PHỤ LỤC 1
(TRÍCH một bức thư của Ông Bac Cam Quy, Cựu Chủ Tịch Liên
Bang Thái)
Liên bang Thái xưa kia nằm ở vùng thượng du Bắc Việt, Bắc giáp vớI Trung Quốc, Đông giáp sông Hồng, Tây giáp với Lào, và Nam giáp với tỉnh Hòa Bình, gồm có những người dân Thái đen và Thái trắng.
Người dân Thái là những người sống rất thanh bình, hiền hậu yêu hòa bình nhưng cũng không ngần ngại chiến đấu nếu nền độc lập của quê hương nếu bị đe dọa. Họ rất thật thà, ngay thẳng, trung thực, can đãm, siêng năng mẩn cán, hay giúp đở mọi người và có tinh thần xã hội. Từ lúc chánh phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa của Bắc Việt chiếm mất quê hương, và vốn dĩ đã không ưa gì người Việt, dân chúng Thái trở thành những con người chống cộng dử dằn nhất.
Trước khi người Pháp đặt chân lên bán đão Đông Dương năm 1888 tiểu vương quốc
Thái ít nhiều vẫn có triều cống vua Lào (Luang Prabang và đôi khi cũng có những
phái đoàn giao hảo đến Triều đình Hué. Từ năm 1888 đến 1945 tiểu vương quốc nầy
được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ 1945 đến 1947 gười dân Thái bị nhiều
đợt xăm lăng, Nhật rồi Trung Quốc và sau cùng là Việt Minh. Đến đây thì hậu quả
quá nặng nề: gia đình ly tán, và quê hương bị tàn phá hoàn toàn.Liên bang Thái xưa kia nằm ở vùng thượng du Bắc Việt, Bắc giáp vớI Trung Quốc, Đông giáp sông Hồng, Tây giáp với Lào, và Nam giáp với tỉnh Hòa Bình, gồm có những người dân Thái đen và Thái trắng.
Người dân Thái là những người sống rất thanh bình, hiền hậu yêu hòa bình nhưng cũng không ngần ngại chiến đấu nếu nền độc lập của quê hương nếu bị đe dọa. Họ rất thật thà, ngay thẳng, trung thực, can đãm, siêng năng mẩn cán, hay giúp đở mọi người và có tinh thần xã hội. Từ lúc chánh phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa của Bắc Việt chiếm mất quê hương, và vốn dĩ đã không ưa gì người Việt, dân chúng Thái trở thành những con người chống cộng dử dằn nhất.
Để thoát thân khỏi cộng sản, một số người Thái (một phần ngàn của những người còn ở lại) chạy sang tỵ nạn bên Lào, và là những người Thái đầu tiên đến tỉnh XiengKhoang để rồi đến định cư sau đó tại Vientiane.
Để xoa dịu dân tộc Thái, cộng sản Việt Nam phải chịu giữ nguyên xứ Thái kèm theo danh từ "tự trị", với danh xưng là "Vùng Tự Trị Thái-Mèo" sau nầy lại đổi thành "Vùng Tự Trị Tây Bắc".
Sau đây là một đoạn "trích" từ một lá thư của Ông Bac Cam Quy:
"Chúng tôi đã chọn Lào làm quê hương thứ hai để sang định cư vì lý do chủng tộc, lịch sử, ngôn ngữ và phong tục tập quán. Những điểm tương đồng tự nhiên như vậy cộng thêm tình bạn bè thân thích từ lâu giữa người Thái và người Lào đã giúp chúng tôi hội nhập dễ dàng vào đời sống tại vương quốc Lào, hàn gắng vết thương đau và làm lại cuộc đời của chúng tôi. Tinh thần hiếu khách và sự ân cần chăm sóc của chánh phủ Vương Quốc Lào đã giúp chúng tôi mỗi người đều có công ăn việc làm dễ dàng và xây dựng lại mái nhà ấm cúng cho gia đình. Về cuộc sống tại đây, chúng tôi làm việc trong đủ mọi ngành nghề. Người nầy là công chức trong chánh quyền, hay sĩ quan trong quân đội, người kia thì giúp việc trong các tổ chức của ngoại quốc (tòa đại sứ, Liên Hiệp Quốc, USAI D, USOM v.v..).
Có nhiều người là kỹ sư, bác sĩ, hoặc trong ngành kinh tế, giáo dục, hoặc là kế toán viên, đã tự viên, thợ máy, trồng tỉa v.v... Với thời gian thì sự phân biệt chủng tộc phai mờ lần và chúng tôi đều được nhập quốc tịch Lào hết. Sở dĩ việc nhập quốc tịch không được tiến hành mau hơn, là vì các chánh phủ vương quốc Lào muốn tìm một phương thức pháp lý đúng đắn hơn, để cho chúng tôi hưởng nhiều quyền lợi hơn và dĩ nhiên đở tốn kém hơn. Nhưng cho dù việc nhập quốc tịch có chậm hay có mau hơn thì nó cũng không có ảnh hưởng gì đến đời sống hằng ngày của chúng tôi cả. Giới trẻ của chúng tôi thì vẫn được ra ngoại quốc tiếp tục bậc cao học và đại học. Công chức và cán bộ các cấp trong quân đội cũng có đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm như các bạn người Lào của họ. Nói tóm lại là chúng tôi có đầy đủ mọi điều kiện để có được một đời sống thanh bình và hạnh phúc.
Trước khi Hiệp Ước Vientiane 1973 được ký kết, dẫn đến sự thành lập một chánh phủ quốc gia liên hiệp Lào, thì chúng tôi chưa bao giờ nghĩ tới là đời sống của chúng tôi lại một lần nữa bị xáo trộn.
Bất ngờ tình hình chánh trị ở Lào diễn tiến quá nhanh sau khi Sài Gòn và PhnomPenh thất thủ, làm cho đời sống chúng tôi bị chuyển đổi một cách tàn nhẫn và làm sụp đổ hoàn toàn giấc mộng yên lành của chúng tôi. Kể từ ngày 9/5/75 tất cả những cơ cấu chánh trị, hành chánh và xã hội ở vương quốc Lào đều bị đão ngược hoàn toàn, làm cho chúng tôi nhận thức rõ ràng được đời sống của chúng tôi không còn chút gì gọi là vững vàng nữa, cũng như tình trạng an ninh của chúng tôi trở nên hết sức bấp bênh. Đùng một cái chúng tôi trở thành những người ngoại quốc với tất cả những khó khăn và nguy hiểm sẽ gặp phải. Trong vòng hơn 20 năm định cư ở Lào, tất cả người Thái chúng tôi đều có được một mái nhà êm ấm, người nào cũng có công ăn việc làm, mỗi gia đình đều có một mảnh đất canh tác...tóm lại chúng tôi đều có đầy đủ điều kiện để xây dựng một tương lai đầy hạnh phúc.
Chúng tôi tự hỏi tại sao chúng tôi lại phải bỏ tất cả những gì chúng tôi đã tạo dựng được bằng mồ hôi và nước mắt của mình để lên đường đi tỵ nạn thêm một lần nữa ?
Lý do thứ nhất , lý do chính và cũng là lý do quan trọng khiến chúng tôi phải cấp tốc rời nhanh khỏi vương quốc Lào đó là cộng sản đã đồng loạt và ồ ạt tiến chiếm toàn bộ bán đão Đông Dương. Khác hơn ở Việt Nam và Cam Bốt, chiến cuộc tại Lào coi như được chấm dứt sau khi Hiệp ước Vientiane 1973 được ký kết, tiếng súng không còn nữa làm cho một số quan sát viên tưởng rằng cuối cùng thì hòa bình cũng đã được vãn hồi, và chế độ vẫn còn là một chế độ tự do. Nhưng tiến trình cộng sản hóa cả nước đang được tiến hành, và chúng ta phải thấy được chiến thuật ngụy trang của cộng sản rất là xảo quyệt và rất là tinh vi. Chúng ta đừng bao giờ nghe những gì họ nói hay những gì họ nhờ những người khác phổ biến thay cho họ, mà chúng ta phải nhìn kỹ xem những gì họ làm. Đây là những bằng cớ cụ thể và mới nhất: từ ngày 9/5/1973 nhiều cuộc chống đối đủ loại, nhiều cuộc mít tinh biểu tình đòi lật đổ, nhiều hành động tố giác không bằng chứng, tất cả đều được tổ chức công khai và liên tục nhằm mục đích loại trừ sĩ quan ra khỏi quân đội, loại trừ công chức quốc gia đủ mọi cấp mọi ngành ra khỏi các bộ, từ ông bộ trưởng cho tới anh viên chức xả ấp mộc mạc trong làng. Các sĩ quan công chức nào bị loại thì được lôi ra xử ngay tại các tòa án nhân dân, nơi đó họ phải nặn óc tưởng tượng ra các "nợ máu đối với nhân dân" mà họ phải khai báo. Người ta chưa bao giờ nghe thấy được những hành dộng loại nầy trong bất cứ một quốc gia nào trên thế giới tự do.
Lý do thứ hai thúc đấy chúng tôi phải chạy cho khỏi bọn cộng sản đó là chúng tôi rất sợ bị bọn họ bắt lại. Bởi vì chúng tôi đã từng chiến đấu quyết liệt với bọn họ, lúc chúng tôi còn ở quê nhà cũng như lúc chúng tôi đến định cư ở Lào. Trước sau gì trong con mắt của cộng sản, chúng tôi vẫn là kẻ thù muôn đời của bọn họ, và họ thề phải tận diệt chúng tôi. Bởi vì trong chế độ cộng sản, tòa án nhân dân truy xét tội nhân hồi tố tới ba đời lý lịch. Nói cách khác, nếu chúng tôi khư khư quyết ở lại Lào, thì sớm muộn gì tất cả chúng tôi cũng sẽ tùy theo trường hợp mà bị phân tán ra hết, đi tù, bị hành quyết, hay bị hành hạ cho đến chết mới thôi.
Lý do thứ ba thúc đấy chúng tôi phải rời khỏi đất Lào, chúng tôi cũng đã có nói qua rồi, đó là phần lớn chúng tôi chưa được nhìn nhận như một công dân Lào thật sự. Là những người không có quê hương và chống cộng, sống trong một thể chế vô nhân đạo không được ai che chở, thì làm sao chúng tôi có thể tồn tại được để mà sống ???? Con đường duy nhất mà chúng tôi có thể cho là tốt nhất để chúng tôi chọn là tìm một quốc gia nào có thể đón nhận chúng tôi, hiểu rõ hoàn cảnh chúng tôi và che chở cho chúng tôi. Vì lẽ đó mà chúng tôi phải vượt sông Cửu Long để đến đất Thái Lan.
Cuối cùng rồi chúng tôi thấy có quá nhiều lý do đã thúc giục chúng tôi phải chạy nhanh khỏi bọn cộng sản, và thật sự thà là chúng tôi chọn cái nghèo mà được tự do trong một thể chế hoàn toàn tự do và nhân đạo còn hơn là sống như một anh hùng đầy huy chương trong một thể chế độc tài cộng sản.
Chúng tôi đã được cho vào một trại tỵ nạn hơn ba tháng nay rồi, trại nầy hiện đang đầy nghẹt, và điều kiện sống của chúng tôi càng ngày càng đi xuống, hiện trạng về sức khỏe thật là bi đát, nhất là trong mùa mưa lũ nầy. Cọng thêm nổi lo sợ bị trả thù, nên tình hình an nguy của chúng tôi thật là tương đối thôi vì trại của chúng tôi nằm sát biên giới Thái-Lào.
Trước một tình hình cùng quẩn như thế, chúng tôi đã nhiều lần kêu gọi khẩn cấp đến vị đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ở Bangkok để xin cứu trợ và giúp đở về an ninh. Nhưng than ôi, những tiếng kêu báo nguy gần như tuyệt vọng của chúng tôi luôn luôn đụng phải một vách tường "không thông cảm", không có một giọt cứu trợ nào được gởi đến để giúp đở chúng tôi, và họ cũng chưa chấp nhận cho chúng tôi được quy chế tỵ nạn.
Mặt khác, từ khoản giữa tháng 7/75, nhà cầm quyền TháiLan luôn miệng thúc ép chúng tôi, không muốn chúng tôi có mặt trên đất Thái Lan vì lý do chánh trị và ngoại giao, những lý do cũng dễ hiểu thôi. Và bốn ngày sau, ngày 18/7/75 một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ Thái Lan đại diện chánh phủ Thái đi cùng với vị Phó Tỉnh Trưởng tỉnh Nông Khai, đến ngay trại chúng tôi, và bằng ngôn từ cứng rắn, dữ tợn, họ chánh thức thông báo cho chúng tôi quyết định của chánh phủ Thái là không muốn thấy sự có mặt của chúng tôi trên đất Thái Lan, đồng thời họ nghiên cứu phương cách thật tế nhất, nhanh gọn nhất để tống xuất chúng tôi về Lào.
Đứng trước một tình thế hết sức khó khăn như vậy, chúng tôi không biết phải hướng về ai để kêu cứu, chúng tôi đành phải gởi một tiếng kêu tuyệt vọng, bi thảm, đến nước Pháp, một quốc gia mà chúng tôi cảm thấy luôn luôn còn được khắng khít ràng buộc..........................................."
Tiếng kêu cứu đó cho đến nay vẫn chưa có hồi âm.....
PHỤ BẢN 2
Mấy ngày nay, có nhiều người Pháp từ Miền Nam Việt Nam về
đến Pháp. Cho tới giờ nầy thì họ đang còn ở đây. Báo chí truyền thanh truyền
hình đã rộng rãi loan tin về họ. Những người Pháp hồi hương nầy có mang theo
nhiều tin tức của quốc gia mà họ vừa được cho rời khỏi không lâu. Và thực sự
đây là những tin tức duy nhất mà chỉ có họ mới có thể có được, vì chánh quyền
mới tại Sài Gòn không cho phép bất cứ ai gởi bất cứ tin tức nào ra ngoài.
Và đây là một vài tin tức lượm lặt được từ những người Pháp vừa rời Sài Gòn ngày 15/8/1975 . Những tin tức nầy bổ túc và xác nhận những gì đã được một số báo chí ở đây đăng tải:
1. ĐỨC GIÁM MỤC SEITZ BỊ TRỤC XUẤT
Đức Giám Mục Seitz, cai quản Giáo Khu KonTum cùng với 6 Linh Mục truyền giáo và 3 bà nữ tu sĩ thuộc giáo khu đều bị trục xuất.
Giáo khu Kon Tum nằm trong một vùng thuộc Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng vùng nầy được gọi là "người thượng" thuộc dân tộc thiểu số, cho đến sau 1954 mới có thêm người kinh di cư từ Miền Bắc và miền thượng du Bắc Việt vào định cư.
Vùng Cao Nguyên nầy là nơi đã xảy ra nhiều trận đánh lớn trong những năm qua. Sau cuộc tấn công qui mô mùa xuân năm 1972, chỉ còn những thành phố và các trục lộ nối liền các thành phố nầy là vẫn nằm trong vòng kiểm soát của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa. Vùng phía bắc tỉnh KonTum và các khu rừng trong vùng Cao Nguyên đều bị Việt Cộng kiểm soát.
Phần giáo sĩ thì có hơn 20 linh mục người Pháp, khoản 40 giáo sĩ ViệtNam, và một số nữ tu sĩ trong đó có khoản 80 "bà sơ" người thượng làm việc rất đắc lực trong giáo khu nầy. Đức Ông Seitz đã đặt biệt dồn hết nỗ lựcvào công tác phát triển cho dân chúng người thượng vì đã từ bao nhiêu lâu họ gần như bị bỏ quên trong cuộc sống hằng ngày, thường không được người Kinh coi trọng.
Việc rao giảng Phúc Âm được coi như nhiệm vụ hàng đầu. Lần lần các cha người Việt chấp nhận một cuộc sống du mục bên cạnh dân chúng người thượng. Nhiều giáo đường do người Việt Nam dựng lên rất là sống động trên toàn giáo khu nầy.
Vài ngày sau cuộc tổng tấn công của Bắc Việt 10/3/1975, theo lệnh của Tổng Thống Thiệu, lực lượng của chánh phủ VNCH rút hết ra khỏi vùng Cao Nguyên, trong đó có hai tỉnh KonTum và Pleiku của giáo khu. Sau đó đã có một sự di tản ồ ạt của gần hết dân chúng vùng Cao Nguên (người Việt) cốt sao chạy cho khỏi bọn xăm lăng cộng sản.
Ngày 25/3/75, khi hay tin có hai người bác sĩ (một người Mỹ và một người Tân Tây Lan) phục vụ tại bệnh viện Kontum, bị cộng sản bắt dẫn đi, Đức Ông Seitz liền chỉ định và đưa vị trợ giám mục lên thay thế Ngài. Ông đã xử dụng quyền hạn mà Tòa Thánh La Mã đã cho phép từ lâu đối với các giáo khu nào đang gặp khó khăn đe dọa.
Vào đầu tháng 7/75 thì Đức Ông và các linh mục người Pháp bị quản thúc tại Tòa Giám Mục. Chánh quyền mới lên, nói đúng hơn là các "bộ đội" từ Miền Bắc vào, phổ biến những tuyên ngôn và luật lệ cũ từ thời Hồ Chí Minh, xác nhận sự tự do hành đạo.
Thật ra ở Pháp bây giờ chúng ta đã nghe biết là trong một số tỉnh nhất là tỉnh Kontum, các linh mục người Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn khi họ muốn được trở về giáo đường của mình, hay để quản trị các giáo đường: các ban quân quản địa phương không cấp phép cho họ được đi từ làng nầy qua làng khác một cách dễ dàng. Lý do nêu ra là tình hình an ninh các trục giao thông chưa được tái lập đúng mức.
Đức Ông Seitz và các hàng giáo sĩ của Ngài, từ lâu đã thấy trước sau gì quân đội Miền Bắc cũng chiếm tỉnh KonTum, nên lúc nào cũng sẳn sàng chấp nhận sự kiện nầy và hậu quả của nó, miễn là còn giữ được sự sinh hoạt của hội Thánh trong giáo khu của Ngài. Theo dư luận chung của Tòa Giám Mục và của phần đông các linh mục, thì chỉ cần tránh đừng để có thái độ từ khước, hay chống đối, mà phải giả bộ ngu ngơ đối với chánh quyền dân sự mới (trên thật tế vẫn còn là "quân sự"), và theo những hướng dẫn của Giáo Hội La Mã, như vậy sẽ có khả năng để các giáo đường tham gia vào nỗ lực chung của quốc gia, nhằm nâng cao đời sống, tiến bộ của xã hội, trình độ giáo dục v.v... trong phạm vi căn bản của tín ngưỡng.
Do vậy mà sau đó Đức Ông và vị Trợ Giám Mục của Ngài đã thử liên lạc với Ban Quân Quản để xin được gặp chánh quyền hiện tại. Một thời gian sau đó thì hai vị được họ gọi đến ủy ban.
Với gương mặt lạnh như đồng, chủ tịch ủy ban tiếp hai người, và vừa vào đề đã "chơi" ngay:
- "Các ông đã viết cho chúng tôi những điều không thể nào chấp nhận được, khi các ông nói "hợp tác" với chúng tôi. Các ông nói "hợp tác" có nghĩa là các ông tự cho các ông là những người ngang hàng với chúng tôi. Đâu có được! không thể chấp nhận được ! Ở đây chúng tôi là "xếp", các ông cũng như những người khác, các ông chỉ có tuân theo lệnh mà thôi."
Và mọi việc đến đây coi như chấm dứt. Hai vị Giám Mục nghĩ rằng mình chưa làm hết sức mình để hội nhập với tình hình mới. Để biết phải làm gì với tình hình nầy, ý nghĩa của tình hình nầy cả hai bên đều không bên nào nhận xét giống bên nào. Và hai Ngài bàn thảo với các linh mục tiếp tục nỗ lực tìm mọi cách để được "nói chuyện lại" với ủy ban.[tác giả chua thêm trong dấu ngoặc: ở đây tôi muốn dùng danh từ "nói đi nói lại" (rengaine), "lặp đi lặp lại", mà Giáo Hội phương Tây của chúng ta thường xử dụng. Nhưng ở Việt Nam thì không phải chỉ có "ăn nói ba hoa" là đủ, mà phải bằng mọi cách, làm hết sức mình để cho các nhà thờ không bị lu mờ, giữ được sự có mặt thường xuyên của Giáo Hội trong sinh hoạt dân chúng hằng ngày.)
Sau khi suy tính rất chính chắn, hai vị Giám Mục quyết định xin được hội kiến với vị tỉnh trưởng, để trình lên một câu hỏi chính xác và khẩn cấp: đó là vấn đề bệnh viện KonTum. Trước kia bệnh viện được Giáo Khu trách nhiệm coi sóc, mà giờ thì coi như vô tổ chức và không có thuốc men trị liệu. Sau khi hai vị bác sĩ bị bắt đưa đi nơi khác rồi thì các nữ tu sĩ người thượng đã cố gắng hết sức mình đãm trách đủ mọi việc kể cả giải phẩu, và đã thành công. Cũng như tại bệnh viện cùi ở Tuy Hòa, mọi y vụ tại bệnh viện Kon Tum đều do các nữ tu sĩ điều hành. Sau đó một bác sĩ Việt Nam từ Hànội được đưa tới nhận nhiệm vụ, nhưng ai cũng thấy ngay là ông không có một chút khả năng nào hay một kinh nghiệm nào về y khoa cả.(và đó không phải trường hợp duy nhất thấy được ở Miền Nam Việt Nam hiện nay).
Qua bao nhiêu ngày chờ đợi, sáng ngày chúa nhật 10/8/75 hai vị Giám Mục nhận được giấy trả lời: buổi gặp gở được ấn định vào 13 giờ cùng ngày, chúa nhật 10/8/75 . Hai vị trả lời lại là không thể đến kịp vào 13 giờ như đã ấn định vì lý do bất khả kháng, nhưng hai vị xin được đến từ 15 giờ trở lên vì không còn thời gian để trì hoản buổi tiếp xúc được nữa. Người ta cho biết ngay trong buổi sáng hôm đó là buổi hẹn được dời lại ngày hôm sau, 11/8/75 .
Chánh quyền tiếp hai vị Giám Mục rất nồng hậu, luôn luôn tươi cười..với tất cả những gì gọi là lễ phép của người Việt Nam khi họ tiếp khách, nhất là khách quý, trà nước đủ lễ.....Rồi sau đó họ đi vào vấn đề mà hai vị Giám Mục muốn nêu lên. Câu trả lời của họ là: "Rất tốt, chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề." Các ủy viên chánh trị (chủ tịch ủy ban hành chánh tỉnh và hai người nữa, nếu nhớ không lầm) hỏi hai vị Giám Mục còn vấn đề nào cần nêu lên nữa hay không. Hai Ngài cũng có nêu lên vài vấn đề (các tu sĩ đi lại khó khăn, kể cả các linh mục Việt Nam cũng vậy v.v...) Cũng lại một câu trả lời tương tự: chờ nghiên cứu. Sau đó ủy ban hỏi thêm hai Ngài có ý định tổ chức lễ "Thánh Mẫu Thăng Thiên" vào ngày 15/8 hay không ? Hai Ngài trả lời là vào mùa mưa như vầy không cho phép tổ chức gì hơn được, các nhà thờ chỉ tổ chức trong phạm vi họ đạo của mình mà thôi, vì đã có lệ như vậy hằng năm vào mùa mưa như vầy rồi.
Một câu hỏi khác được ông chủ tịch ủy ban nêu lên: "Các vị có nghĩ là chúng ta có nên có một buổi họp chung giữa các giáo sĩ và các nữ tu sĩ với chúng tôi để cùng nhau ta xem xét mọi vấn đề hay không?". Hai Ngài thấy không còn gì bằng nên vui vẻ chấp nhận đề nghị nầy ngay. Chiều tối hôm thứ hai đó người ta cho hay là buổi họp mặt sẽ diễn ra ngày mai thứ ba 12 tháng 8, chia ra làm 3 nhóm: các linh mục Việt Nam , các nữ tu sĩ Việt Nam kinh và thượng, các linh mục và các nữ tu sĩ ngoại quốc (có nghĩa là Pháp). Giờ họp: 8 giờ, ngày 12/8/75 .
Từ 6.30 sáng ngày 12 tháng 8, có xe lại đón Đức Ông Seitz và cả 6 vị linh mục Pháp đến phòng họp. Các linh mục cho biết là còn quá sớm để đi hội, các linh mục còn phải làm lễ buổi sáng xong mới đi được. Ngay sau khi làm lễ xong họ lên xe.
Vừa bước lên xe, Đức Ông Seitz nhận thấy có hai anh bộ đội cầm súng ngồi phía sau xe. Ngài tự nhũ thầm: " Xong rồi !". Đã từ lâu tất cả đều biết là việc nầy sẽ xảy ra trong một ngày nào đó mà thôi.
Chiếc xe không đi đúng con đường dẫn đến nơi đã được quy định cho buổi họp, mà lại đưa các linh mục đến một đồn quân sự cũ cách KonTum 12 cây số trên con đường đi PleiKu.Trong thời gian chờ đợi hơi lâu, họ cho dọn bữa ăn sáng cho các linh mục, sau đó một người có trách nhiệm bước ra kêu tên điểm danh từ linh mục một, và trao cho mỗi người một "lệnh trục xuất" viết tay, thi hành ngay trong vòng 74 tiếng đồng hồ ! Người ta ghi rõ là tất cả đều được đưa ngay tới phi cảng Sài Gòn. Các linh mục yêu cầu được về nhà thờ để lấy một ít vật dụng cá nhơn mang theo. Người ta từ chối ngay nhưng cho phép mỗi linh mục được ghi trên một mảnh giấy danh sách các món cần lấy và cần mang theo.
Vào khoản 11 giờ thì được lệnh khởi hành. Ba nữ tu sĩ Pháp (Saint Vincent de Paul) và hai vị bác sĩ bị bắt đi hôm trước (đã có nói ở trên) được đưa tới để cùng đi. Tất cả được chia ra đi làm 2 xe, chiếc xe sau là xe nhỏ dành cho các nữ tu sĩ, 2 bác sĩ và vài vị linh mục. (xin ghi nhận ở đây là 2 bác sĩ nói trên bị bắt đưa đi một trại tù lao động khổ sai cho đến nay, cách KonTum 3o cây số, chớ không phải được đưa đi một bệnh viện lớn quan trọng hơn bệnh viện KonTum như tôi đã thật thà nghĩ như vậy, khi vào cuối tháng 5/75 ở Sài Gòn tôi nghe tin họ bị đưa đi khỏi bệnh viện Kontum. -Lời chua thêm của tác giả-)
Cuộc hành trình từ KonTum đến Sài Gòn kéo dài trong 3 ngày (1100 cây số). Những trạm nghỉ trên đoạn đường dài nầy đã được dự trù và tổ chức trước cả rồi. Đêm đầu tiên các giáo sĩ được đưa vào nghỉ trong ty cảnh sát tỉnh Bình Định, đêm thứ hai tại văn phòng của tỉnh Ba Ngòi (Camranh). Việc ăn uống và chỗ nghỉ ngơi tuy bình thường nhưng cũng được đầy đủ.
Trên đường di chuyển, các Linh mục không thể nào làm lễ được. Tất cả đều được người ta bố trí để không cho dân chúng biết hay để ý gì đến chuyến đi nầy. Có một lần, lợi dụng lúc xe ngừng nghỉ Đức Ông Seitz bước xuống xe và lững thững đi dạo dọc theo trục lộ, vừa đi vừa lần chuỗi vừa đọc kinh, rất tự nhiên. Trưởng đoàn xe lật đật chạy lại và mời Ngài lên xe.
- "Như vậy tôi là tù hay sao?" Ngài hỏi lại ngay.
- "Mời Ngài lên xe cho, xin Ngài hiểu giùm tình cảnh của tôi." trưởng đoàn xe trả lời.... .
Đến chiều ngày thứ ba 14/8/1975 thì tới Sài Gòn, đoàn xe ngừng tại khách sạn Caravelle, khách sạn lớn nhất thành phố. Tất cả được đưa lên lầu một và bị cấm không được xuống tầng trệt và cấm gọi điện thoại. Ngoài hành lang thì có bộ đội đứng gát thường trực. Nhưng cũng phải nhìn nhận là trước đó, cũng như trên đường di chuyển hay lúc ở Sài Gòn, không thấy có một hành động vũ lực nào đối với các linh mục và các nữ tu sĩ, những người bị trục xuất.
Vào lúc 9 giờ tối, người ta phát cho các tu sĩ mỗi người một "đơn xin xuất cảnh", một mẫu đơn quây "ronéo" mà mọi người đều phải điền vào để xin chiếu khán xuất cảnh. Tất cả đều từ chối không chịu ký vào đơn nầy. Cãi qua cãi lại thật sôi nổi, cuối cùng Đức Ông Seitz tuyên bố sẳn sàng ký vào một bản văn "chấp nhận lệnh trục xuất khỏi Việt Nam", ngoài ra còn đòi hỏi phải được liên lạc với đại diện tòa đại sứ hay lãnh sự quán Pháp, với giòng truyền giáo địa phương và với Tòa Khâm Sứ Vatican. Người ta chỉ hứa xem lại chớ không trả lời dứt khoát.
Ngày hôm sau, 15/8/75 , vào lúc 8 giờ sáng, người ta chấp thuận cho tùy ý sửa chữa bản văn đề nghị hôm qua. Và như thế là các linh mục ký tên vào bản văn do Đức Giám Mục Seitz đề nghị "đồng ý chấp nhận quyết định trục xuất" họ ra khỏi Việt Nam. Và họ tiếp tục đề nghị cho phép liên lạc với một đại diện của nước Pháp, với giòng truyền giáo địa phương, hay tòa Khâm Sứ, thì được hứa là sẽ cho gặp trước giờ khởi hành.
Vào lúc 10 giờ 30, trong lúc đang dùng cơm trưa tại khách sạn Caravelle thì vị Lãnh Sự Pháp không hiểu được thông báo bằng cách nào, điện thoại được cho Đức Giám Mục Seitz để bảo đãm với Ngài là một đại diện của nước Pháp sẽ có mặt tại phi trường trước giờ bay.
Vào khoản 12 giờ trưa đoàn xe chở tất cả ra phi trường. Vị Phó Lãnh Sự Pháp và 2 Linh Mục thuộc giòng truyền giáo đã có mặt để chào tiển những người ra đi. Người ta đợi đến phút chót trước khi phi cơ cất cánh mới đưa các linh mục và các nữ tu sĩ lên chiếc Caravelle của Hàng Không Lào, hàng không duy nhất trong hiện tại đãm trách chuyên chở những người ngoại quốc rời khỏi Việt Nam .
Đứng dưới chân cầu thang bắt lên cửa phi cơ, anh bộ đội Bắc Việt có trách nhiệm đưa các tu sĩ từ KonTum đến Sài Gòn, mặt mày sáng rỡ, tươi cười rất cởi mở đưa tay vui vẻ vẫy chào tiễn từng người hành khách lên phi cơ...dĩ nhiên chỉ nhằm mục đích để cho đồng bọn và những người làm tin của họ chụp ảnh !
Chúng ta thử đoán xem coi vì những lý do nào mà có những trường hợp trục xuất như thế.
Sự việc đã hiển nhiên như vậy rồi thì những người ngoại quốc còn lại ở Việt Nam phải dự trù trước là có một ngày nào đó họ cũng sẽ bị tống xuất ra khỏi Việt Nam, đây chỉ là vấn đề thời gian mà thôi, có thể vào tháng nào hay năm nào đó không chừng. Các linh mục người Pháp cuối cùng đã rời khỏi Miền Bắc Việt Nam vào năm 1960, nghĩa là 6 năm sau khi chánh phủ cộng sản vào Hànội, nhưng tại sao chỉ mới chiếm xong Miền Nam có 4 tháng mà các linh mục và tu sĩ ở KonTum lại bị cộng sản trục xuất ? Các linh mục bị trục xuất đưa ra hai lý do:
1)- Họ là những nhân chứng quá trở ngại cho cộng sản: Mặc dầu bị quản thúc trong Tòa Giám Mục, họ cũng có được rất nhiều tin tức. Vì họ hoàn toàn sống hòa đồng với dân chúng, được dân chúng tin yêu, nhất là trẻ em, nên họ biết rõ một cách không khó khăn gì về đời sống của mọi người trong khắp vùng Cao Nguyên nầy dần dà bị thay đổi như thế nào từ sau ngày Miền Nam Việt Nam bị Bắc Việt cưỡng chiếm.
2)- Họ không thể nào hội nhập được với thể chế mới, một thể chế của những người cộng sản vô thần.
3)-người ta cũng có thể thêm vào 2 lý do trên một sự kiện nữa: đó là vì các linh mục là những người đã đặc biệt giúp đở tận tình "đồng bào thượng", họ sẽ là nơi nương tựa che chở cuối cùng của những người thuộc dân tộc thiểu số nầy trước một mưu toan diệt chủng mà bọn cộng sản Việt Nam có thể đang dụng ý cho tiến hành. Những tin tức sau cùng từ những người dân "thượng" hình như có ám chỉ là chánh quyền cộng sản có ý đồ muốn tiêu diệt hết các dân tộc thiểu số Miền Cao Nguyên.
2. MỘT VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH HIỆN TẠI Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
Tin tức đến được trong những ngày gần đây đã cho thấy là đã có một sự cách ly từ từ ở khắp mọi nơi. Tại các tỉnh thì đã có cái mà người ta gọi là "ngăn sông cấm chợ". Tại Sài Gòn thì dĩ nhiên sự việc tiến hành có chậm hơn.
Ở các tỉnh khi muốn đi ra khỏi nơi cư ngụ đến làng khác hay đến quận tỉnh thì phải xin giấy phép. Các giấy phép nầy đôi khi phải xin lâu mới có được, vì phải có thời gian để nghiên cứu và điều tra nếu cần.(tại Sài Gòn vào cuối tháng 5/75 cũng y như vậy cho các trường hợp xin thay đổi chỗ ở)
Có những trại tù lao động được thành lập để chánh quyền đưa những người bị tình nghi là có tư tưởng hay hành động chống đối chế độ mới. Lao động bắt buộc 11 giờ một ngày, cơm thì chỉ cho ăn vừa đủ để sống mà thôi. Trong vùng Kontum, hệ thống nhà tù lao động được tổ chức cho mỗi khu vực hành chánh. Đức Giám Mục Seitz đã từng nói gần đây: "Dư luận quốc tế có lúc đã báo động về các trại tù chánh trị của V NCH , mà không một ai chứng minh được là đúng hay sai. Nhưng bây giờ người ta mới nhận thức được rõ ràng là ở Miền Nam Việt Nam đang hình thành một quần đão Goulag, đúng là một quần đão Goulag Việt Nam ".
Về việc nầy thì báo chí Tây Phương đều im lặng không nói lên được một câu nào. (Tôi ước mong rằng những vị nữ tu sĩ như bà Francoise Vandermeersh và dĩ nhiên vài bà khác nữa, hảy lên tiếng xem sao, dù là chỉ bằng một phần tối thiểu của những nỗ lực mà cách đây hai năm mấy bà đã tốn hao công sức để chê trách nhà tù của Việt Nam Cộng Hòa. Hảy nói lên đi ! nói lên đi, để cho thế giới thấy được những gì đã xảy ra sau những bức tường thép đã che kín nước Việt Nam , cách ly nước Việt Nam với thế giới bên ngoài ! Dưới chế độ chánh trị mới nầy, đâu có phải chuyện dễ làm khi mấy bà muốn xin được một chiếu khán nhập cảnh ? dù chỉ trong thời hạn một tháng thôi, đừng nói chi đến chuyện muốn đi khắp nơi tùy ý mình, đi thăm viếng một số trại tù hoặc đi thăm gia đình của những người tù nhân chánh trị, một chuyện không có gì là khó khăn cả dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một chuyện rất dễ dàng mà mấy bà đã lạm dụng quá trớn và đầy ác ý mấy năm trước đây!)
Đồng bào miền thượng trong vùng KonTum mấy năm trước đây đã lần lần định cư được trong những khu vực ổn định và trù phú hơn trước, thì nay họ bị bắt buộc phải "hồi cư", bị đưa về nguyên quán. Dĩ nhiên các linh mục hay tu sĩ nào lo cho đời sống và cho sự phát triển của họ đều không thể đi theo họ được. Được biết là từ 1/5/75 cho đến nay đã có 40% số tử vong trong số đồng bào nầy. Con số tử vong nầy có hơi cao, do có sự thay đổi đột ngột về thời tiết (từ những vùng có cao độ 150 thước đến vùng có cao độ 800 hay 900 thước), do phải trở về những vùng không được sạch sẻ, do thiếu thuốc men và không có được giúp đở gì về y tế, do thiếu dinh dưỡng hoặc không có gì để ăn vì họ chưa có trồng trọt được gì hay vì không tìm được thức ăn trong rừng, nơi mà họ đang bị bắt buộc phải về sống rãi rác trong đó. Rõ ràng đây là một hành động có tính cách diệt chủng đang được người ta cho tiến hành.
Tình hình mỗi tỉnh mỗi khác tùy theo người chỉ huy ở địa phương. Riêng tại KonTum, nói về chủng viện, thì Đức Giám Mục và vị Trợ Giám Mục của Ngài đã dựa theo tuyên ngôn của Hồ chí Minh, nói rằng tất cả trường học đều được quốc hữu hóa, nhưng những trường đào tạo tu sĩ của tôn giáo nào thì tôn giáo đó vẫn còn chịu trách nhiệm, nên hai Ngài quyết định cho mở lại chủng viện gọi là "trường dạy môn thần học". Trong số 50 chủng sinh trình diện tại Kontum để sẽ vào học lại ở chủng viện Dalat, Đànẵng hay Hué. 30 người bị chánh quyền bắt trở về làng của họ để điền cho xong các giấy tờ hành chánh cần thiết, nên chỉ còn lại 20 chủng sinh mà thôi. Do vậy mà không có ai bảo được là chế độ cộng sản đóng cửa các chủng viện.
Tại Sài Gòn, những người ngoại quốc muốn xin đi ra ngoài thì thủ tục càng ngày càng thêm nhiêu khê. Hành lý mang theo trên phi cơ (20 Kílô) bị khám xét từ món tuy là phải khai báo trước ba ngày. Một giáo sư cho tôi biết là cho đến các mảnh giấy viết tay ghi "nốt" của ông cũng đều bị xét xem kỹ, từng chữ một, từ mảnh giấy một. Giáo sư và vợ ông ta trên nguyên tắc được 40 kílô hành lý (20 Kg x 2), ít nhất trên thế giới văn minh nầy ở đâu cũng vậy, nhưng ở Sài Gòn thì phải có riêng mỗi người 20 kí không được tính chung (như 17 + 23 là không được.). Có nhiều món bị tịch thu hay trưng dụng, kể cả xe ô tô mà sở hữu chủ là những người sắp ra đi. Nhưng cũng có một vài trường hợp mà người ta cho phép được gởi theo sau đó, bằng tàu thủy, có Trời mà biết được sẽ được gởi đi và đến lúc nào, vì cho tới giờ nầy chưa có một dấu hiệu nào cho thấy sẽ có một sự chuyên chở hàng hóa bằng đường biển đến các nước không cộng sản.
Tại Sài Gòn, xe phóng thanh chạy khắp các đường phố, đọc khẩu hiệu tuyên truyền ầm ỉ, thỉnh thoảng xen vào các bài hát nặc mùi đấu tranh hay gây căm thù, như là: "giết chết bọn Mỹ, giết hết kẻ thù của cộng sản, bất kể già trẻ bé lớn...."
Dân chúng dĩ nhiên bị bắt buộc phải đi dự các buổi nói chuyện được tổ chức cho từng loại, từng thành phần, không đi không được, thời gian đôi lúc kéo dài nhiều giờ mỗi ngày. Tại một vài thành phố, người ta nghe hét lên suốt ngày những bài diễn văn tào lao không đâu ra đâu, nặc mùi lý thuyết không thực tế. Tôi nghĩ rằng những người Tây Phương nào còn kẹt lại Việt Nam đến giờ nầy chắc sẽ phải kiên nhẫn lắm mới chịu đựng nổi không khí ồn ào vô bổ nầy.
Tất cả những điều sau đây sẽ bổ túc cho nhận xét đúng đắng về thực trạng:
Guồng máy kềm kẹp của cộng sản càng ngày càng siết chặt, dân chúng Miền Nam Việt Nam đang sống trong một không khí nặng nề gần như nghẹt thở.
Đây là một vài tin tức chính xác ghi nhận được đến giờ nầy:
Sự kiện quân đội Bắc Việt xăm chiếm Miền Nam Việt Nam, áp đặt cho dân chúng một tà thuyết cộng sản ngoại lai, nhìn bề ngoài thì không thấy có gì gọi là chướng ngại, là chống đối rõ rệt, nhưng do Bắc Việt đã bố trí quá nhiều trò xão quyệt nhằm mục đích tối hậu là siết cổ người dân trong tương lai, khôn mà không ngoan, nên đã tạo ra một không khí nghi kỵ, sợ sệt ngay từ giờ phút đầu trong dân chúng, giờ phút mà cộng sản tự cho là "giờ phút đồng bào Miền Nam được họ giải phóng".
Tại Sài Gòn, người nào đã ít nhiều có làm việc cho Mỹ, dù là trong một cơ hội nào đó thôi đều bị đuổi ra khỏi nhà, (không cần biết gia đình họ sẽ sống ra sao và ở đâu), dĩ nhiên nhà của họ bị tịch thu tức khắc, đương nhiên trở thành "tài sản của nhân dân".
Rất nhiều người đem bày bán ngoài lề đường phố những gì họ có thể bán đựợc để có ít tiền sanh sống qua ngày, trong tình thế bắt buộc phải tìm "bát cơm cứu đói cho gia đình" mà phải bán đổ bán tháo, những món hàng "thượng vàng hạ cám" nầy qua tay vài người rồi cũng theo xe bộ đội ra hết Miền Bắc Việt.
Biểu tình trong ba ngày liền "đòi cho biết tin tức chồng con": Những bà vợ có chồng bị đưa đi gọi là "học tập cải tạo" trong vòng 10 ngày như thông cáo chánh thức đã ấn định, nay đã trên hai tháng rồi mà không có tin tức gì của chồng con, không biết đi học tập ở đâu, sống hay chết v..v..có nơi lại có thông cáo cho biết là họ đã chết, không nói rõ chi tiết....do đó họ biểu tình ngồi lỳ tại tòa thị chính Sài Gòn, dĩ nhiên là không có kết quả gì.
Có sự kiện trái ngược là những người công giáo lại có đức tin mạnh mẽ hơn trước. Chúng tôi đi vào một nhà nguyện mới trong một khu mộ. Một người phát biểu: "Tôi thấy có nhiều nghị lực hơn nữa cho đức tin của chúng ta."
HỠI TẤT CẢ NHỮNG BẠN ĐỌC THÂN YÊU,
Các bạn nào đã từng có đóng góp giúp đỡ cho Nhà Thờ ở Việt Nam , và vẫn còn tiếp tục cầu nguyện cho những người bạn Việt Nam của chúng ta, các bạn sẽ còn rất lưu tâm đến những tin tức nói trên. Trong những tuần lễ gần đây báo chí đây đó đã bắt đầu loan nhiều tin tức chính xác không bị bóp méo nữa, sau bao nhiêu năm cung cấp cho người Pháp chúng ta một cái nhìn hoàn toàn sai lạc về những gì đã xảy ra tại Việt Nam (không hiểu có nguyên nhân bí mật nào ?).
Những tin tức vụn vặt vừa nêu trên rất đáng được tin cậy vì lẽ xuất phát từ chính những công dân Pháp vừa mới hồi hương, từ nước Việt Nam về đây....
Chúng ta hãy tiếp tục CẦU NGUYỆN, VÀ CẦU NGUYỆN NHIỀU HƠN NỮA ! Chúng ta hãy nhớ tới những NGƯỜI TỴ NẠN VIỆT NAM TẠI NƯỚC PHÁP!
Xin cám ơn Chúa đã cho con cơ hội giúp đỡ được một số người tỵ nạn Việt Nam. Sau cùng, sự thận trọng bắt buộc tôi không nên phổ biến thêm nhiều tin tức khác nữa.
Paris , ngày 25 tháng 8 năm 1975.
Vanuxem
Và đây là một vài tin tức lượm lặt được từ những người Pháp vừa rời Sài Gòn ngày 15/8/1975 . Những tin tức nầy bổ túc và xác nhận những gì đã được một số báo chí ở đây đăng tải:
1. ĐỨC GIÁM MỤC SEITZ BỊ TRỤC XUẤT
Đức Giám Mục Seitz, cai quản Giáo Khu KonTum cùng với 6 Linh Mục truyền giáo và 3 bà nữ tu sĩ thuộc giáo khu đều bị trục xuất.
Giáo khu Kon Tum nằm trong một vùng thuộc Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng vùng nầy được gọi là "người thượng" thuộc dân tộc thiểu số, cho đến sau 1954 mới có thêm người kinh di cư từ Miền Bắc và miền thượng du Bắc Việt vào định cư.
Vùng Cao Nguyên nầy là nơi đã xảy ra nhiều trận đánh lớn trong những năm qua. Sau cuộc tấn công qui mô mùa xuân năm 1972, chỉ còn những thành phố và các trục lộ nối liền các thành phố nầy là vẫn nằm trong vòng kiểm soát của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa. Vùng phía bắc tỉnh KonTum và các khu rừng trong vùng Cao Nguyên đều bị Việt Cộng kiểm soát.
Phần giáo sĩ thì có hơn 20 linh mục người Pháp, khoản 40 giáo sĩ ViệtNam, và một số nữ tu sĩ trong đó có khoản 80 "bà sơ" người thượng làm việc rất đắc lực trong giáo khu nầy. Đức Ông Seitz đã đặt biệt dồn hết nỗ lựcvào công tác phát triển cho dân chúng người thượng vì đã từ bao nhiêu lâu họ gần như bị bỏ quên trong cuộc sống hằng ngày, thường không được người Kinh coi trọng.
Việc rao giảng Phúc Âm được coi như nhiệm vụ hàng đầu. Lần lần các cha người Việt chấp nhận một cuộc sống du mục bên cạnh dân chúng người thượng. Nhiều giáo đường do người Việt Nam dựng lên rất là sống động trên toàn giáo khu nầy.
Vài ngày sau cuộc tổng tấn công của Bắc Việt 10/3/1975, theo lệnh của Tổng Thống Thiệu, lực lượng của chánh phủ VNCH rút hết ra khỏi vùng Cao Nguyên, trong đó có hai tỉnh KonTum và Pleiku của giáo khu. Sau đó đã có một sự di tản ồ ạt của gần hết dân chúng vùng Cao Nguên (người Việt) cốt sao chạy cho khỏi bọn xăm lăng cộng sản.
Ngày 25/3/75, khi hay tin có hai người bác sĩ (một người Mỹ và một người Tân Tây Lan) phục vụ tại bệnh viện Kontum, bị cộng sản bắt dẫn đi, Đức Ông Seitz liền chỉ định và đưa vị trợ giám mục lên thay thế Ngài. Ông đã xử dụng quyền hạn mà Tòa Thánh La Mã đã cho phép từ lâu đối với các giáo khu nào đang gặp khó khăn đe dọa.
Vào đầu tháng 7/75 thì Đức Ông và các linh mục người Pháp bị quản thúc tại Tòa Giám Mục. Chánh quyền mới lên, nói đúng hơn là các "bộ đội" từ Miền Bắc vào, phổ biến những tuyên ngôn và luật lệ cũ từ thời Hồ Chí Minh, xác nhận sự tự do hành đạo.
Thật ra ở Pháp bây giờ chúng ta đã nghe biết là trong một số tỉnh nhất là tỉnh Kontum, các linh mục người Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn khi họ muốn được trở về giáo đường của mình, hay để quản trị các giáo đường: các ban quân quản địa phương không cấp phép cho họ được đi từ làng nầy qua làng khác một cách dễ dàng. Lý do nêu ra là tình hình an ninh các trục giao thông chưa được tái lập đúng mức.
Đức Ông Seitz và các hàng giáo sĩ của Ngài, từ lâu đã thấy trước sau gì quân đội Miền Bắc cũng chiếm tỉnh KonTum, nên lúc nào cũng sẳn sàng chấp nhận sự kiện nầy và hậu quả của nó, miễn là còn giữ được sự sinh hoạt của hội Thánh trong giáo khu của Ngài. Theo dư luận chung của Tòa Giám Mục và của phần đông các linh mục, thì chỉ cần tránh đừng để có thái độ từ khước, hay chống đối, mà phải giả bộ ngu ngơ đối với chánh quyền dân sự mới (trên thật tế vẫn còn là "quân sự"), và theo những hướng dẫn của Giáo Hội La Mã, như vậy sẽ có khả năng để các giáo đường tham gia vào nỗ lực chung của quốc gia, nhằm nâng cao đời sống, tiến bộ của xã hội, trình độ giáo dục v.v... trong phạm vi căn bản của tín ngưỡng.
Do vậy mà sau đó Đức Ông và vị Trợ Giám Mục của Ngài đã thử liên lạc với Ban Quân Quản để xin được gặp chánh quyền hiện tại. Một thời gian sau đó thì hai vị được họ gọi đến ủy ban.
Với gương mặt lạnh như đồng, chủ tịch ủy ban tiếp hai người, và vừa vào đề đã "chơi" ngay:
- "Các ông đã viết cho chúng tôi những điều không thể nào chấp nhận được, khi các ông nói "hợp tác" với chúng tôi. Các ông nói "hợp tác" có nghĩa là các ông tự cho các ông là những người ngang hàng với chúng tôi. Đâu có được! không thể chấp nhận được ! Ở đây chúng tôi là "xếp", các ông cũng như những người khác, các ông chỉ có tuân theo lệnh mà thôi."
Và mọi việc đến đây coi như chấm dứt. Hai vị Giám Mục nghĩ rằng mình chưa làm hết sức mình để hội nhập với tình hình mới. Để biết phải làm gì với tình hình nầy, ý nghĩa của tình hình nầy cả hai bên đều không bên nào nhận xét giống bên nào. Và hai Ngài bàn thảo với các linh mục tiếp tục nỗ lực tìm mọi cách để được "nói chuyện lại" với ủy ban.[tác giả chua thêm trong dấu ngoặc: ở đây tôi muốn dùng danh từ "nói đi nói lại" (rengaine), "lặp đi lặp lại", mà Giáo Hội phương Tây của chúng ta thường xử dụng. Nhưng ở Việt Nam thì không phải chỉ có "ăn nói ba hoa" là đủ, mà phải bằng mọi cách, làm hết sức mình để cho các nhà thờ không bị lu mờ, giữ được sự có mặt thường xuyên của Giáo Hội trong sinh hoạt dân chúng hằng ngày.)
Sau khi suy tính rất chính chắn, hai vị Giám Mục quyết định xin được hội kiến với vị tỉnh trưởng, để trình lên một câu hỏi chính xác và khẩn cấp: đó là vấn đề bệnh viện KonTum. Trước kia bệnh viện được Giáo Khu trách nhiệm coi sóc, mà giờ thì coi như vô tổ chức và không có thuốc men trị liệu. Sau khi hai vị bác sĩ bị bắt đưa đi nơi khác rồi thì các nữ tu sĩ người thượng đã cố gắng hết sức mình đãm trách đủ mọi việc kể cả giải phẩu, và đã thành công. Cũng như tại bệnh viện cùi ở Tuy Hòa, mọi y vụ tại bệnh viện Kon Tum đều do các nữ tu sĩ điều hành. Sau đó một bác sĩ Việt Nam từ Hànội được đưa tới nhận nhiệm vụ, nhưng ai cũng thấy ngay là ông không có một chút khả năng nào hay một kinh nghiệm nào về y khoa cả.(và đó không phải trường hợp duy nhất thấy được ở Miền Nam Việt Nam hiện nay).
Qua bao nhiêu ngày chờ đợi, sáng ngày chúa nhật 10/8/75 hai vị Giám Mục nhận được giấy trả lời: buổi gặp gở được ấn định vào 13 giờ cùng ngày, chúa nhật 10/8/75 . Hai vị trả lời lại là không thể đến kịp vào 13 giờ như đã ấn định vì lý do bất khả kháng, nhưng hai vị xin được đến từ 15 giờ trở lên vì không còn thời gian để trì hoản buổi tiếp xúc được nữa. Người ta cho biết ngay trong buổi sáng hôm đó là buổi hẹn được dời lại ngày hôm sau, 11/8/75 .
Chánh quyền tiếp hai vị Giám Mục rất nồng hậu, luôn luôn tươi cười..với tất cả những gì gọi là lễ phép của người Việt Nam khi họ tiếp khách, nhất là khách quý, trà nước đủ lễ.....Rồi sau đó họ đi vào vấn đề mà hai vị Giám Mục muốn nêu lên. Câu trả lời của họ là: "Rất tốt, chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ vấn đề." Các ủy viên chánh trị (chủ tịch ủy ban hành chánh tỉnh và hai người nữa, nếu nhớ không lầm) hỏi hai vị Giám Mục còn vấn đề nào cần nêu lên nữa hay không. Hai Ngài cũng có nêu lên vài vấn đề (các tu sĩ đi lại khó khăn, kể cả các linh mục Việt Nam cũng vậy v.v...) Cũng lại một câu trả lời tương tự: chờ nghiên cứu. Sau đó ủy ban hỏi thêm hai Ngài có ý định tổ chức lễ "Thánh Mẫu Thăng Thiên" vào ngày 15/8 hay không ? Hai Ngài trả lời là vào mùa mưa như vầy không cho phép tổ chức gì hơn được, các nhà thờ chỉ tổ chức trong phạm vi họ đạo của mình mà thôi, vì đã có lệ như vậy hằng năm vào mùa mưa như vầy rồi.
Một câu hỏi khác được ông chủ tịch ủy ban nêu lên: "Các vị có nghĩ là chúng ta có nên có một buổi họp chung giữa các giáo sĩ và các nữ tu sĩ với chúng tôi để cùng nhau ta xem xét mọi vấn đề hay không?". Hai Ngài thấy không còn gì bằng nên vui vẻ chấp nhận đề nghị nầy ngay. Chiều tối hôm thứ hai đó người ta cho hay là buổi họp mặt sẽ diễn ra ngày mai thứ ba 12 tháng 8, chia ra làm 3 nhóm: các linh mục Việt Nam , các nữ tu sĩ Việt Nam kinh và thượng, các linh mục và các nữ tu sĩ ngoại quốc (có nghĩa là Pháp). Giờ họp: 8 giờ, ngày 12/8/75 .
Từ 6.30 sáng ngày 12 tháng 8, có xe lại đón Đức Ông Seitz và cả 6 vị linh mục Pháp đến phòng họp. Các linh mục cho biết là còn quá sớm để đi hội, các linh mục còn phải làm lễ buổi sáng xong mới đi được. Ngay sau khi làm lễ xong họ lên xe.
Vừa bước lên xe, Đức Ông Seitz nhận thấy có hai anh bộ đội cầm súng ngồi phía sau xe. Ngài tự nhũ thầm: " Xong rồi !". Đã từ lâu tất cả đều biết là việc nầy sẽ xảy ra trong một ngày nào đó mà thôi.
Chiếc xe không đi đúng con đường dẫn đến nơi đã được quy định cho buổi họp, mà lại đưa các linh mục đến một đồn quân sự cũ cách KonTum 12 cây số trên con đường đi PleiKu.Trong thời gian chờ đợi hơi lâu, họ cho dọn bữa ăn sáng cho các linh mục, sau đó một người có trách nhiệm bước ra kêu tên điểm danh từ linh mục một, và trao cho mỗi người một "lệnh trục xuất" viết tay, thi hành ngay trong vòng 74 tiếng đồng hồ ! Người ta ghi rõ là tất cả đều được đưa ngay tới phi cảng Sài Gòn. Các linh mục yêu cầu được về nhà thờ để lấy một ít vật dụng cá nhơn mang theo. Người ta từ chối ngay nhưng cho phép mỗi linh mục được ghi trên một mảnh giấy danh sách các món cần lấy và cần mang theo.
Vào khoản 11 giờ thì được lệnh khởi hành. Ba nữ tu sĩ Pháp (Saint Vincent de Paul) và hai vị bác sĩ bị bắt đi hôm trước (đã có nói ở trên) được đưa tới để cùng đi. Tất cả được chia ra đi làm 2 xe, chiếc xe sau là xe nhỏ dành cho các nữ tu sĩ, 2 bác sĩ và vài vị linh mục. (xin ghi nhận ở đây là 2 bác sĩ nói trên bị bắt đưa đi một trại tù lao động khổ sai cho đến nay, cách KonTum 3o cây số, chớ không phải được đưa đi một bệnh viện lớn quan trọng hơn bệnh viện KonTum như tôi đã thật thà nghĩ như vậy, khi vào cuối tháng 5/75 ở Sài Gòn tôi nghe tin họ bị đưa đi khỏi bệnh viện Kontum. -Lời chua thêm của tác giả-)
Cuộc hành trình từ KonTum đến Sài Gòn kéo dài trong 3 ngày (1100 cây số). Những trạm nghỉ trên đoạn đường dài nầy đã được dự trù và tổ chức trước cả rồi. Đêm đầu tiên các giáo sĩ được đưa vào nghỉ trong ty cảnh sát tỉnh Bình Định, đêm thứ hai tại văn phòng của tỉnh Ba Ngòi (Camranh). Việc ăn uống và chỗ nghỉ ngơi tuy bình thường nhưng cũng được đầy đủ.
Trên đường di chuyển, các Linh mục không thể nào làm lễ được. Tất cả đều được người ta bố trí để không cho dân chúng biết hay để ý gì đến chuyến đi nầy. Có một lần, lợi dụng lúc xe ngừng nghỉ Đức Ông Seitz bước xuống xe và lững thững đi dạo dọc theo trục lộ, vừa đi vừa lần chuỗi vừa đọc kinh, rất tự nhiên. Trưởng đoàn xe lật đật chạy lại và mời Ngài lên xe.
- "Như vậy tôi là tù hay sao?" Ngài hỏi lại ngay.
- "Mời Ngài lên xe cho, xin Ngài hiểu giùm tình cảnh của tôi." trưởng đoàn xe trả lời.... .
Đến chiều ngày thứ ba 14/8/1975 thì tới Sài Gòn, đoàn xe ngừng tại khách sạn Caravelle, khách sạn lớn nhất thành phố. Tất cả được đưa lên lầu một và bị cấm không được xuống tầng trệt và cấm gọi điện thoại. Ngoài hành lang thì có bộ đội đứng gát thường trực. Nhưng cũng phải nhìn nhận là trước đó, cũng như trên đường di chuyển hay lúc ở Sài Gòn, không thấy có một hành động vũ lực nào đối với các linh mục và các nữ tu sĩ, những người bị trục xuất.
Vào lúc 9 giờ tối, người ta phát cho các tu sĩ mỗi người một "đơn xin xuất cảnh", một mẫu đơn quây "ronéo" mà mọi người đều phải điền vào để xin chiếu khán xuất cảnh. Tất cả đều từ chối không chịu ký vào đơn nầy. Cãi qua cãi lại thật sôi nổi, cuối cùng Đức Ông Seitz tuyên bố sẳn sàng ký vào một bản văn "chấp nhận lệnh trục xuất khỏi Việt Nam", ngoài ra còn đòi hỏi phải được liên lạc với đại diện tòa đại sứ hay lãnh sự quán Pháp, với giòng truyền giáo địa phương và với Tòa Khâm Sứ Vatican. Người ta chỉ hứa xem lại chớ không trả lời dứt khoát.
Ngày hôm sau, 15/8/75 , vào lúc 8 giờ sáng, người ta chấp thuận cho tùy ý sửa chữa bản văn đề nghị hôm qua. Và như thế là các linh mục ký tên vào bản văn do Đức Giám Mục Seitz đề nghị "đồng ý chấp nhận quyết định trục xuất" họ ra khỏi Việt Nam. Và họ tiếp tục đề nghị cho phép liên lạc với một đại diện của nước Pháp, với giòng truyền giáo địa phương, hay tòa Khâm Sứ, thì được hứa là sẽ cho gặp trước giờ khởi hành.
Vào lúc 10 giờ 30, trong lúc đang dùng cơm trưa tại khách sạn Caravelle thì vị Lãnh Sự Pháp không hiểu được thông báo bằng cách nào, điện thoại được cho Đức Giám Mục Seitz để bảo đãm với Ngài là một đại diện của nước Pháp sẽ có mặt tại phi trường trước giờ bay.
Vào khoản 12 giờ trưa đoàn xe chở tất cả ra phi trường. Vị Phó Lãnh Sự Pháp và 2 Linh Mục thuộc giòng truyền giáo đã có mặt để chào tiển những người ra đi. Người ta đợi đến phút chót trước khi phi cơ cất cánh mới đưa các linh mục và các nữ tu sĩ lên chiếc Caravelle của Hàng Không Lào, hàng không duy nhất trong hiện tại đãm trách chuyên chở những người ngoại quốc rời khỏi Việt Nam .
Đứng dưới chân cầu thang bắt lên cửa phi cơ, anh bộ đội Bắc Việt có trách nhiệm đưa các tu sĩ từ KonTum đến Sài Gòn, mặt mày sáng rỡ, tươi cười rất cởi mở đưa tay vui vẻ vẫy chào tiễn từng người hành khách lên phi cơ...dĩ nhiên chỉ nhằm mục đích để cho đồng bọn và những người làm tin của họ chụp ảnh !
Chúng ta thử đoán xem coi vì những lý do nào mà có những trường hợp trục xuất như thế.
Sự việc đã hiển nhiên như vậy rồi thì những người ngoại quốc còn lại ở Việt Nam phải dự trù trước là có một ngày nào đó họ cũng sẽ bị tống xuất ra khỏi Việt Nam, đây chỉ là vấn đề thời gian mà thôi, có thể vào tháng nào hay năm nào đó không chừng. Các linh mục người Pháp cuối cùng đã rời khỏi Miền Bắc Việt Nam vào năm 1960, nghĩa là 6 năm sau khi chánh phủ cộng sản vào Hànội, nhưng tại sao chỉ mới chiếm xong Miền Nam có 4 tháng mà các linh mục và tu sĩ ở KonTum lại bị cộng sản trục xuất ? Các linh mục bị trục xuất đưa ra hai lý do:
1)- Họ là những nhân chứng quá trở ngại cho cộng sản: Mặc dầu bị quản thúc trong Tòa Giám Mục, họ cũng có được rất nhiều tin tức. Vì họ hoàn toàn sống hòa đồng với dân chúng, được dân chúng tin yêu, nhất là trẻ em, nên họ biết rõ một cách không khó khăn gì về đời sống của mọi người trong khắp vùng Cao Nguyên nầy dần dà bị thay đổi như thế nào từ sau ngày Miền Nam Việt Nam bị Bắc Việt cưỡng chiếm.
2)- Họ không thể nào hội nhập được với thể chế mới, một thể chế của những người cộng sản vô thần.
3)-người ta cũng có thể thêm vào 2 lý do trên một sự kiện nữa: đó là vì các linh mục là những người đã đặc biệt giúp đở tận tình "đồng bào thượng", họ sẽ là nơi nương tựa che chở cuối cùng của những người thuộc dân tộc thiểu số nầy trước một mưu toan diệt chủng mà bọn cộng sản Việt Nam có thể đang dụng ý cho tiến hành. Những tin tức sau cùng từ những người dân "thượng" hình như có ám chỉ là chánh quyền cộng sản có ý đồ muốn tiêu diệt hết các dân tộc thiểu số Miền Cao Nguyên.
2. MỘT VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH HIỆN TẠI Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
Tin tức đến được trong những ngày gần đây đã cho thấy là đã có một sự cách ly từ từ ở khắp mọi nơi. Tại các tỉnh thì đã có cái mà người ta gọi là "ngăn sông cấm chợ". Tại Sài Gòn thì dĩ nhiên sự việc tiến hành có chậm hơn.
Ở các tỉnh khi muốn đi ra khỏi nơi cư ngụ đến làng khác hay đến quận tỉnh thì phải xin giấy phép. Các giấy phép nầy đôi khi phải xin lâu mới có được, vì phải có thời gian để nghiên cứu và điều tra nếu cần.(tại Sài Gòn vào cuối tháng 5/75 cũng y như vậy cho các trường hợp xin thay đổi chỗ ở)
Có những trại tù lao động được thành lập để chánh quyền đưa những người bị tình nghi là có tư tưởng hay hành động chống đối chế độ mới. Lao động bắt buộc 11 giờ một ngày, cơm thì chỉ cho ăn vừa đủ để sống mà thôi. Trong vùng Kontum, hệ thống nhà tù lao động được tổ chức cho mỗi khu vực hành chánh. Đức Giám Mục Seitz đã từng nói gần đây: "Dư luận quốc tế có lúc đã báo động về các trại tù chánh trị của V NCH , mà không một ai chứng minh được là đúng hay sai. Nhưng bây giờ người ta mới nhận thức được rõ ràng là ở Miền Nam Việt Nam đang hình thành một quần đão Goulag, đúng là một quần đão Goulag Việt Nam ".
Về việc nầy thì báo chí Tây Phương đều im lặng không nói lên được một câu nào. (Tôi ước mong rằng những vị nữ tu sĩ như bà Francoise Vandermeersh và dĩ nhiên vài bà khác nữa, hảy lên tiếng xem sao, dù là chỉ bằng một phần tối thiểu của những nỗ lực mà cách đây hai năm mấy bà đã tốn hao công sức để chê trách nhà tù của Việt Nam Cộng Hòa. Hảy nói lên đi ! nói lên đi, để cho thế giới thấy được những gì đã xảy ra sau những bức tường thép đã che kín nước Việt Nam , cách ly nước Việt Nam với thế giới bên ngoài ! Dưới chế độ chánh trị mới nầy, đâu có phải chuyện dễ làm khi mấy bà muốn xin được một chiếu khán nhập cảnh ? dù chỉ trong thời hạn một tháng thôi, đừng nói chi đến chuyện muốn đi khắp nơi tùy ý mình, đi thăm viếng một số trại tù hoặc đi thăm gia đình của những người tù nhân chánh trị, một chuyện không có gì là khó khăn cả dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một chuyện rất dễ dàng mà mấy bà đã lạm dụng quá trớn và đầy ác ý mấy năm trước đây!)
Đồng bào miền thượng trong vùng KonTum mấy năm trước đây đã lần lần định cư được trong những khu vực ổn định và trù phú hơn trước, thì nay họ bị bắt buộc phải "hồi cư", bị đưa về nguyên quán. Dĩ nhiên các linh mục hay tu sĩ nào lo cho đời sống và cho sự phát triển của họ đều không thể đi theo họ được. Được biết là từ 1/5/75 cho đến nay đã có 40% số tử vong trong số đồng bào nầy. Con số tử vong nầy có hơi cao, do có sự thay đổi đột ngột về thời tiết (từ những vùng có cao độ 150 thước đến vùng có cao độ 800 hay 900 thước), do phải trở về những vùng không được sạch sẻ, do thiếu thuốc men và không có được giúp đở gì về y tế, do thiếu dinh dưỡng hoặc không có gì để ăn vì họ chưa có trồng trọt được gì hay vì không tìm được thức ăn trong rừng, nơi mà họ đang bị bắt buộc phải về sống rãi rác trong đó. Rõ ràng đây là một hành động có tính cách diệt chủng đang được người ta cho tiến hành.
Tình hình mỗi tỉnh mỗi khác tùy theo người chỉ huy ở địa phương. Riêng tại KonTum, nói về chủng viện, thì Đức Giám Mục và vị Trợ Giám Mục của Ngài đã dựa theo tuyên ngôn của Hồ chí Minh, nói rằng tất cả trường học đều được quốc hữu hóa, nhưng những trường đào tạo tu sĩ của tôn giáo nào thì tôn giáo đó vẫn còn chịu trách nhiệm, nên hai Ngài quyết định cho mở lại chủng viện gọi là "trường dạy môn thần học". Trong số 50 chủng sinh trình diện tại Kontum để sẽ vào học lại ở chủng viện Dalat, Đànẵng hay Hué. 30 người bị chánh quyền bắt trở về làng của họ để điền cho xong các giấy tờ hành chánh cần thiết, nên chỉ còn lại 20 chủng sinh mà thôi. Do vậy mà không có ai bảo được là chế độ cộng sản đóng cửa các chủng viện.
Tại Sài Gòn, những người ngoại quốc muốn xin đi ra ngoài thì thủ tục càng ngày càng thêm nhiêu khê. Hành lý mang theo trên phi cơ (20 Kílô) bị khám xét từ món tuy là phải khai báo trước ba ngày. Một giáo sư cho tôi biết là cho đến các mảnh giấy viết tay ghi "nốt" của ông cũng đều bị xét xem kỹ, từng chữ một, từ mảnh giấy một. Giáo sư và vợ ông ta trên nguyên tắc được 40 kílô hành lý (20 Kg x 2), ít nhất trên thế giới văn minh nầy ở đâu cũng vậy, nhưng ở Sài Gòn thì phải có riêng mỗi người 20 kí không được tính chung (như 17 + 23 là không được.). Có nhiều món bị tịch thu hay trưng dụng, kể cả xe ô tô mà sở hữu chủ là những người sắp ra đi. Nhưng cũng có một vài trường hợp mà người ta cho phép được gởi theo sau đó, bằng tàu thủy, có Trời mà biết được sẽ được gởi đi và đến lúc nào, vì cho tới giờ nầy chưa có một dấu hiệu nào cho thấy sẽ có một sự chuyên chở hàng hóa bằng đường biển đến các nước không cộng sản.
Tại Sài Gòn, xe phóng thanh chạy khắp các đường phố, đọc khẩu hiệu tuyên truyền ầm ỉ, thỉnh thoảng xen vào các bài hát nặc mùi đấu tranh hay gây căm thù, như là: "giết chết bọn Mỹ, giết hết kẻ thù của cộng sản, bất kể già trẻ bé lớn...."
Dân chúng dĩ nhiên bị bắt buộc phải đi dự các buổi nói chuyện được tổ chức cho từng loại, từng thành phần, không đi không được, thời gian đôi lúc kéo dài nhiều giờ mỗi ngày. Tại một vài thành phố, người ta nghe hét lên suốt ngày những bài diễn văn tào lao không đâu ra đâu, nặc mùi lý thuyết không thực tế. Tôi nghĩ rằng những người Tây Phương nào còn kẹt lại Việt Nam đến giờ nầy chắc sẽ phải kiên nhẫn lắm mới chịu đựng nổi không khí ồn ào vô bổ nầy.
Tất cả những điều sau đây sẽ bổ túc cho nhận xét đúng đắng về thực trạng:
Guồng máy kềm kẹp của cộng sản càng ngày càng siết chặt, dân chúng Miền Nam Việt Nam đang sống trong một không khí nặng nề gần như nghẹt thở.
Đây là một vài tin tức chính xác ghi nhận được đến giờ nầy:
Sự kiện quân đội Bắc Việt xăm chiếm Miền Nam Việt Nam, áp đặt cho dân chúng một tà thuyết cộng sản ngoại lai, nhìn bề ngoài thì không thấy có gì gọi là chướng ngại, là chống đối rõ rệt, nhưng do Bắc Việt đã bố trí quá nhiều trò xão quyệt nhằm mục đích tối hậu là siết cổ người dân trong tương lai, khôn mà không ngoan, nên đã tạo ra một không khí nghi kỵ, sợ sệt ngay từ giờ phút đầu trong dân chúng, giờ phút mà cộng sản tự cho là "giờ phút đồng bào Miền Nam được họ giải phóng".
Tại Sài Gòn, người nào đã ít nhiều có làm việc cho Mỹ, dù là trong một cơ hội nào đó thôi đều bị đuổi ra khỏi nhà, (không cần biết gia đình họ sẽ sống ra sao và ở đâu), dĩ nhiên nhà của họ bị tịch thu tức khắc, đương nhiên trở thành "tài sản của nhân dân".
Rất nhiều người đem bày bán ngoài lề đường phố những gì họ có thể bán đựợc để có ít tiền sanh sống qua ngày, trong tình thế bắt buộc phải tìm "bát cơm cứu đói cho gia đình" mà phải bán đổ bán tháo, những món hàng "thượng vàng hạ cám" nầy qua tay vài người rồi cũng theo xe bộ đội ra hết Miền Bắc Việt.
Biểu tình trong ba ngày liền "đòi cho biết tin tức chồng con": Những bà vợ có chồng bị đưa đi gọi là "học tập cải tạo" trong vòng 10 ngày như thông cáo chánh thức đã ấn định, nay đã trên hai tháng rồi mà không có tin tức gì của chồng con, không biết đi học tập ở đâu, sống hay chết v..v..có nơi lại có thông cáo cho biết là họ đã chết, không nói rõ chi tiết....do đó họ biểu tình ngồi lỳ tại tòa thị chính Sài Gòn, dĩ nhiên là không có kết quả gì.
Có sự kiện trái ngược là những người công giáo lại có đức tin mạnh mẽ hơn trước. Chúng tôi đi vào một nhà nguyện mới trong một khu mộ. Một người phát biểu: "Tôi thấy có nhiều nghị lực hơn nữa cho đức tin của chúng ta."
HỠI TẤT CẢ NHỮNG BẠN ĐỌC THÂN YÊU,
Các bạn nào đã từng có đóng góp giúp đỡ cho Nhà Thờ ở Việt Nam , và vẫn còn tiếp tục cầu nguyện cho những người bạn Việt Nam của chúng ta, các bạn sẽ còn rất lưu tâm đến những tin tức nói trên. Trong những tuần lễ gần đây báo chí đây đó đã bắt đầu loan nhiều tin tức chính xác không bị bóp méo nữa, sau bao nhiêu năm cung cấp cho người Pháp chúng ta một cái nhìn hoàn toàn sai lạc về những gì đã xảy ra tại Việt Nam (không hiểu có nguyên nhân bí mật nào ?).
Những tin tức vụn vặt vừa nêu trên rất đáng được tin cậy vì lẽ xuất phát từ chính những công dân Pháp vừa mới hồi hương, từ nước Việt Nam về đây....
Chúng ta hãy tiếp tục CẦU NGUYỆN, VÀ CẦU NGUYỆN NHIỀU HƠN NỮA ! Chúng ta hãy nhớ tới những NGƯỜI TỴ NẠN VIỆT NAM TẠI NƯỚC PHÁP!
Xin cám ơn Chúa đã cho con cơ hội giúp đỡ được một số người tỵ nạn Việt Nam. Sau cùng, sự thận trọng bắt buộc tôi không nên phổ biến thêm nhiều tin tức khác nữa.
Paris , ngày 25 tháng 8 năm 1975.
Vanuxem
PHỤ BẢN ĐẶC BIỆT
"Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa".
Bài nầy chỉ là một đoạn ngắn trích từ bản dịch tóm lược của quyển "Sài Gòn et moi", mà tác giả là ông Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ Pháp tại Sài Gòn năm 1975. Quyển sách nầy rất có giá trị về mặt lịch sử, từng được các báo Việt Nam tại Pháp đăng bản tóm lược vào thập niên 80. Chúng tôi xin tạm thời ghép bài nầy vào bản dịch "Việt Nam Cộng Hòa Bị Bức Tử ", phỏng dịch từ quyển "La Mort du Việt Nam" của đại tướng Vanuxem, như một phụ bản đặc biệt. Một vài đoạn cũng có liên quan đến tướng Vanuxem, nhưng quan trọng hơn đây là một đoạn hồi ký rất đặc biệt của một nhân chứng lịch sử trong những tháng đen tối nhất của Việt Nam Cộng Hòa, người đã đóng góp công sức cho một giải pháp với hy vọng cứu vãn được Miền Nam Việt Nam tạm thời khỏi rơi vào tay Bắc Việt, nhưng rất tiếc là không thành công vì nhiều lý do ngoài ý muốn của ông.
(Quyển "Saigon Et Moi" được giới thiệu ngày 23/3/1985 tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris. Trong hàng cử tọa ngày hôm đó có một số nhân vật quan trọng lúc bấy giờ như cựu Tổng Thống Giscard d' Estaing, thị trưởng Jacques Chirac, Ông Pierre Mesmer v.v... nhưng sau đó hình như tác giả không được phép của Bộ Ngoại Giao (hay của chánh phủ Pháp) nên không có thể phổ biến quyển sách nầy ra thị trường. Và cho đến giờ nầy không còn ai tìm thấy tung tích quyển sách nầy nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cũng như sau nầy chính Ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển "Saigon Et Moi" hay bất cứ quyển nào khác viết về Việt Nam. Tuy nhiên các báo Việt Nam tại Pháp lúc bấy giờ đều có đăng bản tóm lược của quyển sách nầy, mà bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ tại Paris là một.
Hy vọng một ngày nào đó nếu có duyên may tìm được quyển sách quý "Sài Gòn et Moi" thì chúng tôi sẽ xin tiếp tục dịch để cống hiến cho quý vị độc giả. Bây giờ thì xin giới thiệu quý vị phụ bản đặc biệt nầy, trích từ tập san ĐA HIỆU).
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG
Đã đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm gì vào những ngày sấp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh thái độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ chức .
Ông Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam . Còn nước Pháp thì muốn cố giữ Miền Nam bằng một chánh phủ trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một liều thuốc hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công hiệu, nhưng chẳng còn phương thức cấp cứu nào phù hợp với tình thế lúc đó.
TỐI 18/4/75 :
Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ý định của Hoa Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau Hiệp Định Paris năm1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại Đông Dương.
Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời:
- "Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thõa mãn cho ông 5 tiếng nữa nếu không có gì trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc trình lên chánh phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác làm việc nầy."
- "Không thể được" người ta không muốn lưu lại bằng chứng.
- "Như thế từ giờ phút nầy nước Pháp sẽ đãm nhận vai trò hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp."
- "Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt Cộng."
Sau đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức khỏe bà Đại Sứ v.v... Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những vụ đão chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là đão chánh. Vai trò của Nguyễn cao Kỳ không còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ đã tặng phần thắng cho Việt Cộng.
Ngày 30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên vòm trời Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điên thoại vấn an, chúc tôi ở lại xứ sở nầy tiếp tục sứ mạng hòa bình, đồng thời khuyến khích tôi "còn nước còn tát."
Công việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại Davis (Tân sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt Nam . Phan Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào? Sự giàn xếp người Mỹ ra đi cũng làm phiền phức tôi không ít. Ông trưởng phòng CIA xúi ông Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc quần áo nông dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở lại giúp Việt Nam.
Ông Trần quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu tình chi cả. CIA chưa muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối cộng sản như họ đã từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954. Trưởng phòng thương mại Mỹ xin gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng thầu,ngân hàng, các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Tòa Bạch Ốc là người Mỹ và tất cả những gì liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi Việt Nam chậm lắm là cuối tháng 4/75.
Đại tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ nầy chỗ kia với thiện chí cố vấn cho ông Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp ngày đi cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng chỉ huy ông Thiệu, than thở với tôi: "Thiệu "lủy" không nghe "moa", đánh giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua không còn một mảnh đất để thương thuyết với Việt Cộng."
Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền.
Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân Lai điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chánh thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự.
Tại Hà Nội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của vấn đề. Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: "Chủ quyền xây dựng chính thể Việt Nam do đãng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài tình hữu nghị cũng như các sự giúp đỡ Việt Nam, Nga chẳng có quyền hạn gì cả." Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang rành rành mà vẫn cứ chối bai bải là mình chỉ đi dạo mát trong vườn nho mà thôi. Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo nói rõ có 5 vị tướng lãnh Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ chí Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn tiến Dũng hay sao ?
Toàn thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù dưới một chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam mãi mãi có chiến tranh bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam hòa bình thống nhất. Theo quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được đình chiến trong trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan niệm nầy lan rộng cả Á Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông Dương trung lập. Duy có Nam Dương cực lực phản đối. Nam Dương chưa nguôi mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ giải pháp đình chiến tại Việt Nam có Trung Cộng tham dự.
(Mãi đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ý hối tiếc là lúc đó chánh phủ ông đã có nhận xét sai lầm về những ý kiến của chúng tôi).
Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn.
Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân.
Lời giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc Kinh chỉ giao ước bằng miệng là sẽ tìm cách cản trở Bắc Việt chậm nuốt Miền Nam , biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ mãi đến năm 1978 Trung Cộng mới dùng biện pháp nầy để dằn mặt Việt Nam).
Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê quang Ba, trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân Tàu trong chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa ra thoạt nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Vì những người nầy không có thực lực hay quyền hành gì cả. Toàn thể quyền hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực là Mạc tư Khoa. "Dường như đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt Nam đều đã không có quyết định gì về số phận đất nước của họ"
Móc nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4 tôi mời phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi. Phái đoàn nầy có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ v.v... Tôi thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy Bắc Việt chưa biết họ, còn hao công giúp Bắc Việt thì chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: "Chúng tôi hết sức ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Vậy trong những ngày sấp tới có những cuộc thương thuyết xảy ra, quí vị có đồng ý nhận quí vị là đại biểu các khuynh hướng chánh trị ở Miền Nam không ? Chiến tranh đang đến hồi dứt khoát phải có kẻ thua người thắng. Hảy cho chúng tôi biết, chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam Cộng Hòa thua, hoặc MTGPMN thua ? "
Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước:
- "Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến nầy Mỹ đã thua, Tất cả người Việt Nam chúng tôi thắng trận"
Căn cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung xung trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế độ nào chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan nhận định thì hắn phải nói như vầy: "Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và tất cả người Việt Nam thắng trận trong một nền hòa bình rơi nước mắt."
Bà ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể "tín đồ Phật Giáo bị kềm kẹp từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của hàng triệu phật tử Việt Nam "
Luật sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt tiếng "nếu" ở mỗi mệnh đề để thảo luận. "Nếu" chính phủ tương lai mà trong đó có ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay dân tộc Việt Nam v.v.." Ông cũng ngỏ lời cam ơn tôi dàn xếp thời cuộc để lập ván bài trung lập tại Việt Nam .
Đây là buổi thăm dò quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đã gởi cho tôi từ trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ văn Mẫu và Lý quý Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại tướng Dương văn Minh để thu xếp nhiều công việc khác.
Tiển ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau nầy :
- "Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai chối cải công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút nầy nằm trong tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian hơn là chủ động'
Mọi người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ văn Mẫu nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh; "Tôi muốn đi Pháp nếu tân chánh phủ không đuợc Hànội nhìn nhận."
Khi trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung mãn, tự hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo, tùy viên giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Võ đông Giang. Đường dây điên thoại viễn liên nầy kêu qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân gia Ba rồi cũng dùng đường dây nầy chuyển về Bộ Ngoại Giao Hànội. Tại Hànội họ sẽ móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, vì ông nầy muốn gập tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý nhưng phải chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế.
KẾ HOẠCH THỨ NHẤT
Thành phần chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc , đồng chủ tịch là hai ông Dương văn Minh và Trần văn Trà. Ba phó chủ tịch là Vũ văn Mẫu, Trịnh đình Thảo và Cao văn Bổng. Tổng trưởng quốc phòng Phạm văn Phú. Tổng trưởng ngoại giao Nguyễn thị Bình. Tổng trưởng tư pháp Trương như Tảng. Tổng trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc. Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn Hảo. Tổng trưởng thương mại Lê quang Uyễn. Tổng trưởng tài chánh Trần ngọc Liễng. Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng là người của MTGPMN, và ngược lại. Hội đồng cố vấn chánh phủ có: Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Thích trí Quang, Lương trọng Tường, Hồ tấn Khoa, Linh mục Chân Tín, Cựu thủ tướng Trần văn Hữu.
Hai mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận tân chánh phủ hòa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết giáp Liên Xô mưu toan đè bẹp Sài Gòn.
KẾ HOẠCH THỨ HAI
- "Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội nầy còn bao nhiêu người? Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì đuợc bao lâu ?
Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.
- "Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây giờ Đại tướng còn 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn nầy mặc cả cho thế đứng của phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp lực ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng lãnh có khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến thắng bằng cách nào đây.
KẾ HOẠCH THỨ BA
Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Đại Tướng tuyên bố sẳn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước theo chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.
Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội nầy để cử Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hànội mà nay trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế hoạch nầy đánh phủ đầu Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền (một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư luận là dân Miền Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì hết).
Đi từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký ngưng bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưởng ép Hànội vào bàn hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức khắc.
Quả thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của mình tại Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào tay cộng sản . Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, còn có thể dàn xếp được là tốt hơn cả, vì đừng để cho bên nào thắng.
Tôi cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỷ đạo của Bắc Việt. Họ chạy theo HàNội là muốn tiến thân sự nghiệp chánh trị bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh quyền Miền Nam thì phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đã quá lỗi thời.
Bà Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một bằng chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: "Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống nhất hai miền Nam Bắc.". Các nhà phân tích thời cuộc nói chỉ cần 5 tháng Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5 năm, có lẽ hòa bình Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp rồi. Bà Bình bị thất sủng sau lời tuyên bố đó.
Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa giao cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ 290 triệu mỹ kim cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông nghiệp, nhân đạo v.v...tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ trước đây.
Bấy nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh Trần văn Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một Miền Nam không nhuộm đỏ màu cờ.
Đại tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi trình bày cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẳn sàng thực hiện theo quan điểm của chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:
- "Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để thương thuyết với phía bên kia?"
- "Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng tôi là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa lại cho Đại tướng, nếu Đại tướng có một kế hoạch không để mất Sài Gòn ."
Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu nầy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách: "Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng...
Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản ." Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.
Cụ Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp tin thần chống cộng sắt đá của cụ. Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động viên những vùng đất còn lại để tiếp tục đánh cộng sản. Chọn giải pháp nầy sẽ đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ máu, ít nhất Việt Nam Cộng Hòa không thua một cách mất mặt.
Mười năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc bấy giờ các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ cụ, thì có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi kính mến cụ già Trần văn Hương, Người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua lẩm cẫm, song chúng tôi thấy cụ là một người Việt Nam trung tín, sống chết cho lý tưởng, can đãm trước mọi tình huống.
Năm 1976, nghe cụ bị bệnh nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự Pháp ở Sài Gòn vận động với nhà cầm quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa bệnh. HàNội còn cần Pháp làm giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, sẽ không làm khó dễ trong việc cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết định ở lại chết tại Việt Nam . Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: "Ông Đại Sứ à, tui đâu có ngán Việt Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui xin thề ở lại đây và mất theo nước mình." Cụ Trần văn Hương đã giữ lời hứa.
Đại tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong lúc nầy, về phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không quên nhắc nhở đại tướng Dương văn Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc thường xuyên với tướng Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng nầy giữ vững các vị trí phòng thủ để còn một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết với phía bên kia. Ngay lúc đó tôi biết ông Dương văn Minh cách đây hai ngày đã liên lạc với người em ruột là thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói chuyện thẳng với Bắc Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ tư cách đại diện cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam . Từ chỗ móc nối sai lệch, tình thế đã xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch hòa bình Việt Nam .
(GHI CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn Nhật không phải là một thiếu tướng mà chỉ là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không phải là một nhân vật quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với Dương văn Minh trước đó như là một liên lạc viên xoàng để săn tin mà thôi, và đã được lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi chúng tiến chiếm tỉnh Banméthuột. Có lẽ ông Dương văn Minh muốn đưa em ông lên hàng tướng vì lý do thể diện chăng? Sau 30/4/75 mới là trung tá)
LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI
Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:
- "Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây.""
Tôi chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật nào. Thái độ thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận bằng bí danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi gằn mạnh từng tiếng:
- "Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ ra lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao thì dù thù hay bạn cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang nói chuyện với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói tên họ, chức phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập với ngành gián điệp là không tiếp xúc với hạng người bí mật."
B2 xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có mặt của ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất đầu lộ diện. Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:
- "Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh."
thì ra Lê đức Thọ, con người khuynh đão trong các cuộc hòa đàm Paris . Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi chưa gặp mặt nên không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết Mậu Thân, Phòng nhì Pháp đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ huy bộ máy chiến tranh tại Miền Nam . Y từ Nga trở về hồi tháng giêng 1975, và đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy tổng tấn công Sài Gòn. Mà Phòng nhì biết thì CIA cũng biết. Tôi nói:
- "Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò trung gian và với thiện chí lớn lao nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra hòa giải các phe tranh chấp để sớm đạt được một nền hòa bình tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi đến chúng tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải quyết chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’
Thấy mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xa láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:
- " Quyết định của đãng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống nhất hai miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê nin nít".
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đãng cộng sản Việt Nam nói tới ?"
Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ nầy ông Mérillon không cho biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm:
- "Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến đấu của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đãng và nhân dân chúng tôi tiếp tục sự nghiêp đánh bọn ngoại xăm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu nầy từ lâu đã được nhân dân thống nhất thành một phong trào chống Mỹ. Từ ngữ "cốt nhục tương tàn" tôi bảo đãm với ông đại sứ là do bọn tay sai ngụy quyền Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng tôi, chớ không phải lời oán than từ phía nhân dân. Xác nhận như vậy để ông đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa giải nào với bất cứ đãng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định của chúng tôi là để thắng chớ không phải để hòa giải."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp nầy thì vị trí của MTGPMN ở đâu?"
- "Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là cuốn cờ bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài Gòn".
- "Nếu đúng như thế, M TGP MN không phải là một thực thể riêng biệt, tách rời quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã lừa gạt dư luận quốc tế."
- "Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả ? Mà dư luận nào mới được chớ? Nếu dư luận quốc tế thuộc khối tư bản thì không xứng đáng để phẩm bình. Đối với nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ, chúng ta sẽ bang giao trong tình hữu nghị giửa hai nước."
- "Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt Nam, ông nghĩ sao?
- "Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ giải phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của Trung Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại sứ, ngay bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn tiếp tay với Trung Quốc và các thế lực ngoại bang khác ngăn cản đà chiến thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam , thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân vào Sài Gòn tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam."
- "Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?"
- "Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt giữa hai nước . Pháp còn quyền lợi tại Việt Nam . Pháp đừng nên gây hấn với Việt Nam bằng giải pháp trung lập nầy nọ, cũng đừng nên chen vào nội bộ của chúng tôi."
- "Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải là Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi gì nếu phải bang giao với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi , bù lại xin ông và đãng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi là số tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam va 200 triệu viện trợ nhân đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển giao nếu giải pháp trung lập bị bác bỏ một cách vô nhân đạo."
Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần nầy vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.
Thật ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh nầy do tập đoàn HàNội quản lý từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng ngang tàng của họ mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định nuốt Miền Nam bằng lá bài quân sự.
Sự kiện nầy đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời chỉnh đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững phòng tuyến để kéo dài thời gian mặc cả.
Tôi rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ thắng trận. Lê đức Thọ là một điển hình năm 1964. Thọ đã từng xin chúng tôi giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề từ chối. Bất cứ điều gì cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có mang ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp muốn Việt Nam có hòa bình trên nền tảng trung lập có thành phần quốc gia tham dự, HàNội đã bạc ơn từ chối.
Khi xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3 giờ chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược đi thẳng vô phòng tôi nói:
- "Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng mai "
Tôi gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75 , Thọ còn hạ nhục tôi bằng cách cho công an xét va li và bắt tôi phải ra HàNội trước khi về Pháp. Tôi phản đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn sang Bangkok thay vì ra HàNội .
Hành động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải trả một giá rất đắt. Tổng số ngân quỷ viện trợ nhân đạo hằng năm nước Pháp quyết định để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam không hề cho HàNội một cắt nào suốt 10 năm sau.
Ngày 27 tháng 4/1975.
Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình và ông Đinh bá Thi (ông này bị HàNội giết vài năm sau bằng tai nạn xe hơi tại vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua tài liệu tình báo kỹ thuật cho Liên Xô - Lời dịch giả). Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài Gòn, phỏng tay trên của đạo quân Văn tiến Dũng.
CÁC TƯỚNG LÃNH Bị NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU
Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự trị được thể hiện ngay sau ngày 30/4/75 . Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý thành lập Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN nhảy lên nắm chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài chế độ cộng sản. Chung một mục đích: Bắc Việt đoạt chánh quyền để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, còn MT GPM N cướp chánh quyền với thâm ý tạo sự nghiếp danh vọng cá nhân. HàNội có Nga Sô làm điểm tựa, có toan tính theo từng sách lược, còn MT là những chánh trị gia thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị thua trắng tay, bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác (hay thanh trừng) trong thầm lặng.
Dựa theo quan niệm "còn nước còn tát", chúng tôi không bỏ lở một cơ hội nào có thể duy trì nhịp thở của Việt Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào giờ cuối của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75 , chúng tôi họp với các tướng lãnh De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles, Pierre Bodet. Các tướng nầy đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp với các tướng lãnh Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản công lại Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân.
Qua lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp trong trận Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải thuộc hàng tướng lãnh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy. Tướng Gilles yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh khác trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm. Đang lúc quân đội cần tướng mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác ý đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn an ông, yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm tình trạng hỗn loạn hoang mang cho binh sĩ. Ông húa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ được Sài Gòn thì ông thề bỏ xác tại bệnh viện nầy. Tướng Phú đã giữ lời hứa. Ông là một tướng lãnh mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong ván bài trung lập sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu hàng cộng sản vào sáng mai, ông đã dùng độc dược tự sát.
Các tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh sát, những binh đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến , biệt động quân, và các binh chủng thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng cộng sản đi lên các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ tái phối trí lực lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.
Phân nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để dùng cho các trận chiến sông ngòi, cắt đường tiến của cộng sản tràn xuống Quân khu 4 . Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công bố chánh phủ trung lập. Sài Gòn là vùng phi quân sự nơi chỉ nói chuyện, thương thuyết bằng giải pháp chánh trị. Sài Gòn không có quân, cộng sản không có cớ đễ tàn phá.
- Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất đai đã mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một chánh phủ lưu vong Việt Nam Cộng Hòa. Vai trò Dương văn Minh đến đây coi như chấm dứt. Các tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ, Ngô quang Trưởng được xem là thành phần chủ lực cho chiến trường tương lai.
Các tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện chẳng mấy khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Do Thái... nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới Tư Do.
Sáng ngày 28/4/75 , tôi chuyển hết kế hoạch nầy cho Dương văn Minh và định tối 28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch.
KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?
Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên.
- Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài Gòn gồm các sư đoàn 304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp, 600 đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực lượng trừ bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo, HàNội tung hết quân, bỏ ngỏ HàNội . Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt thì lập tức HàNội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất tiếc.
- Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước được 100.000. Can cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7 tháng.
Trong 7 tháng đó biết đâu tình hình lại chẳng thay đổi theo chiều hướng khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện nầy nhằm bác bỏ lập luận nói rằng cộng sản Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần.
Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán. Lại yêu cầu các vị Lãnh Sự ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Hué gấp rút kiểm tra lại tổng số Pháp kiều, và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư luận.
Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc tịch Pháp, 11.000 trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả 21.000 người nầy sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm mạng người, chúng tôi sẽ gởi cho Hà Nội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm những người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp trong hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong các cơ sở tư nhân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều kiện như vừa quy định có thể kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp tất cả 80..000 người. Để mua thêm người cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày, dược phẩm, các bộ phận bảo trì công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm v.v...
Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam . Sau đó khi trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có quốc lộ 4 tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đã hai lần yêu cầu ông Dương văn Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4, phản công.., nhưng Dương văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng phản công mạnh, tạm thời ở tư thế chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam than thở với tướng Pazzi: "Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi đánh nhẹ thì tinh thần binh sĩ mất hết. Đến giờ nầy mà bức màng chánh trị còn bịt mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn bờ mà không cho đắp đê ngăn lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4 chúng tôi không thua. Chính trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải thua."
Sáng ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản "trao nước cho giặc", tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã chọn câu nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; "Còn giữ được danh dự là chưa mất mát nhiều."
Trời đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng người ngơ ngác tìm đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố. Ông Đại tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao những người nầy không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi như thế.
Tôi lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời là trung tá Đẩu, chánh văn phòng: "Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng chúng tôi hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia."
Bỗng nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông Minh lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh, phụ tá Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại tướng đi thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không có, quan cũng không, chánh phủ chưa có gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu hàng Bắc Việt. Công việc nầy không cần đến một Đại tướng! Trao cho một em bé đánh giầy 10 tuổi cũng làm được.
Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà đang chờ... Chờ đến kiếp sau !
Những gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trể phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng có phép lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong nhục nhã.
Thâm ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già.
(Lời dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông Mérillon đã nói, từ ngày 30/4/1975 cho đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất một chiếc đủa, không mất một cành hoa, một bụi cỏ nào. Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám... cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ nầy không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam ).
Ngày 29/4/1975, 8.00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.
Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:
- "Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng."
Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.
NGÀY 1 THÁNG 5
Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok , tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu hết tất cả ... trong những ngày sắp tới.
Việt Nam và tôi có rất nhiều kỷ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam . Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.
Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba? Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương..
Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua cộng sản . Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam .
Jean Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét