PHÙNG CUNG (1928-1998)
Phùng Cung đại diện cho tất cả những người bị tù không có án, thậm
chí không có lý do, hoặc lý do mơ hồ, khó hiểu, trong danh sách hàng trăm người
bị xử lý nặng, hoặc hàng ngàn người đã "liên hệ" xa gần với
NVGP. Mỗi cá nhân là một trường hợp, một chân dung bị xoá, bị đưa đi biệt tích,
trong cô đơn, đau khổ.
Phùng Cung cũng là khuôn mặt văn nghệ sĩ cuối cùng trong nhóm
NVGP mà chúng tôi đề cập trong loạt chân dung, trước khi bước sang địa hạt trí
thức. Nhưng không có nghiã là những người khác không có giá trị: Mỗi con người
đã góp phần vào việc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến
ngày nay là một giá trị, một biệt cách. Chỉ riêng trong phong trào NVGP không
thôi, sự can trường của Hữu Loan không giống sự can trường của Phùng Cung. Lòng
nhiệt tình của Phùng Quán không dễ ai sánh được. Sự đóng góp của Bùi Xuân Phái
không giống Nguyễn Sáng. Kịch của Hoàng Tích Linh không giống kịch của Chu Ngọc.
Mỗi văn nghệ sĩ là một chân dung mà ký ức lịch sử văn học sẽ không thể bỏ qua.
Sau này, khi nhắc đến Phùng Cung, người ta thường cho rằng ông bị
tù vì truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh". Sự thực phức tạp
hơn nhiều, nó nằm trong toàn bộ thái độ sống và sáng tác của Phùng Cung. Chúng
tôi cố gắng tìm hiểu những nguyên do sâu xa đã đưa Phùng Cung vào vòng tù tội
và bị theo dõi suốt đời. Nguyên do ấy có thể tóm tắt như sau:
• Một tinh thần bất khuất không đầu hàng bạo lực cách mạng.
• Một sự nghiệp thơ văn chống lại chiến tranh và xây dựng văn
hoá dân tộc.
● Tiểu sử Phùng Cung
Những chi tiết đáng tin cậy nhất về Phùng Cung nằm trong
bài Nhà thơ Phùng Cung của Phùng Hà Phủ, con trai Phùng Cung, nay đã
qua đời.
Phùng Cung sinh ngày 18/7/1928 tại làng Kim Lân, xã Hồng Châu,
huyện Yên Lạc, Vĩnh Yên. Mất ngày 9/5/1998 tại Hà Nội. Quê tổ xã Cam Lâm, quận
Đường Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Vĩnh Yên, quê sinh và Hà Tây, quê tổ của
Phùng Cung đều thuộc tỉnh Sơn Tây. Họ Phùng ở Cam Lâm dòng dõi Phùng Hưng - Bố
Cái Đại Vương.
Con trưởng một gia đình giàu có, đông con, được gửi đi trọ học ở
Sơn Tây, đỗ bằng Trung Học - Brevet. Tháng 4/45, Nhật đảo chính Pháp, Phùng
Cung trở lại quê nhà.
Tháng 9/45, Phùng Cung, 17 tuổi, được bầu làm chủ tịch liên xã Hồng
Châu-Liên Châu. Tên xã do ông đặt và tên ấy vẫn còn giữ đến ngày nay. Phùng
Cung làm chủ tịch xã được 2 năm.
Tháng 10/1947, Pháp chiếm Tông và Sơn Tây, Phùng Cung chạy lên
Việt Bắc cùng mấy anh em trai. Tại quê nhà, gia đình bị liên lụy vì có con đi
làm cách mạng.
Phùng Hà Phủ viết: "Khi lên chiến khu, bố tôi làm công tác
thông tin ở liên khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn Tấn Gi Trọng
(bác sĩ Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y Dược Hà Nội
và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập lại). Sau một thời
gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an toàn khu và làm công tác
văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Nguyễn Tuân,
Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,... cho đến khi hòa bình lập lại (1954) thì cùng với
cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội"[1].
Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất, gia đình bị quy vào thành phần
địa chủ cường hào. Cha ông bị đem ra đấu tố, rồi bị đưa lên giam giữ ở trại Cò
Nỉ - Thái Nguyên. Khi ấy, Phùng Cung đang làm việc trong cơ quan văn nghệ kháng
chiến ở Tuyên Quang. Phùng Hà Phủ viết: "Khi bố tôi hay tin, bố rất
nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao. Những bạn bè thân trong
cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này đang phụ trách công tác Ðảng -
Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa sai.
Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt
để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ,
chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ
cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của cụ,
bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự tiếp
xúc với bên ngoài."[2]
1954, Phùng Cung làm việc tại Hội Văn Nghệ.
1956, tham gia phong trào NVGP với truyện ngắn Con ngựa già
của chúa Trịnh[3].
Theo Phùng Hà Phủ, tháng 5/1961 công an đến nhà bắt Phùng Cung.
Theo Nguyễn Hữu Hiệu, đó là ngày "19 tháng Chạp năm Canh
Tý" tức ngày 4/2/1961. Ông bị tịch thu tất cả bản thảo và bị giam vào
Hỏa Lò Hà Nội. Rồi bị chuyển đi các trại Bất Bạt (Sơn Tây), Yên Bình (Yên Bái)
và Phong Quang (Lào Cai), bị tù 12 năm, với 11 năm biệt giam, không có án.
Trong suốt thời gian từ khi ông tham gia NVGP năm 1956 đến tháng
5/61, khi ông bị bắt, Phùng Cung vẫn sáng tác đều, không hề nhụt tay trong sự
lên án chế độ.
Tháng 11/1972 được tha về. Phùng Cung làm nghề thợ đinh, vẫn âm
thầm sáng tác, vẫn bị công an đến thăm dò và kiểm soát. Ông phải chép bản thảo
làm nhiều bản gửi nhiều nơi. Phùng Cung mất năm 1998 tại Hà Nội.
● Sáng tác chui, bản thảo gửi
1- Nguyễn Chí Thiện gặp Phùng Cung tại trại Phong Quang, năm
1970, Phùng Cung đang nằm bệnh xá vì bị lao phổi. Nguyễn Chí Thiện hỏi Phùng
Cung:
"- Anh tù đã 10 năm rồi, anh sáng tác được nhiều không?
Anh Cung lắc đầu:
- Mấy năm đầu rầu rĩ, lo nghĩ về vợ con, không làm gì được. Sau
đó có viết một số truyện ngắn trong đầu, nhưng không nhớ nổi. Đành chuyển sang
thơ. Làm cũng được ít thôi, độ vài chục bài"[4].
2- Phùng Quán viết: "Được trả lại tự do, việc đầu tiên
là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê
quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần
làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức
ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi
bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào
đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn"[5].
3- Về việc bản thảo và giữ gìn bản thảo, Ngô Minh thuật chuyện
được Phùng Quán dẫn đến gặp Phùng Cung lần đầu, năm 1986: "... rồi
ông đứng lên mở ngăn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn
tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: "Sau mười
hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm."
Phùng Cung trầm ngâm: "Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không
sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi
lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê
nhà. Nhưng bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng
dưng chú cười hỏi: "Chào bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ
nữa à?". Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này
toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có "chuyện gì"
trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình
cho chắc.”(...)
Phùng Quán đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy học
trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có
bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haiku của Nhật Bản, nét chữ Phùng
Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi
liếc bài thơ hai câu đầu tiên nhan đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất
ngờ quá:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh (...)
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập
thơ này cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi
mang vào Huế. (...)
Tôi đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì
của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông
Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm
1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như "Nghiêng lụy",
"Bèo", "Người làng", "Chiếc lá rụng", "Cô
lái đò", rút trong tập thơ chép tay bằng bút chì ấy. (...) Một lần nữ nhà
văn Hà Khánh Linh ở Huế ra Hà Nội, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ
Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu
Đang mời cơm nữ sĩ Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà
Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải
bút chì (...) Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ là cách “lưu trữ” thơ của Phùng
Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất"[6].
● Xuất hiện lại trên văn đàn
Như vậy, lần đầu tiên Phùng Cung xuất hiện trở lại, là trên báo
Sông Hương ở Huế năm 1988, với các bài thơ Nghiêng lụy, Bèo, Người làng,
Chiếc lá rụng, Cô lái đò.
Nguyễn Hữu Hiệu, hay về nước, đã gặp Phùng Cung và nhiều nhà văn
NVGP. Ông đem bản thảo của Phùng Cung ra hải ngoại: Bài Dạ Ký được
đăng lần đầu trên tạp chí Khởi Hành của Viên Linh[7] năm
1996, tiếp đó là Ván cờ khai xuân[8] và Phòng
tuyên truyền địa ngục[9].
Năm 1995, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin in tập Xem
đêm của Phùng Cung, gồm 200 bài thơ, là nhờ Quang Huy: "Tập thơ
Xem đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông Đang
và sự nhiệt tình của ông Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can
thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng
thời là người viết tựa cho cuốn sách này"[10].
Năm năm sau khi Phùng Cung qua đời, Lâm Thu Vân cho in tại hải
ngoại, cuốn Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản[11] gồm
tập thơ Trăng ngục(35 bài làm trong tù, từ 1961 đến 1972) và 11 truyện ngắn
(10 truyện mới và Con ngựa già của chúa Trịnh). Năm sau, sách tái bản dưới
tựa Phùng Cung Trăng ngục[12] có
thêm 74 bài thơ trích trong Xem đêm.
Về tập Xem đêm, Nguyễn Hữu Đang viết: "Khi đón nhận
nó với cái tên ngộ nghĩnh Xem Đêm, tôi nghĩ ngay đến một câu của thi hào cổ đại
Horace như đã "ứng" vào trường hợp này: "Tôi sẽ không chết tất cả" (nguyên
văn tiếng La Tinh Non omnis moriar, ngụ ý sau khi thi sĩ qua đời, tác phẩm
của ông là một phần con người ông sẽ còn sống mãi), Phùng Cung cũng hoàn toàn
tin tưởng lạc quan ở sức sống lâu dài của thơ ông như Horace nghĩ về thơ mình.
Và cố nhiên bấy lâu ông hằng mong thơ ông chóng thoát ly bản thảo để sức sống
kia được thử thách và cống hiến"[13].
Thơ Phùng Cung in được là nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, những
người bạn "trong cuộc" và vài người "ngoài cuộc" như Quang
Huy và nhóm Sông Hương ở Huế gồm Ngô Minh, Hà Khánh Linh và Nguyễn Khắc Phê ủng
hộ. Còn sĩ phu Bắc Hà thì sao?
Xem đêm ra mắt độc giả trong nước từ 1995. Về mặt giá trị
văn học, thơ Phùng Cung không thua gì những tập thơ khác của các nhà thơ NVGP
đã được in ra. Nhưng "giới sành thơ" ngoài Bắc không ai nhắc đến
Phùng Cung. Từ điển văn học cũng không có mục từ Phùng Cung trong khi Văn
Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Phùng Quán, có. Phải chăng vì
Phùng Cung chưa bao giờ được chính thức "xoá án"? Chưa bao giờ
được công khai "hồi phục" như những thành viên khác của
NVGP?
Nhưng còn một lý do nữa, có lẽ quan trọng hơn: là mọi người ngại,
không nhắc đến Phùng Cung, không phải vì Xem đêm, mà vì nội dung toàn
bộ tác phẩm của Phùng Cung, dù chưa in ở trong nước, nhưng đã có nhiều người biết
hoặc đã đọc qua.
Cái khiến người ta ngại, chính là tư tưởng của Phùng Cung. Một
tư tưởng độc đáo và ngược hướng với người cùng thời, kể cả các thành viên NVGP,
trên nhiều địa hạt: Bảo tồn văn hoá, lòng ái quốc, cách mạng mùa thu,
kháng chiến chống Pháp, chiến tranh Nam-Bắc, tình nước và tình người.
Chưa một nhà thơ, nhà văn nào dám đi xa như thế, viết những lời
đả kích mãnh liệt như thế về quốc ca, quốc thiều, về cách mạng mùa thu, về
chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản, về những tín điều đã mê hoặc người Việt
Nam trong suốt thế kỷ qua. Và đó là lý do chính khiến Phùng Cung bị 12 năm tù.
Rồi khi được thả, ông vẫn bị gạt ra ngoài vòng "chấp nhận" của
nhiều người trong và ngoài đảng.
Tìm hiểu Phùng Cung là tìm hiểu dòng tư tưởng yêu nước đối lập với
các quan niệm chính thống và đi ngược lại niềm tự hào dân tộc cố hữu, nhưng là
kim chỉ nam cho một dân tộc mới: sự chuyển giáo dục chiến tranh và giáo dục hận
thù thành giáo dục hoà bình và giáo dục văn hoá.
● Phùng Cung và lớp chỉnh huấn Thái Hà
NVGP bị dẹp cuối tháng 12/1956. Trong năm 57, mọi việc "bình
thường" trở lại. Đến tháng 2/1958 sự thanh trừng mới bắt đầu với hai
"lớp học" ở ấp Thái Hà.
1- Trần Dần ghi trong nhật ký một số dữ kiện về Phùng Cung, trước
ngày "đi học":
27/2/58 PhCung: Tự dưng học hành đến nơi mà Liên Hiệp Hội lại
cho PhCung nghỉ công tác. PhCung lo. Không hiểu sao. Có phải vì các ông ấy sợ
mình ở đấy đâm lộ chuyện hay không? Hay là vì cái "giả vía", các ông ấy
mới cho mình là cái thằng mất dậy? Đã mất dậy thì thôi, không dậy cho nữa, để
mà biết tay!
Tôi hỏi PhCung xem cái "giả vía" ấy có gì?
PhCung cười hì hì, kể lại:
- Cũng chả có gì hì... Có một chỗ mình bảo là cái "đảng mạ",
hì, nghiã là cái thứ mạ, mình gọi là "đảng mạ", dùng tiếng quê vậy
cho nó vui, hì... Lại có chỗ mình định ca ngợi các đồng chí chuyên gia, thì
mình cũng dùng tiếng quê, bảo là "các ông ấy béo mà phương phi như tây
đoan", "cái đệm các ông ấy nằm mà bà con ta nằm thì ngủ không biết
khi nào trở dậy được", hì, mình cứ nói tiếng quê vậy, để bà con nhân dân
ta đọc cho nó vui... hì...
Tôi lo dựng tóc gáy:
Anh viết thế mà anh bảo là tiếng quê! Anh có bị đánh mất xác
cũng không oan...
Về sau tôi hỏi HtLinh [14] Linh
bảo:
- Cái thằng, nó cứ có cái lối thế. Nó cho rằng viết phải đả cái
gì một tí thì mới oai. Anh em khỏi cười.
- Ai bảo nó thế?
- Ấy thế mới khỉ!... Nó cứ nghĩ như thế cơ chứ![15]
Vậy, trước lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn sáng tác đều và vẫn châm
biếm Đảng.
2- Phùng Hà Phủ viết: "Cũng khoảng thời gian này,[16] bố
tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết ở
nhà, một số bạn thân của bố tôi thường lui tới như Trần Dần, Hoàng Cầm, Ðặng
Ðình Hưng..."[17]
3- Phùng Quán cho biết về những truyện ngắn Phùng Cung viết trong
thời kỳ này:
"Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải,
cũng một dòng "ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái
khách quan khắc nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác giả. Truyện
nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê vì vẻ đẹp của
ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với tất cả văn
xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết tiếng Việt"[18].
Tóm lại, từ tháng 12/1956, khi NVGP bị đóng cửa, đến tháng 5/61,
khi Phùng Cung bị bắt, ông vẫn sáng tác và các bạn đều đọc. Theo Tô Hoài,
bài Dạ Ký lúc bấy giờ đã nổi tiếng lắm[19].
4- Phùng Cung là đảng viên, vào đảng ở Việt Bắc, chưa rõ năm
nào. Vậy ông phải đi cả hai lớp chỉnh huấn Thái Hà. Tuy nhiên chưa bị tội nặng,
vì ở lớp này, Hoàng Cầm, Lê Đạt đều "bao che" Phùng Cung, một nhà văn
trẻ. Hoàng Cầm viết trong bài "tự thú" như
sau: "Tôi đi động viên Phùng Cung viết chuyện, và khi Phùng Cung viết
"Con ngựa già của Chúa Trịnh" đưa tôi xem bản thảo đầu tiên, tôi có
góp ý kiến vào việc diễn tả: "Chỗ con ngựa vào cung Vua, nên tả cho đáng
ghét hơn". Khi Phùng Cung đưa bản thảo lần thứ hai, tôi chữa văn và thêm
nhiều câu diễn tả cảnh đẹp, diễn tả con ngựa càng ngày càng béo"[20].
Lê Đạt viết: "Tôi lại viết “lời toà soạn” cho chuyện
“Con ngựa già” của Phùng Cung đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý
đến các nhà văn trẻ".[21]
Hai lời "thú nhận" trên đây chứng tỏ Hoàng Cầm,
Lê Đạt trong lớp Thái Hà, nhận mình chủ mưu, Phùng Cung chỉ là đàn em.
5- Về Thái độ của Phùng Cung ở Thái Hà ấp, Trần Dần ghi:
29/4/58 Phùng Cung
- Nhục lắm. Mẹ nó. Mình xin về nhà có được không nhỉ? (...) Có
nên xin ra biên chế không? Tôi nhìn PhCung, ái ngại cho anh quá. Đâu như trong
khi học tập, anh ta "hỗn" quá, bị đuổi khỏi lớp làm sao ấy... Tôi
khuyên anh, rằng nên đầu hàng đi; rằng chỉ có một con đường, "họ" là
chân lý, mình đầu hàng, là phải; rằng không nên xin ra biên chế, lúc này việc ấy
có thể là một sự tiến công của tư tưởng thù địch; rằng không nên coi là nhục,
oan ức gì nữa, mà cứ nghĩ lại xem tổng cộng cái bồ chữ mình đã chửi vào lãnh đạo
nó to như thế nào, còn oan và nhục gì nữa? PhCung xem ý không thông gì lắm. Tôi
thấy khổ! Một con người có cái gan "tử vì đạo" là PhCung, than ôi,
cái đạo anh định chết vì nó chính là cái đạo phản cách mạng, sao mà anh chưa tỉnh
ngộ ra hử anh?"[22]
Tại lớp Chỉnh huấn Thái Hà, Phùng Cung đã có thái độ cứng rắn,
không đầu hàng, "tử vì đạo" như Trần Dần ghi.
6- Về tình trạng tự kiểm thảo của mọi người sau lớp Thái Hà, Trần
Dần ghi:
Ngày 7/5/58 Kiểm thảo sáng tác. Đảng đoàn HNVăn để cả
một tuần này, để cho Nhân Văn viết lại cái phần kiểm thảo sáng tác! Theo như đồng
chí NxSanh[23] nói,
thì tuần trước, phần đó viết chưa sâu, vì thiếu thời giờ, thì tuần này viết lại
cho kỹ. Mà phải viết sao cho có thể dùng in công khai được. Sau khi mọi người
đã nộp cái của quốc cấm, nghiã là cả một đống những Nhân Văn Giai Phẩm rồi, thì
tập trung ở cả một phòng, viết kiểm thảo (...) Anh nào anh nấy lăn vào viết. Lắm
hình dung từ, lắm tiếng tự phê dao búa! (...) Tôi cũng không kém. Bao nhiêu
hình dung từ phản cách mạng, phản động, phản Đảng, phản bội, chống chế độ, xét
lại, tờ-rốt-kít. Không còn thiếu chữ gì. Giặc bút, viên đạn xét lại, mũi tên độc
địa của chủ nghĩa cá nhân đồi trụy, chủ nghĩa vô chính phủ và đầu óc làm phản
v.v... Tôi sáng tác thêm nhiều chữ nữa để mà miêu tả chân tướng mình, cho nó hết
lòng một thể. Chắc các đồng chí lãnh đạo đọc một loạt kiểm thảo bọn tôi lần này
thì phải bựt cười lắm đấy! "Trước kia thì nói nhẹ chúng cũng không nghe.
Bây giờ thì chúng lại còn tự sỉ vả gấp triệu lần sự phê bình của lãnh đạo!"[24]
7- Về hình phạt và tâm trạng chung, Trần Dần ghi:
Ngày 12/5/58, Tình hình
Cuộc đấu tranh cứ lộn đi lộn lại từ B[25] sang
A[26] lại
A sang B, báo chí cứ xoay đi xoay lại mãi, cứ như một cái nồi khổng lồ của vô sản
chuyên chính, ninh đi ninh lại cho nó dừ cái chủ nghiã xét lại ra.
Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một
người bị bung dừ. Không còn cách nào. Đây không phải là một sự trừng trị cá
nhân; mà đây là "chúng ta" trừng trị một phong trào, một trào lưu tư
tưởng của chủ nghiã xét lại... Tôi vừa là một tội nhân. Vừa phải cố tách mình
ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám
Nhân Văn"[27].
8- Vể sự phải tố bạn để thoát thân, Trần Dần kể:
21/5/58 "Thực ra, trước khi HCầm báo cáo, tôi dự định
là giữ VCao và ĐđHưng lại, như là "giữ một nửa thành phố, chỉ đầu hàng một
nửa" (...). Nên báo cáo tổ, bị hỏi, bị dồn, bị truy nữa, tôi vẫn giấu
quanh, không chịu thúc thủ cái một nửa thành phố đó! Đến lúc HCầm báo cáo, tức
HCầm "rendre"[28] hai
ông bạn quý đó rồi. PhVũ lên tố thêm VCao. LĐạt thì chỉ xác nhận, tố thêm tí tỉnh,
còn bao che ĐdHưng nhiều. Hơn nữa, qua báo cáo HCầm và LĐạt, thì tôi "được"
đưa lên mũi nhọn, "được" hội trường chờ đợi rất ghê!
Bão lúc ấy chầu chực trên đầu lâu tôi!
Tôi phải tính kế, vừa thoát thân, vừa thoát cho 4 thằng đang bị
dồn đánh ghê gớm (TD, HC, LĐ, TPh)[29] vừa
để sao cho VCao, ĐdH hiểu mình, qua cái ý ngầm của bản báo cáo!
Cụ thể, tức là tôi nghĩ rằng: "Bây giờ chỉ còn con đường
duy nhất, là đầu hàng Đảng. Không có con đường khác. Mà đã hàng thì hàng thực sự,
về sau mới thực sự trời êm bể lặng được. Thế nào là hàng thực sự? Hàng thực sự
là: mỗi người phải ra mà gánh lấy cái phần bão, do chính trách nhiệm mình gây
ra! 4 thằng đang chịu cái trận bão đó rồi, còn hai ông anh VCao, ĐdHưng thì xin
nhờ đến vai hai ông, mang vác lấy cái phần của các ông! (...)
Thực tế đã chứng minh cho giá trị chủ trương đó. Quả nhiên: ngay
trong lớp học, bão cũng đã ngàn đi dần dần trên đầu 4 thằng, và sau khi chuyển
mạnh sang đầu 2 thằng kia ít bữa, rồi nó cũng ngàn đi.
Đến sau lớp học nữa, thằng nào cũng đều được sống trong một
không khí được giải vây tương đối dễ thở. Với thời gian chắc nó sẽ càng dễ thở
hơn.
Chỉ có cái là trong bộ 6[30] thì
có một sự phân hoá của trách móc, hằn thù... HCầm có vẻ khổ! LĐạt tự cho mình
là oai nhất, "đúng nhất, vừa mức nhất, không vấy cho ai!", LĐạt cho
tôi là "quá mức!", ĐdHưng thì kẻ cả: "Tất nhiên có chuyện đó,
nhưng đã thuộc lịch sử rồi. TPhác khó hiểu, vừa ghét HCầm, vừa ghét VCao mà vẫn
nối lại một phần, còn đối tôi thì lại bảo là: "anh ghê nhất, anh giỏi nhất!"[31]
Đoạn nhật ký Trần Dần trên đây và đoạn Hoàng Cầm kể lại trong
băng ghi âm về buổi "báo cáo điển hình" hơn 10 tiếng đồng hồ của ông
tại Thái Hà ấp, hoàn toàn ăn khớp với nhau. Trần Dần giải thích tại sao phải đầu
hàng trước hệ thống cưỡng bách thẩm vấn, cho biết điều kiện viết những bản tự
thú và sự bắt buộc phải tố bạn để cứu mình. Trần Dần đã vạch trần chế độ toàn
trị trong vài hàng nhật ký: Sự tan nát tình bạn và sự giẻ rách hoá con người.
● Phùng Cung bị bắt
1- Trần Duy viết:
"Chính việc anh Phùng Cung bị bắt làm tôi rất lo sợ và đau
buồn, vì Phùng Cung không tham gia Nhân văn ngoài bài viết "Con
ngựa già của Chúa Trịnh" nhằm vào một nhân vật có tên tuổi trong Hội Nhà
Văn (Nguyễn Tuân). Nhưng vì anh Phùng Cung có một số bài viết đầu tay đã chuyển
cho một số đàn anh xem để biết, rồi không hiểu bằng cách nào đó những bản thảo ấy
lại vào tay lãnh đạo (tôi không được đọc những bài viết ấy) (...)
Tôi nhớ một cuộc họp tại trụ sở Hội Nhà Văn ở đường Nguyễn Du
năm 1957 dưới sự chủ tọa của Hà Minh Tuân, Nguyên Hồng… người đến họp có đông
văn nghệ sĩ, trong đó có Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần…, qua những câu hỏi, những
lời xác minh của các anh Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần thì đúng Phùng Cung là tác
giả của những bài viết kể trên, và như vậy bản án đã úp lên đời Phùng Cung một
tội trạng. Tôi còn nhớ câu của Nguyên Hồng nói sau khi kết thúc buổi họp: "Các
anh lúc bình thường đối xử với nhau có vẻ trí thức lắm, nhưng lúc có sự việc xảy
ra thì các anh đối xử với nhau không bằng lũ chăn trâu!". Ra đến cổng anh
Nguyên Hồng vỗ vào vai tôi và bảo: "Đã biết sợ chưa!".
Quả tình tôi rất sợ, tất nhiên sợ về pháp luật là chính nhưng sợ
hơn nữa là nhân tâm con người, sự tàn nhẫn của những con người đã bán rẻ nhân
phẩm của mình để tự cứu mình, giẫm lên sinh mạng của những người khác để tự
thoát thân"[32].,
Theo Trần Duy, Phùng Cung bị tố năm 1957 và Lê Đạt, Hoàng Cầm,
Trần Dần là ba người tố. Nhưng so sánh với những tài liệu khác, không thấy nơi
nào ghi 1957 có việc tố Phùng Cung. 1957 là năm tương đối yên tĩnh. 1958, tại lớp
chỉnh huấn Thái Hà, Hoàng Cầm và Lê Đạt còn cố "gỡ tội" cho Phùng
Cung. Vậy việc tố Phùng Cung, nếu có, phải xẩy ra vào khoảng 1960-1961, trước
khi ông bị bắt, bị tịch thu bản thảo. Tóm lại Trần Duy đã nhớ nhầm năm.
2- Phùng Hà Phủ viết:
"Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai
anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở
bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn
bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Ðó
là tháng 5/1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp định
Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố
tôi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình
(Yên Bái), Phong Quang (Lào Cai)".
"Bố tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập
trung cải tạo (...)
Sau này lúc mãn hạn tù, mẹ tôi mới biết bố tôi luôn là đối tượng
bị giam cấm cố trong xà lim, bị hạn chế tôi đa tiếp xúc với thân nhân.
Nhớ lại theo bố tôi kể "khi xẩy ra chuyện", buổi sáng
đó bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Đến nơi thấy mọi người xung quanh
đều có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả
những bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay sau đó bố
tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi đấu tố thời
"cải cách" của Liên Hiệp Hội Văn Học Nghệ Thuật (gồm cả đại diện bên
văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Đình
Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... Cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố
tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc
"đấu tố". Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên "tố"
để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị "tố"
là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác
cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác - Tất cả
nội dung đều tập trung vào lãnh tụ và Đảng Cộng Sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông,
Quản thổi, Kép Nghế... Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân
Văn nhưng theo mẹ tôi còn nhiều lý do khác nữa (...)
Từ ngày ra tù bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan hệ
với ai ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp "tố"
bố tôi ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của mình và xin lỗi bố
tôi."[33]
Phùng Hà Phủ, không ghi rõ ngày "xẩy ra chuyện" -khi
đó hai anh em mới 4 và 2 tuổi- chỉ ghi lại những gì trong ký ức nghe cha mẹ kể
lại. Buổi đấu tố này, những người chủ trì khác với buổi Trần Duy kể lại, nhưng
có những chi tiết đúng như Nguyễn Hữu Hiệu viết trên báo Khởi Hành.
3- Nguyễn Hữu Hiệu viết:
"Theo lệ thường, mỗi năm, hội viên Hội Nhà Văn phải viết bá
cáo, tự thuật, tự đánh giá mình đọc trước lãnh đạo.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, tổ học tập gồm bọn bốn người cứng
đầu kia[34]bị
trực tiếp đặt dưới quyền tổ trưởng Võ Hồng Chương[35].
Trong đợt học tập này T.D.[36] được
lãnh đạo viết bản tố cáo dài gần 40 trang viết tay chữ nhỏ như kiến. Phùng Cung
bị đấu hai buổi trước đông đảo văn nghệ sĩ tại trụ sở Hội Nhà Văn; bị tố cáo là
tên phản động ngoan cố nhất của "Nhân Văn Giai Phẩm".
Chế Lan Viên, cuối cùng, mới đứng lên đề nghị phải lập tức điều
công an đến khám nhà và bắt Phùng Cung.
Nỗi đau nhục bị phản bội chưa qua thì họa khám nhà đã đến. Ngày
19 tháng Chạp năm Canh Tý 1960 [tức là ngày 4/2/1961] công an vây kín
ngõ, xồng xộc vào nhà, lục soát, dầy xéo lung tung, tịch thu toàn bộ bản thảo gồm
trên ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ. Phùng Cung bị đưa vào Hỏa Lò Hà Nội.
Sau đó, ông bị đưa đi biệt giam qua các trại Bất Bạt (Sơn Tây),
Yên Bình (Yên Bái), Bảo Thắng (Lào Kai) từ đầu 1961 đến cuối 1972. Suốt trong
mười một năm bị biệt giam, Phùng Cung bị lao nặng và nhiều bệnh trầm kha khác.
Khi được phóng thích ông vẫn bị quản chế rất chặt tại địa phương.(...)
Khi làn sóng Dân chủ đích thực -giấc mơ đời của Phùng Cung- dâng
lên de dọa nhận chìm Liên Xô "Thành đồng của Cách Mạng" thì Phùng
Cung không được làm "bất cứ việc gì liên quan đến chữ nghĩa" kể cả việc
làm gia sư. Đều đặn hàng tuần công an đến nhà thăm hỏi sức khoẻ, ngồi ì trong
nhà khiến không ai dám bén mảng tới. Đông Âu sụp đổ, hình thức quản chế cũng
theo đà "đổi mới" theo, nghiã là công an vẫn đến thăm hỏi như xưa
nhưng nhẹ nhàng và ít thường xuyên hơn. Hiện Phùng Cung đang sống lây lất với
gia đình tại một căn nhà âm u, lụp xụp tại vùng Quần Ngựa ngoại thành cũ"[37].
Nguyễn Hữu Hiệu viết rất rõ ràng, đúng trật tự lô-gíc, chắc chắn
ông đã nghe Phùng Cung kể lại. Tóm lại, có 2 buổi đấu tố Phùng Cung cuối năm
1960, Trần Duy được dự buổi có Hà Minh Tuân và Nguyên Hồng chủ trì.
Hoàng Cầm kể chuyện Phùng Cung
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm nói về việc Phùng Cung bị bắt như
sau:
Theo tôi, trong truyện Con ngựa già của chúa Trịnh, Phùng
Cung ám chỉ một số người, như Nguyễn Công Hoan, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi...
trước kia có tài, bây giờ đi hầu hạ một cách đê tiện, chẳng khác gì con ngựa
kéo xe cho bà Phi, ông Chúa. Vì bài đó, Phùng Cung mua sự căm ghét của những người
mà anh ám chỉ. Truyện này không phải anh chủ ý đem đăng ở Nhân Văn, mà hoàn
toàn là do tôi, vì anh quý mến tôi nên những gì viết xong anh thường đem cho
tôi đọc và sửa. Việc đăng bài ở Nhân Văn là hoàn toàn do tôi.
Sau vụ NVGP, năm 1958, mọi người đã đi cải tạo đợt đầu rồi,
nhưng người ta vẫn cho Phùng Cung làm việc ở Hội Nhà Văn, chứ không đuổi. Chỉ
cho làm việc lặt vặt quét dọn nhà cửa, rửa ấm chén... với lương nhân viên hành
chính độ 40 đồng. Còn hai anh Trần Dần và Lê Đạt, sau khi đi chăn bò ở Chí Linh
với Tử Phác và Đặng Đình Hưng về, năm 1959 chưa được cơ quan sắp xếp đi lao động
chỗ khác, nhưng bắt buộc mỗi buổi sáng phải đến Hội Nhà Văn. Có Phùng Cung ở đấy,
họ lại hội họp trò chuyện. Mà ba ông này thảo luận văn nghệ, thì có khi họ nói
to, ví dụ anh Phùng Cung cứ chê cái thứ văn giẻ rách của hai ông Nguyễn Đình
Thi, Hoàng Trung Thông, cả hai đều là lãnh đạo Hội Nhà Văn. Vì vậy họ thù. Ông
Nguyễn Đình Thi lúc ấy là tổng thư ký, ông ghét cay ghét đắng Phùng Cung.
Sau khi đóng cửa Nhân Văn đến năm 1960, anh viết được độ 20 truyện
ngắn[38],
tôi đọc khoảng 10 truyện, tất nhiên không sắc nước bằng Con ngựa già của
chú Trịnh, nhưng đều có những nét rất đặc biệt, mang tâm trạng bi phẫn. Lại có
truyện rất humour, trào lộng và sâu sắc. Tôi và Lê Đạt mượn độ dăm ngày rồi trả
lại, riêng anh Trần Dần mượn hơn một tháng. Thế mà không hiểu lầm sao, hai ông
Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông lại biết là anh vẫn viết văn chửi chế độ.
Theo Phùng Cung, thì chính hai ông này gửi công văn sang Sở Công An Hà Nội, bảo
Phùng Cung là phần tử xấu, nhờ Công An xử lý cho nghiêm. Phùng Cung nói với
tôi: "Hai thằng khốn nạn, khi tôi làm thư ký công đoàn, tôi lo cho tất
cả mọi gia đình anh em, sao nó nỡ đối xử với mình như vậy!" Tôi bảo: "Chắc
nó ghét cậu chứ gì!"
Công an bịa chuyện có đơn khiếu nại của một thiếu nữ hàng xóm bị
anh hãm hiếp, nên họ gọi anh lên để điều tra. Có lệnh khám nhà, bắt và tịch thu
toàn bộ bản thảo, bản nháp các tác phẩm của anh. Tóm lại, chỉ có ba người mượn
đọc là tôi, Lê Đạt và Trần Dần, mà tại sao anh bị bắt.
Sau này tôi nghe chị Thoa, vợ anh kể lại: Anh vẫn khăng khăng
nghĩ như thế suốt mãi đến sau này, tức là trong 30 năm trời, anh cho rằng Trần
Dần đã đem nộp tập truyện ngắn của anh cho Ban Tuyên Huấn hay Bộ Công An. Vì thế
các ông Thông và Thi mới biết và làm công văn gửi Bộ Công An nên anh bị bắt.
Anh rất thù Trần Dần. Tôi nói thế nào cũng không nghe, anh luôn luôn trả lời: "Ông
đừng nhắc chuyện ấy với tôi, tôi không muốn nghe đến cái tên ấy nữa, thằng bán
bạn, thằng phản bạn". Vì Trần Dần giữ một tháng mới trả, rồi anh bị bắt,
nên anh nghi, anh nghĩ ra thế thôi, chứ còn Trần Dần có làm gì hay không thì
làm sao ai biết được. Riêng tôi và Lê Đạt đều nghĩ rằng Trần Dần không thể làm
cái việc như thế, vì có làm như thế cũng không gỡ lại được những kỷ luật mà người
ta đã giáng xuống đầu anh. Những nghi ngờ nó gậm nhấm tâm hồn anh Cung, anh khổ
quá nên anh gần như có lời nguyền là không bao giờ anh gặp lại Trần Dần nữa, lời
nguyền đó anh nói với vợ anh.
Khi anh bị giam, tôi không dám viết thư vì sợ quản giáo kiểm
soát, để phân trần cho Trần Dần. Tôi biết anh không nghi cho tôi, vì tính nết
tôi anh quá hiểu, khi làm thư ký công đoàn, anh đã giúp đỡ vợ chồng tôi nhiều lắm,
chính anh làm đơn cho tôi có hộ khẩu ở Lý Quốc Sư. Tôi chỉ nhắn chị Thoa mỗi lần
lên thăm anh, nói hộ rằng: "Tôi đã hỏi anh Dần, anh ấy bảo là mình đọc
rất chậm, có khi nghiền ngẫm 2, 3 ngày một truyện, mà anh ấy viết có phải để in
ấn gì đâu, nên mình không vội, chứ không cho ai mượn cả. Vậy Cung đừng nên hiểu
làm như thế mà anh em thù ghét nhau vô lý lắm, tôi nhờ chị ấy nói thế". Nhưng
về chị ấy kể: "Anh vẫn khăng khăng, chuyện này không thể tha thứ được,
Trần Dần với tôi là kẻ thù rồi, anh Cầm đừng thanh minh vô ích".
Đến khi được về, anh vẫn thế, anh bảo: "Dù anh Trần Dần
không phải như thế, nhưng cái chuyện kia nó đã ăn vào đầu tôi rồi, tôi yêu cầu
anh đừng nhắc đến nữa, càng nhắc càng gợi sự đau lòng". Thế là tôi
không dám nhắc đến nữa. Trong anh em có gì mâu thuẫn với nhau, như Văn Cao và
Lê Đạt, có lần mâu thuẫn với Đặng Đình Hưng về vấn đề văn nghệ, tôi luôn tìm
cách giảng hoà, nhưng lần này, trong 30 năm, tôi không làm được.
Mãi đến lúc sắp kỷ niệm ông Đang 80 tuổi, tất cả anh em xúm lại,
cùng họp nhau ở nhà Phùng Quán bên cạnh Hồ Tây, thì lúc bấy giờ Phùng Cung mới
đưa tay bắt tay Trần Dần: "Thôi thế nhé Dần, thôi không có chuyện gì
với nhau nữa nhé!" Trần Dần chỉ nói: "Không phải lỗi tại
tôi". Nhưng Phùng Cung không thân với Trần Dần được nữa nên cũng
không đi lại. Phùng Cung ở gần nhà ông Đang, kết nghĩa anh em, vì cùng đi tù,
tôn ông là anh cả, Phùng Cung, rồi đến Phùng Quán, là ba anh em kết nghiã.
Khi anh bị đi tù, chị Thoa lên thăm trên trại giam, từ Lào Cai
phải đi thêm 40 cây số nữa, rồi rẽ đường rừng 10 cây số mới đến chỗ anh ở. Hai
lần đầu nhất định không tiếp, anh đóng vai tàn nhẫn, cố ý để người vợ trẻ đẹp,
trung hậu của anh phải giận, phải nản chí mà về đi lấy chồng khác. Khi về chị kể
lại, thì tôi khuyên: Anh phẫn chí mới làm như thế, lần sau lên thăm, chị xin quản
giáo cho phép ở lại, làm việc gì cũng được, miễn là được gặp chồng. Chị nghe
tôi, lần sau chị xin quản giáo cho ở lại, chờ 2 ngày, thì anh phải tiếp, nhưng
anh khuyên vợ: "Em nên về nhà nuôi con, lập lại cuộc đời vì anh đi tù
không biết ngày nào ra, có khi chết trong tù". Chị bảo: "Em quỳ
xuống chân anh ấy em khóc, anh đừng nghĩ như thế, anh đã bị như thế này thì cố
gắng làm việc, theo đúng kỷ luật, rồi thế nào cũng có ngày về." Nhưng
anh ấy kiên quyết: "Em về lấy chồng đi!"
Nhưng chị ấy cứ kiên trì lên thăm, vài lần sau, anh ấy mới thuận,
vợ chồng lại chuyện trò âu yếm như trước.
Đến khi được về, sau này anh kể với tôi: Mình bị giam trong rừng
thuộc huyện Hoàng Xu Phì, trong suốt 12 năm, không một ngày nào trông thấy mảnh
trời xanh, vì ở rừng, chỉ thấy trời âm u qua kẽ lá. Đến khi được về, ra đến đường
cái, bấy giờ mới biết mảnh trời xanh, anh như người bị mê sảng, mất phương hướng,
mặc dù trời nắng, người anh run lên, không biết đây là đâu, lạc cả hồn đi,
không biết mình ở thế giới nào.
Tôi nhớ anh được về vào năm 1972 thì phải, B52 đang đánh Hà Nội
trong 12 ngày. Anh về Hà Nội vắng ngắt, đèn phòng thủ lờ mờ, đèn báo động, về đến
nhà cửa khoá không biết vợ con sơ tán ở đâu. Đêm ấy anh phải ngủ ngoài hiên và
dự trận B52 ném bom ầm ầm.
Hôm tôi và bà vợ xuống thăm, chị khóc gọi: "Anh Cung ơi,
anh Cầm, chị Yến xuống thăm mình đây này!" Tôi chưa nhìn thấy anh, không
phải vì mắt tôi cận thị mà vì cái phòng tôi tối, không biết anh đứng đâu, mà chị
Cung lại gọi, thì hoá ra, khi định thần lại, tôi thấy anh đứng trong góc nhà,
ngay cạnh tủ chè, kề bức tường. Một bóng ma! Người nhợt nhạt, anh nói thều thào
như sắp chết. Tôi phải hỏi lại chị: "Cô Thoa ơi! Chú ấy nói gì đấy?" Chị
Thoa trả lời: "Em cũng chả nghe rõ đâu, nhìn mồm thì em đoán là anh ấy
nói rất vui trông thấy anh chị xuống thăm!"Tôi chạy lại ôm hai cánh tay
anh, thương vô cùng, người đúng như một hồn ma, gầy gò, sờ thịt nhão ra, đi lần
từng bước, không nói được một câu nào cho ra lời. Nếu tôi không đăng
bài Con ngựa già của chúa Trịnh, trên Nhân Văn thì anh đâu đến nỗi
này!"[39]
● Lệnh bắt Phùng Cung
Tổng hợp những thông tin của Hoàng Cầm, Phùng Hà Phủ, Nguyễn Hữu
Hiệu và Trần Duy, chúng ta có thể hình dung các sự kiện đã xẩy ra như sau:
Việc Phùng Cung nghi Trần Dần sẽ mãi mãi là một nghi vấn khó giải
đáp, trừ khi có những tài liệu mới. Nhưng không loại trừ khả năng lãnh đạo biết
việc này từ một nguồn tin khác. Hoàng Cầm không nhắc đến hai buổi học tập đánh
Phùng Cung, có lẽ ông tránh kể lại việc này.
Tóm lại, có thể tóm tắt sự kiện như sau:
Lãnh đạo biết việc Phùng Cung viết văn chống Đảng. Một mặt, giao
cho Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông chính thức yêu cầu công an Hà Nội bắt.
Một mặt, giao cho Chế Lan Viên tổ chức các buổi hội thảo đánh Phùng Cung. Vậy,
Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Nguyễn Đình Thi, ba người ghét Phùng Cung, đều
được Tố Hữu ra lệnh tổ chức bắt Phùng Cung.
Trong đợt học tập cuối năm 1960, T.D. tức Trần Dần, được chỉ định
viết bản tố cáo dầy gần 40 trang, (Trần Dần từng xác nhận việc bắt buộc phải
khai các bạn, để thoát). Sau bài tố của Trần Dần, Hoàng Cầm và Lê Đạt, phải đứng
lên phụ họa, xác định các tác phẩm mà Phùng Cung viết trong mấy năm qua ngụ ý
chống đảng là có thật.
Nhưng bi kịch này có thể đã được dàn dựng trước, vì những yếu tố
sau:
1- Sau lớp Thái Hà, Phùng Cung vẫn tiếp tục sáng tác và tụ họp với
Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt. Thái độ ngông nghênh này làm gai mắt lãnh đạo.Nguyễn
Hữu Hiệu viết:
"Quả thật sau đợt học tập này, những anh em
"Nhân Văn" hầu hết đều không dám qua lại nhà nhau, có chạm mặt ở cơ
quan cũng không dám chào hỏi nhau, len lén cúi đầu sợ sệt. Riêng có bọn
"chúng nó bốn thằng" là Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt vẫn bất
chấp, ngang nhiên quấn quýt, trao đổi văn chương, chuyện trò rôm rả, nhất là
khi gặp nhau tại trụ sở Hội Nhà Văn 84 Nguyễn Du. Thái độ ngông nghênh này làm
gai mắt lãnh đạo. Khi nào Công an chịu bỏ qua?"[40]
2- Bài Dạ Ký đã "nổi tiếng" lắm trong giới
văn học và công an lúc đó. Tô Hoài viết:
"Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần,
Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương".
Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng.
Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm"[41].
3- Cuối 1960, khi Phùng Cung bị gọi lên kiểm thảo, bộ ba Trần Dần,
Hoàng Cầm, Lê Đạt đã bị đánh tan nát rồi. Trần Dần, Lê Đạt, phải đi chăn bò,
chăn trâu, bị cách ly, bị coi là "hai tên nhà thơ phản động nhất nước".
Trong hoàn cảnh ấy, liệu họ có quyền từ chối khi được lệnh phải tố Phùng Cung
hay không?
4- Việc tố này, chẳng qua là một sự dàn cảnh, để cho mọi người
thấy rõ "bộ mặt tồi tệ của bọn Nhân Văn", "bọn chúng tố cáo
lẫn nhau", để Chế Lan Viên có cớ ra lệnh khám nhà và bắt tên phản
động ngoan cố nhất của Nhân Văn Giai Phẩm".
5- Chế Lan Viên đã đóng đúng vai trò Tố Hữu trong việc bắt Trần
Dần, nhưng một cách "đường đường chính chính", không ám lậu
như Tố Hữu.
6- Ba người nắm hồ sơ và hoạt động đắc lực nhất trong vụ thanh
trừng NVGP là Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông và Đào Vũ. Nhưng Chế Lan Viên
khôn khéo hơn hai người kia, không viết bài đánh nên không có văn bản "để
đời".
7- Chế Lan Viên thù Phùng Cung vì bài Dạ Ký, trong đó Phùng
Cung vẽ biếm họa một số chân dung văn học, đặc biệt bốn vị "tứ bất tử":
Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh và Nguyễn Đình Thi, lại có
thêm "đương kim vô địch khôn" Tô Hoài, tuy Phùng Cung châm
biếm cả các bạn đồng hành Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
8- Chế Lan Viên không thể thích bức chân dung "nhà thơ
giả thiểu số"chuyên dùng khoa "Phật vận" tức là
"lấy tiếng chó làm chuẩn để cân đong đánh giá sự gian ngay" mà
Phùng Cung viết về mình. Bài Dạ Ký đối với bốn vị lãnh đạo văn nghệ
"tứ bất tử" là không thể chấp nhận được. Đặc biệt với Chế Lan Viên, sự
"phạm thượng" có thể sánh ngang vụ Việt Bắc đối với Tố Hữu.
9- Phùng Cung bị bắt, bị tịch thu toàn bộ bản thảo gồm trên
ba chục truyện ngắn và rất nhiều thơ - theo Nguyễn Hữu Hiệu. Vậy những bản
thảo này hiện ở đâu? Từ khi được tha về cho đến lúc mất, Phùng Cung chỉ viết lại
hay sửa lại được 10 truyện ngắn, in năm 2003 tại hải ngoại.
● Dạ Ký, tai họa của Phùng Cung
Dạ Ký là cái họa lớn của Phùng Cung, lớn hơn Con ngựa
già của chúa Trịnh. Trong Cát bụi chân ai, đoạn viết về Phùng
Cung, giọng Tô Hoài vẫn còn cay đắng:
"Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội văn
nghệ từ trên Tuyên Quang. Ở rừng những việc tủn mủn không tên, sổ sách công
văn, giữ thư viện, làm lán mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm
xá, thui chó liên hoan (...) Phùng Cung ở cơ quan nào dạt đến, không nhớ. Chơi
vui, cũng không để ý, kể cả việc hệ trọng khi tôi nhờ Phùng Cung đi đưa chị Nam
Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy. Đọc truyện ngắn "Con ngựa già của chúa
Trịnh" của Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù đại khái
"thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ".
Cũng điếu đóm tập tành như mình ngày xưa, đâu đã mà có sừng có mỏ ngay.
Phùng Cung bị bắt khi "nhân văn, nhân võ" đã được dọn
dẹp êm ắng, đã tàn. Nghe nói Phùng Cung hay chén chú chén anh với đám Trần Dần,
Lê Đạt, Hoàng Cầm, được phong chức "tay truyện ngắn nhất Đông Dương".
Chắc là ở chiếu la đà với nhau, ăn nói càng ganh nhau, ngổ ngáo, bạt mạng.
Đương viết tập Dạ Ký đã nghe đồn là tài lắm, dữ lắm". Tôi không thể tưởng
tượng một Phùng Cung thế nào (...) anh chàng mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết
nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm
gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo vờ lù rù rình chuột.(...)
Lại bao nhiêu năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng cù
rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy
tẩy chì mờ mờ.
- Phùng Cung phải không?
- Tôi đây.
- Còn sống về được à?
- Cũng không hiểu tại sao anh ạ.
(...)
- Anh có biết tôi phải tù bao nhiêu năm?
- Không biết.
- Vâng tù biệt giam mười một năm.
Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù. Thế
nào, người tù biệt giam mười một năm vẫn hiện được về. Lại lâu lắm không gặp gỡ.
Ngỡ như Phùng Cung đã làm sao. Nhưng một hôm, có người sở Công an đến nhờ tôi
ký chứng nhận quãng công tác ở cơ quan sau cùng Phùng Cung làm việc, trước khi
phải tù.
Tôi hỏi người công an trẻ tuổi cầm giấy.
- Chứng nhận để làm gì?
- Có liên tục công tác mới đủ năm cầm sổ hưu. Thủ tục ạ.
- Liên tục cả ở cơ quan nhà tù?
Anh công an cười hồn nhiên, chào"cám ơn bác".
Gần đây, nghe Phùng Cung đã chuyển lên ở trên Quần Ngựa. Nghe
nói đã khấm khá, làm nhà mới. Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục
Dạ ký, sau hơn ba mươi năm, hả đời? Định có hôm nào lên chơi, vẫn chưa đi được"[42].
Những dòng trên đây phản ảnh khá rõ tình cảm Tô Hoài dành cho
cái xóm "nhà lá" mà ông gọi mỉa là "nhân văn, nhân
võ". Đặc biệt Phùng Cung, hồi trẻ, được ông tả: "anh chàng
mặt xanh xám vỏ dưa hấu về vệt vết nặn trứng cá, cứ ngồi lừ rừ bên bàn đọc
sách, có lúc gãi ghẻ hay lúi húi làm gì, con mắt đo đỏ mà tinh vặt, như chú mèo
vờ lù rù rình chuột". Phùng Cung làm việc dưới quyền ông ở Việt Bắc,
chỉ được ông giao cho việc vặt, đại loại "công tác chạy hiệu",
làm "những việc tủn mủn", "đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm
ra trạm xá, thui chó liên hoan"... Việc quan trọng nhất được ông sai
là "đưa chị Nam Cao xuống Hoàng Đan tìm mộ anh ấy". Và khi đọc Con
ngựa già của chúa Trịnh, Tô Hoài nghĩ "thằng này viết được.
Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm cháo đấy, con ạ".Sau khi đi tù 12 năm, về,
đến thăm, Tô Hoài rủa thầm "Đã tù, lại biệt giam, lại bệnh lao, thế
mà không chết rũ tù". Ấy thế mà vẫn không chừa, vẫn lại chứng
nào tật ấy: "Lại thấy bảo đương viết, viết hồi ký-hay tiếp tục Dạ ký, sau
hơn ba mươi năm, hả đời?"
Những dòng này viết năm 1990, hơn bốn mươi năm sau khi NVGP bị dẹp,
mà giọng Tô Hoài vẫn chưa thôi miệt thị và hằn học, như vậy đủ biết mấy trangDạ
Ký của Phùng Cung, nặng nợ đến thế nào.
Nhưng chỉ một Dạ Ký thôi, có lẽ chưa đủ để lĩnh án 12
năm. Dạ Ký là cái cớ làm cho những người lãnh đạo văn nghệ bị Phùng
Cung biếm họa nổi giận. Chế Lan Viên ra lệnh bắt. Việc tù tội tiếp sau, dựa
trên toàn bộ tác phẩm thơ văn của Phùng Cung, một nội dung phanh phui tận gốc
chính sách tiêu diệt văn hoá của Đảng:
- Giải thoát và Mộ phách viết về sự bức tử
nghề ca trù và tuồng chèo cổ.
- Biệt tích là sự thủ tiêu nghề thợ mộc chân chính.
- Mạt kiếp viết về cái đói và cái chết của người cùng
đinh.
- Phòng tuyên truyền địa ngục, là cơ quan dụ con người bỏ
trần gian về địa ngục.
Như vậy, Phùng Cung đã viết về chính sách thủ tiêu văn hoá của
Cách Mạng Tháng Tám, từ 1956, tức là 6 năm sau khi Đại Hội Văn Nghệ Việt Bắc
tháng 8/1950 ra chỉ thị tiêu diệt tuồng, chèo, cải lương. Phùng Cung viết về sự
tiêu diệtca trù, một sản phẩm văn hóa của vùng đất tổ Hùng Vương mà Mộ
phách -mồ chôn phách- là tác phẩm tiêu biểu. Chính sách tiêu diệt văn hóa
này, sẽ tiếp diễn với sự chôn vùi văn nghệ sĩ và trí thức của phong trào NVGP
1956; sự thiêu hủy văn học miền Nam sau 1975, và vẫn còn tiếp diễn đến ngày
nay, qua việc cấm in, tịch thu sách, cách chức tổng biên tập, chia đất, bán rừng,
coi nhẹ di sản văn hoá của tiền nhân... Một cái nhìn rộng và xa như vậy, phải
được khởi viết từ đất Tổ: Phùng Cung, người Sơn Tây- nước Văn Lang.
● Đất Sơn Tây - nước Văn Lang
Sơn Tây phát sinh hai tài năng lớn trong phong trào Nhân Văn
Giai Phẩm: Quang Dũng và Phùng Cung. Quang Dũng, sinh năm 1921, tại xã Phượng
Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây [43] khắc
hình ảnh vùng đất tổ, trong lòng người Việt qua những câu thơ:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì"
Quang Dũng đi vào lòng người miền Nam, không qua ngả Tây tiến mà
quaĐôi mắt người Sơn Tây do Phạm Đình Chương phổ nhạc. Đại gia đình Thăng
Long -Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc- có một người anh chết ở Sơn
Tây trong kháng chiến. Có lẽ vì vậy mà Phạm Đình Chương đã phổ thơ Quang Dũng bằng
những nét nhạc tuyệt vời, với một tâm hồn đồng điệu. Nhờ bản nhạc Đôi mắt
người Sơn Tây của Phạm Đình Chương mà nước "sông Đáy chậm buồn
qua phủ Quốc" thấm vào hồn người nghe, dù họ chưa hề đặt chân lên đất
tổ bao giờ. Những nghệ sĩ đích thực luôn luôn có khả năng truyền cảm vượt tuyến,
nối tình đất và tình người trong khoảng khắc câu thơ, tiếng nhạc.
Còn Phùng Cung?
Là người thông bác lịch sử, gắn bó với đất đai và văn hóa lâu đời
của dân tộc, Phùng Cung, đã dùng ngôn ngữ quật khởi, ngôn ngữ "rừng
rú" của Đường Lâm để bảo tồn nền văn hoá Việt một cách quyết liệt và toàn
diện.
Bài của Nguyễn Hữu Hiệu có một thông tin về nguồn gốc họ Phùng:
"Quê tổ của Phùng Cung ở Đường Lâm, Sơn Tây, vốn dòng dõi Bố Cái Đại Vương
Phùng Hưng". Chỉ Phùng Cung mới có thể cung cấp cho Nguyễn Hữu Hiệu
thông tin này. Bởi lẽ: Đường Lâm là một tên xưa, đã biến mất từ đời
Lê, chỉ người gốcĐường Lâm mới biết, và khi Nguyễn Hữu Hiệu viết câu này
năm 1996, Đường Lâm chắc chưa được "khôi phục" lại với
khu "di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm", như ngày nay - không
rõ việc khôi phục này có do các nhà khảo cổ giám định, hay chỉ là sự bài trí
màu mè để lôi kéo du khách. Vậy việc Phùng Cung dòng dõi Phùng Hưng là khả thể.
Nhưng không phải cứ dòng dõi Phùng Hưng thì trở thành anh hùng. Dòng dõi và đất
sinh có thể giải thích sự can trường và lòng bất khuất ở một con người như
Phùng Cung. Sinh trưởng trong cái nôi lịch sử Sơn Tây, từ một ông tổ chống ngoại
xâm lâu đời nhất, cái khí phách ấy, sự kiên cường ấy, không thể giải thích cách
nào khác, ngoài đất đai, sông núi và lịch sử.
Nhưng trước hết, tại sao lại Sơn Tây?
Đất Sơn Tây có gì đáng nói?
Miền Bắc có bốn vùng đất cổ, đã trụ các kinh đô xưa:
1- Sơn Tây thuộc nước Văn Lang, có kinh đô của Hùng
Vương, Trưng Vương, Phùng Vương, Ngô Vương.
2- Ninh Bình, có kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh, nhà Tiền
Lê, và những năm đầu nhà Lý.
3- Hà Nội là kinh đô Thăng Long của nhà Lý, Trần và Hậu
Lê.
4- Thanh Hoá có Lam kinh còn gọi là Tây kinh, kinh đô
đầu tiên của nhà Hậu Lê, do Lê Thái Tổ dựng lên ở phía đông núi Lam Sơn, có
cung điện nhà Lê ở phủ Yên Trường và Vạn Lại, có gò Phật Hoàng, mộ tổ nhà Lê,
có Thành nhà Hồ tức Tây đô, có Ly cung của nhà Hồ ở huyện Vĩnh Lộc...
Trong bốn vùng lịch sử này, Sơn Tây lâu đời nhất.[44]
Vì vậy mà trải các triều Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn,
các vua, dù có thay đổi cách gọi, là lộ, là trấn, là thành,
là xứ, không vua nào dám đụng đến "bờ cõi" Sơn Tây, bởi
đó là "bờ cõi" Văn Lang, nơi vua Hùng dựng nước, với những
bia, miếu, đền... những địa danh lịch sử như Phong Châu, Mê Linh, sông Hát...
Sơn Tây còn là trung tâm của nước Việt cổ, một địa điểm chiến lược và tâm lý.
Vì vậy, khi dàn trận Thu Đông 1947, Pháp đã chiếm Tông và Sơn Tây trước,
để làm bàn đạp đánh lên Việt Bắc, cũng là một đòn tâm lý đánh vào não trạng người
Việt.
● Sự sát nhập Sơn Tây vào Hà Nội
Năm 1965, chính quyền miền Bắc sát nhập Sơn Tây vào Hà Đông. Từ
1975 đến 1978, Sơn Tây bị nhập vào Hà Sơn Bình. Từ 1978 đến 1991, Sơn Tây bị nhập
vào Hà Nội. Từ 1991, Sơn Tây bị nhập vào Hà Tây. Đến tháng 8/2007, thị xã Sơn
Tây[45] được
nâng cấp lên thành phố Sơn Tây và năm 2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây bị sát nhập
vào thủ đô Hà Nội. Đường Lâm[46] như
vậy, ngày nay đã thuộc vào tỉnh Hà Nội. Những sự "sát nhập" này,
luôn luôn thay đổi, tùy tiện và lúng túng, không do một chính sách địa lý,
chính trị, văn hoá có nghiên cứu khoa học và lịch sử làm hậu thuẫn. Sự "sát
nhập" toàn bộ thành phố Hà Tây -trong có thị trấn Sơn Tây- năm 2008
vào Hà Nội, cũng như việc ủi nền cổ thành Đại La để tổ chức lễ hội ngàn năm
Thăng Long, bất chấp ý kiến các chuyên viên khảo cổ, có thể hiểu như thế nào?
- Rằng để kịp thời phục vụ "lễ hội ngàn năm Thăng
Long", nên cần làm đẹp Hà Nội và "bành trướng" Hà
Nội về phía đất tổ Hùng Vương chăng?
- Rằng để cho nhà, đất lên giá theo đúng đơn đặt hàng của bọn đầu
cơ bất động sản?
- Rằng để xác định sự chính thống của nhà nước Việt Nam, tự xưng
thời đại cộng sản như một triều đại "mở nước", ngang với
triều Lý, với tổ Hùng Vương chăng?
Cái tin nhà nước định "rời đô" về chân núi
Ba Vì, bất chấp ý kiến chuyên gia, lại càng làm cho các giả thuyết trên đây, đặc
biệt giả thuyết sau cùng, thêm vững chắc.
Sự phá vỡ bờ cõi Văn Lang, bất chấp lịch sử, văn hoá, cũng không
đi ra ngoài quỹ đạo truyện ngắn của Phùng Cung. Truyện của ông xoáy vào toàn bộ
chính sách văn hoá của đảng cộng sản: từ việc loại trừ phần văn hóa cổ dân
gian, như chèo, tuồng, ca trù, thời kháng chiến, đến sự phá vỡ vùng đất tổ Hùng
Vương hiện nay, là hậu quả của chính sách phi văn hoá, xuất phát từ 1950 khi đảng
cộng sản quyết định áp dụng chính sách đấu tranh giai cấp trên toàn
lãnh thổ để xây dựng một nhà nước do vô sản độc quyền lãnh đạo.
● Đấu tranh giai cấp giữa chó và người
Dưới mắt Phùng Cung, chính sách Đấu Tranh Giai Cấp của Đảng Cộng
Sản, được mô tả dưới dạng phân chia giai cấp giữa Chó và Người.
Giai cấp mà ông gọi là chó thuộc thành phần những kẻ "úp
mặt hôn mê liếm lộc", những kẻ "cưỡng bức ngữ
ngôn", những kẻ "tình nguyện trọn kiếp bút nô",những kẻ "ngợi
ca tội ác"... Và trong bối cảnh "chó đô hộ người"
các công tác dò thám, hãm hại, thủ tiêu, đều đạt đỉnh điểm. Sự triệt tiêu văn
hoá trở thành quốc sách. Chưa một ngòi bút nào đi xa đến thế trong việc mô tả
xã hội toàn trị. Tư tưởng chủ đạo này chi phối toàn bộ tác phẩm của Phùng Cung,
mỗi truyện có nhiệm vụ biểu trưng một vấn đề mà nhà văn đưa ra. Cách nhìn xã hội
chó-người này, sẽ sống lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, sau
này. Con ngựa già của chúa Trịnh, tác phẩm duy nhất của Phùng Cung in
trong thời NVGP, tả bọn quần thần như những con ngựa già suốt đời nhắm mắt bịt
tai cúi đầu phủ phục lãnh tụ.
Ngay từ Con ngựa già của chúa Trịnh, Phùng Cung đã lấy đất
Sơn Tây làm nền cho tác phẩm: từ vùng đất tổ, phát xuất giống ngựa nòi, sau này
sẽ bị thế quyền làm mai một, mất giống. Lão Nông là hình ảnh đầu tiên về người
nông dân chân chính của vùng đất tổ.
Con ngựa già của chúa Trịnh viết về con thần mã Kim Bông của
lão Nông ở Sơn Tây, có sức vượt nghìn dặm với cái thế "cao đầu phóng
vĩ" của nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào, Kim Bông cũng đứng đầu.
Tin đồn đến tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù luyến
tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. "Kim Bông phi
như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ
trong nửa ngày đã về đến Thăng Long". Về kinh, Kim Bông trở thành con vật
sủng ái, được kéo xe hầu chúa. Sống trong nhung lụa, thần mã được ngự tại mã
đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Chúa ban áo mão cân đai, đặc biệt cái mũ cánh
chuồn, như hai chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nhìn thẳng
về phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mãnh ngày xưa,
nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao nhiêu năm che tai, bịt mắt,
khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choáng váng, chân không phóng được nữa. Thần
mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã vật xuống đất, đứt ruột mà chết.
Kim Bông tượng trưng cho những tài năng lớn, khi đã mũ ni che
tai, quỳ gối, úp mặt, phục vụ thế quyền, để tìm bổng lộc, đều trở thành những
con ngựa già, vô dụng. Kim Bông là "nhân vật" đầu tiên, từ "thần
mã" xuống "chó" mà Phùng Cung mô tả.
Là một trong những truyện ngắn hay nhất thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm,
cùng với Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, Con ngựa già của chúa
Trịnh mang tính chất ẩn dụ tế nhị, kín đáo và sâu sắc, khó có thể kết tội
công khai tác giả.
Dạ ký là một bút ký tưởng tượng hài hước về những nhân vật
chính trong vụ NVGP, bên nguyên cũng như bên bị, mập mờ những chân dung: Tố Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Tô Hoài..., cả người thầy học cũ của
tác giả cũng có mặt... đến Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Tử Phác, Lê Đạt...
Không chỉ tứ trụ triều đình được phác họa dưới những nét châm biếm, mà cả những
bạn đồng hành cũng không thoát khỏi... tất cả đều bị cuốn theo cơn lốc, dưới
chân một ngọn tháp, "trên đỉnh tháp là một tàn vàng chóe loé, hơi giống
mặt trời chiều lúc gần xuống núi; có phần sáng hơn mặt trời. Bên cạnh tàn vàng
là một lá cờ đại, xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực. Từ
cờ đại đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm cờ không dính tua kim tuyến mà là lưỡi
câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió nhân thành bão, thì ra cờ bay mà tiếng gầm rú
hãi hùng như vậy. Tôi lạnh cả người, cầm sẵn trong tay một cái chết móc
hàm"[47].
Dạ Ký biếm họa một thời đại cuồng điên, người người lớp lớp
phục xuống trước một ngọn tháp vĩ đại, "chạy vòng quanh tháp - như đèn kéo
quân"; "hàng ngàn cờ nhỏ - đều màu đỏ rực", "một rừng
cờ" có "lưỡi câu thép ngoại"; "cờ bay mà tiếng gầm
rú hãi hùng"...
Chưa có tác giả miền Bắc nào dám viết về bác Hồ, về lá cờ búa liềm
và ngày 19/8 như thế. Dạ ký là bức tranh châm biếm hãi hùng về sự
tung hoành của lá "cờ có lưỡi câu thép ngoại", là điềm báo
hiệu 12 năm tù không án của Phùng Cung. Nhưng "tội" của
Phùng Cung, không chỉ là đã nặn ra một "con ngựa già", và
vài trang "dạ ký" phạm thượng, mà còn ở những truyện ngắn
sâu xa khác, tất cả viết trong khoảng 1957-1960, thời kỳ NVGP bị đàn áp sôi sục
nhất.
Chính những tác phẩm này mới đưa đến 11 năm biệt giam. Chúng bày
ra những cảnh trường bi đát của một thời đại u tối mà ngày nay chúng ta đang cần
tìm hiểu.
Ðó là số phận mạt kiếp của những người như lão Thiều,
suốt đời sống trong đói nhục, cuối cùng, lão đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô
tưới xuống đè chết.
Mạt kiếp là một trong những truyện ngắn thê thảm nhất về
cái đói, trong xã hội phân chia giai cấp chó-người.
Vẫn trong bối cảnh Sơn Tây, Ba Vì, vẫn trên nền đất tổ. Ngay từ
dòng đầu, không khí bạo lực bốc lên qua giọng văn mạnh, phũ, như một bức họa phổ
nhạc, với những âm thanh loang lổ, màu sắc hoắc loạn: "Chiều xuống chới
với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó vàng nhạt, hơi gầy đứng trên bờ đê nghến
phía tây nam nơi mặt trời như một chậu máu, loang vãi từ đỉnh Ba Vì hắt lại.
(...)
Thình lình tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Ðạc Ba -điếm tuần
của làng- gió tiếp âm, gom tiếng dữ trình làng. Mấy nhà gần điếm còn nghe được
cả tiếng "hự hự" của kẻ phạm pháp đang chịu đòn bằng đấm đá, lên gối
vào ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng tập thể tru lên
một lúc rồi im bặt, quý hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mõm cũng chẳng ăn nhằm
gì".
Ðó là khúc chó tru dạo đầu cho thân phận lão Thiều.
Thiều không phải tên của lão, lão tên là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lão
có một quá khứ tù mù, có thể trước lão đã có thời chân đi giày săng đá, đầu đội
mũ chào mào khố xanh, khố đỏ, nhưng bây giờ thân tàn ma dại, không biết vợ bỏ
hay vợ chết, lão ở nhờ nhà con rể cả chục năm rồi. Ăn uống phải tự túc, gặp lúc
nhà ai có việc gọi đến, lão còn được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài,
lão đói rã họng, đành thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt
được trói gô vào cột đình, đánh, lão chày mặt ra chửi đổng. Lão nghĩ bụng "no
nên bụt, đói ra ma", "ngũ cốc còn ghê hơn thuốc phiện, chưa rã họng
chưa biết!", "trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất cái
đói, ông căm thù nhất cái đói".
Ăn nói kiểu Chí Phèo; Chúa, Phật, chả coi ra gì, bất kỳ quỷ ma
thần thánh gì lão cũng theo tuốt miễn có cái bỏ vào mồm, lão làm tất tần tật:
đánh thần trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc
nào. Vì cứu trẻ ở xóm đạo, lão được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo hết
việc, lão mon men đến chùa, giúp bà vãi đốn tre, cạp rổ cạp rá... Lão đã trải hết
các "thời", vậy mà lão vẫn sống.
Cho tới cái năm ấy. Lão cố nhớ lại: "Năm ấy là
năm gì nhỉ? Nước sông Hồng vua Thủy dâng to hơn mọi năm nhiều. Nước tràn lên
đánh úp bờ bãi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu hoạch, đe dọa đê điều đe dọa
cả một vùng đói kém!"
Chẳng biết lão Thiều có ý nói kháy cái năm bốn nhăm thần thánh ấy,
cái năm quái gở trùng hợp đói, lụt và biến cố lịch sử vĩ đại của cuộc cách mạng
nào không.
Dám lắm, đến nước này, lão còn nể gì. Lão đổ tội cho cái năm thổ
tả ấy, vì nó mà lụt lội tràn lan khắp nơi. Đói quá, lão Thiều chẳng còn nể nang
gì nữa, lão chửi cái đói "Mày đang tâm biến người thành chó, chó
thành người!". Lời chửi đổng của lão cũng mập mờ đầy ý nghiã, chẳng biết
lão chửi cái đói, chửi thần thánh, hay thoá mạ cách mạng.
Đường cùng, lão tính nước cờ chót: liều chết, lão lội lụt vào tận đáy cót ngô của
nhà Tư Tâm, đục cót cho ngô chảy xuống, lão hứng bằng hai ống quần, nhưng không
ngờ, ngô chảy mạnh quá. "Ðói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lão
không sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lão nghỉm hẳn"[48].
Mạt kiếp được viết với bút pháp lạnh lùng gần như châm biếm,
vô cảm hóa nghịch cảnh, và đó chính là nghệ thuật trình bày cái bi đát trong
thân phận con người sâu sắc nhất: Từ cái năm ấy, cái năm đói ấy, Lão
Thiều bị nghiền nát nhân phẩm, lão cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống
như người, nhưng cuối cùng lão bị quật ngã, bị tiêu diệt.
Biệt tích là truyện phó Lâm, người thợ không hội nhập
được với "đời sống mới"'. Người thợ mộc đầy lương tâm và
nhân cách này không thể chấp nhận lối"ăn thật làm dối" của Ủy
Ban Nhân Dân. "Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng,
không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ!"[49], nhưng
bây giờ Ủy Ban lại bắt Phó Lâm phải làm nhanh, đóng bàn không cần tua, mộng gì
cả, cứ ghép lại bằng đinh năm phân, chặt mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xã lại
còn ra lệnh:
"- Cứ mẫu ấy mà đóng!
Phó Lâm lo âu xoa hai bàn tay vào nhau:
- Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!"
Phó Lâm lẩm bẩm trả lời bằng những dạ thưa, không làm được ạ,
dạ thưa, khó quá ạ.... cho tới lúc bị đuổi về. Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt
tích... Có người đồn thấy phó Phó Lâm vai vác rìu, tay sách hòn đục ngược dòng
sông lên núi Tản Viên, bước trên nước như đi đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả
người! Ở đây không ai còn lạ gì chuyện đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại
một lần xuống núi tìm thợ giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba
năm, sáu năm, rồi chín năm... không thấy về, bà chọn tháng bẩy ngày rằm xá tội
vong nhân làm giỗ.
Biệt tích phác những nét mơ hồ nhưng vô cùng xác thực về một
thời mà những cái chết bí ẩn, những sự mất tích, biệt tích của con
người khá thường xuyên. Thời mà những giá trị đạo đức nghề nghiệp không còn chỗ
đứng. Thời mà dốt nát, cẩu thả, lên ngôi. Phó Lâm, kẻ muốn bảo tồn đạo đức nghề
nghiệp, đã bị gọi về trời. Phó về trời, như bị mất tích, như bị thủ tiêu,
như tự thăng cùng thần núi Tản, để giữ mãi cái chân chất của nghề tổ, giữ trọn
phong cách của một nghệ nhân chân chính.
Chắc chắn Phùng Cung có dự Đại hội Văn Nghệ 1950 ở Việt Bắc, và
ông là nhà văn duy nhất đã phản ảnh lại chính sách chôn sống tuồng chèo, ca
trù, của đại hội, trong hai tác phẩm: Giải thoát và Mộ phách:
"Từ nay cái nghề ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt,
không để nấm mồ, không luyến tiếc"[50].
Giải thoát viết về sự phá sản của nghề hát chèo ở làng Ô.
Cái thế "cao đầu phóng vĩ" của con Kim Bông, loài ngựa
chúa, được thể hiện lại trong nhân vật Cả Miêng, hay Trùm Nhất ở
làng Ô, kẻ được coi là Bố cái đại vương của làng Vân Ô, nơi ngự trị của
thần tổ nghề hát chèo, trên một giải đất cao, thế đất chim Phượngcạnh dòng
sông Hát - sông Đáy.
Văn Phùng Cung luôn luôn có cái uy của đất tổ, cái đẹp của nghề
tổ, cái trách nhiệm của bố cái -cha mẹ- trong nhiệm vụ bảo tồn văn
hoá và lịch sử.
Ở thế cao đầu phóng vĩ như thế, Phùng Cung một mình một
ngựa, cầm cương chống lại giai cấp mà ông gọi là "chó" của
bọn tàn phá văn hoá dân tộc, tàn phá những nghề tổ: nghề mộc, nghề chèo, nghề
ca trù... đã nuôi sống con người. Bỏ nghề đi, là cắt đứt cuộc sống, là tiêu diệt
nghệ thuật cùng miếng cơm, manh áo. Mà Mộ phách là một giá trị độc
đáo.
● Mộ phách
Mộ phách viết về thời kỳ cấm ca trù, đập đàn đáy, chôn
phách. Bi kịch của vợ chồng kép Tư Chản và Ðào Khuê cả đời gắn bó với cây đàn
tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của
Nguyễn Tuân. Tư Chản có hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau
này lớn lên nối tiếp nghề tổ để được no ấm một đời. "Thằng Thuyên,
con trai độc nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy
làm mãn nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn,
vuốt dây tơ".
Ngoài thằng con, Tư Chản chỉ còn cây đàn là quý: "Ðàn
này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại", "cụ Kép chọn gỗ, thuê
thợ Kim Sa đóng cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Ðáy đàn bằng gỗ dâu vàng,
cần đàn bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai
khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một nửa thế
kỷ. (...) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng tòng! tiếng dụng! tiếng
dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất tử!"
Tư Chản, coi đàn như người cha, như ông tổ, đàn là nguồn nghệ
thuật và nguồn sống: "Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng
giấc một người cha ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ-
cây đàn được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn
the màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả. Ngày nào ông
cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng;
vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng
xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng
ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái."
Thế rồi thời thế thay đổi, thằng Thuyên lớn lên đi bộ đội cầm
súng thay đàn... Vợ chồng Tư Chản không còn được tự do đàn hát kiếm sống như
trước nữa, nhưng trong lòng vẫn "nhớ dồn thương góp", âm thầm lấy
đêm 17 tháng 8[51] cúng
tổ tiễn thu. Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng then cài, tìm lại nghề cũ, tiếng
đàn chen tiếng phách, nổi chìm giọng ngâm tha thiết của những đêm
xưa... "Khúc "Cung bắc" đang chơi vơi như đò chưa cập bến.
Bỗng tiếng chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Ðàn phách im bặt. Hai
linh hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng. Ngờ
đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người, va vào miệng
chó".
Từ đêm đàn ca vụng trộm đó, hai vợ chồng nơm nớp lo sợ, sợ người
và sợ chó, sợ cả chó người. Rồi chuyện gì phải đến đã đến. Thuyên, đứa con trai
duy nhất, đang đợi được kết nạp vào Ðảng, dưới sự chỉ đạo của Đảng, đã ra tay xử
lý cây đàn. Thuyên khẳng định: cây đàn đáy chính là "đồn địch". Và
như một chiến sĩ can trường, Thuyên xông vào tóm lấy cổ "địch":
"Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy
cây đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đàn đáy vọng
ra như tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết".
Kêu cứu cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh oan trái
của mình. Sau khi bị đập tan tành, xác đàn bị hoá kiếp lần nữa: trở thành mớ củi
nấu nước tắm cho cậu quý tử: "Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông
Chản đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai
ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có xương có thịt.
Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra. [...] Ông hỏi vợ có nghe
tiếng gì không?[52]
Từ đấy, Tư Chản cứ trầm trầm đi tìm lại tiếng đàn, mấy tháng sau
ông mất. Đào Khuê chọn ngày cúng chồng rồi tìm miếng lụa liệm cỗ phách của
mình, nó tên là Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy lừng
không kém cây đàn đáy của Tư Chản. Đào Khuê mai táng Kim phách trong
ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.
Mộ phách ngân lên như tiếng khóc tiễn đưa thi ca, âm nhạc về
bên kia thế giới trong một thời mà nghệ thuật đích thực bị xử lý như một phạm
nhân. Với Mộ phách, Phùng Cung đã để lại những âm giai bất tử về sự bức tử
một cây đàn và sự tuẫn tiết của một cỗ phách. Và qua đó là sự
tàn phá nền văn hoá cổ Văn Lang.
● Từ bà Huyện Thanh Quan đến Phùng Cung
Sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn gỡ cung điện Thăng Long
đem về Huế. 1831, vua Minh Mạng lấy hai chữ Hà Nội, tên một tỉnh nhỏ phía bắc
nước Tàu, đặt cho Thăng Long. Nhà Nguyễn gỡ cung điện vua Lê và đổi tên Thăng
Long thành Hà Nội nhằm xoá tinh thần phò Lê trong lòng người dân đất Bắc, nhưng
không qua mắt được nhà thơ: Bà Huyện Thanh Quan, thày dạy con gái vua Minh Mạng,
sáng tác bài Thăng Long thành hoài cổ, một kiệt tác hoài Lê, một sự
phản kháng âm thầm và mãnh liệt của kẻ sĩ Bắc Hà "nhớ nước đau lòng
con cuốc cuốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia", vậy mà Gia Long
không hề đốt sách và Minh Mạng không dám lấy tên Gia Long đặt cho Bắc thành.
175 năm sau, thống nhất xong Nam-Bắc, chính quyền miền Bắc đổi
tên Sài Gòn thành Hồ Chí Minh, vẫn sách lược cũ của nhà Nguyễn,
kèm thêm chiến dịchcải tạo và nghị quyết tiêu diệt hầu như toàn bộ văn học
miền Nam. Kết quả: hơn 35 năm sau, cái tên "cúng cụ" của thủ
đô miền Nam vẫn không thu phục được nhân tâm. Với dân chúng miền Nam, nó vẫn chỉ
là vết tích tủi nhục của sự bại trận, sự "mất nước", đúng
như tình cảm bà Huyện dành cho nhà Nguyễn.
Vì sao? Vì bất cứ chính quyền nào, chính sách văn hoá cũng vẫn
là cốt tuỷ. Đối xử một cách văn hoá với người bại trận là phương sách uỷ lạo
lòng người. Bởi văn hoá ở trên chính trị. Đối với văn hoá, không thể áp dụng
chính sách diệt trừ địch thủ như trong chiến tranh.
Không phải cứ loại Tự lực văn đoàn, văn học xã hội chủ
nghiã sẽ trở thành lãnh đạo. Không phải cứ tiêu diệt Nhân Văn Giai Phẩm,
thì những Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi... sẽ ngời sáng mãi
mãi trên vòm trời văn học Việt Nam. Không phải cứ đốt hết văn học miền
Nam, thì văn học miền Bắc sẽ trở thành độc nhất vô nhị. Bởi văn học
không phải là một vùng chiến địa, để một còn một mất, mà là vùng hoà bình, sống
chung, càng nhiều tác phẩm hay, nền văn học của một nước càng thêm sáng giá. Việc
loại trừ những tác giả lớn của văn học Việt Nam trong suốt thế kỷ XX ra ngoài
vì lý do chính trị, đã thu nhỏ nền văn học Việt Nam, trong lòng một bàn tay, đã
bị cắt hết ngón -là những tinh tuý của dân tộc- chỉ còn lại những công thần, bịt
tai, bịt mắt như những Con ngựa già của chúa Trịnh mà Phùng Cung mô tả.
Đó là tiếng kêu tha thiết nhất mà Phùng Cung để lại trong tác phẩm,
tiếng chim báo bão về nền văn hoá Việt đang bị thu gọn và tự hủy, từ việc bảo tồn
đất tổ Hùng Vương đến sự loại trừ các giá trị tinh thần không theo đúng đường lối
của Đảng.
● Đường Lâm thi chí, một nền thơ
chống chiến tranh và tù ngục
Những thành viên NVGP đều tham gia kháng chiến, nhưng sau chiến
tranh, họ đã có những suy nghĩ khác:
- Ở Văn Cao, là niềm hăng say tuyệt đối ban đầu: vào đội trừ
gian, sáng tác quốc ca. Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không còn sáng tác ca
khúc nữa.
- Ở Hoàng Cầm, chiến thắng chỉ là giấc mộng, kể cả trong giai đoạn
sôi nổi nhất.
- Ở Lê Đạt, đọng lại hình ảnh máu lửa tiêu thổ kháng chiến, là tội
đốt quê hương.
- Ở Trần Dần là bản hùng ca lụa Việt Bắc mà đói khát và bệnh tật
phủ lên xác anh hùng.
- Ở Quang Dũng là hình ảnh hãi hùng của đoàn quân không mọc tóc.
Các thi sĩ trên đều thấy hậu quả chiến tranh và rút ra bài học của
mình.
Phùng Cung có một hướng đi khác hẳn: ông không nhìn hậu quả chiến
tranh để hối hận như các bạn. Ông cũng không đổ trách nhiệm lên đầu kẻ thù như
người khác. Phùng Cung coi chiến tranh -chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc- đều
phát xuất từ căn bệnh của dân tộc: bệnh hiếu chiến. Chứng nan y này đã thấm vào
máu, khó có thể chữa được. Đối lập với Văn Cao trong quan niệm yêu nước, Phùng
Cung phê bình quốc ca.
Trăng ngục là bản hùng ca phản chiến, kết tội Cách Mạng Mùa
Thu, nhìn sự hiếu chiến của dân tộc như nguyên nhân sau xa nhất của hai cuộc
chiến trong thế kỷ XX: chống Pháp 46-54 và thống nhất đất nước bằng võ lực, chống
Mỹ và chiếm miền Nam 54-75. Trăng ngục tập hợp những sáng tác trong
tù. Vì không có giấy bút, không thể viết truyện nhẩm, nên Phùng Cung "bắt
buộc" phải làm thơ.Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập khác lạ,
đầy bất khuất, trong những dòng chữ bị cầm tù suốt đời của tác giả. Tác phẩm chứa
đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, đanh thép, như những mũi dao nhọn, đục thủng
màng lưới bủa vây nhà thơ, đánh sụp bức tường xà lim, để lộ diện con người tự
do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của mình, chống lại toàn bộ
hệ tinh thần yêu nước chủ chiến.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm
1961, Phùng Cung bị tù tại chính Sơn Tây, vùng đất tổ. Nhà thơ ví chế độ toàn
trị như biển cả:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình - uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa - đáng thương (...)
Hỡi biển cả!
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
Bố Cái đã bị bắt, bị tù trên đất Đường Lâm: tất cả đều
đã sụp đổ. Dân tộc, bây giờ, không đứng trước quân nhà Đường phương Bắc, mà đối
diện với biển cả mênh mông của chế độ cực quyền.
Người dân hỏi ý cha. Bố Cái trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
Nhà thơ trình bày trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là thế
quyền lồng lộng, khoác "Triều phục Đại Dương"; một bên là
sinh linh "trăm họ", những con người.
Đại dương có đầy đủ phương tiện để vùi lấp trăm vạn
sinh linh trong một trận thủy triều. Còn con người, con người lấy gì chống
lại? Con người chỉ có ánh mắt. Mắt trẻ thơ. Dưới ánh mắt của đứa bé, cái thế
quyền lồng lộng ấy là gì?
- Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không. Bởi dưới mắt đứa bé:
"Mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa xanh".
Rồi Bố Cái chỉ cho dân cách đối phó với bạo lực cách mạng:
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
Bài Biển cả tung trên trang đầu tập Trăng ngục như
một thách đố trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả đối
với cực quyền toàn trị. Phùng Cung đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền
sống cho những cái nhỏ, cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính
trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường.
Bài Trăng ngục rất ngắn, tập trung những tái tê bất hạnh
của một đời tù biệt giam trong xà lim:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ...
Trong tù, chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng. Trăng quấn
quýt. Trăng là áo. Trăng là ngày xưa. Trăng là vợ. Trăng là tri kỷ. Trên
vai áo tù trăng vá lụamột câu tuyệt bút, là sự hài hoà giữa mềm và cứng,
giữa tù và lụa, giữa trăng vàáo, giữa xa và gần,
giữa xót xa và âu yếm, giữa tự do và tù tội. Nhà
thơ đã kêu gọi sự hài hoà đó trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả
trả lời, chỉ một vầng trăng đáp lại.
● Ai liều tảo mộ chiều nay
Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản
chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào, vì đối với Phùng
Cung "dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược" cũng
như nhau. "Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương
quỷ dữ!"[53]
Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ chiến là
bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Bởi chiến tranh nào cũng chôn sạch tuổi trẻ, chỉ để lại những
người già ngồigãi đất.
Thu xa là bài chinh phụ ca mới, phản bác những anh hùng ca
chính thống của Tố Hữu, Chính Hữu... cả những anh hùng ca bàng thống của Trần Dần,
Phùng Quán... Thu xa là giấc mơ phản chiến, chống Cách Mạng Mùa
Thu, kết án tử hình chiến tranh, kêu gọi con người hãy làm tình yêu, làm hoà
bình, đừng làm chiến tranh, hãy thôi chém giết:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Tất cả thi sĩ miền Bắc, không ai dám đả động đến "Cách
Mạng Mùa Thu",bởi đó là "chính nghiã tuyệt đối" được "tất
cả mọi người" công nhận. Trừ Phùng Cung. Phùng Cung không. Phùng Cung
đi ngoài quỹ đạo. Phùng Cung là người đầu tiên dám dùng những hình ảnh kinh
hoàng như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều" để viết về Cách
Mạng Mùa Thu.
Rồi hai chữ quay xa, tại sao lại quay xa mà
không quay tơ? Chữ xa nhập nhoè nhiều ý
nghĩa: xa vừa là guồng tơ, guồng cửi; nhưng xa còn là bánh
xe chiến tranh như chiến xa; xa còn là xa lià đứt đoạn. Người
chinh phụ ở đây, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến
tranh như những người chinh phụ thời xưa nữa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ
máy chiến tranh, nàng đang quay bánh chiến xa, nàng đang "tắm máu rừng
thu" như chồng. Ống kính độc đáo của nhà thơ, quay lại cảnh toàn thể
dân tộc lao vào cuộc chiến tàn khốc: ống kính duy nhất của thi ca Việt Nam đã
chụp bắt được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.
Nhưng Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, ông còn đi sâu hơn, để
truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn
sùng nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gió!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
...
"Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không?
Hỏi tội cách mạng mùa thu chưa đủ, nhà thơ còn hỏi tội quốc ca,
quốc kỳ. Chưa nhà thơ nào dám đưa ra những lời buộc tội gay gắt về những biểu
tượng"thiêng liêng" như thế: Có quốc thiều nào man rợ thế
không?
Bên cạnh những hình ảnh dễ sợ "cờ máu rợp trời lợm
gió", bên cạnh những lời buộc tội không khoan nhượng, rằng
trong "kho nhớ của loài người", không thấy có "quốc
thiều nào man rợ" như thế; là những lời thơ trữ tình đẫm lệ gửi
choquê hương tan nát vì chiến tranh, lầy nước mắt:
Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.
Phùng Cung là người chữ duy nhất trên đất Bắc, đối với
hai cuộc chiến, đã nhìn thấy và đã dám nói ra cái giá quá đắt phải trả cho hòa
bình đã mất. Dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những thúc giục lên đường,
không chỉ là những tiếng hô xung phong, mà đằng sau tất cả cờ xí rợp trời là bộ
mặt kinh hoàng của thần chết:
Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa.
Những hình ảnh "gia nô thần chết" trong thơ
Phùng Cung, hoà cùng những xác "người chết hai lần" trong
ca từ Trịnh Công Sơn, đã hợp thành dòng máu của anh em giết nhau. Trong buổi
liên hoan mừng chiến thắng, Phùng Cung âm thầm đếm lại những đốt xương tàn:
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
Hướng về những linh hồn quá trẻ đã bị vay tuổi để xuất
trận, Phùng Cung tảo mộ con, liệm hồn mẹ, những người mẹ bạc đầu hương khói
trên những nghiã trang giả, mồ không xác:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
Và dưới mồ tiếng Phùng Cung nhắn lên, ngược dòng với Văn Cao,
Lưu Hữu Phước: Này thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho
dân tộc.
● Xem đêm
Là tập thơ của người Việt cổ, "người Rừng", thơ Đường
Lâm thi chí, của Bố Cái bị cầm tù trên Bất Bạt. Tất cả đã bị tàn phá,
từ thân cây ngọn cỏ, đến cả đọt sương, đến cả tâm hồn, đến cả khổ đau và hạnh
phúc, cũng không còn như xưa...Xem đêm là một hình tượng mới, một hành động
chữ mới, mỗi chữ là tinh cầu, chỉ cần vài câu đã gói trọn bầu trời nhật nguyệt
thực sau Nhân Văn. Ở Hoàng Cầm là những đêm kim, đêm mộc, đêm thủy, đêm hoả,
đêm thổ. Ở Phùng Cung là nghe đêm, xem đêm... Xem đêm là một
vũ trụ không ánh sáng của những số kiếp bọt bèo, những người bị tù chung thân
vì tội chữ:
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh
(Bèo)
Xem đêm là sự đậm đặc của những con chữ nguyên chất, con chữ
quê mùa, chưa bị văn minh xâm lấn, chưa bị lừa lọc tấn công, chưa bị chủ nghiã
nhiễm độc, chưa bị chuẩn hoá theo một mẫu mực nào. Trong đêm miên viễn ấy, người
và vật nhập quyện vào nhau trong một trạng thái dung hợp vật chất, tinh thần.
Thơ cô đọng như Đường thi, một vài chữ đủ gánh cả phận người. Sự giao thoa giữa vật
thể, tiếng động, không gian là đặc tính của Đường Lâm thi chí:
Đêm về khuya
Trăng ngả màu hoa lý
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông
(Đò khuya)
Đêm, trăng, hoa lý, tiếng gọi đò, sông... là những yếu tố của một cảnh
đêmcó thể chất hoàn toàn khác nhau. Nhờ một hành động chữ, chúng đã hoá mộng. Để
được sống lại trong một không gian khác, để tạo ra nghịch cảnh của một đời người.
Sự cô đơn tuyệt đối của con người bị cô lập suốt đời, được nhà thơ biểu hiện dưới
một màn trăng đêm không người, mà có "tiếng gọi
đò" như "con nhện vô hình" giăng nối hai bờ xa
cách. Hai quang cảnh, một của thiên nhiên hiện thực, diễm ảo: Đêm về khuya
trăng ngả màu hoa lý và một của tâm thức cô đơn tuyệt đối Tiếng gọi
đò căng chỉ ngang sông, của kẻ bị cách ly, lưu đầy, bị đoạt tự do và cướp
ánh sáng mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ.
Nhưng tất cả nghịch cảnh, cách ly, đều đã có mà đều
đã không. Đã xẩy ra và đã không còn nữa: sắc sắc không
không, như một sự giao thoa triết học Đông Tây phi thường, mới lạ.
Một bài thơ khác:
Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương
(Trà)
Đây chính là thơ Đường Lâm nói chí. Chỉ có
ba "nhân vật": Trà, nước, giọng, ba yếu tố thuần khiết của
một cuộc thiết trà. Bỗng chữ quất hiện lên như một hung thần và chữ Tân
Cương sừng sững như một người Rừng, một chí lớn, một sự cương
cường mới bị giam hãm ở Tân Cương, trại tập trung các trí thức Trung Hoa bị
Mao Trạch Đông đày đi gánh phân, biến cuộc thiết trà thành một cuộc tra vấn tàn
phũ, mà kẻ thẩm tra quất trà đến nát bã nhưng trà
sĩ vẫn không khai, không đổi giọng bất khuất.
Thơ Phùng Cung có chí Phùng Hưng.
Một bài thơ về mẹ:
Mồ hôi mẹ
Tháng ngày đăm đăm
nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người
(Mẹ)
Một giọt mồ hôi mẹ, đủ tác thành khí phách con. Chữ đi từ núi Tản,
mỗi chữ là một giọt thép. Đọc thơ ấy, sẽ hiểu tại sao con người ấy bị biệt giam
11 năm. Bởi không có phép gì "cải tạo" được tâm hồn và chí
khí của ngọn Ba Vì. Vẫn về người phụ nữ, lần này là người vợ:
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa
Cái trắng này vắt tận trong xương
-
Mồ hôi xương
Chân dung người vợ cũng toát ra cái can trường trắng của đất Mê
Linh. Sự can trường dũng cảm hàng ngày của người vợ phải đương đầu với miếng
cơm manh áo, để nuôi con, để tồn tại. Và một tinh thần phản chiến, kiên cường
và dứt khoát, rùng rợn, trong cung cách Đường thi:
Mỗi chiến thắng
Một lần gươm tắm rượu
Ruồi vẫn qua lùng máu
sa trường
- Gươm báu
Bài Nghe đêm gói trọn nỗi cô đơn cuối đời của con người
bị lưu đầy, vì chữ nghiã, từ tuổi thanh niên đến lúc đầu bạc:
Đêm chợt nghe
Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc
- Nghe đêm
Đó là sự cô đơn của kẻ một mình một ngựa trên hành
trình mở nước và dựng nước về phía văn hóa, tình nước và tình người.
[1] Phùng Hà Phủ, Nhà thơ Phùng Cung, in trong cuốn Phùng
Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản (Văn Nghệ, California2003); in lại
trong cuốn Phùng Cung (Trung Tâm Dân Chủ Cho Việt Nam, Canada
2004) và Talawas.
[4] Nguyễn Chí Thiện viết về Phùng Cung, Phùng Cung truyện
và thơ, Văn Nghệ, 2003, phụ lục, trang 397.
[13] Nguyễn Hữu Đang, Con người Phùng Cung và những bài
thơ hay trong tập Xem Đêm, Hợp Lưu số 94, tháng 4-5/2007.
[44] Sơn Tây là vùng rộng lớn, cuối thế kỷ XIX bao trùm nhiều tỉnh
và thị trấn ngày nay: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây và một phần Hoà Bình và Tuyên
Quang. Sơn Tây có hai huyện quan trọng: Phúc Thọ và Bạch Hạc. Huyện
Bạch Hạc, Việt Trì,thuộc phủ Vĩnh Tường, trung tâm Sơn Tây, là đất
Phong Châu, kinh đô nước Văn Lang. Sông Lô và Sông Thao gặp nhau ở Ngã Ba
Bạch Hạc. Huyện Phúc Thọ, thuộc phủ Quảng Oai, đời Hán là đất Mê Linh, nơi
Hai Bà sinh trưởng và đóng đô. Có Hát giang, tức sông Đáy. Có xã Cam Lâm
thuộc quận Đường Lâm là nơi sinh của Phùng Hưng và Ngô Quyền. Có đền Phùng
Vương và Ngô Vương ở xã Cam Lâm. Có miếu Hai Bà ở xã Hát Môn. Hai huyện Tùng
Thiên và Bất Bạt có núi Ba Vì (Sơn Tinh Thuỷ Tinh), ba ngọn rất cao, hình tròn
như cái tán, lớn nhất đất Bắc.
[46] Theo Ngô Thì Sĩ và Phan Huy Chú, Đường Lâm là đất hai huyện
Hoài An, (nay là huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây) và Mỹ Lương (nay là đất các huyện
Chương Mỹ tỉnh Hà Tây và Lương Sơn, Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình).
[48] Mạt kiếp, Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản,
Văn Nghệ, California 2003, trích dẫn từ trang 27 đến 67.
[51] Ngày 17/8 ở đây có ý nghiã chính trị: 17/8/1945, trong buổi
mít-tinh của công chức, bài Tiến Quân Ca được Phạm Duy "cướp
micro" hát lần đầu tại nhà Hát Lớn, Hà Nội. 19/8/1945, Việt Minh "cướp
chính quyền", bài Tiến Quân Ca được dàn đồng ca Thiếu niên Tiền
phong do Văn Cao điều khiển hát tại Nhà Hát Lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét