang 56- 57).
Về số phận người danh ca này, Tạ Tỵ cho biết: Kim Tiêu về thành
trước ông nhiều tháng, nhưng sau vì chống đối, bị Pháp bắt và buộc tội là Việt
Minh: "Vào tù, anh vẫn không sợ, dù bị đánh đập tra khảo thế nào, anh cứ
coi thường. Pháp nhốt anh vào xà-lim (Cellule), anh vẫn ca hát, những bài hát của
Việt Minh. Sáng nào, anh cũng nắm chặt tay vào song sắt hát bản Tiến quân ca của
Văn Cao để đánh thức mọi tù nhân khác dậy. Từ ngoài khu kháng chiến, Văn Cao được
tin, cảm động lắm, làm một bài thơ bí mật đem vào Hà Nội, rồi nhờ các cán bộ
tình báo nội thành đưa vào Hoả Lò cho ca sĩ Kim Tiêu. Tôi có được đọc cả bài
thơ, nhưng lâu ngày, bây giờ chỉ nhớ vài câu:
... Người danh ca ấy nằm trong ngục
Hà Nội nhớ tôi, hát bài ca cũ
Tiếng ca như buổi sớm trong
Tiếng ca vang vang phá phách
Xà-lim nổ tung ra
Cả Hoả Lò vỡ toang thành khối nhạc!...
Câu chuyện về ca sĩ Kim Tiêu, tôi chỉ biết tới đấy, còn sau này,
Kim Tiêu sống hay chết trong tù, tôi không hay" (Tạ Tỵ, Những
khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 114)
Trong đoạn viết về Bến Xuân, Nguyễn Thụy Kha có nhắc đến
người ca sĩ giọng vàng nhưng không (dám?) nêu tên, và sau cùng có câu "Và
đau đớn nhất là chàng đã chết trong cơn đói không thể nào sống được (Nguyễn
Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 28). Tại sao? Tìm kỹ thì chúng
tôi thấy trong tạp chí Âm Nhạc, Minh Hiền viết: "Kháng chiến, Kim
Tiêu ở lại hoạt động vùng địch. Ông đã bị bắt. Trong tù, Kim Tiêu vẫn hát vang
những bài cách mạng. Khi được thả, ngay giữa Hà Nội tạm chiếm, trong một liên
hoan sinh viên, Kim Tiêu đã hát Sông Lô của Văn Cao mà không hề sợ sệt chút
nào. Rất tiếc, sau hoà bình, do bị nghi ngờ được thả ra tù vì đã khai báo, Kim
Tiêu buồn chán đi lang thang. Càng buồn ông càng hát hay. Kim Tiêu đã hát đến
hơi thở cuối cùng ở Ga Hàng Cỏ". (Minh Hiền, Những giọng vàng một thủa,
tạp chí Âm Nhạc số 3-4-5, 1994, trang 43-44.) Bi kịch Kim Tiêu chắc hẳn còn nhiều
u uẩn.
[37] Tạ Tỵ, sinh năm 1921 tại Hà Nội, là họa sĩ Việt Nam đầu
tiên vẽ theo lối lập thể từ 1940. Tạ Tỵ theo kháng chiến từ những ngày đầu.
Tháng 5/1950, sau khi bức tranh lập thể Mưa núi, bị phê bình gay gắt, ông
quyết định về thành. Năm 1951, ông tổ chức cuộc triển lãm tranh lập thể đầu
tiên với 60 tác phẩm tại Hà Nội. Năm 1953, bị động viên đi lớp Sĩ quan Thủ Đức.
Ông tiếp tục sự nghiệp hội họa tại Sài Gòn, với hai cuộc triển lãm lớn năm 1956
và 1961. Tạ Tỵ phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà, cấp bậc sau cùng là
Trung Tá. Sau 1975, ông bị đi cải tạo và đưa ra Bắc. 1981 được tha về. 1982,
cùng gia đình vượt biển. Viết hồi ký Đáy Địa ngục (nxb Thằng Mõ,
1985, Hoa Kỳ). Năm 2004, sau khi vợ ông từ trần, Tạ Tỵ trở lại sống tại Sài Gòn
và mất ngày 24/8/2004. Tạ Tỵ, như Vũ Bằng nhận xét là "một nghệ sĩ
"trọn vẹn", ngoài môn vẽ, viết, thơ ca, anh lại còn có tài về nhạc và
trình diễn". Ông để lại những trang hồi ký giá trị về sinh hoạt văn
nghệ Việt Nam, từ tiền chiến đến thập niên 80.
[50] Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho rằng Văn Cao bắn cô
Hoàng Thị Nga, chắc ông lầm, vì cả Vũ Bằng lẫn Văn Cao đều không xác định việc
này.
[52] Vũ Bằng, Văn Cao - Một nghệ sĩ tài hoa, Văn
Học số đặc biệt Văn Cao, tháng 11/1970, Sàigòn, in lại trong Văn Cao
cuộc đời và tác phẩm, trang 173.
[58] Bản Thông tri và toàn bộ danh sách các tác phẩm,
tác giả bị cấm, in trong cuốn Văn hoá Văn nghệ... Nam Việt Nam của
Trần Trọng Đăng Đàn (nxb Thông Tin, 1993), phần Phụ Lục II, từ trang
697 đến 754.
[62] Tức là Đảng Cộng sản, ngày 11/11/1945, tuyên bố "tự
giải tán", đổi tên thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương, mục
đích thu phục toàn dân.
[74] Xuân Diệu, Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao, in
trong Dao có mài mới sắc, Văn Học, 1963, tr. 101-114. Bản điện tử của
Lại Nguyên Ân, Talawas.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét