Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

NHÂN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY SINH NHẠC SỸ THIÊN TÀI VĂN CAO

Lời tác giả: Tôi không phải là người đam mê nhạc và cũng không am hiểu nhạc, nhưng lại rất thích nghe nhạc Tiền chiến (Tân nhạc hay nhạc lãng mạn Việt Nam trước 1945). Và trong số các nhạc sỹ Tiền chiến thì mê đắm nhất Văn Cao với bốn ca khúc bất hủ: Cung đàn xưa, Trương Chi, Thiên Thai, Bến xuân. Tôi cũng muốn được chia sẻ cuộc đời đầy bi hùng của ông. Bởi sau ánh hào quang ngắn ngủi của thời Tiền chiến và những năm kháng Pháp, người nhạc sỹ thiên tài này đã dính vào vụ Nhân văn giai phẩm đầy oan khiên, để rồi nghe nói, ông ngồi bất động suốt ba mươi năm.
Xin tưởng niệm Người bằng việc nghe lại khúc Cung đàn xưa. Nhớ giai điệu u buồn Cung đàn xưa

Nhạc sỹ Văn Cao lớn lên và bước vào nền Tân nhạc Việt Nam tại đất cảng Hải Phòng. Từ nhỏ sống với cha trong nhà máy bơm nước, kê tấm phản bên cạnh cái máy bơm làm bàn học, lớn lên đi làm ở nhà bưu điện rồi thất nghiệp, thế nhưng mảng nhạc tình của ông trước Cách mạng tháng Tám, viết trên cái nền bụi bặm của phố cảng và giữa cuộc sống nghèo khó, bấp bênh của mình, lại không gợn chút “bụi trần”. Cung đàn xưa, Thiên thai, Suối mơ, Bến xuân, Buồn tàn thu,... đều như những cõi mộng đẹp của một tâm hồn yêu đời, ham sống.

Riêng Cung đàn xưa có vẻ mông lung, khó hiểu. Chính Văn Cao cũng chỉ nói chung chung đây là “tiếng nói của kỷ niệm”, cái kỷ niệm “nó cứ đeo đẳng, không thể quên được”, về “những điều đã mất trong những những ngày tuổi trẻ của mình[1]”.
Lấy trong ý tứ mà suy[2] thì đây là kỷ niệm về một mối tình, một mối tình thoáng qua (hoặc cũng có thể là mối tình trong tưởng tượng) nhưng để lại dư vị đầy tiếc nuối.
Có một nàng bỗng nhiên xuất hiện và “xe kết” cùng chàng. Tác giả không tả cuộc tình mà chỉ tả cảm giác hiện tại và hồi tưởng lại cảm giác quá khứ. Mở đầu bằng hình ảnh “cây đàn bỏ quên”, tượng trưng mùa xuân tàn, cho cuộc tình duyên đã lỡ:
Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàn
Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn
Từ người ra đi chờ vắng tin người
Từ người ra đi là hết mơ rồi.
Chữ phong hương các ca sỹ thường hát là phong sương và hầu hết các bản nhạc cũng in như vậy. Nhưng bản in trong hồi ký Phạm Duy nhớ là phong hương, và theo tôi như thế hợp lý và hay hơn. Phong sương là “gió sương”, không ăn nhập gì ở đây. Còn phong hương là “gói kín mùi hương” lại. Hồn cầm phong hương hình dáng xuân tàncó thể hiểu là: hương sắc mùa xuân đã được phong kín trong hồn đàn, nhìn vào cây đàn chỉ thấy hình dáng xuân tàn mà thôi, ngụ ý rằng người đẹp đã đi rồi, tất cả đều tàn tạ, Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan[3]. Từ nỗi ngậm ngùi ấy, tác giả chuyển nhanh sang hồi tưởng:
Cung thương là tiếng đàn
Cung nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi.
Mối tình cũ như tiếng đàn, tuy đã tắt nhưng còn ngân mãi trong lòng người. Nhưng tiếng đàn ấy không tươi vui nữa mà buồn xa vắng, buồn tái tê:
Cung đàn ngân buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân, buồn như lúc xuân sắp tàn
Ơi đàn xưa còn vương nhắc chi tới người
Lòng ta tắt bao thắm tươi u hoài duyên đưa.
Và cái nhức nhối nhất là quá khứ không chịu trở thành kỷ niệm, nó cứ sống mãi cùng hiện tại, đặc biệt khi xuân về:
Chiều năm xưa
gót hài khai hoa/ mắt huyền lưu xuân/ dáng hồng thơm hương
Chiều năm nay
bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương
Về ba hình ảnh trong câu nhạc thứ nhất, nhạc sỹ Phạm Duy viết:
“Những cô hái mơ, cô bán hoa, cô hàng nước, cô lái đò, cô láng giềng xuất hiện trong các bản nhạc tình thuở đó làm sao mà có được những gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương như trong bản Cung đàn xưa của Văn Cao? Chỉ cần có 12 chữ và chỉ để xưng tụng một người tình tưởng tượng mà thôi, Văn Cao đã đưa nhạc tình Tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm[4]”.
Cái “khuôn sáo cũ mèm” mà Phạm Duy nói đến có lẽ là những cô hái mơ, cô bán hoa,… trên kia vẫn chưa thực sự thoát khỏi tính ước lệ của thơ ca cổ điển. Ca khúc tình yêu trong nhạc Tiền chiến phát triển theo quy luật tương tự Thơ mới. Nghĩa là ban đầu chỉ dám nói đến thứ tình yêu xa xăm, nặng về tưong tư sầu mộng:
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình anh như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc đêm thu nét tuyệt vời.
(Lưu Trọng Lư)
Và không phải ngẫu nhiên mà những bài hát đầu tiên của nền Tân nhạc (nhạc Tiền chiến), đã phổ nhạc một số bài thơ đầu của Thế Lữ, Nguyễn Bính. Nhưng Văn Cao xuất hiện đã đem đến cho nhạc tình Tiền chiến một hơi thở mới: cái đắm say nồng nàn. Giống như Xuân Diệu đã đem đến cái đắm say nồng nàn cho Thơ mới vậy.
Trở lại câu thơ – nhạc nói trên của Văn Cao, có thể nói, người nhạc sỹ – thi sỹ trẻ Văn Cao đã đặt người yêu của mình ở vị trí tuyệt mỹ mà vẫn thực. Nó vừa ước lệ theo kiểu Làn thu thuỷ nét xuân sơn[5] của văn chương cổ điển lại vừa gợi tả một người con gái có dáng, có da, có nét, có cả chất sexy nữa. Người đẹp lướt qua như một làn gió, không hình không ảnh mà lại rõ mồn một bởi cảnh hoa nở tưng bừng theo gót chân nàng. Mắt nàng sâu thẳm chứa đầy một mùa xuân tình ái. Nàng đi đến đâu ngát thơm đến đấy. Nàng lãng đãng xa xôi từ chốn Bồng Lai đến với “gót hài khai hoa”, rồi tình tứ mặn mà với “mắt huyền lưu xuân” và thoắt cái, nồng nàn say đắmvới “dáng hồng thơm hương”. Nhưng cái nồng nàn say đắm của Văn Cao cũng khác Xuân Diệu. Nếu Xuân Diệu “Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực” – thiên về tả thực, nhiều tính nhục cảm, thì Văn Cao thiên về gợi cảm, cho nên nồng nàn mà vẫn thanh tao, trần thế mà vẫn là người của chốn Đào Nguyên. Ta cảm nhận cái thơm tho của ái tình hơn là mùi vị của khứu giác.
Nàng đến nhanh mà đi cũng rất nhanh. Chiều năm xưa vừa mới rực rỡ thì chiều năm nay đã điêu tàn: Chiều năm nay/ bóng người khơi thương/ tiếng đàn gieo oan/ giấc mộng chàng Trương. Người đi rồi, chỉ còn lại bóng, khơi thêm vết thương lòng. Người đi rồi, tiếng đàn bây giờ là tiếng gieo oan (cất lên lời an oán). Người đi rồi, bây giờ ta chỉ yêu bằng mộng, giấc mộng của chàng Trương, giấc mộng xa vời, không bao giờ thành.
Theo hồi ký của Phạm Duy, thì chữ “gieo oan” được chép là “giao hoan”. “Tiếng đàn giao hoan” phải chăng là tiếng đàn gợi nhớ cuộc giao hoan? Nghĩa đen của từ này là “cùng vui với nhau” (Thêm nến giá nối hương bình /Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan - Truyện Kiều), ở đây có thể hiểu là tiếng đàn gợi nhớ cuộc gặp gỡ đẹp của đôi lứa. Chàng nhấm nháp khoảnh khắc yêu đương cũ, rõ ràng có thực mà bây giờ như trong mơ, như mối tình của chàng Trương Chi thuở trước. Và nếu ta hiểu là tiếng đàn “giao hoan” thì “giấc mộng chàng Trương” cũng bớt phần bi luỵ. Nó như một khát vọng về hạnh phúc không thể với tới, chứ không phải một tình yêu đơn phương.
Đoạn kết trở lại nỗi ngậm ngùi thấm thía khi đã biết chắc cuộc tình này một đi không trở lại.
Giờ còn mong chi người hát theo đàn
Giờ còn mong chi hợp cánh hoa tàn
Lời đàn năm xưa xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời
Khi hôn hoàng xuống dần
Trăng lên vàng mái lầu
Nghe thoáng tiếng kinh cầu xa xa
Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kỳ sầu bao la.
Bài này chưa phải là đỉnh cao nhất trong nhạc tình của Văn Cao trước Cách mạng. Khát vọng tình yêu và hạnh phúc còn được Văn Cao tiếp tục phát triển ở hai tuyệt tác Trương Chi và Thiên Thai. Tuy nhiên, nếu so sánh với nỗi “thất tình” trong Trương Chi và Thiên Thai thì trong Cung đàn xưa, ít bi luỵ hơn. Cung đàn xưa chủ yếu vẫn là dư vị ngọt ngào của mối tình đầu. Duyên đã lỡ nhưng tình thì còn mãi. Hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng thực sự đã chạm đến chứ không phải là điều huyễn hoặc.
Có nhiều ca sỹ hát bài này, mỗi người mỗi vẻ, nhưng Ánh Tuyết thật xứng đáng là người giải nhất chi nhường cho ai[6]. Với giọng ca Cao như thông vút, buồn như liễu[7], với ánh mắt u buồn, sâu thẳm, Ánh Tuyết nồng nàn mà không suồng sã, buồn mà không bi luỵ, người nghe cảm nhận một tình yêu vừa lãng mạn cổ điển lại vừa đắm say hiện đại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét