Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

VIỆT NAM CỘNG HOÀ BỊ BỨC TỬ - LA MORT DU VIETNAM - PHẦN 2

CHƯƠNG 3

SỰ PHẢN BỘI CỦA HOA KỲ  
Người Trung Hoa có một câu châm ngôn: "Thất trận rồi người ta mới đếm xác chết và mới đi tìm người trách nhiệm". Phản ứng của người dân, thường hay trút hết trách nhiệm cho người lãnh đạo hoặc cho người lính chiến. Tại Việt Nam thì cả hai đều có phần trách nhiệm của mình, nhưng cả hai đều không thể làm gì hơn được với hai bàn tay trắng vì họ đã bị người ta tước hết khí giới từ lâu!
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên không thể sản xuất vũ khí được, do đó trong cuộc chiến, cả hai bên Miền Nam và Miền Bắc đều bắt buộc phải nhận sự viện trợ quân sự từ bên ngoài. Do vậy, người ta thường nói rằng chỉ cần chấm dứt viện trợ ngoại quốc cho cả hai bên Nam và Bắc thì ngọn lửa chiến tranh ở Việt Nam sẽ yếu dần và đi đến chỗ tàn lụi ngay, cuộc chiến đương nhiên phải chấm dứt. Nhưng cũng có người chỉ đứng về một phía, đã khẳng định quá đơn phương và khiếm diện rằng chỉ cần người Mỹ, hay đúng hơn là đế quốc Mỹ như người ta đã cáo buộc, chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và quân sự cho Miền Nam Việt Nam, là Miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nầy trong chiến thắng.


Và đó là những điều đã xảy ra trên thật tế.


Người ta đã từng cho rằng chiến tranh ở Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến giữa Miền Nam và Miền Bắc, vì nếu giữa người Việt với nhau thì không chóng thì chầy họ đã có thể đạt được một sự thỏa thuận nào đó với nhau rồi.


Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường quốc, mượn tay người Việt Nam (hay sinh mạng người Việt Nam cũng thế) và ngay trên lãnh thổ Việt Nam, để so tài hơn thua cao thấp với nhau, ngăn chặn nhau không cho bên nào bành trướng thêm ra hơn nữa, vì hai bên không thể trực tiếp đối đầu với nhau được, tránh bị tổn thất nặng có thể đi đến chỗ tiêu diệt lẩn nhau. Có điều là cả hai bên đều nuôi dưỡng một mối thù hằn mà nguyên nhơn không phải xuất phát từ nước Việt Nam vì nước Việt Nam không có gì để họ thiết tha quan tâm đến.


HOA KỲ THÌ "NGĂN CHẶN" KHỐI CỘNG SẢN THÌ "XÂM CHIẾM, BÀNH TRƯỚNG"


Người ta có thể thấy được rất rõ là Nga và Trung Quốc vẫn không bao giờ che dấu tham vọng xâm chiếm toàn cầu của họ theo đúng hướng chiến lược đã hoạch định từ trước, rất rõ ràng, và nếu Hoa Thịnh Đốn chỉ bo bo theo sách lược "tạo uy tín và bành trướng kinh tế" thì chiến lược đó của Hoa Kỳ hoàn toàn nằm trong thế thủ, bị động.


Đặc biệt là ở Á Châu, Hoa kỳ nhất nhất theo thuyết "ngăn chặn" các bước tiến của cộng sản. Do vậy mà trên mảnh đất đầy hình ảnh đau thương và tàn khốc của cuộc chiến, người ta đã "đóng khuôn" cho Miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ phòng thủ thụ động, và các đồng minh lớn của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó, trong khi bộ đội Bắc Việt thì được tung ra trên khắp cả 3 nước Đông Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam, ẩn hình dưới danh nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và Việt Cộng, để rồi cuối cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện "nguyên hình" là quân xăm lăng Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào Sài Gòn.


Tuy trận tấn công vào tỉnh lỵ Phước Long vào tháng 1/75 của bộ đội Bắc Việt là một cuộc tấn công có giới hạn (mà phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa một phần vì sợ bị nhử vào bẫy có thể bị hao quân và mất thêm chiến cụ, một phần cũng không có đủ lực lượng để đối phó được với một loại tấn công qui mô như vậy, nên không có phản ứng đối kháng mạnh), nhưng Hà Nội cũng thu lượm được quá đủ bằng cớ để chứng minh với những ai còn chút nghi ngờ, là "Hoa Kỳ không còn can thiệp vào chiến cuộc nữa". Và như vậy là Bắc Việt cho tiến hành ngay cuộc tổng tấn công mùa xuân với đầy đủ bảo đãm, trong một sự an toàn tuyệt đối.


Rõ ràng là Hoa Kỳ đã khuyến khích Bắc Việt bằng thái độ im lặng và quá thụ động của họ sau vụ tấn công quan trọng nói trên, vi phạm rất nặng và rất trắng trợn "Hiệp Định Paris 1973 Về Ngừng Bắn Và Tái Lập Hòa Bình Ở Việt Nam ".


Thật ra, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã được báo động về thái độ "bất can thiệp" nầy của Hoa Kỳ từ lâu rồi. Trong những tháng 1, 2, và 3/75, đã có nhiều nghị sĩ dân biểu Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam và đã từng xác nhận với Tổng Thống Thiệu là "viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa trong những ngày sắp tới sẽ rất là mong manh trong may rủi". Mỉa mai thay, viện trợ nầy trước đó đã được Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Nixon long trọng tuyên hứa với Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa!!!


NHỮNG CUỘC VẬN ĐỘNG CỦA HOA KỲ


Tại Guam, Tổng Thống Nixon đã công bố kế hoạch 5 điểm trong sách lược yểm trợ Thế Giới Tự Do của Hoa Kỳ, chính yếu là "cây dù nguyên tử" và viện trợ đầy đủ, vô điều kiện, cho tất cả mọi quốc gia dân tộc nào chứng minh có quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của mình.


Hiệp Định Paris 1973, cuối cùng rồi cũng được Tổng Thống Thiệu bằng lòng ký tên vào, vì Ông không còn có khả năng từ chối thêm lần thứ hai, dù đó chỉ là trong cung cách ngoại giao, nhưng với những lý lẽ vững chắc mà Ông đưa ra trước khi ký, Tổng Thống Nixon đã phải đích thân nhận chịu trách nhiệm chẳng những bằng lời nói mà còn cả trên giấy trắng mực đen nữa: "Hoa Kỳ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa để giúp Việt Nam Cộng Hòa đương đầu với mọi biến cố mà vì không có thiện ý, Bắc Việt sẽ có thể không ngớt tạo ra sau nầy".


Nếu trước kia Tổng Thống Nixon đã thật lòng đưa ra lời hứa chắc chắn như vậy, không có một hậu ý quanh co ngoằn nghoèo nào, thì sau đó với một anh Kissinger mà Ông chưa từng quen biết nhưng vì áp lực từ sự vận động của cánh Do Thái sau khi Ông đắc cử, Ông đã trở nên bớt nhiệt tình hơn nhiều đối với những gì mà Ông đã long trọng cam kết với Ông Thiệu.


Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã xảy ra trong những cuộc thăm viếng sau đó, và Ông Thiệu đã phải can thiệp thẳng với Nixon để cho thơ từ công văn của Ông, thường không được hồi âm, nay phải được tới tay Ông Nixon mà không đi qua sự kiểm duyệt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Dã tâm của Kissenger, một con người mà ai cũng cho là "bạn", là "tri kỷ", sau đó được phát giác tiết lộ ra là: xuyên qua một đệ tam nhân, Ông đã có những lời hứa hẹn cũng như thi hành những cam kết không đồng nhứt với từng nhơn vật cùng có trách nhiệm trong công tác ngăn chặn bước tiến của cộng sản Bắc Việt trên bán đão Đông Dương, như Hoàng Thân Souphana Phouma, Thống chế Lon Nol và Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Vốn đã có một mối hận sâu đậm đối với Kissenger, nên Ông Thiệu có nhận xét sau đây về anh nầy:


- "Tôi biết mức độ lừa đão của một anh Do Thái rồi, nhưng thủ đoạn đó không sao bằng thủ đoạn của một anh Do Thái có quốc tịch Đức, hơn thế nữa đây lại là của một anh Do Thái đã có quốc tịch Đức rồi mà còn được "Mỹ hóa" nữa !"


Thế nhưng, vụ việc gây nhiều tai tiếng "Watergate" đã đưa Nixon ra khỏi Nhà Trắng đồng thời giết chết cả thân thế và sự nghiệp chánh trị của Ông ta, dẫn đến hậu quả tai hại là những gì Ông Nixon đã cam kết, dù là trên giấy trắng mực đen, đã không còn một chút giá trị nào nữa.


Và sau đó, vào tháng 8/1973, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thuận cho tu chính án "Case-Church", nhằm cắt hết ngân khoản dành cho mọi viện trợ quân sự cho các quốc gia Đông Nam Á.


Cộng Sản Tiến Chiếm Miền Nam qua hai cửa ngõ chính: Cam Bốt và Lào


Do vậy, việc Mỹ chánh thức hứa giúp thành lập và trang bị quân đội Cam Bốt với quân số 205.000 người phải được hủy bỏ. Hình thành được việc nầy sẽ giúp cho Cam Bốt chẳng những có thừa khả năng dẹp được lực lượng "Khmer Đỏ" (tất cả cán bộ khung đều là bộ đội Bắc Việt), mà còn lập lại được trật tự trong nước, đuổi các sư đoàn Bắc Việt ra khỏi lãnh thổ Cam Bốt nữa, vì chính các đơn vị xăm lăng Bắc Việt nầy đã tạo ra "không khí cách mạng" bất ổn ở nông thôn Cam Bốt, để sau đó Hoàng thân Shianouk đã phải thoái vị và nước Cộng Hòa Khmer ra đời.


Điều đáng tiếc là ở Cam Bốt cao trào của giới trẻ mà người ta gọi là "những anh lính chiến 24 giờ" đang lên vùn vụt, trong số nầy có những sinh viên và học sinh lớp 5 lớp 6, tình nguyện ra mặt trận, chiến đấu rất anh dũng bằng vũ khí tịch thu được của quân ngoại xăm Bắc Việt. Những người "Khmer Tự Do" nầy (Khmer krom) đã học và tiêm nhiễm lịch sử Pháp, rất tự tin và đặt hết lòng tin vào lời hứa của Hoa Kỳ; Họ đã nhất tề đứng dậy khi tổ quốc lâm nguy, y như người Pháp chúng ta trong những biến cố cách mạng trong lịch sử vậy. Trong lúc đó tại Thượng Viện Hoa Kỳ, nghị sĩ Fulright lại tuyên bố là cuộc chiến ở Cam Bốt là một "cuộc chiến vô đạo đức"! Với một ít ngân khoản vụn vặt du di được đâu đó, chánh phủ Hoa Kỳ "nhỏ từng giọt" giúp cho Cam Bốt, trong khi những sư đoàn Bắc Việt ồ ạt viện trợ đúng mức cho các đơn vị "Khmer Đỏ" đang thành lập, càng ngày càng lớn mạnh thêm lên. Do đó quân lực Cộng Hòa Khmer bị tiêu hao lần lần để đi đến sụp đổ, và ngày ¼/75, Thống Chế Lon Nol phải "chạy" khỏi thủ đô Cam Bốt, sau đó Phnom Penh bị thất thủ vào ngày 10/4/75.


Cũng trong thời gian nầy, nỗ lực thành lập một chánh phủ "liên hiệp 3 thành phần" tại Vương Quốc Lào bị thất bại, Cộng Sản Pathet Lào lên nắm chánh quyền, và tuyên bố không chấp nhận sự có mặt của người Mỹ tại đây.


Người ta thường hay nói chiến tranh ở Việt Nam chỉ là một cuộc nội chiến, rất hạn chế giữa người Việt và người Việt mà thôi. Nhưng đến cuối cùng sự thật cho thấy không phải như vậy. Cam Bốt là mục tiêu chủ yếu, là bàn đạp quan trọng hàng đầu để từ đó Cộng Sản tiến chiếm Miền Nam Việt Nam, và theo quan điểm từ đầu của Hà Nội thì mục tiêu không phải chỉ có Miền Nam Việt Nam mà phải là toàn bộ bán đão Đông Dương, vì đó mới là giấc mơ thật sự từ lâu của Hồ chí Minh.


Việc chiếm giữ các tỉnh miền Đông của cả hai quốc gia Lào và Cam Bốt là chỉ nhằm dọn đường cho công tác tiếp vận của quân đội Bắc Việt trong việc tiến chiếm Miền Nam sau nầy. Sau khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, trong thời gian hơn một tháng, hệ thống đường mòn thường gọi là "đường mòn Hồ chí Minh" được họ cải tiến, mở rộng và trải đá suốt cả tuyến đường, để từ Hà Nội, Bắc Việt có thể đưa quân lính, chiến cụ, đạn dược cũng như nhiên liệu, đến một nơi chỉ còn cách Sài Gòn dưới 100 cây số (Lộc Ninh) mà chỉ mất trên dưới có 5 ngày đường.


Các sư đoàn Bắc Việt đóng quân thường xuyên dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt, trên các cao điểm từ Bắc xuống Nam, từ đó lúc nào cũng sẵn sàng tấn công xuống Miền Nam Việt Nam, một lãnh thổ quá dài mà bề ngang quá hẹp, có đoạn dưới 100 cây số tính từ miền núi xuống đến biển, nên thủ đô Việt Nam Cộng Hòa luôn bị đe dọa vì Sài Gòn chỉ cách biên giới Lào-Khmer không quá 100 cây số ngàn, cũng giống y như hiệp ước đình chiến 1919 của nước Pháp chúng ta đã "bị" để cho các đơn vị Đức đóng quân ở vùng Aisne và La Marne vậy.


Ngày 10/4 thủ đô Phnom Penh bị thất thủ, ở Vientiane thì một chánh phủ cộng sản đã lên cầm quyền, trong khi Vùng I và Vùng II của Việt Nam Cộng Hòa cũng đã bị rơi vào tay Bắc Việt, như vậy Hà Nội được quá rảnh tay để sẵn sàng đưa quân tràn xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long.


HOA KỲ SẼ KHÔNG CAN THIỆP NỮA


Nhưng vẫn còn một yếu tố chưa biết rõ được: đó là phản ứng của Hoa Kỳ. Trước đó, ngày 21/3/75, chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt), trong một bản tuyên bố, đã yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ chấm dứt tất cả mọi dính líu quân sự và mọi hành động can thiệp vào việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam.


Ngày 25/3/75 , Tổng Thống Ford gởi tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ đến Sài Gòn. Tướng Weyand có vẻ thuận cho một hành động tiếp ứng tuy hơi muộn nhưng hữu hiệu bằng cách cho lệnh thiết lập hai cầu không vận Bangkok - Sài Gòn và Manila-Sài Gòn, để kịp tiếp vận cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


Ngày ¾/75, trong một cuộc họp báo, Tổng Thống Ford tuyên bố là Ông sẽ không bỏ rơi Đông Nam Á. Ông nói không nhất thiết Ông Thiệu phải rời khỏi chánh quyền, nhưng Ông cũng bảo đãm thêm rằng cho dù có một sự thay đổi nào đó của cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa thì sự việc đó cũng không thay đổi được nỗ lực của Hoa Kỳ tại Sài Gòn.


Ngày 10/4/75, ngay lúc Phnom Penh thất thủ, trong bài diễn văn đọc trước Quốc Hội, Ông cho biết là Ông có ý định tiếp tục cuộc chiến ở Việt Nam, và tiếp tục ủng hộ chánh phủ Nguyễn văn Thiệu. Ông đề nghị với Quốc Hội một ngân khoản viện trợ quân sự 722 triệu đô la, và một ngân khoản viện trợ kinh tế là 250 triệu. Các nghị sĩ Stevenson, Humphrey, Jakson, Mc Govern và Kennedy đều chống lại đề nghị nầy. Gần như Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên bỏ rơi cả Ông Ford.


Thế là hết ! Hoa Kỳ sẽ không can thiệp, và những quốc gia đã từng ký tên bảo đãm cho việc thi hành Hiệp Định Paris 1973 cũng giữ một sự im lặng hoàn toàn!


Còn nước Pháp thì xuyên qua lời tuyên bố của Tổng Trưởng Ngoại Giao tại Dublin, trước một số ngoại trưởng phần đông đều không muốn chen sâu vào việc nội bộ của một nước khác, thì lại tỏ ý muốn thấy tướng Thiệu rút lui, một điều rất trùng hợp với sự mong muốn của cộng sản Bắc Việt, vì dưới con mắt của họ tướng Thiệu là biểu tượng của một tinh thần chống cộng cực đoan, chống đến giọt máu cuối cùng.


Như vậy là thật sự Bắc Việt nay đã được rảnh tay trong hành động rồi. Họ đã được bảo đãm là Hoa Kỳ sẽ không còn can thiệp được nữa. Họ cũng đã thấy một sự tán thành ngấm ngầm của các nước khác, không những trong khối cộng sản mà còn có cả các quốc gia cấp tiến, thuộc Thế Giới Tự Do nữa, trong đó dĩ nhiên là có cả nước Pháp.


Với tất cả mọi điều kiện thuận lợi chánh trị và quân sự như thế, Bắc Việt quyết định cho tiến hành ngay "chiến dịch Hồ chí Minh", không cần phải mất thêm thời gian chờ thành lập một "chánh phủ ba thành phần", để nhanh chóng thôn tính cả bán đão Đông Dương trên cả hai phương diện quân sự và chánh trị. Đúng như họ tuyên bố đây là một cơ hội ngàn năm mới chỉ có một lần !


Vậy liệu người ta có nghi ngờ là người Mỹ đã phản bội đồng minh chăng? Nhân vật chính yếu liên can trong nội vụ là Tổng Thống Thiệu, người biết rõ nhiều về những lời hứa hẹn, cam kết, và thi hành. Ông đã công khai nêu rõ ràng và đầy đủ trước dư luận quốc tế và quốc nội, mà Hoa Kỳ không dám có một tiếng trả lời, có chăng chỉ là những lời an ủi cam kết quá muộn màng của một mối tình bạn bè, một mối tình thuộc loại "qua đường" !!!


Ông Thiệu là người không muốn chơi trò người hùng, cũng không thích biểu tình hoan hô rầm rộ, nhưng rất nhạy cảm với lòng tin tưởng sâu đậm của đồng bào Miền Nam, bây giờ ván bài đã ngã ngũ, Ông đã thua cả về chánh trị lẫn quân sự, nên Ông quyết định phải rời bỏ quê hương mà Ông đã từng hiến dâng tất cả. Với một tâm hồn chết lặng Ông nói lên những lời từ biệt cuối cùng. Những lời lẽ thật cảm động của Ông được truyền đi trên đài phát thanh làm cho những người dù cứng lòng đến đâu cũng phải nhỏ lệ, ngay những người đã từng muốn Ông phải từ chức cũng vậy. Ông ra đi, mang theo sự tin yêu và lòng mến phục của dân chúng Miền Nam mà từ đây không có Ông, họ sẽ cảm thấy mất mác một cái gì.... Đối với người Mỹ, Ông đã có những sỉ vả thật dữ dội và nặng nề:


- "Tôi đã nói với họ (Hoa Kỳ) rằng: các ông muốn rút chân ra khỏi cuộc chiến ở Việt " Nam trong danh dự, mà các ông đòi hỏi chúng tôi những điều thật vô lý "không thể làm được chút nào. Đánh giặc mà viện trợ quân sự cứ nay bị cắt "mai bị xén mốt bị cúp mãi như thế, thì có khác nào chỉ cho tôi mỗi ngày có 3 "đồng mà bảo tôi phải ăn tiêu như một ông hoàng hay một người khách du lịch "hạng sang ! Các ông muốn chúng tôi hôm nay với một "xu ăn mày" phải làm "được những gì mà ngày hôm qua các ông không sao làm được với ngân "khoản 6 tỷ đô la..! Tôi đã nói với họ rằng câu hỏi duy nhất hiện giờ là liệu Hoa "Kỳ có quyết định giữ những gì mà Hoa Kỳ đã cam kết với Việt Nam Cộng Hòa 'hay không ? và liệu sau nầy những lời nói và chữ ký của Tổng Thống Hoa Kỳ còn có "chút giá trị gì nữa hay không ...".


Thế là quá rõ, Hoa Kỳ thật sự đã phản bội.....


Ngạo mạn, và ngu xuẩn, lưỡng viện Hoa Kỳ đã nói lên sự vui mừng của họ về sự từ chức của ông Thiệu, vì họ nghĩ nhờ đó sẽ có khả năng "đạt được một nền hòa bình nào đó trong thương lựơng" với cộng sản, trong giới hạn một thời gian nào đó, "với đường lối chánh trị mềm dẻo hơn, để làm giảm đi những chết chóc vô ích, và nhất là để bảo vệ cho những người Mỹ hiện còn tại Miền Nam Việt Nam".


Nước Pháp cũng có một thái độ tương tự, vì hoàn toàn không nắm vững được tình hình và cũng vì quyền lợi của chính nước Pháp.


Đối với Hoa Kỳ, "trên thế giới nầy tất cả đều có thể bị mất hết, chỉ riêng có người công dân Mỹ, được coi như thần thánh, là không thể mất được."


NGŨ GIÁC ĐÀI KHÔNG CHẤP NHẬN NHƯ VẬY


Các cấp chỉ huy quân sự của Ngũ Giác Đài cũng như các cấp quân nhân đã từng tham chiến bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không đồng ý về những hành động của Hoa Kỳ, vì tình cảm gắn bó với người chiến hữu Việt Nam cũng như gắn bó với quốc gia nầy, giống như người Pháp chúng ta vậy. Họ có cố gắng thử giúp đỡ cho Việt Nam một cái gì đó, nhưng người ta đã ngăn cấm họ. Họ chỉ còn có một cách là càu nhàu, và sự hằn thù trong căm lặng nầy mãi mãi sẽ là một yếu tố của tình trạng phân hóa tại Hoa Kỳ.


Bốn năm trước đó, dựa theo bản tuyên ngôn Guam của Tổng Thống Nixon, Ngũ Giác Đài đã soạn thảo một quan niệm mới cho chiến lược ở Á Châu. Bây giờ thì bắt buộc họ phải duyệt xét lại để giảm bớt khả năng tiềm lực quân sự của Hoa Kỳ: đó là bỏ cả các căn cứ ở lục địa Á Châu và các quốc gia đồng minh "nhược tiểu", dùng Nhật Bản và Úc Châu như những pháo đài phòng thủ cho lục địa Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dầu sao, theo họ nói, đó là một quyết định cấp quốc gia mà họ là những người chịu trách nhiệm, không thể cưỡng lại được: "quân nhân chúng tôi trước quyết định như vậy không thể làm gì hơn là phải thi hành, dù dư luận Mỹ có cho rằng Hoa Kỳ không nên sửa đổi chiến lược như vậy".


Hoa Kỳ đã không làm đúng lời hứa của họ. Họ đã phản bội những người mà chính họ đã đưa vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà họ chẳng những phải tốn quá nhiều đô la mà còn phải hy sinh trên 50 ngàn quân nhân các cấp (chưa tính thương binh) để chỉ đem về một "con số không" to tướng. Nói như thế có gì quá đáng lắm không??


Tướng Westmoreland, cựu chỉ huy trưởng lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì phát biểu có phần nào nhẹ lời hơn cho Hoa Kỳ, nhưng cũng đã quy trách nặng nề cho giới chánh trị về hành động làm mất hết danh dự của Mỹ:


- " Miền Nam Việt Nam phải chăng không thể tránh được một sự chiến bại? Vâng, đúng như vậy. Nhưng chúng ta phải xét lại tình hình: Bắc Việt đã vi phạm hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ hoàn toàn bất lực trên phương diện chánh trị, và các quốc gia có nhiệm vụ bảo đãm việc thi hành Hiệp Định thì hoàn toàn im lặng không nhúc nhích..".


Người ta phải nhìn những cảnh cướp xe, hôi của, dọn sạch nhà cửa, phòng ốc hay kho tàng của người Mỹ tại Sài Gòn, thì mới thật sự thấy được mức độ thù ghét Hoa Kỳ của cả một dân tộc. Người ta phải nhìn cảnh Ông Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc rời khỏi Việt Nam sau khi cho di tản xong xuôi người Mỹ cuối cùng, thì mới thấy được cả một sự thẹn thùng nhục nhã của Hoa Kỳ trên nét mặt xanh xao như người chết của Ông. Và người ta cũng phải nhìn thấy cảnh một người Việt Nam kéo lê bằng hai ngón tay lá cờ Mỹ to lớn của tòa Đại sứ Mỹ để dìm xuống rạch những "50 sao và 13 vạch " mà người Mỹ thường hãnh diện.


Tổng Thống Hoa Kỳ, Ông Ford, đã từng nói: "Chúng tôi không thể bỏ được những người bạn của chúng tôi". Nhưng nói là nói như vậy, mà họ lại không làm đúng như vậy !!!!


CÒN AI TIN ĐƯỢC HOA KỲ NỮA ĐÂY?


Vài người thủ cựu không đồng ý tại sao nước Pháp và người Pháp lại đi phàn nàn Hoa Kỳ. Họ nói:- "Nước Pháp chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta đã chẳng từng phản bội Tiệp Khắc hay sao?. Chúng ta không nên trách người Mỹ vì dù sao họ cũng đã giúp giải phóng đất nước chúng ta, và nền an ninh của quốc gia chúng ta phải chăng vẫn còn dựa vào sức mạnh của họ và những lời cam kết mà họ đã hứa".


Chỉ vì người Mỹ là bạn mà chúng ta mới cần phải nói lên sự thật và những lời trách móc thẳng thừng đến nhức tim về những lỗi lầm đáng trách của họ. Có như vậy thì mới đúng là bạn và tình bạn mới càng khắn khít hơn, chúng ta nên mong như vậy.


Hôm qua họ đã bỏ rơi Cam Bốt được, hôm nay họ bỏ rơi Việt Nam và Lào được, thì ngày mai họ cũng sẽ bỏ rơi được Phi luật Tân, Đài Loan, và các quốc gia đã từng là đồng minh của họ dọc theo bờ biển Trung Quốc, rồi cũng lại sẽ đến lượt các quốc gia trên Ấn Độ Dương....Và hơn thế nữa, nếu đây chỉ là chuyện nội bộ phải giải quyết giữa người Việt Nam với nhau thôi thì chúng ta cũng không nên xen vào làm gì. Có điều là nếu ngày mai cũng những người cùng một dân tộc có chuyện nội bộ cần giải quyết với nhau, người Đông Đức tràn sang tấn công người Tây Đức, và nếu chỉ trong vòng một ngày mà các chiến xa Nga nuốt xong khoảng cách 150 cây số với nước Pháp chúng ta để đến nằm dọc ngay bờ sông Rhin (biên giới Pháp Đức) thì lúc đó chuyện gì sẽ xảy ra đây ?


Một cuộc nghiên cứu được đăng trên "Tạp chí Bắc Đại Tây Dương" (Revue de l’OTAN) đã có trả lời: Một cuộc thăm dò dư luận đặc biệt đầy đủ, của cơ quan thăm dò Louis Harris, cho "Phòng Giao Tế Quốc Ngoại của Hội Đồng Thành Phố Chicago" (Chicago Council Foreign Office Relations) đã cho thấy kết quả như sau:


Câu hỏi được đặt ra là: "Anh Chị có đồng ý để cho quân lực Hoa Kỳ can thiệp để ngăn chặn quân xăm lược Cộng Sản vào Tây Âu hay không ?"


Trả lời:


Tạp chí nói trên còn cho biết thêm là "Có nhiều dấu hiệu cho ta nghĩ rằng sau khi cuộc chiến ở Việt Nam chấm dứt, dư luận dân chúng Mỹ còn rất thuận lợi hơn nữa về cái mà người ta gọi là "chánh sách phi quân sự trong chánh trị đối ngoại của Hoa Kỳ"


Như vậy là đa số người dân Hoa Kỳ chống lại mọi hành động tiếp ứng của quân đội Mỹ vào công tác phòng vệ Âu Châu. Nên nhớ là một cuộc tiếp ứng như vậy vẫn là một bảo đãm duy nhất rất hữu hiệu cho nền an ninh của nước Pháp chúng ta.


Người Mỹ hãy đi đi, hãy cứ để cho người Mỹ đi đi, và cũng mong rằng đừng bao giờ họ trở lại nữa. Vả lại, hồi năm 1945, tại Versailles (nơi ký hòa ước) tướng Eisenhower há chẳng phải đã nói rằng; "Chúng tôi không trở lại đây lần thứ ba để lập lại trật tự cho những vấn đề của Âu Châu nữa đâu nhé !" hay sao ?


Làm thế nào để cho các đồng minh Âu Châu của Hoa Kỳ có thể còn có niềm tin vào những lời hứa của người Mỹ đây ? Đế quốc La Mã cũng đã không tồn tại chỉ vì đã làm mất niềm tin đối với người La Mã.


Quốc gia Hoa Kỳ đang lâm bệnh. Luân lý của họ đang suy đồi, sự hùng vĩ của họ không còn nữa vì họ đã mất hết danh dự. Không có sức mạnh tinh thần thì họ không còn tự kiêu được nữa về những tiến bộ vật chất của họ. Tuy nhiên rồi đây họ cũng sẽ gượng đứng dậy, mong rằng họ có thể sẽ lấy lại được lòng tự tin và sẽ thấy được bổn phận của họ đối với thế giới.


" Hãy cút về nước đi, hỡi người Mỹ!" (US, go home!)


Họ sẽ không trở lại đâu, vì nếu họ đi trong tình huống như thế thì họ sẽ có nhiều lý do tốt hơn để phản bội đồng minh thêm một lần nữa, họ đã có thói quen như vậy rồi !


Vậy các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ ở Âu Châu hãy nhớ lấy việc nầy và phải hết sức thận trọng. Chúng mình là những nước nhỏ, giống như nước Việt Nam, không có đủ sức mạnh để đương đầu với những nước "khổng lồ" lúc nào cũng vừa đe dọa vừa tán tỉnh chúng ta. Nhất là nước Pháp, chúng ta phải luôn luôn cảnh tỉnh trước viễn ảnh tai hại từ sự phản bội của Hoa Kỳ tại Việt Nam, vì một mình cô đơn đối đầu với cả hướng đông, lại bị tràn ngập với nhiều khó khăn nội tại, quốc gia chúng ta rất dễ trở thành mục tiêu béo bở cuối cùng của cả một chiến lược được hoạch định từ lâu và đang được người ta thi hành.

CHƯƠNG 4
SỰ THẬT SỰ ĐÂY LÀ MỘT CHIẾN THẮNG CỦA LIÊN XÔ

Trái với ý nghĩ của một số người trong giới trí thức vì không hiểu rõ được vấn đề nên họ cứ tưởng rằng việc chiếm Miền Nam Việt Nam là chuyện đúng. Họ không hề biết được là hai trận tấn công liên tiếp trước đó đã cho thấy không phải thuộc kỹ thuật tác chiến thông thường của mọi cuộc chiến tranh cách mạng. Từ Nam chí Bắc khắp nơi trong lãnh thổ Miền Nam Việt Nam, người ta không thấy người dân nào muốn "nhờ" ai giải phóng cho họ cả và cũng không một ai thấy vui vẻ chút nào khi thấy bộ đội Miền Bắc tiến vào thành phố, trừ lúc họ bị bắt buộc phải tham dự vào những buổi mít tinh được gọi là "tự động, do dân tổ chức" nhưng thực sự đều do bộ đội dàn dựng và chỉ đạo từ đầu đến cuối.


Khắp mọi nơi dân chúng Miền Nam không có một ai nổi lên chống chánh quyền hay chống lại quân đội của họ, như Miền Bắc thường rả rít kêu gọi trên các làn sóng phát thanh với những giọng điệu hùng hổ, vừa có tính cách xúi dục vừa có giọng điệu hăm dọa. Trái lại người dân Miền Nam ai cũng tìm đường thoát chạy trước kẻ xăm lăng, đến khi cùng đường không thể chạy thoát được thì họ phải chịu "đón" họ thôi, nhưng với với một bộ mặt lạnh lùng và khinh bỉ.


Trong tất cả các đơn vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, người ta không hề thấy có một "báng súng lên trời", chưa từng thấy sự có mặt của một "chi bộ sô viết nằm vùng" nào cả, và cũng chưa hề thấy có một sĩ quan nào bị "hạ". Hơn thế nữa, dù đang ở trong một tình trạng khó khăn tuyệt đỉnh người ta cũng không bao giờ thấy bất cứ một đơn vị nào quây súng chống lại chánh quyền của Tổng Thống của họ, một chánh quyền mà Miền Bắc thường gán cho là bù nhìn. Thật ra thì cũng có những binh sĩ lột bỏ cả quân trang quân dụng và vũ khí để tháo chạy hoặc tìm nơi an toàn trong dân chúng để tạm lánh quân xăm lược, nhưng phần lớn vẫn chống cự mặc dầu trong tuyệt vọng, và chống cự hết sức ngạo nghễ và thật anh dũng. Tướng Westmoreland, một người đã từng hiểu biết nhiều về người lính chiến Miền Nam , đã phải ngã mũ để tỏ lòng mến trọng :


- "Sự chiến bại nầy không phải là không thể tránh được, nếu xét về khía cạnh dũng cảm và lòng hy sinh không chịu khuất phục của người quân nhân Việt Nam Cộng Hòa..."


CÓ AI CHẤP NHẬN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN ĐÂU ?

Nếu ai đó muốn biết cảm nghĩ thật sự của người dân Việt Nam, dù cho họ thuộc Miền Bắc hay Miền Nam, kể cả ngay chính những anh bộ đội Bắc Việt đã phải vì chủ nghĩa cộng sản mà đi chiến đấu chống lại đồng bào Miền Nam của họ, thì người ta sẽ thấy có rất nhiều cơ hội để mà nhận xét. Sự thật đã cho thấy là qua những sinh hoạt dân chủ trong những lần tổ chức bầu cử, người dân Việt Nam đã cho thấy là họ từ chối không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Ngay như tại Bắc Việt sự việc đã phải xảy ra như vậy trong những cuộc bầu cử, nếu người ta cứ để cho các cử tri được tự do trong việc chọn lựa lá phiếu bầu của mình. Tại Miền Nam , tất cả những đãng phái chánh trị, kể cả những đãng đối lập, chủ trương theo một lý tưởng quốc gia, dựa theo phong tục và tập quán của dân tộc Việt, đều không chấp nhận chủ thuyết cộng sản. Ngay như trong thành phần "Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời" (do Hànội cho thành lập ngày 10/6/69,) có những nhân vật liều lĩnh phiêu lưu theo những người Cộng sản nhưng họ không theo chủ thuyết cộng sản.


Còn hay hơn là xử dụng lá phiếu nặc danh, bất chấp sự thống khổ và đôi khi coi thường cả mạng sống của mình, người dân Việt Nam đã cương quyết chọn lựa sự tự do hơn là chủ nghĩa cộng sản. Thật vậy, sự việc nầy đã từng xảy ra vào năm 1954, người ta đã chứng kiến trên một triệu người Việt Nam, phần đông là người công giáo, đã coi thường mọi khó khăn nguy hiểm của đường xa diệu vợi và thời tiết khắc nghiệt trên biển cả, họ đã cương quyết vượt trùng dương rời Miền Bắc ra đi bằng mọi phương tiện thuyền bè sẵn có. Họ cũng đã bất kể sóng chết, vượt qua những rào cản của cảnh binh cộng sản, dùng mọi thủ thuật, qua mặt các đơn vị Việt Minh để tìm đến nhờ sự che chở của các đơn vị người Pháp của chúng ta (lúc đó đang rút quân về Miền Nam), để rời bỏ Miền Bắc, không chấp nhận cộng sản, tìm tự do ở Miền Nam. Sau đó lại có thêm một triệu người nữa đứng lên định theo chân những người đi trước nhưng bị lực lượng cảnh sát cộng sản ngăn cản dẹp tan, trong khi một triệu người dân khác còn đang chuẩn bị ra đi...và những làn sóng di cư nầy sẽ làm cho nước Việt Nam ngày càng trở nên vắng, trống..., tựu trung cũng chỉ vì người dân không chấp nhận người cộng sản và chủ thuyết cộng sản.


Và từ đó tại Miền Nam Việt Nam, có những lúc mà cuộc chiến trở nên sôi động, người dân gặp lúc phải chạm mặt với bộ đội Miền Bắc, những người tự gán cho mình nhiệm vụ vào giải phóng Miền Nam, thì người dân bỏ chạy và tìm sự che chở bên những đơn vị Việt Nam Cộng Hòa cho dù sự che chở nầy có bấp bênh và không được vững mạnh.


Năm 1968 (Mậu Thân), lợi dụng sự ngưng bắn nhơn dịp Tết cổ truyền, thừa lúc hầu hết quân nhân các cấp về nhà vui Tết với gia đình, (trừ hai tiểu đoàn Dù còn tại trại mới giải tỏa được Bộ Tổng Tham Mưu gần Tân Sơn Nhứt), cũng như các đơn vị Hoa Kỳ đều đóng quân xa thành phố, các sư đoàn Bắc Việt đã nỗ lực đột nhập vào một trăm hai mươi thị xã. Họ quá thất vọng khi nhận thấy rằng dân chúng Miền Nam không đáp ứng chút nào với những lời kêu gọi nổi dậy của họ, bất chấp những lời hăm dọa cũng như không nao núng kinh sợ gì cả trước hành động trừng trị sắt máu của họ; nếu không thì vào lúc đó chỉ cần một nhúm sinh viên đứng lên phát động, như thường thấy xảy ra từ trước, thì coi như họ đã thắng được ván bài nầy rồi ! Và vì thế mà họ giết người không tiếc tay. Tại Sài Gòn thì họ giết người trong các ngõ hẻm, tại thị xã Huế thì con số dân chúng tử nạn bị sát hại hết sức dã man tàn bạo nầy lên cao đến mức độ mà tất cả những người đàn bà trong cố đô Huế cứ phải tiếp tục chích vành khăn trắng trên đầu để chịu tang cho người dân thị xã xấu số.


-"Chúng ta đã bị lừa rồi" họ đã thú thật như vậy !


Vào mùa hè năm 1972, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc tổng tấn công cho dù ở An Lộc, KonTum hay Quãng Trị, tất cả dân chúng đều bỏ chạy trước quân xăm lăng Bắc Việt, không phân biệt là dân làng, dân thành phố hay dân đồng ruộng.


Trong ba năm liền của cuộc chiến "lạ đời" tại Việt Nam , từ sau ngày ký kết Hiệp Định Paris 1973, cứ mỗi lần Việt Cộng hay Bắc Việt tấn công ở đâu là dân ở đó đều bỏ chạy hết. Do vậy ở Miền Nam Việt Nam gần phân nữa số dân đều được xem như thuộc thành phần dân "chạy giặc" hay "lánh nạn". Và trong năm 1975 nầy, ở Ban Mê Thuột, KonTum, Quãng Trị và Huế có những làn sóng tản cư dồn dập của toàn bộ dân chúng dài theo các trục lộ, làm cản trở rất nhiều những cuộc điều quân và đó cũng là nguyên nhân của sự hỗn loạn lúc bấy giờ.


Người ta đổ thừa cho là dân chúng từ lâu bị tiêm nhiễm một sự tuyên truyền chống cộng, hoặc là họ chạy đi chỉ vì muốn tránh vạ lây trong các cuộc chạm súng, nhưng thật sự là họ tản cư vì không chấp nhận cộng sản..

ĐỐI VỚI KẺ XĂM LƯỢC MIỀN BẮC , LÀM GÌ CÓ CHUYỆN "QUÂN DÂN NHƯ CÁ VỚI NƯỚC" ?


Người ta phải có nhận xét đúng đắn rằng sự tản cư của dân chúng luôn luôn chỉ có một chiều, bất cứ trong trường hợp nào cũng vậy, không bao giờ, mãi mãi không bao giờ có một nhóm dân chúng nào đi ngược về hướng những người tự gán cho mình là người sẽ mang lại cho đồng bào Miền Nam trật tự, thanh bình, thịnh vượng, tự do và hạnh phúc.


Không có một phong trào thân cộng nào bị khám phá ra tại Miền Nam Việt Nam, và cho đến ngày Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời được thành lập, cũng chưa hề có một phong trào thân cộng nào hoạt động công khai hay bí mật cả. Ngay như những phần tử tự cho mình là "trung lập", hay "đối lập" với chánh quyền của Ông Thiệu, cho dầu họ có tìm được một sự hỗ trợ trực tiếp hay gián tiếp nào từ phía mà họ gọi là "cách mạng", họ cũng chỉ nuôi một niềm hy vọng duy nhất và thật thà là kẻ xăm lược vẫn còn chút ít thành thật trong lương tâm để cùng nhau đi đến được một sự hòa giải dân tộc mà thôi. Họ mong rằng sự hòa giải dân tộc nầy ít nhất cũng sẽ dàn xếp được một nền hòa bình, dù là tạm bợ, nhưng cũng là một nền hòa bình, miển là chế độ hình thành sẽ không độc tài và không lệ thuộc vào chủ nghĩa cộng sản như chế độ hiện tại ở Miền Bắc.


Hơn thế nữa, sau khi vào được Sài Gòn, mặc dầu "Chánh Phủ Lâm Thời" cũng làm theo cung cách của Việt Minh năm 1954 tại Hà Nội, là cố tỏ thái độ ôn hòa và xoa dịu, nhưng họ không có được một sự tán đồng nào từ phía dân chúng, nếu có thì chẳng qua cũng chỉ là một sự bắt buộc, vạn bất đắc dĩ mà thôi. Cái gọi là "Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam" nầy cũng ca tụng một sự thống nhất đất nước vậy, nhưng muốn lùi xa thời điểm thống nhất đến một ngày nào đó không chính xác lắm, và không hề nhắc nhỡ hay ám chỉ gì đến chủ nghĩa cộng sản cả mặc dù cũng có một vài người trong cấp lãnh đạo chánh phủ vẫn say mê chủ thuyết nầy. Có một điều được ghi nhận rõ ràng là người ta chưa bao giờ cho cử nhạc hay hát bài "quốc tế ca" tại Sài Gòn, một bài ca cộng sản mà người dân Hà Nội thường phải được nghe gần như hằng ngày.


Đây là một việc không thể chối cãi được, người dân Việt Nam phải bỏ chạy trước quân xăm lăng Bắc Việt, cũng giống y như người dân Pháp của chúng ta phải bỏ chạy trước quân xăm lăng Đức vào năm 1940 vậy, và cũng không bao giờ người dân Miền Nam sống hòa hợp trong tình "đồng bào ruột thịt" với người bộ đội Bắc Việt. Ngay như anh em trong một gia đình khi gặp lại nhau sau ngày Cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam cũng vậy thôi; và cứ như thế người dân Miền Nam vẫn phải chịu ép mình sống dưới gọng kềm chuyên chính khắc nghiệt của kẻ chiến thắng mà lòng luôn khoắc khoải trông chờ một chuyện viễn vong nào đó ...


Dân chúng Miền Nam không bao giờ "nhờ" hay "kêu gọi" người lính Bắc Việt đến giải phóng cho họ. Do vậy mà anh bộ đội Miền Bắc vào Nam không sống trong tình "quân dân cá nước" được, hay nói cách khác là "không có nước để cho con cá sống". Mặc dầu họ cố hết sức ve vãn, khuyến khích nhưng chưa thấy được một sự hội nhập nào của dân chúng, nên họ bắt buộc phải có hành động cưỡng chế người dân, coi dân như kẻ thù của thuở trước.


Các cuộc tổng tấn công trước và trong chiến dịch Hồ chí Minh cho thấy không phải nằm trong qui tắc hay lối tác chiến của một cuộc "chiến tranh cách mạng", mà lại thuộc về một cuộc "chiến tranh cổ điển, quy ước" theo đúng nghĩa truyền thống chánh trị-quân sự của nó. Do vậy mà để đối đầu với khoản một chục sư đoàn không đủ quân số, trong đó có hơn phân nữa đã bị loại khỏi vòng chiến trong những lần chạm trán đầu tiên, Bắc Việt không cần biết đến tương quan lực lượng nhất là về quân số, và bất chấp mọi điều khoản của Hiệp Định Paris mà họ đã long trọng ký kết, đã đưa vào Miền Nam 20 sư đoàn, mặc dầu xét về tương quan lực lượng họ vẫn có nhiều lợi thế hơn, và những sư đoàn nầy được trang bị hết sức tối tân, đối với khả năng phòng vệ của Miền Nam Việt Nam. Thật ra không phải chỉ có quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn mà thôi đâu.


Trong khi Miền Nam Việt Nam không có được khả năng tự cung cấp vũ khí đạn dược cho quân lực của mình, phải tùy thuộc vào một sự viện trợ của phía đồng minh Hoa Kỳ, quá yếu kém lúc nầy... thì Miền Bắc cũng không hơn gì Miền Nam, họ cũng chỉ xử dụng chiến cụ, vũ khí đạn dược nhận từ bên ngoài, nếu không thì họ đã không mở được chiến dịch Hồ Chí Minh. Như vậy điều hiển nhiên là lợi dụng sự bội phản của Hoa Kỳ, và với một số chiến cụ, vũ khí tối tân được viện trợ dồi dào và đúng lúc, Miền Bắc mới quyết định khởi xướng ngay chiến dịch tổng tấn công; được khuyến khích, xúi dục, và chỉ đạo từ bên ngoài, cuộc tổng tấn công nầy hình như không phải chỉ nhằm riêng cho Miền Nam Việt Nam mà còn phải nhắm vào những mục tiêu khác có tầm xa rộng hơn, tương ứng với ngân khoản chi tiêu mà người ta gọi là quân viện.

CHƯƠNG 5
TINH THẦN CỦA DÂN CHÚNG MIỀN NAM ĐANG SUY SỤP

Một nền dân chủ lạm quyền, hư hỏng và tham nhũng đã vô tình nối giáo cho cộng sản, đưa Miền Nam Việt Nam đến chỗ chiến bại và diệt vong.

Nếu sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam có những nguyên nhân khách quan có tính cách quyết định và không thể tránh được, như sự phản bội của Hoa Kỳ và nỗ lực viện trợ của Liên Xô, thì những nguyên nhân chủ quan nội tại cũng không kém phần quan trọng.

Khi những anh bộ đội Miền Bắc vào được Sài Gòn, với thân hình ốm yếu trong bộ quân phục bằng vải xanh thô kệch đến độ người ta "ngữi" được mùi khắc khổ, họ quá ngỡ ngàng trước sự xa hoa và giàu sang nổi bật của một thành phố lớn mà họ không thể tin là vừa được họ giải phóng khỏi sự nghèo đói

KHAI THÁC VÀ CẠNH TRANH TỪ NGÀN XƯA

Miền Nam Việt Nam (ngày xưa người Pháp chúng ta gọi là Nam Kỳ) lúc nào cũng là một nước giàu có, từng làm cho người dân nghèo khó Miền Bắc Việt Nam thèm thuồng.

Vào thế kỷ thứ 17, xuất phát từ vùng Huế và lân cận, một số người Việt Nam muốn đi tìm "đất lành" (mà bây giờ người ta gọi là thuộc địa) đã mạnh dạn và kiên nhẫn tiến lần xuống phía Nam chiếm các vùng đồng bằng trù phú.
Trên đường Nam tiến họ đã tiêu diệt gần hết giống dân Chàm, một giống dân mà di tích còn sót lại ngày nay là những "tháp chàm" và những đền thờ xây cất rải rác dọc theo miền đồng bằng từ Đà Nẵng đến Nha Trang, Phan Rang.
(Có một vài người Việt Nam quá tin dị đoan đã gán tội cho ông Thiệu chính là người đã gây ra bao đau thương tang tóc cho dân tộc Việt, chỉ vì ông Thiệu trước kia thuộc giống dân Chàm, nay vì muốn trả mối thù diệt chủng truyền kiếp cho dân tộc mình, nên đã "đầu thai" làm người Việt để phá nát dân tộc Việt.)
Sau đó họ tiến xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông, nơi người Khmer đang sanh sống, và đấy lùi dân Khmer nầy về miền Tây; (có nhiều tỉnh hiện nay dân chúng toàn là người Khmer, và Chánh Phủ Cộng Hòa Khmer có lúc đã lớn tiếng đòi lại chủ quyền của mình trên các tỉnh Miền Tây Nam Việt nầy).
Từ châu thổ sông Cửu Long, từng tốp di dân lại ngược giòng sông đi về lại hướng Bắc, đến đất Lào, nơi đây cũng có nhiều toán từ miền thượng du Bắc Thái đi vào. Nếu không có người Pháp chúng ta đến thì họ đã "ngự trị" hết mọi nơi trên vùng lãnh thổ mà chúng ta thường gọi là Đông Dương rồi.

Khi được người ta nhắc đến "chiến lược sông Mékong" của Hồ chí Minh, dường như còn đang được Cộng sản Bắc Việt áp dụng, thì Hoàng thân Souphana Phouma, Thủ Tướng Lào đã có nói như sau:

- "Hồ chí Minh hả ? Người Pháp đã có lý khi họ cho là dân tộc Lào chúng tôi không có đủ nhân lực và không đủ kỹ thuật để khai thác quá nhiều tài nguyên vô giá của vương quốc Lào, do đó họ có ý muốn đưa người Bắc Việt qua Lào vì người Việt miền Bắc họ cần cù và chịu khó, không như người Lào lúc nào cũng thích muốn đi "buoms" để nhậu nhẹt đờn ca múa hát, mặc cho ai muốn làm gì đó thì làm. Hồi xưa người dân Lào đã chẳng từng nói là nhà cầm quyền Pháp có mở ra một văn phòng "mộ phu Annamít" tại Hà Nội từ năm 1935 hay sao ? Người trưởng văn phòng đó đã cưới cháu gái tôi, hiện giờ anh ấy có mặt ở ngay trong phòng bên cạnh tôi đây, anh ta có thể xác nhận với ông những gì tôi vừa nói và nhất là về "bản tính thực dân" của người Việt Nam hiện nay."

Thật vậy, trong khi cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, cả hai quốc gia Lào và Khmer bị yếu thế vì thiếu đoàn kết, nên ở Vientiane người ta nói:

- "Quả là tai hại hết sức, khi chúng ta để cho các thanh niên chúng ta chết mà "dân Bắc Kỳ" được hưởng lợi."

Trong khi đó ở Phnom Penh người ta nói:

- "Đối với chúng ta thì một anh Bắc Việt có chết đi, và nếu có thêm một anh Nam Việt chết nữa thì lại càng tốt, vì chúng ta sẽ bớt được hai người."

Nhưng dù ở Vientiane hay ở Phnom Penh, ở đâu cũng không thể thiếu người Việt Nam được, vì họ rất cần mẫn trong công việc, khéo tay, lúc nào cũng hoạt bác, rất thích ứng với ngành tiểu thương (giống như người Trung Hoa thích hợp với ngành đại thương vậy), nhưng bản tánh lại là luôn luôn muốn chiếm đất của thiên hạ!

Còn ở vùng châu thổ sông Cửu Long thuộc Miền Nam Việt Nam mà người Pháp chúng ta gọi là "Nam Kỳ" thì sao ?

- phải chăng ở đó có một khí hậu mát mẻ triền miên như mùa xuân hay hơi nóng hơn một chút, đôi khi hơi ẩm ước nhưng lúc nào cũng dễ chịu vì thường có mây trắng che kín vòm trời ?

- phải chăng ở đây đất đai mầu mỡ, trù phú, không có "nghèo nàn" theo đúng định nghĩa của người Âu Châu hay của người Phi Châu ?

- phải chăng bốn mùa quanh năm suốt tháng người dân vẫn chỉ cần có y phục nhẹ?

- phải chăng nước mưa được người dân đón nhận như là món quà quí báu mà thiên nhiên hậu hỷ ban cho họ, trong lúc trẻ con thì vui vẻ nô đùa nhảy múa dưới cơn mưa tầm tã ?

- Phải chăng lúc nào cũng có một loại trái cây hay "củ, quả" nào đó, ăn được, ở khắp mọi nơi từ miền rừng cho đến vùng đồng bằng ? và lúc nào cũng có con cá con tôm dưới các sông rạch hay ruộng lúa mênh mông đầy nước trải dài đến tận chân trời, thỉnh thoảng có những mảnh vườn cây ăn trái xanh um như chuối, cao, dừa, cam quít v.v... ?

Cho nên ở Miền Nam có được chén cơm ăn không có gì là khó cả...và đời sống ở đây thật quá dễ dàng, nên tâm tính người dân có chút thay đổi, tiếng nói cũng nhẹ nhàng hơn, phong tục tập quán cũng không còn quá cứng rắn như ngoài Bắc, nên đời sống có vui vẻ hơn. Họ thường sống vô tư lự và cũng thích phong lưu ngồi tán gẫu những câu chuyện đâu đâu, có khi vô bổ... tất cả đều khác hẳn người Miền Bắc nghiêm khắc, cần cù, thô bạo, đanh thép, và thường hay hách dịch, đúng là một mẫu người "Phổ" của nước Việt Nam.

Chịu ảnh hưởng của người Pháp chúng ta, người Miền Nam vui vẻ hội nhập vào nền văn hóa Tây Phương rất hợp với nhân tính của họ; từ một thuộc địa, Miền Nam Việt Nam đã trở thành một nước cộng hòa có quy chế độc lập khác hẳn các quốc gia trong bán đảo Đông Dương, và giống như người Miền Nam của chúng ta, họ sống hài hòa trong một cuộc sống dễ dàng đến độ trở thành con người ham chơi và vô tư lự. Từ lâu rồi chiến tranh có đem lại phần nào đau khổ cho họ, nhưng hy vọng rồi đây sức sống mãnh liệt của dân tộc nầy sẽ sớm hàn gắng được vết thương của Miền Nam Việt Nam , và mặc dầu có một số ruộng bị bỏ hoang người dân có lẽ cũng sẽ sống được trong an lạc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét