Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

HỒI KÝ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG - KỲ 3

Giáo Sư, Luật Sư NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
1      2     3      4      5      6
CHƯƠNG 4:  TRẬN ĐẤU BÒ ĐẦU TIÊN TRONG MẶT TRẬN TỔ QUỐC

 Tôi nằm trong mẻ đầu tiên. Mỗi người bị kết án đều phải trình diện trước một toà án gồm những thành viên trong tổ chức mà người ấy sinh hoạt. Trong khi đạp xe từ nhà đến cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc, theo lời mời của Đảng, tôi cố gắng suy nghĩ xem buổi xử án tôi sẽ xảy ra như thế nào. Dường như đây là buổi tự phê bình mà tôi phải tự trình bày. Thật vậy, đây là một vụ xét xử chính trị mà tôi phải đối phó. Đảng đã chỉ định một số người ngồi sau cái bàn phủ khăn xanh và giữ vai trò công tố tuy không đưa ra bản cáo trạng nào nhưng chỉ đưa ra những câu hỏi nhằm chứng minh là tôi là kẻ có tội. Buổi thẩm vấn diễn ra công cộng, và nội dung là những lời buộc tội chính mà “hội đồng bồi thẩm” đã thiết lập nên. Kịch bản đã được nghiên cứu đến từng chi tiết nhỏ nhất. Phán quyết vụ án không được đưa ra vào phần chót của buổi xử án. Chính Đảng, sau đó sẽ trở lại quyết định nội dung của phán quyết. Mục tiêu được nhắm đến là “giáo dục” lại kẻ phạm tội sao cho kẻ này có thể chuộc lại những lầm lỡ, và đồng thời giáo dục quần chúng để cho họ tránh không mắc phải những lỗi lầm như những người kia.
Vì thế, người ta tham dự một phiên toà chứ không phải là một buổi tự phê bình mà người ta gọi là một buổi hội nghị. Người cộng sản, bên cạnh những tài năng khác, rất lẻo mép. Luôn luôn chơi trò hàng hai, chẳng những tự lừa dối mình còn lừa dối đến những người khác, bóp méo sự thật, tìm cách làm hoa mắt mọi người. Họ dùng những mánh lới quanh co y như đầu óc bẩm sinh quanh co của họ. Một từ luôn được lập lại trong ngôn ngữ của họ: “Giáo dục”. Một động tác đưa ra, một sinh hoạt được tổ chức đều phải nhắm vào một mục đích giống nhau: dạy cho quần chúng cư xử trong cuộc sống y chang như người cộng sản.

Nhưng khi Mặt Trận được tổ chức như một Toà Án để xét xử đồng nghiệp của mình, tự nó đã là một khó khăn: Mặt Trận bao gồm nhiều thành viên tiếng tăm từ nhiều khuynh hướng xã khác nhau tiêu biểu cho toàn xã hội đa dạng, đa nguồn gốc. Đặc tính chung của những người này là không phải đảng viên, không được chấp nhận vào Đảng. Chỉ có Chủ Tịch của Mặt Trận là một đảng viên cao cấp. Nhưng tất cả những cán bộ thừa hành trong Ban Bí thư đều là những người cộng sản trẻ, năng động, có cái nhìn sắc bén nhưng chỉ biết mở mồm khi báo cáo công việc cho người trách nhiệm Mặt Trận. Bất cứ lúc nào, thể theo đề nghị của Đảng, Mặt Trận sẽ bỏ phiếu ủng hộ một vài quyết định cho một vài chính sách này, chính sách nọ, Đảng tin rằng tất cả nhân dân đều đứng đằng sau Đảng, mặc dù nhân dân chưa bao giờ bầu ra một thành viên nào của Mặt Trận, chưa bao giờ giao phó một nhiệm vụ nào cho Mặt Trận, khác với Quốc Hội được bầu ra nhưng cũng ít nhiều bị điều khiển từ xa. Khi mà người cộng sản là những người có một sở thích không lành mạnh và không kềm chế được là thích phô diễn, và Mặt Trận lại cung ứng cho Đảng cái vẻ như toàn dân tán thành Đảng, cho nên Đảng cũng làm ra vẻ lưu tâm nhiều đến Mặt Trận một cách chính thức và trọng thể. Huống chi Đảng không tác động trực tiềp lên quần chúng, không phải nhận bất cứ than phiền hay chỉ trích nào, thậm chí còn không thèm lưu ý đến họ; vì vậy cho nên Đảng không phải chịu một rủi ro nào bị nhân dân phản đối. Giữa Đảng và Mât Trận là một sự trao đổi lễ phép, lịch sự, ngoại giao bình dân, hình thức suông, tất cả những gì mà cả đôi bên đếu vui lòng với nhau.
Tôi tò mò tự hỏi rồi đây ai là người sẽ đóng vai công tố và phóng ra những lời buộc tội dưới hình thức những câu hỏi liên quan đến những “lỗi lầm” của tôi. Các ông cha Nhà Thờ Công Giáo, các vị sư Phật Giáo đáng tôn kính đều có một chút quyền hành nhưng họ là những người rất khó mà bị nhồi sọ. Những đại biểu của nghiệp đoàn, của chị em phụ nữ, hay các nông dân trẻ thì không có quyền hạn gì thì tỏ ra thiếu tự tin khi đảm nhiệm vai trò của mình. Như thế, chỉ có một trí thức là Bác Sĩ Phạm Khắc Quang, một người tự trọng và có tiếng tăm mà tôi được biết. Thủ đoạn cộng sản là giao thanh đao cho một người mà quan hệ của người này với người bị buộc tội cho phép họ giáng một cú chém chịnh trị có tính quyết định và đầy ý nghĩa. Trong Cải Cách Ruộng Đất, trẻ con đã được động viên để tố cáo cha mẹ, kẻ thuê nhà buộc tội chủ nhà, người trí thức thiên thần kết án người trí thức quỷ quái! Đó là cái logic trong mọi chuyện của cộng sản.
Uỷ Ban Trung Ương của Mặt Trận tổ chức những buổi họp của họ trong căn phòng khách lớn của toà bin đinh mà trước đây là Toà Đại Sứ của Trung Hoa Quốc Gia trên đường Tràng Thi. Tôi đã có khá nhiều dịp đến đây để tham gia những hôi nghị trong thời gian mà tôi nằm trong nhóm đã được chọn đứng bên phải của Chúa Công. Tôi biết tất cả các “đồng sự” ở đó, những người mà ngày nay đang quyết định số phần của tôi.

Lần này tôi đi vào phòng họp như một con bò tót bị đẩy ra đấu trường. Thật như thế, một đấu trường với những hàng ghế xếp sát cạnh các bức tường để trống một vùng ở giữa. Đằng sau những cái bàn là vô số người, một số ngồi nếu là thành viên của Mặt Trận, một số người tò mò đứng bên trong, đa số là ký giả hay những người thuộc những tổ chức quần chúng. Đây là một trận đấu bò trước một công chúng đang thèm khát những cảm giác mạnh, nóng lòng chờ giờ khai mạc một cảnh tượng độc đáo không thể tả được.
Giống như một con bò tót đang tiến vào trường đấu, tôi nhìn quanh toàn thể hội trường. Trong lúc mọi người đang đứng mở to mắt nhìn và vểnh tai để nghe, các “đồng sự” của tôi ngồi sau dãy bàn tỏ ra không được thoải mái trong nhiệm vụ của họ, một nhiệm vụ mà họ chưa hề quen. Mặc dù những câu hỏi để chất vấn tôi đã được những kẻ “có quyền” đánh dấu, họ vẫn không che dấu được sự lúng túng trong giọng nói và cách đọc. Tôi không tránh khỏi thấy tội nghiệp cho họ đã bị đưa vào một hoàn cảnh như thế.
Những câu hỏi xoay quanh vần đề thứ nhất.
- Đồng chí có thấy là đồng chí đã làm tổn hại đến Cách Mạng và hại chính bản thân đồng chí khi đã để bài tham luận của đồng chí trong hội nghị thoát ra nước ngoài?
- Tôi xin bác bỏ sự khẳng định này. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ để bài tham luận của tôi thất thoát ra nước ngoài. Đó là chuyện xảy ra ngoài ý muốn và tôi không hề biết có chuyện xảy ra như thế. Khi phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổ ra ở Việt Nam, đồng chí Xuân Thuỷ, Tổng Thư Ký của Mặt Trận đã yêu cầu tôi làm một buổi hội thảo về dân chủ ở Âu Châu và ở Pháp. Việc ấy đã xảy ra ngay chính ở phòng họp này, với sự có mặt của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng và nhiều thành viên của Uỷ Ban Trung Ương của Mặt Trận là những người đang xử tôi ngay giờ này đây, suốt cả ngày, gồm ba giờ vào buổi sáng và ba giờ buổi chiều. Chính vào thời điểm này Đảng đã phải nhận lấy sự sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất và đã đưa ra những biện pháp sắp xếp lại Đảng. Hai chữ Trường Chinh đã rung lên hồi chuông đưa mọi người vào tâm trạng buốn chán và tang tóc: “Chúng ta đã tự tấn công mình bằng cách tấn công người khác!”. Một lỗi lầm vô cùng to lớn đã lấy đi hàng chục ngàn sinh mạng vô tội. Hàng ngàn quả phụ và con côi, dưới bộ đồ tang trắng, đã đến văn phòng Luật Sư của tôi, đến từ mọi nơi trên đất nước, yêu cầu tôi giúp phục hồi lại danh dự của những người đã mất và đưa ra vấn đề trách nhiệm của Đảng và của những người trách nhiệm. Với một niềm ân hận to lớn, tôi phải trả lời cho họ là việc đó ở ngoài khả năng của tôi, vì đây là một vấn đề chính trị, nó không nằm trong vòng luật pháp và những kiện tụng bình thường. Cú sốc như một phát búa tạ vào đầu tôi và tôi phải rất khó khăn mới đứng được. Tôi tự bảo và bảo với tất cả những người đã làm việc với tôi là không thể để chuyện kinh hoàng này lập lại trong tương lai. Chuyện tàn sát ấy không thể nào có thể xảy ra trong một cái gọi là “nền dân chủ tư sản”, nơi có những điều luật để quản lý quyền lực công, có những quy định hiệu quả để rào cản ngăn ngừa những điều khùng điên sinh ra bởi chủ nghĩa duy ý chí một cách trẻ con và bởi thứ chuyên quyền đui mù rập khuôn cư xử với các nước “anh em”.
Trường hợp bi đát mà trong đó tôi được mời đến nói chuyện là sự có mặt của một công chúng đã quen với tư duy dân chủ nhưng lại ít kiến thức về những qui định luật pháp làm nên cái nền móng và cơ cấu của những sinh hoạt dân đã dẫn dắt tôi trong phần trình bày. Từ khi tôi đã nói chuyện trong nhiều hội nghị với sự có mặt của nhiều nhân vật lãnh đạo Đảng hay Mặt Trận, tôi tự kềm chế những xúc động mạnh và ngôn ngữ của mình sao cho không tổn hại đến phong thái lịch sự và phép xử thế là những nguyên tắc hướng dẫn tôi trong những quan hệ với giới cầm quyền.
Tôi không có thói quen hay thời gian để soạn thảo bài nói chuyện, như tôi thường hay giảng bài cho sinh viên hay những lời lẽ tranh cãi trước toà. Vì có lời yêu cầu của hai ông Xuân Thuỷ và Dương Bạch Mai nên tôi đã viết bài tham luận ra giấy những ý mà những người nghe vỗ tay tán thưởng. Người ta muốn đọc bài viết để có nhiều suy nghĩ. Tôi đã đánh máy ra hai bản và đã đưa ngay cho Ban Thư Ký của Mặt Trận. Vì thế tôi xin nhấn mạnh hai điểm cốt yếu: không phải tôi là người đưa ra sáng kiến về hội nghị, cũng không phải tôi là người quyết định có bài tham luận bằng chữ viết. Trong hai trường hợp trên, đều là do lời yêu cầu của lãnh đạo Đảng và Mặt Trận mà tôi đã hành động như đã nêu. Hoàn toàn không một dụng ý. Vì vậy, lòng trung thực của tôi là toàn diện.
Liên quan đến chuyện một trong hai bản đánh máy bị lấy và gửi ra nước ngoài, trong thới kỳ chiến tranh lạnh hiện nay, một chút sai lầm hay lỗi nhỏ nhất của thế giới cộng sản cũng sẽ nổ ra không chút e dè, không thể buộc tội tôi chịu trách nhiệm về chuyện này. Không có một chứng cớ nào đã và chưa bao giờ được đưa ra để buộc tôi là có tội, hay chứng minh là tôi đã có những gặp gỡ bí mật với gián điệp nước ngoài, hay làm rõ là tôi đã đưa một bản sao cho một ai đó. Nhưng, theo những thói quen đã thành nếp của chúng ta, thay vì cố gắng xác minh trách nhiệm của kẻ phạm luật, chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu về sự thiếu chu đáo, thiếu thận trọng trong đội ngủ những người của Đảng và Mặt Trận, những người có trách nhiệm nhận và chuyển những hồ sơ hay những người, vô tình hay cố ý, vung vãi lung tung hồ sơ giấy tờ mà họ cho rằng ít quan trọng, thay vì tự hỏi lấy mình để kiếm cách buộc tội người khác. Như thế thì dễ dàng hơn nhưng nó lại đi ngược với những quy định của luật pháp.
Vậy, cho tôi được phép hỏi ông: giữa chuyện những sai lầm của Đảng trong Cải Cách Ruộng Đất mà Đảng đã từng vỗ ngực, và chuyện lơ đễnh của người nào đó đã làm lạc một tài liệu dính đến những sai lầm như thế, hay nói một cách chính xác hơn là ám chỉ những sai lầm đó: chuyện nào nghiêm trọng hơn? Trong cả hai trường hợp, không thể nào tôi phải chịu trách nhiệm về chúng và tôi yêu cầu ông ghi chú đìều này.
- Thôi được, bỏ qua chuyện này và ta sang chuyện khác. Quan điểm của ông đối với Mặt Trận là thế nào? Theo ông, để cải thiện về cơ cấu cũng như hoạt động, Mặt Trận phải theo con đường nào? Chuyện mà chúng tôi rất lấy làm tiếc là có một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương đã tung ra những tấn công chống lại Mặt Trận. Trò này không hay lắm. Ông không biết là ông đã làm hại chúng tôi, theo như tục ngữ dân gian, là đã vạch áo cho người xem lưng? Chuyện cãi cọ trong gia đình chớ nên đưa ra sân khấu để người xem.
- Tôi nghĩ rằng điều trách cứ của ông nó đi trật chỗ. Ông phải nói những điều ấy với Đảng. Trong những lần cãi cọ “trong gia đình” trong Cải Cách Ruộng Đất, ông còn nhớ lúc ấy chúng ta đã được lệnh xếp đặt cho trẻ con tố cáo cha mẹ chúng không? Những lời nguyền rủa buộc tội, hoàn toàn dựng đứng, phát ra từ cửa miệng của một đứa con đã được giáo dục chu đáo, là một sự thực không thể chối cãi. Được phong cho những danh vọng bởi nhà cầm quyền và được nhận vào hội đoàn của quý ông, mặc dù đó không phải là do tôi mong muốn, tôi không mất nhiều thời gian để hiểu ra bản chất thật của Mặt Trận, nhiệm vụ được giao phó của nó là phải thi hành thành công rực rỡ những chuyện được giao để làm vui lòng lãnh đạo, mặc dù là những chuyện chả có tí gì tác động đến quần chúng. Đó chỉ là những tấm phông được dựng lên dưới sự chỉ đạo của giám đốc xưởng phim, một khi những đoạn phim được quay thì chúng sẽ được đập bỏ và ném vào hố rác. Một bộ óc nào đó chứa đầy những logic và hình thức, đã có sáng kiến tạo dựng một bức tranh hài hoà, một cơ cấu cân bằng giả tạo với những cánh cửa sổ giả mạo đặt để dưới quyền của Quốc Hội. Quốc Hội tập hợp những người được “bầu” lên từ các khu vực cử tri, thường là giới hạn mình trong nhiệm vụ lập pháp. Thật vậy, công việc lập pháp được chia sẻ bởi Hội Đồng Bộ Trưởng chăm lo việc thực hiện những điều Luật đã được Quốc Hội biểu quyết, mà còn phải thi hành những nghị định, thông tư cũng như chuyện làm luật và quản lý đất nước. Hai tổ chức Quốc Hội và Mặt Trận khác nhau là ở chỗ Quốc Hội gồm có những đại biểu được “bầu” lên từ mọi vùng lãnh thổ trên toàn quốc, Mặt Trận gồm những người được chọn lựa trong các đơàn thể quần chúng để tiêu biểu cho mọi ngành nghề xã hội hay khuynh hướng Tôn Giáo khác nhau. Nhưng cả hai đếu gặp nhau trong cùng một thái độ vì Đảng, trong những lần đưa ra đưa ra ý kiến, đều đồng ý với Đảng trên bất cứ chuyện gì và bất cứ lúc nào, hoàn toàn không có một ý kiến khác hay ồn ào kháo chuyện. Toàn Quốc Hội biểu quyết bằng cách đưa tay lên, Mặt Trận biểu quyết bằng cách cúi đầu và buông thõng hai tay. Nhưng cả hai đếu biều hiện một sự nhất trí với lãnh đạo làm cho mặt lãnh đạo ngửa cao với nụ cười mãn nguyện. Đảng tự cho mình là người nắm sự thật và hai tổ chức kia chỉ có nhiệm vụ là phổ biến và tuyên truyền, mỗi tổ chức lo chuyện trong khu vực ảnh hưởng và trong vùng sinh hoạt của mình. Đó là hai cái nạng giúp Đảng tiến bước.
Thưa các đồng chí, tôi chưa bao giờ được mời nạp đơn ứng cử vào những lần bầu cử lập pháp và, nếu tôi có mặt trong nhóm người đáng kính của quý ngài, không phải vì bất đắc dĩ mà do ngoài ý nguyện của tôi là được rời bỏ tất cả những vinh dự chính trị và mong muốn không chuyện gì khác là được thu mình ở ẩn như một kẻ vô danh bất phùng thời, thích hợp cho những sinh hoạt trí thức của tôi!
Một khi gia nhập Mặt Trận, tôi sớm nhận ra ngay tính giả mạo của vị trí mà tôi bị gán cho cũng như sự vô dụng hoàn toàn của vai trò ấy trong Mặt Trận. Tất cả những Luật Lệ và chính sách mà Nhà Nước tự cho mình có bổn phận phải làm như thế được phổ biến mỗi ngày trên Báo Chí và được phóng thanh suốt ngày trên toàn nước, chỉ có những người vừa câm vừa điếc mới không biết chuyện ấy! Mặt Trận không cần phải họp lại để phổ biến tin đến nhân dân trong khi mọi người đã đọc hay đã nghe chúng. Nhưng nếu Mặt Trận không giữ vai trò cái loa, thì thử hỏi Mặt Trận giúp được gì cho Đảng và nhân dân?
Mặt Trận có thể giữ một vai trò tư vấn cho Đảng trong việc xây dựng Luật và đường lối chính sách. Nhờ tập trung được nhiều thành viên tiêu biểu cho nhiều khuynh hướng xã hội, nó có thể đóng góp những suy nghĩ thiết thực và nghiêm chỉnh về những đề nghị hay dự thảo nhận được. Bất hạnh thay, không biết là vì những chỉ thị nhận được hay vì do tự mình sáng kiến, với những lý do hiểu được trong bất cứ trường hợp nào, và cũng không nên săm soi làm chi, Mặt Trận luôn luôn nhất trí với những lần báo cáo hay những văn bản chính thức được gửi đến để giải thích. Sau một vài lần dự những phiên họp như thế, tôi không khỏi nhớ lại thuở nhỏ khi tôi còn chạy chơi trên đường phố, phố Quảng Châu nằm giữa phố Hàng Tơ và phố Hàng Đường, để nhìn những con nộm bẳng sứ với những cái đầu luôn cúi xuống với đôi tay luôn buông thỏng như đang phê chuẩn chuyện gì. Ý nghĩ gì đã nẩy mầm trong trí của người nghệ sĩ thủ công kia khi hình dung ra toàn những con nộm với chiếc bụng bự với cũng chỉ một cử động duy nhất giống nhau? Nó thể hiện chăng một sự coi thường khinh rẽ, một sự cao hứng để diễu cợt và công kích những ông quan triều đình mà sinh hoạt chỉ là một thái độ duy nhất của vâng lời và thuần phục? Khi mà con người đã trở thành một chiếc máy đều nhịp, một con rô bô, máy móc như một cơ động của giây chuyền sản xuất, người ta bảo đời sống ấy đã khô kiệt nguồn sống, một động tác máy móc lập lại đến vô tận chỉ là đấu hiệu báo trước của sự chết. Bergson đã dạy chúng ta rằng mọi vận động, với nhiều biểu hiện đa dạng là một tiêu chuẩn của sự sống, cái tự động hoá tê liệt trong một tư thế là đặc tính của vật chất. Một mặt, sự vận động, sự thay đổi, sự đa dạng là những dấu hiệu của sự sống. Một mặt khác, sự bất động, quán tính, bất biến báo hiệu cho bước tiến của vật chất. Xung đột giữa sự sống và sự chết, giữa linh hồn và vật thể, là một xung đột giữa những gì đang chuyển động, thay đổi, đa dạng và những gì luôn đứng yên một chỗ, luôn cùng một trạng thái, ù lì và bất biến. Để kềm chế, ngăn chận cái lấn lướt của sự vật bất động, duy trì một sự sống nở hoa và có tinh thần trong mọi sinh hoạt, nụ cười sẽ là một phương thuốc bổ thần hiệu. Tôi không chịu trách nhiệm về việc cười ngạo người khác không đúng chỗ, nhưng tôi tự cười tôi rất nhiều khi tôi phải cúi đầu và buông thỏng hai tay.
Một cuộc xét nghiệm phân tích về cái cấu trúc của Nhà Nước, dù là một phân tích ban đầu sơ khởi, cũng làm cho tôi có suy nghĩ rằng lãnh đạo có hai thái độ để chọn:
Hoặc là chủ nghĩa hình thức, tự làm mình thoả mãn với những phương cách hời hợt về con người và sự vật, tìm lấy sự đắc ý với với cái bề ngoài đầy xu nịnh, chấp nhận sự nhất trí của những kẻ chỉ biết cúi đầu vâng dạ, chỉ vui thú được nghe một tiếng chuông, một bản giao hưởng của tung hô, mùi lư hương thơm phức, mắt nhắm như đang được phúc lớn! Trong những điều kiện đó, Đảng cứ tiếp tục bước đi, để mọi sự đứng yên ở nguyên trạng như cũ, dù việc ấy có ích hay gây tổn hại cho nhân dân và vì thế sẽ gây tổn hại cho Đảng là người đã tuyên bố độc quyền chịu trách nhiệm.
Hoặc là lãnh đạo quan tâm lo lắng đến việc thẩm định lòng người và sự tham gia đóng góp của nhân dân, đi kiếm những sự thật đang dấu mình sau những nụ cười, những chào hỏi săn đón, những lời nói ngoa và những tung hô nhất trí. Nhưng làm sao có thể tìm ra những gì mà người đời cảm thấy và nghĩ suy? Thật ra cũng đơn giản thôi. Họ phải được tự do phát biểu, có khả năng gạt bỏ những gì dấu diếm cho đến nay trong tận sâu thẳm của suy tư. Một khi, nhiều quan điểm khác nhau được phát biểu, lãnh đạo sẽ có khả năng điều chỉnh những cái nhìn sai lầm và chưa đầy đủ của mình, để có thể lấy những quyết định chính xác thích đáng, hợp thời và mang lại lợi ích.
Tôi xin các đồng chí nhớ rằng tôi không biện minh cho dân chủ, khi mà dân Âu Châu phải mất hai trăm năm để đạt được nó, như theo một vài người có thẩm quyền đã nêu ý. Tôi cũng không yêu cầu là đảng Cộng Sản phải rút ra khỏi đời sống chính trị, mặc dù, than ôi, đảng đã mất nhiều uy tín và niềm tin từ khi sự mất đạo đức và tham nhũng đã dính vô nhiều đảng viên đang nắm những vị trí khá cao. Tôi chỉ mong muốn là nhân dân có thể nói lên tiếng nói của mình về những suy nghĩ về những người đang trách nhiệm, về tất cả những gì liên hệ đến số phận của họ trong hiện tại cũng như tương lai. Chỉ đến lúc ấy thì mới có thể có được sự hợp tác chân thành giữa Đảng và nhân dân tạo nên những lợi ích cho Đảng và nhân dân! Không thể dành riêng cho chủ nghĩa tư bản được độc quyền áp dụng những quyền tự nhiên của con người trong xã hội. Nhưng càng hơn thế, chúng ta không nên tự giết mình về chữ nghĩa, bằng cách đi đến một cuộc cãi nhau về chữ nghĩa một cách đáng buồn cười. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là những từ ngữ tự nó chẳng có ý nghĩa mà là những từ ngữ tuỳ thuộc vào mùi vị và sự chọn lựa của những người dùng nó. Trên cửa miệng của một người “xã hội chủ nghĩa”, với thói quen không tránh được nhưng không ít quái dị và trẻ con, chủ nghĩa tư bản là luôn dính tới bất cứ chuyện kinh khủng và bất cứ ai đã bị gán cho cái chứng nhận bỉ ổi đó, cuộc đời của họ xem như chấm dứt ở đây. Bất cứ khi nào một chính sách ăn thịt đồng loại được áp dụng, sự xung đột không còn nằm ở chỗ tranh luận văn phạm, nói như Montaigne, lúc ấy sẽ có máu đổ và sự chết.
Thói quen luôn cúi đầu để tỏ vẻ sự tán thành, dùng hai bàn tay luôn để vỗ tay, mồm luôn mở chỉ để nói câu đồng ý, tất cả chỉ cho thấy sự tê liệt của lý trí, cái chết tiệt của trí thông minh, chặt bỏ những phản xạ của phê bình. Trong đời sống của chúng ta hiện nay, có nhiều chữ đưa chúng ta vào trạng thái hôn mê, thí dụ như: phản động, chống phản động, phê bình. Đồng chí đã dùng từ “phê bình” để gán ghép cho những đề nghị vô hại mà tôi đã trình bày cho lãnh đạo của Mặt Trận. Đồng chí biết quá rõ chuyện gì sẽ xảy ra: đó là bản án tử hình mà tôi phải đối diện.
- Thôi, đừng thổi phồng chuyện ở đây. Chúng tôi đơn giản chỉ muốn nói là đồng chí cứ luôn phê bình chỉ trích Mặt Trận. Thái độ đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Đã khá lâu, chúng ta đã quen sống tôn trọng Đảng, nghe theo lệnh của Đảng vì những thành quả quân sự và chính trị của họ làm chúng ta tin tưởng cũng như toàn thể nhân dân đang tin tưởng nơi Đảng. Chúng ta được đào tạo không phải để nhìn bằng cặp mắt của mình mà bằng cặp mắt của Đảng. Được trang bị bởi chủ nghĩa Marx Lenin, với kinh nghiệm, với sự giúp đỡ của các nước anh em, Đảng chứng minh rằng Đảng có quyền và xứng đáng với niềm tin mà chúng ta giao phó. Sự khôn ngoan của chúng ta là tự rập khuôn những suy xét của mình theo mẫu mực của Đảng và cho tới nay, chúng ta có quyền hãnh diện đã làm như thế. Vì thế, chúng tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi không hiểu được đồng chí.
- Về phía tôi, trái lại, tôi hiểu rõ là những nhận định của tôi đã gây sốc cho đồng chí. Vì thế tôi cho rằng số phận đang chờ đợi tôi không phải là cái mà tôi đang mơ ước. Mặc cho dù thế nào, tôi có hai con mắt để nhìn, hai cái tai để nghe. Vì những gì tôi đã thấy và đã nghe làm tôi hãi hùng! Tôi thấy cái tương lai mà chúng ta đang dần đến, và những cái giật mình của lương tâm làm tôi mất ngủ. Để tìm được sự thanh thản trong tâm hồn, tôi đã đi tìm trong những duyên cớ đã gây hại vô cùng cho chúng ta, cái nào là cái cần kíp nhất và đâu là phương thuốc chữa trị hửu hiệu nhất. Tôi muốn lập lại một lần nữa, để mà không ai có thể hiểu lầm tôi và những quan điểm của tôi không bị diễn dịch một cách sai lầm với mục đích để kết án tôi dễ dàng. Tôi chỉ xin một điều là các lãnh đạo, những người theo chủ nghĩa Marx Lenin, cho phép mọi người được quyền mở mồm và nói lên những điều mà họ nghĩ. Các lãnh đạo phải nhớ rằng có nhiều người không dám hé răng, rằng cái hình thức và cái dáng vẻ bề ngoài mang cho họ một niềm hãnh diện, chỉ là một cái mặt nạ để che giấu những ý nghĩ và cảm xúc của họ mà thôi. Lãnh đạo chẳng những phải gạt bỏ những gì không chấp nhận được mà còn phải suy nghĩ đến những chuyện khác còn lại, ngay cả những chuyện cỏn con nhưng nó tố cáo ngược lại những dối trá của những kẻ nịnh bợ hay kẻ vô tâm, và những dối trá làm hại những quan điểm của Đảng.
Trong cuộc đấu tranh nhằm tìm ra sự thật, các đồng chí có một vai trò phải làm. Chính các đồng chí phải tự mình tỉnh cơn mê muội thờ ơ, thoát ra khỏi thái độ im lặng của mình, một khi các đồng chí tự mình lắng nghe tiếng nói của lương tâm mà chúng ta đang cố gạt bỏ, ném một sợ giây cứu hộ cho lương tâm đang bị chết chìm. Các đồng chí lúc ấy sẽ thấy đây là vì lợi ích của chính các đồng chí, của Đảng và của nhân dân, mà tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ tái lập quyền tự do tư tưởng. Các đồng chí có trách nhiệm trước nhân dân và Lịch Sử, cũng như Đảng có trách nhiệm của Đảng, như não bộ mỗi người có những trách nhiệm của nó. Tôi xin được phép nhắc lại điều cốt yếu đó với tất cả các đồng chí, với bản thân của từng đồng chí, với Đảng, và với những người trí thức khác. Chắc chắn là tôi sẽ chịu lãnh những hậu quả không tránh khỏi và đau đớn, những hậu quả sẽ xảy ra và sẽ trừng phạt tôi vì đã mong muốn gìn giữ danh dự và tư cách cùa mình.

           CHƯƠNG 5: TRẬN ĐẤU BÒ THỨ 2 Ở ĐẠI HỌC 

Trên đường trở về nhà, trong sự cô đơn im vắng, tôi cố gắng nhớ lại những gì đã xảy trong những giờ qua để rút ra một bài học. Đây là lần đầu tiên xảy ra một cuộc xung đột giữa tôi và lãnh đạo. Đây cũng là lần đầu tiên chủ nghĩa cộng sản lập một phiên toà để xử một trí thức. Cho đến bây giờ, tôi luôn giữ yên lặng, và những cơn thịnh nộ chống lại chuyện này, dù rất hiển nhiên, vẫn được tôi kềm giữ không để chúng thoát ra khỏi riêng tôi. Ngay cả vào thời đỉnh cao của Cải Cách Ruộng Đất, khi những chuyện dã man đã làm tôi đau đớn khi nhìn thấy, bóp thắt tim tôi, tôi đã có sự khôn ngoan và nghị lực để giữ yên tôi lại, dù biết rằng vụ biến động này đang xảy ra cuồng điên trên toàn nước, và tôi cũng hiểu rằng tiếng nói riêng rẽ của một trí thức nhỏ nhoi không thể nào đến được giới lãnh đạo đang dấu mình kín bưng trong một thế giới bí ẩn không thể nào xuyên qua được! Như một nhân chứng nhiệt tình nhưng yên lặng, tôi đã chứng kiến những lỗi lầm tai hại và những sai lầm của nhà cầm quyền, tôi hiểu rẳng tai của họ chỉ để sẵn sàng nghe những lời a dua nịnh bợ chứ không sẵn sàng nghe những lời bình luận chói tai, nhất là những lời phê bình liên tục bị gán ghép mấy từ “phản động”. Được trang bị cho mình sự cẩn thận và sáng suốt, tôi đã vượt qua những vùng biển đầy san hô, và cho đến nay đã tránh được một vụ chìm tàu. Nếu, trong suốt quãng nữa đời người đầu, tôi đã nổ lực vượt qua những con đồi của nền văn hoá Địa Trung Hải, nữa đời còn lại tôi phải cố gắng đứng thẳng trên đôi chân dưới sức ép của chủ nghĩa Cộng Sản. Đây là cuộc phiêu lưu lớn nhất đời tôi, những suy nghĩ, cả trong hành động lẫn cảm xúc, tôi đã bị điều kiện hoá trong những cơn lốc của những vùng gió lốc đầy may rủi. Tôi đã trở nên bén nhạy trong việc thủ thế giữ mình, nhìn trước nhìn sau để tự bảo vệ mình tránh những bước sụp lỗ chân trâu, tránh những trò gian trá hay những cạm bẩy giăng dưới chân. Tôi biết, trong những trí thức, tôi là người đang nằm trong tầm ngắm và đang bị công an theo dõi. Tôi biết có vài “con chó săn” đang ở những căn phòng cạnh nhà tôi để có thể để mắt xem ai là những người đến thăm hay xem chừng thư tín của tôi, nghe ngóng những câu chuyện hay tìm hiểu đài phát thanh nào mà tôi hay thich mở nghe.
Nhưng lần này, tôi bị dính vào một hoàn cảnh mà tôi đã trở thành một nạn nhân của một sự lừa dối mà cộng sản đã tung ra phong trào Trăm Hoa Đua Nở, không phải để giải phóng họ ra khỏi những xiềng xích mà để lật mặt nạ của những kẻ ngây thơ tin rằng đã đến lúc có tự do ngôn luận đáp ứng những ước vọng dân chủ của mình. Không thể nào có chuyện một đảng cộng sản độc quyền chính trị lại có thể tự mình thích nghi được với những tự do dân chủ. Dù với bất cứ thể loại dân chủ nào, kẻ phạm tội đếu phải chịu những trừng phạt tệ hại nhất của kẻ cầm quyền. Chính trong cái ý nghĩa đó mà những “đồng chí” của tôi trong Mặt Trận hiểu đâu là tội của tôi. Hoặc quần chúng có thể nổi dậy tự đưa mình lên đỉnh cao của dân chủ hay họ phải mất hàng chục năm thậm chí hàng thế kỷ để thấu đạt được ý nghĩa và những nguyên tắc của dân chủ, chả gì là quan trọng. Tôi chỉ đơn giản đòi hỏi quyền tự do tư tưởng và chỉ với thế tôi đã trở thành kẻ phản bội, kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo hiểu vấn đề tế nhị của tôi: Nếu người dân bình thường có thể nói ra những điều họ nghĩ gì về những chính sách và quyết định của Đảng, thì không thể nào có cái gọi là nhất trí của họ được. Và, chắc chắn ở trong thời kỳ ban đầu của dân chủ, chỉ trích sẽ nhiều hơn là tán dương. Lúc ấy, chuyện gì sẽ xảy ra cho sự độc quyền chính trị của Đảng, sự mất niềm tin sẽ lớn tới đâu vì những chuyện điên rồ của một số lãnh đạo?
Khi tuân phục chỉ thị của lãnh đạo, các “đồng chí” của tôi bắn được hai con chim với một viên đạn: họ chẳng những đã giày xéo lên tôi, mà còn tự học cho mình cách kết án tất cả những ai có những định nghĩa về dân chủ chệch hướng với họ.
Tôi thật lòng rất tiếc cho các đồng chí trong Mặt Trận.
Tất cả họ là những người đàng hoàng chưa bao giờ xin gia nhập vào một hội đoàn không đàng hoàng. Họ đã được đưa vào với lời mời gọi của lãnh đạo mà chính sách đoàn kết quốc gia là qui tụ mọi công dân trong Độc Lập và Tự Do và cũng để hưởng mọi phiếu bầu của họ. Khuynh hướng chính trị, xã hội, tình cảm, tôn giáo của họ có thể khác nhau nhưng tất cả đếu chung một ước vọng và thông cảm. Một tập hợp người như thế, với những bản chất khác nhau, đa dạng về quan điểm của các thành viên, những người được chỉ định bởi Nhà Nước nhưng không đại diện cho ai, chắc chắn sẽ thiếu nội lực, thiếu phần dính kết và chỉ có thể giữ vai trò phụ mà thôi. Chủ nghĩa hình thức mà người cộng sản không thể thiếu buộc Nhà Nước nằm yên trong một cấu trúc đồng bộ với một cái vẻ bên ngoài dễ thương, nhưng hoàn toàn trống rỗng trong nội dung và thiếu vắng tất cả những kỷ năng, một tổ chức mà nhà lãnh đạo không đòi hỏi gì hơn là vổ tay tung hô những quyết định của mình.
Được triệu tập đến để kết án một trong những đồng nghiệp của mình, các “đồng chí” trong Mặt Trận cảm thấy họ bị sập trong một hoàn cảnh trái khuấy. Trận đầu bò mà họ bị buộc phải chứng kiến không phải là một trận đấu mang lại thích thú. Tôi không biết nỗi đắng cay nào đang làm gương mặt của họ giá lạnh, làm ánh mắt họ không còn nét sáng. Tôi đã có nhiều dịp tán gẫu với họ, và họ biết tôi là ai, họ đã từng tâm sự với tôi, đặc biệt là những vị trong Nhà Thờ Công Giáo và các Chùa Phật Giáo rằng chủ nghĩa duy tâm không thể nào thích hợp với chủ nghĩa duy vật vô thần của cộng sản. Những lúc còn kháng chiến chống Thực Dân, ở Phát Diệm, xung đột giữa người Công Giáo và những người cộng sản đã đưa đến máu của người đứng đầu trong huyện phải đổ. Sau đó, Liên Tôn Diệt Cộng là một phiên toà gây xúc động mạnh ở Thanh Hoá, chỉ một thời gian ngắn trước trận Điện Biên Phủ.
Trong những thành viên của Mặt Trận và của Đảng, ai cũng biết phía đối phương muốn gì. Vì thế, những thành viên Tôn Giáo của Mặt Trận như trên giàn lửa: quần chúng không thể hiểu họ, xem họ như những kẻ phản đạo, bội giáo vì họ đã đứng chung với cộng sản. Ngược lại, những người cộng sản thay vì tỏ ra tin họ, thì lại nghi ngờ họ đang có những hành vi thù địch tiềm tàng ẩn dấu. Trong những buổi họp của Mặt Trận ở trụ sở Trung Ương trên đường Tràng Thi, không có gì làm tôi thích thú hơn là được quan sát những điệu bộ đang xảy ra trước mắt và những nụ cười giả tạo nơi này nơi kia. Và họ đang ở đây, được gọi tới để giáng một cú chết người lên cái tên trí thức ác ôn mà số phận cũng y chang như họ, giống họ, không được ngửi mùi thánh thần của Đảng vì những khát vọng dân chủ của nó, xử và kết án nó. Họ càng hiểu là họ đang xử và kết án chính mình. Sự vô nhân đạo của Đảng xảy ra như Pontius Pilatus [*]: sự rửa tay chối tội về chuyện tôi bị đồng nghiệp tôi xử và kết án, và màn hài kịch đã tái diễn ở Đại Học và ở Đảng Xã Hội, trong trận đấu bò lần hai và lần ba. Và với một hòn đá, Đảng đã ném trúng hai con chim: kẻ phạm tội bị trừng phạt, và những kẻ đưa ra trừng phạt phải rút bài học cho chính sự an nguy của mình. Không bỏ một cơ hội nào để giáo dục quần chúng.
Tất cả những suy nghĩ đó đến với tôi trong đêm đầu tiên sau trận đấu thứ nhất ở Mặt Trận Tổ Quốc. Ngày kế tiếp, tôi lại phải đến có mặt ở Đại Học cho trận đấu thứ hai. Con bò tót không được phép ngưng để thở. Những kẻ đấu bò đủ mọi vai trò thay phiên nhau chọc, khủng bố con vật trong lúc chờ hạ thủ cú giết cuối cùng. Mặc dù thế, tôi vẫn không cảm thấy mất can đảm hay tuyệt vọng, hay kể cả mệt mỏi. Tôi phải qua những phiên Toà mà không ai nghĩ là có cho đến ngày hôm nay. Dưới cú đánh, tôi có thể đo lại sức chịu đựng của mình, và sự tò mò đã giúp tôi vượt qua những ức chế! Bất chấp các “đồng sự” đang lay động tấm vải đỏ (đấu bò), tôi đang ở tâm trạng một kẻ tấn công.
Với tâm trạng đó tôi đã đến Đại Học.
Khi nhìn thấy vô số xe đạp đang để kín sân trường, tôi chắc số lượng người đến rất đông. Khỏi cần phải tự hỏi. Khác với lần thứ nhất, trận đấu bò lần hai được mở cho công chúng: bất cứ ai cũng có thể đến xem. Hàng ngàn sinh viên, ban giảng huấn của nhiều Phân Khoa, kể cả phân khoa Y và Dược, các phóng viên được hấp dẩn đến để chứng kiến cái chết của một trí thức khá nổi tiếng ở Hà Nội, thêm một đám người tò mò và nông dân đang tập trung ở hành lang, dồn cứng các phòng đến nỗi như không còn không khí để thở và chuyện di chuyển đi lại xem như là không thể được! Lần này, các quan toà không ngồi sau các bàn mà thay phiên nhau đứng trên cái bục giảng, chỗ mà trong thời trướ
Tôi tự hỏi cái động cơ nào mà khiến cho họ tổ chức một hoạt cảnh hoành tráng như thế? Khi mà những yêu cầu cuối cùng xảy ra sau hậu trường được nói ra, bởi những người điều khiển cho những kẻ lo buộc tội, tôi tin rằng tôi đã thấy ra lý do tại sao có một sự công khai ồn ào như thế. Lý do là cho hai mặt: một mặt cho cá nhân người bị kết án, một mặt là cho quyền lợi của những người xử án và những người đến nghe.
Tôi nhớ, trong mười năm bí mật kháng chiến, mỗi tháng tôi đều đi về các tỉnh để bào chữa miễn phí cho những người bị kết án (nhưng không có tiền thuê luật sư) trong những phiên toà có khi quan trọng và kéo dài suốt đêm. Trong ngày, những cái loa, loan báo khai mạc phiên toà vang xa trong vòng 10 đến 20 km. Những kẻ tò mò phải đạp xe hàng chục cây số để đến xem màn trình diễn hiếm hoi, nhiều khi là duy nhất ở nơi họ ở. Những cái chuông xe đạp thật ầm ĩ đinh tai nhức óc. Những kẻ qua đường, đàn bà, trẻ con, thanh niên nam nữ đi thành từng hàng băng qua những cánh đồng, mỗi nhóm mang theo một cái đèn nhỏ. Đấy là một ngày hội phải đi dự.
Ở Hà Nội, báo chí, đài phát thanh, những cái loa được đẩy hết công suất để chọc vào tính tò mò của mọi người. Tên của kẻ bị kết án cũng đóng góp khá nhiều vào chuyên ấy. Vì thế, tôi hiểu rằng lần đấu tổ chức ở Mặt Trận đã có ý định cách nào đó muốn giữ sự nhạy cảm của tôi bằng cách làm trong yên lặng và kín đáo hợp với Mặt Trận. Lần này, với mục đích làm như một vụ tai tiếng nổ lớn ngay từ lúc mở màn để kéo thanh danh tôi xuống bùn, thuyết phục tôi tính nghiêm trọng của cái mà tôi đã phạm, và để biện minh trước cho cái trừng phạt mà họ sẽ áp dụng cho tôi.
Cùng một lúc, họ cũng có ý định dằn mặt quần chúng, “giáo dục” những người này trong hướng phải tuân phục vô điều kiện những chỉ thị và những quyết định của Đảng, và chấp nhận sự chính thống của cộng sản. Bất cứ vi phạm nào đối với nguyên tắc linh thiêng này đều bị trừng phạt hết sức nặng nề, không kể bất cứ những đóng góp xuất sắc nào của kẻ vi phạm cho Tổ Quốc và cho Cách Mạng.
Dưới chân cái bục giảng, nơi mà tôi đã qua những giờ phút đẹp nhất trong đời, nay cũng nơi ấy tôi lại phải chịu những khoảnh khắc tệ hại nhất trong cuộc đời của tôi. Thật vậy, tôi hiểu ra là chuyện được xếp đặt không chỉ để trừng phạt tôi, à quên, xin lỗi là để “giáo dục” tôi, nhưng tất cả là để làm bẽ mặt và hạ nhục tôi bằng hai cách: buộc tôi đứng với tư cách của một kẻ tội phạm, phía dưới bục giảng nơi mà tôi thường đứng đó trong những ngày huy hoàng và buộc tôi phải nghe những lời thoá mạ thậm tệ và những công kích kịch liệt, không phải từ những đồng nghiệp của tôi như trong trường hợp xử tôi ở Mặt Trận, mà từ những khuôn mặt trẻ mới không biết từ đâu đến và có vẻ là sinh viên hay đã từng là trong đám sinh viên của tôi. Tôi không bận tâm lắng nghe những lời điên rồ láo khoét từ những kẻ đang chỉ trích tôi, tôi hoàn toàn quên đi cái ngoại cảnh nơi mà họ đang tiến hành vỡ kịch và đang cố cắm một những mũi tên xuyên qua người tôi, và tôi tự để suy nghĩ của mình trở về thời Cải Cách Ruộng Đất, những ngày mà những địa chủ bị đấu tố, chịu những sỉ nhục và bị xem như là những kẻ thù của nhân dân và cách mạng, y chang như tôi hiện bây giờ.
Nhưng tôi được hưởng một sự đãi ngộ mà tôi rất cám ơn những kẻ đang hành hạ tôi: họ chỉ tra tấn tôi bằng ngôn từ của đạo đức và tránh cho tôi những đớn đau về thể xác. Tôi chưa bị nhốt kín trong tù, tôi chưa phải mặc trên người những bộ đồ lấm lem bùn đất vì phải ngủ trên sàn đất cứng, tôi chưa phải chịu ngữi những mùi gớm ghiếc của những con vật bị nhốt chung chuồng, tôi chưa bị kéo lê thân mình với vòng xích trên cổ và bị cột ở hai cổ chân, dưới những tiếng la ó và khạc nhổ của đám đông đang hận thù chất ngất. Không, tôi được sống cuộc đời bình thường với gia đình.
Nhưng những tra tấn nhục nhã mà tôi phải gánh chịu không chút nào ít hơn những tra tấn nhục nhã mà những địa chủ bị đoạ đầy trước khi bị giết chết.
Chỉ mới hôm qua, trước ngày những người cộng sản tràn vào các nơi, truyền thống của cha ông ta là dạy học trò phải biết kính trọng Thầy mình, thương yêu và kính trọng Thầy còn hơn cả cha ruột. Cái vinh dự được giao phó là chăm lo đào tạo con người, sao cho được đơm hoa kết trái, đã là khuôn thước do tâm hồn và cách sống của các Thầy Cô. Họ có trách nhiệm với chính mình, với các học trò và cả xã hội. Điều đó đã nuôi dưỡng tâm tánh thuần khiết của Thầy Cô. Những sách dạy của tổ tiên về đạo đức con người được cả thế giới công nhận nay bị ném vào giàn lửa. Đạo đức không còn được dạy trong trường, và ở thời buổi này, người ta dạy trẻ nhỏ nhục mạ Thầy Cô. Chủ nghĩa Marx-Lenin đã thay thế đạo đức trong việc dạy dỗ con người, sự còi cọc chỉ cho ra những loài hoa độc: sự vô đạo đức sản sinh ra thói cay độc yếm thế, tội phạm tăng trưởng cả bề rộng lẫn bề sâu, cả xã hội từ này phát ra những mùi thối tha mà từ trước đần nay chưa hề có. Cộng Sản kịch liệt chối bỏ là không phải nhà nước muốn như vậy, và cũng như mọi người, nhà nước cũng phàn nàn về chuyện xảy ra như thế, nhưng cộng sản không thể chối bỏ trách nhiệm về việc đạo đức bị xuống cấp vì những đường lối chính trị và một cơ cấu xã hội do họ đã đưa ra.
Tôi không nhớ, và cũng chẳng muốn nhớ, tên và nét mặt của những thằng nhãi ranh, kẻ nhận lệnh và được điều khiển bởi kẻ cầm quyền, ném những lời tấn công xúc phạm đến danh dự của tôi, như một người đi đường phải dừng chân cúi xuống để đuổi một con chó đang sủa dưới chân mình. Dù sao, những tên cục súc kia đáng thương hơn là đáng chê trách, chúng nó muốn được hưởng những ban bố của các ông lớn và để có một con đường tương lai trong cuộc sống. Tôi sẵn lòng tha thứ cho chúng, nói một cách chi tiết hơn, với những tư cách như thế mà đổ đống lên tôi thì cũng chẳng làm cho hại cho uy tín mà tôi được các bạn đồng nghiệp và quần chúng dành cho. Tôi đang chờ cái ngày mà, - cũng sẽ tới thôi -, Đảng phải nhận là mình sai lầm về những gì mà họ làm trong Cải Cách Ruộng Đất. Tôi tự an ủi và cho rằng nhân dân sẽ không xử kẻ đã tội phạm thượng đến Đảng cùng một cách như những kẻ cuồng si cộng sản đang mơ tưởng một tương lai huy hoàng, cuồng nhiệt lẽo lự trên cửa miệng và dung bản chải để đánh bóng mình. Tôi cảm thấy hạnh phúc hơn những địa chủ vì đã không bị chính những con của mình đổ lên cha những lời kết án theo lệnh đến từ trên rất cao.
Tôi khinh thường quá sức những kẻ gièm pha đến nỗi không trả lời những tấn công của họ. Tôi chỉ tiến hành trả lời hai người: một là một sinh viên của tôi, còn người kia là một giáo viên tiểu học được nhận làm giảng viên ở Đại Học, và những vấn đề họ nêu lên cũng đáng được xem xét.
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
______________________
[*] Pontius Pilatus: kẻ giết Chúa Giê Su.

 CHƯƠNG 6: HAI LOẠI NGƯỜI

Tôi và những đồng nghiệp hay gọi anh sinh viên này là một con chó Nhật vì anh ta có một làn da sáng, mũi tẹt và có mái tóc hơi dợn sóng. Chúng tôi không mất nhiều thì giờ để tìm thấy hắn giữa đám đông. Bất cứ những gì chúng tôi nói trong lúc thuyết trình, bên cạnh những bài học, những câu chuyện trao đổi ở hành lang trong lúc chờ giờ trở vào bục giảng, tất cả những chuyện đó đều được ghi chú cẩn thận và được báo cáo đầy đủ cho giới chức trách nhiệm. Chúng tôi đã biết chuyện kẻ làm do thám gián điệp đã gây ô uế cho giới sinh viên. Nhưng con chó Nhật này là kẻ nguy hiểm nhất vì nó làm chuyện này hết dạ hết lòng, cần mẫn chăm chỉ và, nếu cần, hắn có thể bịa ra những câu chuyện để làm tăng thêm việc hiểu lầm giữa chúng tôi và uỷ viên chính trị chịu trách nhiệm ở Đại Học. Vì thế tôi lắng nghe hắn nói.

- Thưa giáo sư, ông có biết rằng lập trường chính trị nó quan trọng như thế nào với quốc gia, nhất là trên lãnh vực giáo dục? Tôi không muốn sỉ nhục giáo sư khi tin rằng giáo sư không biết gì về chuyện này. Giáo sư là một trí thức nặng cân đã cống hiến tất cả tài sản của mình cho Đảng trước khi tham gia bí mật kháng chiến. Giáo sư đã được bổ nhiệm vào những công tác quan trọng. Vì lẽ đó, giáo sư phải biết về tầm quan trọng mà Đảng đã đặt lên vần đề giáo dục. Nhiệm vụ của giáo sư là đào tạo người cộng sản trẻ cho ngày mai để họ nỗ lực cống hiến những đóng góp trong việc xây dựng đất nước. Chủ Tịch Hồ Chí Minh của chúng ta công nhận là có những khó khăn trong công tác giáo dục, “Phải mất mười năm để trồng cây, nhưng phải cần một trăm năm để trồng người”. Thật vậy, để đào tạo ra những người mà Đảng mong muốn, cần phải tự mình chứng minh là có lập trường chính trị tốt.
- Anh bạn trẻ của tôi ơi, tôi không biết anh đã lấy tin từ kẻ nào về quá khứ của tôi. Có thể là anh đang bỏ tôi vào cối xay với những điều quan trọng để tâng bốc tôi. Cho phép tôi được điều chỉnh vài chỗ sai. Thứ nhất tôi không phải là người trí thức “nặng cân” khi mà tôi chỉ cao có một mét sáu. Như thế tôi chỉ là kẻ bé tẹo bên cạnh những ông “to” trong nước. Nhưng, kẻ thấp lùn như tôi đã vỗ tay đón mừng Cách Mạng Tháng Tám cùng với toàn dân trong nước, và trong những giờ phút đầu tiên, trước những lời kêu gọi đầu tiên, tôi đã trọn mình dâng hiến cho dân tộc. Nếu tôi đã chiêm ngưỡng và quý phục những người đi cách mạng, nếu tôi đã biết ơn những hy sinh mà họ đã chịu, những thành công mà họ đã thắng lợi trong quá trình đấu tranh giành Tự Do cho Dân Tộc và Độc Lập cho Việt Nam, tôi phải thú thật với anh là tôi không hề biết cái Đảng mà tôi không hề xin gia nhập, không hề biết những lễ nghi và những bí mật mà tôi chưa bao giờ được qua buổi vỡ lòng và những chuyện ấy làm cho lưỡi tôi trở nên khô cứng mỗi lần tôi muốn hô “vì Đảng”. Tất cả những gì tôi đã làm, cống hiến toàn bộ tài sản và công việc, là tôi làm cho Dân Tộc.
Chẳng có gì ở đó khác hơn là cái logic. Tôi muốn mời anh hãy suy nghĩ một chút về nguồn gốc của quyền lực. Quyền lực luôn được chinh phục hoặc bằng phương pháp hoà bình hoặc bằng vũ lực. Nhưng dù bằng bất cứ cách nào, quyền lực luôn có một nhu cầu cấp bách là phải tự mình chứng minh với những kẻ đang nắm nó hay những kẻ đang chịu nó nắm. Hơn nữa, việc nắm quyền chỉ có hai con đường để theo: một là tự cho mình là kẻ có Thiên Mệnh, hai là được nhân dân giao phó. Hoặc theo kiểu thần quyền hoặc theo cách dân chủ. Từ khi mà quyền lực được chiếm lấy bằng bạo lực, nó không thể cho rằng là do Thiên Mệnh hay là do dân. Vì thế, nó buộc phải tìm cách khác để tự bào chữa rằng nó không cần hay không cảm thấy cần thiết phải chứng minh, nói cho cùng nó cũng chẳng có gì dựa để biện minh, nó chỉ tự chống chế mà thôi. Nhưng giới quyền lực tự bảo vệ với ai? với nhân dân và với một lực lượng chính trị khác. Để chống lại sư tranh đua của những tổ chức chính trị khác, giới quyền lực đã tuyên bố độc quyền chính trị dưới sự chỉ đạo của mình. Để chống lại nhân dân nó hình thành một bộ máy Nhà Nước với với những cơ cấu, chức năng, với nhiệm vụ là thi hành những mệnh lệnh và xây dựng nên những tổ chức nghề nghiệp và xã hội để gồm nhập cả dân chúng vào một hệ thống tổ chức, theo từng sinh hoạt, tuổi tác, tính phái, niềm tin tôn giáo, thành một cộng đồng dân tộc mà cả tinh thần, con tim và hành động đều bị giới cầm quyền đưa vào khuôn để kiểm soát. Nhưng, khi giới cầm quyền cần làm những quyết định, xác định những quan điểm, đưa ra những biện pháp nhằm bảo đảm cho ưu quyền và lợi ích của họ là những điều cần được dấu kín trước sự tò mò của quần chúng, họ phải tự trốn kín trong một sự bí mật không thể xâm nhập, trùm kín bưng sau những bức màn thần bí không thể xuyên qua được. Cơ cấu hình Kim Tự Tháp của quyền lực đã chế ngự khắp nơi, từ trong cơ quan Nhà Nước và những chức năng của nó, đến mọi tổ chức xã hội với những chân rết của nó. Trên toàn nước, từ làng xã và quận huyện cho đến các Bộ và cơ quan Trung Ương, những chức vụ chủ chốt đếu do Đảng viên đảm nhận việc điều hành, giám sát và kiểm tra, và như thế, thông qua Vụ Tổ Chức để bổ nhiệm tất cả cán bộ công nhân viên nhà nước, và thông qua bộ Nội Vụ và Công An để giữ yên tĩnh cho lãnh đạo có được một giấc ngủ ngon lành.
- Thưa giáo sư, hình như ông thiếu cơ sở chính trị khi mà ông chỉ quan tâm đến cái vẻ bề ngoài hơn là những điều thực tế, và ông đang đào sâu hố chia cách không hiện hữu giữa Đảng và nhân dân. Đảng của chúng tôi không hề tuyên phán là có nguồn gốc Thiên Định: chỉ nội cái ý đó là đã thấy nực cười, lạc hậu và lỗi thời. Một cách khách quan, Đảng không được bầu lên để nắm chính quyền, để nói là bởi nhân dân, và buộc phải giữ cơ chế và hoạt động trong bí mật. Nhưng tôi xin trở lại thời mà chủ thuyết và những đảng cộng sản nắm chính quyền. Hệ tư tưởng của họ trực diện đối đầu với chính quyền đương nhiệm vì họ nhắm tiêu diệt diệt chủ nghĩa tư bản và tất cả những đảng phái chính trị sinh ra trong chế độ đó. Từ đó, mọi chính thể tư bản đếu tìm cách tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, cho nên người cộng sản để tự bảo vệ đã phải đi vào bí mật. Thói quen kín đáo và bí mật đã bắt rễ trong người cộng sản. Hơn nữa, Đảng cộng sản như một gia đình không muốn người ngoài biết chuyện nhà mình. Chính vì cùng lý do tự bảo vệ chống lại những kẻ thù của cộng sản mà Nhà Nước đã có một cấu trúc hình Kim Tự Tháp và đặt tất cả người của mình dưới những cái chóp Kim Tự Tháp đó. Như giáo sư thấy đó, tuy rằng Đảng đã nắm chính quyền nhưng cuộc đấu tranh với chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiếp tục. Vì lẽ đó, và hơn bao giờ hết, những kế hoạch cẩn phải giữ trong bóng tối và việc nắm chính quyền cần phải chặt chẽ hơn để chống lại những đòn tấn công của chủ nghĩa tư bản đến từ trong và ngoài nước. Hoàn cảnh lịch sử mà chủ nghĩa cộng sản đã sinh ra đã quyết định cách làm của họ, cách làm có thể gây sốc cho giáo sư, nhưng có thể thông cảm được.
Cái chuẩn về hạnh phúc của nhân dân có phải chăng là trật tự và an toàn? Vì vậy, không chỉ lãnh đạo của chúng tôi có những giấc ngủ bình an mà toàn dân cũng hưởng cùng ưu đãi đó. Dân chủ không phải chỉ có nghĩa là chính quyền bởi dân, nhưng còn hơn nữa là vì dân. Trước quan điểm đó, không có một loại dân chủ nào khác có thể so sánh với nến dân chủ của chúng tôi, trong khi lãnh đạo của chúng tôi chỉ có một niềm lo duy nhất: đó là hạnh phúc của nhân dân!
- Anh vừa nói đến chuyện vàng ngọc. Trong lúc này, tình hình sức khoẻ của đất nước ta có vẻ tốt. Nhưng tìm hiểu thêm về bề sâu, tìm hiểu vể cấu trúc của nhà nước và xã hội, đã thấy những lỗi lầm và những tì vết không sớm thì muộn sẽ chứng minh những lo lắng của chúng tôi là có cơ sở.
Sự độc quyền chính trị mà Đảng bám víu, về lâu dài, sẽ gây nên những hậu quả tai hại vô cùng. Thứ nhất, tất cả những vị trí lãnh đạo, bất kể quan trọng như thế nào, đều do người của Đảng nắm. Chúng ta đều biết rõ rằng lãnh đạo của chúng ta và những người cấp dưới không thể nào cho rằng họ có cùng trình độ văn hoá và kiến thức để hoàn thành một cách hợp pháp và có trách nhiệm những nhiệm vụ được giao trong một nhà nước hiện đại và rất phức tạp mà ở đó sự ngu dốt và thiếu khả năng đành phải thú nhận là vô ích. Nhưng, nếu những người công chức đang gây gánh nặng cho những cơ quan hành chánh và kỷ thuật vì sự thiếu khả năng của mình, gây những mất mát không sửa chữa được cho ngân sách nhà nước thì đồng thời họ cũng làm hại đến uy tín và niềm tin ở Đảng bằng đủ loại phạm pháp: ăn cắp của công, tham ô, biển thủ, gian lận, giả mạo và sử dụng đồ giả mạo… Độc quyền sẽ sản sinh ra lạm quyền và sẽ đẩy người nắm quyền tuột trên con dốc được bôi trơn bởi truỵ lạc và tội ác. Niềm tin của nhân dân đối với đảng mỗi ngày bị giảm và bị xoi mòn, niềm tin ấy đang mờ dần.
Nền kinh tế đang được tổ chức và quản lý bởi một thứ chủ nghĩa duy ý chí theo sở thích sớm muộn sẽ gây nên những hậu quả tàn phá thảm khôc và thê thảm. Không có cạnh tranh, nền sản xuất trở nên trì trệ, luôn giữ và lập lại những lỗi lầm và sai lạc, hàng hoá bị giữ thối mục trong những nhà kho, chỉ đáng một ngày nào đó ném vào hố rác. Về lao động, cả lao động chân tay lẫn trí óc, bị trả lương rẻ mạt, trì trệ trong nghèo đói và chán nản, đang chết đuối dưới cơn thuỷ triều của cay đắng và vô vọng. Ngoại tệ bị xuống thấp, máy in tiền chạy hết công suất không ngừng để in giấy bạc, lạm phát mỗi ngày một nặng. Những quỹ mật không ngừng lớn và các lãnh đạo đã tiêu pha những khoản tiền cực lớn trong những chuyện chi tiêu đáng xấu hổ.
Tầng lớp trí thức, bị xem thường khinh miệt và hạ xuống cho làm những việc tầm thường, không thể nào cống hiến được hết khả năng và kiến thức mà họ chỉ mong được phép cống hiến cho dân tộc. Họ bị chỉ trích, kết án vì nguồn gốc tư sản và tiểu sư sản của họ, vì những liên hệ trong quá khứ, vì họ không chịu từ bỏ tính phản biện, phê phán và những khuynh hướng dân chủ của họ. Một thái độ như thế không thể nào tha thứ được trong thời đại của cách mạng khoa học và kỹ thuật.
Tất cả những phân tích và nhận định này đã đưa tôi tới việc đánh tiếng chuông báo động trong hội nghị lần thứ nhất mà Mặt Trận đã yêu cầu tôi đóng góp. Tôi không có ý định mở ra một cuộc tranh luận về chuyện xứng đáng hay không của Dân Chủ, và tôi cũng không đả phá nền tảng đang thể hiện của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhìn thấy những chuyện đó, trong sự quan hệ giữa Đảng và Nhân Dân, giòng nước của sự chuyên quyền đổ dài từ trên xuống dưới, và khi được hứng ở trong chậu ở tầng chót, nó đã mang theo bao nhiêu là dơ bẩn không thể cho người uống được. Tôi không đòi hỏi ngưng ngay giòng nước hay cắt ngay nguồn, nhưng chỉ mong làm cho giòng nước trở nên sạch, nên trong để có thể uống được.
Bên cạnh đó, tôi cũng nhận thấy ngành tư pháp cũng có lỗi vì thiếu độc lập và quyền tự do, dẫn đến việc trừng phạt nhiều khi rất nặng nề, trong khi họ không chứng minh được bất cứ sự phạm tội nào. Ngược lại, có những vụ phạm tội gây chấn động dư luận lại không bị trừng phạt gì. Tình trạng như thế thật sự đã làm lương tâm của công chúng và dư luận nổi loạn. Dù đã phải chịu ảnh hưởng nhiều ngàn năm dưới chế độ chuyên quyền phong kiến, không có những dịp lý tưởng để tiếp cận Dân Chủ một cách nhanh chóng, nhưng không phải vần đề là ở đây. Vấn đề là có yêu cầu, không hề đụng chạm gì đến guồng máy của Đảng và Nhà Nước, là nhân dân là có thể được tiếp xúc được giới cầm quyền để phàn nàn, kêu ca hay kiến nghị. Đó là, nếu có thể nói được như thế, vấn đề tự do ngôn luận, chuyện này chỉ có thể tăng cường quan hệ tốt, hai chiều giữa Đảng và Nhân Dân, nó chẳng những làm cho hai bên hiểu nhau và nó còn tránh cho Đảng những lỗi lầm mắc phải nếu tiếng nói của dân đến kịp lúc. Tự do ngôn luận, tự nó không hàm chứa gì về dân chủ hay chủ nghĩa xã hội, nhưng bất cứ chính quyền nào tự cho mình làm là CHO dân thì phải lấy đây làm bổn phận và ban bố truyền bá nó. Nếu tất cả những tranh chấp là liên quan đến văn phạm, tại sao chứng ta lại cãi nhau trên nghĩa của từ ngữ? Có cần mặc cho hạnh phúc chiếc áo chủ nghĩa xã hội hay tư bản hay không?
- Thưa giáo sư, đây chính là chỗ mà ông lầm lẫn. Chúng tôi đã nghi rằng ông thiếu lập trường chính trị. Bây giờ thì chúng tôi biết chắc điều ấy là đúng. Trước nhất, ông đã chia cắt Nhân Dân ra khỏi Đảng, trái hẳn với điều mà Đảng không ngừng tuyên bố. Người cộng sản hiểu dân chủ theo nghĩa vì dân và làm tất cả mọi chuyện để phục vụ tốt đẹp quyền lợi của nhân dân, không phải chỉ trên lý thuyết suông hay trên giấy, mà là những chuyện cụ thể trên thực tế. Những điều chúng tôi cho rằng quan trọng tột bực thì ông lại bảo đó là chuyện chữ nghĩa. Chúng tôi không đấu tranh trên từ ngữ. Bọn tư sản thề thốt là chúng tôi độc quyền lãnh đạo, chúng tuyên truyền không ngừng nghĩ sự hận thù đối với chúng tôi. Chúng mưu đồ tiêu diệt chúng tôi. Sự chống phá chúng tôi được diễn ra trên bình diện quốc tế bởi cuộc chiến tranh lạnh, làm tê liệt mọi quan hệ đoàn kết giữa các nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Cái ngôn từ “tư bản” nó cô đọng tất cả nội dung nói trên, nó làm chúng tôi thức tỉnh và chỉ cho chúng tôi thấy kẻ thù nào đang muốn cái chết của chúng tôi và là kẻ thù mà chúng tôi phải triệt hạ. Đối diện với chủ nghĩa tư bản đang căm hờn chúng tôi và chúng tôi cũng đang ghê tởm chúng, chúng tôi đã xây dựng chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa hiện thân cho những hy vọng và ước mơ của chúng tôi, chỉ cho chúng tôi con đường để mang hạnh phúc lại cho nhân dân và cho thế giới vô sản, một chủ nghĩa tượng trưng cho tương lai của nhân loại. Như giáo sư có thể thấy, đây không phải là vấn đề thuần từ ngữ mà là hai nhận thức về cuộc sống, hai cách sống, hai loại khẩu hiệu đấu tranh. Ngược lại với những gì mà ông đang nghĩ, hạnh phúc xã hội chủ nghĩa là trái ngược với hạnh phúc tư bản chủ nghĩa, vì lẽ rằng người lao động, với mồ hôi trên trán, đã chinh phục được niềm vui trong cuộc sống, trong khi hạnh phúc ở các nước tư bản là qua sự bóc lột thấm ướt bằng máu và nước mắt của nhân dân, thế mà giáo sư lại đòi quyền tự do ngôn luận cho nhân dân. Giáo sư có thấy gì về chuyện ấy không? Nó mở rộng cửa cho đủ thứ loại tiếng kêu phát xuất từ sự ngu dốt, thiếu hiểu biết, ý đồ xấu, thiên vị và đôi khi là những ý nghĩ kỳ quặc điên cuồng. Nhiều người được kẻ thù trả tiền sẽ lợi dụng nó để ngăn chận chủ nghĩa cộng sản, gieo trồng tình trạng thù địch, hận thù chống lãnh đạo. Toàn xã hội sẽ phải gánh chịu một hậu quả đầy bạo lực và hỗn loạn. Giáo sư không có một cơ sờ chính trị lành mạnh, cũng như nhiều trí thức khác, bị ám ảnh bởi những định kiến, những nhận thức và những phản ánh của giáo sư là sai lầm.
Và đối với chúng tôi, là những thanh niên cộng sản, chúng tôi có niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản và Đảng. Đảng chính là tai và mắt của chúng tôi. Đảng đã dạy cho chúng tôi khả năng tư duy và cảm xúc, đào tạo và biến chúng tôi xứng đáng để thành những kiến trúc sư, những người xây dựng và thành viên của xã hội tương lai, xã hội của một chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Đó là chân lý của chúng tôi. Chúng tôi xây dựng một nhân loại mới mà trong đó những đức hạnh chủ yếu là kỷ luật, tuân phục và tinh thần hy sinh. Chúng tôi không bàn cãi lệnh, chúng tôi chỉ biết thi hành lệnh, và nếu cần thiết, hy sinh quyền lợi riêng tư, không ngần ngại, nhắm mắt mà thi hành.
- Vâng, anh thuộc về một loại người không giống loại của chúng tôi đang sống. Người trí thức chúng tôi có cái thiển cận là cố gắng hiểu trước khi làm, cân nhắc lợi hại trước khi lấy quyết định, có cái nhìn đủ cảnh giác để có thể nhìn xuyên qua cái túi da đựng rượu chứa đầy kiêu căng và tự đắc, và nắm bắt sự diễu cợt, vênh vang tự đại của những bài diễn văn. Nếu những tình cảm chân thật khiến chúng tôi biết xúc động, thì những điệu bộ của những kẻ ích kỷ làm tôi cao hứng và chúng tôi thật sự kinh hoàng với những tội ác của những ông tai to mặt lớn. Chúng tôi chống lại trong niềm bi quan, chúng tôi phản công tại bằng mỉa mai châm biếm. Loại người của chúng tôi là hoàn toàn trái ngược với loại nhãi con cuồng tín ung mủ chỉ làm bực mình nhăn trán và con tim đau xót.
Một sự yên lặng kinh hoàng bao trùm cả phòng họp. Mọi người trong phòng như nín thở để theo dõi từng chi tiêt trong cuộc đấu giữa hai loại người của nhân loại. Khi con chó nhỏ rời bục giảng thì một giáo sư bước lên thế chỗ.
Có một khoảng cách chừng ba mươi tuổi giữa hai người đó, nhưng cả hai đều thuộc về giống người đi bằng bốn chân với cái đuôi ngoe nguẩy là những dấu riêng dễ biết. Ông ta là một giáo sư trung học của một trường nào đó ở miền Trung Việt Nam. Nhưng, trong thời Nhật chiếm đóng, hắn ta chụp hình mặc nguyên bộ đồ quan lại Triều Đình, với tấm thẻ bài bằng ngà voi đeo trân trọng trên bộ ngực ưỡn ra và với bộ mặt rạng rỡ. Dường như ông ta đã đạt được giấc mơ của cuộc đời. Sau đó, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân, nghề quan-lại mất dần hào quang, bị xoá bỏ trên bản đồ xã hội với xương cốt và tay chân trần trụi bị chôn vùi dưới đống gạch đổ nát của chế độ phong kiến. Viên chức của triều đình Huế kia đã cẩn thận dấu bộ áo quan và cái thẻ bài bằng ngà voi đâu đó và sẽ rất giận dữ nếu ai đó nhắc dậy quá khứ của mình, thay vì nịnh hót hay chỉ trích. Bị tước áo choàng, ông ta cảm thấy cần có một làn da mới. Trở lại với nghề đi dạy, với sự luồn cúi và nụ cười dễ thương, ông ta không bỏ mất một cơ hội nào để khúm núm phục vụ cho những kẻ bạo quyền mà hắn nhận lệnh và được ban cho một vài ưu đãi. Hắn leo lên từng nấc thang một trong lãnh vực giáo dục. Sau hội nghị Genève, khi chính phủ kháng chiến trở về Hà Nội và khi các Phân Khoa Đại Học được mở cửa trở lại, hắn xoay sở có được một chức giảng viên Đại Học mặc dù không có một cơ sở văn bằng hay công trình nghiên cứu nào để chứng minh mà các ứng viên giảng dạy ở cấp đại học thường phải có. Nhưng thực tế là, suốt cho tới khi nào không còn cộng sản, họ luôn luôn nâng đỡ đưa vào những chức vụ trách nhiệm những bạn đồng chí mà khả năng duy nhất của họ chỉ là được ý kiến thuận lợi và quý mến từ những người đang cầm quyền. Một người nào đó phải nói là rất ngu dại mới đến chúc mừng ông ta trong bộ dáng với bộ quần áo quan triều như trong tấm hình mà xưa kia ông ta hay phân phát cho gia đình những người quen biết để nhắc họ rằng ông là một người trong danh mục của triều đình Huế. Ngày nay hắn ta sẽ phải tự cắn ngón tay của mình khi thấy hình hắn ta đang bốc đồng tự cao tự đại chụp ngày trước và phổ biến cho thiên hạ.
7. Hai nền văn hoá
Nếu con chó Nhật của tôi nêu lên vấn đề xung đột giữa hai loại người, chó hai chân nhưng biết cười bằng mồm cũng như giống chó biết ngoắc đuôi để mừng đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Nhưng lần này, thật là điều ngạc nhiên lớn lao hơn nữa khi thấy một anh chàng xuất hiện ở đấu trường lại là một kẻ lâu nay luôn chong mắt chờ đợi ở Đảng nhưng không được kết quả gì, cho đến nay vẫn là một người không đảng. Có phải lần này là lần thử thách làm hắn ngời ánh mắt đầy hy vọng, và nếu hắn kết thúc thắng lợi lần này, liệu hắn có được nhận vào hàng ngũ của Đảng và để hắn chu toàn một tham vọng cháy bỏng của những kẻ cơ hội chủ nghĩa mà hắn là một thành viên sáng chói? Có phải cuối cùng rồi hắn cũng có cách giải cơn khát vì đã có thể khiển trách giữa công chúng một giáo sư Đại Học trước mặt các đồng nghiệp vá các sinh viên của ông ta, và trong một lúc nào đó, gạt bỏ những mặc cảm thua thiệt của một kẻ đắm mình khao khát một tham vọng mà khả năng không thể nào đạt tới? Có cần phải chứng minh rằng với tất cả là, trong đám đông của những con người không đảng, ta vẫn có thể tìm ra người ưu tú nhất, đại diện đứng vai kẻ buộc tội đã được Đảng phê chuẩn, và kẻ bị kết án hoá thân của sự xấu xa nhất đang sắp bị những cơn cuồng nộ của Trời cao giáng xuống? Đây không phải tại vì bản chất của việc tranh luận về quan hệ giữa Đảng và tầng lớp trí thực, hay giữa chính trị và chất xám mà là việc giới lãnh đạo ngần ngại trực tiếp can thiệp nên chọn giải pháp giao cho một kẻ không đảng để bảo vệ cho chủ nghĩa cộng sản? Dĩ nhiên, Đảng cũng có thể chọn một luật sư giỏi hơn, nhưng có thể là những người mà Đảng liên hệ đã từ chối không đứng cùng phe với Đảng để chống lại giới trí thức mà ước vọng về dân chủ của họ ai cũng biết.
Kẻ buộc tội tôi tung loạt tấn công đầu tiên.
- Thưa đồng nghiệp, trong những bài giảng của giáo sư về văn chương phương Tây, tại sao giáo sư dành quá nhiều quan trọng cho những tác giả và tác phẩm tư bản chủ nghĩa như thế? Văn chương xã hội chủ nghĩa xem ra chỉ là những người bà con xa nghèo khổ. Điều đó gây cảm tưởng là ông có khuynh hướng thiên quá nhiều về kẻ thù.
- Thưa đồng nghiệp tài ba của tôi, cái nhìn của ông thật vui nhộn, và tôi nghĩ rằng nếu ông không muốn làm vấy bẩn đến danh tiếng của mình, ông không nên có những nhận thức như thế. Tuy nhiên, tôi cho rằng ông chỉ bị chút lãng trí trong bộ óc ưu tú đang bị nhiễm những hơi độc của chính trị, nên tôi mong được nhắc nhở cho ông là văn chương phương Tây đã xuất hiện từ nhiều ngàn năm nay, văn chương xã hội chủ nghĩa mới có chừng một trăm năm nay.
Đến phiên tôi xin được nói là chữ “kẻ thù” mà ông dùng là không đúng chỗ và không đứng đắn. Từ này là thuộc một số ngôn từ chính trị mà một số lãnh đạo hay dùng một cách thái quá. Nó không có một ý nghĩa gì về văn chương, và ngay cả trong lãnh vực chính trị, nó chỉ là một thứ lưu hành đã lỗi thời, cũng không phải là một sự tranh cãi về pháp lý. Ông đã qua những buổi học về duy vật biện chứng thì ông phải biết là mọi sự đếu thay đổi, kẻ thù hôm qua có thể thành người bạn ngày mai, và ngược lại. Một người dạy về văn chương không có chuyện nghiêng về phía kẻ thù hay nghiêng về phía bạn. Những tác giả lớn về văn chương trên thế giới không là bạn hay thù của bất cứ ai, họ là bạn của nhân loại mà họ muốn tìm hiểu và trau dồi trí tuệ. Đừng để chúng ta bị cái kỳ quặc của chính trị trùm lên việc nghiên cứu văn chương.
- Bây giờ chúng ta đã đi vào tâm điểm của vấn đề. Làm sao giáo sư có thể điều chỉnh quan hệ giữa chính trị và văn hoá? Chúng ta đứng giữa hai loại văn hoá: văn hoá cộng sản và văn hoá của giới trí thức. Cả hai đều nhắm vào việc gầy dựng con người. Ông nghĩ thế nào về văn hoá cộng sản?
- Văn hoá cộng sản là muốn đào tạo con người trên cở sở hình ảnh của những nhân vật cộng sản tốt nhất, được yêu quí và được trọng nể bởi những người mơ ước được giống như thế. Không thể chối cãi được là những nhân vật đó được phú cho những đức tính tốt ở một mức cao nhất về phẩm chất con người. Những đức tính đó là yêu quê hương và dân tộc, có tinh thần hy sinh và can đảm bất chấp sự chết và những đòn tra tấn, và tình đồng chí cùng chí hướng. Rủi thay, vẫn có quá nhiều đức tính đáng khâm phục và quí giá lại bị thui chột, trong khi làm nhiệm vụ, vì thiếu văn hoá và kinh nghiệm trong việc quản lý đất nước và con người. Người cộng sản có một tấm lòng trong sáng nhưng do kiến thức giới hạn, nên họ tự bằng lòng trong sự nghiêm túc và thờ ơ trong việc đánh giá con người, sống trong chủ nghĩa duy ý chí và chủ quan trong việc sắp đặt cấu trúc của nền kinh tế. Họ thích đơn giản vấn đề và muốn thống nhất, tiêu chuẩn hoá mọi sự để họ dễ dàng quản lý con người và của cải vật chất. Trong quan hệ với những người trí thức, họ không giúp được gì vì mặc cảm tự ty đã khiến họ có thái độ cứng nhắc không nhân nhượng, tự chứng tỏ mình qua những hình thức chống lại tình hửu nghị và sự tin cậy lẫn nhau giữa hai bên: họ và trí thức; nhưng họ lại giữ cho mình một thái độ nghi ngờ và đầy ác cảm. Họ là loại người chưa bao giờ từng được biết đến trong xã hội Việt-Nam. Nếu quần chúng nhân dân thần tượng hoá họ - ít nhất là cho đến bao lâu mà họ còn giữ được tính trong sáng trong nhận thức, còn đạo đức trong lương tâm, và còn biết bảo vệ danh dự và nhân phẩm của mình – thì người trí thức vẫn còn những dè dặt bảo lưu và còn nhiều cẩn thận để khỏi bị đâm bởi lưỡi kiếm đã sẵn sàng tuốt ra khỏi vỏ, sẵn sàng đâm vào những ai vô tâm và ngây thơ có mâu thuẫn với họ.
- Nếu người cộng sản đã được tôi luyện trong cuốc đấu tranh cách mạng mà trong đó những chiến sĩ thiếu đạo đức sẽ phải bị loại bỏ và chỉ những người xứng đáng có đạo đức mới được giữ lại, những đạo đức như thế phải được dùng để làm ra một hình ảnh mẫu mực của người cộng sản, thì người trí thức được đào tạo qua con đường học vấn và lối sống trong môi trường thành thị của họ trước đây, nơi mà giai cấp lao động vô sản, vừa mới ra đời, đang còn loay hoay tìm kiếm một con đường và đang học hỏi để đóng vai trò của mình. Công an và cảnh sát thực dân, cũng như những trường học thực dân cô lập tách người trí thức ra khỏi thế giới của cách mạng, làm cho họ không thể thấm nhuần và lĩnh hội những tư tưởng cách mạng. Được đào tạo trong những điều kiện như thế, người trí thức không khỏi tiêm nhiễm những thói hư tật xấu và những thiếu sót của nến giáo dục tư bản chủ nghĩa. Họ mở lòng đón nhận những ảnh hưởng của nền dân chủ như thể họ đang tự dâng mình cho phúc âm được giảng dạy bởi những triết gia từ thời đại Ánh Sáng ở thế kỷ 18, chấp nhận ý thức hệ của cuộc cách mạng tư sản năm 1789 và cho rằng được hưởng những quyền tự nhiên của con người là tiêu chuẩn của một xã hội văn minh. Như vậy, họ đã thấm nhuần những đức tính của tư bản, nhưng nếu thiếu sự giáo dục cộng sản chủ nghĩa, họ chỉ còn biết tự giới hạn mình trong sự hưởng thụ an nhàn, sợ xáo trộn và bạo lực, và tỏ ra kinh hãi lo sợ trước bất cứ lực lượng chính trị nào, đặc biết là lực lượng có màu đỏ. Họ chất chứa trong mình những phẩm chất quý giá về trí óc, vận dụng một cách khôn khéo sự hồi kiểm về những chuyện đã qua, phân tích, lô gic và áp dụng những tài giỏi của mình để chỉ trích phê phán. Họ tự gán cho mình những ý niệm trừu tượng tách con người ra khỏi những ngẫu nhiên bất ngờ của xã hội và lịch sử, ra khỏi việc đấu tranh giai cấp. Đó là lý do chính cho thấy tại sao họ lại sợ bạo lực và những lực lượng chính trị. Vì thế, khi tiếp xúc với người cộng sản họ không tránh khỏi mặc cảm tự ti: họ tự cảm thấy nhỏ bé, yếu đuối và hèn nhát khi đứng trước những anh hùng là những người đối diện với cái chết với tia mắt rực lửa hận thù vì bị áp bức và bất công.
- Như thế, về cả hai phía, chắc chắn cái mặc cảm tự ty nó là cái gánh nặng đang đè lên quan hệ giữa chúng ta. Vì vậy, hậu quả đưa đến là chúng ta thiếu tự nhiên, nhiệt tình, thành thật, mật thiết, và chân thành tin cậy lẫn nhau. Sự lễ độ chỉ là gượng gạo, lịch sự với nhau hoàn toàn mang tính ngoại giao và đầy nghi kỵ dè dặt. Mỗi bên chúng ta đếu sợ bị bên phía kia coi thường, và quyền lợi chung bị tổn hại.
- Nhưng người trí thức phải biết chấp nhận cái chuyện không tránh khỏi. Họ phải công nhận là chế độ cộng sản là có lợi cho nhân dân. Kinh nghiệm cách mạng đã khiến cho lãnh đạo của chúng ta dành thắng lợi trong cuộc chạm trán với các đảng phái quốc gia là những đảng đã xuống cấp mà ai cũng biết là vì bất tài, có đạo đức đáng ngờ, buông mình theo những đam mê về lợi lộc và đã vĩnh viễn mất uy tín ở trong nước. Sự thành công của văn hoá cộng sản đã biến con người cách mạng thành một người mạnh mẽ như thép cứng.
- Ông đang đá vào một cánh cửa đã được mở tung. Văn hoá công sản đào tạo con người để đấu tranh cách mạng, văn hoá trí thức đào tạo con người biết suy nghĩ chín chắn. Nhưng văn hoá cộng sản không được quyền nuốt chửng văn hoá trí thức được. Hai luồng văn hoá vẫn có thể sống chung hoà bình với nhau, và tốt đẹp hơn nữa, là có thể hợp tác với nhau vì lợi ích của đôi bên, và của toàn dân.
- Tốt lắm. Ở đây không có chuyện cộng sản tiêu diệt trí thức. Cánh cửa luôn luôn được mở rộng để hoà hợp, để thông hiểu lẫn nhau. Người cộng sản có thể, và đúng hơn là phải yêu cầu giới trí thức tham gia giúp đỡ trong việc quản lý nền kinh tế, quản lý đất nước và triển khai Luật Pháp. Một sự hợp tác như thế là cần thiết và ích lợi cho đất nước.
- Nhưng chuyện này đã không xảy ra trong nước. Những vị trí lãnh đạo và trách nhiệm luôn luôn được giao cho người trong Đảng, và phần lớn trong họ lại thiếu khả năng và không đủ đạo đức. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những người luôn nhắm vào chức vị đó, thường quay lưng lại với nhân dân mà chính nhân dân cũng không trông đợi gì nhiều ở các kẻ này, và chỉ đưa mắt trông chờ vào Đảng là người nắm và thổi cái tù-và phân phát những ưu quyền, những chức ngồi chơi xơi nước, danh phận và ưu tiên. Trong thời kỳ bí mật kháng chiến, muốn được vào Đảng là phải qua những điều kiện cực kỳ khắt khe và phải được tập thể nhất trí thông qua. Bây giờ thì trò vận động ngầm và sự ích kỷ và tham vọng xấu xa đã nổ bung ra hết cỡ, chuyện tuyển lựa đảng viên nay được tính đến số lượng mà không cần chất lượng. Cái quyền lực vô cùng to lớn mà Đảng đã dành riêng cho mình đang dẫn đến những lạm dụng kinh hoàng: tham nhũng đã lan tràn đến từng cán bộ và những đợt sóng của vô đạo đức và tội lỗi đang xâm chiếm toàn bộ bộ máy của Nhà Nước.
Vậy thì, dưới cái nhìn đang thấy cả một cơn thuỷ triều đang đe doạ đất nước bằng một sự tàn phá, nếu xảy ra thì không thể nào đảo ngược lại, tôi xin hỏi ông: ”Giới trí thức có được phép trình bày vấn đề này cho Đảng không?”
- Tôi không biết quan điểm của Đảng là như thế nào, nhưng tôi nghĩ là trí thức ít ra phải có quyền được nêu những vần đề này lên các lãnh đạo. Việc cơ bản ở đây là chúng ta phải tôn trọng thủ tục và tất cả mọi chuyện đều phải bàn bạc ở chỗ riêng tư vì đây là chuyện xung đột trong gia đình.
- Đối diện với một sự tàn phá nhất định sẽ đến, người trí thức tự cảm thấy mình có trách nhiệm đúc kết trình bày những vấn đề trọng đại liên quan đến chủ nghĩa cộng sản để kiếm ra một giải pháp.
Đúng vậy, có nhiều chuyện đã xảy ra làm chúng ta phải suy nghĩ. Đảng là một tổ chức được mà sự thành hình, tổ chức và sinh hoạt đều nằm ngoài nhân dân, thiếu hẳn một cơ chế kiểm sát thường trực và chính quy. Mọi chuyện do Đảng định làm đều được tính toán trong vòng tuyệt đối bí mật, y như bọn mafia. Nếu đây là một công ty hay một hội đoàn tư nhân, được thành lập để bảo vệ quyền lợi cho hội viên của mình, trong vòng Pháp Luật, thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng chính Đảng đã có ý muốn được nắm quyền, và hiện đang quản lý nhân dân, những quyết định của Đảng mang tính ràng buộc về Pháp Lý và phải được áp dụng trên toàn nước. Chẳng phải do Thiên Định hay do dân bầu lên, Đảng vẫn đang quản lý nhân dân. Thật vậy, chẳng có chi nhiều để tranh cãi về chuyện này, nhiều cuộc bầu cử thật ra chỉ là một sự sắp xếp hoàn toàn. bằng những cái gọi là “đề nghị”, “cố vấn” và thậm chí làm áp lực để người dân phải bầu những cá nhân mà không hề biết họ là ai và cũng không giao phó cho họ bất cứ thứ quyền nào. Để biện minh, Đảng tuyên bố là Đảng hành động như thế là vì quyền lợi của nhân dân. Như thế nhân dân đã bị đẩy xuống hàng trẻ con hay một loại người tàn tật mà người khác đút cho ăn mà không bao giờ được hỏi là thích món ăn nào! Tệ hại hơn nữa là nhân đân còn bị cấm không cho quyền phát biểu ý kiến, toàn chế độ trở thành những người chỉ biết nói láp dáp một mình và chỉ có những người cúi đầu tuân phục. Chung quanh pháo đài, những hào sâu tường cao là những đội bảo vệ ngày đêm gìn giữ giấc ngủ bình yên của lãnh đạo và gia đình họ, của đĩ hạng sang, che chắn cho họ trước sự xâm nhập của những lời than khóc nức nở của người dân quê về những nỗi khổ đau và bất hạnh của họ.
Có phải văn hoá cộng sản là khuyến khích dối trá và ích kỷ, công nhận sự lường gạt và gian manh, lừa phỉnh nhân dân?
- Đó là những gì giáo sư nói, nhưng theo cá nhân tôi, tôi nhìn chuyện dưới góc cạnh khác. Trước nhất, những quyết định chính trị có thể không mang đến ngay những kết quả trông thấy, nhưng trong dài hạn thì sẽ có. Không thể để mình rơi vào lỗi lầm là nhìn mọi chuyện dưới góc cạnh muôn đời, không thể chối cãi là yếu tố thời gian phải giữ một vai trò quan trọng cho một dân tộc lạc hậu mà lãnh đạo đã hứa là sẽ mang đến cho họ một tương lai sáng chói. Nhân dân cần phải có thời gian để hiểu và thấm nhận những nguyên tắc mới, để có thể leo lên những bức thang của tiến bộ xã hội. Quan điểm của tôi khác với những quan điểm của giáo sư. Tôi dám khẳng định với giáo sư là bất cứ nơi nào có bầu cử, nơi đó có dân chủ, một khi mà mọi chuyện là do dân. Và, một khi mà nhà lãnh đạo không tìm cách vơ vét đầy túi, không tích luỷ tài sản riêng cho mình, lúc ấy tôi có thể khẳng định những chính sách đưa ra là vì dân.
- Giả dối! Thưa đồng chí, đó chỉ là giả dối. Những cuộc bầu cử xếp đặt không thể nào là dân chủ. Đảng không kiếm cách làm giàu nhưng túi tiền một số khá lớn đảng viên lại căn phồng, trong khi chờ tới lúc cái ung nhọt tham nhũng nó bao trùm lên tất cả những kẻ có chút quyền hành trong tay. Đồng chí nói mọi chuyện đều do dân làm. Tốt, vậy cho tôi hỏi đồng chí: nhân dân có được hỏi ý kiến về những chính sách quan trọng của Đảng như Cải Cách Ruộng Đất và Hợp Tác Hoá ruộng đất, kế hoạch kinh tế, và đặc biệt là việc hướng dân tộc vào con đường xã hội chủ nghĩa không? Không và không. Độc tài chính trị đã đóng cửa đất nước và khoá mồm cho tất cả dư luận. Quyền tự nhiên của con người mà mọi người trong thế giới văn minh đều được hưởng thì hoàn toàn không có ở đây, và lại còn bị cấm không được quyền đòi hỏi, thậm chí là chỉ bàn bạc về nó. Đồng chí đang nhìn thấy những điều không có thật bởi niềm tin chính trị mà đồng chí đã được kẻ cầm quyền đã gieo vào đầu. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, toàn thể nhân dân cùng một lòng đứng dậy để giành lại Tự Do và Độc Lập. Nhân dân đặt niềm tin vào lời nói của lãnh đạo cộng sản là toàn những người với quá khứ vinh quang đầy hy sinh cho Tổ Quốc. Nhưng sau đó, từng bước, nhân dân bị áp đặt dưới cái gọi là “dân chủ nhân dân”, rồi sau đó là chủ nghĩa xã hội. Chúng ta không còn tôn thờ Khổng Tử, trong khi vẫn gìn giữ những giá trị của đạo Khổng, chúng ta bị cải đạo sang tôn giáo Ba ngôi của chủ nghĩa Marx: Marx-Lenin-Stalin, với ba tấm hình được treo cao để ba ông được nhìn xuống đám thần dân! Từ lúc nào và ở đâu chúng tôi được hỏi ý về những ước ao và mong muốn của chúng tôi? Chuyện chẳng hề xảy ra. Đảng là con mắt nhìn mọi chuyện dùm chúng tôi, quyết định cho chúng tôi, rồi ra lệnh chúng tôi phải tuân theo quan điểm của Đảng mà họ cho rằng sẽ mang đến một tương lai huy hoàng và hạnh phúc. Đó là cách mà văn hoá cộng sản đã đào tạo lãnh đạo và muốn đào tạo cả chúng tôi. Nó chỉ trích văn hoá Tây Phương là đã tưởng tượng ra con người lý thuyết cô lập khỏi thực tế và tưởng tượng ra nhóm người tách ra khỏi cuộc đấu tranh giai cấp, một cuộc đấu tranh đang sắp mang lại hạnh phúc cho mọi người, bằng cách làm mới xã hội hiện tại và xây dựng một xã hội mới. Văn hoá phương Tây sẽ kết án chủ nghĩa Cộng Sản là tạo ra những con người cháy bỏng với những cuồng tín về chính trị, chỉ biết theo chân của lãnh đạo, nhắm mắt bịt tai với những thực tế của thế giới, ngậm miệng không dám chỉ trích bất cứ chuyện gì. Thật đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy một con người, được nhào nặn trong lò bánh của cộng sản, đã mất cả con người riêng, còn mất luôn cả nhân cách của mình, thay vào mình một con người chỉ biết động đậy theo những tín hiệu từ xa bấm nút bởi người khác. Cổ tích phương Tây kể chuyện một kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ. Người cộng sản, được đào tạo trong lò văn hoá cộng sản, đã bán linh hồn cho Đảng.
- Cứ cho rằng chuyện đúng như giáo sư nói, tôi thấy không có gì hại trong chuyện đó. Giáo sư có muốn đẩy câu chuyện tới mức là kẻ độc tài cấm mọi người đi tìm sự thật, và khi kiếm thấy nó sẽ theo nó suốt con đường? Khi người Công Giáo nhìn Chúa Giê Su như là Sự Thật của mình, người Phật Tử xem Phật là Chân Lý của mình, thì tại sao Giáo Sư không muốn người cộng sản được chọn Đảng là Chân Lý của mình?
Mỗi con người đều đi tìm con đường cứu rỗi cho mình, ở bất cứ nơi nào mà ông đó hay bà đó có thể tìm thấy được. Chúng tôi là những người thấy sự soi sáng đó trên đường đi tìm chân lý. Đó là chủ nghĩa Cộng Sản.

(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ

1      2     3      4      5      6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét